Hiển thị các bài đăng có nhãn LÝ LUẬN - PHÊ BÌNH. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn LÝ LUẬN - PHÊ BÌNH. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2022

Cần từ bỏ việc ghép cái gọi là “chủ nghĩa Mác-Lênin” với Tư tưởng Hồ Chí Minh (Mênh mông thế sự để gió cuốn đi số 138)

 


Cần từ bỏ việc ghép cái gọi là “chủ nghĩa Mác-Lênin” với Tư tưởng Hồ Chí Minh (Mênh mông thế sự để gió cuốn đi số 138)



Tương Lai



Chủ đề này vốn chiếm lĩnh một điểm nhấn suy ngẫm và tìm kiếm thông tin trong nội dung nghiên cứu của tôi. Gần đây lại càng giục giã phải viết, khi mà trên sách báo chính thống và trên hệ thống truyền thông nhà nước rộ lên những thông tin phê phán việc tách rời cái gọi là “Chủ nghĩa Mác-Lênin” ra khỏi “Tư tưởng Hồ Chí Minh”. Người ta cho đó là “một sai lầm” nhằm “hạ thấp Tư tưởng Hồ Chí Minh”, có ý đồ xuyên tạc với dụng ý xấu nhằm làm chệch hướng tư tưởng của Đảng.

Tạp chí Cộng sản ra ngày 30.3.2022 viết: “Một trong những thủ đoạn thâm độc mà các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị thường sử dụng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ là tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, tiến tới mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ hiện hành trên đất nước ta. Do đó, nhận diện, bóc trần thủ đoạn này là một nội dung căn cốt trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay”.

Cái “nền tảng tư tưởng” đó là gì vậy? Liệu có phải là cái gọi là “văn hoá Đảng” được phô ra một cách kệch cỡm và liều mạng: “Văn hoá Đảng chính là đỉnh cao những giá trị văn hoá của nhân loại, của dân tộc, của giai cấp được thấm sâu và kết tinh trong mỗi cán bộ, đảng viên và trong mỗi tổ chức của Đảng”.[1]

Cái gọi là “sự kết tinh” đó phải chăng là trong 10 năm qua, con số bị kỷ luật lên đến 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang; hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Riêng năm 2021, đã thi hành kỷ luật 223 tổ chức đảng (khiển trách 159 tổ chức, cảnh cáo 64 tổ chức), cao hơn nhiều so với bình thường.[2]



Điều này không lạ. “Quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng [tha hoá] cũng tuyệt đối” sự đúc kết trở thành quy luật của nhà sử học Lord Acton đã trở nên quá quen thuộc trong báo chí và truyền thông đối diện với một thực trạng tồi tệ của sự băng hoại về đạo lý xã hội, về sự xuống cấp của văn hoá, về sự hư hỏng của người có quyền lực. Từ quyền lực cỏn con cho đến quyền lực của “lên tận đỉnh chín tầng cao” ngày càng bi đát theo cấp số nhân. “Ít người nhận thức được những mối nguy hiểm của quyền lực chính trị rõ ràng như Lord Acton. Ông hiểu rằng những người nắm quyền thường đặt quyền lợi của chính họ cao hơn tất cả và sẽ làm tất cả mọi việc nhằm giữ được quyền lực. Họ thường xuyên nói dối. Họ vu cáo những người cạnh tranh…”.

Nhưng câu hỏi đặt ra là vì lý do gì mà vấn đề này lại được xới lên khi những tin nóng về “cái lò của ông Trọng” đang giữ nhịp sống động thu hút độc giả cho các thông tin trên các tờ báo chính thống, kể cả các “siêu báo” và hệ thống truyền thông Nhà nước cũng như trên các báo mạng – với những lời bình luận nổ như ngô rang – về các vụ án tham nhũng. Các nhà báo chẳng cần phải “câu viu”, mà “viu” [view] nóng đã ngày lại ngày đến đều đều từ Uỷ ban Kiểm tra Trung ương của Đảng, các cơ quan Điều tra và Chấp pháp của Nhà nước về các tội trạng lớn nhỏ từ Trung ương đến địa phương như vừa nêu. Ông Tổng Trọng còn kể ra rất rạch ròi và dõng dạc các con số đảng viên và cán bộ các cấp từ cơ sở đến Trung ương, cả đến Uỷ viên Bộ Chính trị bị kỷ luật ấy. Thoạt nghe cứ như đó là “thành tích” của ông ta, cho dù có lúc ông ta cũng giả vờ “buồn” để báo chí theo đó mà tụng ca hoặc dè bỉu, tuỳ theo chỗ đứng của họ trong bộ máy cầm quyền đang rệu rã, hay giữa lòng dân đang chán ngán.

Phải chăng là bộ máy truyền thông được chỉ thị cần phải làm loãng bớt đi không khí nặng nề của đời sống đang bị đảo lộn, lại được nóng thêm bởi ngọn lửa với củi khô củi tươi từ “lò ông Trọng” trong cuộc chiến loại bỏ đối thủ phả vào. Cũng có lời bình: Chưa chừng đó là một tín hiệu “kiên định lập trường” gửi đến Bắc Kinh khi mà sức ép từ “người đồng chí cùng chung ý thức hệ xã hội chủ nghĩa” đang tăng thêm trong bối cảnh thế giới đang có nhiều biến động mang tính đột biến.

Với cuộc chiến tranh xâm lược Ukraina do Putin phát động, “cuộc chiến tranh đầu tiên trong thế kỷ 21 xáo trộn tình hình địa chính trị và địa kinh tế thế giới hiện thời, đẩy thế giới vào một cục diện mới đa cực rất phức tạp”[3]. Trong “cục diện mới đa cực” ấy, nổi lên sự đối dầu giữa thể chế độc tài phản dân chủ ở phương Đông mà cốt lõi là sự cấu kết của Putin và Tập Cận Bình với cuộc đấu tranh của nhân dân Ucraina bảo vệ độc lập, dân chủ và tự do, bảo vệ chuẩn giá trị về phẩm giá con người được sự hậu thuẫn của phương Tây mà EU và Mỹ là cốt lõi.

Thì chẳng phải trong chỉ dẫn của tạp chí Cộng sản về “nội dung căn cốt trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng” cũng đã hé mở ra điều đó, với cục diện mới của thế giới đã bỏ xa cái thời Việt Nam nằm trong “hai Phe bốn Mâu thuẫn” khi mà “Phe” xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ. Điều này chỉ làm rõ thêm ý kiến của Võ Văn Kiệt cách nay đã 27 năm trong Thư gửi Bộ Chính trị ngày 9.8. 1995: “Cần đánh giá thực chất quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Sự thật hiện nay là 4 nước xã hội chủ nghĩa tuy có những mối quan hệ với nhau ở mức độ nhất định, song không thể hành động, và không có giá trị trên trường quốc tế, như một lực lượng kinh tế và chính trị thống nhất. Nói riêng về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên thì tính chất quốc gia lấn át (nếu chưa muốn nói là loại bỏ) tính chất xã hội chủ nghĩa trong những mối quan hệ giữa những nước này. Thậm chí trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc tồn tại không ít điểm nóng. Thuần tuý nói về chủ nghĩa xã hội thì cả 4 nước xã hội chủ nghĩa còn lại đều nói còn đang phải tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi con đường riêng phù hợp của từng nước”.

Trong bối cảnh mới, bằng sự câu kết với Putin, “Tập Cận Bình đã lái “Giấc mộng Trung Hoa” theo xu hướng cực đoan, thách thức trật tự quốc tế cũ do Mỹ cầm đầu, và muốn thay thế bằng luật chơi mới của Trung Quốc, bắt nạt các nước láng giềng yếu hơn (như Việt Nam và ASEAN) là đồng minh và đối tác của Mỹ. “Vì thế, chỉ có dân chủ hóa và thoát Trung, mới thoát khỏi định mệnh như cái vòng kim cô về ý thức hệ, đã kìm hãm và kéo lùi lịch sử Việt Nam nhiều thập kỷ. Biển Đông vừa là nguy cơ có thể mất chủ quyền, vừa là cơ hội để thoát Trung. Việt Nam đã bỏ qua nhiều cơ hội đổi mới. Vì vậy, phải đổi mới thể chế chính trị đã lỗi thời trước khi quá muộn”.[4]

Cần làm rõ vấn đề “tách rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê-nin” được cho là “xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, tiến tới mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ hiện hành trên đất nước ta” trong bối cảnh thế giới mới đòi hỏi phải “đổi mới thể chế chính trị đã lỗi thời trước khi quá muộn”. Vậy thì, thử bàn xem, việc tách rời cái gọi là Chủ nghĩa Mác-Lênin ra khỏi Tư tưởng Hồ Chí Minh là “hạ thấp” hay “đề cao” Tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay? Để trả lời phải làm rõ một số vấn đề sau đây:

- Liệu có hay không một “Chủ nghĩa Mác-Lênin” với một “Chủ nghĩa Mác” và một “Chủ nghĩa Lênin” không?

- Liệu có đúng là “Tư tưởng Hồ Chí Minh” là sự vận dụng sáng tạo “Chủ nghĩa Mác-Lênin” vào Việt Nam không?

- Thực chất và cốt lõi của “Tư tưởng Hồ Chí Minh” là gì?

Thật ra thì điều này không có gì mới. Cách nay 15 năm trong một tham luận gửi đến Hội thảo “Về phương pháp luận nghiên cứu “Chủ thuyết phát triển” và Tư tưởng Hồ Chí Minh” tổ chức tại TP HCM ngày 8.4.2009 theo Thư mời của Tô Huy Rứa, Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, tôi đã viết:

“Nếu nói thật gọn thì tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam tiên tiến và có hiệu quả nhất. Tư tưởng đó được hình thành từ xa xưa, biến chuyển cùng với lịch sử lâu đời của dân tộc, được làm giàu đẹp và độc đáo thêm trong quá trình tiếp biến hàng ngàn năm với nhiều hệ tư tưởng, nhiều nền văn minh phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á, rồi từ thế kỷ XIX với nhiều hệ tư tưởng và nhiều nền văn minh ở phương Tây, được đột biến và nâng cao về chất. Tất cả những yếu tố đó là cội nguồn của sự xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh vào đầu thế kỷ XX khi gặp được luận cương của V.I. Lênin về dân tộc và những gợi ý về tư tưởng lý luận của K. Marx đáp ứng được khát vọng cứu nước, đưa dân tộc thoát khỏi ách nô lệ của người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, tư tưởng ấy tiếp tục phát triển sáng tạo trong thực tiễn, trong tình cảm sục sôi tìm đường cứu nước, gắn kết với việc phát huy các giá trị tốt đẹp của dân tộc và sự tiếp thu những thành quả hiện đại của tư tưởng loài người. Điểm nổi bật nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng yêu nước, là đặt tổ quốc lên trên hết và trước hết, vì thế, Hồ Chí Minh đề cao tinh thần đại đoàn kết dân tộc, lấy đó làm động lực của phát triển chứ không phải "đấu tranh giai cấp", càng không phải là "đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản". Tiến trình hình thành tư tưởng ấy trong gần 2/3 đầu thế kỷ XX, in đậm dấu ấn riêng của cuộc đời hoạt động, bản lĩnh và nhân cách Hồ Chí Minh”.[5]

Nói như vậy cũng có nghĩa là “Tư tưởng Hồ Chí Minh” không đơn thuần chỉ là sự vận dụng một cách sáng tạo những tư tưởng lý luận của “học thuyết của K. Marx” vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu những phần tinh tuý nhất, cũng có nghĩa là đúng nhất, của lý luận Marx, Engels, Lenin. Trong quá trình bôn ba khắp năm châu bốn biển, Hồ Chí Minh đã hấp thu vào mình trí tuệ, văn hoá của cả loài người. Thì chẳng phải Hồ Chí Minh đã viết đó sao: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân, tôn giáo Giê-su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội, nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.[6]

Có lẽ vì bác bỏ sự khẳng định phải gắn liền cái gọi là “Chủ nghĩa Mác Lênin” với “Tư tưởng Hồ Chí Minh” đó mà cách nay 13 năm, nhân danh Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Tô Huy Rứa đã huỷ lời mời không để tôi đến dự Hội thảo “gọi là khoa học” đó, không cho đọc tham luận, cũng chẳng giải thích, cũng không một lời xin lỗi! Dẫn ra chuyện này chỉ để nói lên thói trịch thượng quen thuộc và tính dai dẳng của sự ngoan cố quyết giữ bằng được một mô hình đã sụp đổ của một ý thức hệ lỗi thời, nhằm củng cố chỗ dựa cho cái ghế quyền lực đã lung lay vì mất lòng dân.

Xin dẫn ra đây giải thích của một nhà nghiên cứu về chủ nghĩa Marx có trách nhiệm: “Cái gọi là “chủ nghĩa Mác-Lênin” chỉ là vấn đề trong nội bộ Đảng chứ không phải là của dân tộc. Chủ nghĩa này chỉ thành vấn đề với dân tộc khi cuộc chiến tranh giải phóng chấm dứt, Đảng Cộng sản theo lý luận của “Mác-Lênin” cho là đã hoàn thành giai đoạn “cách mạng dân tộc dân chủ”, chuyển ngay sang công cuộc xây dựng xã hội mới (không thông qua chủ nghĩa tư bản) với những biện pháp mang thẳng về từ những nước “anh em” Liên Xô, Trung Quốc. Và đó mới thật sự là thứ chủ nghĩa “Mác-Lênin” đích thực theo cái nghĩa mà chúng ta đã biết khi nhắc đến cuộc Cách mạng Tháng mười Nga “tiên thiên bất túc”: một cuộc cách mạng mang những nguyên lý của Marx ra thực hiện, nhưng đã đi ngược lại hoàn toàn cái mô hình “xã hội cộng đồng chủ nghĩa” do Marx vạch ra cho tương lai. Và cũng từ đó trở đi những phức tạp, khó khăn, những dối trá ngược ngạo, những “nghịch lý” nảy sinh”.[7]

Chính vì những nghịch ấy mà cần phải làm rõ một số vấn đề sau đây:

Sinh thời, Karl Marx không bao giờ tự nhận có một “chủ nghĩa Marx”, thậm chí Marx nói rằng mình không phải là người “Marxism”! Về sau này, do nhu cầu của cách mạng mà những đồng chí của K. Marx, trước hết là F. Engels mới nói đến “Chủ nghĩa Marx” với tính cách là một học thuyết dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân của giai đoạn mới khi Marx đã qua đời. Sự nghiệp của K. Marx đang còn dang dở. Tư tưởng lý luận của Marx cần được bổ sung, sửa chữa và phát triển, điều mà Marx thường xuyên thực hiện trong suốt cuộc đời mình. Cần hiểu rằng, Marx là người mà “sự sửa chữa đến nhanh hơn sự hình thành, chưa kịp hình thành đã sửa chữa”[8]. Vì thế, với chúng ta ngày nay, điều quan trọng nhất là lý luận Marx cần phải được xem xét trong bối cảnh mới mà trước hết phải chỉ ra những gì có thể ghi nhận để tiếp thu và loại bỏ những sai lầm rất lớn của lý luận đó. Điều này thì các nhà khoa học nói chung và những nhà “Marx học” nói riêng đã chỉ ra rất rõ ràng và đầy tính thuyết phục, chỉ có điều ở ta thì chúng bị cấm kỵ không được nói đến!

Phải dám nhìn thẳng vào sự thật để chỉ ra rằng, những sai lầm của lý luận Marx đã đưa đến những hệ lụy quá lớn mà Marx không sao hình dung nổi. Đặc biệt là khi V. Lenin khai thác và áp đặt những luận điểm sai lầm của Marx về bạo lực cách mạng và về chuyên chính vô sản vào nước Nga, đẩy tới những tai hại khủng khiếp của quá trình triển khai những luận điểm ấy trong một chế độ độc tài tàn khốc Stalinist nhân danh Chủ nghĩa Marx-Lenin! Không ai khác, mà chính V.I. Lenin đã thẳng thắn chỉ ra: “Chúng ta không hề coi lý luận Marx như một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”.[9]

Có nhiều luận điểm mà đương thời, Marx cũng như Engels đã từng trăn trở, suy tư và đưa ra nhiều gợi ý sửa chữa, nhưng rồi sau này, do những lý do và động cơ khác nhau, người ta đã không chú ý hoặc cố tình bỏ qua, đây cũng là điều phải lưu ý. Có những điều mà đương thời Marx đã nhận ra, đã thay đổi quan điểm và nêu lên những điểm mới để hoặc là sửa chữa, hoặc là bổ sung ví như luận điểm về giai cấp công nhân có thể sử dụng hình thức đấu tranh nghị trường. Trong “Lời nói đầu viết cho bản cương lĩnh của Đảng Công nhân Pháp” viết vào đầu tháng 5 năm 1880 mà sau này những người nghiên cứu cho rằng đó là “Di chúc chính trị” của K. Marx, nhưng nhận định quan trọng đó đã bị bỏ qua. Thay vào đó không thiếu những điều mà người ta cố tình gán ghép cho Marx.

Chỉ đưa ra đây một điều được cho là “quy luật thép” trong “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, thậm chí có lúc được xem như là một trong những luận điểm then chốt dẫn dắt sự đổi mới về vận hành kinh tế, đưa tới một số quyết định về đường lối chính sách quản lý kinh tế sau Đại hội VI, xem như là sự trở lại với quan điểm đúng. Đó là quan điểm về “quy luật tất yếu giữa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với tính chất của quan hệ sản xuất”. Ấy vậy mà, xem xét thật kỹ những thành tựu nghiên cứu đáng tin cậy về Marx trong nửa sau thế kỷ XX, người ta cho rằng đây không phải là tư tưởng của Marx, đúng hơn, đây chỉ phản ánh một kết quả nghiên cứu của Marx ở giai đoạn chưa thật “trưởng thành” để đạt độ “chín” về lý luận mà sau này K. Marx đã không nhắc đến nữa. Luận điểm này không đứng đơn độc mà nó liên quan đến một loạt những vấn đề cơ bản về “hình thái kinh tế xã hội”, về mối liên hệ tương tác giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Về sau này, những nhà nghiên cứu về Marx cho rằng, thật ra, những ý kiến trên chưa thể hiện được tư duy của K. Marx của giai đoạn sau này, giai đoạn lý luận đạt độ “chín” khi viết bộ “Tư bản”.

Trong hệ thống tư tưởng lý luận của K. Marx, không có sự phân biệt một cách rạch ròi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất như hai “vật” khác nhau cùng tồn tại trong một tổng thể là phương thức sản xuất. Phạm trù đích thực trong tư duy lý luận của Marx không phải là vật mà là quan hệ! Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là những quan hệ khác nhau của cùng một sự vật là nền kinh tế. Khi nhìn nền kinh tế ấy ở góc độ trong mối liên hệ giữa những con người với nhau thì đó là quan hệ sản xuất, khi nhìn nền kinh tế ấy ở góc độ mối liên hệ giữa con người với tự nhiên thì đó là lực lượng sản xuất. Người đầu tiên nói đến quy luật của sự phù hợp giữa trình độ lực lượng sản xuất và tính chất của quan hệ sản xuất là J. Stalin. Rồi sau đó, là sự tung hô, xem đó là “quy luật thép”.

Hệ quả sự tác động của “quy luật thép” ấy khó mà kể hết ra, chỉ nêu một ví dụ tiêu biểu, đó là luận điểm “Cách mạng xã hội chủ nghĩa sau khi giành được chính quyền mới tự giác thực hiện từ đầu, từ không đến có về tất cả mọi mặt” cũng do J. Stalin nêu lên, gắn liền với năm phương thức sản xuất nối tiếp nhau ra đời.

Điều này hoàn toàn xa lạ với tư tưởng lý luận của Marx mà về khái niệm “chủ nghĩa xã hội”. Diễn đạt các hình thái kinh tế xã hội theo kiểu khép kín và cắt khúc lịch sử ra từng đoạn tách rời nhau chính là sự xuyên tạc tư tưởng lý luận của Marx. Marx chưa bao giờ nói như vậy mà trong tư duy của ông, xã hội loài người trải qua ba hình thái xã hội: hình thái tiền kinh tế, hình thái kinh tế và hình thái hậu kinh tế. Đây là một vấn đề cực kỳ phức tạp mà trong sự hiểu biết còn hết sức hạn hẹp, tôi chỉ sơ lược gợi lên vài ý vắn tắt và có phần đơn giản trong phạm vi bài viết ngắn.

Hình thái kinh tế là gì? Là hình thái có kinh tế thị trường có hàng hoá ở những mức độ khác nhau. Lịch sử loài người đã trải qua một thời kỳ hình thái xã hội không có hàng hoá Marx gọi là hình thái xã hội tiền kinh tế. Tiếp đó, khi xã hội bắt đầu có hàng hoá, có thị trường thì đó là hình thái kinh tế. Hình thái xã hội này kéo dài mấy thiên niên kỷ với hàng hoá, với thị trường phát triển từ thấp đến cao, lên đến cao nhất là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa trong những dữ kiện của thời kỳ ấy, Marx nhận định đây là giai đoạn “cao nhất” của chủ nghĩa tư bản để rồi dẫn đến hình thái hậu kinh tế mà ở giai đoạn cao của nó chính là chủ nghĩa cộng sản!

Phải nắm được thực chất tư tưởng của Marx về vấn đề này là “hình thái kinh tế của xã hội” chứ không phải “hình thái kinh tế xã hội”. Truy tìm từ văn bản thì năm 1894, Lenin dịch ra tiếng Nga là “hình thái kinh tế – xã hội”, sau đó, Lenin chữa lại là “hình thái kinh tế của xã hội”. Thêm từ “của” vào mới diễn đạt được đúng logic tư duy của Marx. Theo Marx, trên những nét lớn, các phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong kiến và tư bản hiện đại có thể xem là những thời đại tiến dần lên hình thái kinh tế của xã hội. Nơi nào không có phương thức sản xuất “châu Á” thì là “phương thức cổ đại”, tức là chiếm hữu nô lệ.

Ở đây, Marx không hề nói các hình thái kinh tế nối tiếp nhau, mà là nói về hình thái kinh tế của xã hội, trong đó, ông nhìn nhận rất rõ sự đóng góp to lớn của chủ nghĩa tư bản trong lịch sử loài người, “chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại… có thế kỷ nào trước đây lại ngờ được rằng có những lực lượng sản xuất như thế vẫn nằm tiềm tàng trong lòng lao động xã hội”. Chính Marx đã viết trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” rằng: “Giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử… Chính giai cấp tư sản là giai cấp đầu tiên đã cho chúng ta thấy hoạt động của loài người có khả năng làm được những gì… Sự đảo lộn liên tiếp ấy của sản xuất, sự rung chuyển không ngừng ấy làm cho thời đại tư sản khác với tất cả các thời đại trước”. Nhưng, cũng chính K. Marx lại “là người đầu tiên đã đặt một miếng sắt nung vào giữa mặt chủ nghĩa tư bản để hằn lên đấy một dấu vết không sao có thể xoá đi được” như lời một nhà nghiên cứu ở phương Tây đánh giá về K. Marx!

Cần nói thêm, chính cái gạch nối giữa hai từ kinh tế và xã hội này (kinh tế – xã hội) được dùng rất phổ biến và rộng rãi, không chỉ ở các “giáo trình chuẩn” mà cả trong những văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước đã gây nên biết bao những ngộ nhận, những lúng túng trong nhận thức lý luận cũng như trong chỉ đạo thực tiễn. Phải đi ngược trở lại sự sai lầm của chuyện “cắt khúc” lịch sử ra những đoạn tách rời nhau của các “phương thức sản xuất” do nhiều nguyên nhân và ý đồ, song có một nguyên nhân quan trọng là diễn đạt không đúng tư duy lý luận của Marx về về hình thái kinh tế của xã hội. Không thật tường minh về điều này thì cũng không thể hiểu được luận điểm của Marx gợi mở về phương pháp luận trong tư duy về con đường phát triển. phân biệt cho được đâu là tư tưởng lý luận của Marx, đâu là sự hiểu không đúng hoặc là sự xuyên tạc Marx.

Mặc dầu Marx đã nhìn thấy khoa học kỹ thuật đã trở thành và đang trở thành lực lượng sản xuất, ông cũng đã thấy được xu thế của khoa học tiến lên tự động hoá với những tác động to lớn của nó: “Khoa học do vận động lịch sử sản sinh ra và tham dự vào vận động lịch sử ấy một cách hoàn toàn tự giác, không còn có tính chất lý thuyết suông nữa, khoa học đã trở thành khoa học cách mạng”. Nhưng Marx chưa đánh giá đúng vai trò của trí tuệ, của chất xám trong sự vận động của kinh tế. Điều này thể hiện trong cách quan niệm của Marx về “giá trị thặng dư”. Một vấn đề được xem như là “hòn đá tảng” trong học thuyết kinh tế của Marx. Ở đây chỉ thấy có lao động giản đơn, lao động chân tay, được gọi là “lao động sống” của người công nhân mới tạo ra giá trị thặng dư thì hoàn toàn không đủ. Tuy rằng về sau Marx có nói đến vai trò “nhạc trưởng” trong điều hành và quản lý nền kinh tế lớn. Nhưng xem ra, vai trò ấy chỉ đặt ra như một mệnh lệnh trừu tượng chứ không nêu lên được sự đóng góp có ý nghĩa rất lớn của vai trò quản lý trong qúa trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội, trong sự điều chỉnh các cuộc khủng hoảng. Hơn nữa, Marx cũng chưa làm sao thấy trước được vai trò quản lý khi khai thác được những thành tựu của khoa học và công nghệ để tự điều chỉnh và thúc đẩy quá trình phát triển hình thái kinh tế của xã hội với chủ nghĩa tư bản phát triển. Cũng liên quan đến những nhận thức nói trên, K. Marx đã có phần nào tuyệt đối hoá vai trò của bạo lực, cho rằng cách mạng là bạo lực, là bạo lực bằng vũ trang khởi nghĩa, hoặc là bạo lực chính trị của quần chúng nổi dậy.

Chính từ nhận thức đó mà Engels khái quát thành luận điểm “bạo lực luôn luôn là bà đỡ cho sự xuất hiện của xã hội mới” mặc dầu về cuối đời, Marx có điều chỉnh lại luận điểm này. Trong mạch tư duy ấy, K. Marx nhấn mạnh vào tính chất phổ biến và thường trực của cách mạng vô sản và dự liệu khả năng cách mạng vô sản sẽ nổ ra đồng loạt, gần như tức khắc ở một loạt nước tư bản phát triển. Người ta cho rằng đây là một dấu vết của lối ngoại suy theo “chủ nghĩa kinh tế” mà sau này Marx cố khắc phục.[10]

Ấy thế mà: “Trong thực tế, cái lộ trình chung cuộc của chủ nghĩa tư bản hiện thực đã không chấm dứt theo cái lôgích tối đa hoá, phân cực hoá như Marx đã hình dung. Chủ nghĩa tư bản đã không chết trên sự giàu sang của nó như một tất yếu mù quáng: mặc dù bản thân vẫn chứa đầy mâu thuẫn nhưng nó đã biết tự điều chỉnh để tồn tại. Giai cấp công nhân vẫn còn là những người làm thuê, bị “bàn tay vô hình”của cơ chế sản xuất tư bản chủ nghĩa làm cho đời sống bấp bênh và do đó vẫn phải tiến hành những cuộc “đấu tranh giai cấp” để cải tiến số phận; nhưng cái lớp người hiện thực ấy đã không trở thành những kẻ vô sản mất hết nhân tính riêng biệt, để từ đó tự sản sinh ra được cái ý thức về một sự giải thoát phổ biến, xây nên một vương quốc tự do mang lại nhân tính cho loài người như Marx đã suy đoán. Cũng vì thế mà cùng với thời gian, những dự kiến của Marx về tương lai ngày càng bị xem là những viễn tưởng mờ mịt. Nhận ra tính chất tư biện và không tưởng trong lý luận của Marx là điều không mới trong giới nghiên cứu chủ nghĩa Marx từ trước đến nay”.[11]

Tôi muốn nói thêm về tai hại của việc nhìn nhận về “vai trò lịch sử của giai cấp vô sản, một giai cấp chỉ mất có xiềng xích mà được cả thế giới, sẽ đảm đương

sứ mệnh tự giải phóng mình và giải phóng toàn thế giới”. Mệnh đề “công nhân không có tổ quốc” cũng có nguồn gốc từ lập luận này. Liên quan trực tiếp đến vấn đề này là luận điểm “đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của lịch sử” mà Marx quá nhấn mạnh đã dẫn đến những hệ luỵ khủng khiếp cho mãi về sau, đến tận hôm nay vẫn chưa thôi.

Một vấn đề cực kỳ quan trọng nữa mà những nhà nghiên cứu về Marx đã phân tích khá kỹ, đó là đương thời, Marx chưa chú ý đầy đủ đến vấn đề dân tộc. Mặc dầu trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đã có nói: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức dân tộc”, nhưng trong toàn bộ tư tưởng lý luận của Marx, dân tộc là vấn đề yếu nhất.

Cùng với vấn đề dân tộc, một khiếm khuyết khác nữa là Marx chưa nhìn nhận đúng về vấn đề tâm linh, về tôn giáo của các dân tộc. Tâm linh thường gắn với tính dân tộc. Đã có hàng triệu năm con người sống không có tôn giáo, đến một trình độ phát triển nào đó tôn giáo mới xuất hiện như một nhu cầu tinh thần của con người. Nhu cầu ấy là rất sâu đậm. Mới đầu là tôn giáo có tính chất bộ tộc rồi trải qua cả quá trình mới có tôn giáo dân tộc, và rồi như hiện nay, có tôn giáo mang tính khu vực và có tôn giáo mang tính toàn cầu. K. Marx rất quan tâm đến con người mà lại không chú ý đến vấn đề tâm linh, tôn giáo là một khiếm khuyết không hề nhỏ!

Tóm lại, Marx không có lý luận về cách vượt qua chủ nghĩa tư bản, càng không có một lý luận về xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Mà làm sao có lý luận về chuyện này được khi Marx chỉ có một “thực tiễn” của Công xã Paris kéo dài trong 72 ngày, khởi đầu ngày 18.3.1871 đến 28.5.1871 thì bị dập tắt. Công xã đã thất bại hoàn toàn. Marx viết về sự kiện đẫm máu này như sau: “Pa-ri công nhân, với Công xã của nó, sẽ mãi mãi được người đời ngưỡng mộ coi là tiên khu quang vinh của một xã hội mới. Hình ảnh của những bậc tiên liệt thành viên của Công xã sẽ được đời đời in sâu vào trái tim vĩ đại của giai cấp công nhân”.[12] Đây chỉ là sự tôn vinh không là một đúc kết của lý luận về nhà nước và xã hội mới.

Marx không để lại một lý luận, Marx chỉ để lại một sự nghiệp. Trong sự nghiệp đó, thất bại nhiều hơn thành công. Nhưng đó là một công trình bi tráng nhất của lịch sử nhân loại. Môt khát vọng cao cả muốn đem lại tự do cho con người. Khát vọng về một xã hội trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Phải chăng vì thế mà một nhà Marx học có uy tín đã viết: “Marx thật là vĩ đại, nhưng giá không có Marx thì tốt hơn”.

Trong chiều sâu của nhận định thâm thuý ấy, tôi đọc thấy ý tưởng Marx không thể không chịu trách nhiệm về những “hiểu nhầm” tai hại về tư tưởng lý luận của Marx, về sự “dung tục hoá, thô thiển hoá” do muốn cho “dễ hiểu” khi đưa tư tưởng lý luận của Marx đến với quần chúng lao khổ… Người ta cho rằng, nếu Marx nhất quán hơn về triết học và khoa học thì chắc sẽ không có sự hiểu sai ấy. Học giả người Mỹ Hal Draper từng đưa ra nhận định, “có ít nhà tư tưởng trong lịch sử hiện đại có tư tưởng bị hiểu nhầm tai hại như vậy, bởi những người Marxist và cả những người chống Marxist”.

Tuy nhiên, không đơn giản để hiểu được rằng: “Chính cái luận đề về con người bị tha hoá và tự tha hoá trên con đường đi tìm tương lai cho mình đó mới là nội dung nền tảng, tồn tại nơi tầng sâu nhất trong những trang viết của Marx. Những giải pháp chính trị mà Marx đưa ra có thể không đủ sức mạnh hiện thực để đương đầu với cái hiện thực mà ông phê phán nhưng sự cảnh tỉnh của ông về tình trạng con người trở nên xa lạ với mình trong những cái do mình làm ra, dưới nhiều hình thức, đã mang một ý nghĩa triết học sâu sắc, nhắc nhở con người phải biết thường trực đối mặt với mình, để nhận ra cho được sự giới hạn mang tính bản thể luận của bản thân, trước khi nghĩ đến việc tìm ra con đường cứu chuộc thế tục nào khác cho cái thế giới mà mình đang sinh sống”.[13]

Và nhà nghiên cứu về sự nghiệp của Marx đã đúng khi đưa ra nhận định: “Nhờ Marx mà phương Tây biết nhận thức lại mình, điều đó cũng đã trở thành hiển nhiên với nhiều nhà tư tưởng của phương Tây, dù đó không phải là những người theo Marx”.[14]

Phải chăng vì thế mà một học giả nghiên cứu về Marx từng viết rằng “nhân loại đang sống trong mặc cảm Marx”, “lịch sử đi tới không thể không có Marx”.

Thì cũng vừa mới đây thôi trong thế kỷ XXI này theo NHK đưa tin: “Cuốn sách bán chạy bất ngờ của một học giả Nhật Bản đang khiến thế hệ độc giả mới suy ngẫm về học thuyết của nhà triết học Đức Karl Marx. Ông Saito Kohei, tác giả của cuốn sách ấy nói rằng: học thuyết của Marx vào những năm cuối đời cho chúng ta biết cần xây dựng một xã hội ra sao trong thời hậu COVID-19. Trong sách, ông đề cập tới cảnh báo của Marx khoảng 150 năm trước về chủ nghĩa tư bản không được kiềm chế, và lấy đó để giải thích cho cuộc khủng hoảng khí hậu mà chúng ta đang đối mặt”.

“Nghịch lý này xuất hiện dưới dạng đại dịch vi-rút corona. Tin xấu là COVID-19 không phải là cuộc khủng hoảng cuối cùng, cũng không phải cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất mà chúng ta phải đối mặt. Biến đổi khí hậu thậm chí còn nghiêm trọng hơn”. Theo Saito Kohei, “Chủ nghĩa tư bản tiến lên phía trước trong bối cảnh các nước phát triển không ngừng mở ra các chân trời mới để tiếp cận lao động và tài nguyên thiên nhiên giá rẻ. Chủ nghĩa tư bản, theo định nghĩa của Marx, là quá trình gia tăng giá trị và tài sản một cách vô hạn như vậy”.

“Trong kỷ nhân sinh hiện nay, không còn chân trời mới nào để khai thác. Giờ đây ở Mỹ cũng có lốc xoáy và thời tiết ở châu Âu cũng khắc nghiệt như bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Dù sống ở một nước phát triển, chúng ta cũng không thể chạy trốn khỏi các cuộc khủng hoảng như đại dịch vi-rút corona hoặc biến đổi khí hậu”… “Nếu chủ nghĩa tư bản vẫn đang tìm cách mở rộng chỉ để duy trì sự tồn tại thì sao? Đó là lúc chúng ta cần phanh gấp”.[15]

Sự kiện cuốn sách của một trí thức Nhật Bản trở về với Marx để tìm ra những giải pháp cho một vấn nạn toàn cầu hiện nay gợi mở cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu hơn tâm trạng của thế hệ cha anh họ đã đến với Marx trong bối cảnh nào. Hãy lưu ý đến tâm trạng của một học giả Việt Nam nghiên cứu về Marx:

“…cùng với những đảo lộn khủng khiếp về các hệ giá trị cổ truyền, trước những thử thách của thực tế, chủ nghĩa Marx dần dà phơi bày tính chất viễn mơ của nó, nhất là sự ra đời đau đớn và sự sụp đổ thảm hại của cái thế giới phương Đông nhân danh Marx để đối đầu với phương Tây, chủ nghĩa Marx buộc phải thay đổi những kết luận của mình trước sự đổi thay của đời sống, nhưng nó vẫn chưa đánh mất hết sức mạnh của mình với tư cách là một ý hướng phê phán từ nền tảng mọi vấn đề, một triết lý mời gọi một nhân loại biết cảnh giác với những nguy cơ tự tạo ra những sức mạnh dẫn con người đến chỗ đánh mất bản thân. Marx đã chết nhưng cùng với những bất toàn mang tính cấu trúc của chủ nghĩa tư bản, những tư tưởng phê phán của Marx về chủ nghĩa tư bản sẽ không bao giờ mai một….

Tuy vậy, khi bình tâm suy nghĩ lại mọi thứ về những cái đã qua đó, đặt nó vào cái khung cảnh tổng thể của cuộc chiến đấu vào lúc bấy giờ với những gian khổ, mất mát, hy sinh triền miên, cái viễn cảnh tuyệt hảo về một xã hội tương lai ấy đã có tác dụng nâng con người lên, giúp chúng tôi vượt qua những thử thách tưởng như không thể vượt qua được để tiếp tục cuộc chiến đấu và đưa cuộc chiến đấu đến ngày chung cuộc. Tôi không biết bây giờ trong những bạn bè còn sống của mình có ai, vào một lúc nào đó bỗng chạnh nhớ đến cái giấc mơ thuở đó hay không nhưng bản thân tôi thì không bao giờ quên được: chính giấc mơ ấy đã khuôn nắn nên con người tôi, giúp tôi biết chia sẻ với đồng loại những ưu tư liên hệ đến số phận chung, không lúc nào từ bỏ cái ý muốn đi tìm một chân trời nào đó xa hơn bản thân mình để cuộc sống thường nhật mang được ý nghĩa nhiều hơn cái nó vốn có”.[16]

Vậy là, “nhờ Marx mà phương Tây biết nhận thức lại mình”. Và chắc chắn không chỉ “phương Tây”, tất cả những con người đang sống trên quả đất đã trở nên quá chật chội này đều có thể cảm nhận được khát vọng cao cả muốn đem lại tự do cho con người. Khát vọng về một xã hội trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” như đã nói ở trên. Đó là khát vọng không thành của một sự nghiệp dở dang do tính chất tư biện và không tưởng trong lý luận của Marx.

Còn về Lenin và “chủ nghĩa Lenin” thì xin có đôi điều như sau: Ở ta, thuật ngữ “Chủ nghĩa Lênin” được xuất hiện năm 1927 trong cuốn “Đường Cách mệnh” của Nguyễn Ái Quốc. Lúc ấy chưa xuất hiện thuật ngữ “Chủ nghĩa Mác-Lênin” vì thuật ngữ này chỉ được tạo ra từ đầu những năm 1930 và chính thống hoá trong tác phẩm “Lịch sử tóm tắt của Đảng Cộng sản (BSV)” do J. Stalin chỉ đạo soạn thảo.

V.I. Lenin không có đóng góp gì đáng kể về lý luận trong cái được gọi là “kho tàng lý luận của chủ nghĩa Marx-Lenin” mà người ta hay nói đến như đóng góp về triết học, về lý thuyết xây dựng nhà nước, về lý luận xây dựng Đảng thì quả không được bao nhiêu. Về triết học, thường được nhắc đến là “Bút ký triết học”. Song thực ra, ở đây không có đóng góp gì vào kho tàng tư tưởng lý luận của K. Marx cả. Chẳng những thế có nhà “Marx học” đã cho rằng không có một “phản ánh luận Marxism-Leninism” nghiêm chỉnh theo tinh thần học thuyết Marx. “Phản ánh luận Leninism” là hướng đến cuộc thanh trừng về tư tưởng trong nội bộ đảng, tạo ra mô hình nhà nước toàn trị ý thức hệ.

Về nhà nước, đây là điều mà V.I. Lenin suy nghĩ và viết ra từ rất sớm trong “Nhà nước và Cách mạng”, một thời làm sách gối đầu giường của nhiều nhà hoạt động cách mạng giành chính quyền và xây dựng chính quyền. Thế nhưng, với kiểm nghiệm của thời gian, người ta thấy rằng, trong đó, những tư tưởng sâu sắc thể hiện tính đảng cộng sản và lý tưởng cộng sản bị phôi pha hoặc gặp quá nhiều trở ngại đến mức trở thành “ảo tưởng” không thể thực hiện được. Cuối cùng để lại là nỗi day dứt, lo lắng của V.I Lenin ngày càng tăng về tính chất quan liêu và sự tha hoá của bộ máy nhà nước, trong đó có pha thêm vào tính chất nửa man rợ Phương Đông bất chấp luật lệ đã phá bỏ những thiết kế theo chỉ dẫn của K. Marx.

“Nền dân chủ đến tận cùng” theo mong muốn của V.I. Lenin, thì lại trở thành một nền cai trị độc đoán của J. Stalin mà ông đã nhận xét rằng là người tàn nhẫn quá trong chính sách, thiếu tính thẳng thắn trung thực trong quan hệ đồng chí với nhau và nếu làm tổng bí thư thì sẽ tập trung vào tay mình một quyền lực không giới hạn! Cho đến khi V.I. Lenin mất vẫn chưa có lý luận về nhà nước, về cơ cấu và cơ chế hoạt động của nhà nước kiểu mới. Hệ luỵ của điều này thì quả là quá lớn. Đây là cái mà chúng ta đang phải trả giá hàng ngày, mà cái giá này ngày một leo thang theo tốc độ tha hoá của quyền lực mà xem ra, chưa có điểm dừng!

Về Đảng cũng vậy thôi. V.I. Lenin là người đã vạch ra ba căn bệnh lớn nhất của người cộng sản khi đã nắm được chính quyền là: bệnh kiêu ngạo cộng sản, sự ngu dốt, bệnh quan liêu. Về điều này thì ông quả là nhà tiên tri! Quan điểm mà V.I. Lenin đặc biệt nhấn mạnh và ra sức xây dựng là: Đảng phải ở trong quần chúng, Đảng chỉ là giọt nước trong biển cả của khối nhân dân quần chúng. Đảng phải biết tìm mọi cách để gắn bó máu thịt với quần chúng, không được đứng trên quần chúng. Những điều này thực ra chỉ có thể là mong muốn tốt đẹp trong tư tưởng của người lãnh đạo cuộc cách mạng, song lại không trở thành hiện thực được. Điều V.I. Lenin lo lắng nhất: Đảng trở thành nhà nước, làm thay nhà nước, một siêu nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng biến thành “đảng trị” lại được người kế nghiệp ông biến nỗi lo đó thành một sự thật. Một sự thật bi đát mà hậu quả của nó thì chúng ta đã thấm thía miễn phải dẫn giải dài dòng! Điều đáng nói chăng chỉ là, những tri thức về Nhà nước, về Đảng mà một thời chúng ta được răn dạy lại được soạn thảo theo những chỉ dẫn của J. Stalin, người được mệnh danh là “Lênin ngày nay”, những chỉ dẫn ấy lại được khoác cho bộ áo rất sang trọng và cách mạng là “Chủ nghĩa Mác-Lênin” đang được cố tình gán ghép vào Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Từ những dòng vắn tắt về K. Marx, F. Engels và V.I. Lenin mà nói đến “Tư tưởng Hồ Chí Minh”. Về “tư tưởng” thì đã dẫn ra ở trên. Ở đây xin trình bày về con người Hồ Chí Minh, về bản lĩnh và nhân cách đã hun đúc nên tư tưởng. Nói như Wilfred Burchett, nhà báo lớn người Úc từng lăn lộn trên các nẻo đường chiến tranh chống Mỹ ở Việt Nam: “Chính là lịch sử 2000 năm chống ngoại xâm của Việt Nam đã tạo nên ông Hồ… một cái gì đó trong mỗi người Việt Nam đều có trong Hồ Chí Minh, một cái gì đó trong Hồ Chí Minh đều có trong hầu hết những người Việt Nam ngày nay, có thể nói dấu ấn của ông trên dân tộc Việt Nam thật là sâu đậm”. Phải chăng vì thế mà “Thế giới có một bộ mặt khác vì ông Hồ” như Stanley Kuller, chủ biên công trình “Bách khoa về Chiến tranh Việt Nam” nhận định. Cũng ý đó, David Halberstam lại viết: “Hồ Chí Minh là một trong số những nhân vật lạ lùng nhất của thời đại chúng ta: một chút Gandhi, một chút Lenin… nhưng hoàn toàn Việt Nam” (Ho, Random House, New York, 1971).[17]

Cái gì đã tạo nên “một chút Gandhi, một chút Lenin… nhưng hoàn toàn Việt Nam” của nhân vật Hồ Chí Minh mà David đã nhận xét?

Để trả lời câu hỏi đó phải chăng cần dõi theo bước chân của một con người, một sự nghiệp trải dài suốt gần ba phần tư thể kỷ XX trên hành trình cứu nước và xây dựng lại đất nước từ lúc tóc còn xanh cho đến khi đầu bạc.

Là người Việt Nam đầu tiên tham gia vào một chính đảng ở châu Âu – Đảng Xã hội Pháp – người ta hỏi ông tại sao, Nguyễn Ái Quốc trả lời: “Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của đại Cách mạng Pháp: “tự do, bình đẳng, bác ái””. Rồi khi đã là đảng viên của Đảng Xã hội Pháp, ngay từ năm 1920, với một lập luận đơn giản song nóng bỏng ngọn lửa yêu nước trong tim, Nguyễn đã thuyết phục đồng chí của mình tại những cuộc tranh luận chuẩn bị cho Đại hội Tours của Đảng: “Nếu đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu đồng chí không bênh vực các dân tộc thuộc địa thì đồng chí làm cái cách mạng gì?”. Đằng sau sự ấu trĩ trong nhận thức của một chiến sĩ cách mạng vừa bước vào cuộc đấu tranh thể hiện một mục tiêu trước sau như một.

Chính vì mục tiêu đó mà Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu cho Quốc tế III. Trả lời câu hỏi của một đồng chí: “Đã hiểu tại sao phải tranh luận chưa và vì sao chưa thật hiểu điều đó mà vẫn bỏ phiếu cho Đệ tam”. Nguyễn nói: “Rất giản đơn. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều Đệ tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa. Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do, và độc lập của họ. Còn Đệ nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.

Động cơ dẫn dắt Nguyễn Ái Quốc gia nhập Quốc tế III, trở thành một trong những đại biểu sáng lập Đảng cộng sản Pháp cũng không ngoài mục tiêu nói trên: “…như thế dù Đệ nhị, Đệ nhị rưỡi hay Đệ tam Quốc tế phải chăng cũng thế cả. Những Quốc tế ấy đều không phải là cách mạng cả hay sao? Những Quốc tế ấy đều không đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội cả sao? Dù các bạn gia nhập Quốc tế này hoặc Quốc tế nọ các bạn cũng phải đoàn kết nhất trí. Tại sao phải tranh luận nhiều thế? Trong khi các bạn tranh luận ở đây, thì đồng bào chúng tôi đang rên xiết ở Việt Nam”.[18]

Ngay từ 1924, với cách nhìn của một bản lĩnh không chịu khuôn mình vào những công thức được áp đặt, Nguyễn Ái Quốc đã đòi hỏi phải “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản” với lập luận rằng “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn nhất của đất nước…Người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”. Nguyễn Ái Quốc nhận định rằng, ở Việt Nam, “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”, và chỉ ra rằng “quyền lực của quan lại được cân bằng bắng tính tự trị của xã thôn”.[19]

Từ sự phân tích đặc điểm cụ thể của xã hội nước mình, và để cho “chủ nghĩa Marx sẽ còn đúng cả ở đó”, Nguyễn Ái Quốc cho rằng “dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Marx bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Marx ở thời mình không thể có được”. Nguyễn Ái Quốc lập luận: “Marx đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”.Vì thế Nguyễn đòi hỏi phải “xem xét lại chủ nghĩa Marx về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”.[20]

Phạm Văn Đồng nhận xét rất đúng rằng: “Vào thời kỳ ấy, hệ thống luận điểm của Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ, khó lòng tưởng tượng. Nó nằm trong dòng sáng tạo cách mạng của những con người mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời đại”.[21] Còn theo William J. Duiker, tác giả của cuốn sách viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất bản ở New York năm 2000, “thì đây là một nghịch lý táo bạo, nhưng lại là một thực tế tuyệt vời”.[22]

“Thực tế tuyệt vời” ấy là sự trải nghiệm phong phú, sống động đã rèn đúc nên bản lĩnh và nhân cách Hồ Chí Minh. Sau này khi về nước và trở thành lãnh tụ của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã gạt bỏ những tư tưởng lý luận sai lầm kiểu Stalinist và Maoist “nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào…” để khẳng định rằng: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Cùng với sự khẳng định đó, Hồ Chí Minh đã nghiêm khắc cảnh báo: “Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc”.[23]

Bản lĩnh và nhân cách ấy được tôi luyện trong sự nghiệp hơn nửa thế kỷ của một thanh niên mất nước, phải bôn ba khắp năm châu bốn biển tìm đường cứu nước.

Nếu so sánh với Marx, Engel, Lenin thì Hồ Chí Minh trải nhiều cay đắng về thân phận hơn rất nhiều. Và nếu không biết tự vượt lên thân phận cay đắng đó mà chỉ dừng lại lòng căm hận để tạo nên một mặc cảm hờn tủi thì sẽ dẫn đến tâm thế bi quan tiêu cực. Nhưng Hồ Chí Minh đã cất mình lên cao hơn, vì thế mà có khả năng thông cảm với nỗi đau khổ của con người, trước hết là người lao khổ. Bằng sự trải nghiệm của thân phận mình, Hồ Chí Minh dễ dàng đến với con người đủ mọi tầng lớp, dễ dàng cảm thông, chia sẻ.

Xét về học vấn thì Hồ Chí Minh không bằng Marx, Engels, Lenin nhưng về sự trải nghiệm trong thực tiễn đấu tranh với thân phận một người mất nước, đi nhiều, biết nhiều, học được nhiều trong thực tiễn sống động và phong phú, thì Hồ Chí Minh hơn hẳn ba người kia.

Hồ Chí Minh là người của giai đoạn ba phần tư thế kỷ XX so với một phần tư đầu thế kỷ này có những khác biệt rất lớn. Nói về thế kỷ XX người ta đã khái quát bằng một hình ảnh thật độc đáo: nếu lịch sử hơn 4 triệu năm của loài người thu lại trong 1 năm thì thế kỷ 20 chỉ là 13 phút, từ 23 giờ 47 phút đến 24 giờ của ngày 31 tháng 12. Trong 13 phút ấy, đặc biệt trong 5 phút cuối cùng, loài người đã hiểu biết nhiều hơn toàn bộ hệ thống kiến thức tích lũy trước đó, tức là từ khi trên trái đất bắt đầu có con người.

Hồ Chí Minh đã sống vào thời điểm đặc biệt đó. Marx, Engels không thể có và cũng không thể hình dung nổi cái khối lượng tri thức của giai đoạn này, còn Lenin thì cũng chỉ trải qua hai thập kỷ đầu của thế kỷ XX, chưa đủ để hiểu và tiếp nhận những đột biến của khoa học và kỹ thuật.

Não trạng của người sống ba phần tư sau của thế kỷ XX rất khác với não trạng của người sống ở đầu thế kỷ đó. Điều cần nói thêm là Hồ Chí Minh cũng không có cơ hội để trải nghiệm một phần tư cuối của thế kỷ XX với khối lượng kiến thức khổng lồ mà cuộc cách mạng về khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đem lại cho loài người. Đó là một thiệt thòi cho Hồ Chí Minh, thiệt thòi cho đất nước.

Khác với Marx, Engels, Lenin, Hồ Chí Minh đã có trải nghiệm của người đứng ở đỉnh cao quyền lực của một quốc gia độc lập được mở đầu với Tuyên ngôn Độc lập ngày 2.9.1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Marx và Engels chưa có sự trải nghiệm đó. Lenin thì có được gần 7 năm kể từ 1917 đến 1924, nhưng trong thực tế thì chỉ 4 năm cầm quyền. Sau ngày 30.8.1918 bị ám sát, viên đạn vẫn phải nằm trong cơ thể, ông bị đột quỵ nhiều lần. Tháng 3 năm 1923, ông bị đột quỵ lần thứ ba và phải ngồi xe lăn trong cả phần đời còn lại, thậm chí không thể nói được. Như vậy là Lenin chỉ trải nghiệm người đứng ở đỉnh cao quyền lực được hơn ba năm rồi mất. Gợi lên đôi nét trên chỉ nhằm nói đến “một thực tế tuyệt vời” về con người, cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh, “một nhân cách Hồ Chí Minh”.

Từ thân phận một người mất nước, Hồ Chí Minh đủ bản lĩnh lên một tàu biển để rời quê hương ra đi tìm đường cứu nước bằng hai bàn tay lao động và ngọn lửa trong tim, xin làm phụ bếp cho tàu Amiral Latouche Tréville từ Hải Phòng vừa cập bến cảng Sài Gòn ngày 2/6/1911, và hôm sau, 3.6.1911 nhận thẻ nhân viên của tàu với tên mới là Văn Ba.

Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất,

Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre…

Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương!

(Chế Lan Viên – Người đi tìm hình của nước)

Bôn ba qua nhiều châu lục, nhiều quốc gia, nhiều vùng lãnh thổ từ Á sang Âu, từ châu Mỹ sang châu Phi, không nề hà bất cứ nặng nhọc, lầm than kiếm sống để đi, để nhìn, để biết, để hiểu và để suy nghĩ. Chính sự trải nghiệm phong phú và khắc nghiệt đó đã hình thành nên nhân cách Hồ Chí Minh. Một nhân cách nhất quán với lý tưởng “Ái Quốc”, trước sau như một hướng tới mục tiêu cứu nước, giành độc lập cho tổ quốc, giải phóng dân tộc, đem lại hạnh phúc cho nhân dân mình, giải phóng con người – không chỉ người Việt Nam, mà còn là con người cùng khổ đang phải sống trong áp bức, bất công.

Nét nổi trội nhất trong nhân cách của Hồ Chí Minh là nhất quán tin vào dân, tôn trọng dân, không ở trên dân, không ở ngoài dân, có lòng tự hào vô bờ bến vào sức năng động tự thân của dân. Đây là điều hiếm có ở một lãnh tụ, khi đã đứng ở đỉnh cao nhất của quyền lực của một Đảng cầm quyền, quyền lực của bộ máy Nhà nước. Liệu có phải vì thế mà người chủ biên công trình "Bách khoa về Chiến tranh Việt Nam” Stanley Kuller đã viết câu: “Thế giới có một bộ mặt khác vì ông Hồ"?

Là Chủ tịch Nước ngót một phần tư thế kỷ, hiểu rõ cái truyền thống quan liêu của nhà nước phong kiến, Hồ Chí Minh đã gắng công xây dựng một nhà nước một nhà nước “không quan” với một nhận thức rất rõ ràng: “Chính phủ Cộng hoà dân chủ là gì? Là đầy tớ chung của dân, từ Chủ tịch toàn quốc đến làng. Dân là chủ thì Chính phủ phải là đầy tớ. Làm việc ngày nay không phải để thăng quan, phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Nhưng khi dân dùng đầy tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đỡ Chính phủ”.

Cần nhớ rằng đây là bài nói của Hồ Chí Minh ngày 20.2.1947, tại Thanh Hoá, chỉ mấy tuần sau ngày “Toàn quốc Kháng chiến 19.12.1946, đúng hai năm khi Trung đoàn Thủ đô rút ra khỏi Hà Nội để chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Lúc ấy đang ở chùa Thầy – Sơn Tây, thay vì lên Việt Bắc, Hồ Chí Minh quyết định vòng qua Chi Nê – Hoà Bình, đi thẳng vào Thanh Hoá – mảnh đất trù phú từng là căn cứ địa của Lê Lợi mười năm chống giặc Minh – để bàn về chuyện xây dựng lại đất nước, sao cho “nghèo trở nên đủ, đủ trở nên giàu, giàu thì giàu thêm![24] Cần lưu ý đến thời điểm đưa ra quyết định táo bạo ấy.

Một quyết định vừa thiết thực, vừa bất ngờ và rất độc đáo mang tầm vóc của một thiên tài. Một quyết định thể hiện được cái nhìn rất sâu, rất xa về sự nghiệp gian khổ sắp tới với nhiều thách đố nghiệt ngã, nhưng vẫn vững niềm tin chắc thắng. Trong suốt cuộc kháng chiến kéo dài 8 năm, chống một đế quốc hùng mạnh và rất ngoan cố, chỉ kém cuộc kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi 2 năm, Hồ Chí Minh đã nhiều lần có những quyết định táo bạo và độc đáo như thế. Những quyết định mang tầm vóc thiên tài ấy với những giải pháp cũng táo bạo và độc đáo như thế. Có thể gọi đó là “giải pháp Việt Nam”.

Vì, đã là giải pháp cho sự nghiệp cứu nước cứu dân ra khỏi vòng nô lệ, giải phóng con người Việt Nam, giành lại tự do, hạnh phúc và quyền dân chủ cho con người trong một thế giới đầy biến động, phải là giải pháp của Việt Nam. Không thế thì không thể gọi là giải pháp. Nói theo ngôn từ của Shakespeare thì đó là “to be or not to be”. Tư duy của Hồ Chí Minh về giải pháp Việt Nam thật tường minh trong những quyết định táo bạo, thiết thực như với sự kiện vừa nêu và nhiều sự kiện khác…

Phạm Văn Đồng là người sống gần gũi với Hồ Chí Minh hơn nhiều người khác đã có nhận xét rất đúng: “Hồ Chí Minh có sự nhạy cảm đặc biệt đối với lịch sử, thấu hiểu cuộc sống của con người, có nhận thức sâu về vận mệnh của dân tộc, về hướng đi của thời đại. Bản lĩnh đó hình thành trong quá trình lâu dài rèn luyện qua đấu tranh cách mạng. Con người với bản lĩnh đó là con người tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam, đồng thời là con người của mọi dân tộc, của mọi người, thắm đượm hương vị non sông đất nước Việt Nam, thấm nhuần vẻ đẹp của thành quả văn minh xưa nay của loài người… Hồ Chí Minh là người linh hoạt, chủ động, từ việc lớn đến việc nhỏ, từ tuổi thanh niên đến cuối đời. Có thể nói con người ấy có sự dị ứng bẩm sinh với bệnh giáo điều rập khuôn, bệnh công thức sáo mòn… Hồ Chí Minh là người thiết thực, dám nghĩ, dám làm những điều lớn lao, táo bạo, nhưng không bao giờ viển vông hoặc say sưa hăng bốc, rất kỵ với bệnh chủ quan, duy ý chí, bệnh huênh hoang hình thức”.[25]

Có được những phẩm tính đó vì Hồ Chí Minh là con người hoà đồng với thời đại, với thế giới nhưng luôn là con người Việt Nam, “hoàn toàn Việt Nam” như David Halberstam viết. Phần minh triết trong tư tưởng Hồ Chí Minh hoà quyện với nét thông tuệ dân gian của sự khôn ngoan dân dã quen thuộc, đã tạo nên nét độc đáo của phẩm tính Hồ Chí Minh, nhân tố quyết định hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

Cách Hồ Chí Minh tự tay cắt một nụ hoa hồng từ một nhánh non, gai chưa đủ nhọn và sắc trong vườn hoa tự tay mình chăm bón để đưa tặng nữ nhà báo Pháp Madeleine Riffaud, nói lên sự lịch lãm “rất tây” của một người Phương Đông biết dẻo dai vung gàu dai tưới nước như một nông dân. Là người rất sành sõi thơ Đường và làm thơ Đường khá thuần thục đồng thời cũng thoải mái làm thơ nôm na “chúc Tết” đồng bào đã phần nào nói lên nét hoà quyện đó.

Từ những điều vắn tắt vừa nêu mà bàn về việc cố tình ghép cái gọi là “Chủ nghĩa Mác-Lênin” vào “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, và cho rằng không đồng tình với sự gán ghép ấy là “thủ đoạn thâm độc mà các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị thường sử dụng để chống phá”, vì thế, “nhận diện, bóc trần thủ đoạn này là một nội dung căn cốt trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay” như tạp chí Cộng sản đã hung hăng tuyên bố. Đó là một sự nông cạn và hàm hồ trong tư duy, quen thói ăn theo nói leo theo lối “độc quyền chân lý, áp đặt tư tưởng, tuỳ tiện quy kết” của người nông cạn về hiểu biết, nhưng lại huênh hoang tự huyễn vì đang có quyền lực trong tay.

Làm như thế là hạ thấp Tư tưởng Hồ Chí Minh, nếu chưa muốn nói đấy mới là xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh ở phần tinh hoa và là cốt lõi của tư tưởng ấy. Đã đến lúc phải nói rõ cần phải vứt bỏ việc gán ghép cái gọi là “Chủ nghĩa Mác Lênin” với “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, vứt bỏ nhận thức nông cạn và thô thiển cho rằng Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là “sự vận dụng một cách sáng tạo Chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam.

Hãy trả về cho cuộc sống cái giá trị vốn có của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một sự thật lịch sử đã được chứng minh. Đừng bóp méo lịch sử theo những ý đồ đen tối, mượn hình ảnh Hồ Chí Minh làm bình phong che đi cái diện mạo đen tối mà thể chế độc quyền toàn trị phản dân chủ đã tạo ra, với sự băng hoại về đạo lý xã hội, sự xuống cấp thê thảm về văn hoá, kéo theo sự tha hoá của con người, đặc biệt là người có quyền đối lập với sự lam lũ khó khăn của những người yếu thế trong xã hội.

Chúng ta đang phải sống trong thời điểm “Đất nước những năm thật buồn” như tên gọi một bài thơ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Càng buồn khi anh viết:

Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi?

Tôi càng buồn và thông cảm với nỗi buồn của anh khi nhớ lại anh cũng là người đứng trong những người từng ở trên đỉnh cao quyền lực khi là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng. Nhưng tôi nhớ là Tô Đông Pha có nói người giỏi thơ thì nói ý mà không nói tên. Còn, người đỡ đầu cho bài thơ “làm thay đổi nước Mỹ” Lawrence Ferlinghetti thì cho rằng thi ca là những hình vẽ vĩnh cửu trong trái tim của tất cả mọi người.

Tôi nghĩ rằng, chính chúng ta phải nắm vận mệnh của chúng ta để góp phần nắm lấy vận mệnh của dân tộc trong một không gian đầy sợ hãi này, xua tan đám mây đen đang vần vũ che kín bầu trời.

Xem ra phải nhắc lại câu thơ Hồ Chí Minh:

Sự vật vần xoay đà định sẵn

Hết mưa là nắng hửng lên thôi [26]

晴天 Tình thiên Trời hửng

事物循環原有定,Sự vật tuần hoàn nguyên hữu định Sự vật vần xoay vốn định sẵn,

雨天之後必晴天 Vũ thiên chi hậu tất tình thiên Sau ngày mưa tất đến ngày nắn

片時宇宙解淋服 Phiến trì vũ trụ giải lâm phục Trong chốc lát, vũ trụ đã cởi bộ áo ướt,

萬里山河晒錦氈 Vạn lý sơn hà sái cẩm chiên Muôn dặm non sông phơi màu chăn gấm

Ngày 22.7.2022

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2022

Ý-NGHĨA NHỮNG TỪ THÔ-TỤC TRONG VIỆT-NGỮ


BS.Nguyễn Xuân Quang
Những từ mà chúng ta ngày nay cho là “thô tục”, đối với tổ tiên ta chúng mang đầy ý nghĩa về triết lý, vũ trụ quan và nhân sinh quan, nói một cách khác những từ này mang ý nghĩa của Dịch lý.
Vì đây là một bài khảo cứu về ngôn ngữ và Dịch học, nên tác giả xin phép viết các từ thô tục này “nguyên con” (nguyên chữ). Xin các nhà đạo đức tạm gác cái bầu đạo đức qua một bên khi đọc loạt bài này kẻo không sẽ nguy hại tới sức khỏe (đây là lời khuyên của một thầy thuốc).
NHỮNG TỪ CHỈ BỘ PHẬN SINH DỤC NỮ
Trước hết xin nói về những từ chỉ bộ phận sinh dục phái nữ vì xã hội loài người bắt đầu từ mẫu hệ và hư vô trung tính chuyển qua vũ trụ âm trước. Việt ngữ có những từ chỉ bộ phận sinh dục nữ như nường, lồn, dánh, ke, ghe, nốc, dốc, đốc v. v…
NƯỜNG
Nường là tiếng cổ Việt chỉ bộ phận sinh dục nữ thấy rõ qua từ kép “nõ nường”. Nõ là nọc là cọc là cặc (xem dưới). Nường là nương, là nang có nghĩa là cái bao, cái túi, cái bọc. Nường là nòng, nõ là nọc. Nõ nường là nọc nòng dương âm là càn khôn. Ta cũng có từ nõn nường hàm nghĩa chỉ bộ phận sinh dục:
Ba mươi sáu cái nõn nường,
Cái để đầu giường, cái gối đầu tay.
(ca dao).
Thật ra nõn nường chỉ bộ phận sinh dục gái tơ với nõn là non, trẻ, mượt mà như vải phin nõn, trắng nõn trắng nà. Từ nõn nà với nà là ná, nạ (mẹ) nàng, nường. Nõn nà là nường non, gái tơ, cái nường trắng nõn, trắng nà. Nõn nà là nàng đẹp tương đương với mị nương chính là Mã Lai-Java ngữ nona, nàng.
LỒN
Lồn là lồng, lòng, nòng, nàng, nường, nang có nghĩa là cái bao cái túi, cái bọc.
Lồn, lồng là dạng nam hóa, hiện kim của nòng, nường (l là dạng nam hóa, hiện kim của n). Lồn liên hệ với lồng thấy rõ trong Anh Pháp ngữ: vagina, vagin (âm đạo) liên hệ với invagination (lồng vào nhau) như intestinal invagination (chứng ruột lồng) còn có tên là intestinal intussusception. Lồng còn có nghĩa là vật đựng, dùng để “nhốt” chim hay gà. Ở một diện, chim biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam (xem dưới) và gà trống cũng vậy. Anh ngữ cock là gà trống và cũng là từ chỉ bộ phận sinh dục nam. Anh ngữ “cock” có gốc coc-, chính là Việt ngữ cọc, cặc. Rõ ràng cái lồn, cái lồng dùng để “nhốt” chim và gà của phái nam. Với nghĩa là túi, bao, bọc, lồn tương ứng với Pháp ngữ vagin, Anh ngữ vagina (âm đạo). Theo v=b như víu = bíu, vagin, vagina có gốc vag- = bag (túi, bao). Anh ngữ vaginate có nghĩa là có bao, có túi. Với nghĩa là lồng, lòng, dạ, lồn liên hệ với Ba Lan ngữ lono (‘bosom’, ngực, lòng; lap, đùi, chỗ trũng, chỗ lõm, với Phạn ngữ yoni (vulva, âm hộ) (theo qui luật l=d=y). Phạn ngữ yoni liên hệ với yauna (dạ con), yauna chính là yoni + a. Ta thấy rõ trong tiếng Việt, phái nữ nàng, nương, nường gọi theo bộ phận sinh dục nữ nường, lồn giống hệt như các tộc khác của Ấn Âu ngữ như Phạn ngữ yoshana, yosha, yoshit (đàn bà) là gọi theo yoni. Ý ngữ donna, Tây Ban Nha dona (n có dấu ngã), Bồ Đào Nha dona, v. v… có nghĩa là lady (bà, đàn bà, phái nữ) tất cả có gốc don-, theo d=l như dần dần = lần lần, don- = lồn. Ở Thái Bình có loài sò hến gọi là con don. Món canh don ở Thái Bình rất nổi tiếng. Sò hến có một nghĩa dùng chỉ bộ phận sinh dục phái nữ. Con don là con yoni con lồn.
Cũng xin nói thêm ở đây là vì có biến âm d=l nên ta có từ nói lái đôn lò.
KE
Trong Từ Điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes có từ ke chỉ “chỉ bộ phận sinh dục đàn ông hay đàn bà”. Về phía phái nữ ke chính là kẽ như kẽ nứt, kẽ hở, kẽ tay, đọc thêm hơi vào ke thành khe. Ke, kẽ, khe là những từ tượng hình chỉ bộ phận sinh dục nữ, Anh ngữ bình dân gọi là slit. Cũng trong Từ Điển Việt Bồ La có tứ dánh, dắnh chỉ lồn. Đây chính là từ dãnh, rãnh chỉ cái khe, cái mương, cái máng.
GHE
Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua câu ca dao:
Khôn thì ăn cháo, ăn chè,
Dại thì ăn đếch, ăn đác, ăn ghe, ăn đồ.
(ca dao).
Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua cách biếu xén quà cáp. Muốn chửi rủa ai, vào dịp giỗ tết đem biếu hai quả cau và ba chén chè. Hai quả cau “nang” chỉ hai cái “trứng” của phái nam và ba (chén) chè nói lái lại là ghe bà. Theo chuyển hóa k= gh như ké = ghé, kê = ghế (cái đòn kê để ngồi là dạng nguyên thủy của cái ghế ngày nay), ta có ke = ghe. Ghe là ke là kẽ, là khe. Ghe chỉ bộ phận sinh dục nữ nên ta có từ “ghế” tiếng nói trại đi của từ “gái”. Con ghế có ghe. Nguyên thủy cái ghe làm từ một thân cây khoét rỗng (dug-out) có hình cái khe. Vì thế mà thuyền độc mộc gọi là cái ghe. Phi Luật Tân Tagalog ngữ gay”là ghe biến âm với gái, theo g = c, gay = cây. Rõ ràng ghe, gay là thuyền độc mộc khoét từ một khúc cây và liên hệ đến gái, bộ phận sinh dục nữ. Ở đây ta có thể dùng tiếng Việt để giải thích nguyên ngữ của từ Anh ngữ she (nàng, nường, phái nữ, đại danh từ ngôi thứ ba số ít, giống cái). She liên hệ với Việt ngữ chị, với Quảng Đông ngữ chế (nên nhớ là Quảng Đông là phần đất cũ của Bách Việt). Áp dụng qui luật c = k = s như cắt = sắt, khe = she. She liên hệ với khe, ghe. She có khe, có ghe ! Một điểm cũng cần nói tới là Việt ngữ ghe cũng có nghĩa là thuyền tàu (ship). Như đã nói, ghe biểu tượng cho bộ phận sinh dục nữ mang tính thuần âm nên chỉ nói là “cái ghe” chứ không bao giờ nói “con ghe”. She gần âm với ship và ship cũng có giống cái phải dùng she thay cho ship.
Xin bước ra ngoài lề bài viết để kể một câu chuyện lúc tôi đi tuần du hải dương (sea cruise). Trong một buổi gặp mặt thuyền trưởng, một du khách hỏi vị thuyền trưởng là tại sao ship có giống cái và nói là she. Vị thuyền trưởng trả lời là các người đi biển coi con tầu, chiếc thuyền như một mỹ nhân, một người yêu, họ sống chết theo con tầu, chiếc thuyền. Tôi có nói nhỏ với vị thuyền trưởng là trong Việt ngữ ghe ship có nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Ông ta há hốc miệng. Bằng chứng là Ainu ngữ của thổ dân ở Nhật có từ chip là ghe thuyền cũng có nghĩa lóng là bộ phận sinh dục nữ (xem dưới).
NỐC, DỐC, ĐỐC
Nốc là cổ ngữ Việt chỉ thuyền, ghe. Ngày nay chỉ thuyền nhỏ, còn dùng ở miền bắc Trung Việt:
Ăn thì cúi chốc, kéo nốc thì than.
(Tục ngữ).
Hay
Đêm khuya thắp ngọn đèn chai,
Quen o nốc đáy, ăn hoài cá tươi.
(ca dao).
Cũng nên biết nốc ở dưới nước nên liên hệ tới nước. Nốc còn có nghĩa là uống như nốc nước, nốc rượu. Nốc biến âm với nác, nước, núc. Nguyên thủy nốc cũng làm từ một thân cây khoét rỗng. Nốc liên hệ với Anh ngữ nog (cái chốt bằng khúc cây) log (thân cây). Nốc là ghe cũng có nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Nốc liên hệ với An ngữ nook (chỗ lõm, “xó” nhà, chỗ lõm dùng làm chỗ ngồi ăn gần bếp). Theo n=l, nốc = lốc, lốc cũng chỉ bộ phận sinh dục như thấy qua câu ca dao:
Cô lô cô lốc,
Một nghìn ghính ốc đổ vào lồn cô.
Thật ra phải viết là “cô lô cô nốc” mới đúng. Từ hiện kim lốc là dạng nam hóa của nốc (giống như lõ của nõ) vô nghĩa. Như thế nguyên thủy nốc là thuyền độc mộc. Cổ ngữ Việt cũng có từ dốc, đốc chỉ thuyền. Trong Từ Điển Việt Bồ La có từ dốc chỉ cơ quan sinh dục đàn bà. Theo n = d như này = đây, ta có nốc = dốc, đốc. Đốc cũng chỉ cơ quan sinh dục đàn bà như thấy qua từ mồng đốc chỉ hạt tình (clitoris) (1). Mồng đốc là cái mồng thịt ở cái đốc, cái nốc phái nữ.
Như thế ta thấy một nhóm chỉ bộ phận sinh dục nữ qua các từ có nghĩa là ghe, nốc liên lạc với nước mang tính thái âm, thuần âm. Ngay cả từ đò đôi khi cũng được dùng để chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua câu ca dao:
Khi xưa anh ở cùng đò,
Bây giờ đò rách anh mò thuyền nguyên.
Từ đò gần âm với đồ. Từ đồ có nghĩa là ông đồ nho và cũng có nghĩa là bộ phận sinh dục như thấy qua câu thơ của một nhà thơ cổ chế riễu hai ông nhà nho:
Hai đứa tranh nhau một cái đồ!
Đò biến âm với đỏ. Đỏ cũng có một nghĩa là con gái, bộ phận sinh dục nữ như thấy trong câu hát:
Thằng cu vỗ chài,
Bắt trai bỏ giỏ.
Cái đỏ ẵm em,
Đi xem đánh cá…
Cái đỏ đối với thằng cu, “đỏ” đối với “cu”.
Đò cũng biến âm với đó, dụng cụ bắt cá có hình túi cũng chỉ bộ phận sinh dục nữ như thấy qua câu tục ngữ:
Đó rách ngáng chỗ.
Ý nói các bà vợ có “đó đã rách” nên nằm ngáng chỗ khiến các ông chồng không thể mò được “thuyền nguyên”. Cái hay nữa là “đó” cũng có nghĩa là “ấy”. Cái đó là cái ấy.
Điều rất thú vị là không những các từ cổ Việt chỉ bộ phận sinh dục nữ còn có nghĩa là ghe, nốc mà trong ngôn ngữ của người Ainu (Hà Di), thổ dân sống ở Nhật Bản có từ chỉ bộ phận sinh dục nữ cũng có nghĩa là ghe, nốc. Ainu ngữ chip chỉ ghe thuyền. Ta thấy rất rõ chip liên hệ với Anh ngữ ship (ghe thuyền, theo c=s). Ngoài ra Ainu ngữ chip cũng dùng như một tiếng lóng chỉ âm đạo: “chip, a slang word for the vagina” (Rev. John Batchelor, Aini-English-Japanese Dictionary, Tokyo, 1905). Người cổ Việt đã gặp người Ainu “trong phòng the” cách đây hàng mấy ngàn năm. Nên biết là cái nốc, cái độc mộc có thể đi khắp bốn biển sang tới tận Madagascar (ngày nay thuyền độc mộc còn dùng nhiều ở đảo này, ngôn ngữ Magdagascar liên hệ với tiếng Mã-Nam Dương và Nam Á) thì thuyền độc mộc hay cái “nốc” của phái nữ cổ Việt sang tới đất Nhật Bản cũng là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên cả.
Dĩ nhiên, ngoài ra còn có những tiếng lóng chỉ bộ phận sinh dục nữ. Chỉ xin nói tới một từ phổ thông nhất là từ lá đa.
LÁ ĐA
Lá đa chỉ bộ phận sinh dục nữ thấy qua câu ca dao:
Sự đời như cái lá đa,
Đen như mõm chó, chém cha sự đời.
Như đã giải thích ở chương Giống Đực Giống Cái trong Tiếng Việt Huyền Diệu, miền Bắc gọi là cây đa trong khi Trung Nam gọi là cây da. Từ da của Trung Nam theo duy âm, nòng có một nghĩa là cái túi cái bao, cái bọc thân người như da người, da trời. Thái ngữ nang là da. Với nghĩa là túi, bọc, nang nên lá đa là lá nường, là lá nàng, lá nòng, là lồng, lồn.
Về ngôn ngữ học, lá đa theo duy dương, nọc có nghĩa là lửa, mặt trời, đỏ.
Như thế lá đa theo duy dương là lá trời, lá đỏ (Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002). Như trên ta đã thấy đỏ cũng chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái nữ như “con đỏ ẵm em”. Lá đỏ chỉ bộ phận sinh dục nữ vì thế lá vông cũng dùng chỉ bộ phận sinh dục nữ vì vông biến âm với vang có nghĩa là đỏ. Đỏ biến âm với đẻ, Phạn ngữ ja là đẻ cùng âm với Việt ngữ da, đa. Lá đa, lá vông có thể hiểu là “lá đỏ”, “lá đẻ”. Lá vông chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái nữ thấy rõ qua tục mai táng của Việt Nam:
Cha gậy tre, mẹ gây vông.
Khi cha chết con trai chống gậy tre. Như đẵ biết tre là cây “que”, loài thảo mộc thẳng như cái que không có cành nhánh lớn. Que biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam, phái nam vì thế mà khi cha chết con trai phải chống gậy tre là vậy. Trong khi đó lá vông là lá đỏ chỉ bộ phận sinh dục nữ, phái nữ nên khi mẹ chết con trai phải chống gậy vông.
Ngoài ra về hình dạng lỗ sinh dục phái nữ cũng giống lá đa. Hình lá đa chỉ lỗ sinh dục phái nữ còn thấy rất rõ trong gốm cổ Moche của Peru (Gốm Tình Dục Peru Cổ).
Gốm diễn tả bộ giống phái nữ làm theo cơ thể học, người nữ hình Mẹ Đời ngồi ở tư thế sinh con, hai tay giơ lên phía đầu, ở trong Trứng Vũ Trụ (ở giữa), hình nòng O (bên trái) và hình lá đa (bên phải), Bảo Tàng Viện Larco (ảnh của tác giả).
Lá đa, lá vông, lá mơ đều có hình dạng giống nhau vì thế “hiện thực” hơn nữa, lá mơ lông cũng dùng chỉ bộ phận sinh dục nữ.
Hơn nữa tổ tiên ta chọn lá đa, lá da và từ lá đa, lá da được dùng phổ thông hơn các thứ lá khác vì cây đa, cây da là cây thờ, cây linh thiêng, Cây Đời (Tree of Life), Cây Vũ Trụ (Cosmic Tree) sinh ra vũ trụ muôn loài. Người đàn bà đầu tiên của loài người hay Mẹ Đời của truyền thuyết Mường Việt cổ là Dạ Dần sinh ra từ một cây si, cùng họ với cây đa (Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002). Cái lá đa của phụ nữ Việt là một thứ lá “thiêng liêng” vì thế tục thờ “lá đa” nói riêng và thờ nõ nường, thờ dâm thần của người cổ Việt theo mẫu hệ là chuyện dĩ nhiên.
THÌ LA, THÌ LẨY, THÈ LE, TÈ LE
Xin nói tới một từ chỉ bộ phận sinh dục nữ rất bí hiểm không một ai biết nghĩa. Ta có bài đồng dao nói về con gái:
Thì la thì lẩy,
Con gái bẩy nghề,
Ngồi lê là một,
Dựa cột là hai,
Ăn quà là ba,
Kêu ca là bốn,
Trốn việc là năm,
Hay nằm là sáu,
Láu táu là bẩy.
Thì la thì lẩy là gì? Xin thưa bài hát này nói về “con gái” nên thì la, thì lẩy có nghĩa là bộ phận sinh dục nữ. Tiếng dân dã bộ phận sinh dục gọi là cái “thè le” , “tè le” như thấy qua câu nói “dập cái thè le”, “cái tè le”. Mường ngữ có hai từ thim lớ (hay “xiêm rỡ”) chỉ tình nhân cùng âm với thì la. Thì la, thì lẩy, thè le ruột thịt với Mã Lai ngữ *tila, tilay, female genital, tộc Kelantan Borneo teli, vagina, Balinese teli, vulva và Phi Luật Tân Tagalog ngữ tilin, vagina. Tộc Gorontalo (WMP; Pateda 1977) tele, ‘vagina’ = tè le. Trong khi đó gốc til có nghĩa là hạt tình, mồng đốc, hột le, cái thè le (clitoris): tộc Bare’e (WMP; Adriani 1828) tile, ‘clitoris’ = (hột) le’, thè le, thè lè; tộc Samoan (OC; Milner 1966) tela (not in decent use), ‘clitoris’ = thè le. Tôi gọi là ‘hạt tình’ vì gốc til cùng âm với ‘tình’ và “hạt’ tương ứng ‘với “hạt” dẻ rừng (glans) tức qui đầu của phái nam. Về phương diện cơ thể học hạt tình, hạt til clitoris = hạt dẻ glans.
Ông đồ nào là tác giả làm bài đồng dao này cho con nít hát quả thật là một ông “đồ thâm” nho, một ông đồ “nho nặng” (nhọ), đồ này rất “đen” và rất “nhọ”. Cũng nên biết là bài đồng dao này rất phổ biến ở miền Bắc vì thế không phải chỉ có Trung Nam có liên hệ với Nam Đảo như Mã- Phi Luật Tân mà miền Bắc cũng có liên hệ.
NU NA NU NỐNG
Ta cũng thường nghe trẻ em hát bài đồng dao:
Nu na nu nống,
Cái bống nằm trong,
Con ong nằm ngoài. . .
Như đã giải nghĩa ở chương Dịch Học trong Tiếng Việt Huyền Diệu, na là một tiếng cổ Việt có nghĩa là nà (ná, nạ là mẹ), nàng, nang, nường như nõn nà = nõn nường (cái nà, cái nường trắng nõn). Cổ Việt nống là cái nọc để chống, để nâng vật gì lên. Na và nống là nường nõ, nòng nọc. Na là nà, là nàng, là nường là nòng là dòng là nước nên đi với câu hát thứ nhì có con cá bống, còn nống là cọc là nọc nên đi với câu thứ ba có con ong là loài có nọc (“ong non ngứa nọc”). Hai câu sau giải thích nghĩa của hai từ cổ ‘na” và nống”. Còn từ “nu” nghĩa là gì? Nu biến âm với neo, néo, đeo, đéo với đu, đụ. Nu na nu nống hiển nhiên là “đu na đu nống” là làm tình. Ông đồ nào làm ra bài đồng dao này cũng là loại đồ thâm.
NHỮNG TỪ CHỈ BỘ PHẬN SINH DỤC NAM
Việt ngữ có những từ chỉ bộ phận sinh dục nam như nõ, lõ, ke, que, buồi, cặc, chông, chim, cò, cu v. v…
Nhìn chung những từ chỉ bộ phận sinh dục nam có nghĩa là “vật nhọn” như nọc, cọc, que, roi, dùi…
Tiếng cổ Việt nõ chỉ bộ phận sinh dục nam như nõ nường (nọc nòng). Nõ là cây cọc, nọc như đóng cọc mít cho mau chín gọi là đóng nõ mít. Nõ nam hóa thành lõ. Trong từ Điển Việt Bồ La của Alexandre de Rhodes có từ “lõ”: ‘làm dương vật cương lên như khi con vật giao cấu. Blỏ cùng một nghĩa’ và có từ “lô”, “con lô”: ‘cơ quan sinh dục của đàn ông’. Hiển nhiên lõ, lô là biến âm của nõ. Lõ trong tiếng Việt hiện kim chỉ vật gì đâm ra như cọc nhọn ví dụ mũi lõ, cặc lõ hay lõ cặc. Có phương ngữ nói là cặc lỏ (dấu hỏi). Theo l=n, lỏ = nỏ, vật bắn mũi tên (một thứ nọc, cọc nhọn). Thời cổ con người dùng cây nõ, cây cọc nhọn đâm thú vật mải về sau mới phát minh ra cây nỏ, cây ná bắn mũi tên. Ta thấy cây nõ đẻ ra cân nỏ, cây ná.
Ở đây ta thấy lõ (dấu ngã) và lỏ (dấu hỏi) theo hai cách nói và viết với hỏi ngã khác nhau của hai phương ngữ khác nhau đều đúng cả, chỉ có từ này cổ hơn từ khác mà thôi. Vì thế trong Việt ngữ vùng này nói theo âm dấu hỏi vùng kia nói theo âm dấu ngã chưa hẳn là ai đúng ai sai. Chúng ta phải chờ cho tới khi có một hàn lâm viện Việt Nam quyết định chọn viết theo dấu nào để dùng trong pháp ngữ Việt thì khi đó ta đem dùng trong các viết theo học viện (academic). Giả dụ các ông học viện sĩ (hàn lâm viện sĩ, viện sĩ) hỏi ý kiến tôi chọn cách viết theo dấu ngã hay theo dấu hỏi, thì tôi chọn viết theo lõ (dấu ngã) dựa vào các lý lẽ sau đây:
./ gốc nõ (cây cọc) cổ hơn nỏ (vật bắn cọc nhọn) như đã nói ở trên cây nõ đẻ ra cây nỏ.
./ theo cách giúp trí nhớ về hỏi ngã mà chúng ta thường nghe nói tới là “(Chị) Huyền ngã nặng, hỏi sắc(thuốc) không?” thì dấu ngã (lõ) đi với dấu nặng (cặc).
./ta thường viết mũi lõ rồi thì viết cặc lõ cho nó thuận chiều với nhau.
NỌC
Heo nọc là heo đực.
CỌC
Cọc chỉ bộ phận sinh dục nam như thấy qua thơ Hồ Xuân Hương:
Quân tử có thương thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
(vịnh Quả Mít).
Anh ngữ cock gà sống cũng có nghĩa là bộ phận sinh dục nam, có coc– chính là cọc.
CHÔNG
Chông là cọc nhọn cũng chỉ bộ phận sinh dục nam:
. . . . . .
Thịt chó tiểu đánh tì tì,
Bao nhiêu lỗ tội tiểu thỉ cắm chông.
Nam mô xứ Bắc xứ Đông,
Con gái chưa chồng thì lấy tiểu tôi.
(ca dao).
Chông cùng vần với chống là que, nọc để đỡ vật gì, với trống là đực với chồng là người có chông, có chống là người trống. Trong khi đó vợ biến âm với vỏ là cái bao, cái bọc, cái túi (xem Dịch Lý).
KE, QUE
Như đã nói trong từ Điển Việt Bồ La của Alexandre de Rhodes có từ ke chỉ bộ phận sinh dục nữ và nam. Theo duy dương, ke biến âm với kẻ (kèo nhỏ, thước kẻ), với que chỉ bộ phận sinh dục nam.
CẶC
Trung Nam gọi bộ phận sinh dục nam là cặc. Cặc là biến âm của cược, cọc như tiền đặt cọc là tiền đặt cược (Lê Ngọc Trụ, Việt Ngữ Chính Tả Tự Vị). Từ cặc liên hệ với những từ chỉ bộ phận sinh dục nam của Tây Ban Nha carajo, Latin dân dã caracium, Hy Lạp karas (pointed stake, cọc nhọn, REW. 1862) có car– là cặc; với Breton kalc’h, Cornish cal, Welsh col (sting, ngòi, nọc), Ái Nhĩ Lan colg (sword, gươm, kiếm, Pederson 1.105), giáo hội Slavic kocanu (c và u có dấu ă), Albanian kotsh (rod, stalk, que, roi, cọng cây, Berneker 536); Phạn ngữ kaprt(h)– (r có chấm ở dưới) (Walde –P. 1.348, 2.49). . .
BUỒI
Miền Bắc dùng từ buồi chỉ bộ phận sinh dục nam không dùng từ cặc. Buồi biến âm với bổ, búa (búa đây là búa có mỏ nhọn tức búa chim) cũng là vật nhọn. Buồi liên hệ với Anh ngữ bur (mũi khoan), ebur (ngà voi), spur (mấu nhọn như cựa gà, mấu nhọn ở gót giầy để thúc ngựa). Buồi biến âm thành “bòi »: trong từ Điển Việt Bồ La của Alexandre de Rhodes có từ bòi: ‘cơ quan sinh dục của đàn ông’. Buồi ngày nay cũng nói trại đi thành “bòi” như “Đứa nào cười tớ nó ăn bòi”. Buồi, bòi liên hệ với Anh ngữ boy (con trai). Thằng “boy” có bòi, có buồi. Theo biến âm b=v, bòi = vòi, vọi. Khái Hưng trong truyện Trống Mái có một nhân vật rất nổi tiếng, một biểu tượng về tình dục (sex symbol) mang đầy hùng tính, nam tính tên là Vọi. Có lẽ Khái Hưng đã chọn tên này vì nó gần cận với Vòi, Bòi. Theo biến âm b=m, buồi = muồi, muỗi. Con muỗi là con mũi có vòi nhọn như kim nhọn hút máu; buồi = mùi. Trong mười hai con giáp Mùi là con dê là con thú có sừng biểu tượng cho dương, nam tương đương với con hươu. Hán Việt dương là dê. Dương có một nghĩa là đực. Đực biến âm với đục (chisel) là vật nhọn.
Nhìn chung buồi là bổ, búa, vật nhọn liên hệ với gốc tái tạo Ấn-Âu ngữ *pes-, *pesos– (Walde-P. 2.68, Ernout-M 7520. Anh ngữ penis có gốc pen- có một nghĩa là cây bút, viết. Bút là bót, vót, viết là vót, vọt, que vót nhọn, nguyên thủy que vót nhọn dùng làm viết vạch lên đất sét, đá mềm. Pháp ngữ verge, Latin virga phát xuất từ gốc rod (roi), stalk (que, cọng cây) ta thấy rõ gốc ver-, vir– liên hệ với Việt ngữ vọt. Hòa Lan ngữ roed (penis) liên hệ với Việt ngữ roi…
CHIM, CÒ, CU.
Dưới một góc cạnh, chim cò, cu có mỏ nhọn biểu tượng cho dương, bộ phận sinh dục nam. Theo biến âm ch= k như chặt = cắt, chim = kim (vật nhọn). Ta có từ ghép đồng nghĩa chim chóc. Chóc là chim. Tày-Thái ngữ chốc là chim. Với h câm chóc = cóc = cọc. Thái Lan ngữ nok là chim. Nok là nọc. Cò biến âm với cồ là đực. Đực biến âm với đục (chisel), vật nhọn. Đực là nọc như heo đực là heo nọc. Tục ngữ có câu:
Cơm no, cò đói.
Câu này cùng nghĩa với câu:
No cơm, ấm cật,
Rậm rật tối ngày.
Cu biến âm với cò, cồ. Chim cu biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam:
Mù u, ba lá mù u,
Vợ chồng cãi lộn, con cu giải hòa.
(ca dao).
Con trai nhỏ thường gọi là thằng cu. Như thế chim, cò, cu có gốc từ vật nhọn, kim, nọc, cọc nên biểu tượng cho dương, bộ phận sinh dục nam.
Tóm lại, qua những từ chỉ bộ phận nam nữ ta thấy có những điểm quan trọng cầm lưu tâm như sau:
-Trong những từ chỉ bộ phận sinh dục nữ như nường, lồn, ghe, nốc, khe, kẽ v. v. từ lồn hiện kim có gốc từ cổ ngữ nường, nòng là cái bao cái túi, cái bọc liên hệ tới Nòng (ngược với Nọc), Khôn (ngược với Càn) dùng trong vũ trụ quan, vũ trụ giáo, thờ mặt trời, Dịch học. Lồn, lồng là dạng nam hóa, hiện kim của nòng, nường (l là dạng nam hóa, hiện kim của n). Từ lồn dùng phổ thông cả ba miền Bắc Trung Nam. Còn những từ khác gọi theo “bề ngoài” như ke, ghe, nốc v. v… ít phổ thông. Ghe, nốc dùng nhiều ở Trung Nam thôi.
-Trong tất cả các từ chỉ bộ phận sinh dục nam như ke (que), buồi, cặc, chim cò đều có nghĩa là vật nhọn, nọc, cọc. Miền Bắc dùng buồi trong khi Trung nam dùng cặc. Điểm này một lần nữa ngôn ngữ cho thấy hai xã hội Bắc Nam mang màu sắc Nam Bắc phân ranh (giới) có thể một phần là do hậu quả của một thời Nam Bắc phân tranh. Từ buồi của miền Bắc có gốc là bổ, búa. Từ bổ biến âm với bố (ngược với mẹ). Điểm này ta thấy gần cận với Hán ngữ phụ (bố) biến âm với phủ (rìu, búa). Bố có bổ, có buồi; phụ có phủ. Buồi của miền Bắc gần cận văn hóa Trung Hoa. Bố Việt và phụ Trung Hoa đều có búa cả. Trong khi từ cặc của Trung Nam như đã thấy liên hệ với Phạn ngữ kaprt(h)- (r có chấm ở dưới), bộ phận sinh dục nam (nên nhớ là trong Chàm ngữ, Mã Lai ngữ có rất nhiều gốc Phạn) và gần cận với Mã Lai ngữ (bang Riau Johor) chok chỉ bộ phận sinh dục nam. Chok chính là cọc là cặc. Mã-Lai cận đại theo Hồi giáo vay mượn tiếng Ả Rập hak, zakar (cặc). Theo h = c (hủi = cùi) hak = cak, cặc và zakar có –kar là cặc. Từ cặc của Trung Nam gần cận với văn hóa Mã Lai Đa Đảo.
-Về bộ phận sinh dục nam Bắc Trung Nam có hai từ riêng biệt buồi và cặc, trong khi từ lồn ngày nay được dùng phổ thông khắp ba miền. Điều này cho thấy mẹ Việt Nam đời đời như nhất, ảnh hưởng mẫu hệ vẫn còn duy trì kiên cố trong xã hội Việt Nam; vai trò phụ nữ trong xã hội Việt Nam vẫn không thay đổi, nói một cách khác vẫn được duy trì, tôn thờ dù ở xã hộ mẫu quyền hay phụ quyền dù ở bất cứ một thể chế chính trị nào. . . Trong khi nam phái đã chia rẽ, phân biệt Bắc Trung Nam và đi theo các xu hướng, thể chế văn hóa , chính trị khác nhau.
-Lồn hiện kim có gốc từ cổ ngữ nường, nòng là cái bao cái túi, cái bọc liên hệ tới Nòng. Mặt khác buồi và cặc tuy là hai từ khác nhau, nhưng đều có nghĩa gốc là vật nhọn, nọc. Như thế những từ chỉ bộ phận sinh dục nữ, nam phổ thông hiện nay đều mang nghĩa nòng nọc (âm dương). Điểm này cho thấy Dịch lý giữ một vai trò cốt yếu trong tiếng Việt nói riêng và trong văn hóa Việt nói chung. Ta thấy rõ bai chữ cái nòng (O) và nọc (I) trong chữ viết nòng nọc vòng tròn-que có gốc từ bộ phận sinh dục nữ và nam.
Điều này giải thích cho thấy rất rõ là người cổ Việt thờ nõ nường. Khảo cổ học tìm thấy những đôi tượng đá tạc bộ phận sinh dục nam nữ (nõ nường) ở Sông Mã, tượng bộ phận sinh dục nam ở Văn Điển, trên nắp thạp Đào Thịnh có những cặp nam nữ đang làm tình… Nhiều nơi ở vùng đất tổ Việt như ở xã Khúc Lạc và Dị Hậu tỉnh Phú Thọ gần đây còn giữ tục thờ sinh thực khí. Hàng năm hai xã vào đám ngày mồng 7 và 26 tháng giêng. Đồ lễ ngoài trầu cau rượu thịt còn có 36 âm vật và dương vật (18 cặp) gọi là nõ nường, dân địa phương gọi là “nọ nường”. Làng Đông Kỵ, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh tổ chức hội xuân rước nõ nường vào ngày mồng 6 tháng giêng. Một bô lão dẫn đầu đám rước một tay cầm dương vật và một tay cầm âm vật bằng gỗ vừa đi vừa hát:
Cái sự làm sao, cái sự làm vầy,
Cái sự thế này, cái sự làm sao.
Vừa hát cụ vừa múa điệu âm dương diễn tả theo động tác làm tình. Cụ lồng hai hai bộ phận nam nữ vào nhau v. v… Một vài xã ở Hải Dương cũng có tục này. Khi đi rước thanh nam hát:
Cái nạo thế sừ, là cái sự thế nào?
Thanh nữ hát đáp lại:
Cái nạy thế sừ, là cái sự thế này. . .
(Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002). Sự thờ phượng nõ nường, thờ phượng dâm thần hay sinh thực khí của cổ Việt không phải là thứ “man di mọi rợi”, là thứ ‘dâm phong” “ngoài vòng lễ giáo” như người Trung Hoa gán cho người cổ Việt. Nhiều người Việt ngày nay đã sai lầm cho rằng sự thờ phượng nõ nường là thô tục, là điều đáng xấu hổ. Phải hiểu nõ nường là nọc nòng là nguồn cội, là sinh tạo, là tạo hóa sinh ra vũ trụ muôn loài. Thờ nõ nường là đạo thờ nòi giống, là đạo duy trì giống nòi, là đạo hiếu sinh, trường tồn. Thờ nõ nường là đạo tối cổ của nhân loại. Hình bóng thờ nõ nường để lại trong những nền văn minh “tiến bộ hơn” nghĩa là muộn hơn như thờ linga và yoni của Ấn Độ. Vào thời phụ quyền sự thờ phượng “nõ” ngự trị hơn như hình thạch bi obelisk của Ai Cập, Menhirs ở Anh và các trụ thạch ở nhiều nơi khác. . . với ý nghĩa đã xa rời “đạo gốc”, nõ nường âm dương.
Một điểm rất lý thú là trong truyền thuyết vũ trụ tạo sinh của người Hawaii có hai vị thần tổ sinh tạo ra trần thế (Earth and the things on the Earth) có tên là thần Ku và Lono (Martha Beckwith, Hawaiian Mythology, tr.32) tương ứng với Việt ngữ là thần Cu và thần Lồn. Điều này cũng dễ hiểu, vì những tộc Mặt trời nước liên hệ với cổ Việt hay phát xuất từ cổ Việt ở Đa Đảo (Polynesia), Mã-Nam Dương đã dùng thuyền đi tìm đất mới tới tận các đảo xa xôi, trong đó có quần đảo Hawaii.
Chim biểu của bang Hawaii là con ngỗng ne ne ruột thịt với con vịt trời le le (ne ne là âm cổ của le le ; ne biến âm với na, nã là nước và le biến âm với lã là nước ngọt, ngỗng ne ne và vịt trời le le đều là loài chim nước). Ngỗng ne ne của Hawaii ruột thịt với le le Vụ Tiên của Việt Nam. Con vịt trời le le Vụ Tiên bay tận đến Hawaii biến thành con ngỗng ne ne. Do đó ngôn ngữ cũng như truyền thuyết về vũ trụ tạo sinh của người Hawaii vẫn còn sót lại những dấu tích của cổ Việt.
Người cổ Việt thờ nõ nường nên Việt Dịch nòng nọc là Dịch nguyên thủy. Trong khi Trung Hoa có thuyết âm dương nhưng không thờ nõ nường chứng tỏ Dịch Trung Hoa không phải là Dịch nguồn cội, là loại Dịch đã tân tiến, đã muộn.
NHỮNG TỪ CHỈ LÀM TÌNH
Những từ phổ thông chỉ làm tình miền Bắc có những từ như địt, đéo, lẹo (loài vật), phủ…, Trung Nam có từ đụ.
ĐỊT
Miền Bắc dùng từ địt chỉ làm tình, trong khi đó Trung Nam từ địt chỉ đánh hơi (Miền Bắc nói đánh hơi là đánh rắm). Trong những năm còn là sinh viên y khoa tôi thường được nghe kể lại câu chuyện một vị gáo sư Y Khoa người miền Nam, sau khi giải phẫu bụng cho một cô gái người Bắc di cư, lúc đi thăm hậu giải phẫu, vị giáo sư này hỏi người bệnh “Chị đã địt chưa?”. Con bệnh đỏ mặt, xấu hổ . . . Cho tới khi tôi viết những dòng này, không ai hiểu tại sao. Xin giải toả thắc mắc này.
-Địt là làm tình.
Theo biến âm đ=d như đa = da (cây), ta có địt = dịt. Từ dịt có một nghĩa là dính vào nhau, dán dính vào, buộc vào nhau như dịt thuốc vào vết thương. Theo d = r (dăng = răng), dịt = rịt, rít. Rít có nghĩa là dính như rít rịt. Theo d = ch như giăng = chăng, dịt = chịt, chít. Chằng chịt là cột cứng bằng nhiều dây rợ qua lại nhiều lần. Chít khăn là cột, quấn khăn. Theo d = n như dăm = năm, ta có dịt = nịt. Nịt là dây, đai, thắt lưng; nai nịt là cột người bằng thắt lưng, bằng dây. Như thế địt chỉ làm tình có nghĩa là dính vào nhau, cột vào nhau. Ta thấy rất rõ miền Bắc có từ đi tơ chỉ loài vật (thường là chó) giao hợp với nhau. Tơ là sợi dây. Đi tơ là cột vào nhau như cột bằng sợi tơ, sợi dây. Địt liên hệ với Phi Luật Tân Tagalog dikit, joined, Paiwan d’ekets (e ngược), to stick, gốc Uraustronesisch Dempwolff’s construction *deket (e ngược), to stick (Davidson). Rõ nhất là địt và Tagalog dik-, joined có nghĩa là nối với nhau, giao nhau cùng nghĩa với giao hợp. Địt liên hệ với Phạn ngữ snit, to love, yêu, có -nit là địt (n=đ như này = đây). Phạn ngữ snit biến âm với Phạn ngữ snih, attached, đính vào, cột vào. Rõ như ban ngày địt biến âm với dịt liên hệ ruột thịt với Phạn ngữ snit, snih. Ngoài ra địt cũng liên hệ với Phạn ngữ nidhuvana, sexual intercourse, làm tình. Rõ như “Con cua tám cẳng hai càng, Một mai hai mắt rõ ràng con cua” là địt liên hệ với phần đầu nid- của Phạn ngữ nidhuvana. Nid- = nịt = địt.
-Địt là đánh hơi
Theo biến âm đ = r như đôm đốp = rôm rốp (tiếng kêu), ta có địt = rít. Từ rít có một nghĩa là tiếng kêu do hơi thoát qua một ống hay một lỗ nhỏ như ấm nước sôi rít lên, còi tầu hỏa hay tầu thủy (chạy bằng hơi nước) rít lên từng hồi. Rít liên hệ với Phạn ngữ ri là rít, là rú lên. Ta có từ ghép rên rỉ với từ rỉ chính là Phạn Ngữ ri (các nhà ngữ học hiện nay cho rằng rên rỉ là tiếng láy với thành tố láy rỉ vô nghĩa là sai). Như thế đánh địt, đánh hơi là đánh rít. Vì thế mà người Bắc nói đánh hơi là đánh rắm, đánh rít là rắm rít. Rắm rít là đánh hơi. Ta thấy người Bắc nói rắm còn Trung Nam biến rít thành địt. Từ rắm rít là một từ ghép điệp nghĩa, rít có nghĩa là tiếng kêu thì rắm cũng phải có nghĩa là tiếng kêu. Thật vậy, rắm biến âm với rầm chỉ tiếng kêu như rầm rầm. Hiển nhiên đánh hơi cũng kêu thành tiếng. Trong một truyện tiếu lâm ví tiếng đánh hơi như tiếng sấm rầm rầm hay sấm gầm. Theo r = g như rợn = gợn (sóng) ta có rầm = gầm. Trong một buổi ngự triều, một vị vua đang ngủ gà ngủ gật, một ông quan lỡ đánh “bụp” rầm một tiếng làm vua giật mình thức dậy, hoảng hốt, vua hỏi “Cái gì kêu vậy?” Vị quan lanh miệng đáp: “Bẩm Thượng Hoàng, sấm kêu!”. Vua vặn lại “Sấm kêu sao lại thối?”. Vị quan chữa lại “Dạ có con cóc chết!”. Vua thắt mắc: “Cóc chết sao lại kêu?”. Vị quan giải thích: “Sấm kêu làm cóc chết!”. Vua giận “Cóc kêu gọi sấm thì làm sao sấm làm cóc chết được”. Rồi ra lệnh lôi vị quan ra chém đầu, nghi vị quan này muốn ám sát mình.
Rõ nhất là rít, địt liên hệ ruột thịt với Phạn ngữ dhish, to emit sound (phát ra tiếng kêu). Cũng rõ như “Con cua tám cẳng hai càng, Một mai hai mắt rõ ràng con cua” là địt ruột thịt Phạn ngữ dhish, phát ra tiếng kêu. Anh ngữ đánh hơi gọi là to fart liên hệ với Phạn ngữ pard (to fart), Hy Lạp ngữ là perdo, Old High German là ferzan. Các từ này có gốc fa-, pa-“ liên hệ với Việt ngữ phà là xì ra hơi, nhả ra hơi như phà ra hơi, phà khói, phì phà điếu thuốc và gốc pe-, fe– liên hệ với Việt ngữ phèo như thấy qua từ ghép phì phèo, với Hán Việt phế là phổi (phổi là cơ quan hô hấp phì, phà ra hơi…). Việt ngữ có từ phá thối nếu hiểu theo nghĩa thô tục thì gần cận với từ phà thối. Ở đây ta có thể dùng Việt ngữ phà ra hơi, đánh hơi để hiểu ngọn ngành Anh ngữ to fart là phà ra hơi.
Như thế ta thấy rất rõ hai từ địt của miền Bắc và Trung Nam là hai từ đồng âm dị nghĩa. Đúng ra Trung Nam phải nói đánh dít hay rít cho đồng điệu với từ rắm của miền Bắc theo đúng như từ đôi rắm rítthay vì địt mới không gây ra hiểu nhầm.
ĐÉO, LẸO.
Miền Bắc cũng thường dùng từ đéo chỉ làm tình như giai thoại “đá bèo” (nói lái lại là ‘đéo bà”) của Trạng Quỳnh và thơ Cao Bá Quát có câu:
Hai hồi trống giục, đù cha kiếp,
Một lưỡi gươm đưa, đéo mẹ đời.
Đéo biến âm với đeo, có nghĩa là bám cứng vào nhau, dính chặt vào nhau như “đeo như đỉa đói”. Đéo biến âm với “đèo” là chở nhau, ôm nhau, cõng nhau như đèo bòng tức đèo bồng (bồng là bế, bồng bế”). Đéo cũng biến âm với néo, hai khúc cây nối bằng một khúc dây dùng “neo” bó lúa để đập lúa. Néo hàm nghĩa cột cứng vào nhau (cùng nghĩa với nai, nịt, địt). Néo liên hệ với Anh ngữ nail, vật nhọn dùng đóng chặt hai vật vào nhau. Nguyên thủy neo, nail là nêu, cọc nhọn. Như thế từ đéo cũng có nghĩa giống như từ địt làm tình là dính vào nhau, cột vào nhau. Từ đéo biến âm với đeo, đèo, néo nghiêng nhiều về hình ảnh bám chặt vào nhau, ôm nhau, cõng nhau thường thấy nhiều ở loài vật khi giao cấu với nhau như hai con sam khi giao hợp ôm cứng nhau nên tục ngữ có câu “đeo như sam”, cóc ếch khi giao cấu ôm nhau, cõng nhau, đèo nhau… Theo biến âm đ = l như đãng tai = lãng tai, ta có đéo = lẹo. Lẹo cũng có nghĩa là làm tình như con đó với thằng đó lẹo tẹo với nhau. Hai con chó giao cấu với nhau thường nói là “mắc lẹo”.
ĐỤ
Trung Nam nói làm tình là đụ. Ta thấy có thể:
-Đụ là biến âm với đu có một nghĩa là bám cứng như đeo, với đâu (nối lại như đâu lại với nhau) cũng hàm nghĩa như từ địt của miền Bắc. Theo t = n như túm = núm (nắm, bắt) ta có địt = địn. Địn là từ nói trại đi của địt. Ta có từ đụn địn là từ nói trại đi của hai từ đụ địt. Địa khai ngôn ngữ đụn địn là đụ địt còn đào tìm thấy qua bài đồng dao sau đây:
Mười rằm trăng náu,
Mười sáu trăng treo,
Mười bẩy sẩy chiếu,
Mười tám rám trấu,
Mười chín đụn địn,
Hai mươi giấc tốt
. . . . . .
“Mười bẩy sẩy chiếu” là đêm mười bẩy sải chiếu, trải chiếu.“Mười tám rám trấu” là đêm mười tám đốt trấu làm lò sưởi đã cháy rám, đã cháy nám, đã bén cháy. Tất cả đã sửa soạn sẵn sàng xong, “Mười chín đụn địn” là đêm mười chín đụn địn, tức là làm tình đụ-địt. Các tác giả hiện nay thường giải thích “né tránh” cho khỏi thô tục cho đụn địn có nghĩa là “đi ngủ”. Từ ngủ cũng có nghĩa là làm tình như “con đó ngủ với nhiều thằng”. “Hai mươi giấc tốt” là đêm hai mươi ngủ ngon. Rõ ràng đêm mười chín đâu có ngủ, suốt đêm thức lục đục lo “đụn địn” nên đêm hôm sau mới lăn ra ngủ, mới có “giấc tốt”. Làm tình là liều thuốc ngủ thiên nhiên tốt nhất.
-Đụ là dạng giảm thiểu của đục. Từ đục bị đục bỏ chữ “c” cuối còn lại “đụ”. Đục chỉ động tác làm tình. Theo biến âm đ = th (đủng đỉnh = thủng thỉnh), ta có đục = thục, thúc, thọc, thụt, thọt liên hệ với Anh ngữ thrust, chỉ động tác làm tình.
-Đụ là biến âm với tụ, tủ (theo đ = t). Tụ có nghĩa là qui vào nhau như tụ tập, tụ họp. Đụ, tụ là kết vào nhau, dính vào nhau, đến với nhau. Những nghĩa này đều hàm ý làm tình thấy rất rõ qua từ Latin coitus, coire, Pháp ngữ coit có nghĩa đen là come together (có gốc “co-“, cùng, chung). Coitus, coit gần âm với Việt ngữ chơi (chơi là đến với nhau, cùng vui với nhau), chọi…
Còn tủ là phủ là che đậy. Phủ cũng chỉ nghĩa giao cấu, giao hợp như trong truyền thuyết có chuyện thuồng luồng “phủ” người. Làng Ngãi ở Bắc Việt có tục thờ bà Phạm Ngọc Dong. Bà đã được thuồng luồng phủ và sinh ra một bọc trứng nở ra Đại Hải Long Vương. Ông này sau làm tướng giúp vua Hùng đánh thắng quân Thục bằng các quân lính hoàn toàn là loài thủy tộc. Hàng năm vào ngày mồng 3 tháng giêng, dân làng mở hội, cúng tế, bao giờ cũng có món gỏi cá để cúng ông thần sông Hà Bá và bà Chúa Đầm; cúng ở đình và ở các bến nước bằng gỏi cá. Vì thế tại vùng này có câu ca dao “Trống Mơ, cờ Sỏi, gỏi Nghìa” để ca tụng món gỏi cá nổi tiếng của làng Nghìa, làng Nghĩa tức làng Ngãi (Lê Thị Nhâm Tuyết). Mổ xẻ ta thấy quân Thục thuộc sắc dân Tầy-Thái thuộc họ ngoại Mặt Trời Êm Dịu An Dương Vương dòng Nước, âm, họ ngoại Âu Cơ (An Dương Vương dựng nước Âu Lạc kết hợp giữa Âu Việt của Âu Cơ và Lạc Việt của Lạc Long Quân). Vì thế phải có một vị tướng con của Thuồng Luồng có cốt cá sấu (cá sấu mới đẻ ra trứng) thuộc dòng nước là Đại Hải Long Vương (rõ ràng rồng Long có cốt cá sấu thuồng luồng) và phải dùng quân là các loài thủy tộc mới đánh thắng được quân Thục thuộc dòng nước. Ta cũng thấy tên Dong có nghĩa là bao bọc như thấy qua từ ghép đồng nghĩa bao dong. Lá dong là thứ lá dùng để bao, để bọc, để gói như bánh chưng. Dong là bao bọc là Nong là Nòng. Tên bà là Bao, Bọc nên bà đẻ ra một bọc trứng và bà là di duệ của Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng nở ra trăm Lang Hùng). Bà Phạm Ngọc Dong thuộc dòng nòng, dòng nước nên được thuồng luồng phủ là vậy. Ta cũng thấy công chúa Ngọc Dung (Dung biến âm của Dong như bao dung = bao dong) con vua Hùng vương có dòng máu “mẹ”, nước nên lấy một gã thuyền chài tên là Chử Đồng Tử (Cậu Con Trai sống bên Bến Sông) ở làng Chử Xá (Làng Ven sông). Cuối cùng tại sao chọn ngày 3 tháng giêng làm ngày hội? Xin thưa số 3 là số Đoài tức ao đầm và số 1 là số Chấn (Nguyễn Xuân Quang, Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt, 2002) tức nước dương có một khuôn mặt là biển (Vua Mặt Trời Nước Lạc Long Quân có mạng Chấn nên có một khuôn mặt là Long Vương Thần biển hóa thành con Rùa Vàng Kim Qui giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa, xây thành xong con Rùa Vàng quay về Biển. An Dương Vương thuộc dòng nước Âu-Lạc, cuối đời cầm sừng tê giác bẩy khấc rẽ nước đi xuống biển là vậy). Ngày 3 tháng giêng đều là ngày của dòng nước, ao hồ sông biển.
Ở đây ta có thể dùng tiếng Việt tìm nguyên ngữ của Anh ngữ fuck. Từ “fuck” có gốc fu- ruột thịt với Việt ngữ phủ và fu(ck) = phủ = tủ = đụ.
Cuối cùng, như đã nói ở trên, là từ địt của miền Bắc liên hệ với phần đầu nid– của Phạn ngữ nidhuvana (sexual intercourse). Nid- = nịt = địt. Ta cũng thấy từ đụ của Trung Nam cùng âm –dhu- phần thứ hai của Phạn ngữ nidhuvana. Phải chăng miền Trung Nam lấy phần âm giữa còn miền Bắc lấy phần âm đầu ? Cả hai cùng một gốc Phạn ?
Những từ làm tình của Việt cũng mang ý nghĩa kết hợp, giao hòa, giao hợp nghĩa là mang ý nghĩa của Dịch lý. Qua hai từ địt của miền Bắc và đụ của miền Nam ta cũng thấy có sự phân biệt, chia rẽ như hai từ buồi và cặc.
Cước Chú
(1). Tôi gọi clitoris là hạt tình vì clitoris về cơ thể học tương đương với glans (qui đầu) của dương vật. Tiếng phổ thông glans chỉ một thứ hạt dẻ rừng, vì cơ thể học tương đương với nhau nên đã gọi glans là hạt thì clitoris cũng phải dùng từ hạt cho cân xứng.
Ta cũng thấy dân dã Việt Namgọi clitoris là “hạt chay” như thấy qua câu ca dao:
Chị em rủ nhau tắm đầm,
Của em son đỏ, chị thâm thế này?
Chị thâm là tại anh mày,
Xưa kia chị cũng hạt chay đỏ lòm.
Bài viết dưới đây, Blog người hiếu cổ xin đưa ra một nghiên cứu sơ bộ về nguồn gốc của các từ biểu thị sinh thực khi nam giới trong cách gọi dân gian (thông tục). Trước tiên xin có một đoạn dẫn giải về tục thờ sinh thực khí và tín ngưỡng phồn thực như sau:
***
Tín ngưỡng phồn thực(1) là tín ngưỡng được sùng bái từ rất lâu đời và mang tính toàn thế giới. Chúng ta ngày nay vẫn còn thấy được rất nhiều hình vẽ, họa tiết hoặc tượng và các hoạt động mang tính nghi lễ liên quan đến văn hóa phồn thực. Có thể dẫn chứng một số ví dụ sau:
. Tại Việt Nam, tục thờ sinh thực khí ngày nay vẫn còn được lưu giữ tại các hội lễ mật tại miền Bắc, cùng với nghi thức “Linh tinh tình phọc” , hai vật tượng trưng này luôn được cất giữ rất trang trọng.
***
Nam giới tượng trưng cho dương khí, và sinh thực khí người nam tượng trưng cho 1 trong 2 nguyên lý để hóa sinh vạn vật. Người Nhật Bản rất coi trọng sinh thực khí nam giới, chính vì thế có rất nhiều lễ hội thờ và rước sinh thực khí nam tại đây. Điển hình là lễ hội Kanamara (xem hình 3) Tôi xin đi vào chủ đề chính của bài viết: Sinh thực khí người nam giới (tức bộ phận sinh dục nam) trong vốn từ dân gian rất phong phú, có rất nhiều cách gọi. Nhưng đúng với “tính võ đoán” của ngôn ngữ, ngày nay chúng ta chỉ biết từ đó nghĩa là như thế, nhưng không hiểu vì sao nó lại được dùng với nghĩa như vậy. Chính vì thế, nhân đọc về nghi lễ rước dương vật của người Nhật, tôi xin đưa ra mấy suy nghĩ về nguồn gốc của các từ biểu thị sinh thực khí nam giới trong cách gọi thông tục. Xin liệt kê những từ dùng trong dân gian (thông tục) với nghĩa chỉ sinh thực khí nam giới: - Buồi - Cặc - Dái - Nõ
***
Ta tìm hiểu từ “Cặc”: Từ này thực ra có liên quan đến từ “Cọc” (chữ Nôm) và “Cực” (chữ Hán). “Cực” có nghĩa là cái cột cao nhất của ngôi nhà, nôm na ta hiểu là cái cột. Mà cột với “cọc’ cùng tính chất, nên sau này người ta dùng chữ “cực” cũng với nghĩa là “cọc”. Người xưa chơi chữ rất hay, “cọc” đọc lái đi để chỉ sinh thực khí nam giới. Như vậy ta thấy ở đây có một chuỗi biến đổi khá logic: Cực – Cột – Cọc – Cặc Vì thế mà khi đọc bài thơ “Quả mít” của Hồ Xuân Hương, ta thấy rất rõ ẩn ý của bà: “Quân tử có thương thì đóng cọc Xin đừng mân mó nhựa ra tay” Lại có một minh chứng nữa cho luận giải “Cặc – Cọc”, đó chính là cụm từ “Cặc bần” của miền Tây Nam Bộ. Có câu: “Nước chảy, cặc bần rung bây bẩy Gió đưa, dái mít giãy tê tê”
“Bần” là một loài thực vật. Học giả Vương Hồng Sển viết về cây bần như sau: “Bần là cây gỗ tạp, mọc dựa mé nước, rễ nhiều, bám theo đất phù sa mà làm cho đất có phần vững chắc không trôi khi sóng đánh. Cây bần có lá xanh rất đẹp, ban đêm đom đóm đậu nhiều trông rất xinh. Có trái, ăn với mắm sống rất ngon. Chúa Nguyễn Ánh được nếm qua, rất hài lòng và ban cho tên chữ là Thúy Liễu. Rễ của bần dùng làm nút ve được. Phân ra có loại bần-chua, trái lớn; và bần-ổi, trái nhỏ hơn và tương đối ít chua hơn. Xưa nay, nghề uốn và chơi kiểng, phàm cây kiểng lão và gốc bần quá già, khi nào gốc dẽ ra ngoài bờ ngoài nước thì gọi là nó chiếu thủy, ý nói bóng cây ấy làm dáng và dòm xuống nước”(2) Nhìn hình 4 chúng ta thầy những cái nhô lên chính là “cọc bần”, nhưng người Tây Nam Bộ gọi là “Cặc bần” chính vì hiện tượng mà tôi đã lý giải ở trên.
***
Trong từ điển tiếng Việt, ta bắt gặp nhiều cụm từ như: Dái mít, dái tai, dái khoai,… Có một đặc điểm chung, các từ đó đều chỉ những bộ phận mà có nhô ra hoặc lồi ra ngoài. Như “dái tai” chỉ phần thịt tai chảy xệ xuống; “dái khoai” chỉ củ nhánh sinh ra theo dây khoai; “dái mít” chỉ phần quả mít non nhô ra và chưa thành hình quả(3)… (Xem hình 5) Vậy những thứ gì nhô ra và có dáng lồi hoặc trĩu xuống thì được gọi là “dái”, vì thế chúng ta đã hiểu vì sao sinh thực khí nam giới lại được gọi là “dái” phải không nào
***
***
Còn từ “Buồi” thì sao? Thực ra từ này tôi cũng chưa thực sự có một cách giải thích hợp lý. Tuy nhiên, dựa vào âm đọc và tự dạng của chữ Nôm, tôi đưa ra một giải thuyết: “Buồi” gần âm với “Bùi” 裴, mà từ “bùi” tôi có phân tích tại bài viết “Thâm nho nhọ đít: Nỡ lòng để con cháu không có quần áo!”: “Bùi” tức là “phi y" (không có quần áo), vì thế mà người xưa dùng nghĩa chơi chữ đó để chỉ sinh thực khí nam giới chăng? Giả thuyết này xin được các học giả cùng bạn đọc góp ý để người viết được mở mang kiến thức. Xin chân thành cảm ơn!
***
Tựu trung lại, tôi vừa đưa ra một số phân tích để sơ lược nêu ra nguồn gốc của các từ ngữ thông tục chỉ sinh thực khí nam giới để bạn đọc tham khảo. Biển học vô bờ, mọi người còn nhiều kiến thức rộng rãi hơn nữa, bài viết ở mức sơ lược, Blog người hiếu cổ rất mong được sự rộng lượng châm chước.
______________________________________
(1) Phồn thực : có nghĩa là sinh sôi nảy nở. Tín ngưỡng phồn thực hiểu đơn giản là sự sùng bái hoạt động tình dục nam nữ, coi đó là mầm mống của sự duy trì và phát triển nòi giống. Tín ngưỡng phồn thực thể hiện rõ nhất trong việc thờ sinh thực khí (tức bộ phận sinh dục) của nam và nữ và các nghi lễ tượng trưng cho sự giao hợp nam nữ.
Lồn là gì ? Ý nghĩa của từ Lồn
Lồn là âm hộ – Là cơ quan sinh dục nữ. Nơi để quan hệ tình dục.
Lồn là một khái niệm mà đã là dân Việt Nam thì hầu như ai cũng biết. Ngày nay chúng ta có thể gặp từ “lồn” ở bất cứ nơi đâu trong cuộc sống hàng ngày. Từ ông xe ôm đến bà đồng nát, từ thằng nhóc đánh giày đến các đứa bé sơn móng tay, từ ông bán bánh mì đến các bà bán thịt, từ thằng nghiện đến các chị cave, từ học sinh đến sinh viên, từ người ít học đến người nhiều học… Tất cả đều có thể, trong một phút giây nào đó, phát ngôn ra : “Lồn !”.
Lồn là gì
Cách dùng:
Từ tục, đây là một danh từ của týp ít người bình dân hôm nay còn sử dụng, có văn hóa thấp, nên từ ngữ này dùng không được thanh bai cho lắm, ý để chỉ “cái cửa mình”, để chỉ, để nói về bộ phận sinh dục của người phụ nữ. Thông thường, trong sinh họat đời thường thì từ này được sử dụng trong tình huống kể chuyện tục, chuyện tiếu lâm, hoặc để người ta văng tục, chửi thề … theo kiểu thiếu văn hóa. Riêng trường hợp khác, trong câu vè bình dân, câu đố dân gian xa xưa thì danh “cái lồn” hay “lồn” thì từ này không có dụng ý xấu, hay tục tĩu mà là người xưa muốn ám chỉ, nói bóng gió đến hình tượng khác … chứ không phải để để ám chỉ bộ phận sinh dục của người phụ nữ như nói trên.
Người Việt nhiều khi dùng từ lồn để ví von, ca ngợi :
Đẻ đứa con khôn, mát lồn rười rượi
Đẻ đứa con dại, thảm hại cái lồn
Gắn phù lồn mèo, (dán bùa lồn mèo)
Sồn sồn như lồn phải lá han
Lồn là mít, đít lồng bàn (Tướng phụ nữ ham muốn dục vọng cao)
Lồn bà bà tưởng lồn ai
Bà cho ông Lý mượn hai tháng liền.
Lồn lá vông, chồng trông chồng chạy
Lồn là mít, chồng hít chồng ngửi
Lồn lá tre, chồng đe chồng đánh
Lồn Cổ Am, Cam Đồng Dụ, Vú Đồ Sơn (Làng Cổ Am ngày xưa lắm người đỗ đạt nên người ta ví ở đó có những cái lồn tốt đẻ ra người tài)
Cơm nhà, cháo chợ, lồn vợ, nước sông (Phong lưu khoáng đạt)
Lo co đầu gối, lo rối lông lồn (Lo lắng)
Lồn chằng ghế đá, lồn vá xe hơi
Về ca dao:
– Văn chương chữ nghĩa bề bề
Thần lồn ám ảnh mà mê mẩn đời.
(Câu có ý tương tự : Ma bắt hồn, thần lồn bắt vía)
Đấy, “chữ nghĩa bề bề” còn bị ám ảnh bởi “lồn” chứ đừng nói đến bọn dân đen ít học.
– Lồn này lồn chẳng sợ ai
Sợ thằng say rượu địt dai đau lồn
– Lồn bà bà tưởng lồn ai
Bà cho ông Lý mượn hai tháng liền
– Trên trời có ông sao rua
Lồn em tua tủa có thua chi nào
– Cơm ăn mỗi bữa mỗi niêu
Tội gì bắt ốc cho rêu bám lồn
Thơ:
– Thu Vân giới thiệu Thu Bồn
Thu Bồn sướng quá vỗ lồn Thu Vân.
Thu Bồn ngồi cạnh Thu Vân
Thu Vân tinh nghịch cấu chân Thu Bồn
Thu Vân ngồi cạnh Thu Bồn
Thu Bồn tinh nghịch cấu lồn Thu Vân
– Sầm Sơn sóng vỗ dập dồn
Ba cô áo trắng ngửa lồn lên bơi.
– Chợ Đồng Xuân có tiếng đồn
Có chị bán trứng vịt lồn rất to.
– Lồn lá vông, chồng trông chồng chạy
Lồn là mít, chồng hít chồng ngửi
Lồn lá tre, chồng đe chồng đánh
– Dậm chân xuống đất cái đùng
Vỗ lồn phành phạch anh hùng đến đây
Ngôn ngữ thời@:
– Vãi cả lồn: thán phục một điều gì đó.
– Sồn sồn như chó cắn lồn: nó giống với câu “sồn sồn như lồn phải lá han”, ý chỉ sự hấp tấp.
– Ngu lồn: rất rất ngu
– Hãm lồn: hãm tài, bế tắc, tiêu cực.
– Ăn cái lồn: không được đâu, không ăn thua đâu.
– Hà Thiên Lộn = Lồn thiên hạ, ý nói đa dâm.
– Mặt thiếu nhi mà lồn thì Từ Hy thái hậu: chỉ những cô gái còn trẻ nhưng đã ăn nằm với nhiều người.
– Khổ vì lồn: chỉ những chàng trai si tình, lụy tình.
– Vì lồn mà tâm hồn điên đảo: ý nghĩa tương tự câu trên.
– Lời như đồn = Đời như lồn: buồn đời, chán đời.
– Lộn cái bàn = Bạn cái lồn: thái độ bức xúc khi tỏ tình nhưng bị gái từ chối “chúng mình chỉ là bạn”.
– Cười như lồn cười với cứt: cười rũ rượi.
– Tiền ít mà đòi hít lồn thơm: chỉ những chàng trai vô dụng nhưng muốn gái đẹp.
Tuy nhiên, từ này được coi là từ bất lịch sự trong giao tiếp.
ăn cái lồn, có cái lồn – phủ nhận điều gì đó
thằng/con mặt lồn – chửi bậy
vãi cả lồn – thán phục điều gì đó, có thể mang nghĩa tiêu cực
xấu vãi lồn – rất rất xấu
như cái lồn – chê bai một điều gì đó
Vãi lồn còn được nói trại đi thành vãi lúa hay vãi lờ, hoặc viết thành vl.
Có thể mang ý nghĩa khi giận dữ. Ví dụ:
– “Nóng vãi lồn!” (nóng nực không chịu được);
– “Chán vãi lồn!” (quá chán);
– “Thời tiết như lồn!” (thời tiết xấu quá);
– “Nhìn cái lồn à?” (mày nhìn gì tao thế?);
– “Lải nhải cái lồn!” (đừng nói nữa tao nhức đầu lắm);
– “Thằng mặt lồn” (tao ghét mày rồi đấy!);
– Đơn giản hơn: “Lồn!” (chán không còn từ gì để nói).
Cũng có khi người ta dùng từ “lồn” để biểu đạt sự nghi vấn:
– “Cái lồn gì thế?” (cái gì thế);
– “Nó nói cái lồn gì thế nhỉ?” (bạn ấy nói gì tớ nghe không rõ);
– “Thế là thế lồn nào?” (thế này là thế nào);
– “Thằng lồn nào kia?” (thằng nào kia?);
Đa phần trong trường hợp này từ “lồn” chỉ mang tính chất bổ ngữ bổ sung sắc thái, có thể loại bỏ từ này mà không làm mất đi ý nghĩa của câu.
Cũng có lúc người ta sử dụng từ “lồn” để thể hiện sự phấn khích:
– “Sướng vãi cả lồn” (quá sướng);
– “Đẹp vãi lồn” (đẹp quá);
– Hoặc đơn giản hơn: “Vãi lồn!” (hay quá/tuyệt quá/kinh ngạc quá/wonderful…)
Từ lồn đa số mang nghĩa tục tĩu nhưng hiện nay vẫn có nhiều câu đố từ ngày xưa truyền lại trong đó có từ lồn:
Bốn cô trong tỉnh mới ra
Cái lồn trắng hếu như hoa ngó cần
Sư ông tẩn ngẩn tần ngần
Cái buồi cửng tếu như cần câu rô
Đôi khi có những câu đố tuy tục nhưng lời giải lại thanh, ví dụ là câu đố về bộ ấm chén. Nhưng trong một số giao tiếp, tối kỵ dùng từ lồn, đặc biệt là người hơn tuổi, điều đó hết sức bất lịch sự và thô tục.
Đàm đạo về lồn công nhận là mệt vãi cả lồn.