Thứ Năm, 31 tháng 7, 2014

Con đường sáng tạo: Con đường thu nhiếp lòng tự tin





LÒNG TỰ TIN

Lòng tự tin làm nên tất cả.

“Lịch sử thế giới là lịch sử của một thiểu số người có lòng tự tin nơi mình.” Vivekananda đã khẳng định như vậy.

Sự cuốn hút của những kỳ công cũng như của những cử chỉ nhỏ nhặt nhất của những vĩ nhân chỉ có thể giải thích được bằng lòng tự tin.

Lòng tự tin! Đó là khối nam châm, là kính hội tụ, là mặt trời nhỏ, là con gió lớn thu hút tất cả mọt vật kế cận, qui tụ tất cả mọi tia sáng, điều động tất cả mọi sinh vật, thổi bạt tất cả mọi ảnh hưởng.

Và lòng tự tin đó chính là yếu tính của thiên tài. Đây là định nghĩa hay nhất về thiên tài của Emerson: “Tin vào tư tưởng của chính bạn, tin rằng cái gì đúng với bạn trong tâm tư của bạn đúng cho tất cả mọi người, - đó là thiên tài ” (To believe your own thought, to believe that what is true for you in your private heart is true for all men, - that is genius.) [1]

Tất cả những thiên tài đều là những người có lòng tự tin vững như bàn thạch. Và tất cả những thiên tài đích thực, tất cả những người xứng đáng là thiên tài đều thành thực muốn khơi dậy lòng tự tin nơi chúng ta, đều thương hại chúng ta, những kẻ đáng thương thả mồi bắt bóng. Tất cả những vĩ nhân vĩ đại thực sự đều tàn nhẫn xua đuổi chúng ta trở về với chính chúng ta, đều khinh bỉ liệng trả lại cho chúng ta tất cả những phẩm từ cao quí, tất cả những tán từ rực rỡ - quá thừa chi họ, quá thiếu cho chúng ta - là của riêng chúng ta, cần thiết với chúng ta hơn. Tất cả những thánh nhân, những nghệ sĩ chân chính đều lương thiện: họ không muốn bị ép buộc trở thành địa chủ trên đất đai của chính chúng ta, họ không muốn chúng ta tự nguyện trở thành tá điền trên mùa màng tốt tươi – công khó của sức cần lao chúng ta.

Họ đều muốn khuyên chúng ta hãy coi thường tất cả những điều khuyên nhủ, hãy chỉ tin vào sự phán đoán của chúng ta thôi, như Đức Phật:

“Đừng tin tưởng một điều gì vì phong văn. Đừng tin tưởng điều gì vì cớ được nhiều người nói đi nhắc lại. Đừng tin tưởng điều gì dù là bút tích của thánh nhân. Đừng tin tưởng điều gì dù thói quen từ lâu khiến ta nhận là điều ấy đúng. Đừng tin tưởng một điều gì do ta tưởng tượng ra lại nghĩ rằng một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởng bất cứ một điều gì chỉ vin vào có uy tín của các thầy dậy. Đừng tin tưởng ngay cả lời ta nữa mà chỉ tin tưởng điều gì chính các người đã tự mình từng trải, kinh nghiệm và cho là đúng mà thôi.” Angutara Nikaya [2]

Tất cả những thánh nhân, những nghệ sĩ chân chính đều muốn đánh phá tan tành những ảo tưởng yếu đuối của chúng ta, đều khuyến khích chúng ta hiên ngang nhận chân con người đích thực của mình và tự tin nơi mình, như Vivekananda: “Hãy đứng lên, hỡi sư tử, và rũ bỏ ảo tưởng mình là cừu non, các bạn là những linh hồn bất tử, những tinh thần tự do, linh thánh và vĩnh cửu” [3] . Nếu các bạn tin vào ba trăm ba mươi triệu thần thánh ngoại quốc đem vào mà không tin vào chính bạn, thì không có cứu chuộc nào cho bạn cả. Vậy: “Hãy tin vào bạn trước rồi hãy tin vào Thượng Đế sau.” (Believe first in yourself, and then in God) [4] . Kẻ nào không tin mình là kẻ vô thần. Những tôn giáo lạc hậu nói rằng kẻ không tin vào Thượng Đế là kẻ vô thần. Tôn giáo mới nói rằng kẻ nào không tin mình mới là kẻ vô thần - Thần tính nội tại.

Thông điệp của họ chính là lòng Tự Tin vậy: “Hãy tin vào chính bạn: tất cả mọi trái tim đều run lên cùng với giây thiết huyền cứng rắn đó ” (Trust thyself: every heart vibrates to that iron string) [5] . Hãy nói lên niềm tin tiềm ẩn của bạn, chẳng bao lâu nó sẽ có một ý nghĩa phổ quát; “bởi luôn luôn cái sâu thẳm nhất trở thành cái xa thẳm nhất (for always the inmost becomes the outmost) và tư tưởng đầu tiên của chúng ta dội lại chúng ta bởi tiếng kèn đồng của ngày Phán Xét Cuối Cùng [6] . Giá trị cao cả nhất chúng ta gán cho Platon, Shakespeare là sự kiện họ đã thách đố sách vở và truyền thống và nói lên, không phải điều mọi người nghĩ, mà là điều họ nghĩ. Người ta phải học cách khám phá và canh chừng cái tia sáng le lói từ bên trong vụt qua trong tâm trí hắn hơn là vẻ huy hoàng của bầu trời của thi nhân và hiền triết [7] . Trong tất cả mọi tác phẩm của thiên tài, chúng ta đều nhận ra những tư tưởng phản hồi của chúng ta. Chúng trở lại với chúng ta với một vẻ uy nghiêm xa lạ và chúng ta bắt buộc phải chấp nhận với lòng khiêm tốn tủi hổ. Đó là điều khiến chúng ta đau lòng và phải tìm cách chấm dứt. Sớm muộn gì trong đời sống tâm linh của một người cũng phải có lúc hắn nhận thấy rằng ganh ghét là ngu muội, bắt chước là tự sát. Rằng bổn phận đầu tiên và cuối cùng đối với bản thân là phải trở thành chính mình.

Tôi phải trở thành chính tôi!

Tôi không thể vong thân vì giáo lý và luân lý, xã hội và gia đình, tình cảm và phép lịch sự. Nếu tôn giáo dậy rằng tôi chỉ là cát bụi tôi sẽ sống hết kiếp cát bụi thô tạo và bình thản trở về cát bụi phù du.“Ôi cát bụi tuyệt vời!” Nếu người ta bảo rằng tôi thuộc về trần gian tội lỗi xin nhận “tôi là một sản phẩm tội lỗi của một trần gian tội lỗi”(I was the evil product of an evil soil – Henry Miller) [8] . Tôi biết làm sao được? Nếu người ta bảo tôi là đứa con của quỉ vậy từ nay tôi sẽ sống hết mình cho quỉ. “Không có luật lệ nào có thể thiêng liêng đối với tôi trừ luật của bản chất tôi” [9] . Tốt hay xấu, thiện hay ác chỉ là những danh từ có thể sẵn sàng di dịch vì lý do này hay lý do kia, có thể dễ dàng đắp đổi cho nhau tùy theo quan điểm, thời gian, xứ sở. Chẳng lẽ tôi lại dại dột chịu nô lệ những điều ngu xuẩn đó? Chẳng lẽ tôi lại thiển cận đến thế? Lẽ phải duy nhất là cái gì hợp với thể chất tôi: điều trái duy nhất là cái gì nghịch lại nó. “Tôi phải đi lên và mãnh liệt, và nói lên sự thật thô bạo bằng mọi cách” [10] . Tôi không thể dối trá cũng như không thể chia xẻ. Tôi không thể chia xẻ cho bạn hay cho em. Nếu em yêu tôi vì tôi là tôi, chúng ta sẽ sung sướng. Nếu em cao quí, tôi sẽ yêu em, nếu không, tôi sẽ không làm thương tổn em và chính tôi nữa, bởi những sự ần cần giả dối. Tôi phải độc lập, vô trách nhiệm, tự chủ, hồn nhiên: tôi phải hoàn toàn nguyên vẹn là tôi. “Tôi sẽ chạy trốn cha mẹ, vợ con và anh em khi thiên tài của tôi kêu gọi tôi. Tôi sẽ viết lên đầu khung của một chữ: Ngông ” (I shun father and mother and wife anh brother when my genius call me, Tôi would write on the lintels of the door – post, Whim.) [11]

Tôi phải đi trong cô đơn!

Đó là con đường hủy diệt của kẻ sáng tạo, con đường đơn độc của kẻ tình nhân vĩ đại, con đường lạc lõng của kẻ khao khát tìm kiếm mình.

Tôi phải đi trong cô đơn, với niềm tin tưởng rằng bất cứ tôi đi đâu, con người xuất-chúng của tôi cũng đi theo như bóng với hình.

Chúng ta, những kẻ cô đơn – chúng ta phải thu nhiếp trọn vẹn lòng tin tưởng nơi chúng ta. Nhưng nếu nỗi cô đơn là hòn đá thử vàng, là phương thuốc chữa trị mọi hư danh phù phiếm của xã hội thì chính cô đơn sẽ khiến chúng ta hoang mang nghi hoặc. Thomas Wolfe, một khuôn mặt cô đơn nhất của văn học Hoa Kỳ, nhận xét “hơn tất cả những người khác, chúng ta, những kẻ ngụ cư trong cô đơn, chúng ta luôn luôn là nạn nhân của lòng tự-nghi (more than other men, we who dwell in the heart of solitude are always victims of self-doubt, - “God’s Lonely Man”). Tại sao vậy? Vì không có những giá trị cũ làm nền tảng, không có sự phán đoán của kẻ khác làm tiêu chuẩn, không có những mục đích thông thường làm cứu cánh cho cuộc sống, chúng ta cảm thấy mất niềm tin như kẻ đi vào chân không mất trọng lực. Chúng ta sẽ nghi ngờ tất cả và chúng ta sẽ nghi ngờ chính chúng ta. “Luôn luôn và luôn luôn trong nỗi cô liêu của chúng ta, mặc cảm tự ti nhục nhã đột nhiên dâng lên dìm ngập chúng ta trong cơn lụt lội độc hại của kinh hoàng, bất tín và thê lương làm úa héo và hư thối sức khỏe và niềm tin, rải rác rưởi ô uế tận gốc rễ nguồn hân hoan lớn lao, mãnh liệt của chúng ta. Và mâu thuẫn ngàn đời của sự kiện đó là nếu một người muốn biết niềm vui chiến thắng của lao khổ sáng tạo hắn phải khuất mình một thời gian lâu dài trong cô đơn và cam chịu để cô đơn cướp mất của mình sức khỏe, niềm tin, lòng tin tưởng và nguồn hân hoan là cái cốt yếu của tác phẩm sáng tạo.” [12]

Chỉ có thần thánh hay dã thú mới có thể sống cô độc, Aristote nói như vậy. Nhưng kẻ sáng tạo không phải là thần thánh hay dã thú nghĩa là hắn không có niềm tin vào Thượng Đế tối cao cũng không có sự u mê hoàn toàn. Thiếu những điều đó, nhiều khi tất cả hay bất cứ điều gì hay không có điều gì cả cũng có thể làm hắn thương tổn, xúc phạm hắn, lung lạc hắn, đẩy hắn vào cảm thức bất lực và nhục nhã, tuyệt vọng và kinh hoàng. Run và sợ. Xao xuyến và hư mất phù du. Hắn thấy thời gian trôi qua như một dòng nước muộn. Hắn thấy cuộc đời trôi qua như một dòng sông buồn và tất cả cuộc đời hắn, tình yêu, quá khứ, đang trôi vào quên lãng. Tất cả bắt đầu từ hư không và chấm dứt với hư vô. Trong khoảnh khắc, hắn bắt gặp hắn trần truồng đứng dưới chân bức tường câm nín của đêm sâu. Hắn đối diện với chính hắn. Tôi là ai hay chỉ là một cõi trống trơn?

Kẻ sáng tạo phải cảm nghiệm tất cả trạng huống ghê gớm đó bởi sứ mệnh của hắn là phải thu hút tất cả tình yêu, thù hận, đau khổ, ưu sầu, tuyệt vọng, hân hoan, kiêu hãnh, nhục nhằn, hệ lụy, tử biệt sinh ly… để dệt nên Toàn Thể, phải thâu tóm tất cả những cung bực của bi thương và hạnh phúc để tạo nên khúc Hợp Xướng Ca Ngợi Nguồn Vui tối hậu, phải thấu suốt ngàn trùng, quán tuyệt thiên thu để giúp con người nắm được Nhất Thể, gói trọn sinh tử, hát khúc Âu Ca ngợi ca trần gian điên dại, đưa con người lên chớp đỉnh Thanh Thản, để hắn có thể thấy như những nhân vật bi kịch Hy Lạp sau khi đã xuống tận cùng đáy bi thương: Tất cả đều tốt lành. Tất cả mọi người đều là Thần thánh, tất cả mọi ngày đều thiêng liêng, tất cả mọi biến cố đều có lợi và không có gì xẩy ra lại sớm quá hay trễ quá đối với ta.

Vì lẽ đó kẻ sáng tạo phải sống như một kẻ chiến bại để có thể viết như một kẻ chiến thắng.

Hắn phải sống hiền lành như cừu non để có thể viết dữ dội như sư tử.

Hắn phải cưu mang tuyệt vọng để có thể sinh ra những hy vọng mới.

Hắn phải chịu trăm ngàn cái chết đắng cay: chết trong cuộc đời, chết trong lòng người, chết trong tâm hồn, để phục sinh: hắn phải chết đi để trở thành bất tử.

Hắn phải vĩnh biệt hắn để tái ngộ hắn trên bình diện bao la của vũ trụ.

Hắn phải bị xua đuổi lên đến tận đỉnh núi cuối cùng, chỉ còn một tảng đá cheo leo trên vực thẳm đêm tối vừa đủ đặt hai chân và chỉ còn niềm hy vọng tối hậu: Cô Đơn, người bạn vĩnh cửu của hắn, trong giông tố, đến nắm tay đưa hắn qua cầu:

“Cô đơn mãi mãi và xin gặp lại trần gian! Hỡi người anh em tăm tối và người bạn sắt đá cứng cỏi, khuôn mặt ngàn đời của đêm sâu, người đã cùng ta chia nửa phần đời và người từ nay mãi mãi sẽ ở cùng ta cho đến ngày khép mắt – ta còn có gì để sợ khi bạn ở bên ta? Hỡi người bạn anh hùng, người anh em ruột thịt của đời ta, khuôn mặt ân cần u tối – chúng ta đã chẳng từng cùng đi với nhau hàng triệu lối đó sao, chúng ta đã chẳng từng cùng đi với nhau qua những đại lộ đêm sâu cuồng bạo đó sao, chúng ta đã chẳng từng vượt qua biển giông tố một mình đó sao? Và biết những mảnh đất lạ, và trở lại để đi qua lục địa đêm tối và lắng nghe niềm im lặng của lòng đất sao? Chúng ta chẳng đã từng can trường và vẻ vang khi chúng ta ở bên nhau sao, hỡi bạn? Chúng ta đã chẳng từng nếm mùi chiến thắng, hân hoan và vinh quang trên trần gian này sao và mai sau sẽ chẳng như ngày xưa sao, nếu bạn trở lại cùng ta? Hãy đến cùng tôi trong lòng đêm sâu tĩnh lặng và bí mật nhất. Hãy đến cùng tôi như bạn vẫn thường đến, mang lại cho tôi sức mạnh vô địch, hy vọng bất diệt, niềm hân hoan và tin tưởng chiến thắng sẽ lại làm mưa làm gió trên trần gian lần nữa” (Thomas Wolfe – “God’s Lonely Man”.)

Đó là ngày kẻ sáng tạo ký kết với cô đơn. Hắn trở thành chính nỗi Cô Đơn. Và đó cũng là ngày, như rất tình cờ, lòng tự tin vào cuộc đời và lòng tự tin ào ạt trở lại cùng hắn như triều nước dâng làm nổ tung cánh cửa mở đại thế giới và xếp đặt lại tất cả trong một trật tự mới. Viên mãn một cách kỳ diệu và an nhiên tự tại trong chính mình, hắn thấy tất cả sức mạnh xưa cũ của hắn nguyên vẹn còn đây: hắn viết điều hắn biết, hắn thấy điều hắn thấy. Và hắn sẽ hiên ngang nói sự thật trong hắn. Hắn sẽ nói sự thật đó lên mặc dầu toàn thể thế giới khước từ. Hắn sẽ nói sự thật đó lên mặc dầu muôn triệu người gào lên rằng điều đó sai lầm. Nhưng hắn có kể gì tới người khác, hắn có kể gì tới chính hắn: hắn đã quay lưng lại với chính mình. “Để nhìn cho được nhiều, người ta phải học cách đưa mắt đi chỗ khác đừng nhìn mình: - sự cứng dắn này cần cho tất cả những kẻ trèo lên núi cao”. Và tất cả những kẻ sáng tạo đều cứng rắn. (Alle Schaffenden aber sind hart). Không còn tình yêu nữa, không còn ta nữa. “Than ôi! ta phải trèo con đường khó khăn nhất của ta! Than ôi! ta bắt đầu cuộc hành trình cô đơn nhất của ta!”. Tâm hồn ớn lạnh không khỏi thốt lên như thế. Nhưng nếu là kẻ sáng tạo, hắn không thể không thâm cảm và nhủ thầm “Chỉ bây giờ ta mới đi theo con đường cao cả của ta! Đỉnh cao và đáy sâu hòa lẫn nhau!”.

“Mi đi trên con đường cao cả của mi: bây giờ điều từ xưa tới nay là nỗi nguy hiểm cuối cùng của mi đã trở thành nơi an trú tối thượng của mi.

Mi đi trên con đường cao cả của mi: bây giờ lòng can đảm tối hảo của mi là cảm thấy mi chẳng còn con đường nào sau lưng nữa!

Mi đi trên con đường cao cả của mi: ở đây chẳng có ai đi theo mi cả! Chính bước chân mi xóa con đường sau mi và trên con đường của mi có biển đề: bất khả !” [13]

Nhưng chính tại nơi chót núi cuối biển tưởng chừng không có đường đi đó, bỗng trong rặng liễu ám u, trong rừng đào rực rỡ thấp thoáng bóng Quê Hương:

Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ

Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn.

Đó là xứ sở của con cái chúng ta, cùng đích của tìm kiếm. Nhưng nếu chúng ta không thấy? – Thì lý trí chúng ta, óc tưởng tượng của chúng ta, ý chí chúng ta, tình yêu chúng ta phải trở thành Quê Hương ấy, xứ sở ấy. Và ta mong rằng ta không tìm thấy để ta còn có thể sáng tạo: Ta khao khát Hạnh Phúc chăng? Ta chỉ khao khát Tác Phẩm của ta thôi!

Trachte ich denn nach Glücke?

Ich trachte nach meinem Werke!

Kẻ sáng tạo nói như vậy.




[1] Self Reliance
[2]Trích Phật học tinh hoa của T.T. Đức Nhuận
[3]The Message of Vivekananda, Advaila Ashrama, Calcutta pp. 1,2.
[4]The Message of Vivekananda, Advaila Ashrama, Calcutta pp. 1,2.
[5]The Message of Vivekananda, Advaila Ashrama, Calcutta pp. 1,2.
[6]Emerson, Self Reliance.
[7]Emerson, Self Reliance
[8]Tropic of Capricorn
[9]Emerson, Self Reliance
[10]Emerson, Self Reliance
[11]Emerson, Self Reliance
[12]Thomas Wolfe, “God’s Lonely Man” in The Hills Beyond.
[13]Nietzsche, Also sprach Zarathustra.




Việt Nam: Làm giàu từ nông nghiệp, tại sao không?




Featured Image: Fabrice Instinct Voyageur



Càng tìm hiểu sâu vào Israel và nền nông nghiệp thần kỳ của họ, tôi lại càng ngạc nhiên và khâm phục. Thế rồi, tôi nhìn lại, Việt Nam chúng ta là nước 70% làm nông nghiệp nhưng sao chẳng thấy thành tựu nào ra hồn. Người nông dân cả nước đang làm gì? Chúng ta có thể làm giàu từ nông nghiệp không? Có thể giúp đất nước phát triển bắt đầu từ nền tảng nông nghiệp không? Thế là tôi tìm hiểu, và tuyệt làm sao tôi đã tìm ra nhiều điều, nhiều chuyện, nhiều tấm gương hay ho, thú vị và cả bất ngờ nữa.

Trời ơi, nhiều quá, nhiều người giàu có nhờ nông nghiệp quá, gần như gõ từ khóa nào đại loại “làm giàu từ chuối, từ đu đủ, từ rau thơm, từ cá, từ rắn rết bọ cạp ễnh ương” từ cái quái gì cũng có người giàu cả. Cả một kho tấm gương làm giàu như thế, mà xưa giờ chúng ta quá thờ ơ. Phải chăng vì không bạn trẻ nào muốn làm nông nghiệp? Phải chăng vì làm nghề nông, làm người nông dân nghe nó “tầm thường” hay “hèn mọn” quá đi? Bao nhiêu cử nhân rời trường đại học Nông-Lâm giờ họ đang làm gì? Đang có những trang trại riêng hay đang cố gắng tìm một công việc gì đó nghe nó sang chảnh “văn phòng” hơn để bám trụ nơi thành phố?

Làm nông có phải chỉ đơn giản là nuôi và trồng, thu hoạch và bán nông sản không? Làm nông nghiệp có giàu nổi không? Tôi đã đặt ra rất nhiều câu hỏi và tự đi tìm câu trả lời. May thay, câu trả lời là chúng ta hoàn toàn có thể có thể làm giàu từ nông nghiệp, giàu bền vững và không giới hạn khả năng. Với nông nghiệp, chúng ta có thể làm giàu từ những thứ giá trị cho tới những thứ bỏ đi nữa kìa (như là tận dụng đồ phế thải làm phân bón, thức ăn cho cá, làm giàu từ vỏ bao xi măng…) Nông nghiệp như là một môi trường tuyệt vời, sẽ trả công xứng đáng cho những người xứng đáng, yêu mến nó, hết lòng vì nó và nhất là không xem thường nó:
Những lão nông tỷ phú

1. Tiền Giang có ông “Vua mít Ba Lập” bắt đầu từ 10 cây mít giống trong một lần đi thăm bà con ở Đồng Nai. Ông được giới thiệu về một loại mít có nguồn gốc từ Thái, tò mò mua 10 cây giống về trồng thử. Chăm sóc kỹ và đợi một năm rưỡi sau, 10 cây mít đầu tiên cho trái. Ông ăn thử thấy rất ngon mới bắt đầu ghép cành, nhân giống ra trồng đại trà. Đặc điểm của loại mít này là múi to, cơm dày, ăn giòn, ngọt thanh, rất ít xơ và mủ. Thế là từ 10 cây giống đầu tiên, ông ghép cành và nhân ra lần đầu khoảng 50 cây rồi tăng dần lên, đến nay vườn mít 9.000m2 của ông có chừng 600 cây mít đủ cỡ. Ông Lập cho biết đặc điểm của loại mít này là không theo mùa mà ra trái thường xuyên, hết đợt này đến đợt khác liên tục, chu kỳ từ khi ra hoa đến khi thu hoạch gần 4 tháng. Vì vậy, để trái có trọng lượng lớn, bán được giá cao, cần phải tỉa bỏ bớt. Tùy theo độ tuổi của cây mà chừa trái cho thích hợp.

Trung bình nếu bón phân, tưới nước đầy đủ thì mỗi đợt chỉ nên chừa lại chừng 10 trái mỗi cây. Khi thu hoạch, mỗi trái có trọng lượng từ 20 đến trên 30 kg là bình thường. Càng ít trái thì trọng lượng mỗi trái càng lớn. Với giá mít dao động từ khoảng 28.000 đến 34.000 đồng/kg như hiện nay, mỗi trái mít có thể bán được hơn 500.000 đồng. Như vậy mỗi đợt thu hoạch, một cây mít có thể thu được trên 6 triệu đồng và một năm có thể thu hoạch được 3 lần. Vườn mít của ông Lập có chừng 600 cây nên mỗi năm có thể thu được tiền tỉ là dễ hiểu. Đó là chưa kể nguồn thu nhập từ bán cây giống. Chỉ riêng năm 2011 ông Lập cung cấp ra thị trường gần 20.000 cây mít giống. Với giá 12.000 đồng/cây, ông thu nhập thêm hàng trăm triệu đồng.

Thế là ông trở thành “Vua mít”, thành tỷ phú nhờ mít. Thật đáng thèm thuồng!

2. Ghé về Trà Vinh có ông “Sang cam sành”: Là một trong những tỷ phú cam sành của xã Tam Ngãi, Hai Sang hiện canh tác 3,5 ha đang giai đoạn cho trái. Chỉ tính mùa cam năm 2010 và 2011, ông thu về hơn 3 tỷ đồng. Bí quyết của Hai Sang là trồng cam nghịch vụ. Nghề trồng cam vùng này lâu nay mỗi héc ta thu vài trăm triệu đồng là chuyện thường. Nhưng trong 3 năm liên tục, mỗi héc ta cam nghịch vụ thu bạc tỉ, khiến bản thân Hai Sang cũng cảm thấy… sửng sốt. Từ 2009 tới nay, chỉ với chưa đầy một mẫu đất, Hai Sang thu về hơn 4 tỷ đồng, con số trước đây có mơ ông cũng không dám nghĩ tới.

Hai Sang phân tích, đất mà nhà vườn Tam Ngãi đang trồng cam là đất phù sa bồi đắp bởi sông Tiền. Từ xưa tới giờ vùng này không bao giờ thiếu nước ngọt nên trồng cam muốn xử lý cho ra trái bất kỳ tháng nào trong năm đều được. Trái cây mùa thuận phải nhờ đến nước mưa, còn đất ven sông Tiền có lợi thế là không lệ thuộc nước mưa nên nhà vườn có thể đổi sang thu hoạch mùa nghịch theo ý mình. Ở xã Tam Ngãi, trồng cam nghịch vụ thu nhập 1 tỷ đồng/ha/năm tính ra tới mấy chục hộ chứ không phải ít. Cam mùa thuận giá 4.000-5.000 đồng/kg, mỗi héc ta bình quân 25 tấn, nhà vườn thu hơn 100 triệu đồng, vẫn cao hơn lúa. Còn trồng vụ nghịch, mỗi kg giá 25.000-30.000 đồng, có khi cao hơn nên thu về tiền tỉ cũng không có gì lạ.

(Thu tiền tỷ mà không có gì lạ, ôi tự nhiên tôi muốn trở thành “P.T cam sành” quá chừng!)

Ngoài ra còn vô vàn những lão nông với thu nhập khủng, tính bằng tiền tỷ mỗi năm như ông “Vua lúa Chín Táo” với tổ hợp sản xuất diện tích hàng trăm ha, cung ứng ra thị trường tới 10.000 tấn lúa giống/năm, doanh thu 70-80 tỉ đồng. Hay ông Biền – Tiền Giang thu nhập hơn tỷ đồng mỗi năm nhờ cây khóm trên vùng đất phèn vùng Đồng Tháp Mười. Hay anh Tấn Tài với những nhạy bén trong chăn nuôi heo gà, cá sấu đã giúp anh gầy dựng cơ ngơi cả chục tỷ đồng chỉ sau vài năm… Những tấm gương đó bạn có thể tham khảo ở đây.

Thật tình mà nói, họ thật đáng ngưỡng mộ, nhưng họ đều là những lão nông lâu năm dãi dầu. Thành công của họ không phải ai muốn cũng có thể bắt chước làm theo và đạt được điều họ đã đạt. Nhưng không gì là không thể đúng không? Sao chúng ta biết chúng ta không thể nếu ta không thử? Và thế hệ trẻ như chúng ta, được biết, được học và được tiếp xúc với khoa học – công nghệ – kỹ thuật càng nhiều, thì ta lại càng có nhiều cơ hội để thành công và thậm chí là thành công vượt bậc nữa kìa.
Những câu chuyện “sinh ra từ làng”

Không màu mè mà gần gũi, bình dị, “Sinh Ra Từ Làng” là chương trình chính luận về thanh niên nông thôn lập nghiệp rất thành công, bởi sức lan tỏa đến không ngờ về những hoài bão, lí tưởng sống của giới trẻ lập thân, lập nghiệp trong cuộc sống hiện nay. Sau 2 năm phát sóng, chương trình đã giới thiệu 52 tấm gương thanh niên nông thôn tiêu biểu, những mô hình kinh tế điển hình, xuất sắc trên khắp cả nước. Những câu chuyện như:

Nguyễn Văn Bách (1981, Tuyên Quang) năm 2010 anh bắt đầu nghiên cứu và đưa giống chanh tứ mùa từ Đà Lạt về trồng với số cây giống ban đầu là 100 cây. Đến nay mỗi năm, anh thu được 20 tấn quả trị giá 400 triệu đồng; ngoài ra anh còn thu nhập từ việc bán cây giống 750 triệu đồng. Tổng doanh thu 1 năm đạt hơn 1,1 tỷ đồng.

Không chỉ giỏi trong việc tăng năng suất cây trồng, nhiều thanh niên nông thôn đã sớm trở thành những ông chủ thành đạt nhờ ý thức bảo vệ môi trường. Điển hình là Đặng Văn Mạnh (Hải Dương), người được mệnh danh là “thầy phù thủy” nhờ những vỏ bao xi măng cũ lại được anh “hô biến” thành… 700 triệu đồng/ tháng. Từ những chiếc vỏ bao xi măng cũ bị vứt bỏ, anh Mạnh đã góp phần bảo vệ môi trường bằng cách tái chế chúng thành những chiếc vỏ mới tinh nhưng lại không thải ra môi trường lượng nước thải độc hại chứa lượng xi măng dư thừa. Chỉ mới 35 tuổi, anh Mạnh đã sở hữu một cơ sở sản xuất 500m² , mỗi ngày cho ra lò 20.000 vỏ bao xi măng mới. Trung bình mỗi tháng, cơ sở của anh xuất ra thị trường 30 – 35 vạn chiếc vỏ bao xi măng với giá thành 2.200 đồng/ chiếc. Tính ra, mỗi tháng, anh thu về hơn 700 triệu đồng.

Hay như chàng cử nhân trẻ Nguyễn Duy Thiên Ân (1990, Đồng Nai). Đây là nhân vật đã từ chối suất học bổng toàn phần đi du học Pháp để ở lại… nuôi gà. Tuy nhiên, để kiếm được tới gần 20 triệu đồng/ngày từ những quả trứng lại là một chặng đường vất vả với nhiều thất bại. Rốt cuộc, chàng sinh viên trẻ này đã tìm ra được cách nuôi gà rất đặc biệt: Ngoài việc đảm bảo môi trường vệ sinh, nguồn thức ăn sạch và đủ dinh dưỡng, đàn gà còn được thưởng thức những bản nhạc giao hưởng êm dịu của Mozart và Beethoven để không gian luôn lý tưởng. Với sự say mê đầy sáng tạo, chàng trai Nguyễn Duy Thiên Ân trở thành người đầu tiên ở Việt Nam sản xuất trứng gà Omega 3 -loại trứng nhiều dinh dưỡng gấp 3 lần trứng gà thông thường, có nhiều chất làm giảm mỡ máu,chữa tim mạch, ung thư, đẹp da, tốt cho não… và mô hình nuôi gà của anh đã mang lại thành công trên con đường làm giàu cho bản thân và quê hương.
Học đại học về làm nông dân, tại sao không?

Tốt nghiệp khoa cơ khí trường đại học sư phạm kỹ thuật TP.Hồ Chí Minh năm 2000, trong khi bạn bè kéo nhau đi kiếm việc ở các công ty với mức lương khá cao thì anh Vũ Văn Vương (Xuân Lộc) lại khăn gói về quê để làm nông dân. Anh chia sẻ: “Thấy bà con trồng rau vất vả quanh năm mà thu nhập vẫn thấp nên tôi muốn mình sẽ làm mô hình điểm về trồng rau năng suất cao và tự tìm đầu ra cho mình và bà con. Có đầu ra ổn định, lợi nhuận sẽ cao.” Hiện tại, rau do gia đình anh Vương sản xuất đã được một doanh nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh đặt hàng với giá ổn định. Từ hai bàn tay trắng, nhờ trồng rau hiện anh Vương đã có trong tay cơ ngơi khang trang với lợi nhuận thu được mỗi năm vài trăm triệu đồng. Và khoản tiền lời đã được anh đầu tư vào việc mua đất để mở rộng sản xuất.

Năm 2002, anh Quyền (Đà Nẵng) cầm tấm bằng cử nhân Quản trị du lịch cùng bằng cử nhân luật đi xin việc ở thành phố. Nhưng với đồng lương tháng ba cọc ba đồng không đủ sống, sau gần 1 năm bám trụ thành phố, anh quyết định về quê lập nghiệp. Tuy nhiên lúc đó vốn liếng không có, bản thân anh cũng không có kiến thức gì về nông nghiệp. Nhờ người thầy giáo thời đại học giới thiệu mô hình trồng nấm rơm, anh quyết định vay tiền làm liều. Thời gian này cơ sở nấm của anh độc quyền trên thị trường Đà Nẵng nên nấm làm tới đâu bán hết tới đó. Thừa thắng, anh thuê đất của các gia đình trong vùng mở rộng mô hình trồng nấm.

Chỉ trong vòng 1 năm anh giàu lên trông thấy, dư tiền mua xe hơi xây nhà lầu nhưng anh lại chọn cách tiết kiệm để giúp những bà con lối xóm xung quanh cùng giàu với mình. Khi không còn đất để tiếp tục do bị giải tỏa, anh mày mò tìm hiểu kỹ thuật trồng nấm tiên tiến ít lệ thuộc vào đất và đã thành công. Anh Quyền tiết lộ, hiện thu nhập của anh từ trồng nấm khoảng 50 triệu đồng/tháng. Có điểm tựa vững chắc anh mạnh dạn nghiên cứu để từng bước cho ra thị trường các sản phẩm đặc biệt từ nấm như: Nước mắm nấm, mắm ruốc từ nấm.

Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Khoa học Cây trồng – Đại học Nông nghiệp I, anh Trương Văn Dư (1981, Hà Nội) tìm được một công việc trong doanh nghiệp nước ngoài tại thủ đô. Đến năm 28 tuổi anh nhận tấm bằng thạc sĩ khi đang làm cho một doanh nghiệp Nhà nước với mức lương cao. Nhận xong bằng thạc sĩ, anh Dư rủ một số bạn bè lên Mộc Châu thuê đất để làm nông nghiệp vì thấy khí hậu ở đây rất phù hợp. Ý tưởng này vấp phải phản đối mạnh mẽ từ gia đình, đặc biệt là mẹ anh. Thất bại khi trồng cây dưa hấu, anh chuyển qua trồng cà chua trái vụ vì nhận ra mặt hàng này nguồn cung ở miền Bắc khá hạn chế. Và anh lại thất bại lần nữa cho tới khi Viện Rau quả Việt Nam được chuyển giao kỹ thuật lai ghép cà chua lên gốc cà tím từ trung tâm phát triển rau thế giới nhưng chưa có đối tác dám nhận thử nghiệm. Anh Dư quyết định mạo hiểm thêm một phen mặc dù chi phí đầu tư cho dự án này không phải nhỏ.

Để thực hiện kế hoạch mới, anh vay một tỷ đồng từ bạn bè, gia đình để làm nhà kính và sản xuất cà chua giống ghép trên cây cà tím trên diện tích ban đầu là 8.000 m2. Không lâu sau đó, anh đã thành công khi ghép được 18.000 cây giống đưa ra thị trường. Năm 2012 anh Dư đã quyết định thành lập Công ty cổ phần GreenFarm. Hiện diện tích sản xuất của Green Farm đã được mở rộng và công suất ghép hàng năm được 2,5 triệu cây giống, với giá bán 1.200 đồng mỗi cây. Ngoài ra, anh còn phát triển thêm diện tích hơn 1,5ha trồng rau an toàn cung cấp cho các nhà bán lẻ ở khắp nhiều tỉnh thành. Anh cho biết, năm 2013, doanh thu từ tiền cây giống ghép khoảng 3 tỷ, sau khi trừ các chi phí thì lợi nhuận đạt trên một tỉ đồng. Còn lợi nhuận từ sản xuất rau an toàn vào khoảng 300 triệu đồng. Những con số trong mơ với phần lớn những thạc sĩ giấy ngoài xã hội…
Những nguời bạn nông dân

Thôi không nói chuyện trên báo đài nữa, giờ nói chuyện thực tế xung quanh, chuyện người thật việc thật nhé.

Bạn tôi, nhà nó ở Bình Thuận và như mọi người, nhà bạn trồng trái thanh long, tôi mới hỏi: “Sao trồng thanh long mà người ta lại giàu được nhỉ?” “Tại sao không?” “Vì cứ đến mùa mình thấy trái thanh long đổ đống ngoài đường như núi, 10 ngàn/ 3kg thế thì giàu làm sao?” “Ôi bạn ơi, cái đống đó là hàng dạt, hàng thải rồi, trái ngon người ta đem đi xuất khẩu hết còn đâu.” “Trời, mình không biết luôn”. “Này nhé, 1 ha thanh long 1 năm thu vài trăm triệu/vụ thôi, nhưng giờ 1 năm người ta thu được mấy vụ lận, trung bình 1 ha thanh long 1 năm cho thu cả tỷ đó bạn. Nhà nghèo thì 1-2ha, trung bình như nhà mình 5-6ha, nhà giàu thì 10-40ha, đại gia thì 50-100ha. Bạn tính đi.” “Thế chi phí thế nào?” “Chi phí cho 1 ha khoảng 500tr/năm, trù chi phí rồi thì 1 ha thanh long 1 năm sẽ sinh lời 500 triệu”. Quả là con số trong mơ. Tôi muốn đi trồng Thanh Long quá.

Một người anh (xã hội) của tôi, vừa mới đăng những bức hình tuyệt vời. Một bức là hình gốc cây củ mỳ chi chít củ, cây mỳ này do anh và bạn bè hợp tác trồng tại … Campuchia. Dạ vâng, anh cùng bạn bè qua đó thuê đất, thuê nhân công làm nông nghiệp, trong khi ở Việt Nam anh vẫn đi làm công việc văn phòng bình thường. Anh cho biết chi phí thuê đất và nhân công bên đó rẻ hơn, trang trại củ mỳ của anh áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới nên cho rất nhiều củ so với thông thường. Còn ở Việt Nam, anh cũng về quê ở miền tây, mua vài sào đất, giá đất nông nghiệp ở quê thì rẻ và anh đang đầu tư trồng cây bưởi da xanh. Nhìn những cây bưởi thấp lè tè mà trái sai trĩu cành anh khoe trên facebook, tôi tin chắc anh sẽ thành công, anh sẽ giàu thôi, nhờ vào nông nghiệp chứ không phải bất cứ công việc bàn giấy nào ở Sài Gòn mà anh đang làm. Tôi tin như thế.
Tôi muốn trở thành cô nông dân

Khi đọc những bài viết về nông nghiệp và nghiên cứu chủ đề này. Tôi có nói chuyện với một cậu bạn, hiện đang làm cafe và kinh doanh thu mua cafe, cậu ấy đã hướng tôi tới việc tìm hiểu một loài cây khác, loài cây mới, với những lợi ích kinh tế to lớn trong tương lai. Và tôi bỗng nhìn thấy một cơ hội tuyệt vời. Không muốn nói gì quá sớm vì tất cả chỉ là một ý tưởng lóe lên bất chợt. Chẳng có gì đảm bảo tôi sẽ thực hiện hay sẽ thành công. Nhưng điều đáng tự hào là, tôi có ý tưởng, có ý tưởng ta sẽ có tất cả. Tuyệt vời làm sao nó lại từ ngành nông nghiệp, một ngành mà trước tới nay tôi chỉ xem thường và bĩu môi.

Có cả ngàn cả tỷ cơ hội để bạn làm giàu bằng nông nghiệp. Đó là cái giàu bền vững và thiết thực, chứ không chỉ đơn giản là mua đi bán lại những mặt hàng đơn lẻ hay chứng khoán, cổ phiếu. Bạn có thể không có nhiều đất đai, bạn có thể không có nhiều vốn, bạn có thể không biết gì về kỹ thuật và công nghệ… Không hề gì cả, nông nghiệp luôn đón chào mọi người đến thử nghiệm, học hỏi và thành công, từng chút một. Bạn sẽ nhận ra, bạn không chỉ giàu nhờ bán quả, bán rau, bán cá mà bạn còn giàu nhờ bán cây con, hạt giống và nguyên liệu nữa. Rồi bạn sẽ lại nhận ra, cam không chỉ là cam, chuối không chỉ là chuối. Mà chúng còn có khả năng gia tăng lợi nhuận tới không ngờ, nếu như bạn biết sáng tạo, lai tạo chúng thành những thứ nghe có vẻ lạ lùng: chuối tím, thanh long ruột đỏ, xoài vỏ tím, dưa hấu ruột vàng, dưa hấu vuông, bưởi Phật… Đó là những thứ đã có trên thị trường. Nếu như bạn có thể tạo ra gì đó, đại loại khoai tây ăn vị như khoai lang, quả cam ăn có vị như quả đào hay lạ lùng hơn là cho ra giống chuối tròn xoe chẳng hạn… Tôi dám cá bạn sẽ giàu lên, rất nhanh thôi.

Ai cũng muốn làm giàu, nhất là thế hệ trẻ chúng ta, nhưng tại sao luôn là các ngành công nghệ, dịch vụ, kinh doanh mới chịu? Chúng ta chẳng có thế mạnh gì ở các lĩnh vực đấy cả, hơn nữa làm nông nghiệp không phải là làm kinh tế sao? Làm nông nghiệp thì không được thành lập công ty, không được làm giám đốc à? Làm gì có chuyện đó. Nên các bạn của tôi ơi. Nếu như bạn đang đau đáu về những biện pháp làm giàu bền vững, nếu như bạn đang phân vân và hoài nghi về những dự định hay kế hoạch mơ hồ cho tương lai. Hãy thử một lần, suy nghĩ đi, bạn có thể làm gì với nông nghiệp?

Biết đâu đấy, Israel nổi danh vì những công nghệ nuôi trồng tiên tiến, xuất khẩu hàng đầu, Việt Nam chúng ta lại trở thành nước hàng đầu thế giới về những thứ trái cây lai tạo “thần tiên” không giống ai với đủ mọi hình thái, màu sắc, hình dạng và hương vị thì sao. Điều đó hoàn toàn có thể xảy ra đúng không? Biết đâu Việt Nam lại rạng danh vì những thứ: chuối tròn xoe Việt Nam, khoai lang-tây Việt Nam, sầu riêng không gai, xoài chín thơm mùi mít, trái bơ tự nhiên ngọt ngon như dằm sữa… Nghe thôi đã thấy hào hứng quá đỗi rồi.

(Tuy nhiên từ góc độ cá nhân, tôi không khuyến khích các phương án nuôi trồng cấy ghép biến đổi gien đâu ạ)
Hi vọng đọc bài viết này, sẽ có nhiều người hơn, suy nghĩ một cách nghiêm túc tới việc trở thành những cô/cậu nông dân. Những cô/cậu nông dân triệu phú, tỷ phú một ngày không xa nhé, để những câu “cô nông dân biết phải làm sao? người nông dân phải làm sao đây? … trên facebook không còn vô nghĩa nữa.



Phi Tuyết

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014

Bản năng gốc



Huỳnh Minh Tâm






Những người xa lạ
đi tìm ngôi nhà của mình
ở một vùng núi khác
không phải quê hương

trong nỗi đam mê khát vọng
họ đi mãi đi mãi
ngôi nhà vẫn không hiện ra
những đám mây trên đỉnh núi thoắc ẩn thoắc hiện

họ tự hỏi
“có lẽ ở một vùng núi khác nữa
cao hơn, xa hơn
ở nơi không có bóng người, tiếng ồn và gió”

lặng lẽ như những tiều phu
cô độc như chồn hoang
đôi khi họ tự hỏi
“phải chăng khát vọng cũng là một bí mật ?”

những đỉnh núi bàng bạc sương sớm
những tia nắng lại quay về chốn cũ
chúng ta là những con người xa lạ
tự bản năng gốc

Cái Lưỡi Câu



Tuệ Thiền







Bạn tôi làm ở một xí nghiệp nọ, gặp tôi anh than thở:

- Tớ chán cái xí nghiệp nổi tiếng này quá, cậu ạ. Tay nhà báo nào đó thổi phồng thành tích của nó hết cỡ. Trong khi ấy, bao nhiêu thối tha lại không đụng đến một chữ!... Càng nổi tiếng, công nhân càng khổ!

Dù ở ngành giáo dục nhưng tôi cũng không lạ gì vấn đề này. Ung nhọt đang mọc khắp cơ thể xã hội… Tôi vỗ vai bạn, khích lệ:

- Hãy đấu tranh! Có tổ chức công đoàn mà.

Bạn tôi nhếch mép nhìn tôi. Một lúc sau anh ấy nói:

- Khi người ta có quan hệ thân thiết với cậu, đối xử tốt với cậu, dù cậu không thật biết lòng dạ người ta như thế nào, cậu vẫn có thiện cảm với người ta chứ?

Tôi nghĩ bạn tôi đã chuyển đề tài, vội nói:

- Dĩ nhiên là có. Ai lại không vậy.

- Đã có thiện cảm, cậu có nỡ làm người ta đau lòng, buồn lòng không?

Tôi dè dặt không trả lời. Bạn tôi trầm giọng:

- Trở lại vấn đề ở xí nghiệp tớ. Tớ đang suy nghĩ nát óc để tìm một biện pháp hữu hiệu nhưng vẫn chưa ra. Phải làm sao loại trừ cái lưỡi câu.

Tôi ngạc nhiên:

- Cái lưỡi câu?

- Vâng. Đó là những cái bắt tay quá thân thiện, những chầu cà phê, những buổi nhậu, những cuộc thăm viếng, những ưu đãi mà ban giám đốc dành cho ban chấp hành công đoàn. Với cái lưỡi câu đó, kẻ tham mồi chạy đâu cho thoát!

Tôi giật mình, chợt thấy sợ những cái lưỡi câu đang hiện ra chỗ này chỗ nọ…

Thảo thơm Rằm tháng Bảy




Phan Trang Hy






Lâu rồi ý niệm của câu tục ngữ Rằm tháng Bảy, kẻ quảy người khôngvẫn cứ in sâu trong lòng tôi. Tôi vẫn còn nhớ lúc cuộc sống khốn khó, tôi đã từng nghĩ, ừ thì mình có thì mình có mâm lễ, còn không thì năm ba cây hương cũng được. Rồi cũng qua chuyện cúng kiến, lễ bái.

Thế nhưng, trong tôi mãi vọng lên điệu kinh cầu về Rằm tháng Bảy. Đây là mùa báo hiếu của các Phật tử, của những người con đối với mẹ cha. Mục Kiền Liên là hiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát, cứu vớt linh hồn mẹ. Trong tôi cầu mong đạo hiếu của Mục Kiền Liên soi rọi tâm hồn mình để ứng xử với cha mẹ, tiên tổ, với những tiền nhân sao cho phải.



Tôi cũng được biết thêm cách hiểu khác như là tâm niệm của nhân gian về Rằm tháng Bảy. Đó là dịp xá tội vong nhân. Không cần biết người đã mất là ai, là kẻ thế nào, chỉ biết đó là hồn oan của những người đã mất, những hồn tìm sự an bình trong sự cầu an của người trần thế. Tôi cũng từng nghe bà nội tôi kể chuyện cúng cô hồn Rằm tháng Bảy là cúng các hồn không nơi nương tựa, cúng hồn đói cái ăn - cái ăn bởi kinh bởi kệ. Người đã chết, dù có tội, ít ra đến Rằm tháng Bảy cũng được xá tội, mong được bình an nơi cõi phúc. Trước mắt tôi là những hồn ma vất vưởng xếp thành hàng. Họ đi, đi âm thầm, mong được xá tội. Trong tôi hiện lên những hình ảnh của những hồn trong “Văn chiêu hồn” của Nguyễn Du. Có thể họ là những kẻ đâm thuê chém mướn, cũng có thể họ là kẻ cướp vợ đoạt chồng kẻ khác, có khi họ dối dưới lừa trên, cũng có khi họ là kẻ có chức có quyền cướp đất cướp ruộng của dân. Cũng có khi, họ là kẻ tranh chức đoạt quyền, cũng có khi là kẻ buôn thần bán thánh... Nói chung, các hồn ma đều mong được ân xá. Trong tiếng cầu nguyện của người đang sống, trong trầm hương của Rằm tháng Bảy, tôi thấy các hồn ma như được hồi tâm. Họ thực sự ăn năn hối lỗi. Tôi như thấy các hồn đang nguyện xin được xá tội. Duy không thấy được hồn của những kẻ bán nước cầu vinh. Tôi chẳng thấy hồn của Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống ở đâu. Nghe đâu bọn chúng đang chịu hình phạt ở hoả ngục, phải “khóc lóc nghiến răng đời đời”(Kinh Thánh). Thảm thay ! Tội nghiệp thay !



Bất chợt trong tôi cũng hiện lên hình ảnh những con người thực ở cõi đời, họ cũng thiếu ăn, thiếu gạo, thiếu muối trong những ngày giáp hạt, trong những lúc bão lũ, thiên tai...Này đây là hình ảnh còm xương của bao trẻ, bao dân lành miền núi thèm hơi muối, chút cơm. Này đây là những bàn tay giơ ra đón nhận gói mì tôm, chai nước. Này đây là cái chết oan khiên khi qua con suối, bờ nương...Họ làm gì nên tội mà phải đói khổ ở cõi trần ? Họ làm gì nên tội mà phải chịu thay cho tôi, cho bạn ?



Cũng về Rằm tháng Bảy, tôi quên làm sao được những lời của thầy tôi nói về thời cuộc, khi tôi học lớp 8 năm học 1969 - 1970 ở trường Đông Giang, rằng Rằm tháng Bảy là lễ giỗ những người chết trận. Lúc đó tôi lơ mơ hiểu rằng đã là người chết trận là phải được người đời sau làm lễ tưởng nhớ ghi ơn sự hy sinh của họ. Tôi nhớ lại lời kể của thầy, rằng, nước ta có thời bị chia cắt làm hai, lấy sông Gianh làm giới tuyến. Nhưng binh lính tử trận của cả hai bên đều được đời sau hương khói. Tôi nghe lời thầy, rằng như thế mới hợp đạo làm người. Rằng tiền nhân có lúc bất đồng ý kiến, có lúc gây gổ, đánh nhau vì quyền lợi nào đó, nhưng suy cho cùng, để dân phụng thờ tưởng nhớ, phải là người có công với dân tộc. Ai vì dân tộc đều được phụng thờ. Quân Trịnh, quân Nguyễn vì ai mà một thời đổ máu ? Vì ai mà hy sinh ? Vì ai mà chút xương tàn không tìm thấy ? Hồn của các chiến sĩ hai bên có khác gì nhau trong và sau trận chiến ? Hồn của họ có khác gì nhau trong ý niệm của thời gian, trong sự phán xét của người cùng thời, của hậu thế ?



Tôi bâng khuâng, như thấy trước mắt mình hồn của những chiến sĩ hai bên thuở nào cùng lặng im nghe lời khấn niệm của người đang sống, của kẻ cầm quyền, của người theo đạo này, tôn giáo nọ đang mong linh hồn của họ được siêu thoát. Các hồn như đang trò chuyện cùng nhau. Không có oán thù, không có tị hiềm, khích bác. Chỉ có sự hoà hợp của những hồn chiến sĩ năm nào. Chỉ có sự nguyện cầu cho đất nước an lạc.

Bao nén hương lòng thắp trong Rằm tháng Bảy. Khói hương vẽ đường đi cho những hồn về nơi cực lạc. Khói hương mang lòng thành đến người đã khuất. Khói hương Rằm tháng Bảy thảo thơm hồn con dân Việt như là tấm lòng nguyện cầu an lạc đến cả thế gian.

Con đường sáng tạo- Friedrich Nietzsche Ba biến thái con đường của kẻ sáng tạo



Friedrich Nietzsche



Giới thiệu

“Tôi là con người tiền định chỉ định những giá trị cho muôn ngàn năm. Một người ẩn khuất, bị thúc bách đủ trăm chiều, một người không hoan lạc, đã khước từ mọi tổ quốc, mọi nghỉ ngơi” (Der Wille zur Macht).

Nhận định trên thâu tóm cả cuộc đời và tư tưởng Nietzsche, một trong những triết gia vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng Tây phương, một khuôn mặt định mệnh, cưỡng bách ta phải có những quyết định tối hậu, một người mà tên tuổi một ngày kia sẽ nối kết với những kỷ niệm của một biến cố khủng khiếp, “kỷ niệm của một cơn khủng hoảng độc nhất trong lịch sử của trái đất, của cuộc xô xát sâu xa giữa những ý thức, một nghị quyết chống lại tất cả những gì đã được tin tưởng, yêu sách và thần thánh hóa từ xưa tới nay” (Ecce Homo). Biến cố đó, cơn khủng hoảng đó, cuộc xô xát đó là cuộc “Đảo hoán mọi giá trị” Nietzsche đã thực hiện. Và hiện thân lý tưởng của sự đảo hoán giá trị Nietzsche gọi là kẻ Sáng tạo (der Schaffende). Nietzsche đã khai chiến chống lại siêu hình học, chống lại tư tưởng trừu tượng về hữu thể. Nietzsche thay thế hữu thể học bằng giá trị học (axiologie). Ông khước từ khái niệm, chủ thuyết duy lý, sự áp chế thực tại của tư tưởng, sự đầu độc cuộc đời của luân lý, tôn giáo, sự nghèo nàn và bất lực hóa con người của Thượng Đế. Ông muốn đòi lại coi như sở hữu và sản phẩm của con người tất cả vẻ đẹp, tất cả sự cao quí mà con người đã cho những sự vật thực hay tưởng tượng vay mượn. “Con người trong vai trò thi sĩ, tư tưởng gia, Thượng Đế, tình yêu, sức mạnh – ôi! Hắn đã lạc quyên cho sự vật, để tự làm nghèo mình đi và cảm thấy khốn khổ với lòng đại lượng vương giả xiết bao! Sự khắc kỷ lớn lao nhất của hắn, cho đến giớ, khi hắn ngưỡng mộ hay tôn thờ, là biết giấu đi không cho mình hay rằng chính hắn đã sáng tạo cái mà hắn tôn thờ ngưỡng mộ” (Der Wille zur Macht). Vì “Con người đã cho sự vật giá trị, để tự bảo tồn; chính hắn đã cho sự vật một ý nghĩa – một ý nghĩa nhân loại. Vì lẽ đó hắn được gọi là người – kẻ thẩm định giá trị”.

Thẩm định giá trị là sáng tạo (Schätzen ist schaffen) (Also sprach Zarathustra). Nếu không có sự sáng tạo này “cuộc đời chỉ là một trái hồ đào rỗng ruột”. Vì cuộc sống không ngừng nên sự sáng tạo cũng phải không ngừng và triệt để. Cái mà chúng ta gọi là thế giới, là cuộc đời, chúng ta phải bắt đầu bằng cách sáng tạo nó: lý trí chúng ta, óc tưởng tượng của chúng ta, ý chí chúng ta, tình yêu chúng ta phải trở thành thế giới ấy, cuộc đời ấy! Trước hết những kẻ sáng tạo là những cá nhân. Luôn luôn kẻ tình nhân và kẻ khổ đau sáng tạo. Lửa yêu thương, lửa hận thù, lửa sưởi ấm tâm hồn cháy đỏ trong mọi giá trị. “Cái gì đã cho sự vật mượn một ý nghĩa, một giá trị, một ý vị?” Trái tim đã sáng tạo, đã khát vọng và đã sáng tạo bởi khát vọng. Nó đã tạo ra lạc thú và đau khổ. Nó muốn phiền não chán chê. Chúng ta phải cảm nghiệm và chấp nhận mọi khổ đau mà người và vật đã từng chịu đựng, và chúng ta phải có một mục đích để cho sự khổ đau có một ý nghĩa”. Không những thế chúng ta còn phải “Tạo khổ đau”. Cho mình và cho người khác để khiến họ “có thể vươn tới một cuộc sống cao cả, cuộc sống của kẻ chiến thắng”.

Con đường sáng tạo là con đường cô đơn, trắc trở; trải qua nhiều hóa thân.

Trước hết tinh thần trở thành lạc đà, lạc đà đi vào sa mạc và trở thành sư tử, sau cùng, sư tử trở thành hài nhi. Lạc đà là con vật chở đồ qua sa mạc, trên lưng nó gánh nặng của văn hóa, truyền thống giáo dục: những giá trị cũ. Sư tử là chúa tể sa mạc, con vật hung hăng đập phá những giá trị đã thiết định. Hài nhi là Trò Chơi, là sự hồn nhiên, là bước khởi đầu, là bánh xe quay trên chính mình, sáng tạo những giá trị mới. Ba biến thái trên tương ứng khít khao với sự tiến triển của tư tưởng và tác phẩm Nietzsche.

Năm 1871, Nietzsche viết Khởi nguyên của bi kịch. Ông diễn dịch, phục hồi nghệ thuật và văn minh Hy Lạp trong ánh sáng tư tưởng hai bậc thầy Schopenhauer và Wagner, theo thị quan nghệ thuật. Đó là thời kỳ lạc đà, thời kỳ thẩm mỹ - tâm lý (esthetico – psychologique) với những tác phẩm: Những suy tưởng phi thời; David Strauss, nhà văn và kẻ nhiệt tin (1873), Schopenhauer nhà giáo dục (1874), Richard Wagner ở Bayreuth (1876).

Năm 1878 bắt đầu giai đoạn sư tử, giai đoạn khoa học – lột mặt nạ (scientico - démystificatrice), phê phán mọi giá trị theo thị quan khoa học duy nghiệm, giai đoạn bất nhẫn, đau yếu, tàn bạo: “Không thể nào đọc được! Không thể nào viết được, trừ họa hoằn! Không giao thiệp với ai! không thể nào nghe được âm nhạc!” Đó là thời kỳ của những tác phẩm bút chiến dữ dội: Phàm phu – quá phàm phu (1878), Viễn khách và bóng hình mình (1880), Bình minh (1884).

Năm 1882, tác phẩm Tri thức hân hoan mở đầu cho giai đoạn cuối cùng: giai đoạn hài nhi, khẳng định mọi sự và sáng tạo giá trị mới theo thị quan Phục hồi vĩnh cửu với Zarathustra đã nói như thế (1883 - 85), Bên kia Thiện Ác (1886), Phổ hệ luân lý (1887), Trường hợp Wagner, Hoàng hôn của những thần tượng, Phản vương, Ecce Homo và Nietzsche chống Wagner (1888). Sau đó là mười năm im lặng câm nín cho đến ngày nhắm mắt. Như thế, trong khoảng thời gian gần hai mươi năm, Nietzsche đã tạo ra một tác phẩm tuyệt vời, gây một cơn chấn động bửa đôi lịch sử tâm linh Tây Phương.

Siêu sử bắt đầu.

La surhistoire commence.

Bắt đầu như thế nào, bắt đầu từ bao giờ? Hỡi kẻ sáng tạo hãy trả lời câu hỏi đó!



*



Về ba biến thể

Ta sắp thuyết minh cho các ngươi về ba biến thái của tinh thần: cách nào tinh thần trở thành lạc đà, cách nào lạc đà trở thành sư tử, và cuối cùng cách nào sư tử trở thành hài nhi.

Có biết bao gánh nặng dành cho tinh thần, cho tinh thần dũng mãnh và kiên trì mà sự kính trọng ngự trị: dũng lực của nó khẩn nài những gánh nặng nặng nề nhất.

Có gì nặng nề đâu? Tinh thần dũng mãnh hỏi: rồi nó quì xuống như con lạc đà và muốn người ta chồng chất nặng.

Đâu là gánh nặng nề nhất, hỡi người anh hùng? Tinh thần dũng mãnh hỏi, để ta chồng chất lên ta và để cho sức mạnh của ta thỏa nguyện.

Há chẳng phải thế này: tự hạ mình để làm đau nhức lòng kiêu hãnh mình? Làm lóe lên cơn cuồng điên của mình để hiến minh triết mình thành trò cười?

Hoặc phải chăng là thế này: bỏ rơi chính nghĩa vào lúc nó mừng chiến thắng? Trèo lên núi cao để cám dỗ ma vương?

Hay là thế này: dinh dưỡng bằng trái dẻ rừng vả cỏ rau trí thức và chịu đói khát trong tâm hồn vì tình yêu chân lý?

Hoặc là thế này: đau bệnh và đuổi về những kẻ chăm sóc, kết bạn với những kẻ điếc không bao giờ nghe thấy điều bạn muốn?

Hoặc là thế này: yêu kẻ khinh bỉ ta và chia tay cho ma quỉ lúc nó muốn nhát ta?

Tinh thần dũng mãnh gánh vác tất cả những gánh nặng đó; như con lạc đà ngay sau khi được chồng chất nặng vội vã hướng về sa mặc, cũng thế tinh thần vội vã hướng về sa mạc của mình.

Nhưng trong thẳm cùng sa mạc tịch liêu nhất viên thành biến thể thứ hai: nơi đây tinh thần trở thành sư tử; nó muốn chinh phục tự do và làm chủ sa mạc của chính mình.

Nó tìm kiếm nơi đây bậc thầy cuối cùng của nó; nó muốn kẻ thù của bậc thầy này và cũng như kẻ thù của thần thánh cuối cùng của nó; nó muốn tranh thắng với con rồng vĩ đại.

Con rồng vĩ đại mà tinh thần không muốn gọi là thần thánh cũng chẳng muốn tôn là thầy là gì? “Mi phải” là tên gọi của con rồng vĩ đại. Nhưng tinh thần của sư tử nói: “Ta muốn”.

“Mi phải” rình rập nó bên đường, lấp lánh ánh vàng dưới lớp vỏ hàng ngàn vẩy và trên mỗi cái vẩy chói sáng bằng những chữ rực vàng: “Mi phải!”.

Những giá trị ngàn đời chói sáng trên những vẩy này và con rồng mạnh mẽ nhất trong những con rồng nói thế này: “Giá trị của mọi sự chói sáng trên ta”.

Tất cả mọi giá trị đều đã được sáng tạo, và tất cả mọi giá trị đã được sáng tạo là ta. Quả thực, không được quyền có thêm “Ta muốn” nữa! Con rồng nói như vậy.

Hỡi anh em, tại sao lại cần sư tử của tinh thần? Con vật mạnh mẽ khắc kỷ và khuất phục chưa đủ sao?

Sáng tạo những giá trị mới, - ngay cả con sư tử cũng chưa đủ khả năng: nhưng trở nên thung dung cho sự sáng tạo mới, - đó là điều quyền năng con sư tử có thể.

Tự giải phóng, đối trị một tiếng “Không” thiêng liêng ngay cả với bổn phận: hỡi anh em, đó là chức phận thuộc sư tử.

Chinh phục quyền sáng tạo những giá trị mới, - đó là một cuộc chinh phục khủng khiếp cho một tinh thần kiên nhẫn và cung kính. Quả thực, đó là một hành động cướp bóc và việc thích hợp với một con vật săn mồi.

Ngày xưa nó yêu chuộng: “Mi phải” như tài sản thiêng liêng nhất của nó: bây giờ nó phải tìm ảo tưởng và sự chuyên chế, ngay cả trong cái thiêng liêng nhất, ngõ hầu bảo đảm tự do của nó nhờ vào tình yêu của nó: phải có một con sư tử cho một hành động cướp bóc này,

Nhưng hãy nói cho ta biết, hỡi anh em, đứa hài nhi có thế làm được điều gì mà con sư tử không làm được? Tại sao con sư tử tàn bạo phải trở thành hài nhi?

Hài nhi là hồn nhiên và quên lãng, một khởi đầu mới mẻ và một trò chơi, một bánh xe quay trên chính mình, một nguyên động đệ nhất, một tiếng “Ừ” thiêng liêng.

Vâng, để cho trò chơi sáng tạo, hỡi anh em, cần phải có tiếng “Ừ” thiêng liêng: chính ý chí nó là điều bây giờ tinh thần muốn, chính thế giới của nó là cái mà kẻ lạc lõng bơ vơ ở đời muốn tiếp thu.

Ta đã trần thuyết cho anh em ba biến thể của tinh thần: cách nào tinh thần trở thành lạc đà, cách nào lạc đà trở thành sư tử, và cách nào cuối cùng sư tử thành hài nhi.

Zarathustra đã nói như vậy. Và trong thời gian đó người tạm lưu lại một thành phố mà người ta gọi là Con Bò Cái nhiều mầu.


Von den drei Verwandlungen

Drei Verwandlungen nenne ich euch des Geistes: wie der Geist zum Kamele wird, und zum Löwen das Kamel, und zum Kinde zuletzt der Löwe.

Vieles Schwere gibt es dem Geiste, dem starken, tragsamen Geiste, dem Ehrfurcht innewohnt: nach dem Schweren und Schwersten verlangt seine Stärke.

Was ist schwer? So fragt der tragsame Geist, so kniet er nieder dem Kamele gleich, und will gut beladen sein.

Was ist das Schwerste, ihr Helden? So fragt der tragsame Geist, daß ich es auf mich nehme und meiner Stärke froh werde.

Ist es nicht das: sich erniedrigen, um seinem Hochmut wehe zu tun? Seine Torheit leuchten lassen, um seiner Weisheit zu spotten?

Oder ist es das: von unserer Sache scheiden, wenn sie ihren Sieg feiert? Auf hohe Berge steigen, um den Versucher zu versuchen?

Oder ist es das: sich von Eicheln und Gras der Erkenntnis nähren und um der Wahrheit willen an der Seele Hunger leiden?

Oder ist es das: krank sein und die Tröster heimschicken und mit Tauben Freundschaft schlieBen, die niemals hören, was du willst?

Oder ist es das: in schmutziges Wasser steigen, wenn es das Wasser der Wahrheit ist, und kalte Frösche und heiBe Kröten nicht von sich weisen?

Oder ist es das: die lieben, die uns verachten, und dem Gespenste die Hand reichen, wenn es uns fürchten machen will?

Alles dies Schwerste ninmt der tragsame Geist auf sich: dem Kamele gleich, das belanden in die Wüste, also eilt er in seine Wüste.

Aber in der einsamsten Wüste geschieht die zweite Verwandlung: zum Löwen wird hier der Geist, Freiheit will er sich erbeuten und Herr sein in seiner eignen Wüste.

Seinen letzten Herrn sucht er sich hier: Feind will er ihm werden und scinem letzten Gotte, um Sieg will er mit dem groBen Drachen ringen.

Welches ist der groBe Drache, den der Geist nicht mehr Herr und Gott heßen mag? "Du sollst" heiBt der große Drache. Aber der Geist des Löwen sagt “Ich will”.

“Du sollst" liegt ihm am Wege, goldfunkelnd, ein Schuppentier, und an jeder Schuppe glänzt golden "Du sollst!”.

Tausendjährige Werte glänzen an diesen Schuppen, und also spricht der mächtigste aller Drachen: “Aller Wert der Dinge – der glänzt an mir.”

“Aller Wert ward schon geschaffen, und aller geschaffene Wert – das bin ich. Wahrlich, es soll kein “Ich will” mehr geben!” Also spricht der Drache.

Meine Bruder, wozu bedarf es des Löwen im Geiste? Was genügt nich das lastbare Tier, das entsagt und ehrfürchtig ist?

Neuw Werte schaffen – das vermag auch der Löwe noch nicht: aber Freiheit sich schaffen zu neuem Schaffen – das vermag die Macht des Löwen.

Freiheit sich schaffen und ein heiliges Nein auch vor der Pflicht: dazu, meine Brüder, bedarf es des Löwen.

Recht sich nehmen zu neuen Werten – das ist das furchtbarste Nehmen für einen tragsamen und ehrfürchtigen Geist. Wahrlich, ein Rauben ist es ihm und eines raubenden Tieres Sache.

Als sein Heiligstes liebte er einst das “Du solls”: nun muß er Wahn und Willkür auch noch im Heiligsten finden, daß er sich Freiheit raube von seiner Liebe: des Löwen bedarf es zu diesem Raube.

Aber sagt, meinn Brüder, was vermag noch das Kind, das auch der Löwe nicht vermochte? Was muß der raubende Löwe auch noch zum Kinde werden?

Unschuld ist das Kind und Vergessen, ein Neubeginnen, ein Spiel, ein aus sich rollendes Rad, eine erste Bewegung, ein heiliges Ja–sagen.

Ja, zum Spiele des Schaffens, meine Brüder, bedarf es eines heiligen Ja–sagens: seinen Willen will nun der Geist, seine Welt gewinnt sich der Weltverlorene.

Drei Verwandlungen nannte ich euch des Geistes: wie der Geist zum Kamele ward, und zum Löwen das Kamel, und der Löwe zuletzt zum Kinde.

Also sprach Zarathustra. Und damals weilte er in der Stadt, welche genannt wird: Die bunte Kuh.



*



Về con đường của kẻ sáng tạo

Bạn muốn đi vào trong cô đơn, hỡi người anh em? Bạn muốn tìm đường dẫn về chính mình? Xin hãy dừng chân giây lát và lắng nghe ta.

“Kẻ nào tìm kiếm sẽ hư mất dễ dàng. Tất cả cô đơn đều lầm lỗi”: bầy thú vật nói như thế. Và lâu nay bạn đã thuộc về bầy thú.

Ngay chính trong bạn nữa, tiếng nói của bầy thú hãy còn vang vọng. Và khi bạn nói: “Ta không chia sẻ ý thức với người nữa,” thì đó sẽ là lời than thở và nỗi đớn đau.

Đây, chính cái ý thức cộng đồng ấy đã sinh ra niềm đau đớn này và ánh sáng cuối cùng của ý thức hãy còn soi tỏ nỗi phiền não bạn.

Nhưng bạn muốn đi theo con đường của nỗi phiền não bạn, con đường dẫn về chính mình. Vậy hãy cho ta thấy bạn có đủ quyền uy và sức mạnh.

Bạn có phải là một sức mạnh mới và một quyền uy mới? Một nguyên động đệ nhất? Một bánh xe quay trên chính mình? Bạn có thể cưỡng bức những vì sao châu tuần quanh bạn?

Than ôi! Biết bao tham muốn hướng về những đỉnh cao! Bao dao động của những kẻ nhiều xa vọng. Hãy cho ta thấy bạn không phải là kẻ tham lam cũng chẳng phải là kẻ nhiều xa vọng!

Than ôi! Biết bao tư tưởng vĩ đại của tác động không hơn bào ảnh bọt bèo. Chúng phồng lên và tan vỡ còn nhanh hơn hết nữa.

Bạn nói bạn giải thoát! Ta muốn biết tư tưởng chủ yếu của bạn chứ không muốn biết rằng bạn đã thoát khỏi một cái ách.

Bạn có phải là kẻ có quyền thoát khỏi ách không? Có những kẻ đánh mất giá trị cuối cùng của họ khi rũ bỏ ách phục tòng.

Giải thoát khỏi cái gì? Điều đó không liên quan gì tới Zarathustra! Nhưng con mắt sáng ngời của bạn phải báo gì cho ta biết: giải thoát để làm gì?

Bạn có kế hoạch định cho chính mình điều thiện ác của chính bạn, và treo ý chí của bạn trên đầu mình như một luật lệ chăng? Bạn có thể là phán quan của chính luật lệ bạn chăng?

Thật là khủng khiếp khi ở một mình với phán quan và kẻ hành hình của chính luật lệ mình. Bởi thế một vì sao lao vào thinh không và vào cơn gió lạnh của cô đơn.

Hôm nay bạn hãy còn đau khổ vì đám đông, bạn kẻ độc nhất: hôm nay lòng can đảm và hy vọng của bạn hãy còn nguyên vẹn.

Nhưng một ngày kia bạn sẽ chán nỗi cô đơn của bạn, lòng kiêu hãnh của bạn cúi đầu và lòng can đảm của bạn nghiến răng. Một ngày kia bạn sẽ la lên: “Ta cô đơn!”.

Một ngày kia bạn sẽ không nhìn thấy cái cao cả trong bạn nữa, và cái thấp hèn sẽ rất gần kề. Ngay cả điều trác tuyệt của bạn cũng khiến bạn sợ hãi như một bóng ma. Một ngày kia bạn sẽ la lên: “Tất cả đều sai lầm!”.

Có những tình cảm muốn giết chết kẻ cô đơn: nếu chúng không đạt mục đích, thì chính chúng phải hủy hoại nhau! Nhưng bạn có thể là kẻ sát nhân chăng?

Bạn ơi, bạn đã hiểu chữ “khinh bỉ” là thế nào chưa? Và nỗi giày vò của công lý bạn buộc bạn phải công bình đối với những kẻ khinh bỉ bạn?

Bạn ép buộc nhiều người phải đổi ý kiến về bạn quá; họ oán hận bạn vô cùng. Bạn lại gần họ và bạn đi qua; họ sẽ không bao giờ tha thứ bạn đâu.

Bạn vượt quá họ: nhưng bạn càng lên cao, con mắt của những kẻ tị hiềm càng nhìn thấy bạn nhỏ bé đi. Và, kẻ bay lên cao nhất chính là kẻ người ta khinh ghét nhất.

“Làm sao các người có thể thành công bình đối với ta! – bạn sẽ phải nói như vậy. – Ta chọn cho ta sự bất công của các ngươi, như phần dành cho ta vậy.

Bất công và rác rưởi, đó là những cái họ ném với theo kẻ cô đơn: tuy nhiên, bạn ơi, nếu bạn muốn là một vì sao, thì bạn phải soi sáng họ dù sao mặc lòng!

Và hãy coi chừng những kẻ tốt và những kẻ công chính! Họ muốn đóng đinh những kẻ sáng tạo ra đức hạnh mình, - họ ghét kẻ cô đơn.

Hãy coi chừng cả sự hồn nhiên thánh thiện nữa! Tất cả cái gì không đơn giản đối với nó đều trái luân thường đạo lý; nó cũng muốn đùa rỡn với lửa – lửa của những đống củi thiêu đốt tội nhân.

Và coi chừng những thái quá của tình yêu bạn! Vội vã thay kẻ cô đơn chìa tay về phía người đầu tiên gặp gỡ.

Có rất nhiều kẻ bạn không được chìa tay ra mà chỉ có thể giơ chân: và ta còn muốn chân bạn phải có móng vuốt nữa.

Nhưng kẻ thù nguy hiểm nhất bạn có thể gặp bao giờ cũng sẽ là chính bạn; bạn rình rập bạn trong tận cùng cốc thâm sơn.

Cô đơn, bạn đi theo con đường dẫn về chính bạn! và con đường của bạn vượt qua trước bạn và trước bầy quỉ của bạn.

Bạn sẽ dị đoan với chính bạn, phù thủy và thầy bói, điên cuồng và bất tín, trái luân thường và hiểm độc.

Bạn phải muốn tự thiêu trong chính ngọn lửa của bạn: làm sao bạn muốn đổi mới mà trước hết lại không hóa thành than!

Cô đơn, bạn đi theo con đường của kẻ sáng tạo: bạn muốn tạo ra một thần thánh và bảy con quỉ của bạn!

Cô đơn, bạn đi theo con đường của tình nhân: bạn yêu chính bạn, vì lẽ đó bạn khinh bỉ bạn, như chỉ những kẻ tình nhân biết khinh bỉ.

Kẻ tình nhân muốn sáng tạo, bởi hắn khinh bỉ! Biết gì về tình yêu, kẻ không biết khinh bỉ chính cái mình yêu cầu.

Hãy đi vào nỗi cô đơn của bạn, hỡi người anh em, với tình yêu của bạn và ý chí sáng tạo của bạn; vào buổi xế chiều công lý sẽ khập khễnh lết lê theo bạn.

Hãy đi vào nỗi cô đơn của bạn, với nước mắt ta, hỡi người anh em. Ta yêu kẻ muốn sáng tạo vượt quá mình và tàn tạ như vậy.”

Zarathustra đã nói như thế.

Cuộc đại tuyệt chủng thứ 6 đã bắt đầu






Các nhà khoa học tuyên bố, cuộc đại tuyệt chủng thứ 6 đã bắt đầu diễn ra trên trái đất, và “thủ phạm” không ai khác chính là con người.


Trong một cuộc khảo cứu mới được đăng tải trên tạp chí Science, một nhóm nhà nghiên cứu quốc tế cho biết, sự đa dạng sinh học hiện thời của Trái đất, sản phẩm của 3,5 tỉ năm tiến hóa “thử và sai”, là thành quả cao nhất trong lịch sử sự sống. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu hiện cảnh báo, sự đa dạng này đã đạt đến điểm tới hạn.

Theo các chuyên gia, trong khi các cuộc đại tuyệt chủng trước đây bắt nguồn từ sự biến đổi tự nhiên của hành tinh hoặc những vụ tấn công thảm họa của thiên thạch, làn sóng chết dần chết mòn của các loài sinh vật hiện tại có thể liên quan đến hoạt động của con người.

Giáo sư sinh vật học Rodolfo Dirzo thuộc Đại học Stanford (Mỹ), người đứng đầu nghiên cứu, đã đề cập tới một thời kỳ có tên gọi “Anthropocene defaunation”, ám chỉ sự suy giảm số lượng các loài động vật ăn cỏ và săn mồi hàng đầu trên hành tinh do tác động của con người tới môi trường.

Kể từ năm 1500, hơn 320 loài động vật có xương sống trên cạn đã lâm vào tình trạng tuyệt chủng. Các loài còn lại giảm 25% dân số so với trước. Tình trạng thảm khốc tương tự cũng đang xảy ra với các sinh vật không có xương sống.



Ở động vật có xương sống, 16 – 33% các loài khắp toàn cầu ước tính đang bị đe dọa hoặc trong tình thế cực kỳ nguy hiểm. Các thành viên trong quần thể động vật lớn và khổng lồ, bao gồm cả voi, hà mã, gấu bắc cực và vô số loài khác khắp thế giới, đang đối mặt với tỉ lệ suy giảm nhanh nhất, một xu hướng từng xuất hiện trong các cuộc đại tuyệt chủng trước kia.

“Nơi nào có mật độ người cư trú dày đặc, nơi đó sẽ có tỉ lệ suy giảm các động vật ăn cỏ và động vật săn mồi cao, đồng thời lại có sự xuất hiện đông đảo của những động vật gặm nhấm và mầm bệnh chúng mang theo”, giáo sư Dirzo cho biết.

Tương tự, trong khi dân số loài người tăng gấp đôi trong 35 năm qua thì số lượng động vật không có xương sống, chẳng hạn như ong, bướm, nhện và giun, lại suy giảm 45% cùng thời gian đó. Cũng như với các động vật lớn hơn, sự suy giảm số lượng các loài sinh vật không có xương sống này chủ yếu do mất nơi cư trú và sự biến đổi khí hậu toàn cầu, có liên quan đến hoạt động của con người.

Những sự suy giảm trên có thể đang ảnh hưởng ngược trở lại đời sống hàng ngày của con người vì vai trò của chúng. Chẳng hạn như, các con trùng đang thụ phấn cho gần 75% mùa màng của thế giới, ước tính tương đương 10% giá trị kinh tế của nguồn cung lương thực toàn cầu. Côn trùng cũng giữ vai trò thiết yếu trong việc cung cấp dinh dưỡng và phân hủy vật liệu hữu cơ, giúp bảo đảm hiệu quả của hệ sinh thái.

Ông Dirzo nói, các giải pháp để đối phó với cuộc đại tuyệt chủng thứ sáu này khá phức tạp. Việc con người giảm ngay lập tức tốc độ thay đổi môi trường sống cũng như việc khai thác, bóc lột quá mức các loài động vật sẽ hữu ích, nhưng những giải pháp này cần phải được điều chỉnh phù hợp với từng vùng và từng tình huống cụ thể.

Ông Dirzo bày tỏ hy vọng, việc nâng cao nhận thức về cuộc đại tuyệt chủng đang tiếp diễn cũng như các hậu quả gắn liền với nó sẽ giúp tạo ra sự thay đổi thiết yếu.


5 cuộc đại tuyệt chủng từng xảy ra trên trái đất

1. Đại tuyệt chủng chấm dứt Đại cổ sinh

Sự cố đầu tiên trong 5 cuộc đại tuyệt chủng từng được ghi nhận xảy ra trên trái đất cách đây khoảng 440 triệu năm. Đây có thể là cuộc đại tuyệt chủng dữ dội thứ hai trong lịch sử. Gần như mọi sự sống trong biển vào thời điểm đó và khoảng 85% các loài biến mất.

2. Đại tuyệt chủng cuối kỷ Devon

Cách đây khoảng 359 – 375 triệu năm, các thay đổi lớn về môi trường đã gây ra xóa sạch các nhóm cá chủ chốt trên trái đất và ngăn chặn các dải san hồ ngầm mới hình thành suốt 100 triệu năm.

3. Đại tuyệt chủng chấm dứt kỷ Pecmi

Cuộc đại tuyệt chủng lớn nhất trong lịch sử và ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến hệ sinh thái Trái đất diễn ra cách đây 252 triệu năm. Gần như 97% các loài biến mất vĩnh viễn và chỉ còn hóa thạch sót lại.

4. Đại tuyệt chủng chấm dứt kỷ Triat

Khủng long xuất hiện lần đầu tiên ở đầu kỷ Triat, nhưng các động vật lưỡng cư lớn và bò sát giống động vật có vú lúc này mới là những sinh vật thống trị trên cạn. Cuộc đại tuyệt chủng chớp nhoáng, diễn ra cách đây 201 triệu năm đã thay đổi điều đó.

5. Đại tuyệt chủng chấm dứt kỷ Phấn trắng

Một thiên thạch đã đâm vào trái đất cách đây 66 triệu năm và thường được coi là nguyên nhân làm chấm dứt sự thống trị của khủng long trên hành tinh chúng ta.

Giáo dục phương Tây có phải lựa chọn hoàn hảo?



Sau khi về nước, chị Nguyễn Thu Thảo làm Trưởng đại diện của Quỹ Cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam. Năm 2011, Thảo là người Việt đầu tiên tham gia chương trinh đào tạo toàn cầu của Tổ chức Rotary về Hòa giải và Gìn giữ Hòa bình, tại Đại học Chulalongkorn, Thái Lan, kéo dài bốn tháng. Năm 2013, Thảo là người Việt trẻ nhất trong số năm người Việt đầu tiên được mời tham gia Chương trình Lãnh đạo mang tên Tổng thống Eisenhower, kéo dài bảy tuần tại Hoa Kỳ.



Nguyễn Thu Thảo (giữa) và Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam ông David Shear (phải) trong lễ kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Ảnh nhân vật cung cấp
Thảo hiện sinh sống tại Úc cùng chồng Tiến sỹ Patrick Griffiths và hai con. Ngoài nghiên cứu chuyên môn về tác động của bom mìn vật nổ về đói nghèo ở Việt Nam, Thảo tiếp tục làm cố vấn cho Quỹ Cựu chiến binh Hoa Kỳ tại Việt Nam, tích cực đóng góp vào chương trình Fulbright và chương trình Lãnh đạo Eisenhower tại Việt Nam.

Thảo chia sẻ những trải nghiệm và quan điểm về phát triển giáo dục tại Việt Nam.
Không thay đổi, VN sẽ tiếp tục 'tị nạn giáo dục'

Cụm từ "tị nạn giáo dục" đã được nhắc đến nhiều trong thời gian gần đây, cùng với làn sóng du học ở các nước tiên tiến. Là người may mắn được trải nghiệm học và làm việc ở nhiều môi trường khác nhau, chị nhìn nhận thế nào về xu hướng này?

Tôi không phải là nhà giáo dục, nên sự chia sẻ quan điểm chỉ dựa trên kinh nghiệm cá nhân. Trong 15 năm làm việc cho các tổ chức của Hoa Kỳ, tôi cũng có dịp tham gia vào quá trình phỏng vấn chọn sinh viên đầu vào của một trong những trường tư thục cấp III nội trú hàng đầu của Hoa Kỳ và là thành viên của Hội đồng tuyển sinh cho học bổng thạc sỹ của Chương trình Fulbright năm 2013 và Hội đồng tuyển sinh của Chương trình Lãnh đạo Eisenhower năm 2014.

Tôi có hai con nhỏ hiện đang học cấp I và cấp II, đã từng học ở trường công Việt Nam và trường tư Singapore, và hai năm nay chuyển sang học ở trường công ở Úc.

Nhờ đó, tôi có cơ hội quan sát các hệ thống giáo dục khác nhau.

Hệ thống giáo dục phương Tây phát triển trên cơ sở gọi là "Đối thoại So-crat" bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại, cách đây hơn 2000 năm, bởi nhà triết học So-crat. Vào năm 399 trước công nguyên (cách đây 2,515 năm), sau khi bị phán xử bởi hội đồng thẩm phán gồm 500 người, So-crat bị nhận án tử hình bởi 280 phiếu ủng hộ và 220 phiếu chống, vì tội tổ chức dạy học cho người dân rằng hãy tin vào lý trí của mỗi cá nhân, thay vì tin vào chính quyền hay những lời Chúa dạy. So-crat bị hành xử bằng cách uống một ly nước độc trước mặt những học sinh và bạn bè của mình.

Nhưng những gì So-crat đạt được là khởi đầu phương pháp dạy học mà tất cả các trường đại học tốt nhất trên thế giới đều áp dụng từ đó đến nay. Đó là dạy học sinh, sinh viên cách suy nghĩ độc lập, lập luận logic, trao đổi cởi mở, và tự tin với những nhận định của cá nhân trong quá trình suy nghĩ, lập luận để bảo vệ ý kiến cá nhân của mình. Các phương pháp luận khoa học phát triển ở thế kỷ 16, 17 cũng bắt nguồn từ truyền thống giàu tính lịch sử này, tập trung vào quá trình lập luận, trao đổi cởi mở để tìm ra câu trả lời.

Hệ thống giáo dục của VN cần phát triển cùng xu hướng của thời đại, của thế giới, nếu chúng ta muốn cạnh tranh với những nền giáo dục tinh túy nhất.

Quá trình học và dạy học tốt không nên đánh giá bằng khả năng nhắc lại những gì thầy cô giảng tại lớp. Thay vào đó, điều cốt lõi là học sinh, SV cần phải phát triển khả năng đặt câu hỏi với giảng viên.

Việc đi học của trẻ, và sau này là của SV, là một cả quá trình phát triển trí tuệ và trưởng thành kéo dài. Nếu hệ thống giáo dục trong nước không đáp ứng nhu cầu này của các bậc phụ huynh, thì tình trạng 'tị nạn giáo dục' sẽ còn kéo dài trong nhiều năm tới.


Nguyễn Thu Thảo tham gia Hội đồng Phỏng vấn của Việt Nam cho Chương trinh Lãnh đạo Eisenhower, tháng 6 năm 2014. Ảnh nhân vật cung cấp

Phương Tây có hoàn hảo?

Từng được học cả ở Úc, Mỹ, Thái Lan và Việt Nam, chị có thể đưa ra vài so sánh về những hệ thống giáo dục này: quan điểm, phương pháp, cách tiếp cận và mục tiêu giáo dục? Có những vấn đề nào khiến chị chú ý, và những thay đổi nào, hoặc lối mòn nào tồn tại trong suốt mấy chục năm qua?

Chúng ta có thể đơn giản hóa vấn đề phức tạp này thành hay hệ thống giáo dục: Việt Nam >< phương Tây. Thời gian học một kỳ ở Thái Lan cho thấy, hệ thống giáo dục của Thái Lan đã học hỏi rất nhiều điều tốt đẹp của hệ thống giáo dục phương Tây để nâng cao chất lượng giáo dục của Thái Lan.

Sự khác nhau giữa hệ thống giáo dục của Úc (thuộc khối Thịnh vượng chung) và hệ thống giáo dục của Hoa Kỳ không đáng kể so với sự khác nhau rất lớn giữa giáo dục phương Tây (gồm cả Úc và Mỹ, cùng bị ảnh hưởng nhiều từ hệ thống giáo dục của Anh vì lý do lịch sử và văn hóa) và giáo dục của Việt Nam.

Tôi không nghĩ rằng: hệ thống giáo dục của phương Tây là hoàn hảo, và hệ thống giáo dục của VN cần phải áp dụng hệ thống giáo dục của phương Tây thì mới có thể giảm thiểu nạn 'tị nạn giáo dục' và đóng góp cho quá trình phát triển của đất nước, cho theo kịp các nước phương Tây.

Cả hai hệ thống đều có những điểm mạnh và điểm yếu. VD: hệ thống giáo dục ở những trường hàng đầu của Mỹ càng làm cho tình trạng phân hóa giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Chỉ có 15% sinh viên của những trường hàng đầu của Mỹ là xuất thân từ các gia đình thuộc nửa thu nhập thấp... Còn ở Việt Nam, tính độc lập nghiên cứu khoa học của sinh viên vô cùng yếu.

Nếu học hỏi nhau thì cả hai hệ thống giáo dục đều trở nên tốt hơn hiện tại.

Những điểm chính cần điều chỉnh. Những người làm giáo dục Việt Nam có thể học hỏi được gì từ các nền giáo dục tiên tiến?

Trong khuôn khổ bài phỏng vấn này, tôi xin tập trung vào việc làm thế nào để giáo dục của VN được tốt hơn bằng cách tiếp thu kinh nghiệm giáo dục của phương Tây.

Thứ nhất, Giáo dục của phương Tây lấy học sinh làm trọng tâm. Giáo dục của Việt Nam lấy giáo viên làm trọng tâm. Điểm này, Việt Nam cần thay đổi và không nên đi ngược lại với xu thế của thế giới. Điều này cần thay đổi trước tiên.

Vì lấy giáo viên làm trọng tâm, học sinh/sinh viên tiếp thu kiến thức chủ yếu từ giáo viên, và tập trung vào việc học vẹt, hoặc nhắc lại những gì thầy cô dạy trong bài kiểm tra giữa/cuối kỳ. Đáng ra, học sinh cần phải học kỹ năng suy nghĩ phê phán (critical thinking), đọc sách, tham khảo các bài báo khoa học mới xuất bản, và kỹ năng tổng hợp thông tin để giải quyết vấn đề.

Khi học ở Úc hay ở Mỹ, thời gian học trên lớp giữa thầy và trò chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với thời gian học tổng thể của học sinh. VD: một môn học có ba tiếng/một tuần học trên lớp với thầy thì sinh viên phải đọc khoảng 200 trang tài liệu ở thư viện hoặc ở nhà để chuẩn bị cho ba tiếng đó trên lớp với thầy, và tham gia tranh luận với các bạn cùng lớp.

Vì giáo viên là nguồn cung cấp thông tin chính cho học sinh/sinh viên, thay vì tập trung vào phương pháp luận, câu trả lời cho một vấn đề đưa ra được phân định rạch ròi: đúng và sai, và sinh viên được khuyến khích học thuộc lòng câu trả lời đúng.

Khi lấy học sinh, sinh viên làm trọng tâm trong giảng dạy thì điểm của sinh viên được đánh giá theo khả năng lập luận và giải quyết vấn đề, chứ không theo khả năng nhắc lại câu trả lời đúng mà giáo viên đã dạy. Còn nhớ, khi tôi học phổ thông, một lần tôi làm toán đúng, cô giáo làm sai, nhưng tôi bị điểm kém vì đáp án của tôi khác với đáp án của cô giáo. Bố tôi là giáo viên toán dạy giỏi, nên bố tôi biết và khẳng định là tôi làm đúng. Nhưng vì cô giáo là bạn bố, nên bố không muốn tôi thắc mắc về việc này, và chấp nhận bị điểm kém cho lần đó.

Thứ hai, khuyến khích sự độc lập và chịu trách nhiệm của trẻ. Nền giáo dục của VN chịu ảnh hưởng nhiều của Đạo Khổng, đem lại cho các thế hệ trẻ của chúng ta nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp, như: kính trên nhường dưới, tôn trọng thầy cô giáo, tinh thần ham học cao ngay cả khi điều kiện trường lớp còn rất hạn chế như ở các tỉnh miền núi Hà Giang, và vùng Tây Nguyên. Các bạn trẻ được bố mẹ dành cho những điều kiện học hành tốt nhất có thể, ngay cả khi gia đình còn nhiều ưu tiên khác.

VD: Khi con tôi học ở VN, năm năm liền (2007-2012), tôi đã bỏ ½ thu nhập hàng tháng của mình chỉ để lo các chi phí về học hành cho hai con.

Ưu tiên về việc học của hai con được đặt cao hơn những ưu tiên khác của gia đình, như làm nhà, hay tích lũy lâu dài. Và đó không phải là một ngoại lệ đối với nhiều gia đình Việt Nam.

Ở Úc, giống nhiều gia đình người Úc khác, chồng tôi xác định khi hai con vào đại học thì các cháu sẽ phải tự vay tiền của nhà nước để đi học, chứ bố mẹ không còn sẵn sàng bỏ ra ½ thu nhập hàng tháng để chi trả việc học cho các con.

Thứ ba, tôn trọng tính chất cá nhân của học sinh. Cho dù có những phẩm chất như nói trên, nhưng một số quy tắc, thói quen bắt nguồn từ Đạo Khổng lại là cản trở lớn cho nền giáo dục hiện đại của Việt Nam. Học sinh, sinh viên không được dạy và khuyến khích tranh luận với thầy cô giáo, không được dạy cách suy nghĩ lập luận độc lập, ít tính đến các khả năng khác, ít đưa ra cách giải quyết vấn đề khác.

Nói một cách hình ảnh là học sinh được dạy rằng: chỉ có một con đường để đi từ A đến B và đó chính là đường thẳng. Học sinh ít được khuyến khích tìm hiểu liệu còn có cách nào khác để đi từ A đến B.

VD: con trai tôi là người thuận tay trái. Tại sao ở Việt Nam, cháu bị ép viết tay phải, với lý do rằng viết tay trái chữ xấu? Nếu điều quan trọng là cháu viết gì, và chữ cháu có đọc được hay không, thì việc cháu viết bằng tay phải hay tay trái có quan trọng gì? Chỉ vì chữ đẹp hay xấu, hệ thống giáo dục Việt Nam sẵn sàng ép những trẻ thuận tay trái chuyển sang viết tay phải, mà không quan tâm đến việc tay phải - tay trái có liên quan trực tiếp đến bán cầu não phải - trái của trẻ.

Do phát triển tính cá nhân của học sinh, sinh viên không phải là một ưu tiên, học sinh được dạy tuân theo khuôn mẫu của xã hội, của lề thói đã có từ nhiều đời nay, dù có những điểm không còn phù hợp với xã hội mới.

Khi trách nhiệm cá nhân không có điều kiện phát triển, vì tính cá nhân bị coi là ích kỷ, thì làm sao chúng ta có thể có được một xã hội vận hành hiệu quả nhất có thể trong điều kiện hạn chế hiện có?

(Còn nữa)

Hoàng Hường
(Tuần Việt Nam)
http://m.vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/188418/giao-duc-phuong-tay-co-phai-lua-chon-hoan-hao-.html

Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014

Trong đêm tôi bật cháy



Hà Duy Phương




ôi những ngón tay ứa mềm da thịt
tôi vuốt tôi nghe đêm rất nồng nàn
cơn-xác-thân hun hút muộn màng
hồn sắp sáng nơi chân đời vỡ rạn

trôi về đâu cho hết những vội vàng
tôi thả tay khoảng trời chật chội
ước mơ thoát bay
mang sứ điệp linh hồn tôi xa mãi
nỗi yêu nào còn níu lại ?

ánh sáng khôn cùng nơi ấy nỗi đau chung
tôi vẫn yêu trên tháng ngày vỡ vụn
hàn gắn mình bằng nước mắt
tôi sát trùng vết thương trong bật lửa nụ cười

tôi bật tôi cháy đêm nay
ôi xác thân nóng mềm hơn sáp nến

Con đường sáng tạo - Đề tài tối thượng : Giải thoát



Henry Miller

Đề tài tối thượng: Giải thoát


Giới thiệu

Henry Miller coi thường văn chương nhưng ông hết sức ca ngợi một thứ “Bồ Tát nghệ sĩ” (Bodhisattva-artiste) [1]

Thế nào là một Bồ Tát? - Bồ Tát là người không những tự giải thoát nhưng còn khôn khéo tìm cách tạo và làm nẩy chổi những mầm mống tiềm ẩn của cây Bồ Đề nơi những kẻ khác. [2] Vậy một Bồ Tát nghệ sĩ là một người đã giải thoát và tìm cách giải thoát người khác bằng phương tiện nghệ thuật. Hiểu theo nghĩa ấy, Henry Miller chính là một Bồ Tát - nghệ sĩ. Henry Miller đã giải thoát cho biết bao người khỏi sự ám ảnh của thân xác, khỏi tiền bạc, danh vọng, sợ hãi và tuyệt vọng. Ông tự đã gỡ mình ra khỏi những bóng ma quá khứ, khỏi những trách nhiệm hời hợt, khỏi những ràng buộc giả tạo, khỏi những ám ảnh tội lỗi, khỏi những khả thể tiềm tàng trong con người và giải giáp, hân hoan chìm đắm vào lòng đời, hân hưởng tất cả những hương sắc trần gian.

Người giải thoát là người an nhiên tự tại, vô úy.

“Tôi không sợ hãi gì cả.”
(I fear nothing) [3]

Có gì mà phải sợ hãi? Chúng ta chỉ sợ hãi khi còn một cái ngã tranh chấp với những cái ngã khác, thù địch bới thế giới, đối nghịch với cuộc đời. Với Henry Miller,“Sự tranh chấp đã qua“ (The fight is over).“Tôi thực sự không còn tranh chấp với thế giới. Tôi chấp nhận thế giới, trong ý nghĩa tối hậu của danh từ”, (I really have no fight any longer with the world. I accept the world in the ultimate sense) [4]

Có gì mà phải sợ hãi? Chúng ta chỉ sợ khi chúng ta có một cái gì để có thể mất. Đằng này, tôi có gì đâu? “Tôi không tiền không bạc, không nguồn tài lợi, không có cả một chút hy vọng nào”.(I have no money, no resources, no hopes.) [5] Chẳng lẽ lại khoe: “Người ta hơn tớ cái phong lưu, Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo” thì chướng chết. Nhưng quả thực, tôi cũng phải có cái gì chứ! Vâng, tôi là một nghệ sĩ, tôi có tất cả những gì mà tôi không muốn, tôi có tất cả những gì mà người khác không thèm. Tôi có bơ vơ, cô đơn côi, có nhục nhã, ngu tối và một nỗi sầu to lớn. Có ai muốn không tôi cho đây!

“tôi là người sung sướng nhất sống trên đời.”
(I am the happiest man alive.) [6]

Tôi là một người sung sướng nhất sống trên đời bởi “trong lòng tôi không chút nghi ngại nào.” (I have no inner doubts about things. [7] “Suốt đời tôi, tôi chỉ có một vấn đề nghiêm trọng, vì tôi đến tuổi trưởng thành: đó là THỰC PHẨM. Và tôi rất sung sướng vì chỉ có vậy mà thôi.“(I have only had one serious problem all my life, you know, since I came of age: Food. And I am very glad it was only that.) [8] Tôi không cần một thứ gì khác. Tôi không thao thức, không tìm kiếm. “Tôi thấy Fraenkel, bạn tôi, lê lết đi kiếm và chẳng bao giờ tìm thấy. Cả Lowenfels, luôn luôn sục sạo tìm kiếm (always seeking, seeking). Họ khiến tôi buồn cười. Tôi cảm thấy thương hại họ.” [9] Có gì đâu mà phải khắc khoải, thao thức? Chỉ cần một giấc ngủ no đầy là đâu lại vào đấy cả… (just a good sleep puts thing right again). [10]

“Tôi không thích điều gì tốt lành hơn.”
(I’d like nothing better.) [11]

Đó là điều vô cùng quan trọng. Tôi không đả kích, không cổ võ. Tôi không muốn dựng lên một lý thuyết này để chống lại lý thuyết kia. Tất cả mọi vấn đề nghiêm trọng trên thế giới chỉ là những vấn đề cá nhân, có thể giải quyết từ nơi cá nhân. Tôi không muốn xây dựng lại trần gian, tôi không muốn cải tạo con người. Tôi biết rằng dù có một ngàn cuộc cách mạng xẩy ra, thế giới cũng vẫn vậy; dù một ngàn Chúa cứu thế thì cũng vẫn thế, con người, ồ cái con người! Còn thế giới? “Tôi đã nuốt thế giới vào trong tôi.” (I’ve got the world inside me) [12] . Tôi không có điều gì bất mãn với thế giới. Tôi cũng chẳng có điều gì chờ đợi ở cuộc đời. “Tôi là một người thực sự mãn nguyện, thực sự sung sướng điều hắn đang làm và không làm điều gì khác. “(I am a man who is really content, really happy to be doing what he’s doing and not doing something else.) [13]

Tôi không thắc mắc về mình và con người mình. “Hiểu gì chứ, tôi không mắc cỡ, không vụng về, cũng chẳng có những điều khó khăn đó. Tôi chỉ bằng lòng nơi tôi đang ỏ và con người hiện tại của tôi.“ (Understand, I am not timid, nor awkward nor any of those difficult things. But I am content where I am and how I am.) [14]

Bây giờ tôi ăn uống, ngủ nghê mỗi ngày một chút và do đó đời “hoàn toàn hoàn toàn diệu hồng.” – (and so things are quite quite rosy.) [15]

Ông khuyên bạn ông:

“Đừng lo lắng về tiền bạc!” (don’t worry about the money.) [16]
“Người ta thực sự cần rất ít.” (One needs so little really.) [17]

[18] “Không cần sách vở!” (No books!) [19] Tôi có thể sống đến ngày tận cùng của đời tôi mà không cần giở một cuốn sách nào khác.

“Đừng băn khoăn về văn chương.”
(Don’t worry about literature.)

Nếu chúng ta có thể làm được việc gì khác thay vì văn chương hãy làm việc gì khác ấy.

“Hãy viết với một nụ cười, dầu cho điều ta biết kinh khủng hay bi thảm. “(Write with a smile, even when it’s horrible or tragic.) [20]

Chúng ta chỉ tôn sùng người nghệ sĩ của cuộc đời the “artist of life” người giúp chúng ta sống “Cuộc Đời Toàn Diện” (“La Vie Intégrale”) một cuộc đời hân hoan sung sướng.

Sau đây là những người đã khơi mở dòng đời, khiến ta khao khát cuộc đời. Họ khuyến khích ta ý thức rằng ta có tất cả tự do trong ta, rằng ta chẳng nên can dự vào vận mệnh thế giới mà chỉ nên giải quyết vấn đề cá nhân của chúng ta. Đó là vấn đề giải thoát, vấn đề duy nhất trực thiết và khẩn thiết. Cho một nhà văn, như một con người, giữa lòng đời.



*



Nơi những ảnh hưởng đặc biệt bắt đầu là tại mép bờ tuổi chớm thành nhân, nghĩa là từ khi lần đầu tiên tôi mơ ước rằng chính tôi nữa một ngày kia cũng sẽ có thể trở thành “một nhà văn”. Vậy thì những tên tuổi kế tiếp theo đây có thể coi như tên tuổi của những tác giả ảnh hưởng tôi như một con người và như một nhà văn, hai kẻ càng ngày càng trở nên bất khả ly cách theo đà thời gian. Từ lúc tuổi chớm lớn khôn trên toàn thể hành vi nổi loạn của tôi, hay là được điều động bởi sự kiện rằng tôi nghĩ về chính tôi, thoạt đầu tiên một cách tiềm thế, sau đó một cách phôi thai và cuối cùng một cách minh bạch như một nhà văn. Và như thế, nếu trí nhớ của tôi trung thành với tôi, đây là dòng dõi huyết thống tôi: Boccaccio, Petronius, Rabelais, Whitman, Emerson, Thoreau, Maeterlinck, Romain Rolland, Plotinius, Heraclitus, Nietzsche, Dostoievsky (và những văn gia Nga đầu thế kỷ mười chín khác), những kịch tác gia Hy Lạp cổ điển, những kịch tác gia thời Elizabeth (gồm cả Shakespeare), Theodore Dreiser, Knut Hamsun, D.H. Lawrence, James Joyce, Thomas Mann, Élie Faure, Oswald Spengler, Marcel Proust, Van Gogh, trường Dada và Siêu Thực, Balzac, Lewis Carroll, Nijinsky, Rimbaud, Blaise Cendrars, Jean Giono, Céline, tất cả những điều tôi đọc về Thiền, tất cả những điều tôi đọc về Trung Hoa, Ấn Độ, Tây Tạng, Á rập, Phi châu, và dĩ nhiên Kinh Thánh, người viết nó và đặc biệt những người soạn bản dịch triều Vua James bởi chính ngôn ngữ của Kinh Thánh hơn là “thông điệp” của nó mà trước hết tôi thâu lượm và không bao giờ tôi rũ bỏ.

Đâu là những đề tài khiến tôi tìm kiếm những tác giả tôi yêu, đã cho phép tôi bị ảnh hưởng, đã tạo thành bút pháp tôi, cá tính tôi, cách vào đời của tôi? Nói rộng đây: chính lòng yêu đời, sự theo đuổi chân lý, minh triết và hiểu biết, huyền nhiệm, khả năng của ngôn ngữ, thái cổ và vinh quang của con người, vĩnh cửu, mục đích của cuộc sống, nhất thể của tất cả mọi sự, sự tự-giải thoát, tình huynh đệ con người, ý nghĩa của tình yêu, sự liên hệ của cái giống với tình yêu, sự thụ hưởng cái giống, sự khôi hài, những sự kỳ dị và quái gở trong mọi khía cạnh của đời, du lịch, phiêu lưu, khám phá, tiên tri, pháp thuật (ảo thuật và ma thuật), nghệ thuật, trò giải trí, những lời xưng tội, những sự phát lộ, chủ trương thần bí, những sự bất đồng của đức tin và sự thờ phụng, sự kỳ diệu trong mọi lãnh vực và dưới mọi khía cạnh, vì “chỉ có sự kỳ diệu và chỉ có sự kỳ diệu mà thôi.”

Tôi có bỏ ra ngoài một đề mục nào không? Xin bạn cứ tự tiện điền vào! Tôi đã và hãy còn đang quan tâm tới mọi sự. Ngay cả chính trị - khi nhìn từ “điểu khảm.” [21] Nhưng sự phấn đấu của con người để giải phóng mình nghĩa là, để giải thoát mình khỏi ngục tù của chính sự cấu tạo mình, đó là đề tài tối thượng đối với tôi. Có lẽ, đó là lý do tại sao tôi thất bại không hoàn toàn là “nhà văn”. Có lẽ đó là lý do tại sao, trong tác phẩm của tôi, tôi lại dành nhiều chỗ cho kinh nghiệm thuần túy của cuộc đời. Cũng có lẽ, dầu những nhà phê bình thường thất bại không thể nhận thấy, rằng đó là lý do tại sao tôi bị lôi cuốn một cách mãnh liệt về phía những người khôn ngoan, những người đã cảm nghiệm cuộc đời – nghệ sĩ, những nhân vật tôn giáo, những kẻ mở đường khai lối, những kẻ canh tân và những kẻ đạp phá thánh tượng đủ mọi loại. Và có lẽ - tại sao không nói lên điều này? – đó là lý do tại sao tôi rất ít kính trọng văn chương, rất ít coi trọng những tác giả được tín phục, rất ít tán dương những nhà cách mạng lâm thời. Đối với tôi những nhà cách mạng đích thực duy nhất là những kẻ khích động và kích động, những yếu nhân như Jesus, Lão Tử, Đức Phật Cồ đàm, Akhnaton, Ramakrishna, Krishnamurti. Tiêu chuẩn tôi dùng là cuộc đời: Những người đó đứng như thế nào trong tương quan với cuộc đời. Có lẽ chẳng phải vì họ đã thành công trong việc lật đổ một chính phủ, một trật tự xã hội, một nghi thức tôn giáo, một qui tắc luân lý, một hệ thống giáo dục, một bạo lực kinh tế. Đúng hơn, họ đã ảnh hưởng đến chính cuộc đời như thế nào? Vì chưng điều phân biệt những con người tôi có trong tâm trí là họ không cưỡng bách con người tuân theo quyền uy họ: trái lại, họ tìm cách phá hủy quyền uy. Cứu cánh và mục đích của họ là mở tung với cuộc đời, là khiến con người khao khát cuộc đời, là xiển dương cuộc đời – và là qui chiếu tất cả mọi vấn đề trở lại cuộc đời. Họ khuyến khích con người nhận thức rằng hắn có tất tự do trong chính hắn, rằng hắn không nên can dự vào với vận mệnh của thế giới (đó không phải là vấn đề của hắn) nhưng giải quyết vấn đề cá nhân của mình hắn, đó là vấn về giải thoát, chứ không phải là vấn đề gì khác.




[1]Cf. Remember to remember.
[2]Tinh hoa và sự phát triển của đạo Phật của Edward Conze, Nguyễn Hữu Hiệu dịch, Tu Thư Vạn Hạnh xuất bản, 1969, tr. 221.
[3]Thư gửi Lawrence Durrell, ngày 20 tháng giêng 1937.
[4]Thư gửi Lawrence Durrell, ngày 20 tháng giêng 1937
[5]Tropic of Cancer, A Black Cat Book. P.1.
[6]Tropic of Cancer, A Black Cat Book. P.1.
[7]Thư cho Lawrence Durrell, ngày 5 tháng 4, 1937
[8]Thư cho Lawrence Durrell, ngày 5 tháng 4, 1937
[9]Thư cho Lawrence Durrell, ngày 5 tháng 4, 1937
[10]Thư cho Lawrence Durrell, ngày 5 tháng 4, 1937
[11]Thư cho Lawrence Durrell, ngày 5 tháng 4, 1937
[12]Thư cho Lawrence Durrell, ngày 5 tháng 4, 1937
[13]Thư cho Lawrence Durrell, ngày 5 tháng 4, 1937
[14]Thư cho Lawrence Durrell, ngày 5 tháng 4, 1937
[15]Thư cho Lawrence Durrell, ngày 5 tháng 4, 1937
[16]Thư cho Lawrence Durrell, ngày 5 tháng 4, 1937
[17]Thư cho Lawrence Durrell, ngày 5 tháng 4, 1937
[18]Thư cho Lawrence Durrell ngày 5 tháng 4 1937s
[19]Thư cho Durrell ngày tháng hai 1937
[20]Thư cho Durrell ngày tháng hai 1937.
[21]“the perspective of the bird”, N.H.H


Dương Quốc Định: Phương Đông huyền bí