Hiển thị các bài đăng có nhãn Vẽ đẹp Việt nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Vẽ đẹp Việt nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2020

 

CHỮ VÀ NGHĨA TRONG BÁT PHỞ.

Nguyễn Xuân Quang.


PHỞ

Ai cũng biết Phở là món ăn Quốc Hồn Quốc Túy của Việt Nam và sau năm 1975 đã trở thành món ăn quốc tế. Khắp nơi trên thế giới ngay cả ở vùng không có người Việt cũng có Phở.

Đã có rất nhiều tác giả viết về nhiều khía cạnh khác nhau của Phở với đủ loại văn: văn xuôi, văn vần, thơ, ca, câu đối. Tôi cũng đã viết một truyện ngắn Pho về Phở vùng hải đảo Caribe (xem truyện này).

Bài này tôi viết về một đề tài chưa ai viết. Đó là Chữ và Nghĩa Trong Tô Phở. Tôi cố gắng truy tìm, tầm nguyên nghĩa ngữ các từ liên hệ tới Phở. Hy vọng giúp người đọc sau khi đọc xong tìm được một tô phở ngon đúng ý nghĩa của nó.

.Phở

Phở nghĩa là gì?

Từ Phở được giải nghĩa khác nhau tùy theo môn phái tin vào nguồn gốc món Phở.

Có nhiều tranh cãi, bất đồng về nguồn gốc ra đời của Phở nên nghĩa của Phở cũng còn tranh cãi.

Có ít nhất ba trường phái.

-Môn phái theo Tàu cho rằng từ phở phát từ nguồn món ngưu nhục phấn, món ăn nấu bằng thịt bò với bún làm bằng bột gạo của Tầu. Tiếng Quảng Đông phấn thành phẳn, phảnh rồi thành phở.

-Môn phái theo Tây cho rằng Phở là do tiếng Pháp ngữ Feu, lửa.

Tác giả Nguyễn Phát (amthucviahe.com) viết theo lời kể của ông Võ Văn Côn nguyên là Chef Bếp Việt của Vua Bảo Đại thì vào năm 1910, nhiều thanh niên Việt Nam đi lính Pháp. Họ phải sang mẫu quốc để phục vụ một thời gian, trong số đó có một người từng làm phụ bếp cho Toàn quyền Saigon tên Huỳnh. Đơn vị ông Huỳnh đóng quân ở Marseille và ông được giữ chức Bếp trưởng của binh đoàn toàn lính người An Nam. Sáng nào ông Huỳnh cũng ra lệnh đốt bếp lò thật sớm bằng cách hô to: “Feu! Feu!” có nghĩa là nổi lửa lên ! để nấu súp thịt bò cho binh sĩ ăn điểm tâm với bánh mì khô. Thấy binh sĩ người Việt bỏ ăn sáng hơi nhiều vì chán món súp bò của Pháp nên ông Huỳnh bèn nghĩ ra một món mới. Ông dùng gia vị bằng hương liệu Á châu và thay bánh mì bằng “bánh tài phảnh” mua của người Tàu ở Khu Chinois. Món ăn được hưởng ứng nhiệt liệt và ngay cả người Pháp cũng ăn và gọi là món Feu.

Khi hồi hương một vài cựu quân nhân Pháp gốc Việt này nấu món Feu thành Phở bán.

Ở Dalat năm 1930 có phở Gare xe lửa là tiêm Phở Bò đầu tiên của Dalat do con đầu bếp Huỳnh làm chủ. Tên Tô Xe lửa (Tô lớn) phát xuất từ đây mà ra. Phở Gare Dalat sau 1960 dời về Phú Nhuận Saigon lấy tên là Phở Bắc Huỳnh. Ở Quận Cam, Little Saigon Nam Cali trước đây cũng có tiệm phở cùng tên.

Ngày trước bị ành hưởng Tây có người dịch phở là pot-au-feu nhưng món này là một món hầm thịt bò với rau quả.

-Môn phái theo Ta dựa vào tên nôm.

Tác giả Vương Trung Hiếu (facebook.com/notes/vương-trung-hiếu/nguồn-gốc-của-phở) chứng minh hai nguồn gốc Tầu Tây ở trên cho là không vững. Ông dựa vào chữ nôm phở: “Theo những tự điển mà chúng tôi tham khảo, từ phở xuất hiện trong phở lở gồm có ba chữ (𡂄 và 㗞 đều thuộc bộ khẩu; , thuộc bộ hiệt); còn từ phở trong bánh phở  có một chữ (, thuộc bộ Nhật, âm Hán Việt là phổ); riêng từ phở với nghĩa là món phở thì gồm hai chữ Hán ghép lại: mễ phả .

…..

Bây giờ, xét về ngôn ngữ, chúng ta xem thử những chữ Nôm phở (𡂄, 㗞, 頗, 普) có liên quan gì với chữ Hán phấn  trong ngưu nhục phấn 牛肉粉 không, đặc biệt là chữ phở trong món phở? Xin thưa, chẳng có liên quan gì cả.

…..

Tóm lại, chữ Nôm phở hay phở bò cho thấy rằng người Việt xưa rất chủ động trong cách dùng từ, mục đích nhằm khẳng định rằng “phở” là một món ăn hoàn toàn Việt Nam, chẳng dính dáng gì tới ngưu nhục phấn 牛肉粉 của Trung Quốc.

Vậy phở có nguồn gốc từ đâu?

Chúng tôi ủng hộ quan điểm cho rằng phở có nguồn gốc từ món xáo trâu rất phổ biến ở miền bắc, đặc biệt là ở Hà Nội vào đầu thế kỷ 20”.

Như vậy theo môn phái Ta này phở có nguồn gốc từ món xáo trâu của Việt Nam.

Vậy thì cũng nên biết thêm xáo hay sáo có nghĩa gì? Xáo, sáo có gốc Sa- liên hệ với Phạn ngữ -sara, saras, nước. Các cô gái Tây phương được đặt tên Sarah có nghĩa là Nước, nữ thần Nước, Mẹ Nước mang nghĩa tạo hóa, sinh tạo. Nước là mẹ sự sống. Serum là huyết thanh…

Việt ngữ sa như sa mù (sương và mây), sả liên hệ với nước như sả nước, sối sả, chim sả… Chim sả là chim bói cá, thằng chài, phí thúy “nào lên rừng đào mỏ, nào xuống biển mò châu, nào hố bẫy hươu nai, nào lưới dò chim sả” (Nguyễn Trãi, Bình Ngô Đại Cáo). Theo s = ch = tr, sả = trả. Chim trả là chim sả:

Con chim tra trả, ai vay mà trả,

Bụi gai sưng, ai vả mà sưng.

Đấy người dưng, đây cũng người dưng,

Cớ chi nước mắt cứ rưng rưng nhỏ hoài.

(Hò Miền Nam).

Cỏ sả (lemon grass) dùng đun nước làm trà, tắm gội và dùng làm hương vị nấu ăn. Chim sáo liên hệ với nước nên có câu ‘con sáo sang sông’, ‘chẻ tre bện sáo cho dầy’ (sáo là một dụng cụ bắt cá liên hệ với nước), sáo đen là chim biểu tượng của nước (Bồ Nông là Ông Bồ Cắt)…

Món ăn nấu có nhiều nước như canh gọi là xáo (sáo): xáo vịt, xáo măng, trăm voi không được bát nước sáo. Món chiên với dầu mỡ có nước nhưng ít gọi là xào. Xáo với xào khác biệt ở chỗ có nhiều hay ít nước. Xào với xáo vì thế hay xào xáo với nhau! Gạo nấu với nhiều nước gọi là cháo. Theo s = g (sối = gội) ta có sáo = gạo, làm hàng sáo là làm nghề gạo. Gạo vốn là cây lúa dại mọc dưới nước. Lúa sạ là lúa nước, mọc ngoi lên theo mực nước dâng cao hàng ngày…

Như thế ta có ít nhất ba nguồn gốc của phở. Phở là phấn (phẳn, phảnh), là Feu và là Phố.

Chắc ai cũng cho mình có lý cả. Biết theo ai?

Theo lối ba phải thì có lẽ là cả ba gộp lại!

Nước Lèo

Phần nước phở gọi là nước lèo có nghĩa là nước béo nấu bằng xương. Theo biến âm kiểu lêu bêu, lều bều, lang bang (l = b), ta có lèo = béo. Ta cũng có từ lèo bèo. Qua câu ‘bụng lèo bèo những mỡ’ là bụng béo xệ, ta có lèo = béo. Rõ hơn qua câu ‘cái bụng như thùng nước lèo’ chỉ bụng to béo xệ giống như bụng con heo Việt Nam đầy mỡ ba chỉ mà người Mỹ gọi là Vietnamese pot-bellied pig. Trong Từ Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt, tác giả Nguyễn Hy Vọng cũng xác thực: lèo (mỡ lèo, nước lèo giống như nước béo, nước mỡ. Thái p-lèo, miếng, lát mỡ; p-lèo mú, mỡ heo.

Như thế nước lèo của phở là nước béo, nước mỡ nấu bằng xương tủy bò. Về sau dùng rộng nghĩa ra gọi là nước dùng. Nhưng lưu ý nước lèo không nên dùng để gọi nước nước nấu món chay.

Bánh phở

Như đã nói ở trên bánh phở làm bằng bột gạo, Hán Việt là phấn, Quảng Đông là phẳn, phảnh. Anh ngữ là rice noodle.

Phần Thịt

-Phở Bò.

.Bò

Bò ruột thịt với Gael ngữ , Pháp ngữ boeuf, Latin bos, Hy Lạp ngữ bous. Phạn ngữ go, bò. Theo g=c, Phạn ngữ go = cow (bò cái) /cao/ đọc thêm hơi vào thành châu, trâu (nghĩa lệch), trong khi đó buffalo có bu- = bò (nghĩa lệch). Nhật ngữ gyu có gốc Phạn go là bò. Wagyu là thịt bò Nhật, người Nhật cổ gọi là người Wa.

.Nạc

Là phần thịt không có xương (hết nạc vạc tới xương) và không có mỡ. Thịt nạc là thịt đi kèm với xương có sơ, có sợi, có thớ (cơ vân) (dùng làm ruốc thịt, thịt chà bông). Thịt nạc bò cắt trái thớ ăn rất dai. Nạc biến âm với nạt (nuộc nạt), lạt (dây tre có thớ, sơ dùng để cột).

Anh ngữ nạc là lean có một nghĩa là gầy. Việt ngữ có câu gầy xác, gầy xơ.

.Chín

Hán Việt thục, Anh ngữ well done.

Chín có một nghĩa là nấu chín (cooked) là do nấu bằng lửa và cũng có nghĩa là không sống, không còn xanh đã chín (ripen) của hạt hay quả do lửa trời, do nắng.

Theo qui luật từ đôi đồng nghĩa của Nguyễn Xuân Quang chín rục ta có chín = rục. Theo r = th như rụt = thụt; rồi = thôi, r Việt = th Mường như răng = thang, ta có rục = Hán Việt thục (chín).

Chin ngược với tái, Hán Việt gọi là sinh (sống) (xem Tái).

Ăn phở chín thì phải là chín nạm mới ngon vì thịt có những đường gân, mỡ (xem dưới), hơn là ăn chín nạc toàn sơ thấy miếng thịt xác xơ trong miệng như sơ lạt tre.

.Tái

Tái là thịt chín một phần, Hán Việt sinh, Pháp ngữ saignant, Anh ngữ rare.

Tái là mầu nhợt nhạt, xanh mét không có máu, thiếu máu như tái xanh, tái mét, tai tái khi sợ, bị lạnh hay bị thiếu máu, Thịt bò sống đỏ máu khi đổ nước sôi lên chín phần mặt làm mầu đỏ máu phai đi thành mầu tái nhưng phần dưới vẫn còn máu nên Pháp ngữ gọi là saignant và thịt còn sống (chưa chín) nên Hán Việt là sinh.

Phần nước máu của thịt trụng nước sôi gọi là tái nước huyết, những người thiếu máu thường ăn vì cho là bổ máu.

.Nạm

Nạm là thịt vùng bên sườn (flank) dưới bụng

Nạm chia ra nạm sườn (dính vào xương sườn), nạm bụng, nạm bụng sau phía mông. Thịt có thớ và có đường gân, mỡ.

Việt ngữ nạm có một nghĩa là khảm, cẩn như nạm bạc, nạm vàng.Những dải gân-mỡ trắng trông như được cẩn, nạm vào miếng thịt.

Để dễ nhớ nên gọi là thịt nạm gân-mỡ.

Gầu Anh ngữ brisket point.

Gầu là phần thịt ngực dưới hay ứcnhìn từ trước là phần giữa hai chân trước. Anh ngữ gọi là brisket point. Người Bắc Âu gọi là gristle hay cartilage (sụn), Cổ ngữ Anh brushk, tough (dai).

Thịt gầu gồm hai lớp mặt và lớp dưới. Vì bò không có xương đòn gánh (quai xanh) thịt gầu phải chống đỡ khoảng 60% trọng lượng thân thể khi con vật đứng và di động. Vì thế gầu có một lượng mô liên kết (connective tissue) đáng kể.

Gầu thường cứng dai vì có nhiều thớ sợi giao (collagen). Collagen là thành phần chính của mô liên kết. Tùy theo độ khoáng hóa (mineralization), mô collagen có thể cứng (xương), mềm dẻo (compliant) như gân hay từ cứng tới mềm dẻo (sụn). Collagen thủy phân hóa (hydrolyzed) thành gelatin. Tên collagen phát xuất từ Hy Lạp ngữ kolla có một nghĩa là chất keo (glue). Việt ngữ cồn (dán) ruột thịt với Kol-. Nấu chất collagen trong da và gân thú vật để làm chất keo a giao (các họa sĩ dùng a giao tráng khung vải để vẽ tranh sơn dầu). Nấu xương, sừng, mai rùa làm cao (cao hổ cốt, cao ban long, cao qui bản) .

Tùy theo thành phần chất giao, cao của collagen và cách nấu với độ keo hóa (gelatinize) của collagen thịt gầu sẽ cứng, dai, mềm hay dòn. Gầu có một lớp mỡ mũ phủ ở trên (fat cap) nên trông giống nửa nạc nửa mỡ. Mỡ này giúp cho gầu không bị khô khi nướng và thêm vị ngậy béo.

Hàng phở gọi là mỡ gầu là gọi chung cả phần gầu và phần mỡ. Mỡ gầu đi chung với chất giao, mô liên kết nên là thứ mỡ dòn, ngậy, bùi và không hoi mùi mỡ nước bò. Hán Việt gọi là võng du. Tục ngữ có câu ‘Thứ nhất mỡ nầm, thứ nhì mỡ cối thứ ba mỡ gầu’.

Gầu cần phải nấu trong nước để thủy phân hóa collagen thành chất giao, cao.

Như vậy một miếng gầu ngon tùy vào thành phần của mô liên kết, vào lượng chất collagen, phải chọn thứ mềm như gân, dòn như sụn non có mũ mỡ béo ngậy, phải biết cách nấu đúng độ keo hóa, cao hóa (nấu lâu quá hóa dai), phải biết cắt vừa độ mỏng và phải có nước dùng ngon húp chung. Ăn vào thấy mềm dòn, dẻo như gân, sần sật như sụn non và béo, ngậy, thơm mùi mỡ gầu, vị ngọt, đậm đà của nước phở.

Hiểu rõ như vậy, thưởng thức một miếng gầu tuyệt cú mèo rồi thì ta sẽ hiểu nghĩa của từ gầu.

Ta có gầu là chất giao, chất cao, chất collagen. Theo biến âm g = c như gài = cài ta thấy gầu = cao = keo = cồn = kolla = collagen… Dân gian chẳng biết gì về mô liên kết, collagen nhưng thấy thứ thịt khi nấu nhừ có chất keo, cao thì gọi là gào, gầu.

Kiểm chứng thêm ta có từ gầu (dandruff) với nghĩa các vẩy trắng tróc ra ở da đầu. Một trong những yếu tố tạo ra gầu đầu là do chất dầu, sáp (sebum) do các tuyến chất này (sebaceous glands) tiết ra, khô lại, tróc ra thành các vẩy mỏng (flake, pellicule). Dân gian gọi là gầu đầu có thể nhầm chất dầu, sáp với chất keo của da đầu.

.Gân

Hán Việt cân, Anh ngữ tendon, ligaments.

Gân là dây, sợi, đường, vân như gân thịt xương, gân máu, gân gỗ…

Gân thịt xương là sợi dây chất collagen cột các bắp thịt vào xương hay xương vào xương… Theo g = c như gài = cài, ta có gân = Hán Việt cân.

Anh ngữ tendon có ten-, dây ví dụ:

.toenia, tenia, sán, sán sơ mít, lải, lãi, liên hệ với Hy Lạp ngữ tainia, băng, dây cột, Pháp ngữ cổ tenie, dây cột, dải băng cột đầu tóc, với Latin linea, lineus có nghĩa gốc là dải, dây làm bằng sợi cây gai. Toenia là loại ký sinh trùng ruột có hình dài và dẹp như dây, dải. Theo l = d = t, con lải, con lãi = con dải, con dây vì vậy Anh ngữ phổ thông gọi là tapeworm. Con lãi thân như dây, dải có đốt, các đoạn trông như sợi dây sên, dây xích (chain, Pháp ngữ chaine) nên gọi là con sên (khác với con ốc sên) con sán, hay sán sơ mít. Sán ruột thịt với sên.

.tennis, quần vợt là môn thể thao lúc mới đầu đánh quả banh qua một dải dây (sau là cái lưới) ở giữa sân.

.tentacle, vòi, tua.

.Sách

Hán Việt bách diệp, Anh ngữ Bible tripe, omasum, manyplies.

Sách là ngăn thứ ba trong bốn ngăn của dạ dầy loài nhai lại, Anh ngữ là Bible tripe, omasum, manyplies có nhiều nếp, phiến như trang giấy nên gọi là sách.

Sách thời sử xanh gồm nhiều thẻ tre trên viết chữ giống như những trang sách. Các thẻ này cũng gọi là sách.

Tiếng Anglo-Saxon bóc là vở, có nghĩa gốc là cây beech, tấm vỏ cây này dùng để viết, liên hệ với gốc Phạn ngữ bhag, bóc ra.

Điểm lý thú là từ bóc của Anglo-Saxon giống từ Việt ngữ bóc lấy vỏ cây làm vở, sách.

Theo b = v, có bo- của bóc, book = vở. Nguyên thủy vở làm bằng vỏ cây, lớp bọc của cây. Vở = vỏ. Book liên hệ với bhurgja, loại cây birch (cây phong), vỏ cây dùng làm giấy và với Phạn ngữ pusta, book.

Hán Việt sách còn có nghĩa là hàng rào hàm nghĩa bao, bọc, vây quanh. Với nghĩa này sách liên hệ với book /búc/ là bọc và vở có một nghĩa là vỏ, bao. Ta có từ vợ (chồng) ruột thịt với vỏ, lớp bọc, lớp áo, với vớ, bao chân, người Bắc gọi là bít tất có một nghĩa là bịt túc (che đậy chân). Vợ ruột thịt với vờ, xác bọc ngoài, con vờ phù du lột xác nên có câu xác như vờ. Vợ ruột thịt với vở nguyên thủy làm bằng vỏ cây… Như thế vợ là người có vỏ bao, có vớ bọc, có vờ, xác bọc thân, có vở, áo cây, nói chung lại vợ là người có túi, có nang, có Nường trong khi chồng có chông, có chống (gậy), có cọc…, có .

Sách gọi là lá sách chứ không gọi là tờ sách hay trang sách, Tại sao? Gọi lá sách là gọi theo các nhà nho, theo Hán Việt bách diệp, trăm lá.

Lá sách phải nấu thế nào khi ăn dòn chứ không dai như… quai guốc (một phần của túi bao từ loài nhai lại).

.Vè dòn.

Vè là vành như vè xe biến âm với wheel, bánh xe. Vè dòn là thịt vành nạm (skirt flank). Có hai loại vè dòn và vè dai, mềm.

.Ngầu pín.

Quảng Đông: ngầu pín, Hán Việt ngưu tiên, Anh ngữ bull pizzle.

Tiên ở đây không phải là người ở trên núi: ông tiên, bà tiên, nàng tiên. Hán Việt còn có những chữ tiên có nghĩa là nêu (cọc), mốc, roi… Cọc là cược, c…c. Vì thế tiên cũng có nghĩa là chim. Dân gian hay ngôn ngữ trẻ em gọi bộ phận sinh dục nam là chim. Qua từ đôi đồng nghĩa chim chóc ta có từ chim = chóc = cọc, cược (h câm). Thái ngữ nok = cọc là chim. Tiên có một nghĩa là chim trong ngôn ngữ của người Khả (Khmu) nói cùng hệ ngôn ngữ Môn Khmer với người Việt (Bình Nguyên Lộc, Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam, ông gọi là Khả Lá Vàng). Phở ngầu pín là phở cọc bò, nói cho thanh lịch là Phở chim bò.

Phở ngầu pín là món lôi hút mấy ông cần mà ngại xin toa bác sĩ viết cho Viagra thích ăn. Họa hoằn mới thấy một vài dương nữ ăn phở chim bò.

.Nước béo

Nước mỡ trên mặt nồi nước phở. Qua từ đôi hay từ láy béo bở ta có béo = bở. Thành tố láy ‘bở’ ở đây không phải là bở có nghĩa là dễ rời ra (khoai bở) mà chính là Pháp ngữ ‘beurre’. Bơ là một chất béo nên láy với béo. Bơ chính là Việt ngữ ‘bồ’ có nghĩa là chất béo như thấy trong các từ đôi bồ hòn, bồ hôi, bồ hóng, bồ kết… Theo b=m, ta có bồ hôi = mồ hôi, bồ hóng = mồ hóng… mồ chính là mỡ. Bồ hòn là “hòn bơ”, “hòn mỡ”, quả bơ, quả mỡ, thứ quả dùng làm xà phòng, Pháp ngữ gọi cây bồ hòn là ‘savonier’, Anh ngữ là ‘soapberry tree’; bồ hôi, mồ hôi do tuyến nhờn như dầu mỡ ở da tiết ra (có người có mồ hôi dầu) chính là ‘bơ hôi’, ‘mỡ hôi’; bồ hóng, mồ hóng là chất như dầu đen do khói đọng lại; bồ kết là quả ‘kết’ bơ, mỡ, dầu dùng gội đầu.

Nước béo là nước bơ, nước mỡ.

.Xí quách

Tiếng Quảng Đông xí quách là trư cốt, xương heo hầm làm nước lèo, sau nói rộng ra gọi chung cho xương hầm của tất cả các loài động vật khác.

Giang hồ gọi là món ‘cải mả’, ‘bốc mộ’ là món ưa chuộng của những người khoái gậm xương, mút tủy.

-Phờ Gà.

Dùng gà đi bộ hay gà trống thiến. Cái ngon chính của phở gà là cách luộc gà.

.Gà

Việt ngữ gà, Mường ngữ ca biến âm với cà, Hán Việt kê (chuyện con cà con kê, chuyện cà kê).

Gà trống với trống là chống (que nâng đỡ), chông (cọc nhọn), trống là đực, nọc (heo nọc là heo đực). Que, chống, chông, nọc, cọc (“Quân tử có thương thì đóng cọc, Xin đừng mân mó nhựa ra tay”, hay “Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không”, Hồ Xuân Hương). Con cọc là con cock, coq (Pháp ngữ) con cược, con c…c. Từ cock vì thế còn có nghĩa là bộ phận sinh dục nam.

Ta có từ đôi đồng nghĩa gà qué với gà = qué. Qué biến âm mẹ con với que. Theo qu = c= k (quộn = cuộn, quẽo quẹt = kẽo kẹt), con gà là con qué, con que, con ke. Ke có một nghĩa chỉ bộ phận sinh dục nam (Alexandre de Rhode, Từ Điển Việt-Bồ-La). Cổ ngữ Việt ké cũng có nghĩa là gà như “trói thúc ké” là trói ghịt cánh gà. Ké ruột thịt với kê (Hán Việt). Tóm lại con cock, con coq (Pháp ngữ) là con cọc, con c…c, con que, con qué, con ké, con nọc (đực, trống).

Có người thích ăn phở gà trống thiến mập béo nhiều mỡ.

Gà biến âm với ga- của gallinaceae, gallinae, loài gà, Latin gallina, gà mái, gallus, gà trống, Tây Ban Nha ngữ gallina, gà mái, gallo, gà trống, gallito, gà con, Bồ Đào Nha ngữ galinha, gà mái, galo, gà trống….

. Nước mắm Gừng.

Gà ăn riêng thường chấm nước mắm gừng.

Gừng là loại củ có hình sừng hươu nhiều nhánh (staghorn). Theo g = s như gội = sối, ông gầm = ông sấm, ta có gừng = sừng. Anh ngữ ginger, gừng có gốc Phạn ngữ çriđgavera, gừng, theo nghĩa đen có nghĩa là ‘hình sừng”, có çriđga, sừng và vera, vóc, dáng (çringa có çing- = sừng và vera = vóc). Ginger có ging- = gừng. Gừng và ginger ruột thịt với Phạn ngữ çriđga, çira, sừng.

Hán Việt Khương là sừng. Theo kh = s như khẽ = sẽ, khít = sít, khoang = soang = xoang ta có khương = sừng.

CÁC THỨ ĂN KÈM KHÁC.

Rau:

Giá

Đậu nha, bean sprouts.

Đậu nha là mầm đậu. Mầm đậu khi mới nhú ra mầu trắng trông như răng mới mọc nên gọi là nha (răng). Khi mọc dài ra giống răng voi (ngà voi). Theo biến âm kiểu nhà = gia, ta có nha (mầm đậu) = giá.

Nhìn kỹ ta thấy quả đúng giá trông giống ngà voi tí hon.

Có người ăn giá sống nhưng có người không thích vị tanh tanh của hạt đậu thích ăn giá trụng.

-Húng

Húng là hương (thơm). Húng lìu là hương liệu, vật liệu có mùi thơm. Lạc rang (đậu phụng, phọng rang) húng lìu.

Rau húng là rau thơm có:

./Rau mùi

Rau mùi là rau có mùi thơm. Mùi ta (coriander, cilandro) (khác với mùi Tây) còn gọi là ngò rí là một thứ rau thơm. Rau mùi ruột thịt với Phạn ngữ bhida, coriander, có bid- = mùi Trung Nam gọi là rau ngò.

./Húng quế

Húng quế ăn phở thường dùng húng quế mầu tím cay nồng. Anh Mỹ gọi là húng quế Thái (Thailand basil). Húng quế được chọn ăn với phở bò vì tính cay nồng mạnh che lấp đi mùi oi của thịt bò, mỡ bò và cũng hòa hợp với vị cay cay của quế trong nước lèo. Ở những nơi không có quế, hùng quế rất hữu ích trong phở bò.

Người Bắc còn gọi là húng chó vì ăn với tiết canh chó.

./Ngò gai

Lá có gai còn gọi là mùi Tây, thường ăn với phở gà vì mùi thơm nhẹ nhàng hơn húng quế. Có một loại húng quế chanh (lemon basil) có mùi thơm chanh ta có thể dùng ăn phở gà thay lá chanh.

-Tương đỏ, tương ớt.

Tương ớt ăn phở nổi tiếng là tương ớt hiệu Sri Racha làm bằng ớt hiểm (Scuds bird’s-eye chillies) của ông David Tran (Trần Đức) hãng thực phẩm Huy Fong (Huy Phong lấy theo tên con tầu rời Việt Nam năm 1979). Tên Sri Racha gần với tên tỉnh Si Racha, Thái Lan, là nơi cũng có món tương ớt nổi tiếng trong vùng (dĩ nhiên không có thương hiệu nào trùng tên với tương Con Gà của Hãng Huy Fong).

-Tương đen, tương phở.

Tiếng Quảng Đông Hoisin jiang có hoisin là Hải Tiên (Đồ Biển Tươi, fresh sea foods) và jiang, tương, nước chấm.

Tương đen hoisin lúc đầu làm với hải sản, đường mía, tỏi, dấm và ngũ vị hương, có khi làm với mắm ruốc. Về sau bỏ hải sản đi nhưng vẫn giữ tên hải tiên hoisin. Thật ra không phải làm ra để dùng cho đồ biển, ở nam Trung Quốc nguyên thủy dùng để xào và chấm các món thịt. Hoisin dùng trong thịt vịt Bắc Kinh, cuốn thịt heo, gà bằm (moo shu pork, chicken) và rồi người Việt miền nam dùng ăn phở.

Người Bắc chê dân Nam ăn phở với tương đen cho là làm mất hương vị phở Bắc chính cống Bà Lang Trọc. Dân Nam ăn phở với tương đen cũng có lý do. Phở miền Bắc xứ lạnh dùng rất nhiều hương liệu phở có những thứ ăn vào làm nóng người lên. Nếu ăn phở Bắc loại này ở miền Nam trời nóng ăn xong vã mồ hôi hột. Phở Nam vì thế ít hương liệu nồng nực nhiều khi phải dí mũi vào tô phở mới ngửi thấy mùi phở. Trong khi phở Bắc ở đầu đường đã ngửi thấy mùi phở. Vì vậy phở Nam phải ăn với tương đen có ngũ vị hươngtiểu hồi hương (fennel)… có những thứ có trong hương liệu phở [có hoa hồi (star anises), tiểu hồi hương, quế, thảo quả, hạt mùi, đinh hương] thay cho sự gia giảm hương liệu trong nước phở. Ở hải ngoại có nơi người Việt nấu phở bằng cách chế biến từ ngũ vị hương. Một điểm lợi nữa là người ăn có thể điều chỉnh hương vị phở theo ý mình thích. Trường hợp này cũng giống như ăn kèm với húng quế như đã nói ở trên. Dân di cư 54 vào Nam ăn phở Bắc nấu kiểu Nam trong đất Nam ăn kèm với tương đen và rau quế ít nhiều tùy theo nhiệt kế mỗi ngày ở trời miền Nam nóng bức, chẳng có gì là đáng chê. Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.

…..

Hiểu rõ chữ và nghĩa của các từ trong bát phở rồi thì khi ta gọi một tô phở loại nào nhìn vào bát phở là ta biết ngay có thật sự là thứ phở ta đã gọi không, là ta biết ngay tiệm phở đó có chuyên nghiệp, có ngon không, là ta biết ngay là phở thứ thiệt hay là phở phét, phở fake (fake có một nghĩa là phét, fake = phét, fake news là tin nói phét, phét lác, tin nói láo, láo phét)…

Đi tới đâu tôi cũng cố tìm nếm món phở. Ở tất cả những ngóc ngách thế giới mỗi khi thấy chữ Phở tôi đều ghé vào. Chờ ăn đủ 100 thứ phở thế giới sẽ viết một bài 100 Vị Phở Thế Giới.

Thứ Tư, 6 tháng 6, 2018

CÁI TÔI CỦA NGƯỜI VIỆT





Từ Thức



Tại sao cái tôi, cái ‘’ égo ‘’ của người Việt lớn thế ? Tôi gặp không biết bao nhiêu người vỗ ngực, tự cho mình là vĩ nhân. Không phải chỉ vỗ ngực, còn trèo lên nóc nhà gào khản cổ : tôi giỏi quá, tôi phục tôi quá, tại sao tôi tài ba đến thế ?

Một lần ngồi nhậu với 5 ông, có cảm tưởng ngồi với 5 giải Nobel văn chương. Những ông như vậy, nhan nhản. Nói ‘’ ông ‘’, vì hầu như đó là một cái bệnh độc quyền của đàn ông. Như ung thư vú là bệnh của đàn bà.

In một hai cuốn sách tào lao tặng bố vợ, nghĩ mình ngồi chung một chiếu với Marcel Proust, Victor Hugo. Làm vài bài thơ, câu trên vần (hay không) với câu dưới, nghĩ mình là Beaudelaire, Nguyễn Du tái sinh. Lập một cái đảng có ba đảng viên, kể cả em gái và mẹ vợ, nghĩ mình là lãnh tụ , ăn nói như lãnh tụ, đi đứng , tắm rửa như lãnh tụ. Viết vài bài lăng nhăng, đầu Ngô mình Sở, nghĩ mình là triết gia, trí thức, sẵn sàng dẫn dân tộc đi lên ( hay đi xuống ). Học gạo được cái bằng ( chưa nói tới chuyện mua được cái bằng ), nghĩ mình đã kiếm ra điện và nước nóng.



TÔI, TÔI, TÔI

Một ông bạn in một tấm danh thiếp khổ lớn, dầy đặc những chức tước, trong đó có ‘’ nhà nghiên cứu ‘’.. Những người quen không biết ông ta nghiên cứu cái gì, lúc nào. Tôi đáng nhận là nhà nghiên cứu hơn, vì thỉnh thoảng vẫn vào Google tìm mẹo trị mắc xương cá, hay cách nấu canh hẹ tầu hũ.

Nghĩ cũng lạ, cái TÔI to tổ bố ở một xứ như VN. VN, xứ của văn hoá Phật giáo, một tôn giáo coi cái ngã là hư cấu, cái tôi không có thực. Nơi chịu ảnh hưởng Lão giáo, những người đã ra suối rửa tai khi nghe thiên hạ nhắc tới tên mình. Nơi người công giáo thực hành đạo nhiệt thành, và Công giáo coi vị tha, nghĩ tới người khác, là đức tính hàng đầu.

Không lẽ người Việt không hiểu tôn giáo mình đang theo ?

Có ai đã gặp một người Nhật vỗ ngực : tôi, tôi, tôi. Nói chuyện với người Nhật, trong những cơ hội hơi chính thức, chưa gì họ đã mang giấy bút ra ghi chép. Làm như những điều bạn nói là khuôn vàng, thước ngọc.

TÔI LÀ CHÂN LÝ

Nước Việt nghèo , chậm tiến, lạc hậu. Đáng lẽ người Việt phải khiêm nhượng, biết người, biết mình. Nhưng không, trong tự điển cá nhân của người Việt không có chữ khiêm tốn. Nhiều lần tôi gân cổ cãi với bạn bè, về nhà nghĩ : không chừng nó có lý. Tại sao không nhìn nhận ngay ? Bởi vì cái tôi nó lớn quá.

Ở đâu cũng có những cái tôi, nhưng ở người Việt, nó đạt một tỷ số đáng ngại. Mỗi lần, hiếm hoi, gặp một người đồng hương có khả năng nhưng khiêm tốn, tôi nghĩ bụng : ông nội này mất gốc rồi.

Thảo luận với người Việt rất khó, vì ai cũng nghĩ là mình nắm chân lý trong tay. Nghĩ khác là xúc phạm ông ta, xúc phạm Chân lý, bôi nhọ sự thật. Phải căm thù, phải tiêu diệt, phải triệt hạ, phải tố cáo , chụp mũ.

Cái tôi lớn, phải chăng đó là nét đặc thù của một dân tộc đầy tự ti mặc cảm ? Trong cái kiêu hãnh lố bịch của người ‘’ mang dép râu mà đi vào vũ trụ ‘’ có cái tự ti của những người vẫn mang dép râu ở thế kỷ 20, 21.

Trong y học, égocentrisme là một cái bệnh, pathologie . Và trong 9 trên 10 trường hợp, những người có mặc cảm tự cao, tự đại ( complexe de supériorité ) là để che đậy tự ti mặc cảm ( complexe d’infériorité ).

Những người có thực tài rất khiêm nhượng, vì họ không so sánh với người khác.. Họ so sánh mình với mình, so sánh mình hôm nay với mình hôm qua, so sánh tác phẩm mới với tác phẩm cũ của chính mình. Và thường thường thất vọng.

Khi một nghệ sĩ thoả mãn với tác phẩm của mình, anh ta hết là nghệ sĩ. Anh ta không tìm tòi nữa, anh ta về hưu. Như một công chức, một tài xế xe đò về hưu.

ĐÈN DẦU VÀ ĐÈN ĐIỆN

Thomas Edison nói nếu hài lòng với đèn dầu, tìm cách cải thiện đèn dầu, sẽ không bao giờ kiếm ra đèn điện. Người Việt ta dễ thoả mãn quá, dễ kiêu hãnh quá, dễ ‘’ tự sướng’’ quá. Hậu quả là cái gì của ta nó cũng nho nhỏ. Cùng lắm là xinh xắn, dễ thương, nhưng đồ sộ, vĩ đại thì không có. Không thể có. Tham vọng nhỏ, thành quả nhỏ.

Pablo Picasso khi thành công, được ca tụng ở ‘’période rose ‘’ ( thời kỳ hồng ), nếu thỏa mãn, sẽ không có ‘’période bleue’’, thời kỳ xanh. Nếu thoả mãn với ‘’période bleue ‘’ sẽ không có tranh trừu tượng, đưa hội họa đi vạn dặm. Một giai thoại : Picasso mời bạn bè ăn tiệm. Cuối bữa ăn, gọi tính tiền. Chủ tiệm nói xin miễn chuyện tiền bạc, được tiếp Picasso là hân hạnh rồi. Pablo vẽ vài nét trên tấm khăn phủ bàn, tặng chủ tiệm. Ông này nói xin maître ký tên. Picasso trả lời : tôi chỉ trả bữa cơm, không muốn mua tiệm ăn.

Nếu Picasso là người Việt, sẽ thấy đời mình đã quá đủ để thoả mãn : vua biết mặt, chúa biết tên, chữ ký đáng ngàn vàng, chỉ việc ngồi hưởng và chiêm ngưỡng dung nhan mình. May mắn cho hội họa, ông ta là người Tây Ban Nha, hỳ hục tìm tòi cho tới chết.

Mỗi lần nghe, hay coi Jean Marie Le Clézio, Patrick Modiano trong những chương trình văn học trên France Culture, hay trên France 5, ít người nghĩ họ đã chiếm giải Nobel Văn chương.

Họ khiêm nhượng, ngập ngừng, do dự, gần như cáo lỗi sắp sửa nói những điều tào lao.

Le Clézio, Nobel 2008, khoanh tay, chăm chú nghe một tác giả vừa chân ướt chân ráo vào nghề, nói về một cuốn sách đầu tay. Modiano, Nobel 2014, tìm chữ một cách khó khăn, ngượng ngập, ít khi chấm dứt một câu, như muốn nói : thôi, bỏ qua đi, những điều tôi muốn nói chẳng có gì đáng nghe. Ông ta thực sự ngạc nhiên không hiểu tại sao có người nghĩ đến mình để trao giải. Ông ta nói có người đọc sách của mình đã là một phép lạ.

NGƯỜI VÀ TA

Những năm đầu ở Pháp, có thời tôi cư ngụ Rue Marcadet, Paris. Bên cạnh là một cặp vợ chồng già, hiền lành, bình dị như một cặp thư ký hay công nhân về hưu. Mỗi lần gặp ở thang máy, bà vồn vã chào, hỏi thăm đủ chuyện. Thỉnh thoảng ông mời vào nhà, uống trà, hỏi chuyện về Phật giáo mà ông nói đọc nhiều, nhưng có điều không hiểu. Thí dụ ông muốn so sánh khái niệm về Niết bàn của Phật giáo với thiên đàng của Thiên Chúa giáo.

Ông là một người công giáo thuần thành, nhưng muốn tìm hiểu về những tôn giáo khác.

Tuyệt nhiên không bao giờ ông bà nói về mình. Nếu không coi TV , chắc không bao giờ tôi biết bà là Yvonne Loriot, danh cầm hàng đầu của Pháp, chiếm giải nhất 7 lần khi học ở Conservatoire de Paris, trước khi trở thành một giáo sư âm nhạc có uy tín.

Ông là Olivier Messaien, một trong những tác giả nhạc cổ điển lớn nhất của hậu bán thế kỷ 20.. Rất nhiều các nhạc sư, nhạc trưởng nổi tiếng ở Âu Châu , như Pierre Boulez, Iannis Xenakis hãnh diện là đệ tử của ông. Tác phẩm opéra ‘’Saint-Francois d’Assise‘’ của ông được trình diễn trên khắp thế giới, được đón nhận như những tác phẩm của Mozart, Beethoven..

Ông bà sống trong một căn nhà bình dân, ăn uống đơn giản như một cặp vợ chồng nghèo. Tiền bản quyền nhạc đem tặng- một cách kín đáo- các hội từ thiện, hay giúp trùng tu nhà thờ Notre Dame de Lorette gần nhà. Những lúc rảnh rỗi, bà theo ông vào rừng, thu thanh để nghiên cứu tiếng chim hót.

Ai biết hai ông bà già, lễ độ, gần như vụng về, đang xếp hàng mua ổ bánh mì, là những nhân vật chiếm chỗ lớn trong bất cứ một tài liệu nào về âm nhạc cổ điển cận đại , tuần trước còn là thượng khách của hoàng gia Thụy Điển.

Khi nào ta có những người như Modiano, Le Clézio, Messaien- chưa nói tới tài năng, chỉ nói tới thái độ khiêm tốn – VN sẽ là một dân tộc trưởng thành. Trong khi chờ đợi, chúng ta tiếp tục leo lên nóc nhà, gào : tại sao tôi tài giỏi quá như vậy. Khi gào mỏi, leo xuống, đóng áo thụng vái nhau.

Đó cũng là một trò vui, nếu hậu quả không nghiêm trọng. Chúng ta đều đồng ý với nhau là đất nước đang trên bờ vực thẳm, không thể nhẫn tâm khoanh tay nhìn. Nhưng chúng ta không ngồi nổi với nhau, vì cái TÔI nó lớn quá. Lớn hơn cả vận mệnh dân tộc..

Từ Thức

( Paris, tháng 10. 2017 )

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2018

CUỘC XÂM LĂNG THẦM LẶNG CỦA NGƯỜI TÀU.


Nguyễn Thuỳ Trang

Mỗi tháng người Trung Quốc tới Nha Trang hơn 150 nghìn người và Đà Nẵng hơn 100 nghìn người. Chỉ nội 2 thành phố Nha Trang và Đà Nẵng đã có hơn 250 nghìn lượt du khách TQ sang VN mỗi tháng, vượt qua con số 2.7 triệu người TQ đến VN trong năm 2016.

Nha Trang và Đà Nẵng có gì đẹp để người TQ phải đến!
Trên thực tế, TQ có nhiều khu vực biển rất đẹp mà không cần phải tới VN để du lịch.Mục đích của Trung Quốc là di dân tới Việt Nam và đây là sự thật phủ phàng cho đất nước VN chúng ta.

Tại Nha Trang và Đà Nẵng, mỗi tuần có hằng chục người Trung Quốc làm thủ tục cưới vợ VN và con số này đang tăng nhanh đến chóng mặt.

Theo quy định Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân được coi là tài sản chung, do đó người Trung Quốc chỉ cần đưa tiền nhờ người vợ sắp cưới mua nhà, sau đó làm giấy hôn thú thì người Trung Quốc sẽ được quyền sở hữu căn nhà đó cùng với vợ ngay tại Việt Nam.

Đây là cách lách luật của người Trung Quốc qua mặt Nghị định số 99/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật Nhà ở.

Nếu tính đúng thì con số người Trung Quốc di dân sang Việt Nam từ năm 2012-2018 có hơn 100 nghìn người ở Nha Trang và 70 nghìn người ở Đà Nẵng – và toàn quốc VN tính chung có gần nửa triệu là con số chính thức.

Theo thống kê năm 2012 dân số VN có 90 triệu nhưng trong năm 2013 dân số tăng nhanh chóng hơn 1 triệu người với kỷ lục 1.16% hệ tăng, Và năm 2018 thì Việt Nam có hơn 5 triệu người so với năm 2012 tức hơn 96 triệu người.

Từ năm 1984 tới năm 2008 thì dân số VN chỉ có hệ tăng dân số tối đa là 0.95% nhưng từ khi người TQ di dân tới VN qua con đường hôn phối đã nâng số hệ tăng dân số VN lên tới con số 1.26% hệ tăng như hiện nay tức tăng hơn 5% mỗi năm so với dân số hiện tại.

Dân số bất chợt tăng 5% là con số khá rõ để nhìn thấy cuộc xâm lược không tiếng súng của người Trung Quốc.

Qua thống kê của nhà nước thì người Trung Quốc ở VN là 823,071 người, tuy nhiên con số người Trung Quốc sử dụng trong hôn thú là Trung Quốc gốc Tày, Trung Quốc gốc Thái, Trung Quốc gốc Mường, Trung Quốc gốc Khmer, Trung Quốc gốc Nùng, Trung Quốc gốc Mong … tổng cộng ở VN là 21 triệu người.

Với chiêu thức mập mờ đánh lận “dân tộc thiểu số” trá hình này thì người Trung Quốcvới sự tiếp tay của cán bộ tham nhũng địa phương đã di dân sang Việt Nam từ 2008-2018 có hơn 20 triệu người (không chính thức), bằng tổng số 1/5 người Việt Nam, tuy nhiên Tổng cục Thống kê vẫn không nhìn thấy được vấn đề này.

Nguyễn Thùy Trang

Thứ Bảy, 27 tháng 5, 2017

Người Việt Nam từ đâu đến?






Trương Thái Du 


Đất phát tích của văn minh Việt Nam hiện đại là châu thổ sông Hồng. Trước công nguyên nó vốn hoang sơ, vì cách đó 2.000 năm toàn bộ gánh lúa bắc bộ nằm dưới mực nước biển. Hồ Lãng Bạc, nơi Hai Bà Trưng quyết chiến với Mã Viện chắc chắn đã được sa bồi trong hoàn cảnh nước rút để tạo ra nền móng cho Hà Nội.

Người Việt Nam ngày nay chủ yếu là con cháu cư dân hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Cuối thời Tây Hán dân số hai nơi đó là 120.230 + 166.013 = 286.243 người. Năm 1932 Tản Đà viết: “Dân hai nhăm triệu ai người lớn. Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con.” Có tài liệu khác dẫn con số nhỏ hơn là 17,702 triệu người. Nghĩa là sau 1932 năm, dân số Việt Nam tăng từ 61,8 đến 87,33 lần. Theo một tài liệu tổng hợp nghiên cứu lịch sử dân số Trung Quốc[1], tỉ lệ tăng của họ trong khoảng tương đương với Việt Nam chỉ là 8,3 lần (500 triệu/60 triệu).

Mặt khác tỉ lệ tăng dân số Việt Nam sau hơn 2000 năm thấp hơn 3,5 lần tỉ lệ tăng dân số của quận Nam Hải thời Tây Hán, tức Quảng Đông ngày nay.
Đối tượng so sánh Dân số thời Tây Hán Dân số năm 2015 Tỉ lệ tăng
Việt Nam 286.243 92.000.000 321,4 lần
Quảng Đông 94.253 108.500.000 1.151,1 lần


Nếu ở Quảng Đông người ta chắc chắn sự tăng dân số kinh khủng như vậy là do dòng nhập cư bắt đầu từ đời Hán, 94.253 khẩu Tây Hán, đã vọt lên 250.212 khẩu thời Đông Hán. Con số ở Việt Nam phức tạp hơn, đòi hỏi các nghiên cứu sâu rộng và chính xác hơn, cũng như tham khảo kỹ lưỡng khoa học di truyền. Quyển sách này chỉ xin gợi ý vai trò của người di cư với cơ cấu dân số nói riêng và văn hóa lịch sử Việt Nam nói chung.

Dân gian Việt Nam hay nói: “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu”. Điều này không chắc đã sai, dù từ lúc Hai Bà Trưng bỏ mình đến khi Ngô Quyền xưng vương là chưa đến 900 năm. Nó đơn giản chỉ là thứ ca từ của dòng nhạc sến rẻ tiền, rên rỉ, sản phẩm của tư duy âm tính yếm thế, nhược tiểu. “Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu” khóc lóc gợi ý sự thương hại của tha nhân trên cơ sở bản ngã yếu hèn. Do đó đầu tiên nó phản bội Trưng Trắc và Trưng Nhị, hai bà mẹ kiêu hùng của lịch sử Việt Nam, thà chết chứ không đầu hàng cường tặc. Bất cứ sử gia hạng bét nào trên thế giới cũng có thể đặt câu hỏi: Tại sao không phải là một ngàn năm đánh đuổi giặc Tàu?

Tuy vậy “nô lệ” hay “đánh đuổi” thực ra đều phiến diện. Nếu từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ mười, mảnh đất Việt Nam không dang tay bác ái với những người di cư yêu tự do và lao động, với các vị Hán quan lương thiện đã chọn quận Giao Chỉ và Cửu Chân làm quê hương, không tiếp thu Phật giáo đến từ biển, không học hỏi văn minh Hán; họ có thể tự cường để giành độc lập và kiến quốc được không?

Một lần nữa chúng tôi xin nhắc đến thuyết âm dương cổ điển, hay nhị nguyên đối lập như ngày nay người phương Tây định nghĩa: Nhân loại thích gọi thời gian có mặt ngắn ngủi của mỗi cá nhân trên địa cầu là đời sống, mặc dù sống là hành trình đi đến cái chết, chết vô biên mà sống thì hữu hạn. Người lạc quan và có tiền đồ thấy nửa ly nước sẽ bảo nó đầy một nửa, kẻ bế tắc luôn khẳng định đã vơi gần hết.

Theo quan điểm của chúng tôi, người Kinh ở Việt Nam hiện nay hình thành bởi ba nguồn gene và văn hóa:

1. Từ Dạ Lang, liên minh các bộ tộc Lạc Việt trong địa bàn các tỉnh Quảng Tây, Quý Châu, Hồ Nam và Vân Nam hiện nay. Ở đỉnh cao nhất trong lịch sử phát triển của mình, thủ lĩnh Dạ Lang đã xưng vương, xây dựng thành quách, cung điện và những cơ cấu chính trị xã hội tiền phong kiến. Xung đột Dạ Lang và Ba Thục ở Hoa nam trước Công nguyên đã phản ánh vào truyền thuyết An Dương vương. Bắt nguồn từ Dạ Lang, ngôn ngữ Việt gọi quốc gia là nước, ký ức xa nhất là 3.400 năm từ thời bị giặc Ân đánh ở Hồ Bắc và Hồ Nam vẫn tồn tại trong truyện cổ tích Thánh Gióng. Người bản địa Lạc Việt ở châu thổ sông Hồng và người Dạ Lang ở Cửu Chân được ghi nhận rất rõ ràng trong Hán sử. Nó chứng thực về mặt chủng tộc và văn hóa, người Việt cổ và người Dạ Lang rất gần gũi. Truyền thuyết Dạ Lang cho rằng một trong những dòng vương hầu của họ có cùng tổ tiên với các vua Sở, mười tám đời vua Hùng bước ra từ đây. Âm Hùng chính là họ của vua Vàng thần thoại Trung Hoa và cũng là họ gốc của cao tổ hoàng gia Sở quốc.

2. Từ nước Việt thời Chiến Quốc. Sau khi suy tàn, quý tộc nước Việt một thời xưng bá ở Trung Nguyên trôi dạt dần về phương nam, đến Mân Việt (Phúc Kiến) rồi Nam Việt (Quảng Đông). Sau năm 111 BC họ lại tiếp tục những cuộc hải hành khó khăn đi về phương nam tìm kiếm tự do và ghé vào trước hết là Cửu Chân, sau đó mới đến quận Giao Chỉ. Họ mang theo totem rái cá và tục thờ chó xa xưa của tổ tiên mình, xâm mình, nhuộm răng đen và ăn trầu theo đó mà đi vào văn hóa Việt Nam. Lịch sử chủng Việt Chiến Quốc kéo dài từ 2.500 đến 3.000 năm.

3. Từ chính Trung Hoa, nguồn gene và văn hóa Hán trong quan binh viễn chinh, tù chính trị bị lưu đày. Họ trấn đóng ở quận Giao Chỉ và Cửu Chân đời này sang đời khác hơn một ngàn năm. Chưa kể quan lại Bách Việt gốc Hoa và người lai giữa Hoa tộc với Bách Việt tộc di cư xuống. Họ khiến ngôn ngữ Việt xuất hiện rất nhiều từ đẳng lập Hán Nôm như Chia Ly, Thân Mình, Hiền Lành, Quái Gở… Hơn nữa, những đợt di dân cách nhau hàng trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm sẽ làm phát sinh những từ ghép đẳng lập Hán Việt – Hán Việt nhưng một âm là Hán cổ đã Việt hóa và biến đổi giọng đọc, và một âm Hán trung đại, như Hận Thù, Tranh Đấu, Hoan Hỉ[2]… Đáng kể nhất là tiềm thức của gene Hán có đúng 4.000 năm lịch sử! Nó sẽ phủ nhận bằng trực giác và cảm tính bất cứ luận chứng nào cho rằng lịch sử mảnh đất Việt Nam không thể dài đến mức ấy.

Lịch sử Việt Nam nên được nhìn bằng tư duy tích cực và thấu hiểu bản chất tương hợp biện chứng của văn hóa và di truyền. Sử học giành độc lập dân tộc đầu thế kỷ 20 đã thần thoại hóa cổ sử để xây dựng các biểu tượng siêu nhiên, nhằm động viên đại chúng và trao cho nhân dân sức mạnh tinh thần của cha ông họ. Tuy là bước lùi so với Khâm Định Việt Sử của nhà Nguyễn, nhưng nó đã giúp người Việt đồng lòng đứng dậy cởi ách nô lệ. Đáng lẽ sử học Marxist sau đó phải trở về với hiện thực, song họ không làm thế. Học thuyết thoát Hán (de-Sinicization) đã được thiết kế công phu bởi nhu cầu địa chính trị, tầm nhìn chỉ năm bảy chục năm. Sách sử tiếp tục huyền thoại hóa, bản địa hóa, tín ngưỡng hóa cổ sử, bất chấp mọi hậu quả. Phong trào bài Hoa – thoát Trung điên cuồng ngoài xã hội hiện nay là gì, nếu không phải sản phẩm của sử học chính thống Việt Nam, bắt đầu bằng Trần Trọng Kim – một trí thức uyên bác nhưng chấp nhận làm tay sai thực dân và sau đó là con rối của Phát Xít Nhật. Việt Nam Sử Lược là quyển sử bằng quốc ngữ đầu tiên nhưng hết sức phi khoa học và thiếu trung thực: Đưa hết truyền kỳ cổ tích hoang đường vào cổ sử, kéo lịch sử Việt Nam đến tận năm 2.897 BC. Trắng trợn biện hộ cho quá trình xâm lược Việt Nam của người Pháp, bẻ cong tất cả những sự kiện liên quan đến các quan Tây dù mới chỉ xảy ra vài chục năm.

Những sử gia chân chính và các nhà chính trị có tầm nhìn nên hiểu nguy cơ tự cô lập, bế quan tỏa cảng từ thời Minh Mạng – Tự Đức đang có khả năng hồi sinh ít nhất là trong dư luận xã hội. Biết đâu một lần nữa nó lại đưa cả dân tộc trở về những năm tháng đen tối, nếu không kịp thời hóa giải.

Cách đối xử với quá khứ của mỗi dân tộc sẽ định hình tương lai chính họ. Nếu yêu chuyện cổ tích hơn các bài học thực tế, họ sẽ chỉ gặt hái được những giả tưởng và ảo ảnh mà thôi./.

——————————————————————–

[1] http://www.china-profile.com/data/fig_pop_0-2050.htm

[2] Tham khảo: http://dvtuan63.blogspot.com/2013/07/nguon-goc-tu-kep-han-viet-viet-ong-nghia.html

Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2016

CHIẾC CHÉN KỲ DIỆU- CHÉN KHỔNG TỬ







Được nhiều người biết đến với cái tên chén “Khổng Tử”, món cổ vật quý giá của dòng họ Lê tại nhà cổ Tấn Ký, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam là một minh chứng điển hình cho sự uyên thâm, sâu sắc của người xưa.
Chén cổ bí ẩn

Đến thăm nhà cổ Tấn Ký tại số nhà 101 Nguyễn Thái Học, thành phố Hội An, ngoài lối kiến trúc cổ kính độc đáo được lưu giữ gần như trọn vẹn suốt 200 năm, điều làm nhiều du khách trầm trồ không dứt chính là bộ sưu tập chén bát, đĩa, bình cổ lên tới hàng trăm chiếc được gia đình nhà họ Lê – chủ nhà Tấn Ký trưng bày, giới thiệu. Giữa hàng trăm món cổ vật giá trị, chiếc chén “Khổng Tử” nổi bật lên như một món bảo vật quý của dòng họ. Nước men không quá đặc biệt, “tuổi đời” cũng không hẳn cao hơn những cổ vật khác, sự độc đáo của chiếc chén cổ nằm ở công năng kì lạ chưa ai giải thích được, cũng như những bài học thâm trầm theo thời gian năm tháng của người xưa.

Theo lời bà Tân Xuân, dâu đời thứ 6 của tộc Lê, món cổ vật quý của gia đình được cụ tổ sưu tầm được từ hơn 200 trước. Trước khi được một chuyên gia về đồ cổ của Nhật giúp xác định niên đại và tìm hiểu lai lịch, chiếc chén nhỏ được gia đình gọi là chén “tám phần” hay chén không đầy. Cái tên đơn giản, nhưng bật lên được sự độc đáo lạ kì ẩn chứa đằng sau vật quý.

Thoạt trông, chiếc chén cũng giống như những chiếc chén uống trà, uống rượu thông thường khác, chỉ lạ hơn chút xíu ở bức tượng hình ông tiên nhô lên giữa lòng chén. Ngay dưới chân ông tiên là một lỗ thoát nước nhỏ thông với đáy chén phía ngoài. Đây cũng là nơi cất giấu những mấu chốt của bí mật, là nguồn gốc cho những điều thêu dệt kì bí về những bí mật ẩn giấu đằng sau chiếc chén cổ của người xưa.

Chiếc chén “Khổng Tử” rót nước mãi mà vẫn không đầy



Chiếc chén “Khổng Tử” kỳ lạ rót nước không đầy.

Trước cái nhìn ngạc nhiên pha lẫn nghi ngờ của chúng tôi, bà Tân Xuân quyết định lấy chiếc chén ra “biểu diễn”, một việc rất hiếm khi xảy ra bởi gia đình chỉ đem chén “Khổng Tử” ra trong những dịp đặc biệt. Vừa từ từ rót nước vào chén, bà Xuân vừa giải thích: “Chén có tên là chén tám phần bởi nó chỉ chấp nhận… 8 phần nước, rót nhiều hơn chút là nó đổ đi ngay”. Mực nước lên đến 8 phần chén, ngập khoảng đến cổ ông tiên, bà dừng lại, nước vẫn được giữ trong chén bình thường. Nhưng, khi bà Xuân vừa nghiêng tay châm thêm chút xíu, như có phép lạ, nước trong chén ồ ạt chảy ra ngoài qua cái lỗ nhỏ dưới chân bức tượng. Thoáng chốc, cái chén đã rỗng không.

Chiếc chén “Khổng Tử” rót nước mãi mà vẫn không đầy

Điều nhiều người thắc mắc là, tại sao cũng cái lỗ đấy mà khi đổ “tám phần” nước vào mà nước không chảy, nhưng chỉ thêm chừng “nửa phần” nữa là nước bị chảy đi, mà chảy đi bằng hết, làm chén rỗng không chứ không phải chảy một phần nhỏ bằng với lượng nước châm thêm vào?

Lời dạy của cao nhân

Theo những lời giới thiệu của gia đình họ Lê với du khách xa gần, chiếc chén quý của gia đình có nguồn gốc từ Trung Hoa, do cụ tổ mua được từ những thương nhân bên đó sang buôn bán. Đây là món đồ gắn liền với vị triết gia nổi tiếng “Khổng Tử”. Tương truyền, trong một lần đi qua sa mạc, “Khổng Tử” vừa đói vừa khát tưởng chừng sắp chết. May mắn thay, ông gặp một ông lão và được dẫn tới một ao nước, cho một cái chén để múc nước uống. Đương lúc khát khô, “Khổng Tử” xuống múc một chén nước đầy nhưng vừa đưa đến miệng thì nước chảy sạch đi không còn giọt nào. Sau vài lần như thế, ông hiểu ra rằng muốn uống được nước thì chỉ múc lưng chừng. Về sau, “Khổng Tử” hình thành nên thuyết Trung dung, chủ trương con người phải biết kiềm chế hành vi, giữ mình ở trạng thái trung hòa, không thái quá. Nội dung thuyết này khá khó hiểu với người đời, nên các môn đệ của ông đã làm ra chiếc chén không đầy như trên để người đời dễ hiểu và làm theo.

Giữ mình vừa phải, tránh sa vào những suy nghĩ thái quá, cực đoan mà dẫn tới những điều không hay, những hành động không đúng mực… là bài học thâm trầm được người xưa khéo gửi gắm trong chiếc chén cổ. Có ít, vừa phải thì đủ để tận hưởng, nhưng tham lam quá thì lắm khi lại trở về con số 0, như dòng nước trôi tuột đi không cảm xúc. Theo một chuyên gia Nhật Bản được gia đình họ Lê nhờ xác định niên đại, chiếc chén “Khổng Tử” có từ 550-600 năm về trước. Như vậy là từng ấy thời gian, những bài học uyên thâm đó lặng lẽ đi cùng năm tháng, trải qua bao luân lạc thăng trầm cùng chiếc chén rồi đến tay và nằm yên vị trong những món đồ gia bảo của một tộc họ lâu đời bên bến sông Hoài.

Nguồn : http://www.dauxua.com/

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2016

5 mỏm đá "hút người" ở Việt Nam


(TTVH) - Nếu bạn có niềm đam mê mãnh liệt với việc chinh phục độ cao, thì 5 mỏm đá dưới đây là điểm đến lý tưởng cho bộ sưu tập “lòng can đảm” của bạn.

Không cần phải đi vòng quanh thế giới mới có thể gom được những khoảnh khắc để đời. Chỉ cần xách ba lô lên và đi. Bạn sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của 5 mỏm đá siêu cao, siêu ảo diệu và siêu “chất” trên dải đất hình chữ S xinh đẹp này.

Đảm bảo khi đã đặt chân đến đây, bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc vô cùng vì đang được tận hưởng tuổi trẻ tuyệt vời của mình!

+ Mỏm đá Mã Pí Lèng (Hà Giang)

< Mã Pí Lèng ở đây muốn chỉ đỉnh núi cao như sống mũi con ngựa hoặc nói về sự hiểm trở của vùng đất này. Mỏm đá từng khiến người ta “rùng mình” vì thích thú với cảnh vật quá hoang sơ, thuần khiết và hùng vĩ đến choáng ngợp. 
Dulichgo
Vùng núi phía Bắc là nơi có những con đường đèo quanh co, men theo vách núi cực đẹp và nguy hiểm.

< Hiện mỏm đá Mã Pí Lèng đã không còn được như xưa khi có sự can thiệp cải tạo của bàn tay con người.

Một trong những điểm đến từng làm người ta nôn nao, mong có lần được đặt chân đến đó là mỏm đá nằm cheo leo trên đèo Mã Pí Lèng (Hà Giang).

+ Mỏm đá trên đỉnh Pha Luông (Mộc Châu)

< "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".

Pha Luông chính là địa danh được nhắc đến trong bài thơ Tây Tiến, với cảnh vật hùng vĩ và hoang sơ của núi rừng Tây Bắc.

< Đây là nơi nhiều người đến ghi lại những bức ảnh để đời và cực nghệ thuật.
Dulichgo
Cách Mộc Châu khoảng 70km, đỉnh núi Pha Luông nằm ở độ cao 1500m là nơi nhiều người đến ghi lại những bức ảnh để đời và cực nghệ thuật. Hành trình tìm đến đỉnh núi không quá dài, tuy nhiên có những đoạn rất khó đi, khiến người muốn chinh phục lại càng cảm thấy thú vị.

+ Mỏm đá Tà Xùa (Yên Bái)

< Mỏm đá Tà Xùa trông như một cái đầu rùa đang thò ra khỏi mai.

Núi Tà Xùa thuộc xã Bản Công, huyện Trạm Tấu (Yên Bái). Quả núi có 3 đỉnh mường tượng như sống lưng của một con khủng long thời tiền sử này, được xem là ranh giới tự nhiên giữa Yên Bái và Sơn La.

< Đỉnh cao nhất có độ cao 2865m và là đỉnh núi xếp thứ 10 trong 10 đỉnh núi cao nhất Việt Nam.
Dulichgo
Rất nhiều người tìm đến đây để chinh phục 3 đỉnh Tà Xùa và đặt chân đến mỏm đá nằm giữa núi rừng bao la hùng vĩ. Và để làm được điều đó, chỉ niềm đam mê và lòng can đảm thôi chưa đủ, mà bạn còn phải có đủ sức lực để chinh chiến trong khoảng ba ngày hai đêm ở vùng núi này.

+ Mỏm đá Đồng Cao (Bắc Giang)

< Đây là điểm đến tuyệt vời cho ngày cuối tuần của du khách đến từ Hà Nội.

Cách Hà Nội khoảng 150km, đây là điểm đến lí tưởng cho những ai muốn rời xa khói bụi thị thành, tìm đến nơi được hòa mình cùng thiên nhiên trong lành.

< Không gian bao la, rộng lớn nơi đây khiến du khách cảm thấy rất thích thú và tuyệt vời.
Dulichgo
Không gian bao la, rộng lớn nơi đây khiến du khách cảm thấy rất thích thú và tuyệt vời. Sự mênh mông, cao vời vợi và màu xanh hòa quyện giữa đất trời, cây cối luôn làm cho tâm hồn con người cảm thấy nhẹ tênh.

+ Mỏm đá Thạch Thất (Hà Nội)

< Bạn có thể đưa mắt nhìn xa khơi để cảm nhận sự bao la và hùng vĩ khi đứng trên mỏm đá nằm cheo leo đỉnh núi này. Đây là nơi mà giới trẻ dễ dàng tạo cho mình những bức ảnh sống ảo cực "chất". 

Cách Hà Nội không quá xa và đường đi không quá khó, mỏm đá này được giới trẻ tìm đến “sống ảo” khá nhiều.

Từ đây, quan sát cảnh vật xung quanh, bạn sẽ cảm nhận nó chẳng khác nào là một bức tranh được chấm phá bởi bàn tay mẹ thiên nhiên.

Theo PV (Thể Thao Văn Hóa)
Du lịch, GO!

Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2016

Hiếm có Việt Nam: Thị trấn 600 tỷ phú, lái ôtô dạo thăm bò




Tác giả: Bảo Phương


Ở thị trấn Nông trường Mộc Châu có khoảng 600 hộ nuôi bò thì cả 600 hộ này giờ đều là tỷ phú. Chỉ nhờ nuôi bò sữa mà thu nhập trung bình của các hộ dân ở mức 35-40 triệu đồng/tháng, hộ nuôi nhiều còn thu tới 200 triệu/tháng.
Làng tỷ phú: ở biệt thự, đi xe biển Lào
Chuyện hiếm Vĩnh Phúc: Cả làng cùng nhau mua ôtô

Lãi tới 200 triệu/tháng

Khác hẳn với hình ảnh nghèo đói, khó khăn của những xã miền núi khác, về thị trấn Nông trường Mộc Châu – một huyện của tỉnh miền núi Sơn La – thấy nhà cao tầng mọc lên san sát. Dân thị trấn bây giờ không còn cưỡi ngựa, đi xe đạp mà chuyển sang đi xe máy, sắm xe hơi.

Dẫn chúng tôi vào thăm trang trại bò sữa của gia đình, ông Dương Văn Nội ở thị trấn Nông trường Mộc Châu, khoe: “Trang trại bò này của nhà tôi rộng khoảng 2,4ha, đang nuôi 76 con bò sữa các loại, giá trị khoảng 8 tỷ đồng”.

Ở thị trấn Nông trường Mộc Châu hiện có khoảng 600 hộ nuôi bò sữa


Ông Nội chia sẻ, trước kia cuộc sống khổ cực lắm, có thời gian ông còn phải đi làm thuê cho các chủ trại bò khác. Thu nhập cực kỳ bấp bênh, bữa đói, bữa no. Song, từ khi nuôi bò sữa, đến thời điểm này, nhà ông bắt đầu có của ăn của để. Trong khi đó, công việc cũng đơn giản hơn nhờ sự hỗ trợ của máy móc, như cắt, thái cỏ, máy vắt sữa,… chỉ dọn chuồng trại, chở sữa đi bán là dùng sức người.



Vỗ vỗ vào mông những con bò bầu vú căng đầy sữa, ông Nội kể tiếp: “Hiện đàn bò này có 30 con cho sữa, mỗi ngày vắt được 8 tạ công ty thu mua hết. Trừ hết chi phí, tôi lãi vài triệu đồng là chuyện thường”.

Cũng là một trong những hộ đổi đời, thoát ly cảnh nghèo đói và trở thành tỷ phú ở Nông trường Mộc Châu, ông Phan Doãn Hiệp ở đơn vị 26/7, cho hay trang trại nhà ông đang có 120 con bò, trên 50 con trong số này đang cho sữa. “Trừ hết chi phí, mỗi tháng gia đình tôi đút túi khoảng 200 triệu tiền lãi”, ông Hiệp khoe.

Theo ông Hiệp, đúng là mức thu nhập như vậy hiện khá cao, nhưng quá trình nuôi luôn phải đảm bảo đúng quy trình để lượng sữa đạt tiêu chuẩn và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

Ví như, bò sữa một ngày ăn bao nhiêu cỏ xanh, cỏ alfalfa nhập từ Mỹ, thức ăn ủ lên men, tinh bột. Người nuôi bò phải bền bỉ, chịu khó, nắng cũng như mưa, không có ngày nghỉ lễ tết vì công việc cho ăn, dọn chuồng, vắt sữa,… đảm bảo phải đều đặn.

Nếu bò không được vắt sữa đúng giờ thì chúng cũng bứt rứt khó chịu như người vậy, thậm chí còn cuồng lên phá chuồng. Do đó, đến giờ là phải đem máy ra vắt, không có ngày nào là ngoại lệ, ông Hiệp cho hay.

Đổi đời nhờ bò sữa, nhà nhà sắm xe hơi

Ngồi ngắm cơ ngơi của mình, ông Dương Văn Nội chia sẻ, ở thị trấn Nông trường này, rất nhiều gia đình khác cũng đổi đời nhờ con bò sữa và mô hình liên kết khá bền chặt giữa người nông dân và doanh nghiệp sữa tại Mộc Châu.

Nhờ bò sữa mà các hộ dân nơi đây đổi đời, trở thành tỷ phú với thu nhập trung bình mỗi hộ 35-40 triệu đồng/tháng


Cụ thể, DN đã bao tiêu sản phẩm, bảo hiểm vật nuôi và giá sữa, hỗ trợ giá thức ăn tinh bột và cỏ Mỹ, cho vay 50-70% số vốn đầu tư mở rộng sản xuất, hỗ trợ khuyến nông. Công ty còn thưởng “nóng” 500-800 đồng/kg sữa nếu trang trại đạt sản lượng sữa cao và chất lượng tốt. Trong khi đó, phí bảo hiểm vật nuôi ở mức khá cao, 400.000-600.000 đồng/con/năm, nhưng khi bò chết và bị thải loại sẽ được quỹ “đền” số tiền cao gấp cả chục lần.

Ngoài ra, ông Nội và những người nuôi bò sữa ở thị trấn Nông trường Mộc Châu cũng mua bảo hiểm giá sữa bằng cách trích nộp vào quỹ 50 đồng/kg sữa mỗi khi bán cho công ty. Nếu giá sữa sụt giảm 30%, quỹ bảo hiểm sẽ hỗ trợ nông dân 60% số tiền sữa bị giảm.

“Nhờ đó các hộ dân nuôi bò sữa ở Nông trường Mộc Châu không bao giờ thua lỗ khi giá sữa xuống thấp”, ông Nội nói.

Hiện thị trấn Nông trường Mộc Châu có khoảng 600 hộ nuôi bò sữa, hộ nuôi ít khoảng 20-30 con, hộ nuôi nhiều khoảng 200 con. Tính trung bình mỗi hộ nuôi khoảng 35 con.

“Hầu hết các hộ nuôi bò ở đây đều là tỷ phú, bởi số bò nếu quy đổi ra tiền cũng lên đến tiền tỷ”, ông Phạm Hải Nam, Phó Tổng giám đốc Công ty CP giống bò sữa Mộc Châu (Mocchaumilk), thừa nhận.

Chủ tịch UBND huyện Mộc Châu, ông Phạm Đức Chính, cũng cho rằng, nhiều hộ dân tại đây thu nhập 40-50 triệu đồng/tháng, thậm chí số hộ thu nhập trên 100 triệu đồng/tháng hoặc hơn cũng không ít”, ông Chính tiết lộ.

“Năm 1991, tôi sang Thái Lan thấy mỗi nhà đều có xe máy chở sữa đi bán, tôi chỉ ao ước người nuôi bò ở Mộc Châu có được cái xe máy. Đến năm 2007, tất cả hộ ở đây đã có xe máy. Sau đó, tôi mong ước họ có được cái ô tô, giờ thì có cả trăm cái ô tô”, ông Trần Công Chiến, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Mocchaumilk, nói về câu chuyện thành công của mô hình nông dân nuôi bò sữa ở Mộc Châu.

———–

http://vietnamnet.vn/vn/kinh-doanh/doanh-nhan/333379/hiem-co-viet-nam-thi-tran-600-ty-phu-lai-oto-dao-tham-bo.html

Thứ Năm, 6 tháng 10, 2016

10 sự thật thế giới ít biết về kinh tế Việt Nam






Viện nghiên cứu McKinsey Global Institute chỉ ra 10 sự thật về kinh tế Việt Nam có thể khiến công chúng thế giới ngạc nhiên...
Thành tựu kinh tế của Việt Nam trong gần 1/4 thế kỷ qua đã và đang thu hút được sự quan tâm lớn của giới phân tích quốc tế. Một báo cáo mới đây của viện nghiên cứu McKinsey Global đã chỉ ra 10 sự thật về kinh tế Việt Nam có thể khiến công chúng thế giới phải ngạc nhiên, báo Foreign Policy của Mỹ cho biết.
********************************



Việt Nam có tên trong hầu hết các danh sách về các thị trường mới nổi hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài - Ảnh: Brian Ashcraft.
Bản báo cáo mang tựa đề “Sustainining Vietnam’s Growth: The Productivity Challenge” (tạm dịch: “Duy trì tăng trưởng ở Việt Nam: Thách thức về năng suất”) cho rằng, Việt Nam đang có những bước chuyển mình rõ nét.
Trong đó, phải kể tới việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, hay sức hút mãnh liệt của Việt Nam đối với vốn đầu tư nước ngoài, sự dịch chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
Tuy nhiên, báo cáo cũng khuyến nghị rằng, nếu muốn duy trì sự tăng trưởng năng động này, Việt Nam cần cải thiện năng suất lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ trong những năm sắp tới.
VnEconomy xin giới thiệu 10 điểm đáng chú ý nói trên trong báo cáo của McKinsey Global.
1. Việt Nam tăng trưởng kinh tế nhanh thứ nhì châu Á, sau Trung Quốc

 

Trong vòng 1/4 thập kỷ qua, Việt Nam từ chỗ là một quốc gia bị tàn phá bởi chiến tranh đã vươn lên trở thành một trong những câu chuyện kinh tế thành công của châu Á. Từ khi thực hiện chính sách Đổi mới năm 1986, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh hơn bất kỳ một nền kinh tế nào khác trừ Trung Quốc, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người hàng năm là 5,3%.
Sự tăng trưởng này được duy trì bất chấp cuộc khủng hoảng tài chính châu Á trong thập niên 1990 và khủng hoảng tài chính toàn cầu mới đây. Trong thời gian từ năm 2005-2010, kinh tế Việt Nam tăng 7% mỗi năm.

2. Kinh tế Việt Nam đang dịch chuyển mạnh mẽ khỏi nông nghiệp

 

Ngày nay, nền kinh tế Việt Nam không còn tập trung vào nông nghiệp như trước. Trên thực tế, chỉ trong vòng 15 năm, tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp trong GDP của Việt Nam đã giảm một nửa từ 40% xuống còn 20%, một tốc độ nhanh chóng hơn ở các nền kinh tế châu Á khác. Một sự dịch chuyển tương tự phải mất tới 29 năm ở Trung Quốc và 41 năm ở Ấn Độ.
Trong vòng 10 năm qua, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp của Việt Nam giảm 13 điểm phần trăm, trong khi tỷ lệ lao động trong công nghiệp tăng 9,6 điểm phần trăm và trong lĩnh vực dịch vụ tăng 3,4%. Sự dịch chuyển của lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ đã tạo ra đóng góp to lớn cho phát triển kinh tế của Việt Nam, vì năng suất lao động giữa các ngành này có sự khác biệt lớn.
Kết quả là, trong thập kỷ qua, tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP của Việt Nam giảm 6,7 điểm phần trăm, trong khi tỷ trọng của lĩnh vực công nghiệp tăng thêm 7,2 điểm phần trăm.

3. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về hạt tiêu, hạt điều, gạo và cà phê
 

Việt Nam là nước xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất thế giới, với khối lượng xuất khẩu nông sản này đạt 116.000 tấn trong năm 2010. Việt Nam cũng dẫn đầu thế giới về xuất khẩu hạt điều trong 4 năm liên tiếp, chưa kể giữ vị trí xuất khẩu gạo lớn thứ nhì thế giới sau Thái Lan, và chỉ thua Brazil về xuất khẩu cà phê.
Chỉ trong vòng có 4 năm, khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp gần 3 lần. Ngoài ra, Việt Nam đứng thứ 5 thế giới về sản lượng chè và đứng thứ 6 về xuất khẩu các mặt hàng cá da trơn, tôm và cá ngừ.
4. Việt Nam không phải là “Trung Quốc + 1”
 

Chi phí lao động gia tăng ở Trung Quốc đã thúc đẩy nhiều doanh nghiệp sản xuất ở nước này chuyển nhà máy sang Việt Nam để tận dụng nguồn lao động giá rẻ. Xu hướng này đã khiến nhiều lãnh đạo doanh nghiệp đề cập nhiều tới việc Việt Nam sẽ trở thành một địa chỉ sản xuất hàng xuất khẩu lớn tiếp theo tại châu Á, giống như một phiên bản thu nhỏ của Trung Quốc, gọi nôm na là “Trung Quốc + 1”.
Tuy nhiên, Việt Nam có sự khác biệt lớn so với Trung Quốc trên hai phương diện. Thứ nhất, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào tiêu dùng cá nhân hơn so với kinh tế Trung Quốc. Tiêu dùng của các hộ gia đình đóng góp 65% vào GDP của Việt Nam, một tỷ lệ cao hiếm có ở châu Á. Trong khi đó, tỷ lệ này ở Trung Quốc chỉ là 36%.
Thứ hai, trong khi sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Trung Quốc là kết quả của hoạt động xuất khẩu hàng hóa và mức độ đầu tư cơ bản đặc biệt cao, thì nền kinh tế Việt Nam cân bằng hơn giữa sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Trong đó, mỗi ngành này đóng góp xấp xỉ 40% GDP của Việt Nam. Sự phát triển của Việt Nam dựa trên nhiều ngành nghề đa dạng, với các phân khúc thị trường cạnh tranh trong khắp nền kinh tế.
Trong vòng 5 năm qua, sản lượng công nghiệp (bao gồm các ngành xây dựng, sản xuất, khai mỏ, điện…) và dịch vụ của Việt Nam đã tăng trưởng với tốc độ khoảng 8% mỗi năm.
5. Việt Nam là một thỏi nam châm đối với vốn đầu tư nước ngoài
 

Việt Nam có tên trong hầu hết các danh sách về các thị trường mới nổi hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các nghiên cứu của Bộ Thương mại và Đầu tư Vương quốc Anh hay trung tâm nghiên cứu kinh tế Economist Intelligence Unit (EIU) đều xếp Việt Nam là thị trường mới nổi hấp dẫn nhất đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sau khối BRIC gồm các nước Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc.
Lượng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đã tăng lên 71,7 tỷ USD vào năm 2008 từ mức 3,2 tỷ USD vào năm 2003, trước khi giảm xuống còn 21,5 tỷ USD vào năm 2009 do ảnh hưởng của suy thoái toàn cầu.
Điểm khác biệt tiếp theo giữa Việt Nam và Trung Quốc là, gần 60% vốn FDI ở Trung Quốc được đổ vào những ngày có hàm lượng nhân công cao, so với tỷ lệ chỉ 20% ở Việt Nam. Đối với Việt Nam, số vốn FDI còn lại được rót vào các ngành như khai mỏ và dầu khí (40%), bất động sản (15-20%) và du lịch. Từ năm 2005 tới nay, số du khách quốc tế tới Việt Nam đã tăng 1/3.
6. Việt Nam có hạ tầng đường giao thông tiên tiến hơn so với Philippines và Thái Lan

 

Việt Nam đã và đang đầu tư mạnh cho cơ sở hạ tầng. Nhiều du khách tới Việt Nam vẫn xem những con đường giao thông ở đây còn khá cơ bản. Tuy nhiên, ở giai đoạn phát triển kinh tế như hiện nay, Việt Nam đã đạt được tốc độ phát triển đường xá đáng ghi nhận.
Mật độ đường giao thông của Việt Nam đã đạt mức 0,78 km đường/km2 diện tích vào năm 2009, cao hơn ở Philippines và Thái Lan - hai nền kinh tế đạt mức độ phát triển cao hơn Việt Nam. Cũng trong năm 2009, mạng lưới điện đã phủ khắp 96% diện tích Việt Nam. Những cảng container mới như Dung Quất và Cái Mép, hay các sân bay được nâng cấp ở Đà Nẵng, Cần Thơ… đã tăng cường kết nối giữa Việt Nam với phần còn lại của thế giới.
7. Internet đã trở nên phổ biến đối với thế hệ trẻ Việt Nam
 

Việt Nam có dân số trẻ, có trình độ học vấn tốt và sử dụng mạng ngày càng nhiều hơn. Từ năm 2000-2010, số thuê bao di động ở Việt Nam tăng gần 70% mỗi năm, so với mức tăng chưa đầy 10% mỗi năm ở Mỹ trong cùng khoảng thời gian. Đến cuối năm 2010, Việt Nam có 170 triệu thuê bao điện thoại, trong đó 154 triệu là thuê bao di động.
So với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á khác, tỷ lệ sử dụng Internet ở mức 31% tại Việt Nam còn thấp. Chẳng hạn, tỷ lệ này ở Malaysia và Đài Loan lần lượt là 55% và 72%. Nhưng những thay đổi chóng mặt đang diễn ra. Số thuê bao băng thông rộng ở Việt Nam đã tăng lên từ 0,5 triệu thuê vào vào năm 2006 lên mức 3,8 triệu thuê bao vào năm 2010. Cũng trong năm 2010, số thuê bao mạng 3G tại Việt Nam đạt 7,7 triệu thuê bao.
Một khi cơ sở hạ tầng viễn thông tại Việt Nam phát triển, thì mức độ sử dụng di động và Internet tại Việt Nam cũng sẽ bùng nổ theo. Đến nay, tỷ lệ người dùng Internet ở Việt Nam có tiếp cận tin tức trên mạng là 94%. Hơn 40% người dùng mạng ở Việt Nam lướt web mỗi ngày.
8. Việt Nam đang trở thành một địa chỉ hàng đầu cho các dịch vụ gia công và thuê ngoài
 

Số lao động trong lĩnh vực dịch vụ gia công và thuê ngoài của Việt Nam đến nay đã lên tới 100.000 người, và ngành này đang tạo ra doanh thu hơn 1,5 tỷ USD mỗi năm cho Việt Nam. Nhiều công ty đa quốc gia lớn như HP, IBM hay Panasonic đều đã có cơ sở hoạt động tại Việt Nam
Trên thực tế, Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng lọt vào top 10 địa chỉ dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực gia công và thuê ngoài, nhờ những ưu thế như lực lượng lao động trẻ được đào tạo tốt (mỗi năm, có 257.000 sinh viên đại học Việt Nam ra trường) và mức lương tương đối thấp. Một nhà lập trình phần mềm ở Việt Nam có thể trả mức lương nhân viên thấp hơn 60% so với ở Trung Quốc. Tương tự, các kỹ sư về xử lý dữ liệu và giọng nói ở Việt Nam được trả thấp hơn 50% so với ở Trung Quốc.
Ngành dịch vụ gia công và thuê ngoài ở Việt Nam có khả năng đem đến mức doanh thu 6-8 tỷ USD mỗi năm, miễn là thế giới có nhu cầu và Việt Nam đảm bảo đáp ứng. Ngành này có thể trở thành một cỗ máy tạo việc làm cho các đô thị, tạo công ăn việc làm cho thêm 600.000-700.000 người trong thời gian từ nay đến năm 2020, và đóng góp 3-5% vào tăng trưởng GDP của Việt Nam.
9. Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng Việt Nam đang cao hơn so với các ngân hàng của Trung Quốc, Ấn Độ và các nước khác trong ASEAN

 

Trong thập kỷ qua, tổng dư nợ tín dụng của Việt Nam tăng với tốc độ 33% mỗi năm, mạnh hơn so với ở Trung Quốc, Ấn Độ hay bất kỳ nước nào khác trong khối ASEAN. Đến cuối năm 2010, dư nợ tín dụng đã tương đương khoảng 120% GDP của Việt Nam, so với mức chỉ 22% vào năm 2010.
Mặc dù tình trạng tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ này có thể là một bằng chứng về tốc độ phát triển năng động của nền kinh tế Việt Nam và sự mở rộng của hệ thống ngân hàng, nhiều người vẫn lo ngại về khả năng gia tăng của nợ xấu cũng như những hệ lụy đối với nền kinh tế.
10. Lợi tức dân số (demographic dividen) của Việt Nam đang giảm dần

 

Lợi tức dân số được định nghĩa đơn giản là những ích lợi kinh tế có được từ biến đổi dân số. Trong thời gian 2005-2015, lực lượng lao động trẻ gia tăng và sự dịch chuyển chóng vánh của nền kinh tế khỏi lĩnh vực nông nghiệp đã đóng góp 2/3 tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. 1/3 tăng trưởng còn lại xuất phát từ năng suất lao động được cải thiện. Tuy nhiên, đến nay, hai động lực tăng trưởng đầu tiên của nền kinh tế Việt Nam đang yếu đi.
Thống kê chính thức dự báo rằng, tăng trưởng lực lượng lao động của Việt Nam sẽ giảm xuống còn khoảng 0,6% mỗi năm trong thập kỷ tới, từ mức 2,8% mỗi năm trong thời kỳ 2000-2010. Bên cạnh đó, sự dịch chuyển “từ đồng ruộng tới nhà máy” của nền kinh tế Việt Nam cũng khó có khả năng diễn ra với tốc độ như trước nữa.
Bởi thế, việc cải thiện năng suất lao động là cần thiết đề bù đắp cho những suy giảm nói trên nếu Việt Nam muốn duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao như thời gian qua. Cụ thể hơn, Việt Nam cần đẩy nhanh thêm 50% tốc độ gia tăng năng suất lao động hàng năm, từ mức 4,1% lên 6,4%, để đạt mục tiêu tăng trưởng hàng năm 7-8% mà Chính phủ đề ra trong thời gian từ nay đến năm 2020. Nếu không đạt được mức tăng trưởng năng suất như vậy, tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể giảm xuống còn 4-4,5% mỗi năm. Với tốc độ tăng GDP như thế, giá trị GDP của Việt Nam vào năm 2020 sẽ thấp hơn 30% so với giá trị đạt được trong trường hợp nền kinh tế tăng trưởng 7% mỗi năm. 

KIỀU OANH/VnEconomy