Hiển thị các bài đăng có nhãn HỘI HỌA. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn HỘI HỌA. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 27 tháng 4, 2016

về bức “Tam Bạc” của Mai Duy Minh


Yết Kiêu & Dã Tượng



Xin được mở đầu chùm bài nhỏ này bằng một bức tranh của họa sĩ mà tôi yêu mến: Mai Duy Minh.

Mai Duy Minh sinh tại Hải Phòng, năm 1976, rồi ra Hà Nội học Mỹ thuật Yết Kiêu khóa 1994 – 1999. Hiện anh sống và làm việc tại Hải Phòng, thuộc nhóm họa sĩ theo đuổi trường phái Hiện thực – thứ hiện thực mạnh mẽ và quyết bám chắc lấy cái chuyển động của đời sống, chán ngán với những bức tranh nho nhỏ vẽ con mèo nằm bên bình hoa hay tĩnh vật con cá trên cái đĩa v.v… – loại tranh tĩnh đặt vào thời nào cũng vẫn là thế, không phải là trường tồn mà là nhàm chán đến phi thời gian.

Hải Phòng là một thành phố nay đã buồn và như bị bỏ lại, không phải là lùi hẳn lại như vào quên lãng hẳn như những trung tâm đã bị dời đi, chỉ như một nơi lỗi mốt so với các đô thị “đáng sống” khác. Mai Duy Minh sau bao nhiêu năm lăn lộn ở Hà Nội và các phong cách vẽ khác nhau (có khi vẽ cả những bức rất như “làm hàng”, loại dễ treo trong các khách sạn sang hay nhà các tùy viên sứ quán có vợ Việt), đã trở về Hải Phòng và lựa chọn một lối vẽ khắc nghiệt khác, nhưng như thế hình như càng đẹp hơn. Tôi tạm gọi là “hiện thực khắc nghiệt của tay bất mãn”.


“Đường Mây”, 2011, một bức mà theo tôi là rất “chợ” của Mai Duy Minh

Nhắc đến Mai Duy Minh là ai cũng nói đến bức tranh bát cơm khổng lồ với đôi bàn tay nhăn nheo bưng có tên “Miền Đất Hứa”. Tranh có kích thước khổng lồ (5.4m x 2m) không hiểu hiện treo ở đâu, đã bán được chưa. Nhưng hôm nay tôi muốn bàn về bức “Tam Bạc” giản dị của anh. Tôi chỉ được xem qua mạng, chưa có dịp đến nơi xem trực tiếp, không biết khổ tranh thế nào. Màu trên máy có thể khác xa với màu bên ngoài. Những bạn nào đã có cơ hội xem bên ngoài xin hãy góp thêm vào cho xôm tụ. Câu này tôi cũng sẽ nhắc đi nhắc lại trong những bài sắp tới.



Mai Duy Minh, “Tam Bạc”, sơn dầu, 2012. (Các bạn bấm vào hình để phóng to)

Tam Bạc trong tranh này là phố cổ Tam Bạc, nằm bên bờ sông Tam Bạc. Trước kia phố mang tên nhà tư sản Việt Nam chuyên ngành tàu biển là ông Bạch Thái Bưởi, sau đổi lại là phố Tam Bạc. Gốc thì phố có nhiều người Hoa sống và làm ăn. Giờ đây xuống Hải Phòng chơi, người ta không thể không nhẩn nha đi dọc phố cổ này và cảm giác trộn lẫn giữa phố cổ Hà Nội với phố cổ Hội An, với điểm đặc trưng là màu vàng của vôi nhà của những ngôi nhà lầu cũ.


Một đoạn phố phố bên sông Tam Bạc. Ảnh của decu_decu

Mai Duy Minh chọn một căn nhà lầu phố chợ trên phố này làm chủ thể cho bức tranh mình vẽ. Nhà hai mặt tiền, cấu trúc mái nhọn kế mái bằng tạo lớp. Cửa sổ nhỏ và cao, sơn xanh đậm. Tường vôi vàng rất “phố cổ”.


Nhìn từ bên hông. Ảnh từ trang này

Nhà này nhìn ra bến đò ngang trên sông, và có lẽ cũng là chủ thể trong nhiều tác phẩm của các tay máy Hải Phòng.


.

“Tam Bạc” vẽ lối tả thực nhưng tôi không nghĩ Mai Duy Minh đã ngồi bên sông, nhìn căn nhà mà làm phác thảo, hoặc vẽ trực tiếp với giá vẽ ngoài trời. Có thể anh đã vẽ từ một cái ảnh chụp, sau khi zoom ra cho gần lại và to lên. Nhưng dù thế nào, đây là một bức tranh đã vẽ ở thì quá khứ, mang nhiều tính chất của hoài niệm. Hoài niệm của ta về một kiến trúc thường không có người, trong tranh này phố Tam Bạc là phố buôn bán sầm uất nhưng cũng không có người – không có cả đến vật dụng của con người đang sống. Bến đò cũng vắng tanh… Nhưng phố trong tranh vẫn sống, bởi vì nó chứa một thứ gì đó cựa quậy. Thứ gì ta còn chưa rõ, phải xem kỹ tranh hơn nữa.


Chi tiết tranh

Trạnh Mai Duy Minh vốn có một phổ màu vàng rất rộng, với độ trong đục thay đổi tùy tranh, tùy đề tài. Nếu như trong “Miền Đất Hứa” là một màu vàng của Siêu thực tràn ngập các đối tượng trong tranh, với sắc độ dâng dần, từ mặt đất vàng xỉn lam lũ, lên tột cùng ước mơ là màu vàng trong của những ngón tay bưng bát cơm trắng ngà…,


“Miền đất hứa”, Mai Duy Minh, sơn dầu, 540 x 200cm, 2011

… thì trong bức “Tam Bạc”, màu vàng chỉ dành riêng cho đối tượng chính là cái nhà góc phố với cửa sổ xanh, các ngôi nhà khác được đánh màu xanh hoặc xám hoặc nâu nâu nhạt nhẽo, để “nhân vật chính” sáng bừng lên trong ánh đèn spotlight rọi vào. Ở đây, màu vàng của ngôi nhà này được nâng lên, thành một màu vàng sau khi đã lọc qua sự nhớ lại, là một màu vàng của quá khứ, không còn thật nữa, tương tự màu kỷ niệm của người đi xa nhớ về nơi cũ thì màu bao giờ cũng sai đi, rực rỡ hơn, khiến sau này quay lại ngỡ ngàng và cả bẽ bàng vì không nhận ra! Ta bắt chước Đoàn Phú Tứ gọi đó là thứ “màu thời gian“.


Chi tiết tranh

Đã là trí nhớ thì nhập nhoạng, cái nổi rõ nét quá đà, cái mờ đi tù mù. Trong “Tam Bạc”, những hàng phượng không nở hoa, bóng xanh chỉ là mảng xanh lẫn lộn lá với cành thành một khối. Trong khi ấy những thanh rào bên bờ sông lại rõ từng nét, và rõ cả đến xà bần, rác rến nơi mép sông, vết gạch vỡ ở trụ hàng rào, những bậc thang dẫn xuống bến đò. Họa sĩ vẽ rất tỉ mỉ những chi tiết ấy. Sự tỉ mỉ này chính là những cử động của ký ức, làm cho bức tranh này tuy không người mà vẫn có sự sống động của sinh hoạt.


Chi tiết bờ sông trong tranh

*

Đi Hải Phòng rất dễ dàng. Từ Hà Nội lấy xe khách ở Lương Yên hay lấy tàu ở Long Biên, ngồi đọc xong quyển sách nhỏ hoặc chơi game là đã tới thành phố hoa phượng đỏ, bình an và vẫn còn nét ngang tàng, kiêu hãnh của những “anh chị” sông nước một thời. Nhìn thấy sự trộn lẫn giữa cái bạo liệt một thuở với cái yên ả về hưu của thành phố này giúp tôi lý giải việc Mai Duy Minh chọn hướng đi hiện tại cho đường sáng tác của anh. Những bức tranh của Mai Duy Minh, giá như không quá to, vẫn đẹp như thế này nhưng khổ nhỏ đi, cô đọng nữa vào, thì sẽ dễ dàng đi vào các bộ sưu tập không cần của các tay mua tranh thế giới, mà của chính những tay chơi tranh Việt Nam. Sở hữu tranh của Mai Duy Minh chính là sở hữu ký ức về nước mình, ghi lại bằng tranh và nét tài hoa của một người đã định được hướng đi bền vững.




*

Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2015

Sự Chết và Lãng mạn



Trịnh Lữ



Hồi còn là học sinh lớp 7, mình đã chép lại bức tranh này, bằng chì than, rất kỹ lưỡng, từ một phiên bản khổ A3 trong một vựng tập đặc biệt của bác Đặng Chấn Liêu tăng bố mẹ. Một người bạn cùng lớp đã nhất định xin bức chì than ấy. Nay thì cả bạn ấy và bức chì than kia đều đã mất.



“La Balsa de la Medusa”, 1818

Hôm qua ngồi bên thư viện làng, cách nhà nửa vòng trái đất, xem bộ sách khổng lồ của bảo tàng Louvre, in toàn bộ các tranh có ở đó, thấy bức tranh được in to, mà lại giới thiệu nhầm là của Eugene Delacroix, ngao ngán quá. Lou ơi là Lou!!! Lại phải tự nhắc câu cửa miệng của thiên hạ, đại khái rằng “human is error” – hễ là người là phải có lầm lẫn. Rồi thì ra ngoài trời châm điếu thuốc, như một nén nhang tưởng vọng người họa sỹ mà mình vẫn ngưỡng mộ từ thời còn niên thiếu: Theodore Gericault.

Năm 1819, khi bức tranh này ra mắt công chúng tại Salon ở Paris, nó đã bị giới phê bình chê bai thậm tệ, coi đây không phải là hội họa nữa, mà là một tuyên bố chính trị chống lại triều đình. Trong danh sách chính thức của Salon, bức tranh chỉ được đề là “Một cảnh đắm tàu”, chứ không phải là “Chiếc bè của tàu Medusa” như Gericault đã đăng ký. Công chúng và giới hội họa, vốn đã quen với những cảnh nhung lụa mông vú nõn nà đã “ru ngủ” giới quyền quý Pháp thế kỷ 18, kiểu như tranh của Boucher, đã hoảng sợ khi thấy sự chết khốc liệt trong bức tranh khổng lồ này – cao 5 mét rộng 7 mét, của một họa sỹ mới chỉ có hai bức tranh vẽ kỵ sỹ, và đến bức này là ba, được bày tại Salon – gần như một thứ triển lãm mỹ thuật toàn quốc đang có ở Vân Hồ bây giờ của mình. Không ai hỏi mua bức tranh ghê gớm này. Gericault đã mấy lần ngỏ lời bán rẻ cho Louvre, mà đều bị bảo tàng từ chối. Cho đến khi chết, ông vẫn không bán được bức này cho ai.

Vậy mà bây giờ, lịch sử hội họa gọi đây là kiệt tác quan trọng nhất khai sinh cho chủ nghĩa lãng mạn trong hội họa phương Tây. Không có bức này, mọi người bảo nhau, giọng thông thái, thì không có bức chị đầm ngực trần cầm cờ dẫn đường cho Tự do của Delacroix.


Eugène Delacroix, “Liberty Leading the People”, 1830

Mà quả thực, Delacroix đã là người từng coi Gericault là thầy, một lòng ngưỡng mộ tài năng và tinh thần tận hiến của Gericault cho hội họa. Delacroix đã có mặt cả trong bức tranh chết chóc này. Ông đã tham gia với nhóm người mẫu của Gericault, và đã làm mẫu cho thầy mình vẽ nhân vật nằm sấp trên sàn bè, ngay gần giữa tranh, quay đầu về phía người xem, tay trái dang rộng bám vào rầm gỗ vuông trên bè, đầu gục xuống như đã chết. Một chuyện thật hy hữu trong lịch sử hội họa.



Delacroix trong tranh

Khác hẳn với tất cả những tranh lịch sử cổ điển có đề tài lấy từ truyền thuyết hoặc kinh thánh, kể cả tranh tân cổ điển như bức “Lời thề của nhà Horatii” của David, tác phẩm có quy mô lớn mang dáng dấp lịch sử cổ điển này của Gericault có đề tài thời sự còn nóng hổi. Một bức tranh hiện thực đương đại, với một đề tài đang gây tai tiếng cho triều đình Louis XVIII lúc bấy giờ.

Năm 1816, một chiến thuyền của triều đình Pháp mang tên Medusa được phái sang Senegal, và nhà vua đích thân cử một thuộc hạ thân tín của mình làm thuyền trưởng chỉ huy hơn 150 sỹ quan và binh lính trên tầu. Do non kém về hàng hải, viên thuyền trưởng này đã khiến cho con tầu lâm nạn ngoài khơi. Thuyền trưởng thoát thân bằng xuồng cứu hộ, bỏ mặc 150 con người bám víu vào con tàu đang chìm. Với lòng dũng cảm và tài nghệ của số thợ có trên tàu, các nạn nhân đã dùng gỗ của con tàu vỡ nát ghép thành bè để cùng nhau tìm đường sống. 13 ngày sau đó, khi chiếc bè của tầu Medusa được một con tàu đi ngang cứu vớt, thì chỉ còn 15 người sống sót. Một trong số họ đã viết lại câu chuyện bi thảm này thành sách ngay sau đó. Cuốn sách lập tức trở thành best seller, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Dư luận Pháp rầm rộ lên án viên thuyền trưởng. Nhưng triều đình đã bịt miệng báo chí. Khiến cho câu chuyện càng trở thành tai tiếng.

Cuốn sách đã thôi thúc Gericault, khiến ông thoát khỏi tâm trạng bế tắc trong bi kịch đời tư lúc bấy giờ, vứt bỏ hết những phác thảo cho nhiều đề tài khác để dồn sức cho một bức tranh về tấn thảm kịch vừa diễn ra. Ông tìm gặp người thợ mộc sống sót, nhờ làm một chiếc bè gỗ đúng như của tàu Medusa, cỡ nhỏ, để trong phòng vẽ. Ông phác thảo bằng các tượng người nhỏ xíu bằng sáp với mô hình chiếc bè ấy. Ông lui tới hỏi chuyện những nạn nhân còn sống, trong đó có một bác sỹ đã giúp ông rất nhiều trong việc tìm hiểu mọi biểu hiện của sự chết trên cơ thể người. Ông xin cả những cái đầu của người mới bị xử tử bằng máy chém, những chân tay bị cưa cắt trong bệnh viện, mang về phòng vẽ làm mẫu nghiên cứu.


“Nghiên cứu sự chết” – phác thảo cho Medusa, 1818




“Nghiên cứu sự chết” – phác thảo cho Medusa, 1818

Một tác giả viết tiểu sử của ông đã chép rằng có lần ông để hai cái đầu người chết ở phòng vẽ đến hơn nửa tháng, đến khi bị phân hủy quá rồi mới dọn vứt đi. Chắc chắn không có họa sỹ nào bị sự chết lôi cuốn đến mức ấy. Gericault đọc không xót một tài liệu nào của tòa án về vụ Medusa này. Con tầu xấu số mang tên con ác quỷ trong thần thoại Hy Lạp, mặt người tóc rắn, ai nhìn thấy mặt nó sẽ lập tức hóa đá. Sau khi đã thấu đáo mọi sự về sự kiện ấy, Gericault gọi toàn bộ đội người mẫu chuyên nghiệp của mình đến, tự cạo trọc đầu để không nghĩ đến chuyện ra khỏi cửa nữa, và bắt đầu phác thảo với mẫu sống. Trong số người mẫu ấy có Eugene Delacroix.

Có nhiều phác thảo khác nhau còn lại của bức tranh này, mô tả những thời khắc khác nhau của 13 ngày đêm kinh hoàng. Trong đó có bức mô tả người đàn bà duy nhất có trên bè. Người đàn bà ấy, cùng với chồng, đã kiệt sức đến mức nhóm sỹ quan chỉ huy bè phải quyét định vứt cả hai xuống biển để đám người điên loạn còn lại không ăn thịt họ. Nhóm sỹ quan ấy là nhóm đã áp đảo được đám binh sỹ đói khát ăn thịt lẫn nhau. Cuối cùng, Gericault đã chọn giây phút mọi người bùng lên hy vọng khi nhìn thấy bóng dáng một con tầu xuất hiện ở mãi phía chân trời. Nhân vật còn khỏe mạnh tỉnh táo nhất, đứng vươn lên vẫy cờ, lại là một người da đen. Người mẫu da đen thân thiết của Gericault đã vào bức tranh này ở tư thế ấy.


Chi tiết tranh




Người mẫu da đen của Gericault, vẽ trong lúc phác thảo bức Medusa

Ông làm việc liền như vậy trong 8 tháng, thì vừa đến kỳ Salon 1819. Khi đem bức tranh vừa vẽ xong ra Salon, Gericault sững sờ phát hiện một sai lầm về bố cục của mình. Chắc hẳn là ở xưởng vẽ, ông không có đủ không gian để nhìn tổng thể bức tranh một cách trọn vẹn. Bức tranh mới đem ra Salon là theo bản phác thảo này:


.

Giải pháp của Gericault chỉ có thể là của thiên tài: ông mang đồ vẽ ra đó, gọi ngay một người bạn đến làm mẫu cho mình, và chỉ trong hai ngày, khi các họa sỹ khác vẫn còn tiếp tục mang tranh đến Salon, ông đã vẽ thêm vào một nhân vật nữa của sự chết:


.

Nhưng rồi chỉ để chứng kiến sự ghẻ lạnh và hắt hủi của cả giới phê bình và công chúng đối với kiệt tác của mình. Bài báo đầu tiên về sự kiện Salon năm ấy viết về Medusa như sau: “Tôi vào và thấy một bức tranh lớn tướng, và kích cỡ của nó là cái duy nhất khiến tôi để ý”. Nước Pháp chê bai bức tranh. Gericault chán nản. Ông bỏ sang London, chỉ mang theo những bản in đá của bức tranh, và được công chúng Anh hồ hởi đón nhận. Ông bán hàng trăm thạch bản của Medusa ở London, và được gọi là “họa sỹ và thi sỹ của hiện thực”. Ở bên ngoài vòng kiềm tỏa của triều đình Louis XVIII, Medusa được tiếp nhận như một áng thơ bi tráng tuyệt đẹp về bi kịch của nhân loại.

Cho đến tận bây giờ, Louvre vẫn còn xấu hổ không dám thông tin đầy đủ về sự kiện ra mắt của bức tranh tại Salon năm 1819. Và không hiểu có phải sự xấu hổ ấy đã thành một ẩn ức tập thể đến mức khi xuất bản một vựng tập khổng lồ, Louvre, cả một tập thể của bảo tàng và các bên tham gia biên tập nên ấn bản ấy, đã in giấy trắng mực đen rằng bức tranh này là của Eugene Delacroix!!!!


(Các bạn bấm vào hình để xem bản to hơn nhé)

Chắc mình nên đề tặng bài viết này cho các bạn họa sỹ nhóm hiện thực đang có triển lãm ở Hà Nội. Câu chuyện này đã khiến mình vỡ nhẽ nhiều điều về khái niệm HIỆN THỰC trong hội họa. Chả cần bộc bạch thì các bạn ấy cũng sẽ biết cả.

Thứ Năm, 10 tháng 12, 2015

Triển lãm của những kẻ nổi loạn



T.N phỏng dịch






Baby Contraband (tạm dịch “Hàng lậu be bé”) từ loạt Fallen Paintings, 1969, của Lynda Benglis, nhựa mủ nhuộm màu, đổ loang, khổ 79 x 20 x 1 1/2 inches

Do hệ quả của thế chiến thứ hai, để phản ứng lại với những bối cảnh tri thức, chính trị, và xã hội đã bị biến đổi sâu sắc đến “khác hẳn”, một số họa sĩ từ nhiều địa điểm khác nhau đã từ bỏ những quy ước truyền thống, để tìm kiếm một định nghĩa mới về cái làm nên “hội họa”.

Trong nỗ lực tìm kiếm ấy, nhiều người đã thử nghiệm các loại chất liệu mới, những phương pháp nhắm đến quy trình (hơn là sản phẩm) để tạo nên tác phẩm. Họ quyết liệt đưa vào những cách thực hành mang tính bài thánh (iconoclastic), thực nghiệm (experimental) và bất kính (irreverent); loại bỏ chất liệu sơn, có khi bỏ cả canvas và board, dùng chất sợi, rác, kim loại quý, nhựa, đất, thậm chí cả những chất lấy từ nội tạng, đủ mọi loại, hầu diễn đạt những kết quả “nồng nặc” của cả cảm giác về sự mong manh rạn vỡ của thế giới hậu chiến, lẫn nỗi khao khát của nghệ sĩ trong việc tái định nghĩa lại thế giới.


Không đề, trên thảm, 2010-11, Paul McCarthy

Vào đầu thập niên 60, Otto Muehl tuyên bố, “Trong hội họa của chúng tôi, chúng tôi xem vật liệu là mục tiêu đích thực của tác phẩm. Vấn đề chính là ở việc trình bày vật liệu. Đối với chúng tôi, thứ sơn được chế tạo ra là không tồn tại nữa, chúng tôi từ bỏ nó như từ bỏ một thứ gì đó mang tính duy mỹ và suy đồi.”

Vào ngày 3. 3. 2011 (tức cách đây hơn hai tháng), gallery Luxembourg & Dayan ở New York đã mở cuộc triển lãm Những Bức Tranh Không Được Vẽ (Unpainted Paintings - theo lối truyền thống?), là một cuộc khảo sát trên quy mô quốc tế của hơn hai chục tác phẩm trừu tượng khác thường kể từ thập niên 50 đến nay, tất cả cùng hợp lại cho thấy một khuynh hướng Chủ nghĩa Hiện đại liên tục, kéo dài, nhưng thường không được đánh giá đúng mức.


Marble (Cẩm thạch), 2011, Anne Betbeze

Triển lãm cho thấy, suốt bao thập niên qua, các họa sĩ đã lưỡng lự giữa một bên là sự trung thành với truyền thống diễn tả bằng hình tượng, với một bên là khát vọng đào sâu, nới rộng biên giới, hoặc thậm chí tấn công thứ tranh phẳng. Tiêu biểu cho việc đẩy cho đến cùng cái tiềm năng biểu cảm theo lối không-theo-quy-ước (non-conventional) bằng những hành động như đốt, xé, khâu, vá, bao phủ, và bôi bẩn, là những họa sĩ tiêu biểu có mặt trong cuộc trưng bày lịch sử này; họ gồm Lynda Benglis, Pier Paolo Calzolari, Jean Dubuffet, Raymond Hains, Sheila Hicks, Piero Manzoni, Otto Muehl, Blinky Palermo, Paola Pivi, Robert Rauschenberg. Mỗi người là một tay tiên phong phá phách, với những hình thức nhoe nhoét, những điệu bộ gây hấn, những biến thể chắp vá, những chất liệu tạm bợ, không bền.


Một bức vẽ bằng… nước tiểu của Andy Warhol (1978)

Được Alison Gingeras, giám tuyển trưởng ở Palazzo Grassi, tổ chức, cuộc triển lãm Unpainted Paintings có cả các tác phẩm được mượn thẳng từ nhà riêng của họa sĩ, những bộ sưu tập riêng danh giá và các xưởng vẽ. Một số tác phẩm chưa từng được trưng bày cho công chúng.


Không đề, 2007, David Hammons

Tác phẩm trong triển lãm này đa dạng, hệt như những động lực mang tính thực nghiệm phía sau chúng. Một số tác giả trong số này lại nổi bật nhờ lối thẩm mỹ có xu hướng phạm tội và khát vọng phá hủy tranh giá vẽ chỉ vì thấy nó “trưởng giả”. Trong khi đó một số tác giả khác khai thác những cách thức biểu hiện và trang trọng theo một phong thái ít chính trị hóa hơn, cà rỡn, vui nhộn hơn.


Tác phẩm của Kishio Suga, 2007

Khi được tập hợp lại cùng nhau thế này, mới thấy rõ các nghệ sĩ thế hệ ấy đã nỗ lực biết bao để tạo ra một di sản của thách thức và nổi loạn cho các thế hệ theo sau. Họ phá bỏ các giới hạn của những định nghĩa đã ổn định, thách thức các điều kiện về vật liệu, đập tan các khung khái niệm dành cho hội họa. Nhưng không phải vì thế những trăn trở của họ dành cho sự phát triển mỹ thuật có kém đi. Lucio Fontana viết, “Rất nhiều người đã nghĩ rằng tôi đang cố phá hoại; nhưng điều đó không đúng chút nào, tôi đã kiến tạo, chứ không phải phá hoại, đó là vấn đề then chốt.”


Không đề, 2011, Martin Kippenberger

Loại hoạt động “unpainted painting” có tính lật đổ này đã không chấm dứt hồi thập niên 60. Từ thập niên 70 cho tới tận hôm nay, các họa sĩ vẫn tiếp tục đẩy lùi các biên giới về độ trang trọng, về tính khái niệm, và về vật liệu của tranh phẳng. Trong triển lãm Unpainted Paintings cũng có những tác phẩm quan trọng và hiếm thấy của các họa sĩ lớp sau như Martin Kippenberger và Rosemarie Trockel, Dan Colen, Alex Hubbard, Mike Kelley, và Steven Parrino…

Trong triển lãm này, một số họa sĩ “đời sau” vẫn sử dụng sơn. Trong những trường hợp đó, sơn chỉ là một yếu tố rất phụ, có mặt trong một nổi loạn lật đổ có chủ ý.




Một tác phẩm của Dan Colen, 2011





Tác phẩm của Yves Klein, 1961



Bằng việc tập hợp lại trong một cuộc trưng bày quy mô lớn, triển lãm Unpainted Paintings thử lần lại những háo hức lật đổ đầy khiêu khích và hấp dẫn của các thế hệ nối tiếp nhau, trên nhiều quốc gia, ở nhiều phong trào nghệ thuật…Bất kể vật liệu mà họ sử dụng có đi ngược lại quy ước như thế nào, bất kể rằng họ đã phải cố tình không dùng sơn khi sáng tác, bấc kể họ có cố làm khác… thì điểm chung của những nghệ sĩ này vẫn là một sự tận hiến say mê với công cuộc tìm kiếm bản chất của hội họa, và họ đã góp phần khơi được những tiềm năng của hình thức, nhờ những thử nghiệm và nhờ một thái độ bất kính (với hội họa truyền thống).

Thứ Tư, 9 tháng 12, 2015

Chùm tranh biếm họa có thể khiến bạn 'đặt máy xuống để thực sự suy tư'



Chân dung những người nghiện đồ công nghệ, thích sống ảo hiện lên đầy hài hước qua bộ tranh của nghệ sĩ người Pháp Jean Jullien.




Chào mừng tới bãi biển - nơi Facebook, email hay smartphone đều bị cấm để bạn có thể thực sự sống với chính mình.




Trong một tập thể nghiện công nghệ, bạn như một kẻ lập dị vì không biết xài smartphone.




Tiến trình đọc báo từ nhiều thập kỷ qua: rồi sẽ có một ngày, máy tính bảng được sản xuất to đùng như tờ báo.




Với chiếc điện thoại kế bên, bạn không thể nhắm mắt hoàn toàn khi đi ngủ.




Chỗ duy nhất trên cơ thể không bị ăn nắng là trên tai, có hình chiếc điện thoại.




Đây là cách người ta xem ca nhạc ngày nay.




Bàn ăn của gia đình sẽ không thể trọn vẹn nếu thiếu smartphone, máy tính bảng cầm tay.







Con người từ khi điện thoại thông minh và đồng hồ thông minh ra đời.




Với những đồ công nghệ luôn cần sạc điện, bạn cơ bản là đã bị cầm tù.




Cuộc hẹn có còn lãng mạn nếu những ứng dụng hẹn hò liên tiếp báo tin nhắn.





Đến trẻ sơ sinh còn phát hoảng với căn bệnh cuồng công nghệ của người lớn.





Trước khi ăn, luôn là thủ tục check-in đồ ăn.




Một góc nhìn khác về cách các cặp đôi hiện nay hẹn hò.




Cảnh tượng không mấy xa lạ ở các bãi biển hiện nay.




Kẻ nghiện smartphone luôn bị giam cầm trong xiềng xích.




Tương lai của nghệ thuật nhiếp ảnh.




Đến ông già Noel cũng không thoát khỏi camera smartphone.




Đi đâu cả rồi những con người thú vị?




Các tủ điện thoại giờ chỉ là hoài niệm của quá khứ.




Đến Nữ thần Tự Do còn phải mải mê check-in.




Cúi đầu vào màn hình laptop và bỏ quên cảnh bình minh tuyệt đẹp ngoài kia.




Đến một lúc khuôn mặt con người sẽ được mã hóa QR.