Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2015

Những hình ảnh nổi tiếng vế chiến tranh Việt nam




Những bức ảnh "chiến tranh nổi tiếng" về chiến tranh Việt Nam





"Ám ảnh, day dứt.." đó là những cụm từ mà những phóng viên chiến trường Mỹ cùng với những người lính từng tham chiến tại Việt Nam đến nay vẫn phải thốt lên mỗi khi nhắc đến chiến tranh Việt Nam. Trong thời kỳ diễn ra chiến tranh, đã có những người trực tiếp cầm máy bước vào trong cuộc chiến, ghi lại những bức ảnh chân thực, ấn tượng nhất về sự khốc liệt của nó. Trong số đó đã có nhiều bức đạt được giải Pulitzer - giải thưởng cao quý dành cho các nhà báo Mỹ, rất nhiều bức khác mãi đến nay mới được công bố.



Một lính nhảy dù Mỹ bị thương chờ đợi cứu thương ở một doanh trại gần biên giới Lào, vào tháng 5/1969



Xác một lính Mỹ được thả xuống ở gần biên giới Campuchia năm 1966



Một người lính Sài Gòn đánh một người bị trói tay nghi là Việt Cộng vào tháng 10/1965



Lính Mỹ chạy nhanh ra khỏi một máy bay bị bắn rơi ở một ngôi làng thuộc Cà Mau ngày 11/12/1962



Một người mẹ dắt 2 con nhỏ chạy khỏi ngôi nhà bị lính Sài Gòn thiêu trụi




Một người mẹ khóc đứa con gái bị thương do lính Mỹ bắn nhầm trong một đợt càn quét năm 1963



Một người nông dân bị quân đội Sài Gòn đánh vì bị cáo buộc cung cấp thông tin sai




Trực thăng Eagle Flight bay ở phía trên để yểm trợ cho quân đội Sài Gòn thực hiện chiến dịch tấn công bộ đội Việt Nam ở Long An tháng 12/1964.



Máy bay Skyraider A-1 bay ở tầm thấp và dội bom xuống các vị trí được cho là nơi ẩn náu của bộ đội Việt Nam ngày 26/12/1964.













Trong bức ảnh nổi tiếng "Reaching Out", Jeremiah Purdie, một lính thủy quân lục chiến, với cuộn băng dính đầy máu cuốn quanh đầu, cố gắng kéo người đồng đội bị thương của mình dậy. Nhìn nhức bức ảnh này, chúng ta nhận thấy tình người đối lập với khung cảnh khủng bố, tan hoang, một hành động nhân văn đối lập với khung cảnh cuộc chiến hoàn toàn phi nhân đạo.





Ngày 19/3/1964, một người cha đau đớn ôm thi hài của con mình trong khi lính biệt kích Việt Nam Cộng hòa ngồi trên xe bọc thép nhìn xuống. Tấm ảnh này của Horst Faas nhận được giải Pulitzer cho ảnh năm 1965.
Viên tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng trưởng Cảnh sát Việt Nam Cộng hòa, dùng súng lục bắn vào đầu của Nguyễn Văn Lém, người bị tình nghi là quân giải phóng miền Nam Việt Nam trên một đường phố Sài Gòn vào đầu cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân ngày 1/1/1968. Bức ảnh này của Eddie Adams giành được giải Pulitzer cho ảnh thời sự năm 1969.
Bị bỏng nặng trong cuộc tấn công bằng bom Napalm, trẻ em chạy gào thét kêu cứu dọc đường 1 gần Trảng Bàng, phía sau là lính của Sư đoàn 25 của Việt Nam Cộng hòa ngày 8/6/1972. Bức ảnh này của Nick Ut đã giành được giải Pulitzer cho ảnh thời sự năm 1973.
Bên trong một bệnh viện dã chiến của lính Mỹ ở thị trấn Khe Sanh, tỉnh Quảng Trị. (Tháng 3/1968)



"Chiến tranh là địa ngục"



Lời nhắn viết trên áo trấn thủ của một lính Mỹ, thể hiện sự ám ảnh của anh ta trước mức độ ác liệt của chiến trường Khe Sanh: “Cảnh báo: Làm lính thủy đánh bộ ở Khe Sanh là một trải nghiệm có hại cho sức khỏe”.

Tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau
Lược dịch: Lê Chung

Cuối Đường

Vũ Trọng Quang



Xin lỗi vầng trăng khuyết vẫn đợi hai ta ở cuối đường về
cả khu vườn tơi tả những cành hoa trộm hái
cả lời thề khắc trên cây cao hơn tầm tay với


Xin lỗi chim quyên chậu cá lia thia
cái tát tai câu ca dao đứt khúc
ly tách âm vang
chỗ nằm động đất
bao lâu rồi giấc ngủ ngược đầu nhau
bao lâu rồi giấc ngủ bạc đầu nhau


Xin lỗi cánh cửa căn phòng có lời xa lạ với ban mai
mất lá thư đầu bày tỏ
đôi đũa nhiều buổi sau đơn lẻ
mâm cơm lạnh những màu

Xin lỗi cốc rượu va mạnh cuối ngày chủ nhật
thứ hai sẽ vỡ
lẽ nào kéo dài tuổi thọ tình yêu
bằng trái tim thực vật
thưa quí tòa
tôi đánh mất một điều không có.

Đường về đam mê


Giáp Văn Dương

Đi tìm bản ngã

Mỗi cuộc đời đều có vô vàn ngả rẽ. Mà mỗi ngả rẽ lại là một con đường. Thế nên, mỗi cuộc đời có muôn vàn con đường đang đợi.

Có những con đường đã được bày vẽ trước. Có những con đường đã lờ mờ dấu chân đi. Nhưng cũng có những con đường phải tự mình khai phá, có thể trong cô đơn và xa lạ của người đời.

Giữa muôn vàn con đường như thế, chọn được một con đường đúng đã khó. Khai mở một con đường đúng còn khó khăn gấp bội.

Trong trường hợp đó, người ta thường cầu cứu đến sự mách bảo của lý trí hoặc trái tim. Nhưng nếu mách bảo của lý trí là đúng, thì sao người đời lại có nhiều sai lầm đến thế? Và nếu mách bảo của trái tim là đúng, thì sao cuộc đời lại có nhiều khổ đau đến vậy?

Câu trả lời thật đơn giản: lý trí hay trái tim cũng chỉ là một phần của con người mà đặt trọng bên nào cũng đều sai lệch.

Đằng sau lý trí và trái tim mà một tự do tĩnh lặng chứa đựng bản ngã của mỗi người. Vậy nên, thay vì lắng nghe lý trí hay trái tim, bạn hãy lắng nghe tự do của chính mình.

Vì lắng nghe tự do của chính mình mới là lắng nghe đích thực. Và tìm đường về với tự do của chính mình mới là tìm được con đường đích thực.

Ai sinh ra mà không muốn biết mình là gì trên cõi đời này. Có điều gì ý nghĩa hơn khi khám phá ra mình có ý nghĩa gì trên cõi đời này. Và vì thế, có con đường nào có ý nghĩa hơn con đường tìm về được chính mình?

Đường về chính mình, tôi đang nói đùa chăng? Không đâu bạn mến. Tôi không đùa đâu.

Đường về chính mình, ai sinh ra cũng đã có. Nhưng bề bộn cuộc đời đã che lấp nó đi. Bao nhiêu xô bồ, bao nhiêu phán xét, bao nhiêu luận thuyết cao siêu, bao nhiêu trào lưu cũ mới… đã như những đợt sóng xô bạn, xô tôi ra khỏi nơi mà lẽ ra chúng ta an ngụ.

Chúng ta đã bị phán xét của các loại lý thuyết sách vở, những ông bố bà mẹ khó tính, những người thầy khả kính biết tuốt, những bạn bè hàng xóm xung quanh, những trào lưu thời thượng, những sóng thông tin ngút ngàn bão cuốn chúng ta đi.

Chúng ta cũng bị thị phi, tiêu chuẩn, ràng buộc trói chúng ta lại, bắt chúng ta nhìn về một hướng, nghĩ theo một kiểu, lựa chọn theo một mô-tip và đi theo một con đường. Chúng ta mất tự do trở thành là chính chúng ta và vì thế, chúng ta cần phải đường để trở về chính mình, trở về với bản ngã của mình như lẽ ra chính mình phải thế.

Nếu không, chúng ta sẽ không thể định hình nổi một khuôn mặt, một cá tính, một đam mê, một ý nghĩa. Chúng ta vật vờ giữa cuộc đời như sản phẩm phụ của đời sống người đi trước, bị cuốn trôi trong các hoạt động sống của người đi cùng và gánh nặng cho người đi sau.

Đường về đam mê
Vậy trong lúc tĩnh lặng này, hãy lắng nghe tự do của bản thân mình để tìm đường về với bản thân mình bạn nhé.

Mỗi một phút một giây, một khoảnh khắc trầm lắng, cũng có thể là một chìa khóa để bạn mở con đường trở về với bản thân mình.

Hãy dũng cảm mở ra bạn nhé!

Có thể đó không là một con đường dễ dàng như con đường đã được người khác đã sắp đặt cho bạn. Nhưng đó sẽ con đường ngập tràn ý nghĩa vì nó dẫn tới tự do - sáng tạo - đam mê.

Nếu không tìm thấy bản thân mình thì sẽ không có tự do. Mà không có tự do sẽ không có sáng tạo và đam mê vì xưa nay, có sáng tạo nào là vay mượn không bản sắc và đam mê nào là lặp lại người đời?

Vậy nên, hãy lắng nghe tự do của bạn. Hãy tìm đường về với tự do của bạn. Tự do là bản thân mình. Tự do tỏa ra ánh sáng của riêng mình bạn nhé.

Bạn sẽ thấy, khi được tự do là bản thân mình, bạn sẽ thoát khỏi mọi ràng buộc vô nghĩa để bắt đầu một cuộc sống ý nghĩa. Có thể bạn sẽ không giàu có hơn, thành đạt hơn, nhưng chắc chắn, cuộc sống của bạn sẽ ý nghĩa hơn.

Bạn sẽ thấy, mỗi việc bạn làm đều tràn ngập hương vị của tự do, sáng tạo và đam mê. Bạn sẽ hòa hợp được với công việc của chính mình, với cuộc sống của mình và gia đình, và với sự phiền phức của cuộc đời để bước vào một hòa quyện lớn.

Bạn sẽ biết từ bỏ những điều hòa nhoáng nhưng vô nghĩa và đủ kiên nhẫn để theo đuổi những giá trị mà bạn hướng đến. Bạn sẽ bao dung với cuộc đời hơn vì cuộc đời sẽ không còn là gánh nặng nữa, mà là một tự do - sáng tạo - đam mê lớn.

Sóng gió của thị phi, đòi hỏi của ham muốn và những tính toan nhất thời cũng không chạm được vào bạn nữa, vì bạn đang an trú trong tự do của chính mình, trong sự thấu hiểu bản thân mình.

Vậy nên, trong lúc tĩnh lặng này, hãy lắng nghe tự do của chính mình để bước những bước đầu tiên trên đường của tự do, sáng tạo và đam mê bạn nhé.

Thất bại ư? Chuyện nhỏ ấy mà!



Mỗi người trong chúng ta, dù muốn dù không, đều tồn tại trong một không gian và một thời gian nhất định. Trước khi học thuyết tương đối của A.Einstein ra đời, tư duy khoa học chịu sự chi phối của định luật vạn vật hấp dẫn của Newton, qua đó coi không gian là quảng tính với ba chiều: dài, rộng và cao; còn thời gian là đường thẳng một chiều từ quá khứ đến tương lai; không gian và thời gian là tuyệt đối, ở bất kỳ nơi nào và ở bất kỳ thời điểm nào. Đến khi quan niệm tương đối của A.Einstein ra đời, quan niệm về không gian và thời gian thay đổi hẳn, qua đó không gian thêm chiều thứ tư là thời gian, và thời gian thì không còn là một chiều tất định nữa, mà nó còn có thể cong, tuỳ theo vận tốc của vật thể...


Đấy là những phát kiến của khoa học hiện đại về không gian và thời gian, chúng mở ra những chiều kích mới trong việc khám phá những phát kiến khác còn vĩ đại hơn nhiều. Trong phạm vi những gì tồn tại trên mặt đất, hành tinh của chúng ta, trong vòng quay liên miên bất tận nằm trong hệ mặt trời, thì không gian ở bất kỳ đâu trên mặt đất vẫn chỉ là ba chiều, và thời gian vẫn tuyệt đối một chiều không thể thay đổi, không thể vãn hồi...


Nhưng ngoài không gian và thời gian khách quan đó, chúng ta còn nằm trong một không gian và thời gian khác, ấy là không gian và thời gian thuộc về tâm lý. Không gian của tâm lý có thể tích tụ tại một điểm, có thể phóng chiếu đến vô hạn; và thời gian không chỉ là quá khứ đến tương lai, mà còn có thể biến tương lai thành quá khứ và quá khứ vọt thẳng đến tương lai. Đó là sức mạnh của sự tưởng tượng, sức mạnh của tư duy, sức mạnh của cái mà hôm nay tôi muốn nói với bạn - sức mạnh của ước mơ.





Ước mơ - về khái niệm - là một dạng mong muốn thuộc về tương lai. Ước ao và mơ mộng. Chúng không có mặt ở quá khứ, chúng chưa có mặt ở hiện tại, nhưng mình mong muốn nó sẽ có mặt ở tương lai. Đó là điều mà ta gọi là ước mơ.


Không ai sống mà không có một ước mơ nào đó. Có ước mơ trên chính trường, có ước mơ trên mặt trận quân sự, có ước mơ trên thương trường, có ước mơ trong lĩnh vực tôn giáo... hay đơn giản chỉ là ước mơ về một đời sống gia đình hạnh phúc. Ai cũng có một ước mơ, nhỏ có ước mơ nhỏ, lớn có ước mơ lớn... Mục đích của mỗi người là vô cùng.


Về mặt thể, ước mơ như cái đích mà mũi tên cần nhắm tới. Về mặt dụng, ước mơ là sức mạnh đẩy mũi tên ra khỏi cung tên. Không có ước mơ, mũi tên vẫn mãi nằm trên cung tên, và cả cung tên lẫn mũi tên đều trở nên vô dụng. Vì vậy, sống cần có ước mơ, không có ước mơ thì không ai sống làm gì cả.


Không có ước mơ nào là vô nghĩa và vô ích cả, kể cả những ước mơ mà hôm nay có thể coi là không tưởng, nhưng rất có thể ngày mai nó có thể thành hiện thực. Cách đây một ngàn năm, nếu ai đó bảo 
con người có thể bay cùng chim trên mây xanh là điên khùng, nhưng bây giờ, việc chúng ta lên máy bay ngồi ngắm trời trong mây trắng như cơm bữa là chuyện quá bình thường. Vậy nên, hãy cứ ước mơ, dù ước mơ đó có điên khùng như thế nào đi chăng nữa. Có một câu nói vui rằng: không ai đánh thuế giấc mơ, vì thế đã mơ thì mơ cái gì rực rỡ và hoành tránh một tí.


Thế nhưng, trên con đường thực hiện ước mơ đó, người thông minh phải biết đặt cho mình những lộ trình cụ thể, có thể thực hiện được, chứ không phải cứ ước mơ cao xa rồi nhắm mắt lại mộng mơ và tưởng tượng. Chẳng hạn bạn là một cô bé học sinh trường Ams... và như bao học sinh khác khi bước vào ngôi trường danh tiếng này, bạn chỉ coi ngôi trường ấy như động lực cũng như nội dung giảng dạy của nó để tiến vào một trường Đại học danh tiếng hơn nữa. Vậy ước mơ vào trường Ams chỉ là một ước mơ nhỏ trên chặng đường thực hiện ước mơ lớn... và đậu vào trường Đại học danh tiếng rồi, bạn lại phải coi ngôi trường đó như là bước đệm để thực hiện ước mơ lớn hơn nữa... Cứ như vậy, từng bước, từng bước... bạn đi hết cuộc đời với những mục tiêu đã được dự định. Không ai ôm mãi ngôi trường Ams, nhớ nhung mãi ngôi trường Đại học... để rồi dừng luôn ở đó cả.

Có hai trường hợp khiến ước mơ của ta chẳng bao giờ thực hiện: thứ nhất, ước mơ rất cao rất xa nhưng không có lộ trình cụ thể cho việc thực hiện ước mơ; thứ hai, ước mơ ấy vượt quá khả năng thực tế mà bạn có thể thực hiện, ngay kể cả từng lộ trình nhỏ cũng vượt quá thực tại của bạn.

Trong trường hợp thứ nhất,ta có thể kể đến câu ngạn ngữ: ngồi chờ sung rụng. Câu ngạn ngữ ấy rất quen thuộc, nhưng đừng quên ai trong chúng ta cũng đã hoặc đang mắc vào nó. Bạn có bao giờ đi chùa cầu may mắn, đã từng ước ao được lượm một bọc tiền to đùng, trúng tờ vé số độc đắc...hay đơn giản cầu nguyện được yêu và cưới một người chồng chân thành?? Việc phụ thuộc vào may rủi, hên xui... ấy chính là hạt giống của những kẻ thiếu những bước đi cụ thể để thực hiện giấc mơ. Trong Đạo Phật có câu nói rất hay: Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả. Sự khác biệt giữa một người giải thoát và người u mê nằm ở chỗ, Bồ tát biết cái quả bắt nguồn từ cái nhân nên mọi sự cẩn thận luôn được suy xét từ nhân của vấn đề, trong khi một chúng sinh thì cứ trông chờ kết quả thôi, và vì vậy khi kết quả bất như ý xảy đến thì mới ngỡ ngàng đến bàng hoàng sửng sốt...

Trong trường hợp thứ hai,ngay kể cả khi bạn chia nhỏ được lộ trình thực hiện giấc mơ, thì bạn vẫn có thể thất bại như thường. Ấy là lộ trình bạn chia nhỏ đó không bắt đầu từ thực tế bạn đang có. Giả dụ mơ vào trường Ngoại thương rất tuyệt đấy, bạn cũng cố gắng chăm chỉ suốt ba năm học phổ thông đấy, nhưng rất có thể ba năm học ấy chưa đủ để nâng tầm bạn từ một học sinh trung bình yếu thành giỏi hoặc xuất sắc, và vì thế, với thời gian chưa đủ để thực hiện, vẫn có thể khiến ước mơ của bạn xa rời tầm với. Trong cuộc sống sau này cũng vậy, khi bạn va chạm với thực tế nhiều hơn, chính thực tế sẽ giúp bạn điều chỉnh dần ước mơ cao đẹp của bạn thành vừa tầm với bạn...

Bạn có tin vào Tất định luận không?Tất định luận là luận thuyết cho rằng mọi thứ đều đã được an bài, đều đã được định sẵn, dù có cố gắng mấy đi chăng nữa nhưng số mệnh đã an bài mình như vậy thì cũng chỉ như vậy mà thôi? Nếu bạn tin vào nó, thì bạn có thể đắp chăn đi ngủ được rồi đó, không cần cố gắng, không cần nhọc công, chẳng sợ phiền não, chẳng lo đau khổ. Số bạn là hoàng hậu, thì cứ ngủ ở trong chăn thì ông vua cũng tới rước bạn về làm vợ. Số bạn là ăn xin thì dù có là hoàng hậu cũng bị phế truất xuống kẻ tôi đòi. Bạn dám đánh cược cuộc đời mình thế không? Nếu bạn dám đánh cược cuộc đời bạn cho số mệnh, cho mọi việc đã được an bài, thì không cần phải hỏi tôi nữa, đắp chăn đi ngủ cho khoẻ. Nếu bạn vẫn đang nỗ lực hàng ngày hàng giờ để biến ước mơ của bạn thành hiện thực, thì bạn có thể vứt Tất định luận vào sọt rác được rồi, không cần phải bàn bạc thêm về nó nữa. Còn thỉnh thoảng bạn vẫn đem nó ra để nói, thì tôi nói thẳng, đó chỉ là lời nói vuốt đuôi tự sướng của bản thân, nhằm an ủi hay phủi bỏ trách nhiệm trước những thất bại của chính mình. Và những kẻ tự an ủi mình bằng luận điệu số mệnh an bài đó, tôi nói thẳng, hắn chẳng bao giờ lớn được. Thất bại chồng thất bại, vấp ngã chồng vấp ngã mà thôi.


Ai có thể toại thành những ước mơ và ai có thể bị thất bại với những ước mơ của mình?Tôi nghĩ rằng, ai trong chúng ta cũng đã từng thất bại và ai trong chúng ta cũng đã từng thành công. Có kẻ thành công với những ước mơ nhỏ nhưng lại thất bại với ước mơ lớn, và có kẻ lại thành công với ước mơ lớn nhưng lại thất bại với ước mơ nhỏ. Hạng Võ là tướng quân bách chiến bách thắng trong mọi trận đánh nhỏ, nhưng trận đánh quan trọng nhất của đời mình lại thất bại dưới tay Lưu Bang. Lưu Bang thất bại liên tiếp các trận đánh nhỏ, nhưng nhờ mưu lược mà cuối cùng lại chiến thắng trận đánh cuối cùng. Vì vậy, việc sống với chiến thắng và sống với chiến bại chỉ là một phần trong chặng đường trải nghiệm của bản thân, không có gì lạ lẫm cả.


Làm sao để đối mặt với thất bại đó? Đối mặt là phải đối mặt thôi, chẳng có cách nào né tránh được cả. Bạn có trốn lên cung trăng thì sự thật là bạn đã thất bại vẫn cứ là thất bại. Vì vậy, đừng ảo tưởng là mình có thể tránh được. Nhưng đối mặt như thế nào? Có hai cách thôi, một là thất bại xong thì nằm luôn, hai là đối mặt với nó trong ngạo nghễ.


Thế nào là thất bại thì nằm luôn?Ấy là tâm trạng tự ti nảy sinh, tự cảm thấy mình bất lực, đẩy trách nhiệm đó sang số phận an bài... Ví dụ bạn thất bại trong kỳ thi Đại học vừa qua, một mặt bạn tự an ủi bản thân rằng "học tài thi phận", một mặt bạn cảm thấy đời mình thế là hết. Có kẻ từ bỏ con đường học vấn, có kẻ nhảy sông tự vẫn...


Thế nào là thất bại trong ngạo nghễ?Ấy là kẻ đối mặt với thất bại như một sự thực hiển nhiên. Hắn không trốn tránh sự thật, nhưng không đẩy trách nhiệm thất bại sang cho hoàn cảnh, điều kiện hay số phận... Hắn chấp nhận hắn đã thất bại, và hắn cố tìm nguyên nhân vì sao hắn đã thất bại để hoặc là sửa chữa nguyên nhân ấy, nếu là nguyên nhân thứ yếu; hoặc là làm lại từ đầu, nếu ấy là nguyên nhân quan trọng nhất... Và ước mơ vẫn tiếp tục, hoặc điều chỉnh ước mơ sao cho phù hợp với thực tế hơn... Cái này, trong kỳ thi Đại học, ta tạm gọi là có nhiều nguyện vọng để lựa chọn vậy. Đời không có gì chấm dứt chỉ vì một, hoặc một vài lần thất bại...

Thất bại có buồn không?
Chỉ có thằng điên mới không buồn
Nhưng buồn xong thì sao nữa?
Hoặc là tiếp tục hành trình thực hiện ước mơ
Hoặc là điều chỉnh ước mơ cho phù hợp với hoàn cảnh mới


Nên nhớ,kẻ thức thời mới là trang tuấn kiệt
Nhưng chẳng có kẻ tuấn kiệt nào mà chưa từng kinh qua vài lần thất bại
Bất kể trong lĩnh vực nào
Thất bại nằm ngay trong thành công, cũng như Thành công nằm ngay trong lòng thất bại


Read more:http://www.suynghiem.vn/2015/08/that-bai-u-chuyen-nho-ay-ma.html#ixzz3hcvDgtKg

NED "Đạo Tác Chính Nghĩa Dân Chủ" bị Chặt tại Nga





Chính phủ Nga vừa qua quyết định xếp các tổ chức mệnh danh "Phi chính phủ" NGO (non-government organisation) có nguồn tài trợ từ nước ngoài là "Nhân Sự Ngoại Bang" . Đặc biệt đóng cửa và ngưng mọi hoạt động của tổ chức ngoại vi tình báo CIA của nhà nước Mỹ "tài nguyên quốc gia cho dân chủ" (NED) núp dưới danh NGO tại quốc gia này. Quyết định của nhà nước Nga đã khiến guồng máy thông tin tuyên truyền chính qui của Âu Mỹ rầm rộ tố cáo Nga (Putin) là hành động của "độc tài sợ hãi dân chủ".

Quyết định này được đúc kết qua sự kiện NED đả lèo lái những đòi hỏi chính đang của dân cư vùng Yerevan thuộc nước Armenia “Electric Yerevan"

Như trang Nhân Chủ , trong quá khứ, đã có một số bài tường thuật về gốc tích cũng như chủ trương của tồ chức ngoại vị tình báo CIA với cái tên cực kỳ "rực sáng" Tài Nguyên Quốc Gia cho Dân Chủ" này (National Endowment for Democracy) viết tắt là NED .

Tổ chức NED là "tác giả trộm cắp" của các cuộc cách mạng mầu trong mục tiêu lật đổ các chế độ, bất kể là dân chủ gián tiếp hay độc tài, miễn là đối kháng Âu Mỹ, để thành lập một chế độ thân Mỹ không nhất thiết là "dân chủ" mà phần nhiều là quân phiệt phát xít như Ai Cập hoặc ngay Ukraine hiện tại. Điển hình gần nhất là Goergia với tên "tổng thống dân chủ" tội phạmMikheil Saakashvili bỏ chạy qua Mỹ và công tác đã lại khu vực thành vị thống đốc quan chức của chế dộ Ukraine đương thời.

NED được thành lập thời Reagan đồng bộ với sự ra đời của Al Quaed trong cuộc chiến phi qui ước với Soviet từ sau vụ chiếm Afganistan. NED chính thức hình thành do sự đồng thuận của quyền lực chính trị Mỹ và chính thức hóa bằng một đạo luật quốc hội (Act of Congress).Do đó nó hoạt động chặt chẽ dưới ô dù tài chính và pháp lý của quốc hội, hành pháp Mỹ với những kỹ thuật tuyên truyền tổ chức và tình báo của CIA.

Nhờ có cấu trúc phía sau chặt chẽ và rộng lớn như vậy, nên NED nghiên cúu chi tiết tính hình địa phương và thường lợi dụng những đấu tranh đòi hỏi chính đáng của quần chúng bản xứ bàn đầu để lấy "chính danh" và cái người tung tiền "hướng dẫn" các đấu tranh chính đáng này thành cuộc lật đổ để dựng một nhà nước tay sai cho quyền chính Âu Mỹ.

Nhưng không phải lúc nào NED cũng thành công. NED từng thất bại tại Iran (Green Revolution) và vừa thất bại tại Armania (FAIL: US-backed 'Electric' Color Revolution in Armenia).

Như chúng ta đều biết Âu Mỹ đang ủng hộ tên quân phiệt độc tài Mubarak, thì cuộc cách mạng tại Ai Cập nổ ra khiến Âu Mỹ lúng túng. Dù thành công, nhưng vì nhóm Huynh Đệ Hồi Giáo của tổng thống dân cử Morsi không chịu Mỹ hóa guồng máy, và Âu Mỹ đã bật đèn cho bọn sát nhân quân đội tiến hành đảo chính tái lập quân phiệt độc tài với sự tiếp tay của tổ chức "tài Nguyên cho Dân Chủ" tại Ai Cập và bọn quân phiệt này được sự ủng hộ bền chặt của "nhà nước dân chủ tự do" Mỹ từ đó cho đến nay!!! (US Bankrolled Anti-Morsi Activists).

Sử gia hiện đại Mỹ, William Blum đã viết khá chi tiết về tổ chức nằm vùng NED này. Sự ra đời và mục tiêu của nó v.v như một loại Trojan Horse trong quyển sách nhận định về bản chất bạo ngược gian manh giào hoạt của tập đoàn định chế nhà nước đế quốc Mỹ: nhan đề "Nhà nước gian hoại- Một hướng dẫn về Siêu Cường Duy Nhất của Thế Giới" Rogue State - A guide to the World's Only Superpower. Trong đó không chỉ dùng NED như một bầy chó săn tình báo nằm vùng, mà dùng bọn tình báo, quân sự thành lập, hoặc trợ lực huấn luyện và cấu kết với khủng bố cho mục tiêu quyền lực khống trị của nó. * (mạnh mẽ đề ngụ quí độc giả cần nên đọc qua quyền sách ngắn này để hiểu phần nào về cấu trúc định chế quyền chính Mỹ- nhấn vào liên kết tải PDF về)

Đóng cửa tổ chức gián điệp nằm vùng "đạo tác chính nghĩa" này là chính đáng chẳng oan ức gì!

Nhưng phải nói lên cái oan thật sự của những người dân đấu tranh đòi hỏi và đối kháng lại các chế độ là hoàn toàn chính đáng. Bất cứ khi nào người dân đã nổi lên chống Nhà nước chính phủ đều chính đáng.

Nhưng vì yếu kém không hiều biết rõ ràng về bản chất của NED, của các NGOs và thiếu chiến lược trong tổ chức để bị bọn NED tung tiền lạm dụng và "đạo tác chính nghĩa" của họ- đưa đến thất bại thật sự toàn bộ cho họ, dù bọn NED có thành công hay không. Hiện trạng của Ukraine, của Ai Cập là điển hình. Người dân trước và sau "cách mạng" thành công và không thành công...đều mệt mỏi phí phạm tâm lực tài vật và ...mất hết.

Nói một cách khác, chính sự gian manh lạm dụng lý tưởng của tổ chức NED đã giúp cho các định chế nhà nước và các tên chính phủ gian manh có lý cớ đàn áp và vô hiệu hóa những nỗ lực đấu tranh hoàn toàn chính đáng của dân chúng các nơi.

Nhân Chủ
==
TB:
Các con giòi ngụy ngục, nhất là thành phần tàn dư của Ngụy VNCH và các nhóm "đặu phọng đỏ" trong nước vẫn thèm thuồng cái quan hệ NED trong nhiều năm qua. Nhưng vì quá ngục không hiểu rằng NED không chống cộng, cũng không chống độc tài hay quân phiệt gì hềt, NED chỉ giúp chống lại các chế độ không và chưa thần phục Mỹ mà thôi. Đám này tối dạ không thấy rằng ở Arab Seoud, Bahrain NED có hó hé gi? Viet Cộng đang thậun cờ xuôi gió với Mỹ chặt chẽ thì NED là những kẻ tình báo nằm vùng bảo vệ cho các chế độ đó thôi. Cứ nhìn những sự kiện Thái Lan, Miến Điện, Nam Dương, Mã Lai đã qua mà học bài học căn bản quyền chính này.

Singapore giải thích lý do từ chối người Việt Nam





Cục quản lý xuất nhập cảnh và cửa khẩu Singapore (ICA) cho rằng những người bi chối vào Singapore vì không đáp ứng được các tiêu chuẩn nhập cảnh.



Báo Singapore The Straits Times đưa tin ICA không tiết lộ cụ thể bao nhiêu phụ nữ Việt Nam đã bị từ chối nhập cảnh, nhưng khẳng định họ vẫn chào đón công dân mọi quốc tịch vào Singapore.

“Mỗi du khách vào Singapore không được chấp nhận nghiễm nhiên, và mỗi trường hợp phải được xem xét cụ thể”, ICA tuyên bố.

Một người phát ngôn ICA cũng khẳng định các du khách có thể buộc phải trả lời một số câu hỏi và trải qua việc kiểm tra nếu nhà chức trách Singapore thấy cần thiết rồi mới cho phép nhập cảnh.

“Các nhân viên ICA ở các cửa khẩu của Singapore sẽ kiểm tra và xác định có cho phép các du khách nhập cảnh khi họ tới hay không”, ICA nói.

Trước đó truyền thông cho biết nhiều phụ nữ người Việt bị từ chối vào Singapore vì họ đã sử dụng các hộ chiếu khác nhau trong những lần nhập cảnh khác nhau. Thông tin cũng cho biết một số phụ nữ không thể giải thích tại sao họ muốn vào Singapore.

Năm ngoái, hơn 420.000 người Việt Nam đã vào Singapore, theo Tổng cục du lịch Singapore, tăng gần 1/3 so với năm 2010.

TT

VÀI DÒNG VỀ “DÂN CHỦ GIÁO”





Vì sao phong trào dân chủ Việt Nam không tạo ra được ảnh hưởng chính trị tử tế nào? Đơn giản thôi: nó là một giáo phái đang lên, chứ không phải là một phong trào chính trị.

Hãy nhìn những đặc điểm sau:

1. Phong trào không hướng đến cái gì khác, ngoài giấc mơ về một thiên đường.

Các tổ chức và cá nhân trong phong trào không có bất cứ chương trình thiết thực nào để thay đổi xã hội, cũng không có bất cứ kế hoạch cụ thể nào để giải quyết những vấn đề của đất nước. Họ chẳng biết làm gì khác, ngoài lải nhải về thiên đường dân chủ chủ nghĩa toàn mỹ toàn thiện – một viễn cảnh mà họ hoàn toàn không đủ nhân cách, bản lĩnh và trình độ để thiết lập trên mặt đất, dù chỉ là dân chủ trong nội bộ phong trào với nhau. Chính họ cũng phải thừa nhận rằng họ không xây dựng dân chủ, mà chỉ biết “đòi dân chủ”. Thế là ngày này qua tháng khác, những tín đồ sùng đạo của “Dân Chủ Giáo” chỉ biết ngửa mặt lên mạng, hô các khẩu hiệu đấu tranh ra rả như tụng chú hoặc cầu kinh, lòng hằng tin rằng nếu mình cầu nguyện đủ ầm ĩ, thần chú sẽ phát huy công hiệu, và thiên đường dân chủ sẽ hiện ra như một phép màu.

2. Các con chiên trong phong trào không đọc bất cứ thứ gì, ngoài vài quyển kinh thánh.

Khi bạn tham gia phong trào dân chủ Việt Nam, không khó để được các tín hữu trong phong trào nhìn nhận như một con chiên có học. Bạn chỉ cần học thuộc vài quyển kinh thánh, như Cẩm Nang Nhân Quyền, Từ Độc Tài Đến Dân Chủ, Con Đường Việt Nam. Các khóa tập huấn trên mạng, hoặc thậm chí ở nước ngoài của phong trào cũng từa tựa các lớp học giáo lý, vì gần như chẳng đưa ra bất cứ kiến thức chính trị nào khác ngoài phạm vi những kinh thánh này. Nếu bạn trò chuyện với các tín đồ về một vấn đề chính trị ngoài phạm vi bàn đến của những cuốn sách trên, nhiều khả năng mặt họ sẽ nghệt ra như ngỗng ỉa. Đặc biệt, nếu bạn phê bình những sách trên, họ sẽ giãy nảy lên, như thể bạn đang xúc phạm đến sự thiêng liêng của kinh thánh.

3. Nhân quyền được thờ phụng như một đức tin.

Mọi nhà dân chủ đều treo trên đầu lưỡi hai chữ nhân quyền. Tuy vậy, hầu hết các nhà dân chủ chẳng thèm hiểu nhân quyền từ đâu ra, hữu dụng ở chỗ nào, áp dụng trong thực tiễn như thế nào, hay đâu là giới hạn và mâu thuẫn phát sinh từ nó. Đa số chấp nhận một cách máy móc rằng nhân quyền là thứ loài người sinh ra đã có, hay nói cách khác, là được Thượng đế ban cho. Thành ra họ vừa tôn sùng hai chữ nhân quyền, vừa dốt nát về bản chất của nhân quyền, chẳng khác gì đám con chiên vừa tôn sùng ảnh Chúa, vừa chẳng biết gì về Chúa. Nếu có ai đó nói thật rằng nhân quyền chỉ bắt nguồn từ những thương vụ chính trị mà đám chính trị gia ký kết với nhau qua thời gian, và đôi khi đã bị lợi dụng làm một phương thức mềm để lừa mị và kiểm soát dân chúng, thì họ sẽ giãy nảy lên như thể vừa nghe một lời phạm thượng.

4. Phong trào dân chủ đầy ắp các thánh địa, thánh lễ và thánh nhân.

Có những sinh hoạt mà mọi nhà dân chủ đều phải tham dự, những địa điểm mà mọi nhà dân chủ phải hành hương đến, những nhân vật mà mọi nhà dân chủ phải tôn thờ.

Thánh lễ của họ là nghi thức căng biểu ngữ và hô khẩu hiệu mọi lúc mọi nơi, từ chỗ biểu tình, cho đến quán bia, hoặc thậm chí sân bóng đá.

Thánh địa của họ là những đại sứ quán phương Tây.

Khi hành hương được đến thánh địa, các tín đồ Dân Chủ giáo sẽ được đón tiếp bởi những vị đặc phái viên nhân quyền và tham tán chính trị, với nụ cười tỏa ánh hào quang rạng rỡ như thể các tổng lãnh thiên thần. Những nhà dân chủ có đủ đức tin và chịu đủ khổ nạn ở Việt Nam sẽ được họ dang rộng đôi cánh tay, đón lên thiên đường dân chủ Mỹ.

Phong trào dân chủ lại còn có nhiều đấng cứu thế – như nhà cách mạng Đoan Trang, những đấng ngôn sứ – như thầy đồng Lê Thăng Long, và các bậc tiên tri – như thầy bói Trần Huỳnh Duy Thức.

Và đặc biệt, mọi nhà dân chủ đều đặt trọn niềm tin vào tâm bồ tát bao la quyền năng vô hạn của hải quân Mỹ, như thể con bạch tuộc lắm vòi này là phật bà nghìn mắt nghìn tay, lúc nào cũng mở tròn mắt dõi theo các nước nhược tiểu như nước mình, để luôn sẵn sàng nhảy vào cứu khổ cứu nạn khi xảy ra chính biến…

[Nhà Dân Chủ]

TẢN MẠN VỀ DỤC TÍNH VÀ NỮ QUYỀN




NGUYỄN VY KHANH


Người xưa như tác giả Truyện Kiều, viết về chuyện tình dục là với điển tích (Ra tuồng trên Bộc trong dâu; Vòng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề), hay dùng nghĩa bóng (Tiếc thay! Một đóa trà mi / Con ong đã mở đường đi lối về). Dục tính không thật có với văn chương cổ điển vì những tính cách ước lệ, trí thức và hình thức. Không có sáng tạo, cá tính, do đó không cần cả tác giả, phải chăng đó là một lý do của hiện tượng vô danh của tác phẩm thời xưa?
Dục tính khác thô tục, tục tĩu, như áo mỏng dính với trần truồng, dâm thư dĩ nhiên không phải là tác phẩm văn chương. Henry Miller mà tác phẩm từng bị cấm ở quê hương của ông, trong Obscenity and the Law of Reflection đã xem dâm tục (obscenity) xuất hiện trong văn chương như một kỹ thuật, không liên hệ gì đến dâm thư (pornography). Dục tính như một giá trị chỉ nhắm đánh thức, khêu dậy, dẫn nhập, đem ý nghĩa đến cho thực tại cuộc sống . Đối với Việt Nam, dục tính chỉ thực sự xuất hiện trong văn học ở thế kỷ XX, bước đầu bởi nam giới và dục tính luôn chỉ có ý nghĩa trong một văn hóa, trong một xã hội. Dâm tính trở thành yếu tố tiểu thuyết, gia vị hấp dẫn cho tác phẩm. Thời Nhất Linh, dâm tính chỉ chớm thoáng qua, như trong truyện ngắn Tháng Ngày Qua, nhân vật Giao trọ học nhà bạn, đã dám ... để ý đến vợ bạn, "bốn mắt gặp nhau (...) cặp môi nàng mấp máy, dưới tấm áo mỏng, ngực nàng phập phồng, hai con mắt nhìn đăm đăm vào chàng có vẻ lẳng lơ, nồng nàn như đắm tình..." (1).

Các tác giả thời này kể chuyện tình yêu, nhưng ít người đi vào chi tiết làm tình hay tả chân thân thể người nam hay nữ. Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang,... từng bị kết án là khiêu dâm, thực ra họ chỉ có ý trình bày bộ mặt khác, trái, của xã hội, nêu lên những tệ hại, có ý giáo dục, hướng thượng. Phùng Nguyễn trong Bia Ôm (2) tả "đôi vú nhỏ mềm nhũn và âm hộ nhầu nát" hình như cũng không có mục đích viết dâm thư! Trước 1975, Lê Xuyên đã bị tố viết văn khiêu dâm, trong thực tế tiểu thuyết của ông chỉ tả cảnh tả tình những hẹn hò, những ăn chơi trắc tréo dài dòng nhưng không mấy tả chi tiết cảnh làm tình; kẻ lên án chỉ chứng tỏ đạo đức giả hoặc chưa từng đọc qua.
Tạp chí Sáng-Tạo vào thập niên 1960 ở miền Nam, đã đăng nhiều truyện đầy dục tính của các tác giả về sau không đi tiếp nghiệp văn, như Duy Thanh (Khép Cửa, Thằng Khởi, Chiếc Lá,...), Thạch Chương (Tinh Cầu,..). Giải phóng tình dục “hôm nay” là một trong những chủ trương văn nghệ của nhóm. Thạch Chương tức nhạc sĩ Cung Tiến sau này lúc bấy giờ viết truyện ngắn "hiện sinh" và là lý thuyết gia cho khai phá này, trong bài "Giới thiệu một nhận thức siêu thực về nghệ thuật" đã viết :"... Chúng tôi muốn quay lại vũ trụ hoang sơ dục tình nguyên vẹn mà tâm hồn mỗi kẻ còn trinh như sữa. Nhưng là cái tinh khiết đáng sợ của con bò rừng. Nghệ thuật hôm nay là sự biểu lộ một "furie du total", một tiếng gọi quay trở về rừng sâu thẳm mà ở đó còn vẳng lên những tiếng cười điên mê, những tiếng la cuồng dại vọng về từ trăm thế kỷ của bản năng thuần túy. (...). Nghệ thuật hôm nay còn được biểu tỏ mãnh liệt trong tình yêu ngọt ngào của xác thịt, hay "tình điên". Dục tình, như có người đã nói trên mặt báo này, là động lực độc nhất của thế giới. Đọc .. phần lớn những tác phẩm của D.H. Lawrence, ai mà không cảm thấy vật dục mình xao xuyến, một thứ xao xuyến rất nghệ thuật, rất siêu thực, rất trắng, rất tinh khôi...". Lý do ông đưa ra vì sống trong một thời đại "sống trong cái thế trên đe dưới búa, một bên là tự do tuyệt đối cá nhân, một bên là áp bức chính đáng..." (3).
Trong truyện Thằng Khởi, Duy Thanh để cho nhân vật xưng Tôi, một cô gái 16 tuổi, muốn ngủ và rồi ra tay "hiếp dâm" một thằng gánh nước người Chàm: "Tôi đã để ý đến nó năm tôi 16 tuổi. Cái vẻ đẹp man rợ ngu xuẩn ấy mang cho tôi nhiều ý nghĩ dâm dục. Tôi chắc rằng thằng Khởi chưa hề ngủ với ai bao giờ (...) Thằng Khởi vẫn ngủ trong lều. Đôi môi dầy của thằng Khởi mấp máy và vị nước bọt của nó sền sệt nhạt nhẽo. Tôi lay nó dậy. Thằng Khởi chồm lên chắc định la làng nhưng tôi bít miệng nó lại. Mắt nó mở to có vẻ ngạc nhiên lắm, nhưng cũng ngồi im. Rồi đưa tay quờ vào người tôi. Hơi thở của nó và của tôi hừng hực trong đêm tối..." (Sáng Tạo, 21). Cũng Duy Thanh trong truyện Chiếc Lá để nhân vật là cô gái 18 tuổi "thích thay đổi, từ vấn đề ái tình, sinh lý, không khí, đồ ăn,..." và không thích cái gì quen hoặc vô nếp cả. Khi còn là cô bé 15 tuổi, cô ta đã ngủ với anh rể vừa để trả thù chị mình vừa tìm cảm giác: "Tôi muốn đo cái độ dục của hắn khi hắn ngủ với chị ấy thế nào. Cũng lạ, cái cảm xúc ấy lúc đề phòng trước thì thấy tầm thường hết sức. Tôi thấy cái hình thù sát cạnh mình đến vô nghĩa..." (4).
Nhưng người tả cảnh thật sự dục tính đầu tiên có thể là Lê Hoằng Mưu, chủ bút Lục Tỉnh Tân-văn, tác giả Hà Hương Phong Nguyệt (1915), Oán Hồng Quần (tức Phùng Kim Huê Ngoại Sử, 1920), nhất là với Người Bán Ngọc (1930-31), dù văn còn ảnh hưởng biền ngẫu và câu chuyện xảy ra ở Trung Hoa nhưng nhân vật và khung cảnh rất Việt Nam. Một câu chuyện tình cổ điển gần 400 trang, nhưng suy nghĩ, ngôn ngữ và hành cử của nhân vật cũng như cách diễn tả tiểu thuyết có tính thật của đời sống lúc bấy giờ. Người bán ngọc đây là Tô Thương Hậu giả phụ nữ bán ngọc để gần gũi và trờ thành tình nhân của Hồ phu nhân"trững mỡ" trong hai năm chồng đi buôn xa, trước là đồng tình luyến ái, sau trai gái thật khi Thương Hậu không cầm lòng được đã để lộ cái "oan gia".
"Vén mùng rồi vừa gạt chưn để lên giường, xẩy thấy một tòa thiên nhiên, lịch sự như tiên giáng thế, làm cho người bán ngọc mảng mê nhan sắc trố mắt đứng nhìn, quên bổn phận mình, mưu sự tệ tình, bất cẩn, ... Thấy Hồ phu nhân mê mẩn giấc nồng sổ đầu, nằm bỏ tóc, xấp xả khó gìn cho đặng. Bèn sẽ lén lấy mền đắp bụng cho Hồ phu nhân; rồi lại muốn đưa tay rờ rẫm vuốt ve cho thỏa. Không dè, mới thò tay vừa tới bụng sợ phập phồng nó làm cho tấc dạ bồi hồi, tay rung lập cập. Người bán ngọc không dám rờ! Lật đật thục tay vào rồi xây mặt ngó quanh quẩn bên mình, ... Vuốt qua vuốt lại, rờ xuống rờ lên đôi ba phen mà Hồ phu nhân mê mẩn không hay, người bán ngọc thấy vậy mới dễ ngươi, ái tình lại dồi long tà dục... muốn kề má hôn cho phỉ dạ. Có một điều là rờ rẫm vuốt ve thì không sao, chớ hễ muốn kề má xuống hun, thì lại hườn cựu lệ, trống ngực đánh rầm rầm, chân tay run lẩy bẩy... đổ mồ hôi ướt đẫm như người bị cảm mạo phong sương... dục thúc quá dằn long không tiện, ngườI bán ngọc bèn gượng đưa tay ra rờ cái ngọc cốt phi phàm ... Rờ tới đâu chết điếng tới đó,..." (5).
*
Văn chương dục tính có khuynh hướng đi với nữ quyền. Hồ Xuân Hương - giả dụ có một Hồ Xuân Hương thật, tác giả những bài thơ Nôm tục lưỡng nghĩa, bà đã phải gò bó trong lối thơ hai nghĩa thời bấy giờ, đê nói lên những dồn nén và những đòi hỏi nữ quyền, "chém cha cái kiếp lấy chồng chung". Ở Việt Nam, cho đến giữa thập niên 1960, tác phẩm của các nhà văn nữ đã là những đóng góp làm đẹp cho đời, cho thế giới văn chương dù với tính cách bên lề, ngoại lệ. Thật vậy, đối với văn học chữ quốc ngữ thì năm 1927, bà Tương Phố với Giọt Lệ Thu đã thật sự khởi đánh dấu sự có mặt của nữ giới trên văn đàn chữ nghĩa. Thụy An với Một Linh Hồn (1942), Bốn Mớ Tóc (1950, ký Lưu Thị Yến) nhìn ra cuộc đời, Anh Thơ với Răng Đen (1943) rồi Nguyễn Thị Vinh với Thương Yêu (1953) đã bắt đầu nói đến thân phận người đàn bà trong đời sống đại gia đình, trong khuôn khổ phong hóa - họ không sống cho cá nhân mình. Thụy An, Nguyễn Thị Vinh nói đến số phận những thế hệ phụ nữ đã phải sống trong đứt đoạn, nghịch lý khó khăn giữa giáo dục thời thiếu nữ và thực tế ở đời khi trở thành phụ nữ ! Linh Bảo với Những Đêm Mưa, Tàu Ngựa Cũ xuất bản cùng năm 1961, đã nhẹ nhàng khởi nêu vai trò người phụ nữ. Đến Nhã Ca, người nữ tình yêu đã lãng mạn và mạnh mẽ nhưng chiến tranh và trách nhiệm đã khiến đôi lứa và gia đình quan trọng hơn cá nhân. Nói như Virginia Woolf, họ vẫn quanh quẩn trong "những hành lang tối ám của lịch sử". Người đàn bà sinh ra sống cho gia đình, lo cho cha mẹ, cho em, rồi khi rời gia đình thì rơi vào gia đình khác, lo cho chồng, cho con rồi cho cháu, ăn ở có đức, rồi chết ... theo đúng lễ nghi, phong tục! Người phụ nữ cho đến giai đoạn này chỉ đi tìm hạnh phúc!
Phải đến Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy-Vũ và Trùng Dương, văn chương mới trở thành phương tiện cho nữ quyền và quyền sống. Thật vậy, từ cuối thập niên 1960, người viết nữ đã mạnh bạo đi xa hơn, tự tin hơn và những vấn đề phụ nữ được chính thức trương lên chữ nghĩa. Cái Tôi, nhân vật chính, nội dung, tình cảm, tình yêu, tình dục, ... không còn là của riêng những nhà văn thơ phái nam. Hơn là những "hình ảnh người nữ" trong tác phẩm viết bởi nhà văn nữ hay nam, từ Khái Hưng, Nhất Linh,.. đến Hồ Trường An, Nguyễn Thị Phong-Dinh,v.v.
Lê Thị Thấm Vân, một nhà văn hải ngoại đã phát biểu rằng:"Trong quá khứ, văn chương tình dục đa phần viết bởi ngòi bút đàn ông. Văn thơ kể, nói, chỉ, "dạy", diễn tả, ... những cảm xúc, "cách thức" rung động, thèm muốn, bày tỏ (thay cho) người đàn bà" (6). Văn chương dục tính hay có dâm tính lại do người nữ viết hình như hấp dẫn hơn vì cũng hình như có tính tự thuật nhiều hơn. Vì từ nay, người nữ làm chủ con người, tư duy, tình cảm và cuộc đời của họ trong văn chương. Làm người nữ, với văn chương! Simone de Beauvoir trong Le Deuxième Sexe (1949) đã phát động cái ý thức nữ quyền đó khi hô hào "On ne nait pas femme, on le devient". Trong văn chương, trong ngôn ngữ vì là cái có thực, có sự sống. Như vậy, viết trở thành hành động tự xác định của người phụ nữ, trở thành phát ngôn viên chính thức của con người phụ nữ, tiếng nói chính thức và từ tình dục.
Từ thuở tạo thiên lập địa, nếu theo truyền thuyết sáng thế từ Adam Eva thì Eva đã phạm tội ở vườn địa đàng, Adam dại gái nên bị cám dỗ; thân phận phụ nữ gãy đổ ở gốc cây táo từ đó. Đến lúc xảy ra phong trào đòi nữ quyền, người ta bắt đầu thấy phụ nữ lộ diện trên mọi sân khấu và đến cuối thế kỷ XX thì sân khấu gần như nhường hết cho các bà. Từ thập niên 1960, họ "lấn" thêm chuyện cái giường và thân xác. Họ gạt bỏ vòng cương tỏa tình dục nam quyền để làm lại thế giới với hình ảnh và dục vọng phái tính của họ. Marguerite Duras đã cho nhân vật nữ chủ động trong tình yêu: "Il a arraché la robe, il la jette, il a arraché le petit slip de coton blanc et il la porte ainsi nue jusqu’au lit. Et alors il se tourne de l’autre côté du lit et il pleure. Et elle, lente, patiente, elle le ramène vers elle et elle commence à le déshabiller" (7). Không xa nơi cô đầm Sadec, thập niên 1960 đã có một thế hệ nhà văn nữ như Trùng Dương đã tỏ tinh thần độc lập, dứt khoát tự giải thoát khỏi những ràng buộc của chế độ phụ hệ, cả trong động tác làm tình: "Một lúc nàng nới lỏng tay ra , thôi hôn tôi, mắt say đắm. Tôi nghe tiếng nàng nói qua hơi thở : Em lên anh nhé? Tôi khẽ gật đầu. Diệu xô tôi nằm xuống giường và lên người tôi. Diệu thường mở màn bằng cách đó. Hình như nàng tìm thấy cái thú nằm trên người tôi, một cái thú khá man dại và cũng chóng tàn"(8). Thử so với Loan của Đoạn Tuyệt chỉ muốn được đọc sách tiếp rồi ngủ sau đã phải đưa đến án mạng!
Hoặc các nhà văn nữ lên tiếng chống lại những thân phận tùng thuộc, nhận chịu, chờ đợi. Họ vạch mặt những qưyền lực đàn áp của định chế chính trị, của xã hội, của đồng lõa phái nam. Cái Tôi trước cái "anh, mày" tức người đối diện, trước cái Ta, cái chúng ta! Cái Moi của Simone de Beauvoir là cái Tôi xồ xề, sung túc ! Từ đó tình yêu có thêm nhiều hình dung từ, ngoài những tình yêu lý tưởng, cao thượng, đau khổ, ... lỗi thời, nay thêm tình yêu bản năng, tình dục, tự do, đổi chác, khoái lạc, cả tình yêu phút chốc, bồng bột, hiểm nghèo, ... Về điểm này, người viết nữ thời nay như muốn trở lại thời bán khai, tự nhiên, giải phóng tình dục khỏi những quy ước của hôn nhân, phong hóa. Đi xa hơn, không chỉ đòi bình quyền, còn tự chứng minh tự xác tín cái cá biệt "nữ", khác biệt về tình dục, về xúc cảm thân xác, về kinh nghiệm và cả ngôn ngữ. Họ làm chủ cơ thể, cảm xúc và tư duy. Trùng Dương trong Mưa Không Ướt Đất chẳng hạn cho nhân vật lý luận triết lý, truyện có tính cách lý luận hơn là sống nếu muốn gọi đó là hiện sinh. Xưa kia nhà văn nam viết, phân tích tâm lý mọi người thì nay các nhà văn nữ muốn phân tâm đàn ông và tự phân tâm! Một loại "văn hóa" mới, năng động và cách tân phái tính. Họ không ngừng ở thể loại nhật ký, thi ca, tiểu thuyết , mà đi xa hơn, làm chủ cơ quan văn nghệ, lên tiếng phỏng vấn, thuyết trình, ... Nhưng chính với văn chương, với tiểu thuyết và thi ca như phương tiện, mà người nữ lên tiếng, phát biểu, làm chứng.
Lệ Hằng thời trẻ xảnh xoẹ đi tìm hạnh phúc, hạnh phúc là ái ân, da chạm da, nói như Phượng Uyên trong Thung Lũng Tình Yêu chỉ muốn "thiên đường chính là vòng tay, là mùi hương đàn ông, là hơi thở của chàng. Tôi không tìm nữa một cảnh bồng lai, vì đôi môi người yêu, giọng nói người yêu, và đôi mắt chàng, là giòng sông tình ái, là rừng say sưa là suối bất tử đời đời tắm mát tình yêu " (9). Sẽ đòi hỏi hơn với Sóc Nâu là chuyện tình yêu khả thể với một người bạn nam Dũng, kiểu " Em thèm được làm một người đàn bà. Dưới tay anh, dưới thân thể anh, và dưới tình yêu của anh nữa... Dũng ơi ... Hãy trở thành một người đàn ông với em đi" (10).
Với Túy Hồng trước 1975, nhân vật nữ luôn đầy sức sống vùng vẫy trong một xã hội tù túng, ngộp thở. Họ luôn muốn phá đổ những lễ nghi, cung cách, những nếp sống phụ hệ, gia phong theo họ đã lỗi thời. Dục tính, mà một số nhà văn nam phê bình bà trước 1975, đã bị gán ghép, đồng hóa với thái độ và lối sống tự do, theo bản năng giấu dưới những mỹ từ tình yêu, tình bạn. Hãy còn bóng bẩy, rụt rè hiện thực, cùng lắm qua lời nói, ý nghĩ như nhân vật nữ trong Vết Thương Dậy Thì(1967): "Hãy ngậm em giữa hai môi dầy trác táng, uống em đi, nuốt em đi ừng ực. Chỉ vẽ cho em cách chế cà phê và cách chui vào lòng anh để thao thức cồn cào tỉnh người bỏ ngủ vì đã liếm em trên đầu môi chót lưỡi, đã ngậm, đã nuốt ực em vào anh rồi"(11). Người nữ đi thẳng, nói trắng : "nếu yêu em thì đừng đi quanh nữa (...). Anh hãy cho em đi con đường ngắn nhất, con đường độc đạo của tình yêu" nói như bạn cô giáo Cam Thảo, nhân vật Thở Dài, trong khi cô thì viết thư thúc người yêu cưới mình!
Trần Thị Ng.H. qua Lạc Đạn - viết năm 1973, và một số truyện ngắn đăng báo trước 1975 cũng đã, qua văn chương, tự xác nhận, ra tay để phá đổ huyền thoại phụ nữ như là đối tượng, xây dựng lại tương quan với người khác giống, đảm nhận tự do, một cách lạnh lùng, dứt khoát, dù vẫn cho thấy một loại bất mãn, dồn nén! Nơi thái độ, như hối hận sau liên hệ đồng tính với Thắm, sau khi đã "ôm nhau như đôi tình thân. Thắm rà đôi môi nhỏ trong cổ tôi, đôi vú non căng nở phập phồng, hốt hoảng. Tôi kinh hãi xúc động dầm dề. Tôi muốn la lớn trong cơn khoái cảm mộng mị và kì cục...". Như sau khi chấp nhận trò chơi "đau xé nổ tung đầm đìa. .. đỏ lòm oan uổng" với "người đàn ông lạ mặt", rồi phải "dỗ dành chỗ mềm yếu nhất, dỗ ngọt, săn sóc" đã xác tín - trong ý tưởng, với người mẹ âu lo rằng "con trinh bạch không tội lỗi, con nguyên vẹn của má" (12). Tình yêu, tình người ở đây, không là những bất ngờ! Trong các truyện ngắn khác ở tập này và tập Tập Truyện Ngắn Trần Thi Ng.H. (1999), bà còn nói đến những mặt trái, tội ác, cái chết tự xử, cái chết người khác, những cái chết dàn cảnh!
Cách mạng tình dục tiếp tục với văn học hải ngoại : Đỗ Kh., Khánh Trường, Trần Vũ, Trân Sa, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Hoàng Bắc,... Bài này chúng tôi nhìn qua phía các nhà văn nữ, họ lên tiếng về những âu lo, tâm tình mà lâu nay nhất là ở Việt Nam ít thấy. Những âu lo của Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan thanh cao quá, trừu tượng quá, Hồ Xuân Hương nếu là tác giả thật những bài thơ về tính giống và tác động phòng the, cũng vẫn ở ẩn dụ, bóng gió, không trực tiếp, trốn trong cách thế nho nhã! Nhà văn nữ Việt Nam ở hải ngoại nói thẳng những lo âu thực tế, sờ được, cảm được, không cần nhiều ngõ quanh, đi vòng. Sinh lý hết được xem như cấm đoán, lại được xem như đòi hỏi chính đáng, tình dục trở thành nhu cầu tự nhiên, phải có, không thiên kiến và mặc cảm phạm tội, cả có khi ngây thơ trong tìm kiếm. Tự nhiên và chấp nhận trò chơi trăm phần trăm, với tấm thân sẵn đó, như đó!
Nói chung, phụ nữ chống văn minh, văn hóa dựa trên quyền hành đàn ông, phụ quyền, chống Tây phương kỹ nghệ định nghĩa đàn ông ở khả năng sáng tạo và chế biến sự vật. Phụ nữ chống văn chương như một nền chế, họ thích mặt trận "ngôn ngữ" hơn, thích phổ dương liên hệ trực tiếp với chữ viết cũng như với thân xác. Phụ nữ Mỹ châu đòi quyền lợi, họ dấn thân, xuống đường, lập nghiệp đoàn,... ít cho người đọc thấy dây dưa tình cảm. Ngôn ngữ không quan trọng, cái quan trọng là chống đàn áp, đô hộ của đàn ông . Trong khi đó ở Pháp và Âu châu, ngôn ngữ được đặt lại vị trí, thẩm mỹ học, một loại phản văn hóa đặt nền trên sự đè nén. Người viết nữ xây lại nội dung, cấu trúc lại những ngõ thoát, lối ra của ngôn ngữ. Sướng khoái thể chất đi với sướng khoái lời nói, chữ dùng. Thêm vào, những khuynh hướng mới về tiểu thuyết như hậu thuộc địa (postcolonial) là một loại diễn văn muốn thay thế những quan điểm đã được thiết lập trước về lệ thuộc và vâng lời bằng quan điểm hoàn toàn ngược lại, đề cao tự lập cá nhân và tự chủ. Xây dựng lại nội dung bằng đường thoát ngôn ngữ. Lạc thú thân xác đi liền với lạc thú ngôn ngữ, đến sau lạc thú ngôn ngữ. Người nam đi vào văn để tìm hoặc nếu đã thấy, trình bày lý thuyết, triết lý hay một "nghiệp", người nữ thì đến để thực hiện cái tôi, xác định cái tôi, cá nhân. Và họ đi vào tình dục. Sex được dịch là hữu-tính (tự điển Thanh Nghị), làm như không sex là số không to tướng! Đưa đến những cuộc sống ...ngoại lệ: đàn bà không sanh con, đồng tính luyến ái, lãnh cảm (Jane Austen, chị em Emily và Charlotte Bronte, Simone de Beauvoir, George Eliot, ...). Sống đời thế tục, tận hưởng phút giây, lãng mạn tình yêu đến tự do tình dục!
Người nữ sống đời hải ngoại hội nhập, choáng ngợp giữa những lạ-lẫm (exotic), đầy ắp và choáng ngợp trước tự do ở xứ người, tự do tuyệt đối và cá nhân chủ nghĩa, từ vật chất, thân xác, tình cảm,.. Có thể họ muốn giả vờ, trưởng giả , nhưng lại không giữ lề, thích tự do ngoại tình,.. Có người đi đến thái độ hài hước đen, ngầm nữ quyền. Người nữ những thập niên cuối thế kỷ XX choáng ngợp tự do, tình dục, đi xa hơn cô giáo Hoàng. Cái giường hết còn là ám ảnh chính như với Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Túy Hồng (từng viết "cái giường là đồ vật tội lỗi nhất trong những đồ vật" trong Vết Thương Dậy Thì),... Sau chiến tranh, nhân vật Túy Hòng sống trong chia cách và đời sống mới, trở nên yếu ớt, căng thẳng, vô định trước tương lai, lại tăng dâm tính, tình dục trở nên cách hành xử hoặc tác động xác thân lên trên tình cảm. Đây là một hiện tượng từng chứng minh với những biến động lớn như vụ không tặc Tháp Đôi ở New York ngày 11-9-01. Để xóa căng thẳng và tái xác nhận đời đáng sống, cái sống đáng trân trọng, một tâm trạng sống sót, cho nên buông thả tình dục, với cả người mới quen. Cứ Tay Che Thời Tiết "có thể chờ chồng nhưng tôi không thể thủ tiết được" cho nên cứ "xoạc mông xoãi đùi đu bay lẫn lộn trong bát ngát tự do rì chặt chữ tình làm cứu cánh" (tr. 73), cuối cùng mới thấy chỉ là ảo tưởng, lãng mạn. Ảo mộng vun trồng vẫn hóa ra mộng ảo, con người không dễ thay đổi lớn !
Nhân vật Mưa của Lệ Hằng trong Bên Kia Là Núi (1998) một khi ra được ốc vỏ văn hóa cũ (cô giáo, vai chị), đã lồng lộn thụ hưởng đời sống tình dục hơn cả người tình Phi châu Saba của Hãn. "... Cô bỗng khùng lên, cánh đồng khô khát của cô ghì lấy Hãn. Chưa một lần nào, Hãn thấy cô tả xông hữu đột truy bức thân thể Hãn dữ dằn hơn. Gầm gừ mê mỏi, hào hển đứt hơi. Cuồng lên vì lạc thú, cô làm Hãn kích ngất vì những rung cảm khốc liệt của cô... "(13).
Như vậy, nay chính thân xác là đối tượng, là đề tài chính! Với Trân Sa và một vài nhà văn nữ, tôn giáo ngưng lại ở chỗ tình dục; tình dục không những tháo gỡ cấm đoán mà còn vô hiệu hóa cấm đoán. Tình yêu khác tình dục, cái sau cũng làm ... tình nhưng hết mình, chính xác, một chuyện. Làm tình phức tạp hơn, đòi hỏi con tim, lời nói, cử chỉ, cả văn hóa. Làm tình, trò chơi thân xác, tựu trung là một khoảng trống cần thiết, một chiến thuật đầy đủ, cũng là cách thức sống, một cách biểu tỏ, một phương tiện hiện hữu thể chất, máy móc - là những thứ nếu thiếu, thì cái còn lại chỉ là phó sản, hiện tượng phụ. Làm tình cũng là một cách học hỏi bằng tự xóa. Tình dục trước khi là hiện tượng xã hội, văn hóa, đã là thân xác.
Khi tay anh xoa xoa xà phòng vào “nơi ấy”,
nắng bên ngoài rực sáng thêm một chút nữa.
“Nơi ấy” giờ thì mềm xìu, bé tí, bình thường như vành tai, chóp mũi, khuỷu tay, đầu gối, gót chân… như bất cứ phần nào trên thân thể anh.
Trước đấy một giờ. Nó cương cứng, nóng hổi, hùng hổ
trong miệng em, giữa rãnh ngực em, trên mông em. Nó cố đâm thấu-xuyên-sâu-qua bao lớp da thịt để vào trong em. (Là nó, chẳng thuộc về ai).
(Lê Thị Thấm Vân, Căn Phòng 2.2 Âm Thanh Sóng) (14).
"... Suốt một buổi chiều / Yêu dọc từ dưới lên - và xuống / Từng lằn chỉ - khớp - từng phân li thịt da / Nhập một / ấm áp - rịn - ướt / Suốt một buổi chiều / Không ngớt / Nghiêng - xoay - cong - mềm mại / Cọ - trườn - lướt / Sau - trước / Những điệu thuần nữ / Có khi là một / Hai - ba - hoặc cả năm / Yêu khắp cùng lòng kia ưỡn ngã xuống như sóng / Và lượn úp lên - uốn chụp xuống / Đan khít mười / Không rời / Không một kẻ hở / Tuần tự - tất cả / Ngoài và trong - không một bỏ trống / Gò và trũng / Suốt một buổi chiều / Hai bàn tay lần đầu yêu nhau / Suốt buổi chiều / Trong căn phòng..." (Trân Sa, Động Tác Yêu) (15).
Thế giới ẩm ướt, trò tình dục không được một số nhà văn nữ Lệ Hằng, Trần Thị NgH, Trân Sa, ... coi là cấm đoán hay lớp áo mỏng che. Broadway ở New York còn đưa lên sân khấu vở Độc thoại của cái l. (Vagina Monologues) của Eve Ensler trong ngày được gọi là V-day, địa đàng trở nên ẩm ướt mà đối với một số nhà văn nữ, cái ẩm ướt cũng là căn cước của họ. Với họ, tình dục là tự nhiên và những hành cử tình dục cũng như bộ phận sinh dục bị bêu xấu hay không nói đến chắc là để làm dơ, làm xấu, làm mờ phai chính hành cử đó, đối tượng đó. Nên họ làm ngược lại!
Dương Như Nguyện đưa vào đời sống hội nhập Mùi Hương Quế (2000), một mùi thơm của tiềm thức và một thân xác của-lạ để đối phó với thực tại vật chất của xứ người. Một cái nhìn xuyên suốt tâm thức văn hóa gốc khi sống đời hội nhập và thành công ở xứ người. Nhân vật Trâm Kha chẳng hạn hội nhập nhanh: "Trong giai đoạn đầu, tôi tình nguyện ngủ với hắn" (tr. 138), chạy theo tình dục như lâm trận tranh đấu cho nữ quyền, và trên ngay phần đất cơ thể chính mình. Tâm thức về cái thân phận nữ phái, qua những nhân vật thân thích gia đình của bà. Qua nhiều thế hệ: bà ngoại, Tĩnh Tâm, ... Cũng là mùi thơm của oan khiên, tiếc nuối. Trong một truyện ngắn, Như Mưa, Nắng...?, Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể một chuyện tình đồng tính giữa hai người phụ nữ như một chớm nở pha lẫn nghi ngờ:
"Tôi không lesbian, nhưng yêu (...)
Tôi run động ngẩn ngườị Ai là tôi, khi tôi/ai thích chuyện này, khi tôi/ai mê cái khác? Tôi/ai biết quá đại khái về ai/tôỉ Như mưa nằng tầm phàỏ" (16).
Rồi những khám phá như S. Hite về điểm cực khoái của thân xác phụ nữ năm 1976, người nữ hết phải chờ, hết cần được cho; muốn là tìm cho được, hối thức, vồ vập... Người nữ vô tình đánh mất tình cảm đã đành mà mất luôn "ngây thơ tình dục", gia vị thiết yếu cho đam mê, tình yêu, gây quyến rủ. Người viết nữ giới từ ý muốn làm chủ văn chương về phái nữ, đã đi đến chổ làm chủ ảo mộng cho người nữ bởi người nữ. Naomi Worlf, một người tranh đấu nữ quyền Hoa Kỳ nổi tiếng, sau những đòi hỏi triệt để đã quay 180 độ, trở về tự nhiên, chủ trương "nữ quyền làm mẹ" (motherhood feminism) trong mấy cuốn như Fire with Fire, Misconceptions đòi hỏi quyền làm việc đồng thời làm mẹ. Vì hai hình ảnh chính của văn chương nữ phải là người mẹ và người nữ, nên thành đề tài, lý do và thể loại xử dụng và ngay cả việc tận dụng ngôn ngữ.
Trên đà đấu tranh bình quyền, thuốc ngừa thai, của thập niên 1960, người phụ nữ đã bớt hoặc không còn làm mẹ. Thuốc ngừa thai khiến người phụ nữ không phải mặc cảm tội lỗi ! Ngay có con đã có cách cấy giống khỏi cần yếu tố dương, nghĩa là xa hơn thái độ của nhân vật của Trần Thị Ng.H. trong truyện Sinh Nhật (17) định nghĩa một người mẹ/người nữ mới, một mình nuôi con, không cứ phải qua định chế hôn nhân. Và rồi bộ phận có tuyệt vời đến mấy cũng chỉ là một ... cơ quan, cái thiếu vẫn là liên hệ, luật âm dương kinh dịch từng nói đến! Cách mạng tình dục đã là hậu quả của cách mạng nữ quyền, nhưng đã đảo lộn mục đích-đối tượng. Thập niên 1960 họ đòi trả thân xác cho họ nhưng khi thân xác trở thành chính cái Tôi thì thân xác lại chiếm nhiều chỗ quá. Nhục dục từ chỗ bị dồn nén, trở thành khuôn mẫu, khoái lạc, là cấm kỵ trở thành totem (tổ vật), không sanh đẻ, trục trặc nhục dục (libido), cái giống trở nên buồn thiu sau khi tả tơi máy móc hóa, tầm thường hóa (chương trình truyền hình Sex and the City ở Mỹ). Thân xác không tình yêu, từ đối tượng trở nên chủ thể của nhục dục!
Chống đề cao giống mạnh, nam quyền macho, phong trào nữ nêu khẩu hiệu "đàn bà là tương lai nhân loại, thế kỷ XXI là thế kỷ đàn bà". Mỗi giống tính không thể rút vào vỏ cô đơn tình dục, trí thức và luân lý, cuộc sống còn gì thú vị và tương lai! Nay có thể nói người nữ còn lại bốn ám ảnh chính: tình dục, sợ hãi, bạo lực và khinh rẽ. Nữ quyền đòi hỏi đến một lúc nào đó sẽ rơi vào chán nản, tình dục cũng thành buồn thiu. Saba, nhân vật trong Bên Kia Là Núi của Lệ Hằng, sống buông thả và bạo động tình dục như để chứng minh nữ quyền, cuối cùng đâm ra sợ cả tự do tình dục. Chưa kể đến hiện tượng tiểu thuyết dành cho độc giả phụ nữ, có khuynh hướng xem như những tranh đấu nữ quyền đã qua, nay đưa ra những hoàn cảnh nhân vật nữ bị tiếng sét ái tình hoặc tô điểm một hình ảnh "hoàng tử của lòng em", mà nếu gặp, người vai nữ dám bỏ hết tương lai sự nghiệp để đi theo - như trước kia, nhưng khác là nay do nhà văn nữ viết ra! Và cứ thế, những trào lưu tiếp nối, hết nữ-lưu luận sẽ thuyết lý gì khác?
Không đóng vai luân lý, đạo đức nhưng đối với văn chương dục tính, thiển nghĩ tính văn chương sẽ không ở lâu với những quẩn quanh tình dục không lối thoát. Không bắt buộc phải hướng thượng, nhưng nếu nhân vật, hành động và nội dung của văn chương cứ bị tình dục, thân xác giam hãm tù đày, định nghĩa về văn chương hình như đã bị hãm hiếp một cách tội nghiệp vậy! Đây là chỗ khép lại của nhiều thập niên thử nghiệm kể từ khi nhóm Sáng-Tạo đề nghị buông thả và khai phá tình dục trong văn chương. Cuối cùng, cũng cần nói thêm là dục tính trong văn chương phải chăng một phần do ở người đọc - một thứ "cây sậy biết suy nghĩ"; người đọc trở thành đồng lõa với loại văn chương dục tính ?./.
- - - - - - - - -
Chú-thích:
1. Nhất Linh & Khái Hưng. Anh Phải Sống (Sài Gòn : Đời Nay, 1961?), tr. 19.
2. Phùng Nguyễn. Tháp Ký Ức (Westminster CA: Văn, 1998), tr. 97.
3. Sáng Tạo b.m., 5, 11-1960, tr. 97-102.
4. Sáng-Tạo b.m., 1, 7-1960, tr. 26-32.
5. Sài Gòn : Đức Lưu Phương, 1931. Trích theo bản chụp lại.
6. Văn học CA, 124, 8-1996.
7. L’Amant. Paris : Minuit, 1984.
8. "Miền Chân Trời". Văn (SG), 31, 1965, tr. 76.
9. Sài Gòn : Gió, 1973, tr. 276-277.
10. Lệ Hằng. Sóc Nâu, XT tb, tr. 242.
11. Sài Gòn : Kim Anh, 1967, tr. 87.
12. Trần Thị Ng.H. Lạc Đạn Và Mười Truyện Ngắn (Toronto: Thời Mới, 2000), Tr. 67, 43 và 47.
13. San Francisco CA: Mõ Làng, 1998, tr. 183.
14. Tạp chí Thơ CA, số mùa đông 1999.
15. Nhánh Nhỏ (www.nhanhnho.org), 27, 1-2001.
16. Nguyễn Thị Hoàng Bắc. "Như Mưa, Nắng...?". Việt, 6, 2000, tr. 181&182.
17. Một truyện Trần Thị Ng.H. khác, viết năm 1998, in trong Lạc Đạn... Sđd.
NGUYỄN VY KHANH

Thơ Trần Quang Quý




Nhà thơ Trần Quang Quý quê Thanh Thủy, Phú Thọ. Hiện công tác tại Nxb. Hội Nhà văn.

Tác phẩm chính: Viết tặng em trong ngôi nhà chật(thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 1990); Mắt thắm (thơ, Nxb. Lao động, 1993), Giấc mơ hình chiếc thớt (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2003), Siêu thị mặt (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2006), Cánh đồng người (thơ song ngữ Việt – Anh, Nxb. Hội Nhà văn, 2010), Bờ sông trăng sáng (truyện ngắn, Nxb. Hội Nhà văn, 2010), Màu tự do của đất(thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2012)

Giải thưởng: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2004 cho tập thơ Giấc mơ hình chiếc thớt; Giải thưởng Bông lúa vàng, 2011 (viết về nông nghiệp, nông thôn, nông dân); Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012 cho tập thơ Màu tự do của đất và nhiều giải văn học khác của Văn nghệ quân đội, Văn nghệ, Người Hà Nội, Quân đội nhân dân….






Từ đất


Tôi đọc trên đất những bước đi ngắn, những bước đi dài
những khi bước thấp, những khi bước cao
bài học ban đầu
thuở còn lẫm chẫm
trang sách nhân gian đất bày vô tận

Tôi đọc trên đất những mùa hạt mẩy, những vị gừng cay
những cơn gió lép, những hạt sương gầy
những vết chân hanh, ngày mưa tướp mặt
tôi đọc trên đất những lời tiền nhân

Tôi biết hành trình có con đường thẳng, lại có khúc vòng
học những bước lùi để thêm bước tiến
học cách nhìn đêm để tỏ mặt ngày
bao nhiêu vực thẳm, cạm bẫy trên đường
cũng bao nhiêu cách đất làm mồ chôn

Một đời khát vọng
tìm gió
theo mây
mới hay mọi điều học ngay từ đất…



Đồng loại


Trong mắt rắn, dĩ nhiên rồi ta cũng loài rắn
ngôn ngữ của trườn bò
bóng tối phục binh trong bình minh nọc độc
quen lẩn khuất rập rình và tiến thân lươn lẹo
những già cỗi cũ mèm rồi có thể lột da
chỉ tính rắn không lột được cùng lốt rắn

Trong mắt bầy khuyển kia, làm sao khác ta cũng thành đồng loại
những cơn tru hoang (tiếng người hóa dại)
ngày thấp thỏm quạ kêu, đêm chập chờn cú rúc
những con mắt gài quanh bờ giậu
lách nhách cắn bóng đêm hay tự sủa phận mình
có cái chết trong bầm dập vết răng đồng loại
có bước chân côi cút lẻ bầy

Trong mắt chim ta cũng loài chim
cũng giống chim đi trên hai chân, nhưng khác chim người lại biết bò
và (nói nhỏ) thua chim không thể bay lên
suốt đời níu nhau mặt đất

Ta là ai? Câu hỏi đã xưa rồi
và điều đó chỉ riêng ta biết
ta là cả muôn loài, duy một điều khác biệt
ta vẫn phải suốt đời mang gương mặt là ta!




Có những điều giản dị



Được sống thật không dễ
nói thật dễ gì hơn?

Tôi lột vỏ ngôn ngữ
cùng đồng bào từ vựng của tôi tự do ùa xuống mặt đường
những bước chân ánh sáng
có con đường mở cả chân trời
có con đường chỉ quanh quẩn chân người

Phóng túng gì bằng được giải phóng lời khỏi những mật ngữ
hứng khởi gì bằng bóc vỏ tự do
nghe trái tim cuộn chảy dòng máu nhân sinh
nghe sự thật bong ra khỏi vai diễn
nghe cội rễ tự nhổ khỏi đất cằn những ngày nhạt

Ban mai
ba thằng bạn huyên thuyên cà phê sáng
quên bình minh biển lên cởi ngực Hải Phòng




Tiếng vọng những mảnh vỡ



Dọc con đường bờ sông nắng chảy
những giọt thời gian chảy
em và tôi đi nhặt những mảnh vỡ một cách thích thú
nhặt ánh mắt tinh nghịch, những đam mê chưa chịu già

Một viên gạch cổ, một mảnh gốm trồi lên từ vết xưa
những mảnh vỡ ngủ từ ngàn năm bóng đêm lòng đất
ngủ trong chính sự cách điệu những hoa văn tài hoa
đâu mảnh vỡ tâm hồn
đâu mảnh vỡ trái tim
những mảnh vỡ quẫy lên tiềm thức

Trên vết lở sông Đà cả những khúc xương trắng, những đám vỏ ốc trắng
gió trầm tích thổi về sự thịnh trị nền văn minh nông nghiệp
than lửa của một ngày
một ngày chói sáng nhận thức
một ngày mảnh vỡ kể những câu chuyện dọc dòng sông vĩ đại này
những câu chuyện được chôn vào quá vãng
hát lên bằng giọng hát thật của mình

Em ơi, sông vẫn chảy kìa, gió ngàn xưa vẫn chảy
hay em, ngọn gió lành từ ngàn xưa gửi lại
dắt tôi đi trong kì vĩ và vẻ đẹp huyền bí những mảnh vỡ
những mảnh vỡ mọc cánh
nâng tôi lên từ chính những khía vỡ nham nhở và sắc cạnh của nó

Tôi đang học cách trò chuyện từ chiều vô thức
và cả chiều linh giác, chiều em
dọc con đường cổ đại
dòng sông mẹ sinh tôi