Hiển thị các bài đăng có nhãn NHẠC THƠ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn NHẠC THƠ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 5 tháng 1, 2018

NGƯỜI ĐÀN ÔNG TÓC BẠC




NGƯỜI ĐÀN ÔNG TÓC BẠC

Thơ: Kiều Thị An Giang; Phổ nhạc: Nguyễn Đức Thuần

Khi gặp nhau hai ta tuổi xế chiều.
Tóc em thiếu vai và đầu anh rất nhiều sợi bạc.
Nhưng tình xanh đã đổ màu lên mái tóc.
Tim dại khờ cuồng dại những ngày vui.
Đừng bao giờ đem khổ đến cho nhau nữa em ơi!
Xin đừng làm đau nhau, đừng quên lời hứa vội.
Trăm năm hỡi trăm năm vừa vụt tới.
Trên bầu trời run rẩy ánh sao băng.
Nếu em về thịt da sẽ khép miệng.
Cây sẽ lên hoa, thuyền mơ xuôi dòng về bến cuối.
Người đàn ông chung tình mái đầu như sương tắm gội.
Không bao giờ nhuộm lại tóc đâu em!

Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2016

TÌNH XƯA LẠC DẤU


- Thơ: Nguyễn Xuân Mai.
- Nhạc: Hồ Trung Hậu.
- Hòa âm: nhạc sĩ Quốc Vượng.
- Trình bày: ca sĩ Thanh Hưng(JB Thanh Hưng).



YOUTUBE.COM

Thứ Năm, 28 tháng 7, 2016

Trong tay thánh nữ có đời tôi



Thơ Du Tử Lê, Hoàng Thanh Tâm phổ nhạc. Tuấn Anh ca



Trong tay thánh nữ có đời tôi là bài thơ nằm trong tập Ở chỗ nhân gian không thể hiểu của Du Tử Lê.



trong tay thánh nữ có đời tôi

hỏi Chúa đi rồi em sẽ hay
tôi buồn như phố cũ như tay
bàn chân từng ngón ngưng không thở
lạc mất đường đi. tạnh dấu bày
hỏi nắng đi rồi em sẽ hay
tôi gầy như lá nhẹ như mây
gió khuya thổi rớt ngàn tâm sự
thiên đàng tôi là người hay ai?
hỏi gió đi rồi em sẽ hay
cảnh tượng tôi un khói. bụi đầy
ai không ném đá tôi nào biết
riêng người vẫn bay trên ngọn cây
hỏi tóc đi! sông những buồn vui
như tôi qua gần hết cuộc đời
trí khô não kiệt. nghe từ đất
tiếng gọi trời xa. thánh nữ ơi
hỏi mắt đi sẽ thấy rừng cao
biển sâu dưới thấp. đêm quê nhà
con đường núi Sọ, không ai đợi
tôi hỏi tôi: này, đang ở đâu?
hỏi môi đi! môi còn muối mặn
xát ướp lòng tôi thì đã sao?
chỉ e chẳng kịp cho đời khác
cửa mở nhưng tôi chẳng thể về
hỏi tim đi! tim nói lời gì?
máu còn quy ẩn có đôi khi
chỉ cho em biết hồn tôi khuất
sau những hàng cây đã luống thì
hỏi Chúa đi! ngài sẽ trả lời
trong tay thánh nữ có đời tôi.

Ngoài bài thơ này, Hoàng Thanh Tâm còn lấy thêm bài Tay Người dùng cho phần điệp khúc

tay người 

sông chẳng thể không trôi về biển lớn
người bên bờ buông tóc thả cho mây
dẫu hết kiếp ta vẫn là đứa trẻ
buồn vui theo chiếc kẹo ở tay người.

Trước Hoàng Thanh Tâm, nhạc sĩ Trần Duy Đức cũng đã phổ nhạc bài thơ này thành ca khúc cùng tên tên Trong tay thánh nữ có đời tôi, nên về sau Hoàng Thanh Tâm đổi tên bài hát là Hạnh Phúc Buồn. nhưng tên cũ đã quen, nên thường mọi người vẫn dùng.

Bài của Trần Duy Đức phổ:




các bài thơ copy từ: dutule.com

Thứ Tư, 27 tháng 4, 2016

Trịnh công Sơn và những ngày Văn khoa



TỪ THỨC









Gởi những người bạn Sài gòn ngày xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ? (HĐL)





Một ngày đầu tháng tư (2001), tôi lên phi trường Charles de Gaulle đón một người bạn từ Việt nam qua. Trên xe về Paris, anh ta hỏi : cậu có nghe tin về Trịnh công Sơn ? Tôi gật đầu ; mấy hôm trước, có người gọi dây nói cho hay TCS vừa từ trần.

Anh bạn nói đám tang Sơn rất đông. Người ta ở đâu đổ về như kiến, chật cả đường phố. Quen có, lạ có. Không đủ chỗ đặt vòng hoa phúng điếu .Tôi nói với ông bạn : như vậy, cái xứ của ông vẫn còn văn minh, vẫn còn thuốc chữa.

Đó là cái tin lạc quan nhất về Việt nam mà tôi được nghe từ nhiều năm nay. Dostoievski nói : cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. C’est la beauté qui va sauver le monde.Bỏ công ăn việc làm, đến tiễn đưa một thi sĩ-TCS là một thi sĩ-chứng tỏ người ta còn nghĩ đến cái đẹp, người ta còn có tâm hồn.

Tự nhiên tôi nghĩ đến bác sĩ Jivago của Boris Pasternak. Cũng như Sơn, Jivago là một thi sĩ. Cũng như Sơn, Jivago bị cuốn hút trong cơn lốc của lịch sử, bị quẳng vào một bi kịch kinh thiên động địa từ trời giáng xuống. Như hàng triệu người Nga, Jivago bị đánh bạt ra khỏi gia đình, quê hương khi cách mạng vô sản Nga ập xuống nước Nga, cuốn trôi tất cả : gia sản, vợ con, bè bạn, tình ái trong một xã hội thay đổi tận gốc rễ.

Chỉ có một điều không bao giờ thay đổi : là một thi sĩ, Jivago tiếp tục làm thơ. Lấy thơ làm nhân chứng, lấy thơ làm cái phao. Lấy thơ làm một nguồn hy vọng để vươn lên. Khi Jivago chết, người ta ở đâu đổ về rất đông, nhiều người không hề quen biết. Pasternak viết : người Nga yêu thơ, yêu thi sĩ. Nghĩa là yêu cái đẹp, nghĩa là chưa hoàn toàn tuyệt vọng. Chỉ hoàn toàn tuyệt vọng khi người ta không còn thiết tha đến điều gì, ngay cả cái đẹp. Đó là nét lạc quan nhất trong một cuốn sách đầy thảm kịch : chiến tranh, tang tóc, chia lìa, đổ vỡ. Một tia sáng loé lên trong bầu trời đen tối.



MƯA VẪN MƯA RƠI…


Khi Charles Trenet chết, hàng chục ngàn người kéo về đưa tang một thi sĩ hiện đại nổi tiếng nhất của Pháp. Đưa tang Trenet, người Pháp, trong vài giờ, quên mình đang sống trong một xã hội vật chất, suốt ngày túi bụi dành giựt. Trong vài giờ, thấy mình vươn lên, thấy đời có ý nghĩa hơn, bởi còn yêu cái đẹp. Trenet viết : Những thi sĩ đã qua đời, nhưngtiếng hát của họ vẫn bay nhẩy trên khắp đường phố.

TCS đã qua đời, nhưng tiếng hát của anh vẫn bay nhẩy trong các hang cùng, ngõ hẹp. Không phải chỉ ở Việt nam , mà trên khắp địa cầu. Người Việt, tan tác như một đàn gà mất mẹ, nương thân trên khắp nẻo đường thế giới, mang theo những kỷ niệm quê hương, mang theo mùi nước mắm, mùi sầu riêng, mùi phở, mang theo tiếng hát TCS.

Tôi đã nghe TCS qua tiếng hát nhừa nhựa khói thuốc của Khánh Ly ,tiếng hát thánh thót, không có tuổi của Thái Thanh, tiếng hát truyền cảm của Lệ Thu ; và rất nhiều tiếng hát vô danh, tiếng hát của những người sống ở ngoại quốc nhưng chỉ nói tiếng Việt, của những người thuộc thế hệ sau này, hát TCS với một thứ tiếng Việt pha giọng Mỹ, giọng Pháp, giọng Đức. Tôi đã nghe tiếng hát TCS vọng ra từ những căn nhà ở New-york, Tokyo, Budapest, Athène hay Palerme…Một buổi chiều tàn, trong một bìa rừng ở Brésil, cách Rio de Janeiro hàng ngàn cây số một nơi khỉ ho cò gáy, tưởng như không có hơi người, tôi nghe 1 giọng khàn khàn vọng ra từ 1 căn nhà gỗ. Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em với những thoáng mây bay…Người hát là một ông già gốc Ấn Độ, sống ở Việt nam từ nhỏ.Vượt biển, thuyền đắm, ông già được tầu Ba tây vớt, ở lại Ba tây, làm nghề canh rừng. Suốt ngày, lủi thủi một mình, tháng năm dài đằng đẵng, ông già Ấn mơ đến những cơn mưa trên tầng tháp cổ ở một xứ ông đã nhận làm quê hương.

Một ngày ở ngoại ô La Havanne, trong một tiệm ăn nhỏ trên bờ biển, nơi người ta bán lậu tôm hùm cho du khách (tôm hùm là tài sản quốc gia, chỉ để xuất cảng hay bán trong những tiệm ăn quốc doanh), tôi nghe một giọng hát đàn bà, rất trong, rất ngọt từ trong bếp vọng ra .Ngày gió lớn, tai nghe môi gọi thầm. Gọi tên em, tên Việt nam, trong tiếng nói da vàng. Người hát là một bà Bắc kỳ, từ Hà nội tới Cuba, trong một chương trình hợp tác gì đó giữa hai nước ‘xã hội anh em’, có lẽ đã mệt nhoài sau nhiều năm thề ăn gan uống máu quân thù .

Tác phẩm TCS đã đi sâu vào tâm hồn dân tộc.Nước ta có trên 80 triệu dân. Trừ trẻ con và những người không biết đọc, biết viết, có khoảng 50 triệu người làm thơ. Sự thực, không cần phải biết đọc, biết viết mới biết làm thơ : tác giả những câu thơ đẹp nhất trong văn chương Việt nam – ca dao - là những người nông dân không biết đọc biết viết .Trong số 50 triệu người làm thơ, mỗi thế hệ cho vài ba thi sĩ. Những thi sĩ đi sâu vào tâm khảm đám đông, gặp gỡ tâm hồn một dân tộc còn hiếm hoi hơn nữa. TCS thuộc cái số hiếm hoi đó.



SAIGON, NHỮNG NGÀY XÁO TRỘN



Tiếng hát TCS đến với Sài gòn vào những năm 60, ở trường đại học Văn khoa Sàigon , nằm trên góc đường Gia Long-Nguyễn trung Trực, ngay trung tâm thành phố ; Sơn ở Bảo Lộc trôi giạt về, lai vãng thường xuyên vì cái sinh hoạt trẻ ở đó rất náo nhiệt. Trường đang rục rịch di chuyển một phần về cơ sở mới gần sở thú Sài gòn vì số sinh viên tăng rất nhanh, trường cũ không đủ chỗ. Văn khoa là trường đông sinh viên nhất ở Việt nam. Xa rồi, cái trường Văn khoa đầu tiên ngoài Bắc, do giáo sư Cao xuân Huy sáng lập năm 1949, với số sinh viên vỏn vẹn có bẩy người, gọi là thất hiền.(1).

Trường di chuyển, nhiều gỉảng đường bỏ trống. Gọi là giảng đường cho sang, sự thực đó chỉ là những căn nhà tiền chế. Tất cả những gì gọi là sinh hoạt văn hoá xã hội của giới trẻ Sai gòn kéo về, chiếm đóng những căn nhà tiền chế. Một phần dành cho CPS ( Chương trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường ), một phần dành cho hội hoạ sĩ trẻ, đoàn văn nghệ Nguồn Sống. Phần còn lại, một số sinh viên chúng tôi tịch thu làm Nơi tâp trung, hội họp. Hồi đó người ta tự hào thuộc giới trẻ, có lẽ vì thất vọng với những gì «lớp già » để lại. Gia tài của mẹ để lại cho con, gia tài của mẹ, một nước Việt buồn : hoạ sĩ trẻ, nhạc sĩ trẻ, ca sĩ trẻ… quên rằng người ta sớm muộn gì cũng …già. Các « cụ » trong nhóm Người Việt, Thế kỷ 21 ngày nay đều là những người trẻ ngày xưa ở sân trường Văn khoa.

Phải sống ở Văn khoa những ngày ấy mới thấy sinh hoạt văn nghệ, sinh hoạt xã hội là một nhu cầu thiết yếu của tuổi trẻ, và nếu có cơ hội , sinh hoạt ấy bùng lên, tuổi trẻ bùng lên, đất nước không còn là một nước Việt buồn

Sống ở đó rất tiện : Văn khoa nằm ngay trung tâm thành phố, đi vài bước là tới những tiệm cà phê nổi tiếng trên đường Catinat, vài bước tới Khai Trí, tiệm sách lớn nhất Sài gòn, tha hồ đọc sách cọp. Ông chủ Khai trí là một người mê sách, muốn phát triển văn hoá, ông ấy khuyến khích sinh viên đọc sách cọp. Nhà cửa điện nước đều của chùa, rất tiện, trong khi hầu hết chúng tôi đều nghèo kiết xác, từ những ông hoạ sĩ trẻ, những ông văn nghệ sĩ có tiếng nhưng không có miếng ở đất nước của Tản Đà (văn chương hạ giới rẻ như bèo), những ông ký giả đầu tháng đã hết lương, những ngày cuối tháng khó khăn, nhất là 30 ngày cuối tháng (Coluche), đến đám sinh viên trong đầu đầy những mộng đổi đời, cải tạo xã hội và trong túi không có đủ tiền uống một ly cà phê.



ĐẠI BÁC ĐÊM ĐÊM VỌNG VỀ…



Từ 1963, sinh hoạt giới trẻ Sài gòn cực kỳ náo nhiệt. Chúng tôi sống ở ngoài đường nhiều hơn ở trong nhà hay trong lớp học. Hết biểu tình, hội thảo chống đàn áp Phật giáo dưới thời ông Diệm, đến hội thảo, biểu tình chống các chính phủ thi nhau lên xuống. Xuống đường trở thành một sinh hoạt thường nhật. Giữa những cuộc biểu tình, những buổi hội thảo, thỉnh thoảng ghé vào giảng đường học vài chữ cho phải phép. Đó là giai đoạn giới trẻ tham gia tích cực vào đời sống chính trị xứ sở. Với lòng nhiệt thành, và cố nhiên với đôi chút ngây thơ. Ngây thơ tin vào sức mạnh vạn năng của tuổi trẻ, nhất là khi thấy chỉ vài buổi xuống đường cũng đủ lật đổ một chính phủ, một ông tướng, một chính khách ; quên rằng trong cái hỗn loạn của đất nước, người Việt chỉ là những quân cờ thí.

Trước tết Mậu thân, lớp trẻ Sài gòn còn tin tưởng, chưa hoàn toàn mệt mỏi, tuyệt vọng. Những ngày đầu thập niên 60, chiến tranh chưa thưc sự len vào thành phố, mặc dù hàng ngày vẫn đọc trên báo những cuộc đụng độ nẩy lửa ở Pleiku, Cà mau, Đồng Xoài, Bình giã ; thỉnh thoảng chứng kiến những vụ pháo kích ; thỉnh thoảng họp nhau, nhậu vài két la de, lạc rang, củ kiệu, tiễn một người bạn lên đường nhập ngũ. Chiến tranh còn ở xa, đại bác đêm đêm vọng về, người phu quét đường dựng chổi đứng nghe. Dân Sài gòn chưa thấy tận mắt những xác người nằm chết như mơ, những xác người nằm dưới mái sân chùa, trên giáo đường thành phố.

Sinh hoạt trẻ Sai gòn ồn ào, sinh hoạt trẻ Văn khoa còn náo nhiệt hơn nữa. Bên cạnh những hoạt động chính trị, những cuộc xuống đường, còn rất nhiều những đêm không ngủ, những hội Tết, những đêm văn nghệ Nguyễn Đức Quang, Nguồn Sống, những ngày túi bụi làm báo Xuân, nguyệt san Đối Thoại. Ở đó, (và ở trụ sở Tổng hội Sinh viên SG), Phạm Duy ra mắt trường ca Mẹ Việt nam, Vũ thành An ra mắt bài hát đầu tay. Chúng tôi, tuổi 20, kề vai nhau nghe Lệ Thu ngủ đi em, mộng bình thường ; ru em những tiếng thuỳ dương đôi bờ, nghe Thái Thanh ca tụng mẹ Việt nam không son không phấn, mẹ Việt nam chân lấm tay bùn ( Phạm Duy ); và thực tình xúc động với cái viễn ảnh Việt nam quê hương đất nước sáng ngời . Cái viễn ảnh ấy, trong những đêm không ngủ, tựa vai nhau, chỉ tưởng tượng cũng đã muốn khóc. Trước cái trống rỗng của hiện tại, và cái lo lắng cho một tương lại mù mịt, người ta ngồi sát lại nhau, người ta nắm tay nhau, xin chờ những rạng đông. Những câu hát đẹp như thơ của Sơn đã đi thẳng vào lòng người.

Phong trào hoạt động xã hội cũng phát triển rầm rộ. Ảnh hưởng của phong trào thanh niên chí nguyện quốc tế của Kennedy, những hội doàn như CPS, Thanh Niên Thiện Chí, Thanh Niên Chí Nguyện vv … mọc ra như nấm. Tuổi trẻ tích cực tham gia nhũng cuộc cứu lụt ngoài Trung, cải trang những xóm nghèo ở thành phố, leo lên những làng Thượng dạy học, đào giếng, chữa bệnh. Có anh tham dự những ngày cuối tuần, có anh bỏ học , hoạt động hai ba tháng, nhiều khi cả năm. Đó là một tuổi trẻ còn đầy lý tưởng, còn yêu đời, yêu người, còn đầy tình người trong mạch máu, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.

Điều đó chứng tỏ tuổi trẻ rất tha thiết dến dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho đất nước. Nếu họ thờ ơ với đất nước như người ta than phiền, lỗi không phải ở họ : người ta đã không tạo cơ hội cho tuổi trẻ tham gia. Họ bị gạt ra ngoài lề. Đất nước không còn là đất nước của họ.



ĐƯỜNG PHƯỢNG BAY



TCS đến với Văn khoa trong bối cảnh đó. Sơn không phải sinh viên VK ; anh ở Huế vào, bỏ học vì hoàn cảnh gia đình. Những đêm trăng, chúng tôi ngồi trên baĩ cỏ trước quán Văn, nghe Sơn đàn, nghe Khánh Ly hát. Khánh Ly sinh ra để hát TCS, cũng như Thái Thanh sinh ra để hát Phạm Duy.

Quán Văn là một ngôi nhà tiền chế, nằm giữa sân trường VK. Một nhóm thổ công VK sửa sang lại, biến thành môt quán cà phê, làm nơi tụ họp, gặp gỡ. Đúng là môt cái quán, đơn sơ, nhưng đầy tình bè bạn. Giống như một cái quán ở miền quê, nơi người nông dân ghé qua, uống một bát chè tươi, hút một điếu thuốc lào, ngâm vài câu thơ, vài câu ca dao, tán gẫu với nhau sau những giờ lao động. Ở đó, chúng tôi khám phá ra cái đậm đà của tình bạn, cái thi vị của những buổi hẹn hò. Ở đó đã nở ra những mối tình, đôi khi dang dở, nhưng có nhiều cặp còn keo sơn tới ngày nay.

Người nhỏ bé, gầy gò, ăn nói nhỏ nhẹ, ôn tồn (tôi chưa hề thấy một TCS giận dữ, gây gổ ), Sơn trở thành bạn của mọi người một người một cách rất tự nhiên.

Đôi mắt tinh anh, láu lỉnh, nụ cười hiền lành như một thầy tu, Sơn có cái phong thái của một thi nhân, cái khiêm tốn của một người có thực tài. Từ cách nâng ly uống một ly rượu, tiếp truyện với bạn bè, cách trang phục, giản dị nhưng trang nhã, cái phong thái thi nhân ấy hiện diện ở Sơn, thường trực, tự nhiên. Đừng tưởng ông thi sĩ nào cũng có phong thái thi nhân. Sartre nói về Heidegger, một triết gia hàng đầu mà chính ông chịu nhiều ảnh hưởng : « có những người ta chỉ nên biết tác phẩm, không nên biết đến con người, nếu không muốn thất vọng ». Heidegger là một triết gia lỗi lạc, lại cũng là ngươi theo chủ nghĩa nazi. Tôi đã quen những ông thi sĩ, tác giả những câu thơ rất đẹp, ăn uống , cư xử như một con heo đực.

TCS ở ngoài đời rất giống TCS người ta tưởng tượng khi nghe những bản nhạc tình của anh.

Chúng tôi, mới đầu, ngạc nhiên thấy một gã người Huế, rất thanh nhã, rất ung dung, từ tốn ; không phải cái từ tốn của 1 ông già, mà là cái ung dung quí phái của một con mèo ; với nụ cười hiền hoà thường trực trên môi. Sơn học chương trình Pháp, nhưng xử dụng tiếng Việt một cách tài tình. Nhiều chữ rất tầm thường, với Sơn, chợt trở nên truyền cảm ; nhiều chữ do Sơn bịa ra, nhiều hình ảnh đến từ một trí tưởng tượng phong phú, nếu không nghe Sơn giải thích, chắn chắn không ai hiểu. Mặc dù vậy, người ta cũng vẫn rung động, vẫn thấy cái Sơn nói đến rất thực, rất gần gũi. Đó là cái ma lực của chữ nghĩa, của thơ. Khi thơ đạt, khi chữ nghĩa có duyên nợ với nhau. Nhiều chữ, nhiều câu rất cũ, đột nhiên ở Sơn trở thành rất mới. Nhiều chữ nhiều câu rất cầu kỳ, đột nhiên gần gũi. Khi thất tình - người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ-, khi tuyệt vọng , mùa thu không về, mùa xuân cũng ra đi,ngay cả khi nói đến chiến tranh tang tóc- xác người nằm như mơ-, TCS không lúc nào quên mình là thi sĩ.

TCS nói về những cái rất riêng tư, những kỷ niệm rất riêng tư, qua một ngôn ngữ rất riêng tư. Và lạ lùng, cái riêng tư ấy của thi sĩ thấm vào lòng người nghe. Người ta xúc động mặc dù không hiểu từng câu, từng chữ. Nhất là trong những bản nhạc tình. Nói về chiến tranh, ngôn ngữ TCS là ngôn ngữ của mọi người ; chiến tranh là một tai hoạ chung, một thảm kịch của cả một dân tộc, không phải là thảm kịch của một cá nhân, mặc dù mỗi cá nhân là một thảm kịch.

Một người bạn tôi nói khi nghe Sơn hát đường phượng bay mù không lối vào, anh thấy hình ảnh rất đẹp, rất mới , nhưng không biết tác giả nói gì, cho đến một hôm, ở một tỉnh nhỏ, anh thấy hoa phượng rơi, bị gió cuốn mịt mù, đỏ rực cả con đường trước mắt.

Nếu không quen Sơn, ít ai biết ngày mai nối bước Sơn khê, nói đến một người bạn gái tên Khê ; ngàn cây thắp nến hai hàng, mầu nắng bây giờ trong mắt em mô tả những tia nắng cuối cùng của một buổi chiều tà đọng trên những ngọn cây, giống như ngàn cây thắp nến. (2)

Ngôn ngữ TCS khác với ngôn ngữ Phạm Duy (PD). Ngôn ngữ PD là ngôn ngữ ca dao. Hình ảnh của PD là hình ảnh của ca dao. Nhiều câu, nhiều hình ảnh trong nhạc PD không hiểu là của PD hay mượn từ ca dao. Đó không phải một lời chỉ trích ; đó là một lời ca ngợi. Bởi vì dùng ngôn ngữ của một dân tộc, nói lên tình tự của dân tộc không phải ai cũng làm được, là một điều rất đáng tự hào. Lời ca của PD ai cũng hiểu, hình ảnh của PD ai cũng đã từng thấy, vì trong tiềm thức, chúng ta đã sống với ca dao từ hàng ngàn năm nay. Trong môt bài báo ngày xưa ở trong nước (3), tôi viết tiếng hát Thái Thanh không có tuổi, vì đã làm say mê ba thế hệ. Tôi nghĩ thêm : tiếng hát Thái thanh qua nhạc PD không có tuổi vì chúng ta vẫn nghe từ hàng ngàn năm nay. Tiếng hát ấy gợi ra trong đầu người nghe những cánh đồng lúa xanh, tiếng cười rúc rích cúa cô thôn nữ, những làn khói lam trên những mái nhà tranh, tiếng chuông chùa ngân nga, tiếng hò hát của người nông dân những ngày được mùa, tiếng nghẹn ngào của bà mẹ mù mắt chờ con đi chinh chiến, tiếng than vãn của những đời lầm than, đen tối.

PD sống với ca dao, thở với ca dao, cười khóc bằng ca dao. Ít có người Việt nam nào Việt nam hơn PD. Có lẽ có một người : Nguyễn Bính. Nguyễn Bính là ca dao, ca dao là NB .



HAI NGHỆ SĨ, HAI CUỘC CHIẾN


Trên bãi cỏ trường VK, trước quán Văn, TCS và Khánh Ly hát trước hàng ngàn người hay chỉ năm, bẩy anh em. Không phải chỉ hát cho tình yêu. Sơn càng ngày càng bị ám ảnh bởi chiến tranh. Từ hình ảnh lãng mạn của người phu quét đường dựng chổi đứng nghe, chiến tranh trở thành cụ thể hơn, ghê rợn hơn :

Một buổi sáng mùa xuân
Một đứa bé ra đồng
Một trái mìn nổ chậm
Xác không còn đôi chân.


Nhạc tình TCS là những tiếng thở dài, có buồn cũng chỉ buồn thoang thoảng : mùa đông vời vợ, mùa hạ khói bay, có trách cũng chỉ trách nhẹ nhàng : người tình bỏ ta đi, như những giòng sông nhỏ. Một thái độ rất thiền, rất ‘zen’ ; trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi xuống trăm năm một cõi đi về.

Nói về chiến tranh, TCS kêu gào, phẫn nộ. Chiến tranh không còn từ xa vọng về như những ngày đầu, nó ở trước mắt : Xác người nằm trôi sông ; phơi trên ruộng đồng ; trên nóc nhà thành phố ; trên những đường quanh co. Cùng với cuộc chiến càng ngày càng dữ dội, tiếng kêu gào của Sơn càng ngày càng thảm thiết. Anh nói đến những em bé loã lồ, suốt đời lang thang, đếnnhững xác người nằm bơ vơ, dưới mái hiên chùa, đến những trái mìn nổ chậm, người chết hai lần. Chiến tranh trở thành khốc liệt, tang tóc đổ xuống dân tộc kinh hoàng . Từng vạn chiếc xe , claymore lựu đạn. Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành. Từng vùng thịt xương, có mẹ có em. TCS của chiến tranh trở thành một người dở điên, dở dại, thất thểu, chiều đi trên đồi cao, hát trên những xác người. Hình ảnh bi thảm, ma quái . Một thi sĩ thất thểu trên bãi dâu, hát bên những xác người . Đi trên đồi cao, bên cạnh xác người là một hình ảnh bi thảm, nhưng hát bên những xác người, hình ảnh mang thêm một cái gì ma quái, điên dại. Bi đát như chiến tranh với những con ngựa hý điên cuồng trong tác phẩm Guernica của Picasso.

Ngôn ngữ TCS về chiến tranh khác với ngôn ngữ TCS về tình yêu. Chiến tranh trong nhạc TCS cũng khác chiến tranh trong nhạc Phạm Duy.


PD có ‘’ cái may ‘’ sống trong một cuộc chiến tranh chống Pháp, có địch, có thù, chiến tuyến phân minh. PD, 24 tuổi lên đường tham gia kháng chiến, như hàng ngàn hàng vạn thanh niên khác. Chiến tranh trong nhạc tiền chiến của PD nó hào hùng, nó bừng bừng khí thế. PD tiền chiến không có cái cấu xé, cái dằn vặt. Cái chọn lựa của PD nó hiển nhiên. Nhạc PD không có cái lưỡng lự, nó là một tiếng quân ca, tiếng gọi lên đường. Bên cạnh cái hào hùng là cái lãng mạn của một trí thức tiểu tư sản ở tuổi 20, của một nghệ sĩ giầu tình cảm. Đó là cuộc chiến của những cô nàng gánh lúa cho anh đi diệt thù, của những chiến sĩ dừng chân trên chiếc cầu biên giớitưởng tới người yêu ở quê xa.

Điều đó không có nghĩa là trong nhạc PD không có cái bi thảm của chiến tranh. Nhạc PD có bà mẹ Gio Linh lên đường đi kiếm xác con bị giặc chặt đầu, có bà mẹ đón người con thương binh trở về, tiếc rằng ta đôi mắt đã loà vì quá đợi chờ. PD nói ông làm tới ba bài người thương binh vì ông sống qua ba cuộc chiến. Tác giả Con Đường Cái Quan nói ông khác xa những nghệ sĩ khác thời tiền chiến vì họ chỉ làm nhạc hùng ; trong khi ông nói cả đến cái bi thảm của chiến tranh. Nhưng cái tàn phá của chiến tranh, cái thảm hoạ đổ lên đầu dân tộc càng khiến PD thấy cuộc chiến tranh của mình có ý nghĩa hơn. PD thuộc những người, như Malraux nói, không thích chiến tranh, ( bởi vì có những người thích chiến tranh, coi đó là lẽ sống) nhưng tham chiến một cách dứt khoát vì là chuyện phải làm.

Cuộc chiến của TCS khác, cái nhìn của TCS khác. Đối với Sơn, đó chỉ là một cuộc nội chiến tương tàn. Nạn nhân là nước Việt, người Việt :

Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng
Cửa nhà Việt nam cháy đỏ cuối thôn

Lật xác người chết, chỉ thấy đồng bào, cha mẹ, anh em :

Bên xác người già yếu
Có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi
Dưới hố hầm này
Trong vùng lửa cháy
Bên những vườn ngô khoai

Những câu hát làm người ta nghĩ đến chiến tranh của Quang Dũng :

Mẹ già tôi em có gặp đâu không
những xác già nua ngập cánh đồng
tôi cũng có đàn em nhỏ dại
bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông


Ngay cả ở cùng một thời điểm, cái nhìn về chiến cuộc của hai nhạc sĩ cũng khác nhau. Với TCS, đó là một cuộc nội chiến mà người Việt nam là nạn nhân. Với PD, đó là cuộc chiến Quốc Cộng nối dài, mặc dù sau này, Phạm Duy, vì cơm ăn áo mặc, hay vì một lý do gì khác, đã vứt bỏ cái hình ảnh của một nghệ sĩ dấn thân, đánh đổi vai trò thần tượng của một thế hệ để đóng vai trò ‘hàng thần lơ láo’.

Ca ngợi cái chết của một phi công-Phạm phú Quốc-PD gọi tên anh, anh là Quốc. Gọi tên anh, anh là nước. Đặt tình yêu nước vào nôi. Viết cho một phi công khác tử trận, TCS không nói đến chiến công, không ca ngợi anh hùng, chỉ nói đến một kiếp người : anh đã đến, đã bay cao trong vòm trời này, đã vui chơi trong cuộc đời này.

Trong « Em hỏi anh bao giờ trở lại » PD viết anh trở về bại tướng cụt chân. Nếu Sơn là tác giả, tôi nghĩ chắc Sơn viết anh trở về vì đã cụt chân. Đối với Sơn, không có chiến có bại ; chỉ có người Việt nam bị cuốn hút vào một cuộc chiến tương tàn. Nếu chưa bị cụt chân thì còn đánh nhau. Đó là một cái nhìn cực kỳ bi đát về cuộc chiến.



NGHỆ SĨ VÀ CUỘC CHIẾN


Trong cuộc chiến ấy, TCS không có chỗ đứng.

Người Cộng sản không chấp nhận anh là chuyện đương nhiên. Với người CS không có chuyện lưng chừng, lưỡng lự, phân vân.   Những người chống Cộng lên án Sơn đã trở cờ. Nhưng đọc kỹ những lời ca anh viết sau 75, không thấy một lời ca chứng tỏ anh về hùa, tâng bốc nhà cầm quyền. Nó vẫn chỉ là những lời ca ngợi tình yêu ; kêu gọi tình anh em, nghĩa đồng bào. Không hề thấy hô hào thù hận, như Xuân Diệu chẳng hạn, khi « nhà thơ của tình yêu ’’ ( ! ) kêu gọi đấu tố năm nào :

Lôi cổ bọn chúng ra đây
bắt quỳ gục xuống, dập đầu chết thôi
bắt chúng đứng, cấm cho ngồi…




Còn nhạc gọi là phản chiến trước 75 ? TCS chỉ làm công việc của một nghệ sĩ : diễn tả cái thảm kịch của chiến tranh, cái đoạ đầy của một dân tộc. Ai không chia sẻ giấc mộng của Sơn : khi đất nước tôi không còn giết nhau ,trẻ em đi hát đồng dao ngoài đường.


Một câu hỏi đáng được đặt ra : TCS có ảnh hưởng xa gần đến việc miền Nam thua trận ? Có thể. Rất có thể. Một người lính xúc động vì hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng ; từng vùng thịt xương có mẹ có em chắc chắn không chiến đấu hăng say bằng những người cuồng tín. Một người lính than vãn ‘ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè, ngựa hồng đã mỏi vó, chết trên đồi quê hương’, chắc chắn không hữu hiệu chém giết bằng một người lính suốt đời chỉ đưọc dạy ăn gan uống máu quân thù. Một quân đội suốt ngày nghe (trên dài phát thanh nhà nước !) những câu người già co ro, buồn nghe tiếng nổ. Em bé loã lồ, khóc trẻ thơ đi, chắc chắn không xả súng tưng bừng bằng một cán bộ suốt đời chỉ biết vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù.( Hò Kéo Pháo )Nhưng nếu cuộc chiến đấu của miền Nam có ý nghĩa, cái ý nghĩa ấy chính ở chỗ nó cho phép mọi người, trong đó có nghệ sĩ, được tự do diễn đạt tư tưởng của mình. Đó là cái yếu của một chế độ dân chủ, ngay cả dân chủ tương đối. Năm người mười ý, trống đánh xuối, kèn thổi ngược. Đó cũng là lẽ sống của một nền dân chủ. Cái giá phải trả ; bởi vì không có chọn lựa nào khác. Nói theo kiểu Winston Churchill : dân chủ là chế độ dở nhất, nếu không kể các chế độ khác.

Khó trách người nghệ sĩ bày tỏ sự rung động của mình trước cái đau thương của đồng bào. Ngay cả Phạm Duy, tác giả bài ca tụng Phạm phú Quốc, người đã tử nạn trong chuyến oanh tạc Hà nội, gọi tên anh anh là Quốc, gọi tên anh là nước, gọi tình yêu nước vào nôi, cũng đã kêu giết người đi thì ta ở với ai ? Khó trách nghệ sĩ bày tỏ sự rung động của mình. Cái điều lạ, cái cảnh khó tin nhưng có thực, là những đêm không ngủ chống chiến tranh ở Văn khoa ngày xưa diễn ra ngay ở trung tâm Sài gòn, với … cảnh sát, quân đội giữ an ninh chung quanh sân trường.



HUYỀN THOẠI DA VÀNG



Nhiều người trách cái ngây thơ chính trị của TCS. Nhưng cái ngây thơ chính trị của nghệ sĩ, của trí thức là chuyện rất phổ thông. Chỉ cần nêu trường họp Jean Paul Sartre, suốt đời hô hào ủng hộ cách mạng vô sản, nhắm mắt trước cái dã man, chà đạp nhân quyền trong những goulag. Chiến tranh, chính trị phức tạp hơn là tình cảm của nghệ sĩ.

Chẳng hạn, TCS day dứt về ‘thân phận da vàng’, đến kiếp nô lệ da vàng ; hết tiếng nói da vàng đến dư khúc da vàng. Làm như cái bất hạnh của dân tộc nằm trong cái nghiệp sinh ra từ mầu da, quên rằng nhiều dân tộc khác, cũng vàng khè không thua gì người An nam ta, đang tiến nhanh, tiến mạnh. Nhật Bản đã làm Tây phương thất điên bát đảo trên mọi phương diện, Đại hàn trở thành một cường quốc, Trung Hoa sẽ là một trong hai lãnh tụ thế giới, và những nước phát triển nhất trên địa cầu, Đài Loan, Singapore là những nước da vàng. Một triết gia nói : ‘có hai loại người, những người chấp nhận làm nô lệ và những người không chấp nhận’. Vàng, xanh, trắng, đỏ không liên hệ gì đến thân phận của một dân tộc. Ai đã gặp một người Nhật có mặc cảm da vàng ? Họ không muốn thua ai, không muốn bằng ai, họ muốn trên mọi người, đứng đầu thiên hạ, họ không biết hai chữ thân phận, vàng hay xanh.

Những câu hát phản chiến của TCS là những tiếng nói của tình cảm, không phải là một phân tách chính trị, không phải những hô hào chính trị. Đó chỉ là những giọt nước mắt, Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm, giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong, thoát ra từ trái tim, mặc dù những giọt nước mắt đó, vì khả năng truyền cảm của nó, chắc chắn đã có ảnh hưởng đến chính trị, đến chiến cuộc.


CHỮ NGHĨA ÍCH GÌ


Từ nhũng năm 64-65 chiến tranh càng ngày càng dữ dội. Xã hội càng ngày càng xáo trộn, tình hình chính trị càng ngày càng nát bét. Ngay cả trong bối cảnh đó, trường Văn khoa vẫn sinh hoạt mạnh. Số sinh viên càng ngày càng đông. Ban giảng huấn đã rất tận tuỵ góp phần vàp việc phát triển Văn khoa Sai gòn. Cố nhiên, đó chưa phải là một trường đại học tân tiến, kiểu mẫu. Phương pháp giáo huấn còn cổ hủ, từ chương khoa cử, chưa thực sự có đối thoại, trao đổi giữa thầy và trò. Nhưng ngay cả ở Sorbonne, cũng vẫn còn cái cảnh ông thầy ngồi trên giảng đường, thao thao bất tuyệt, đám sinh viên ngồi dưới hí hoáy biên chép như các cụ đồ ngày xưa dạy học

Nền giáo dục Việt nam thời đó hoàn toàn miễn phí, từ mẫu giáo đến đại học. Trong một nước chiến tranh, thực hiện một nền giáo dục hoàn toàn miễn phí là một cố gắng đáng kể. Người ta có thể chê trách chế độ rất nhiều điểm, nhưng đó là một điểm son phải ghi nhận. Điểm son đó là nhờ ý thức của những người có trách nhiệm, hay nhờ truyền thống tôn trọng học vấn của 1 xã hội Khổng giáo ? Khổng giáo, ít nhất trên phương diện đó, có khía cạnh tích cực với xã hội VN. Điều chắc chắn : nếu không có nền giáo dục hoàn toàn miễn phí, hầu hết chúng tôi đã bỏ học từ lâu.


Một câu hỏi luẩn quẩn trong đầu tôi từ nhiều năm : một trường Văn khoa đóng vai trò gì trong một nước chiến tranh ? Chữ nghĩa ích gì cho buổi ấy ? (Nguyễn Khuyến). Bên cạnh bom nổ, thịt rơi, cái sống cái chết gần kề, có phi lý không khi ngồi đó mổ xẻ Tứ thư ngũ kinh, phân tích tư tưởng Socrate, tìm hiểu nguồn gốc chữ nôm. Bên cạnh cái nghèo đói của một xã hội lạc hậu, có vô nghĩa không khi ngồi đó tụng niệm kinh điển bách gia, rung động với Lord Byron hay Beaudelaire ? Sartre nói bên cạnh một đứa trẻ chết đói, cuốn La Nausée không có một giá trị gì.

Câu hỏi ấy lởn vởn trong đầu, rất nhiều năm, và tôi đã thực sự nhiều lúc hoài nghi, không tìm được câu trả lời.

Câu trả lời, mãi sau này tôi mới tìm ra. Câu trả lời tên là Céline, một cô bạn Pháp. Một buổi chiều thứ bẩy, tôi lên phi trường đón Céline từ Sarajevo về. Céline là một thiếu nữ thông minh, có bằng cấp, có chỗ làm tốt trong một công ty lớn, sống nhàn hạ trong cái xã hội hưởng thụ là cái xã hội Pháp. Weekend bay qua Madrid hay Marakech. Mùa đông trượt tuyết ở Courchevel, mùa hè nghỉ mát ở Bali hay Bora Bora. Tóm lại, cô nàng có đủ thứ để hạnh phúc. Nhưng thay vì hạnh phúc, Céline lúc nào cũng tất tả ngược xuôi, mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần ; nhất là tinh thần. Rồi thuốc ngủ, thuốc an thần, hết Lexomil đến Prozac.

Một buổi, Céline dẹp hết, bỏ việc, bán nhà, bán xe. Và biệt tăm. Adieu Céline. Cho đến cái hôm ở phi trương, tôi gặp lặi Céline, nhưng một Céline khác, má rất hồng và miệng rất tươi. Céline nói sau khi vứt bỏ mọi chuyện, cô nàng gia nhập một ban hợp tấu, lưu diễn khắp nơi. Céline là một tay violon thiện nghệ, từ nhỏ vẫn mơ thành nhạc sĩ. Céline lãnh một số lưng tượng trưng, đủ cà- phê, thuốc lá, vì ban nhạc thường đi trình diễn ở những nước nghèo. Họ vừa ở Sarajevo về. Trình diễn hoà tấu ở Sarajevo, nơi người ta giết nhau như ngoé, nơi người ta thí mạng để cướp một ổ bánh mì, một cái mền ? Ở đó, người ta chờ bột mì, thịt cá, đường muối, bột giặt, aspirine, ai chờ Beethoven với Mozazt ? Ban đầu, Céline cũng nghĩ như vậy. Nhưng đêm trình diễn nào cũng đông nghẹt.

Trong một ngôi nhà thờ đổ nát, một trường học còn đang cháy dở, mưa dột vì mái nhà bị pháo kích loang lổ, người ta chen lấn nhau tới nghe nhạc. Ban ngày, người ta chạy bom, dành giựt nhau miếng ăn, một mớ củi để sưởi. Đêm xuống, người ta kéo nhau đi nghe nhạc. Đàn bà lục hành lý, lôi ra những nữ trang, những bộ quần áo đẹp. Có ông thắt cà vạt chỉnh tề. Có bà vừa nghe nhạc vừa lặng lẽ khóc. Céline vừa chơi nhạc vừa cầm nước mắt. Cô nàng vừa tìm thấy hạnh phúc. Chưa bao giờ cô nàng thấy yêu đời như vậy, yêu mình như vậy. Lần đầu tiên, Céline thấy mình có ích. Cô ta tìm thấy hạnh phúc của mình trong cái hạnh phúc của người khác. Y chang tâm trạng của lớp người trẻ chúng tôi ngày xưa khi đi cứu lụt, đào giếng.

Céline nói có thấy tận mắt cái cảnh người ta lấy tờ báo che mưa nghe nhạc trong một ngôi nhà đổ nát, mới thấm thía cái câu quen thuộc của người Pháp : On ne vit pas que du pain. Người ta không phải chỉ sống bằng bánh mì. Ngay cả trong những lúc khốn cùng, cái đẹp, cái thẩm mỹ không phải là một xa xỉ, vô ích. Cái đẹp sẽ cứu nhân loại, không phải Marx hay Lénine, không phải Ben Laden hay Bush.

Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. Người ta đã từng giết nhau, hành hạ nhau, bỏ tù nhau nhân danh thượng đế , nhân danh chính nghĩa, nhân danh giáo điều, nhân danh đất nước, nhân danh đồng bào, nhân danh chân lý. Chưa bao người ta giết nhau nhân danh cái đẹp. Người ta giết nhau vì thánh kinh, vì Coran, vì Hitler, vì Mao, vì Mác, chưa bao giờ người ta giết nhau nhau vì Picasso, Beaudelaire, Nguyễn Du. Sau này, khi giận hờn sẽ quên, những gì người ta nhớ lại về TCS là những bát hát, những câu thơ đẹp.

Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. Cái đẹp không phải chỉ là những tác phẩm văn hóa. Cái đẹp còn là, cũng là, nhất là tình người, một xã hội của những người tử tế, lương thiện. Đem cái dối trá, đểu cáng, bất nhân làm tiêu chuẩn cho đời sống là cách hữu hiệu nhất để làm tiêu vong dân tộc. Biến tác giả của ‘tôi khờ dại quá, ngây thơ lắm. Chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì’, của ‘ít nhiều thiếu nữ buồn không nói, tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì ’, thành một người gào thét, căm hờn lôi cổ bọn chúng ra đây, là một thành quả ghê rợn nhất của công cuộc huỷ diệt cái đẹp.

Ismail Kadaré nói ngay cả trong những lúc cực kỳ khó khăn vẫn phải có thái độ nghiêm trọng đối với văn hoá. Kadaré sinh ra, lớn lên và viết văn trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, ở một nước Cộng sản độc tài bực nhất thế giới : Albanie. Kadaré viết văn trong một xứ kiểm duyệt khắt khe, một nước vỏn vẹn ba triệu dân, nghèo đói, người mù chữ đông hơn người biết đọc, biết viết. Và viết bằng tiếng Albanie. Mặc dầu vậy, ông viết văn với một thái độ cẩn trọng. Ngày nay, Kadaré được coi là một trong những nhà văn quan trọng nhất thế giới.

Nghệ thuật, cái đẹp có công dụng gì ? Chẳng có công dụng gì. Nhưng đời sống không có cái đẹp sẽ buồn tẻ biết bao nhiêu. Bức tượng của Michel Ange, bức tranh của Van Gogh không có công dụng gì, nhưng hãy tưởng tượng một thế giới không có Michel Ange, Van Gogh. Hãy tưởng tượng Paris không có tháp Eiffel, New-York không Nữ thần Tự do.

Nghe cô nàng Céline kể chuyện về những buổi trình tấu ở Sarajevo, tôi hiểu rằng trong một xứ chiến tranh, nghèo đói, một trường Văn khoa chẳng có ích lợi thiết thực gì, nhưng nó là cái cốt yếu cho một dân tộc còn muốn vươn lên .



ĐỜI SAO IM VẮNG



Tôi gặp lại TCS những ngày cuối cùng của năm 1999, khi về thăm Việt nam. Sơn ngồi trước một cái bàn nhỏ, trong sân Hội Văn nghệ sĩ gì đó ở Sai gòn. Vẫn nụ cười hiền lành, nhưng buồn bã, vẫn thái độ từ tốn, phong nhã,vẫn đôi kính đồi mồi nhưng trước mắt tôi là một TCS lục tuần bịnh hoạn, mệt mỏi, mặc dầu đôi mắt vẫn sáng lên khi nghe đến tin bè bạn. Sơn hỏi thăm tin tức về người này ở bên Tây, người kia ở bên Mỹ. Sơn nói về những người ở lại, kẻ mất, người còn.

Bơi trong cái áo sơ mi rộng thùng thình, Sơn nói :mình chỉ còn 39 kí. Sơn nói rượu đã tàn phá lá gan đến độ không có thuốc gì chữa nổi. Có người sẵn sàng đưa anh đi ngoại quốc giải phẫu gan nhưng anh từ chối. Sơn nói anh rất mệt, nhiều khi xây xẩm mặt mày vì bịnh áp huyết thấp (hypotension).

Vừa nói chuyện, Sơn vừa chào hỏi của những người qua lại. Vị nhạc sĩ lão thành, tác giả bài Dư Âm nổi tiéng hồi nào ở Hà nội (đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn mơ bao tiếng tơ…) kể chuyện đi thăm bác sĩ, chuyện thuốc men. Nhạc sĩ Trần Tiến nói về đêm ca nhạc thành công tuần trước. Ông Vũ Hạnh chạy qua chạy lại hối bài cho một đặc san kỷ niệm ‘cuộc chiến chống Mỹ cứu nước’.

Sơn ngồi đó, mỉm cười hiền lành, buồn bã. Tôi hỏi Sơn có tính đi ngoại quốc chơi một chuyến, nhân tiện chữa bệnh, dù tôi biết Sơn đang sống những ngày tháng cuối cùng. Nếu người nghiện rượu tiếp tục uống, dù có thuốc thánh, dù có gỉai phẫu gan cũng không thay đổi gì. Sơn không muốn nghỉ rượu, hay không nghỉ được. Sơn nói mình uống ít hơn trước nhiều. Sơn mỉm cười : mình sang đó, sợ các ông ấy đập mình. Rồi tiếp : sự thực thì ở bên Pháp không có vấn đề gì, bên Pháp ít có người quá khích ; kỳ trước mình qua Pháp, anh em đãi ngộ rất tử tế.

Sơn tiếp : nói cho đúng, mình mệt lắm, có muốn cũng không đi được. Sơn nói, từ tốn, không lộ một chút xúc động. Anh đang ở một cõi khác, những cái lăng nhăng ở cuộc đời này không liên hệ gì đến anh nữa. Nghe tôi sắp đi Nhật, Sơn nói đến một cô sinh viên Nhật Bản làm một luận án về nhạc của Sơn, về ngôn ngữ và chiến tranh trong nhạc TCS.

Khi tôi ra về, Sơn đưa cho tôi số điện thoại ở nhà riêng : « ráng đến chơi, mình có chuyện muốn nói. Thằng em mình, biết cậu về, chắc nó mừng lắm ». Em Sơn ngày xưa cũng la cà ở quán Văn.

Tôi nghĩ Sơn muốn nói những gì không thể nói được ở một nơi có nhiều người qua lại. Tôi ân hận vì không có thì giờ tới nhà Sơn như đã hứa, vì phải rời Việt nam ngày hôm sau. Tôi rời Sai gòn ngày mùng 1 tháng giêng năm 2000. Thế giới đang bước sang một thế kỷ mới. Tôi gọi điện thoại chào Sơn. Anh hỏi : cậu đi ngày đầu năm 2000, không sợ ‘’ sự cố ‘’ à ? . Tôi nói sự cố nó sợ tôi chứ tôi sợ gì nó. Hồi ấy, ở Sai gòn, người ta kỵ đi máy bay ngày đầu năm 2000. Sơn nói, gịong buồn : nếu gặp lại X,Y cho mình gởi lời hỏi thăm ; chắc mình không có dịp gặp lại anh em nữa. Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè. Ngựa hồng đã mỏi gối chết trên đồi quê hương.

Mỗi lần nghe nhạc TCS, tôi nghĩ đến cái cô đơn cùng tận của người nhạc sĩ ngồi trước cái bàn nhỏ ngoài sân, mỉm cười với người này người kia, nhưng đầu óc ở một nơi khác. Sơn ngồi đó, cô độc. Một mình tôi về với tôi. Đem cái cô đơn của kiếp người nhân lên gấp 10, bạn có cái cô đơn của người nghệ sĩ, nhân lên trăm lần có cái cô đơn của người nghệ sĩ Việt nam, nhân lên ngàn lần có cái cô đơn của TCS. Cái cô đơn của một người suốt đời ca ngợi tình yêu, tình đồng bào – ngày mai sỏi đá cũng cần có nhau-mà cuối cùng bị chỉ trích từ mọi phía. Sơn ngồi đó, nâng niu cô đơn từng ngày. Cuộc đời còn nhiều đắng cay. Sơn ngồi đó, một mình, giữa nhiều người

Đời sao im vắng
Như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang
Người về soi bóng mình
giữa tường trắng lạnh câm


Cái sân chỗ Sơn ngồi đông người qua lại, và ngoài đường xe hơi, xe gắn máy chạy loạn xà ngầu, nhưng Sơn ngồi đó, giữa tường trắng lạnh câm.


ANH ĐÃ ĐẾN, ĐÃ VUI CHƠI…



Sơn ra đi ngày 1 tháng tư 2001, hưởng thọ 62 tuổi. Sáu mươi hai tuổi , đời người như gió qua. Ở bên Pháp, ngày 1 tháng tư là ngày ‘ cá tháng Tư ,(poissons d’Avril), ngày người ta đùa nhau bằng những chuyện hoàn toàn bịa đặt. Báo cho một ông nhà văn hạng bét là ông ta vừa chiếm giải Goncourt. Thú với cô fiancée là đã có vợ với ba con, rồi sau đó cho hay đó chỉ là những cá tháng Tư, những chuyện đùa chơi.

TCS ra đi thật hay chỉ thả một một con cá tháng Tư ?

Sơn đã đến, đã vui chơi trong cuộc đời này. Bây giờ có lẽ anh đang bay cao trong bầu trời này. Nhưng, nhiều lúc, tôi tự hỏi có quả thật anh đã vui chơi trong cuộc đời này. Có bao nhiêu người Việt nam đã thực sư vui chơi trong cuộc đời này ?



(1)Tư tưởng Phương Đông / Cao Xuân Huy.- Nhà xuất bản Văn Học. Hanoi, 1995

(2)Trịnh Cung, Phan Thanh Tâm. Thế kỷ 21, May 2001

(3)Đất Mới. Saigon, 1966

Thứ Bảy, 12 tháng 12, 2015

Bài hát ru con mẹ dễ hát, con dễ ngủ




Để trẻ đi vào giấc ngủ một cách đơn giản và có giấc ngủ sâu, các bà mẹ cần ghi nhớ những khúc hát ru sau.

Những câu hát ru nhẹ nhàng, êm ái, trữ tình không chỉ giúp con ngủ say giấc mà còn là sợi dây gắn kết tình mẫu tử thiêng liêng. Con nghe hơi ấm, giọng hát ngọt ngào của mẹ sẽ từ từ đi vào giấc ngủ say.Ngoài ra, theo các nhà khoa học, hát ru con ngủ cũng là cách để mẹ kích thích trí tuệ, thể chất giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, tâm sinh lý và phản xạ vận động cao hơn những trẻ không được mẹ hát ru.

Dưới đây là tổng hợp những bát hát ru hay nhất ba miền giúp mẹ nâng niu, vỗ về giấc ngủ con một cách trọn vẹn.



Mẹ ru con​

1. Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Con ơi muốn nên thân người
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ, cù lao chín chữ ghi lòng con ơi

2. Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân
Nụ tâm xuân nở hoa xanh biếc
Em đi lấy chồng, anh tiếc lắm thay
Ba đồng một miếng trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng, biết thở nào ra…


3. À ơi
Con cò mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
À ơi
Ông ơi, ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
À ơi
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục Đau lòng cò con

4. Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Cò về thăm quán cùng quê
Thăm cha thăm mẹ cò về thăm anh.

5. Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng, Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng, Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng, Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi
Bờm rằng, Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười

6. Chú Cuội ngồi gốc cây đa,
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên

7. Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày dẵm lúa nhà ông hỡi cò
không không, tôi đứng trên bờ
Mẹ con cái diệc đổ thừa cho tôi
à ơi..


8. Con cò, cò bay lả, lả, bay la
Bay từ từ cửa phủ,
Bay ra, ra cánh đồng
Tình tính tang, là tang tính tình
Duyên tình rằng, ấy duyên tình ơi,
Rằng có nhớ, nhớ hay chăng?
Rằng có biết biết hay chăng


9. Cài cò là cái cò kỳ
Ăn cơm nhà dì, uống nước (á) nhà cô
Đêm về nó ngày ô ô
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ (à) cơm


10. Cái cò là cái cò ca
Bắt về làm thịt lấy ra ba phần
Miếng lạc thời để phần chồng
Miếng xương mẹ gặm, miếng lòng phần con

11. Nhớ ai, em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ bây giờ nhớ ai.

12. Chàng ơi xin chớ lo phiền
Tóc xe trăm ngọn em liền gỡ xong
Rối tơ em gỡ còn suôn
Rối đầu có lược, rối lòng có em

13. Yêu nhau chả lấy được nhau
Con lợn bỏ đói buồng cau bỏ già
Bao giờ sum họp một nhà
Con lợn lại béo cau già lại ngon



Mẹ ru con trưa hè​

14. Ru em cho thét cho muồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi Chợ Quán Chợ Cầu
Mua cau Nam Phổ, mua trầu Chợ Dinh
Chợ Dinh bán áo con trai
Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim


15. À a à ơi.
Trưa hè bên chiếc võng đưa.
Mẹ ru con ngủ ơ, ơ giữa trưa bóng tròn. À a à ơi .
Đức mẹ nặng nê là con nhớ công cha, là công cha đức mẹ .

16. À ơi…
Mạ ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà mạ đâu
À ơi…
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều

17. Công cha, đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải, con phải biết thờ (chứ) hai thân

18. Trưa hè bên chiếu võng đưa
Mẹ ru con ngủ, mẹ ru con ngủ giữa trưa nắng vàng
Chim trời ai dễ đếm lông
Nuôi con ai nỡ, nuôi con ai nỡ (mà) kể công tháng ngày


19. Làm trai đứng ở trên đời
Sao cho xứng đáng, sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta
Ghi vai gánh vác sơn hà
Sao cho tỏ mặt, sao cho tỏ mặt mới là trượng phu.

20. Con ơi con ngủ cho ngoan
Để mẹ xúc nốt, để mẹ xúc nốt bồ than cho đầy
Ngủ đi con nhé con ơi
Mai sau con lớn, mai sau con lớn thành người trò ngoan

21. Ai về nhắn với bạn nguồn
Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên
Chuột kêu chút chít trong rương
Anh đi cho khéo cái đụng giường mẹ la
Khi xa thì chỗ ngõ cũng xa
Khi gần Vĩnh Điện, khi gần Vĩnh Điện, La Qua cũng gần


22. Cây khô chưa dễ mọc chồi
Bác mẹ chưa dễ ở đời với ta
Non sông bao tuổi mà già
Bởi vì sương tuyết, bởi vì sương tuyết hoá ra bạc đầu

23. Mang nặng đẻ đau cưu mang chín tháng
Nghĩa mẹ tày trời sông cạn(?) nuôi con
Đói cơm rách áo, ruột mẹ héo hon
Khi con no ấm, lòng mẹ vẫn chưa trọn (mà) thảnh thơi

24. Ngậm đắng nuốt cay thương thay lòng mẹ
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo (chứ) con lăn
Con ăn con ngủ thì mẹ đỡ băn khoăn
Khi con trở trời hơi gió, mẹ chẳng an tâm chút nào


25. Non nào cao (chứ) bằng non Sơn Thái
Nghĩa nào nặng bằng nghĩa cha con
Ví dù cách trở nước non
Ví dù cách mặt, (chứ) lòng mẹ vẫn còn thương mà nhớ thương

26. Khôn ngoan nhờ ấm cha ông
Làm nên phải nhớ tổ tông ông bà
(Chứ) đạo làm con chớ hững hờ
Phải đem hiếu kính, phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm

27. Ăn chi ngon bằng cơm với cá
Ai thương bằng tình mẹ thương con
Bao giờ cá lý hoá long
Đền ơn cha mẹ, đền ơn cha mẹ ẵm bồng (chứ) ngày xưa



Ru con nam Bộ​

28. Gió mùa thu.. mẹ ru mà con ngủ..
Năm canh chày.. năm canh chày.. thức đủ vừa năm..
Hỡi chàng chàng ơi.. hỡi người người ơi..
Em nhớ tới chàng.. em nhớ tới chàng..

29. Hãy nín nín đi con
Hãy ngủ ngủ đi con
Con hời mà con hỡi.. con hỡi con hời..
Con hỡi con hời.. con hỡi con..

30. Đến mùa xuân.. trong cơn mà gió thắm..
Cha con về.. là cha con về.. con nắm tay cha..
Hỡi người người ơi.. hỡi chàng chàng ơi..
Em nhớ tới chàng.. em nhớ tới chàng..


31. Hãy nín nín đi con
Hãy ngủ ngủ đi con
Con hời con hỡi.. con hỡi con hời..
Con hỡi con hời.. con hỡi con.


32. Chí làm trai.. say mê mà giữ nước..
Em nỡ dạ nào.. em nỡ dạ nào.. trách mối tình ai..
Hỡi chàng chàng ơi.. hỡi người người ơi..
Em nhớ tới chàng.. em nhớ tới chàng..


33. Ầu ơ,…
Em tôi khát sữa bú tay
Ai cho bú thép ngày rày mang ơn
Ầu ơ,…
Mẹ ơi đừng đánh con đau
Để con bắt cá hái rau mẹ dùng.
Ầu ơ,…
Má ơi đừng đánh con đau
Để con hát bội làm đào má coi.
Ầu ơ,…
Mẹ ơi chớ đánh con hoài
Để con bắt ốc hái xoài mẹ ăn.
Ầu ơ,…
Ví dầu cá bống đánh đu
Tôm càng hát bội, cá thu cầm chầu.
Ầu ơ,…
Ví dầu ví dẩu ví dâu
Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng.
Ầu ơ…
Ví dầu cầu ván đóng đinh…
Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi…
Ầu ơ…
Khó đi mẹ dắt con đi…
Con đi trường học, mẹ đi trường đời.

34. Gió đưa bụi chuối sau hè…
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ…
Ầu ơ… Con thơ tay ẵm tay bồng…
Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông.

35. Ầu ơ… Nhạn về biển Bắc nhạn ôi…
Bao thuở nhạn hồi kẻo én đợi trông.
Ầu ơ… Ví dầu tình bậu muốn thôi…
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra.


36. Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo ghập ghềnh khó đi
Khó đi mượn chén ăn cơm
Mượn ly uống rượu, mượn đờn kéo chơi
Kéo chơi ba tiếng đờn cò
Đứt dây đứt nhợ quên hò sự sang
Ví dầu thiếp chẳng yêu chàng
Xin đưa thiếp xuống đò ngang thiếp về


37. Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về anh học chữ nhu
Ba thu em cũng đời ngàn năm em cũng chờ...

38. Còn cha gót đỏ như son
Đến khi cha mất gót con đen xì

39. Còn cha còn mẹ thì thơm
Không cha kh6ong mẹ như đờn đứt dây
Đờn đứt dây còn xoay còn nối
Con mất cha mẹ rồi con phải mồ côi.



Mẹ ru con​

40. Con kiếm mà leo cành đa
leo phải cành cộc leo ra leo vào
con kiến mà leo cành đào
leo phải cành cộc leo vào leo ra


41. Cái cò là cái cò Quăm
mày hay đánh vợ đêm nằm với ai?????
có đánh thì đánh sớm mai
đừng đánh chập tối chẳng ai cho nằm


42. Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày dẵm lúa nhà ông hỡi cò
không không, tôi đứng trên bờ
Mẹ con cái diệc đổ thừa cho tôi
à ơi..


43. Cái Bống là cái bồng bang
Mẹ Bống yêu Bống, Bống càng làm thơ
Mẹ Bống yêu Bống bao giờ
Để cho cái Bống làm thơ cả ngày
Cái Bống là cái Bống bình
Thổi cơm gánh nước, 1 mình Bống ơi
Khách vào khách hãy ngồi chơi
Để tôi đi chợ mua vôi ăn trầu
Hàng trầu đã hết từ lâu
Hàng vôi còn đợi, bắc cầu mới sang

44. Đố ai ngồi võng không đưa
Ru con không hát đò đưa không trèo
Đố ai đốt cháy ao bèo
Để anh gính đá Đông Triều về ngâm
Bao giờ cho đá nảy mầm
Sung kia nảy nụ cho hành ra hoa
Bao giờ trạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình
Bao giờ dâu biếc dựng đình
Lim kia làm kén thì mình lấy ta
À á à ơi, à á à ơi...


45. Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Cò về đến gốc cây đề
Thằng tây nó bắn cò què một chân
Sớm mai đi chợ Đồng Xuân
Chú lính mới hỏi sao chân cò què
Cò rằng cò đậu ngọn tre
Thằng tây nó bắn mới què một (á à) chân

46. Cài cò là cái cò kỳ
Ăn cơm nhà dì, uống nước (á) nhà cô
Đêm về nó ngày ô ô
Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà
Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ (à) cơm
Cái cò là cái cò ca
Bắt về làm thịt lấy ra ba phần
Miếng lạc thời để phần chồng
Miếng xương mẹ gặm, miếng lòng phần con

47. Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Ông ơi cho tôi mượn cái khau sòng
Để tôi tát nước vớt chồng tôi lên

48. Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông xáo với măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

49. Chàng ơi xin chớ lo phiền
tóc xe trăm ngọn em liền gỡ xong
Rối tơ em gỡ còn suôn
Rối đầu có lược, rối lòng có em

50. Yêu nhau chả lấy được nhau
Con lợn bỏ đói buồng cau bỏ già
Bao giờ sum họp một nhà
Con lợn lại béo cau già lại ngon

51. Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa xoan
Em được thì cho anh xin
hay là em để làm tin trong nhà
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Áo anh sứt chỉ đã lâu
mai mượn cô ấy về khâu cho cùng
Khâu rồi anh sẽ trả công
Đến lúc lấy chồng anh lại giúp cho
Giúp cho một thúng xôi vò
Một con lợn béo, một vò r*** tăm
Giúp cho đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp, đôi chằm em đeo
Giúp cho quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau

52. Con tôi buồn ngủ buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp cháo kê thịt gà
Nhà còn có một quả cà
Làm sao đủ miếng cơm và cho con
Con tôi khóc héo khóc hon
Khóc đòi quả thị méo trôn đầu mùa
Con thèm phẩm oản trên chùa
Thèm quả chuối ngự tiến vua của làng
Con thèm gạo cốm Làng Ngang
Con thèm ăn quả dưa gang Làng Quài
Con thèm cá mát canh khoai
Con thèm xơ mít, thèm tai quả hồng
Con thèm đuôi cá vây bông
Thèm râu tôm rảo, thèm lòng bí đao


53. À ơi ...
Em tôi buồn ngủ, buồn nghê
Buồn ăn cơm nếp, cháo kê, thịt gà
Buồn ăn bánh đúc, bánh đa
Củ từ, khoai nướng cùng là cháo kê
À ơi ...
Em tôi buồn ngủ, buồn nghê
Con tằm đã chín, con dê đã mùi
Con tằm đã chín thì để lại nuôi
Con dê đã mùi thì để em ăn.



Mẹ ru con ngủ giấc nồng​

54. Chiều chiều ra đứng Tây lầu tây
Tây lầu Tây, thấy cô tang tình gánh nước
Tưới cây tưới cây ngô đồng
Xui ai xui trong lòng, trong lòng tôi thương
Thương cô tưới cây ngô đồng
Chiều chiều ra ngóng nơi chân trời xa
Xa chân trời xa, thấy chim đàn chim Ô Thước
Tung cánh bay về phía Ngân Hà
Chim đắp bao nhịp cầu trên dòng sông sâu
Thương cho số kiếp vợ chồng Ngâu
Chiều chiều ra đứng bên dòng sông
Sông dòng sông, thấy ai tang tình khuấy nước
Đẩy đưa đẩy đưa con đò
Thương ơi thương con đò, con đò sang sông
Mênh mang nước trôi xuôi dòng

55. Chiều chiều ra đừng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai


56. Ví dầu ví dẩu ví dâu
Ví qua ví lại ví trâu vô rừng
Vô rừng bứt một sợi mây
Đem về thắt võng cho nàng đi buôn
Đi buôn không lỗ thì lời
Mua 3 lạng thịt để dành cho em ăn..


57. Ru em em ngủ cho ngoan
Để mẹ đi chặt cây chuối trên nương xa
Em ngủ đừng khóc nữa
Ngoài đồng xa cha đang đi kiếm măng non
nín đi hỡi em ơi
Nơi xa mẹ nhặt được nhiều ngọn rau non
đừng khóc nữa hời em ơi ..

Chủ Nhật, 18 tháng 10, 2015

Bài ca mẹ ru

Một chiều tháng bảy, nhìn qua khung cửa sổ những giọt mưa thu lất phất nhẹ nhàng bay trên nền trời xám nhạt, tôi bỗng nhớ những lời Mẹ hát ru tôi da diết.
" Ngoài hiên
giọt mưa Thu
thánh thót rơi
Đường vắng
u sầu
mây hắt hiu ngừng trôi..."
Và lại nhớ bài ru của mẹ
" Hai mươi tháng bảy ngày nay
Hồn anh nát dưới cỏ cây núi rừng
Bước đi lòng vẫn ngập ngừng
Thương em nước mắt rưng rưng hai hàng
Trời ơi ai thấu nỗi oan
Của người chiến sĩ trung cang môt lòng
Không a dua cũng chẳng a tòng
Thấy sao nói vậy mích lòng mặc ai..."
Bài hát ru này chị em tôi đều thuộc. Lớn lên mẹ kể, đó là bài thơ Ba viết cho mẹ tôi khi ông quyết định tự vẫn để giữ vẹn khí tiết. Năm 1949, Ba tôi là chánh văn phòng Ty công an Tây ninh và ông đã bị vu oan làm gián điệp cho Pháp. Ba bị chính những người đồng đội của mình bắt giam , tra tấn cực hình. Căn bệnh Suyễn triền miên của ba đã có từ đó. Cũng may, Ba tự vẫn không thành. Xứ ủy Nam kỳ đã kịp thời ngăn chặn " hành quyết thanh trừng". Ba may mắn trong số 13 cán bộ còn lại và được giải oan.
" Không a dua cũng chẳng a tòng
Thấy sao nói vậy mích lòng mặc ai "
Hai câu thơ ấy đã đi vào giấc ngủ trẻ thơ của anh em chúng tôi và chừng như góp phần tạo nên tính cách của anh em tôi.
Buổi chiều đó, tôi đã viết bài thơ này
" Gió mùa Thu
Mẹ ru con ngủ
Thời gian nào có đủ
Cho giấc ngủ Mẹ ru
Chiều nay nghe giọt mưa Thu
Con gió à ơi...mẹ ru con ngủ
Con ơi...con ngủ cho ngoan
Ngày mai theo mẹ vào tù thăm ba...
Hai mươi tháng bảy ngày xưa
Lá thư ba viết còn chưa phai màu
" Trời ơi ai thấu nỗi oan
Của người chiến sĩ trung cang môt lòng
Không a dua cũng chẳng a tòng
Tấy sao nói vậy mích lòng mặc ai..."
Chiều nay nghe giọt mưa Thu
Nhớ sao cho nhớ lời ru mẹ hiền
Mẹ tôi năm tháng triền miên
Chắt chiu hạt gạo đồng tiền nuôi con
Cả đời quên cả phấn son
Nắng mưa tô điểm má hồng mẹ yêu.
Chiều nay ngọn gió liêu xiêu
\Giọt mưa Thu đến lắm điều xót xa
Nhớ sao nhớ một bài ca
Mẹ ru con ngủ đợi Ba con về...
Và tôi phổ nhạc, định có dịp sẽ hát cho mẹ tôi nghe. Nhưng rồi, vào một ngày đầu Xuân mẹ đã ra đi...Tôi đã không còn có thể hát cho mẹ tôi nghe.





Chủ Nhật, 4 tháng 10, 2015

Dòng sông yên bình


DÒNG SÔNG DÒNG ĐỜI

Bình yên nào của em tôi
sao đầy vơi nước mắt mặn môi
mảnh tim buồn của tôi ơi
dòng sông dòng đời bao giờ về với biển khơi

Trắng đêm uống cạn lệ tình
rơi trên vũng ngực cho mình xa nhau
xót chi giấc mộng vô thường
sông không về biển nỗi buồn quẫn quanh

Ngựa hoang một thời rong ruổi
chợ tình hằn những vết roi
bỏ thân một lần dâng hiến
trở về củng với thảo nguyên

Bình yên nào sẽ đến với em
hoa cúc xưa có nở bên thềm
dòng sông còn nhận chìm con sóng


khát khao tràn ánh mắt hồ thu

Thứ Hai, 24 tháng 8, 2015

Cuộc tình ảo mộng



CUỘC TÌNH ẢO MỘNG
Em trao tôi một cuộc tình ảo mộng
nhận hay không
tôi cũng xót xa lòng
Đêm mỏi mòn giữa quên và nhớ
trăng vẫn vô tình đổ bóng gầy hao
sương thấm lạnh tiếng côn trùng rên siết
bỡ ngỡ mơ... bỡ ngỡ rả rời
Nửa cuộc đời trái tim còn lầm lỗi
sống và yêu
sao không đến kiệt cùng
trăng đã già rụng ánh phù du
tình yêu em chỉ còn là khoảng lặng bình an
Sóng hoang vắng vỗ bờ lạc loài
nơi êm đềm em có thức hay không?
trăng rúc mình treo nghiêng vào hạ
nỗi nhớ nào như cơn gió lạ bay qua
Tôi ngoảnh mặt bước vào ký ức
nhặt lá thu phai trả nợ đa đoan

Thứ Ba, 16 tháng 6, 2015

ĐƯỜNG ĐẾN ANH EM. ĐƯỜNG ĐẾN BẠN BÈ...








 
 Duyên. Nét vẽ Đinh Cường




Có những con đường thật đẹp, tôi qua...
Đường đến anh em.
đường đến bạn bè*
Hoa ven đường, nắng long lanh. mắt.
Tim rộn ràng, gió đỡ bước chân. vui.
Lòng rộn rã, mong đường dài ngắn lại,
đưa tôi tìm về khuôn mặt cũ. mới. thân quen...
Và như thế, tôi thấy yêu cuộc đời,
bằng trái tim hồn nhiên


Đường đến anh em,
đường đến bạn bè*
Những con đường, không thể đổi tên.
đã khắc ghi trong tim của từng người,
có tôi và có bạn,
có anh chị, có em
Làm sao xoá được một điều gì,
đã giữ trong trái tim?
Thế nên,
tên đường, sẽ luôn là vĩnh cửu...


Trên đường đời có vạn lối đi...
Có gian nan, có nguy nàn,
Chúa. Phật. thử thách ta.
Có chông gai, có cạm bẫy,
của loài người?
Có thật thà, có an vui,
do lòng mình lựa chọn...


Và có con đường,
không đổi tên...


Xin mãi là anh em, xin mãi, bạn bè.
hoa mãi nở, trên ven đường, tôi đến...
cho tôi, không bao giờ, lạc mất lối đi. quen...


Duyên.


* Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, lời nhạc Trịnh Công Sơn.

Thứ Năm, 9 tháng 4, 2015

NHƯ...








Như là một giấc mơ
Đi theo mùa lá rụng
Tỉnh ra còn lúng phúng
Lắt lay vài cọng đời

Như cánh buồm tả tơi
Ra khơi ngày biển động
Lao mình vào khát vọng
Đắm chìm trong đơn côi

Như cuộc tình nóng vội
Mây mưa vả mồ hôi
Tàn phai chưa kịp hỏi
Lời thú tội nhân đôi

Như gió về nông nổi
Nắng chết một ngày tàn
Hương trầm thơm nén nhang
Loang trên chiều vô hạn

Như cuối đường bước cạn
Hun hút vùng tối sâu
Văng vẳng tiếng kinh cầu
Em bây giờ nơi đâu?

Thứ Tư, 4 tháng 3, 2015

NGHE ĐẤT




Nghe Đất,
thơ Mai Thảo
Trầm Tử Thiêng phổ nhạc
Khánh Ly hát



Nằm đây dưới bóng cây xanh
Nhìn qua lá biếc lại xanh sắc trời
Mát thơm đất trải bên người
Nghe trong ẩm lạnh da người cũng thơm

Đất lên hương, thấm qua hồn
Nghe Vui thoáng đến với Buồn thoáng đi
Giữa giờ trưa nắng uy nghi
Bóng vây vây nhẹ hàng mi cúi đầu

Người nằm nghe đất bao lâu
Tai nương ngợ tiếng đời sau thở dài
Lung linh sóng nắng đan cài
Cõi Trong điệp điệp Cõi Ngoài mang mang

Chợt đâu rụng tiếng phai tàn
Rơi ngưng nửa dáng nắng vàng trôi qua
Linh hồn thiếp giữa triều hoa
Bóng hình thôi đã nhạt nhoà quanh thân.


                            Mai  Thảo
                         

Thứ Sáu, 2 tháng 1, 2015

Anh chỉ sống để chờ em đến




Như Trái Đất chỉ quay để chờ nắng lên
Anh chỉ sống để chờ Em đến.
Giòng Thời Gian muôn kiếp lênh đênh
Ta muôn kiếp vẫn yêu, vẫn mến.
Trên vai Anh, mái tóc hương huyền
Em đã ngả từ ngày có biển.
Như mưa nguồn trở lại Đào Nguyên
Em yêu ơi, như thuyền về bến
Anh chỉ sống để chờ Em đến.

Như từ núi nước suôi về biển
Như trên hoa về những giọt sương
Như Eva trở lại Thiên Đường
Anh chỉ sống để chờ Em đến.

Thưở tinh khôi đất trời vừa hiện
Chim mới ca, suối mới đưa hương
Trong thanh không vừa có thái duơng
Em đã đến. Và Em sẽ đến.

Khi trái đất chỉ quay để chờ nắng lên
Khi loài người còn mãi tình duyên
Thuyền Thời Gian ta mãi lênh đênh
Anh chỉ sống để chờ Em đến.


Khi trái đất ngừng quay
Ngày chẳng còn lên
Đêm thôi xuống, gió không còn thổi
Khi loài người ngừng cuộc tình duyên
Thuyền Thời Gian ta hết lênh đênh
Trong mông mênh chỉ có bình yên
Anh vẫn sống để chờ Em đến.

Anh chỉ sống để chờ Em đến.

Hoàng Hải Thủy.