Hiển thị các bài đăng có nhãn Phật học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phật học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 5 tháng 7, 2022

CHỈ DẪN CHO BẠN TỚI ĐỊA NGỤC

 

Susan Nguyễn
Theo thống kê của tôi, trong 31 cõi giới của Vũ trụ quan Phật giáo cũ, 25 cõi là cõi thần linh, thường được cho là đủ điều kiện để được gọi là “thiên đường”. Trong những cõi giới còn lại, thường thì, chỉ có một cái được nhắc đến là “địa ngục”, hay còn gọi là Niraya trong tiếng Pali (tiếng Ấn Độ cổ) hoặc Naraka trong Phạn ngữ. Naraka là một trong sáu cõi giới của Dục giới.
Hiểu một cách ngắn gọn, sáu cõi giới là sự mô tả những dạng thức tồn tại có điều kiện khác nhau mà các giống loài được tái sinh trong đó. Bản chất sự tồn tại của một cá thể được quyết đinh bởi karma (nghiệp). Một vài cõi giới thì thoải mái hơn những nơi còn lại — thiên đường nghe có vẻ thích hơn là địa ngục — nhưng tất cả đều là dukkha (khổ – một khái niệm quan trọng của Phật giáo), tức là tất cả các cõi giới đều chỉ là cõi tạm và bất toàn.
Mặc dù, một vài thầy giảng Pháp có thể cho bạn biết những cảnh giới này là những nơi có thật, tồn tại ở thể lý, nhiều người khác giải thích những cảnh giới này theo nhiều cách khác bên cạnh cách hiểu theo nghĩa đen. Nó có thể đại diện cho sự chuyển giao trạng thái tâm lý của một người hoặc các loaị hình tính cách. Nó có thể được hiểu như những biểu tượng của một kiểu hình thức phóng chiếu thực tại. Bất kể chúng là gì — thiên đường hay địa ngục hay gì khác nữa — không có nơi chốn nào là vĩnh hằng.
Nguồn gốc của Địa ngục
Một kiểu địa ngục hay thế giới ngầm được gọi là Narak hay Naraka cũng được tìm thấy trong Hindu Giáo, Đạo Sikh, và Đạo Jain. Yama, vị thần cai quản địa ngục của Phật Giáo, cũng xuất hiện lần đầu tiên trong kinh Vệ Đà.
Tuy nhiên, trong những văn tự đầu tiên chỉ mô tả Naraka như một nơi tối tăm và u sầu. Khái niệm về nhiều địa ngục vẫn tồn tại trong suốt thiên niên kỷ thứ 1 TCN, Những địa ngục này có những hình thức tra tấn khác nhau, và việc tái sinh vào cõi ngục nào phụ thuộc vào tội lỗi mà người đó đã phạm phải. Trong thời gian đó, nghiệp chướng của tội lỗi được tiêu tán, và người đó có thể rời đi.
Phật giáo của buổi sơ khai cũng có những lời dạy tương tự về các tầng ngục. Điểm khác biệt lớn nhất là kinh văn Phật giáo sơ khai nhấn mạnh vào việc không có ông thần hay trí thông minh siêu việt nào đưa ra phán xét hoặc chỉ định về nơi linh hồn sẽ tới. Karma, được hiểu là một quy luật thuận tự nhiên, sẽ dẫn đến sự tái sinh phù hợp.
“Địa hình”của cõi ngục
Vài văn bản trong Pali Sutta-pitaka có mô tả Naraka của đạo Phật. Ví dụ, Devaduta Sutta (Majjhima Nikaya 130) có đi vào các chi tiết đáng lưu ý. Nó mô tả một chuỗi tra tấn mà trong đó người ta sẽ trải nghiệm kết quả của chính những nghiệp mình gây ra. Đó là thứ khủng khiếp, kẻ sai trái sẽ bị đâm bởi thanh sắt nóng, xẻ bằng rừu và thiêu trong lửa. Anh ta sẽ phải đi qua một rừng gai và sau đó là một rừng kiếm lá. Miệng của anh ta sẽ bị mở ra để đổ kim loại nóng chảy vào. Nhưng anh ta không thể chết chừng nào những karma (nghiệp chướng) anh ta gây ra chưa hết kiệt.
Về sau, mô tả về các cõi ngục được phát triển thêm nhiều chi tiết hơn. Kinh Mahayana (Phật giáo Đại Thừa) đặt tên cho những tầng địa ngục và hàng trăm tầng ngục phụ. Mặc dù vậy, phần lớn trong Kinh Mahayana, người ta nghe về 8 địa ngục lửa hoặc địa ngục nóng và 8 địa ngục lạnh hoặc địa ngục băng.
Địa ngục băng thì ở trên những tầng ngục nóng. Những tầng ngục băng được mô tả những vùng đồng bằng hay núi non bị đóng băng hoang vắng và mọi người phải ở trần ở đó. Những tầng ngục băng là:
Arbuda (địa ngục đóng băng trong khi da phồng rộp)
Nirarbuda (địa ngục đóng băng trong khi những vết phồng rộp há miệng)
Atata (địa ngục run rẩy)
Hahava (địa ngục run rẩy và rên rỉ)
Huhuva (địa ngục của tiếng răng va lập cập cộng tiếng rên rỉ)
Utpala (ở địa ngục này da bị chuyển thành màu xanh giống như bông sen xanh)
Padma (địa ngục hoa sen nơi da bị nứt nẻ)
Mahapadma (địa ngục hoa sen lớn nơi cơ thể đông cứng đến mức phân rã ra)
Những địa ngục nóng bao gồm những nơi nấu người trong vạc hoặc lò nướng và những ngôi nhà bằng kim loại trắng nóng bắt nhốt người đó lại kèm theo những con quỷ dùng cọc kim loại nóng để đâm vào. Người sẽ bị cắt thành từng mảnh bằng cưa đang cháy và nghiền nát bằng những búa kim loại nóng khổng lồ. Và ngay khi ai đó bị nấu chín kỹ, thiêu cháy, cắt rời hoặc nghiền nát, người đó sẽ lại sống lại và trải qua tất cả những điều đó một lần nữa. Tên gọi thông dụng cho 8 tầng địa ngục nóng ấy là:
Samjiva (cõi ngục của những cuộc tấn công lặp đi lặp lại)
Kalasultra (cõi ngục của những đường kẻ hoặc dây màu đen, là đường chỉ dẫn cho những cái cưa)
Samghata (cõi ngục sẽ bị nghiền nát bởi những vật nóng và khổng lồ)
Raurava (cõi ngục của sự la hét khi chạy vòng quanh nền đất đang cháy)
Maharauvara (cõi ngục la hét khủng khiếp bởi bị thú vật ăn thịt)
Tapana (cõi ngục nóng như thiêu đốt trong khi bị giáo đâm xuyên qua)
Pratapana (cõi ngục nóng như thiêu đốt trong khi bị đinh ba đâm xuyên qua)
Avici (cõi ngục bị nướng trong lò liên tục)
Khi Phật giáo Đại thừa được truyền bá khắp châu Á, địa ngục “truyền thống” đã bị trộn lẫn với các địa ngục của văn hóa dân gian địa phương. Ví dụ, Địa phủ của Trung Quốc là sự kết thành do pha trộn từ nhiều nguồn và được cai quản bởi 10 vị vua Yama.
Xin lưu ý rằng, để nói một cách chính xác Cõi Hung Nô (ma đói) là tách biệt với cõi địa ngục, nhưng bạn sẽ chẳng muốn ở bất kỳ nơi nào trong cả hai nơi hết.
Barbara O’Brien

Thứ Tư, 3 tháng 4, 2019

NHỮNG HIỂU LẦM VỀ ĐẠO PHẬT





Đạo Phật ngày càng suy đồi, tha hoá, “mạt pháp”, nguyên nhân thì nhiều, nhưng đôi khi vì trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp như thực - tức là giáo pháp cội rễ - mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa và nhiều trái. Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chơn chánh, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế gian. Đôi nơi đạo Phật còn bị trộn lẫn với tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng nhân gian nữa... Nhiều lắm, không kể xiết đâu.

Với cái nhìn “chủ quan” của một tu sĩ Theravāda, tôi xin mạo muội liệt kê ra đây những hiểu lầm tai hại và rất phổ biến của Phật giáo trong và ngoài nước để chư vị thức giả cùng thấy rõ như thực:

1- Tôn giáo: Đạo Phật có những sinh hoạt về tôn giáo nhưng đạo Phật không phải là tôn giáo, vì đạo Phật không có một vị thượng đế tối cao hoá sinh muôn loài và có quyền ban thưởng, phạt ác.

2- Tín ngưỡng: Đạo Phật có những sinh hoạt tín ngưỡng nhưng đạo Phật không phải là tín ngưỡng để mọi người đến van vái, cầu xin những ước mơ dung tục của đời thường.

3- Triết học: Đạo Phật có một hệ thống tư tưởng được rút ra từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là “như thực, như thị thuyết” chứ không phải là một bộ môn triết học “chia” rồi “chẻ”, “phán” rồi “đoán” như của Tây phương.

4- Triết luận: Đạo Phật có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ không sử dụng lý trí phân tích, lý luận. Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi từ cái thực cụ thể để hướng dẫn mọi người tu tập, nó không có triết, có luận đâu. Ngay “thiền” mà còn “luận” (thiền luận) là đã đánh mất thiền rồi.

5- Từ thiện xã hội: Đạo Phật có những sinh hoạt từ thiện xã hội nhưng không coi từ thiện xã hội là tất cả, để hy sinh cuộc đời đầu tròn, áo vuông một cách uổng phí. Đạo Phật còn có những sinh hoạt cao cả hơn: Đó là giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, tu tập thiền định và thiền tuệ nữa. Từ thiện xã hội thì ai cũng làm được, thậm chí người ta còn làm tốt hơn cả Phật giáo, ví dụ như Bill Gates. Còn giáo dục, văn hoá, nghệ thuật của đạo Phật là nền tảng Mỹ Học viết hoa (nội hàm các giá trị nhân văn, nhân bản) mà không một tôn giáo, môt chủ nghĩa, một học thuyết nào trên thế gian có thể so sánh được. Và đây mới là sự phụng hiến cao đẹp của đạo Phật cho thế gian. Còn nữa, nếu không có tu tập thiền định và thiền tuệ thì mọi hình thái sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không phải là của đạo Phật đâu!

6- Cực lạc, cực hạnh phúc: Đạo Phật có nói đến hỷ, lạc trong các tầng thiền; có nói đến hạnh phúc siêu thế khi ly thoát tham sân, khổ lạc (dukkha), phiền não của thế gian - chứ không có một nơi chốn cực lạc, cực hạnh phúc được phóng đại như thế.

7- 8 vạn 4 ngàn pháp môn: Đạo Phật có nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp uẩn (dhammakhandha) chứ không nói đến 8 van 4 ngàn pháp môn (dhammadvāra). Uẩn (khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và nghĩa chồng lên, chồng chất, còn có nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như Giới uẩn (nhóm giới), Định uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do từ uẩn (khandha) lại dịch lệch ra môn - cửa (dvāra), pháp môn nên ai cũng tưởng là có 8 vạn 4 ngàn pháp môn, tu theo pháp môn nào cũng được! Ai là người có thể đếm đủ 8 vạn, 4 ngàn cửa pháp này? Còn nữa, xin lưu ý, 8 vạn 4 ngàn chỉ là con số tượng trưng, có nghĩa là nhiều lắm, đếm không kể xiết theo truyền thống tôn giáo và tín ngưỡng Ấn Độ cổ thời. Ví dụ 84 ngàn lỗ chân lông, 84 ngàn vi trùng trong một bát nước, 84 ngàn phiền não, 84 ngàn cách tu...

8- Xin xăm, bói quẻ, cầu sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu: Những hình thức này không phải của đạo Phật. Trong kinh tụng Pāli có đoạn: “Sunakkhataṃ sumaṅgalaṃ supabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ, sukhno ca suyiṭṭaṃ brahmacārisu. Padakkhinaṃ kāyakammaṃ vācākammaṃ padakkhinaṃ padakkhinaṃ manokammaṃ paṇidhī te padakkhinā...”

Có nghĩa là: Giờ nào (chúng ta) thực hành thân, khẩu, ý trong sạch; giờ đó được gọi là vận mệnh tốt, là giờ tốt, là khắc tốt, là canh tốt... Ngày đó gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý phát đạt. Và nguyện vọng theo đó được gọi là nguyện vọng phát đạt. Người tạo nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như thế rồi sẽ được những lợi ích phát đạt (chữ phát đạt có thể có thêm nghĩa nhiêu ích).

9- Định mệnh: Đạo Phật có nói đến nghiệp, đến nhân quả nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả đau khổ, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui - chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do trời định” như định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc định mệnh 4 giai cấp của Bà-la-môn giáo.

10- Siêu độ, siêu thoát: Không có bài kinh nào, không có uy lực của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể tụng kinh siêu độ, siêu thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả. Thời Phật tại thế, nếu có đến nơi người mất, chư tăng chỉ đọc những bài kệ vô thường, khổ và vô ngã để thức tỉnh người sống; và hiện nay các nước Phật giáo Theravāda còn duy trì. Có thể có hai trường hợp:

- Nếu vừa chết lâm sàng thì thần thức người chết vẫn còn. Vậy có thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông mõ, hương trầm... để “thần thức người chết” hướng về điều lành... để thần thức tự tạo “cận tử nghiệp” tốt cho mình.

- Nếu thần thức đã lìa khỏi thân rồi – thì họ đã tái sanh vào cõi khác rồi, ngay tức khắc. Khi ấy thì gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh hồi hướng phước ấy cho người đã mất.

Cả hai trường hợp trên đều không hề mang ý nghĩa siêu độ, siêu thoát mà chỉ có ý nghĩa gia hộ, gia niệm, gia lực mà thôi. Tu dựa vào tha lực cũng tương tự như vậy, nhưng cuối cùng cũng phải tự lực: “Tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình là hòn đảo của chính mình”.

Chư thiên chỉ có khả năng hoan hỷ phước và báo truyền thông tin ấy cho người quá vãng mà thôi. Họ không có uy lực ban phước lành cho ai cả.

11- Huyền bí, bí mật: Giáo pháp của đức Phật không có cái gì được gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức Phật luôn tuyên bố là “Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra”; có nghĩa là ngài không có pháp nào bí mật để giấu kín cả!

12- Tâm linh: Ngày nay, người ta tràn lan lễ hội, tràn lan mọi loại điện thờ với những hình thức mê tín, dị đoan, sa đoạ văn hoá... mà ở đâu cũng rêu rao các giá trị tâm linh. Đạo Phật không hề có các kiểu tâm linh như vậy. Thuật ngữ tâm linh này được du nhập từ Trung Quốc. Và rất tiếc, tôi không hề tìm ra nguồn Phật học Pāli hay Sanskrit có từ nào tương thích với chữ “linh” này cả!

13- Niết-bàn: Nhiều người tưởng lầm Niết-bàn là ở một cõi nào đó, một nơi chốn nào đó; thậm chí là ở một thế giới ở ngoài thế gian này. Người nào tìm kiếm Niết-bàn kiểu ấy, thuật ngữ thiền tông có cụm từ “lông rùa, sừng thỏ” như ngài Huệ Năng đã nói rõ: “Phật pháp tại thế gian. Bất lý thế gian giác. Ly thế mịch bồ-đề. Cáp như tầm thố giác”. Thố giác là sừng thỏ. Và giác ngộ cũng vậy, chính ở trong khổ đau, phiền não mới giác ngộ bài học được.

14- Bỏ khổ, tìm lạc: Tu Phật không phải là bỏ khổ, tìm lạc. Xin lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản của phiền não!

15- Tu để được cái gì! Có nhiều người nghĩ rằng, tu là để được cái gì đó. Xin thưa, được cái gì là sở đắc. Ai sở đắc? Chính là bản ngã sở đắc. Đạo Phật là vô ngã. Hãy xin đọc lại Bát-nhã tâm kinh.

16- Tu là sửa: Nếu tu là sửa thì mình đã từ “cái ta này” biến thành “cái ta khác”. Nếu tu là không sửa thì cứ để nguyên trạng tham sân si như vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay không sửa đều trật. Đạo Phật quan trọng ở Cái Thấy! Có Cái Thấy mới nói đến giác ngộ và giải thoát. Không có Cái Thấy này thì tu kiểu gì cũng trệch hướng hoặc rơi vào phước báu nhân thiên.

17- Vía: Đạo Phật không có vía nào cả. Vía, hồn, phách là quan niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn bảy vía. Ví dụ, nam thất, nữ cửu – nam bảy vía, nữ chín vía. Nếu là nam thất, nữ cửu thì nó trùng với nam 7 khiếu, nữ 9 khiếu. Vía là phần hồn. Không có cái hồn, cái linh hồn tự tồn tại nếu không có chỗ nương gá. Vía không độc lập được. Như danh - phần tâm, sắc - phần thân – luôn nương tựa vào nhau. Chỉ có năng lực thiền định mới tạm thời tách lìa danh ra khỏi sắc, như Cõi trời Vô tưởng của tứ thiền. Tuy nhiên, cõi trời Vô tưởng hữu tình này không phải là không có danh tâm mà chúng ở dạng tiềm miên. Còn các Cõi trời Vô sắc thì sắc không phải là không có, chúng cũng ở dạng tiềm miên. Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ-tát đều có “vía” cả! Và cũng thật là “đau khổ” khi trong lễ an vị Phật, người ta còn hô “Thần nhập tượng” nữa chứ!

18- Bồ-tát: Bồ-tát là âm của chữ Bodhisatta: Chúng sanh có trí tuệ. Vậy, chúng ta tạm thời bỏ quên “khái niệm Bồ-tát” quen thuộc trong kinh điển mà trở về với nghĩa gốc là “chúng sanh có trí tuệ”. Và như vậy, sẽ có hạng chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Thanh Văn; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Độc Giác; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Chánh Đẳng Giác. Ngoài 3 loại chúng sanh có trí tuệ trên – không có loại chúng sanh có trí tuệ nào khác.

19- Phật: Phật là âm của chữ Buddha, nghĩa là người Giác ngộ. Vậy chúng ta nên tạm thời bỏ quên “khái niệm Phật” từ lâu đã mọc rễ trong tâm thức mà trở về nghĩa gốc là bậc Giác ngộ. Vậy, có người Giác ngộ do nghe pháp từ bậc Chánh Đẳng Giác, được gọi là Thanh Văn Giác. Có người Giác ngộ do tự mình tu tập vào thời không có đức Chánh Đẳng Giác, được gọi là Độc Giác. Có vị Giác ngộ do trọn vẹn 30 ba-la-mật, trọn vẹn minh và hạnh nên gọi là Chánh Đẳng Giác.

Không có vị Giác ngộ (Phật) nào ngoài 3 loại Giác ngộ trên.

20- Thể nhập: Tu là không thể nhập vào cái gì cả. Thể nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã khác. Cãi ngã khác ấy có thể là dòng sông, có thể là ngọn núi, có thể là một cội cây, có thể là một thần linh, thượng đế. Cái cụm từ “thể nhập pháp giới” rất dễ bị hiểu lầm. Khi đi, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái đi; khi nói, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái nói; khi ăn, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái ăn – thì đấy mới đúng nghĩa “thể nhập pháp giới”, ngay giây khắc ấy, mọi tham sân, phiền não không có chỗ để phan duyên, sanh khởi.



Ngoạ Tùng Am, Sơ Xuân 2015

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
********************************************************
Minh Đức Triều Tâm Ảnh là bút hiệu của tỳ kheo Giới Đức, là một trong những người sáng lập ra chùa Huyền Không (Huế) từ mái chùa lá ở đèo Hải Vân trước năm 1978. Ông là một nhà sư giỏi thơ văn, am tường hội hoạ và trang trí mỹ thuật và là một cao thủ cờ tướng từng đánh bại một số kì thủ quốc gia. Đồng thời ông cũng là một trong những người nổi tiếng về nghệ thuật thư pháp tại Việt Nam những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21.
Thượng tọa Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) là nhà thơ có tên tuổi ở đất thần kinh và đã xuất bản nhiều tập thơ. Ông cũng là nhà văn rất nổi tiếng trong giới Phật giáo; những tác phẩm của ông chẳng những có giá trị trong giới Phật học trong và ngoài nước mà còn đóng góp không nhỏ cho nền văn chương, văn học của Việt Nam.

Thứ Bảy, 10 tháng 3, 2018

Đức Phật đi đái!





Thuở nhỏ, câu hỏi đầu tiên của tôi về Phật là liệu khi Đức Phật uống nhiều nước thì ngài có đi đái hay không. Lớn lên, rồi cuộc sống rồi cơm áo rồi ân oán tình thù cứ xoay vần làm cản trở nhiều lần định tiếp cận Phật của tôi. Tôi chỉ muốn tiếp cận để tìm hiểu xem thực sự nếu ngài uống nhiều nước, thì ngài có đi đái hay không.


Mới đầu tiếp cận, thì bạn cũng quá hiểu, Phật là một sự khủng khiếp, quyền năng vô thượng. Đến Tôn Ngộ Không là anh hùng trong mắt bọn chúng tôi, mà Phật lật tay phát úp gọn. Một mảnh bùa gán lên là năm trăm năm người anh hùng chỉ có nằm ăn viên sắt và uống nước rỉ đồng mà sống qua ngày. Rồi thiên hạ triệu triệu người triều bái, cúng hàng trăm vạn lượng hoàng kim để cầu khẩn Ngài. Ngài là thần trên muôn thần, đến Ngọc Hoàng thượng đế bá đạo anh hùng như vậy mà vẫn dưới quyền ngài bảo kê.


Nói chung, tiếp cận ngài chỉ thấy dân gian mô tả quyền năng vô hạn lượng, và lòng từ bi cũng lượng vô hạn. Tôi không cách nào hỏi được thế thực sự ngài có đi đái hay không.


Rồi đến những ngày gần đây, khi bạn tôi, nhà khoa học Gấu Phệ cũng theo Phật, ngày ngày cúi lạy ngài, bề ngoài là xin giác ngộ nhưng tôi biết mong muốn thực sự của Gấu Phệ là giảm cân mà không phải ăn kiêng. Tôi lại càng muốn tiếp cận ngài để hỏi ngài có đi đái hay không.


Rồi kì duyên đến, đến kì lạ một cách khó tả, giúp tôi tìm được câu trả lời. Tất cả những gì nhân gian họ nói về Phật, kể cả những người tu hành, đa phần là sai lạc và ngụy tạo. Những gì Đức Phật để lại truyền dạy đã bị bóp méo, thậm chí bóp méo nhiều lần.


Thứ nhất, Phật không phải vị thần, cũng không phải thượng đế hay cũng chẳng phải giáo chủ gì hết. Phật là trạng thái tỉnh, còn chúng sinh hiện nay đang trong trạng thái mê. Phật là người đã giác ngộ. Giác là tỉnh, Ngộ là nhận ra. Còn chúng sinh là những người chưa tỉnh. Đức Phật là người tỉnh, truyền lại cách tỉnh lại cho nhân gian. Đơn giản vậy thôi. Tớ tỉnh rồi, tớ nhận ra và muốn giúp các bạn tỉnh. Không phải sáng lập phái, cũng không áp đặt. Loài người mới tiến bộ tới mức chấp nhận sự bình đẳng của mọi người từ màu da sắc tộc đến xuất thân.


Phật thì bá đạo hơn, Phật coi vạn vật bình đẳng, từ cỏ cây hoa lá chim muông bình đẳng như con người hết. Không phân biệt, thậm chí không phân biệt ta và ngoài ta luôn. Đức Phật là người, cái ngài tìm thấy gọi là Đạo.


Đạo vốn có hằng có và tự có như vậy. Ngài không sáng tạo ra, cũng chẳng chuyển rời, mà chỉ đơn giản là thấy. Cho nên không có chuyện Đức Phật di chuyển bốn biển hay hô mưa gọi gió. Ngài chả làm được cái gì, thậm chí còn không khỏe bằng tôi. Và Ngài cũng chẳng trừng phạt được ai, vì tội xếch mé hay nói xấu Ngài. Có tu sĩ Bà La Môn đến xúc xiểm, Ngài cũng chỉ dùng lời mà đáp, ông kia nghe thì nghe, không nghe thì không nghe. Ngài cũng chẳng có Như Lai Thần Chưởng đánh sấp mặt mấy thằng bật Ngài.


Đơn giản, Ngài chỉ là người, và người này đặc biệt là đã tỉnh ngộ. Đạo đơn giản là các quy luật tự nhiên mà Ngài thấy. Nghĩa là gì, ra mưa Ngài vẫn ướt. Gai đâm, Ngài vẫn đau. Và tôi tìm được câu trả lời, đó là uống nhiều nước Ngài vẫn đi đái, mà có khi đái như sứa luôn.


Tất cả những gì quyền năng và sự khủng khiếp nhân gian nói về Đức Phật là họ gán như vậy. Và tôi cũng biết luôn rằng, Ngài chẳng cho ai được cái gì. Làm gì có mà cho. Một xu dính túi cũng không. Những gì cầu khẩn từ một vị thần ban phát là người đời tự tưởng vậy. Họ kính, họ cầu, và họ tự nghĩ vậy.


Đức Phật tuy không cho đời một xu. Nhưng cái cho đời chính là một con đường. Nôm na, ông là bậc thầy và chỉ vẽ. Làm hay không là do thằng nghe, ông không liên quan, không cấp vốn, không gò ép, không chiêu dụ, không tiếp tay. Cái thấy và cái biết của Đức Phật không được ngài nói hết kể hết, vì theo ngài đó là vô nghĩa. Sau này, chúng sinh ngộ sẽ tự biết. Cái mà Đức Phật truyền duy nhất đó là: con đường diệt Khổ.


Đầu tiên, Ngài xác định đối tượng cần giải quyết. Đó là Khổ. Chiết nghĩa được từ này chắc cả vạn quyển không xong. Đơn giản, ta cứ gọi là Khổ đã. Tiếng Anh dịch là suffering (sự chịu đựng). Sau này, bạn sẽ hiểu Khổ không phải khổ đau ta hay dùng mà Khổ đơn giản là sự sai lệch giữa kì vọng và thực tế. Thực tế mưa, bạn muốn nắng, đó là khổ. Thực tế nóng, bạn muốn lạnh, đó là khổ. Khi nào, thực tế mưa bạn thấy vui, nắng cũng thấy vui, đi qua đống rác thấy thối, nhưng vẫn vui và chấp nhận rác thì phải thối, thì bạn là Phật.


Phật không dạy Cân Đẩu Vân, không dạy biến hình, không dạy thần thông. Ngồi thiền 49 ngày, rồi quyết định theo con đường Trung Đạo và soạn ra Tứ Diệu Đế cho đời. Xác định được Khổ, ngài viết là Khổ Đế. Tiếp theo, Ngài dạy nguyên nhân Khổ tức Tập Đế. Khi biết nguyên nhân Khổ, lại dạy diệt Khổ rồi thì sẽ như nào, tức là Diệt Đế. Diệt Đế nôm na là mục đích muốn tới, là mười quả bóng bowling đã thấy rõ. Cuối cùng, nắm rõ mục đích, Ngài mới dạy cách đi tới đích tức Đạo Đế, cách diệt Khổ. Và cách diệt Khổ có 8 cách tức Bát Chánh Đạo. Cực kì rõ ràng và khúc chiết. Không à uôm loằng ngoằng.


Đức Phật biết rất nhiều, nhưng không nói hết vì không liên quan. Phật chỉ truyền cho nhân gian bốn điều trên, tức Tứ Diệu Đế, bốn chân lý kỳ diệu. Chúng sinh nắm được bốn điều kì diệu trên là đạt con đường tiệm tu đắc quả A La Hán. Tuy chậm nhưng chắc chắn.


Tức là trước khi ngộ, chẻ củi gánh nước. Sau khi ngộ, cũng chẻ củi gánh nước. Không có biến hình, không có bay lượn, không có siêu giàu. Tất cả vẫn y nguyên chỉ là trước đây Vô Minh tức ngu, giờ sáng, biết và hiểu quy luật nó thế. Trước khi ngộ, sờ tay bị điện giật. Sau khi ngộ, sờ tay điện vẫn giật, chỉ là biết rồi nên không sờ nữa. Vũ trụ đất trời vẫn vận hành như trước, chỉ là kẻ ngộ rồi không còn khổ vì thấy nó bình thường, quy luật nó phải thế. Không còn ái li biệt khổ, cái khổ vì xa cách người mình yêu. Không còn oán tăng hội khổ, cái khổ vì gặp kẻ mình ghét. Không còn cầu bất đắc khổ, cái khổ vì cầu không được ước không thấy.


Tức là nếu Đức Phật uống nhiều nước, Ngài vẫn đi đái, nhưng Ngài hiểu điều đó.


Tất cả những gì nhân gian huyền hoặc về Phật về Pháp là bịa đặt. Thậm chí cản đường những người truy cầu chính đạo đến với Phật Pháp. Phật Pháp quá đơn giản, tới mức nói vài câu đã hết. Nhưng thế giới tự vẽ rắn thêm chân rết cười nắc nẻ, ra cả một mớ loạn xạ rườm rà, pháp khí rồi đạo môn. Cái chân lý thì không nắm, chỉ chạy theo thần thông với chả hư hoa. Đức Phật gọi chúng sinh là kẻ mê cũng đúng. Đưa thuốc giải cho mấy thằng mê thì chúng nó cũng chỉ gây mê thêm những thằng khác mà thôi.


Đức Phật nói rằng nếu yêu quý ngài, noi theo ngài thì cũng chỉ làm được người khôn, chứ không tự tu thì không thành được kẻ ngộ. Tất cả những hình tượng lập ra để thờ Phật là do đời sau yêu mến, suy tôn và tưởng nhớ nên lập ra, chứ Đức Phật không mong cái đó, cũng không tạo dựng cái đó. Tất cả đều bình đẳng, và phải tự ngộ, ta chỉ là người vẽ chút kinh nghiệm, các người thấy ta sai thì cứ bỏ mà tự tìm đúng, đừng lạy ta để xin ta.


Ngàn năm mặt trời vẫn thế là bản thể mặt trời. Nhưng nhận thức về mặt trời của con người luôn thay đổi, ngày càng sáng rõ hơn. Thay đổi mãi, đổi mãi để tiệm cận đến bản thể thực sự của mặt trời. Cho dù nhận ra rồi, thì mặt trời vẫn thế, chỉ là con người đó đỡ khổ vì ngu vì vọng tưởng mặt trời thôi. Chứ đừng mong dịch chuyển hay bắn rụng mặt trời.


Có nghĩa là gì? Nghĩa là nếu không làm thì không bao giờ có. Không làm thì Việt Nam không thành siêu cường được đâu, ngồi đó mà lạy Phật. Chỉ là nếu làm, thì hãy làm theo quy luật vận hành tự nhiên thì sẽ thành công. Nhắm mắt làm bừa làm ẩu thì chỉ có xuống hố. Vì khi Đức Phật uống nhiều nước, Ngài cũng phải đi đái mà thôi.


————


https://www.yeuchua.net/2018/03/uc-phat-i-ai.html

Thứ Tư, 17 tháng 1, 2018

THI NHÂN VÀ THIỀN NHÂN




Nhụy Nguyên

Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngã cuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng. Còn thơ thiền chính là lúc kẻ phàm phu nhón tay vốc được linh tự nơi chân như khi vọng tưởng bỗng nhiên chừng lặng.
Daisetz Teitaro Suzuki – người cố giải mã công án trong 3 tập Thiền luận nói rằng “Thông thường thiền sư cũng là thi sĩ”. Theo ông, “văn học Thiền hưng khởi từ thời Huệ Năng (638 – 713) và nay còn giữ đủ, vẫn đáng cho các nhà thông thái và người tìm chân lí bỏ công nghiên cứu”. Có khoảng 1.750 công án mà Thiền giả thường tham cứu như một hấp hực của hậu nhân học Phật. Công án thuộc hàng khó giải nhất có nội dung: “Ý chỉ của Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn sang Tàu là gì?” Riêng luận về cuộc Đông du của Tổ này, Suzuki đã dẫn ra nhiều lời giải của các thiền sư dưới dạng gần như thơ, ví như hai câu của Đại Đồng Tế đậm đầy thi hứng:

Ta nghe gió rì rào qua khóm
Biết bao ngàn ngọn trúc đong đưa.

Ở Nhật, nhiều thiền sư sáng tác thơ haiku. Thơ haiku là sản phẩm của tâm thiền, là thơ thiền đúng nghĩa. Suzuki thử dẫn bài thơ của Basho: “Một vũng lầy hiu hắt/ Một con ếch nhảy vào/ Và tiếng nước; ôi chao!”; và luận: “Đấy là cái tiếng thức tỉnh đạo lý của Phật giáo Thiền tông. Kinh nghiệm tự nó không thể tỏ bày bằng cách khác, thế nên bài thơ hài cú chỉ mô tả cơ duyên, không tâm tình, không biện giải”. Suzuki nhận xét chuẩn xác hồn cốt của thể loại haiku; đáng lưu ý là mấy chữ “không tâm tình, không biện giải”. Tuy nhiên ở bài thơ này, có thể do người dịch nên nó đã rơi vào “biện giải”. “Ôi chao!” là một dạng thán từ, tiếng reo, một cảm xúc ứ trào, thì chính “tâm tình”. Phật thuyết Kinh Viên Dung Thuần Khiết: “Cái không còn ý nghĩ phân biệt là cái không thể nắm bắt được. Vì sao? Bởi vì trạng thái không có ý nghĩ phân biệt, dù ngay cả tâm cũng đã không thể nắm bắt được, huống chi là những hoạt động tâm sở. Trạng thái tâm không nắm bắt được đó gọi là không thể nghĩ bàn”.

Một bài thơ khác:

Ngày ngày trên lá sen
Giọt sương rơi xuống
Nát tan hình hài

Ở đây tuyệt nhiên vắng bóng tâm tình và biện giải, nghĩa là hoàn toàn vắng cái “ngã”, cái “tôi” tác giả, chỉ có hình ảnh những giọt sương “nát tan hình hài” khi gieo xuống lá sen, trong sự cô đơn và nhẫn nhịn tuyệt vời! Hình ảnh cứ đeo bám, ám ảnh người đọc, nó khơi lòng từ bi, nó “mắc nợ” vào người đọc. Chính đó là tâm trạng của thể haiku; hay nói ngược lại, với bậc thoát lụy trần, tâm thanh tịnh mới gửi được cái vi diệu không sắc vào thể thơ kiệm lời bậc nhất này.

Có một câu chuyện thiền tường minh mối tương giao giữa thơ thiền và thiền thơ. Tiền thân của Tô Đông Pha vốn là Giới Diễn thiền sư, tu đến độ có thể tự tịch. Một hôm cùng với sư huynh Quang Huệ ngồi thiền; giữa thời, Giới Diễn bỗng khởi niệm ái sắc. Lúc xuất thiền sư huynh mới hỏi xéo “lúc nãy đệ nghĩ gì vậy”? Biết sư huynh đi guốc trong bụng, hổ thẹn quá Giới Diễn nhắm mắt tịch luôn. Quang Huệ tự vấn: “Bạn ta trong khi thiền định có niệm sắc ái, sau tất lụy về sắc; vì phiền ta mà thị tịch… lỗi ấy một phần do ở nơi ta”. Thế nên Quang Huệ cũng tịch mà đuổi theo hóa độ. Tô Đông Pha – hóa thân của sư Giới Diễn, sau này ông là nhà thơ trứ danh đời Tống. Cư sĩ Tô Đông Pha kết thân với nhiều nhà sư, trong đó có sư huynh của mình ở kiếp trước là thiền sư Phật Ấn. Một hôm để chứng tỏ công phu tu tập, ông làm một bài thơ tứ tuyệt; câu luận: Bát phong xuy bất động, (“Tám gió” tung hoành không lay động), ý nói tám ngọn gió thế gian không thể lay động được tâm ông. Tấm tắc ngâm ngợi suốt ngày, rồi họ Tô gửi lên chùa Kim Sơn cho thiền sư Phật Ấn. Sư xem xong phê dưới “đồ đánh rắm“, nhờ tiểu đồng mang trả lại. Tô Đông Pha thấp thỏm đợi chờ lời khen, ai dè…, liền nổi giận chèo thuyền bạt gió qua sông. Mới bước đến cổng chùa ông thấy dòng chữ treo sẵn: “Tám ngọn gió không lay chuyển được mi/ [Thế nhưng] một cái đánh rắm cũng đủ thổi mi sang đến bờ bên này”.

Mới hay tâm còn ngã chấp tiểu kiến, dẫu vi tế, thơ vắt ra không thể là thơ thiền, dẫu mỗi mỗi chữ đều khoác áo thiền. Đánh bóng chữ dán mác thơ thiền, đâu hay thơ thiền không dễ sinh từ trí mà chảy từ suối tâm. Cũng như nếu đem trí để soi Đạo chẳng những không thấy trời đêm ngàn sao mà dưới mặt nước (tâm) động kia vầng trăng cũng lấp lóa mờ nhòa. Xưa, sư Trí Bảo tự thấy mình dốt Đạo đã rời chùa tìm lối vượt thoát sanh tử. Cơ duyên gặp được thiền sư Đạo Huệ khai ngộ liền thốt lên chứng đạo ca:

Không nhờ gió cuốn mây trôi sạch
Đâu thấy trời xanh muôn dặm thu.

Khi thuyết pháp, Phật, Bồ tát và thiên nhân thường diễn ý thành kệ. Xuất khẩu thành kệ. Kệ ấy, ở mức độ mờ/nhòa nghĩa của ngôn ngữ, cũng xem là thơ. Bài Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông, theo tinh thần “thiền đạo”, nó là kệ nhưng bây giờ nghiễm nhiên thành một bài thơ. Kinh Thi có ba trăm bài; Bộ Hoa Nghiêm kinh nguyên khởi có hơn một trăm ngàn câu kệ; Trường Bộ Kinh được Giới lạc Mai Lạc Hồng chuyển thể thơ 3 tập với 1500 trang theo thể song thất lục bát; Cuốn luận về Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajna Paramita Çastra) của Bồ tát Long Thọ (tổ Thiền thứ 14 của Ấn Độ, cũng là vị tổ trong Tịnh độ tông) in ra làm 3 bản; trong đó con số ước lượng, một bản gồm hàng trăm ngàn câu kệ; Kinh Pháp Cú nhắc người đời: “Tụng trăm câu kệ vô nghĩa/ Chẳng bằng một câu Pháp cú”. Kinh này cũng được tác giả Tịnh Minh dịch thành Thi kệ pháp cú kinh. Thử tụng câu 85:

Xem trong đám nhân quần
Ít người đến bờ kia
Còn bao nhiêu người khác
Quanh quẩn tại bờ này

Nghe qua có vẻ bình dân, song ai bước vào rừng kinh điển mới thấu lý bờ này, bờ kia, bao nhiêu người, quanh quẩn… Người sáng tạo thơ thiền thường phải khắc khắc nghiền ngẫm, vật lộn cùng chữ nghĩa. Luôn luôn trong tình trạng “nghi án”; và lạ thay, lúc người ấy thả lỏng mình trở về trạng thái vô nghiệm thì thơ thiền phát lộ. Có một đệ tử của ngài Qui Sơn Linh Hựu là Linh Vân, loanh quanh bên đời mãi vẫn đường đạo mịt mù, một lần chợt thấy hoa đào mà ngộ; liền làm thơ: “Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu/ Trực chí như kim bất cảnh nghi”. Hoặc như tổ Hoàng Bá từng viết bài kệ với hai câu kết:

Không chịu trời lạnh thấu xương
Hương thơm hoa mai sao tỏa!

Thiền sư Hư Vân thuyết về thành quả hành trì của người tu đã có nhắc: “Hoa mai nở bông vào mùa đông lạnh giá chớ không nở trong tiết xuân ấm áp, tràn đầy ánh nắng hồng. Hoa tâm khai nở không phải ở nơi vui buồn, thương ghét, hay đúng sai giữa mình và người”.

Thiền quan sách tấn chép về Mông Sơn Đức Dị (thuộc dòng Thiền của Ngũ Tổ Sơn Pháp Diễn) đã trải qua quá trình ngộ đạo hết sức gian nan. Ông ôm nghi tình chữ Vô hàng chục năm không khai tỏ, có đến hai năm ròng chỉ tu ngồi. Thỉnh giáo biết bao cao nhân, một lần gặp thầy Kỉnh, “thầy hỏi: “Ai đến đây?” Đáp: “Chẳng phải ta chẳng phải người”. Thầy bảo: “Chẳng phải ta chẳng phải người, thế là cái gì?” Đáp: “Đói thì ăn mệt thì ngủ”.

Đây là tinh thần thiền đạo của những bậc đã hòa vào cảnh giới an lạc tự tại. Chúng ta nhớ đến Cư trần lạc đạo của Phật hoàng. Ý này chúng ta cũng có thể tìm thấy trong cuộc hội thoại của gia đình cư sĩ cùng chứng quả Bàng Uẩn. Chồng: “Khó! Khó! Khó! Đem hạt mè để trên đỉnh cây thật khó”; Vợ: “Dễ! Dễ! Dễ! Ý Tổ sư trên trăm đầu ngọn cỏ”. Con gái Linh Chiếu: “Không khó cũng không dễ. Đói thì ăn. Mệt ngủ liền”. Hoặc như với Tế Công Hòa thượng: “Người bảo Ngài điên, Ngài chẳng điên/ Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền”. Trần Nhân Tông thấm đẫm diệu lý “tùy duyên” từ Thiền tông: Người tu đạo chân chính là “sống với mọi cơ duyên của cuộc sống trần gian này. Buổi sáng, y lặng lẽ thức dậy, vận y phục và ra ngoài làm việc. Khi muốn đi dạo, y liền đi dạo, khi muốn ngồi, y liền ngồi. Y không làm Phật, không nghĩ tưởng xa vời. Sao lại có thể thế? Cổ nhân nói, nếu bạn chuyên tâm tinh tấn cần cầu Phật quả, Phật của bạn thực tình là căn nguyên của luân hồi” (Tổ Lâm Tế). Lý này khiến rất nhiều người đời sau tưởng dễ nhảy vào, buông thả sống, khiến thân còn sống mà tâm đã bị đọa đày trong tầng tâm linh ngột ngạt, mờ mịt, bán rẻ tương lai tiêu xài vào cơn mộng lợi danh siêu thoát. Đạt đến tùy duyên là Nhìn thấu – Buông xả – Tự tại – Tùy duyên; nghĩa là hết thảy vật tài, thân quyến cho đến vọng tưởng, chấp ngã mê lầm đều không dính mắc. Cái lý này với đời chừng như ngược, với đạo là xuôi. Xuôi theo đạo ấy mới là việc khó, nhân thế mấy ai!

Mãn Giác thiền sư cũng là người sống kỹ trong Đạo và học kỹ ngón thiền của các Tổ. Bài thơ nổi tiếng của ông, hai câu đầu: “Xuân khứ bách hoa lạc/ Xuân đáo bách hoa khai” (Xuân đi trăm hoa rụng/ Xuân đến trăm hoa nở), ta nhớ đến Sử Quảng Phúc Đam Chương trả lời một thiền tăng tham vấn về tâm pháp của Đạt Ma: “Xuân đến, cây cối trổ hoa” (Xuân lai hoa tự phát); “Thu đến, lá lay rơi rụng” (Thu chí diệp tiên điêu). Và hai câu sau: “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước một cành mai”, cũng là trên tinh thần lời Phật (thuyết kệ trong kinh Lăng Nghiêm): “Vi vi, thì không sinh, không diệt – Chẳng thật hư hoa đốm hư không”. Hoa nở hoa tàn ấy là “hoa đốm hư không”, do vọng tưởng hư diệu tạo thành, thực tế nhành mai là sự bất diệt của vạn pháp, là tự tánh trọn đủ hạt giống trong khiết; mai rồi lại nở vào những xuân sau.

Đức Thích Ca bảo “chúng sanh đều có trí tuệ, đức tướng của Như Lai”. Kinh điển chính là Phật. Người Tu mức cao sẽ thấy những câu kinh ấy vốn sẵn nơi chân tâm. Bậc triệt ngộ thì cả Đại tạng kinh cũng phơi ra như báu vật bao nhiêu kiếp vùi trong vọng tưởng chấp trước. Kinh Lăng Nghiêm: “Nếu chuyển được vật, tức đồng Như Lai”. Tu lại để tạp niệm làm chủ tức vật chuyển mình, vật lôi kéo, giật dây thành rối. Chân như tức tâm chuyển cảnh. Lúc đó muôn hoa nước trời cùng vươn nở chào mừng nói chi vạn vật nhân gian. Mối tương ưng giữa Phật và chúng sanh, là chân tâm. Thủ kiến dễ khiến người đời “giương án” cho những thiền sư làm thơ (và pháp sư thuyết pháp) – điều mà xưa nay trong giới chân tu chưa hề bỏ ra nửa lời. Thiền nhân hoát ngộ đề thơ chính là thi nhân, còn thi nhân một phen lạc thăng hoa tiết ra thơ thiền cũng chưa thể gọi họ là thiền nhân được; dẫu Thơ và Thiền muốn viên mãn phải đánh đổi danh lợi giữ tâm ý sáng trưng như kẻ phong lưu bước trên băng mỏng vậy.

Thứ Hai, 15 tháng 1, 2018

HÃY CHUẨN BỊ CHO MỘT SỰ TAN RÃ




Lê Tâm Minh



Ảnh minh họa

Đề tài nầy nghe có vẻ như không hề thích hợp với thế giới mà chúng ta đang sống. Hai chữ “tan rã” nói lên một sự tuyệt vọng khủng khiếp của một cái chết giữa một thế giới sinh động, đáng yêu và đầy sáng tạo hứa hẹn. Ai cũng sợ chết và muốn được hiện hữu vĩnh viễn. Thế mà thần chết không hề tha sót người nào. Vì vậy, từ ngữ “tan rã” được hiểu đầu tiên là tan rã thân xác. Ôi ! chuyện đó còn lâu lắm, biết tới nó làm gì ? Trên đời nầy còn rất nhiều chuyện để làm mà ! Thế rồi, lớn lên học hành, bon chen, đi làm, lập gia đình, làm lụng cực nhọckiếm cơm, sinh con, nuôi con , v.v…, toan tính đủ thứ, tranh dành, chụp giựt, tưởng chừng như mình sẽ không bao giờ chết. Làm như thế để tự cảm thấy mình hiện hữu hay sao, để rồi đùng một cái, một cơn bệnh trổ ra, bị thần chết rước đi trong đau khổ luyến tiếc ?

1) Diệt thuyết và Thường thuyết:

Ai có suy nghĩ thâm sâu, đều không vừa ý một cuộc đời như vậy, huống chi nó lại sẽ kết thúc một cách bất ngờ đau đớn nữa: cái chết ! Tất cả chỉ là một con số không. Nghĩ như vậy và ôm ấp điều nầy ắt rơi vào chủ nghĩa hư vô (Nihilism). “ Khốn thay cho kẻ nào ôm giữ sa mạc, vì sa mạc lớn dần”. Đó là câu nói của nhân vật tưởng tượng Zarathustra trong tác phẩm “ Zarathustra đã nói như thế ” ( Ansi parlait Zarathustra, Thus spoke Zarathustra) của triết gia Đức Nietzsche, ám chỉ rằng con người là những con lạc đà ngu si, bị chất lên lưng đầy những đảm đang gánh vác đi trong sa mạc, để rồi kết cuộc cũng chẳng được gì ngoài việc tiếp tục cái nghiệp phi lý nầy một cách vô tận.

Thật ra, hư vô chủ nghĩa không phải đầu tiên phát xuất từ triết gia Tây phuơng nầy, mà hẳn đã có từ lâu đời trong một vài trường phái tôn giáo của Ấn Độ trước thời đức Phật Thích Ca, gọi là Diệt thuyết. Chết là hết. Cái chết xóa sổ tất cả, chấm dứt tất cả. Tất cả đi vào hư vô, vào một con số không to tướng trong đó mọi giá trị đều sụp đổ và không còn gì để nói thêm nữa. Như là một nỗi tuyệt vọng não nùng, Diệt thuyết nầy dễ dàng làm mồi cho thuyết hiện sinh kiểu duy vật hoặc chủ nghĩa vô thần. Cả hai chủ thuyết nầy có thể làm nơi nương tựa cho những kẻ vô đạo bất nhân: không nhân, không quả, không tội, không phước. Tương tự Diệt thuyết cổ xưa nầy, một kiểu Diệt thuyết mới ngày nay lại xuất hiện, tự xưng là “Phật giáo”, quan niệm rằng chuyển biến của tâm tư từ sát na nầy sang sát na khác chính là luân hồi, và ngoài ra không có kiếp sau nào hết, chết là hết. [ Quí vị có thể tham khảo Tà kiến nầy đã được tôi nêu ra ở bài viết “ Thoát khỏi luân hồi” trong Đặc san Hiện Thực số 40/2017]. Ngược lại với Diệt thuyết là Thường thuyết, chủ trương rằng con người có một cái bản ngã thường hằng, đó là linh hồn bất tử, là tự ngã (Atman) hay Tiểu ngã, sống hòa hợp với Đại Ngã (Brahman) cũa vũ trụ. Cả hai Tiểu Ngã và Đại Ngã nầy đều bất biến và trường tồn vĩnh cữu. Đại Ngã của vũ trụ được xem là bản thểcủa muôn loài, hay là Thượng Đế, v.v... Để điều hành vũ trụ, Thượng Đế nầy lại có 3 ngôi: Sáng tạo(thần Brahman), Huỷ diệt (thần Shiva) và Bảo tồn (thần Vishnu). Khác hơn thế, người theo chủ thuyết Duy vật, tuy không tin có linh hồn, nhưng tin vào một Qui luật tự nhiên của vật chất. Qui luật nầy thường hằng bất biến, chi phối và điều hành thế giới vật chất của họ. Ngoài ra, tất cả những triết thuyết nào trên thế giới, bất kể là triết đông hay triết tây, chủ trương thế giới hay vũ trụ và con người có một bản thểthường hằng bất biến, bất kể là lấy tên gì (chẳng hạn như Đại Ngã Bà La Môn hay Thượng đế, v.v.), đều là những loại Thường thuyết. Những lý luận của Thường thuyết xem như khá hữu lý và có tính cáchthuyết phục hơn Diệt thuyết. Tuy nhiên, ngày xưa, khi bị chất vấn để dò hỏi về chân lý của ngoại đạo, trong tháI độ lặng thinh, đức Phật không trả lời chi cả. Sau nầy, các đệ tử của ngài hiểu rằng ngài đã bác bỏ cả hai, Diệt thuyết lẫn Thường thuyết vào thời đó.

Gần đây, ý niệm về Big Bang (tiếng nổ lớn) là nguyên nhân tạo thành vũ trụ đã làm lung lay niềm tincủa con người vào một đấng Sáng Tạo. Nếu thế giới có bản chất thường hằng hay một bản thể bất biếnnào đó, sao lại không ở lì như vậy mà lại phát ra tiếng nổ Big Bang ? Như vậy trong 2 thời kỳ tiền Big Bang và hậu Big Bang, cái nào là thường hằng bất biến ? Rõ là mâu thuẫn phi lý khi gán cho vũ trụ có một bản thể thường hằng bất biến. Nhưng khoa học vẫn là sự thật không thể chối cãi. Ngược lại với hiện hữu độc lập là hiện hữu trong thế tương quan gồm tương liên, tương tác và tương tạo giữa mọi sự vật, trong đó mọi cái gọi là bản chất hay bản thể nào đó đều phải tan biến đi không còn gì nữa. Hiện hữu trong thế tương quan là giáo lý cốt lõi của đức Phật Thich Ca với tên gọi là thuyết Duyên khởi( Pratyasamutpada). Theo thuyết nầy, không có sự hiện hữu nào độc lập, hiện hữu độc lập là một điềukhông tưởng, và do đó, không có một hữu thể nào là bản thể thường hằng bất biến. Thử suy nghĩ về 2 điểm:

1) Nếu thế gian nầy có một bản thể thường hằng bất biến thì nó phải hiện hữu độc lập. Bất kể là có con người hay không có con người, nó vẫn là thế ấy và không bị ảnh hưởng. Nó không có liên quan gì đến con người thì làm sao con người có thể hội nhập được vào nó để nhận lấy nó là bản thể của chính mình ? Tính bất khả tới gần nầy (the inaccessibility) của hữu thể ấy có thể ví như đi du lịch vào một quốc gia mà không thể mua vé, không thể có hộ chiếu và giấy thông hành, do là không có liên quan gì, thì làm sao vào được ? Nếu bản thể thường hằng nầy là thật có (thí dụ như Thượng đế, Đại Ngã hay Qui luật, v.v..) thì mọi sự tu hành, thiền tập hay hành thiện đều vô nghĩa vì không thể tới gần được những thực thể được gọi là cao cả ấy. Trong đạo Phật, nếu gọi chúng là những thực thể thì không đúng, phải nên gọi là “ảo thể” vì chúng vốn không có thật. Hướng về chúng là chạy theo ảo tưởng của chính mình, dĩ nhiên cũng có thể có ích lợi cho mọi người nếu ảo tưởng đó là thiện hoặc cũng có thể gây ác hại nếu ảo tưởng đó là ác, nhưng tuyệt nhiên không thể nào có giác ngộ giải thoát, cái mà người theo chủ thuyết Thường thuyết nầy gọi là “ nhập vào bản thể” hay “đường vào bản thể “ hay “đắc đạo”, v.v….

2) Còn nếu cho rằng thế gian hay vũ trụ hàm chứa luôn con người trong đó thì cái bản thể bất biếnthường hằng ấy của thế gian ở đâu không thấy, mà chỉ thấy sanh lão bệnh tử, một sự vô thường trơ tráo. Nếu bản chất nào là thường hằng thì ác là vẫn luôn là ác, không thể tu hành đắc đạo được, còn thiện là vốn thiện, không cần phải tu hành chi cả. Ác cũng không đáng trách, thiện cũng không đáng hoan nghênh, phi lý không ?

Tất cả những điều phi lý nầy cho chúng ta thấy rằng : bản thể thường hằng bất biến là một điều không tưởng, là một sản phẩm của trí tưởng tượng . Lý thuyết về Thường thuyết nầy trong kinh Phạm Võnggọi là Thường trú luận, một loại vọng tưởng về quá khứ, là một tà kiến với 4 luận chấp trong số 62 món tà kiến mà đức Phật đã giảng dạy.(Xem Trường Bộ Kinh- Kinh Phạm Võng- Digha-Nikaya- Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali). Với Thường thuyết nầy, ý niệm về linh hồn, về Thượng đế, hoặc về Qui luật được thành lập. Nhưng trong giáo lý đạo Phật, chúng ta luôn hiểu rằng: 1) Không có một linh hồn nào như vậy 2) Không có một Thượng đế nào như vậy và 3) Không có một qui luật nào như vậy.

Linh hồn: đức Phật thay thế chữ linh hồn bằng từ ngữ “thân trung ấm” để tránh hiểu lầm đó là một cái gì cố định và có bản chất hay tự tính. Thân trung ấm là một tập hợp, là một loại uẩn (skandha) không có tự tánh cố hữu, luôn thay đổi (thí dụ như khi thiện, khi ác)

Thượng đế: con người lọt vào ý niệm tôn thờ một “Thượng đế” khi chủ trương một phần thường trú luận và một phần vô thường luận, cho rằng: bản ngã và thế giới là thường hằng đối với một hạng hữu tình (Thượng đế, Hóa sanh chủ, Sáng tạo chủ) và vô thường đối với hạng hữu tình khác (chúng sanhđến sau trong thế giới ấy). Người tới sau trong thế giới nầy tưởng lầm rằng người tới trước sanh ra mình. Người tới trước do cô độc ban đầu, ước nguyện muốn có nhiều người tới ở chung; ước nguyệnđược thành tựu bèn vọng tưởng rằng chính mình sanh ra những kẻ tới sau. Đây là những vọng tưởngvề quá khứ của cả 2 loại hữu tình nói trên. Vọng tưỏng nầy là vô minh, là một tà kiến . Do vì nhờ có tu nên thấy biết được một đời quá khứ, chứ không thấy biết được nhiều đời trước nữa. Tà kiến nầy cũng được phân biệt thành 4 loại luận chấp trong số 62 món tà kiến mà đức Phật đã giảng dạy (Xem Trường Bộ Kinh- trang 17 kinh Phạm Võng, Thượng Tọa Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali).

Qui luật: thuyết vô thường đánh ngã tất cả những gì được gọi là thường hằng. Vì vậy không có qui luật nào cố định được xem như là bản thể.

2) Thuyết Duyên khởi và Tính Không:

Cả 3 ý niệm trên về linh hồn, Thượng đế và Qui luật đều trở thành phi lý trước thuyết Duyên khởi ( Pratityasamutpada= Dependent Origination) của đức Phật Thích Ca. Thuyết đó là: các pháp trên thế gian đều hiện hữu trong thế tương quan (tương liên, tương tác và tương tạo= interdependence, conditioning co-production), nên không có sự hiện hữu nào độc lập. Lý vô thường ( Impermanence) xuất hiện từ đây: sự vật luôn thay đổi nên không có bản chất bất biến, không có tự tính, đây là lý Vô ngã. Sự thay đổi tương tục nối tiếp nhau trong dòng thời gian tạo ra lý Nhân quả ( Theory of Cause and Effect= Karma). Từ lý Vô thường, con người có sinh lão bệnh tử. Từ Sinh Tử và Nhân quả, thuyết Luân hồiđược thành lập. Vì pháp thế gian biến đổi vô thường tương tục từ vô thủy đến vô chung, nên nó không có chơn tướng riêng, và do vậy cũng không có tên gọi nào cho xứng về phương diện tuyệt đối, đây gọi là vong thân danh từ, tức là Tính Không về đối tượng. Thuyết Nhị đế xác định tên gọi tương đối theo qui ước thế gian (thí dụ cái bàn, cái ghế,v.v…). Đó là Tục đế, còn tên gọi tuyệt đối thì bị vong thân, trở thành không tên trong Chân đế. Tính Không về chủ thể (người quan sát) là Tâm Không. Người chứng được Tính Không là người có Tâm Không (tâm rỗng rang trước đối vật), thấy được Tướng Không của sự vật ( “Thị chư pháp Không tướng” trong Bát Nhã Tâm Kinh), thấy sự vật là vô tướng. Đó là người đã dứt bặt Tham Sân Si.



So sánh Tính Không trong Hư vô chủ nghĩa và Tính Không trong Phật giáo, chúng ta thấy có một khác biệt lớn lao, đó là lý Nhân quả. Hư vô chủ nghĩa khơi dậy một nỗi tuyệt vọng tận đáy lòng khi mọi giá trịvề hành vi hay đạo đức đều bị sụp đổ trong ý niệm rằng: không nhân không quả, không tội không phước, chết là hết. Ngược lại, lý nhân quả trong đạo Phật dựng lại cho con người mọi ý nghĩa sáng tạocủa cuộc sống, một niềm tin về mọi giá trị của những hành vi của mình. Lại có thêm thuyết luân hồi, báo tin mừng cho mọi người biết rằng chúng ta không bao giờ chết, mà chỉ chuyển sang một thân thể khác ở kiếp sau, tuy không có một linh hồn được hiểu sai theo quan niệm thường kiến của mọi người.

3) Phật giáo có phải là vô thần không ?

Đạo Phật không tin vào một bản thể thường hằng bất biến, hay một Thượng đế siêu phàm vĩnh cữu. Điều nầy dẫn tới sự hiểu lầm hoặc nghi vấn rằng: đạo Phật là vô thần ? Sự thật là không. Chẳng hạn như Tông phái Tịnh độ Tông tuy tin rằng đức Phật A Di Đà là vô lượng thọ, là hiện hữu lâu dài không tính đếm nổi, nhưng không có nghĩa là đức Phật nầy hiện hữu vĩnh cữu, nghĩa là đến một thời điểm nào đó cũng sẽ lui mất. Lui mất đi rồi thì đi đâu và làm gì, ở đâu ? Chỉ có Phật với Phật mới biết. Phàm phu chưa giác ngộ như chúng ta chỉ có thể ước lượng rằng ngài biến thành một vị Phật khác ở một cõi Phậtkhác do một nguyện lực mới phát khởi tự chính ngài, và điều nầy không tạo ra do một bản chất bất biếncố hữu nào hết. Phật tánh là một cái gì sinh động, biến thiên không dừng nghỉ, chứ không phải là chết cứng, cố đặc theo một công thức hay qui luật nào hết, nghĩa là hoàn toàn sáng tạo. Vì vậy thuyết Vô ngã của đức Phật chi phối luôn cả Phật tính và Niết Bàn: hai thứ nầy cũng đều thiếu vắng tự tánh. Đối với người phàm phu như chúng ta, khi cái chết đến, thân xác tan rã biến thành một dạng năng lượng có ý thức gọi là trung ấm thân trước khi nhập thai hoặc sanh vào một thân xác mới, hữu hình hoặc vô hình trong 6 nẻo luân hồi: trời, người, A Tu La, Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, hoặc nếu có tu, đắc quả Vô Sanh thành A La Hán. Thuyết Duyên khởi trong ý nghĩa sự tương liên, tương tác và tương tạo giữa các chúng sinh hữu hình và vô hình, làm thành thuyết cứu độ của các vị Phật đã thành và của các vị Bồ tát, đối với các chúng sanh khác đang trên con đường tu tập. Đây là điều rõ ràng rằng đạo Phật không phải là vô thần.

4) Sự khác nhau giữa Phật và chúng sinh:

Trong kinh điển có ghi lời Phật rằng: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành” ngụ ý dạy rằng mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, là một mầm mống, một hạt giống để trở thành Phật, ví như một chiếc gương bị bụi Tham Sân Si bu bám, khiến nó lu mờ, vô minh. Chỉ cần ra công lau chùi, nó sẽ trở nên sáng bóng. Tham sân si (tam độc) cũng không có thực chất, không có tự tính, đều là những cấu hợp (aggregates), tạo nên thân thể con người, gọi là thân ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Khi tam độcnầy tan rã, hành giả chứng được Tánh không (tâm rỗng rang trước đối vật) từ địa hạt vi mô (từng giây phút) đến địa hạt vĩ mô (một thời gian dài), đắc quả giải thoát khỏi luân hồi sanh tử. Thân xác vật chấtkhông còn nữa. Đổi lại, hành giả nầy có được một thân mới có trí tuệ siêu việt, là thân năng lượng dưới dạng ánh sáng thuần khiết, có thể đi đây đi đó vô giới hạn để gặp gỡ giúp đỡ những người mình muốn giúp.

Người phàm phu và bậc giải thoát chỉ khác nhau ở chỗ là mê mờ và sáng suốt, nhưng cả hai đều đồng một Tánh giác (Tánh biết): Biến kế sở chấp tánh hoặc Y tha khởi tánh hay Viên thành thật tánh cũng đồng một thể, ví như cùng là nước trong đại dương, bất kể là lúc nổi thành sóng dữ gào thét (Biến kế sở chấp của Tham Sân Si) hay yên lặng như tờ lúc biển yên (Viên thành thật của vô tâm). Đó là phân tích theo Duy thức học tức Pháp Tướng tông. Tuy nhiên, với cái nhìn phóng khoáng về cùng một Tánh biết nói trên, Pháp Tánh tông (hay Thiên thai tông) qui gán hai đối cực lại thành một thể: Phật và chúng sanh là một (đã thành và chưa thành), Niết Bàn và Sanh tử là một, Giải thoát và Luân hồi là một, Bồ đềvà Phiền não là một. Ý niệm nầy của Pháp Tánh tông thật là hết sức vi diệu, nhưng lại trừu tượng khó hiểu nếu không được cụ thể hóa bằng hình ảnh một đồng xu gồm 2 mặt sấp và ngữa: Ngữa lên là Phật, lật lại là Chúng sanh, ngữa lên là Niết Bàn, lật lại là Sanh tử, ngữa lên là Giải thoát, lật lại là Luân hồi, ngữa lên là Bồ đề, lật lại là Phiền não. Đó chỉ là giả dụ trong cái nhìn phóng khoáng mà thôi trong bình diện vi mô (từng giây phút), chứ thật ra, trên bình diện vĩ mô (một thời gian dài), lật sấp muốn trở thànhlật ngữa, đồng xu (tức hành giả) phải trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp tu tập trong chánh pháp. Ví dụ về đồng xu nầy cũng cho ta thấy rằng: Niết Bàn hoặc Phật tánh, hay Giải thoát, không hề có một bản chấtbất biến trường tồn nào hay một bản thể vĩnh cữu nào chi phối. Và cũng nên nhớ rằng mặt sấp hay mặt ngữa của đồng xu không phải là một trò chơi hên xui của Hư vô chủ nghĩa, mà là một sự chuyển mình trong nỗ lực phi thường của hành giả bị chi phối bởi luật Nhân quả (karma) trong quá trình vĩ mô dài hạn mà ta gọi là tiệm ngộ. Không có cái gọi là “Hoát nhiên đại ngộ” hay đốn ngộ của “Pháp ngoại biệt truyền, Bất lập văn tự, Trực chỉ chơn tâm, Kiến tánh thành Phật” . Ý nghĩa đốn ngộ nầy chỉ là thấy được một loé sáng rồi vụt mất trong đêm tăm tối (trong nghĩa vi mô) mà thôi. Nếu kiến tánh thành Phật dễ như vậy thìngười ta thành Phật hết rồi !

5) Tan rã và buông bỏ:

Trong môn Tâm lý học, Tham Sân Si được xem là bản ngã (self, ego) của con người. Tam độc Tham Sân Si nầy có thể rút gọn lại thành một cái ngắn gọn là Tánh tham, vì Sân và Si cũng từ Tham mà ra. Với thuyết Vô ngã, tánh Tham, như bao nhiêu pháp khác, cũng không có tự tánh của nó. Nó chỉ là một cấu hợp, là một uẩn (skandha). Đề tài “Hãy chuẩn bị cho một sự tan rã “ không phải chỉ có nghĩa là chuẩn bị cho cái chết, mà bây giờ là chuẩn bị cách thức để đập tan bản ngã. Hãy nhìn kỹ: Bản ngã, cũng như Tham Sân Si, vốn không có thật. Chúng ta không cần đập nó tan rã, mà chỉ cần buông bỏ nó. Những tâm tánh đặc trưng của các cõi là: tánh tham và dâm dục ở cõi quỉ đói, tính phóng dật thích thúở các cõi trời, tính kiêu mạn đố kỵ ở cõi A Tu La, tính ghen tỵ ở cõi người, tính thù hận giận dữ ở các cõi địa ngục, là những đối tượng bên trong cần buông bỏ. Ngoài ra, những đối tượng bên ngoài gồm thế giới và người thân cũng là những sợi dây oan trái ràng buộc, tù hãm chúng ta trong một cái rọ kiên cốkhó thoát ra được. Cách đối trị hai loại đối tượng bên trong và bên ngoài nầy đã được đề cập trong bài ”Thoát khỏi luân hồi” trong Đặc san Hiện thực số 40/2017 , quí vị có thể tìm thấy chi tiết ở đó. Dưới đây, tôi chỉ muốn nhấn mạnh và khai triển thêm phần khó làm nhất trong những đối tượng trên, đó là làm thế nào để khắc phục sự tham luyến thế giới và người thân trong giờ phút lâm chung. Nếu khôngkhắc phục được điều nầy, mục tiêu giải thoát sẽ không thể tiến tới được.

1. Tham luyến thế giới, quốc gia, quê hương, làng xóm mình đang sống:

Muốn khắc phục điều nầy cần có những chuẩn bị lâu dài về thói quen sống ẩn dật (hạnh A Lan Nhã) chẳng hạn như không muốn làm nổi bật mình giữa đám đông, cũng như về lối giao tiếp với bạn bè , thí dụ như giữ cân bằng và độc lập với họ. Đại sư Liên Hoa Sanh có khuyên rằng trong giờ phút lâm chunghãy buông bỏ mối quan tâm đối với thế giới nầy

2. Tham luyến người thân trong gia đình:

Đại sư Liên Hoa Sanh khuyên rằng: trong giờ phút lâm chung, hãy buông bỏ sự dính mắc với bất cứ ai mà bạn có mối quan liên mạnh mẽ nhất trong đời nầy.

Điều nầy phải được chuẩn bị từ trước trong thói quen suy nghĩ và hành động, hướng đến mục tiêu làm tròn bổn phận cho ngưòi thân của mình. Đây là nghiệp mà mình phải trả cho họ. Khi tròn bổn phận rồi thì đừng khởi tâm tham luyến nữa. Nếu vì quá thương tiếc không nỡ ra đi thì hãy nên nghĩ rằng: Ta đã từng có cả triệu người cha (hay mẹ, hay con cái) trong nhiều kiếp trước rồi, sao ta không thương tiếc họ đi ? Có ích lợi gì không ?

Nếu nghĩ như thế mà chưa hết tham luyến, hãy nghĩ thêm rằng: tất nhiên ta chắc chắn sẽ gặp lại cha ta, (hay mẹ ta, hoặc con ta). Hãy nhớ rằng, theo Du Già Sư Địa Luận (Yogacarabhumi) được thánh giả Vô Trước (Asanga) ghi chép lại từ Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) thì con người chết đi và đầu thai lại chỉ luẩn quẩn trong vòng những người thân của mình trong vô lượng lần. Điều nầy cũng dễ hiểu, vì rất hiếm ai tìm đến những nơi xa lạ không quen thuộc, thí dụ như Việt kiều khi đi du lịch, hầu hết là thích về Việt Nam hơn là về những xứ xa lạ như Ả Rập hay A Phú Hãn. Đầu thai lại, dầu là không nhận biết được nhau, nhưng gặp lại là được rồi. Nghĩ như vậy thì giảm bớt được tham luyến. Hãy nghĩ thêm một bước thứ hai nữa là: gặp lại trong hoàn cảnh của kiếp mới chưa chắc sống với nhau được tốt đẹp như kiếp nầy, biết đâu còn tệ hại hơn, do điều kiện sống có thể khác xa. Rồi thì, thân có thể trở thành thù, rồi thù có thể biến thành thân. Tình cảm nào cũng vô thường, cũng có 4 giai đoạn sinh trụ hoại diệt, đừng nên quan trọng nó làm gì. Suy nghĩ với những bước như vậy cho thành thói quen, đến lúc lâm chung sẽ thuần thục, sẽ không bị dính mắc.



Lê Tâm Minh

Thứ Tư, 13 tháng 12, 2017

THUYẾT NHÂN DUYÊN


Tuệ Thiện Nguyễn Tối Thiện

Để diễn tả sự liên hệ giữa hai sự vật trong vũ trụ, triết học Trung hoa đưa ra nguyên lý Ngũ Hành bao gồm 5 yếu tố tượng trưng cho năm cơ quan tạng phủ hay năm năng lực khí hóa : Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Nguyên lý Ngũ Hành có thể được phát biểu như sau : « phàm cái gì hiện hữu đều có cái sinh ra nó, cái khắc nó, cái nó sinh ra và cái nó khắc, tạo thành một toàn thể 5 yếu tố liên hệ chặc chẻ. »
Nguyên lý này áp dụng cho các phần tử (éléments) vật chất hoặc các năng lực khí hóa nhưng nó bị giới hạn trong một đơn vị thời gian nào đó tùy theo sự vận hành của yếu tố vật chất nầy.
thuyet nhan duyen
Phật giáo đưa ra hai nguyên lý để giải thích sự tương quan nầy : Duyên Sinh và Duyên Hệ
1/ DUYÊN SINH : (hay DUYÊN KHỞI) là nguyên lý giải thích sự tương quan nhân quả trong tiến trình sinh tử, tử sinh của chúng sanh trong vòng luân hồi. Nguyên lý Duyên sinh có thể được phát biễu như sau :
« Khi cái nầy có, cái kia có.
Khi cái nầy không có, cái kia không có ».
2/ DUYÊN HỆ : là nguyên lý đề cập một cách tổng quát và rốt ráo sự tương quan giữa hai yếu tố có thể là vật chất hay tinh thần, đồng thời còn cho biết đặc tính của sự liên hệ giữa hai yếu tố.
Nguyên lý Duyên hệ tiến xa hơn một bước :
« Khi cái nầy có, cái kia không có
Khi cái nầy không có, cái kia có
Cái sinh sau trợ duyên cho cái sinh trước (hoặc ngược lại)
Cái yếu trợ duyên cho cái mạnh (hoặc ngược lại) »
Chúng ta thử đi vào chi tiết các nguyên lý nầy.
DUYÊN SINH hay DUYÊN KHỞI
Duyên sinh hay Duyên khởi dịch từ chữ Paticca Samuppada (paticca= tùy thuộc, dựa vào ; samuppada = sanh khởi, phát sinh) nên còn được gọi là thuyết « Tùy thuộc phát sinh » hay thuyết « Thập Nhị Duyên Khởi » hoặc « Thập Nhị Nhân Duyên ». Đây là thuyết nói về 12 yếu tố liên quan Nhân và Quả với nhau. Yếu tố trước là điều kiện trợ duyên cho yếu tố sau sanh khởi để hoàn thành diễn trình sinh tử của vòng luân hồi. Thuyết nầy nêu ra những điều kiện nào duy trì sự vận hành của bánh xe sanh tử và làm cho nó xoay chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác.
1/ VÔ MINH : là sự thể hiện của nhân Si (tâm sở Si), nói lên sự không sáng suốt, không chính xác, mù mờ diễn tiến của tâm trên hoài nghi và phóng tâm. Vô minh là không biết những gì xảy ra trong tâm mình (vô ký).Vô minh là không biết cái đáng biết và biết cái không đáng biết.
Những cái đáng biết là : khổ đau, nguồn gốc của nó, trạng thái giải thoát khỏi khổ đau và con đường dẫn tới sự chấm dứt của khổ đau (Tứ Diệu Đế)
Những cái đáng biết là : danh sắc trong hiện tại (pháp thiền để nhận diện danh sắc) ; danh sắc trong quá khứ và vị lai (sự luân hồi) ; Nhân duyên để làm cho danh sắc sanh khởi, lưu chuyển và tái diễn (nhân quả, nghiệp báo).
Phật giáo dạy ta 3 mức độ của sự hiểu biết :
- hiểu biết qua sách vở, danh từ
- hiểu biết qua sự suy nghĩ, luận giải
- hiểu biết nhờ sự thâm nhập thấu đạt thực trạng của sự vật. Trí tuệ trực giác nầy chỉ có được khi tâm đã được gột rửa mọi bợn nhơ, lậu hoặc .
Mặc dầu Vô Minh được nêu lên đầu tiên trong chuỗi 12 nhân duyên, nhưng không nên coi Vô Minh như một nguyên nhân đầu tiên của chúng sanh, nhất là xem nó như một nguyên lý của vũ trụ. Vô Minh có nhân duyên là lậu hoặc
Như Thanh Tịnh Đạo (chương XVII, mục 36) đã viết : « Khi lậu hoặc sanh khởi, vô minh sanh khởi ».
Nói tóm lại:
* Bản chất của Vô Minh là tâm sở Si.
* Thể hiện của Vô Minh là sự không sáng suốt, mu mờ của tâm diễn tiến trên sự hoài nghi phóng tâm và không thấu hiểu những điều đáng biết.
* Kết quả của Vô Minh : làm vận chuyển sự luân hồi
* Nguyên nhân của nó là lậu hoặc
2/ Vô minh duyên cho HÀNH:Hành là sự chủ tâm, cố ý hành động qua thân khẩu ý để tạo nghiệp thiện, nghiệp bất thiện hoặc không tạo nghiệp : hành đồng nghĩa với nghiệp. Về phương diện đạo đức có 3 loại hành :
a/ Phúc hành : là nghiệp thiện qua thân, khẩu, ý :
- Qua thân : bố thí, trì giới, tham thiền, phục vụ, kính trọng người đáng kính, hồi hướng công đức, tùy hỉ, học đạo, luận đạo, rèn luyện chánh kiến.
- Qua khẩu : nói lời chân thật, lời đoàn kết, hòa nhã, lời lợi ích.
- Qua ý : tu tập không tham, không sân, không ngã mạn, không tà kiến, không nghi ngại.
b/ Phi Phúc hành : là nghiệp bất thiện qua thân, khẩu, ý :
- Qua thân : bỏn xẻn, ôm giữ, phá giới (phạm luật), ăn chơi hưỏng thụ, khinh khi người già, ganh tức, ghen ghét, không học hỏi đạo lý, không trao đổi ý kiến, chấp thủ tà kiến, buôn lậu, bán vũ khí, chất độc hại, buôn bán nô lệ.
- Qua khẩu : nói dối, nói đâm thọc, nói thô lỗ, nói nhảm nhí.
- Qua ý : tư tưởng tham ái và ngã mạn, ý nghĩ sân hận và bạo hành, những tư tưởng diễn dịch sai thực tại, những tư tưởng đi ngược lại với định luật thiên nhiên và con người.
c/ Bất động hành : là những hành động không tạo nghiệp, không tốt không xấu.
Nói tóm lại :
* Bản chất của Hành : là sự phối hợp của tâm với một số tâm sở thích hợp dưới sự chủ động của tâm sở tư (cetana) để tạo nghiệp.
* Thể hiện : hành động qua thân, khẩu, ý.
* Kết quả : nghiệp thiện, nghiệp bất thiện, hoặc không tạo nghiệp.
* Nguyên nhân trực tiếp là Vô Minh.
3/ Hành duyên choTHỨC
Thức là thành phần tinh thần cấu tạo nên con người. Có nhiều loại thức tùy theo nhiệm vụ của mỗi loại trong số 14 nhiệm vụ. (Xin xem thêm bài Ngũ uẩn của cùng tác giả). Ở đây trong Thuyết Duyên Khởi, Thức là Thức tái sinh (Patisandhi vinnana) là tâm nối liền kiếp sống trước với kiếp sống sau làm cho dòng luân hồi tiếp diễn liên tục. Thức tái sanh chỉ xảy ra trong một satna khi noãn và tinh trùng gặp nhau trong lúc thụ thai. Thức tái sanh thu nhận tất cả những chủng tử nghiệp từ kiếp sống trước và bắt đầu một cuộc hành trình mới. Có một sự trao đổi thông tin giữa tâm tử của chúng sanh trước và tâm tái sinh của chúng sanh mới ở kiếp nầy. Nguồn năng lượng tải chở những thông tin nầy không thay đổi, cũng giống như nguồn điện lực thấp sáng ngọn đèn đã chết và ngọn đèn mới được thay vào. Có thuyết cho rằng đây chính là năng lượng quang tử (énergie quantique) khi biến khi hiện trong vũ trụ. Không phải tâm nào cũng làm được nhiệm vụ tái sanh, chỉ có 19 tâm quả tương ứng với nghiệp đã đủ nhân duyên để trở thành thức tái sanh.
Nói tóm lại :
* Bản chất của thức : 19 tâm quả làm việc tái sinh.
* Thể hiện : sự tái sanh
* Kết quả : vòng luân hồi tiếp diễn
* Nguyên nhân : hành (nghiệp)
Còn nghiệp thì còn tái sanh, hết nghiệp thì hết tái sanh.
4/ Thức duyên cho DANH SẮC :
Danh Sắc ở đây chính là bào thai đã được hình thành, noãn đã được thụ thai.
Danh ở đây thể hiện cho các tâm sở đồng sanh với tâm tái sanh tức là Thọ, Tưởng, Hành ( 3 uẩn: thọ, tưởng, hành).
Sắc biểu thị cho các sắc sanh do nghiệp. Có 18 loại sắc sanh ra do nghiệp là : 8 sắc bất ly, 5 sắc thần kinh, 2 sắc phái tính, sắc mạng quyền, sắc ý vật và sắc hư không.( xem them bài ngủ uẩn)
- Nếu tái sanh ở cõi có Ngũ uẩn thì Thức duyên cho cả Danh và Sắc.
- Nếu tái sanh ở cõi vô Sắc thì chỉ có 4 uẩn (thọ, tưởng, hành, thức), nên Thức chỉ duyên cho Danh mà thôi.
- Nếu tái sanh ở cõi vô tưởng chỉ có sắc uẩn, thì Thức chỉ duyên cho Sắc.
Nói tóm lại :
* Bản chất của Danh-Sắc : thức tái sanh + các sắc do nghiệp sanh.
* Thể hiện : một chúng sanh mới ra đời.
* Kết quả : sự hình thành của Ngũ uẩn.
* Nguyên nhân : của danh-sắc là thức tái sanh.
5/ Danh Sắc duyên cho LỤC NHẬP
Lục nhập là sự hình thành và phát triển của Lục Căn (hay 6 nội xứ) tức là hệ thần kinh của 5 giác quan và của não bộ. Ở tuần lễ thứ 6 chúng ta đã thấy tượng hình những bộ phận thần kinh của các giác quan (Ở tuần lễ thứ 28 óc não đã có hình dạng bình thường nhưng phải đợi đến 25 tuổi thì óc não con người mới hoàn thành sự phát triển. Đối với Phật giáo ý căn là giác quan thứ 6. Như vậy trong bụng mẹ thai bào đã có thể : nghe, nếm, đụng (trừ thấy vì không có ánh sang và ngửi vì không c ó mùi hương ). Vừa sanh ra là đứa trẻ có thể nhìn thấy.
Trung bình từ 18 tuần lễ (vị giác) cho đến 28 tuần (thính giác), 25 tuần (thị giác) là các giác quan đã có thể hoạt động được.
Nói tóm lại:
- Bản chất của Lục Nhập : chính là Lục Căn hay 6 nội xứ
- Thể hiện : sự phát triển và hoàn thành của Lục Căn
- Kết quả : Lục Căn đã có thể tiếp xúc với Lục trần khi sanh ra
- Nguyên nhân : trực tiếp của Lục nhập là danh sắc.
6/ Lục nhập duyên cho XÚC
Xúc là sự gặp gở của Căn, Trần, Thức. Khi Xúc sanh khởi ở nhãn căn (thần kinh mắt) thì gọi là nhãn xúc
Như vậy có 6 loại xúc tương ứng với 6 căn : Nhãn xúc, Nhĩ xúc, Tỷ xúc, Thiệt xúc, Thân xúc, Ý xúc. Thân xúc rất quan trọng trong thiền ,nhất là thiền hơi thở và thiền Tứ Oai Nghi.
Xúc chính là tâm sở Xúc kết hợp với các tâm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức.
Nói tóm lại:
- Bản chất của Xúc : là tâm sở Xúc
- Thể hiện : sự gặp gở của căn, trần, thức
- Kết quả : xuất hiện của Thức quả
- Nguyên nhân : của xúc Lục nhập
7/ Xúc duyên choTHỌ :
Thọ là cảm tính của tâm, bao gồm khía cạnh cảm giác và tình cảm của nó. Thọ chính là Thọ uẩn là một tâm sở trong 52 tâm sở. Không có tâm nào mà không mang màu sắc cảm tính.
Có 5 loại thọ kết hợp với 6 loại thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức) : Lạc (thân dễ chịu), Hỉ (tâm dễ chịu), Khổ (thân khó chịu), Ưu (tâm khó chịu), Xả (thân, tâm trung tính).
Nói tóm lại :
- Bản chất của Thọ : là tâm sở Thọ
- Thể hiện : Lạc, Hỉ, Khổ, Ưu, Xả
- Kết quả : sự xuất hiện của Thọ qua 6 loại Thức
- Nguyên nhân : Xúc
8/ Thọ duyên ÁI (vedana-paccaya TANHA)
Ái là tham lam, ham muốn, khao khát, tâm cầu
Là sự thể hiện của tâm Tham qua 6 cửa : Sắc ái, Thinh ái, Hương ái, Vị ái, Xúc ái, Pháp ái, Chúng ta muốn nhìn thấy màu sắc, hình ảnh đẹp mắt, muốn nghe những âm thanh êm dịu, muốn ngửi những mùi hương nông nàn, muốn ăn những món ngon béo, muốn sờ đụng những vật mịn màng, muốn hay biết những điều thú vị. tham đắm các dục lạc thế gian
Theo quan điểm triết học Ái có 2 loại :
-Hữu Ái (bhava tanha) : sự ham muốn hiện hữu (désir ardent pour l’existence). Hữu ái được phân chia làm 3 loại nữa :
- Dục ái (kamatanha) tham đắm các dục lạc thế gian: (désir ardent pour les expériences sensuelles)
- Sắc ái (rupatanha) : tham đắm trong cõi sắc giới (désir ardent pour les formes matérielles)
- Vô sắc ái (arupatanha) : tham đắm trong cõi vô sắc giới (désir ardent pour l'existence sans forme)
-Phi hữu ái (vibhavatanha), hay đoạn ái : ham muốn không hiện hữu ( désir pour la non-existence, ou d’auto-annihilation).
Trong định luật duyên khởi, đây là cái khâu (II) quan trọng nhất để thoát khỏi vòng luân hồi. Thật vậy vì nó xảy ra trong kiếp hiện tại, nên ta có thể tác động được. Còn khâu I xãy ra giữa quá khứ và hiện tại, cũng như khâu III xãy ra giữa kiếp hiện tại và kiếp vị lai, nên ta không thể hành động được.
Hành động như thế nào ?
* Khi ta cảm nhận một cảm giác vui thích hoặc khoái lạc tức khắc Ái sẽ sanh lên. Đó là một thói quen tập nhiễm lâu đời, Ái là tâm tham. Chúng ta muốn 6 trần phải êm ái, dễ chịu theo ý thích của mình và càng ngày càng có nhiều hơn nữa.
* Khi ta cảm nhận một cảm giác đau đớn, khổ sở (Thọ khổ, Thọ ưu) tức khắc Vô Ái (không thích) sẽ sanh lên. Vô Ái là sự bực bội, bức rức, bất bình, chối bỏ, tức giận đó là tâm Sân. Hoặc một loại Ái khác sanh lên là muốn đừng đau đớn khổ sở nữa. Như vậy ta thấy rõ ràng là THỌ duyên cho ÁI. Làm sao cắt đứt mối tương duyên nầy ? Chỉ có thiền Tứ Niệm Xứ mới giúp ta làm được việc nầy, bằng cách quan sát các cảm thọ khi nó vừa sanh khởi, quan sát những trạng thái của tâm để nhận diện thế nào là tham, thế nào là sân, quan sát những đối tượng của tâm để thấy sự phát sanh và hoại diệt của chúng, để thấy những đặc tính thay đổi, bất tịnh gây khổ đau của chúng. Chỉ có quan sát như thế chúng ta mới tự tách rời ra khỏi lòng ham muốn, tâm sân hận, xem chúng như là một hiện tượng và không tự đồng hóa với nó, chúng sẽ bị tiêu hoại và không còn làm chủ ta được nữa.
Nói tóm lại :
- Bản chất của Ái : là tâm tham hợp với các sở hữu thuộc tham và những sở hữu khác.
- Thể hiện : sự ham muốn qua 6 cửa
- Kết quả : nghiệp bất thiện nuôi dưỡng sự luân hồi
- Nguyên nhân : do THỌ
9/ ái duyên choTHỦ :
Thủ là sự giữ chặt, không buông bỏ, như người đã ghiền rượu hay ma túy, khó mà xa lìa những thói quen ấy.
Có 4 loại Thủ :
a- Dục thủ : bám víu vào những thú vui dục lạc
b- Kiến thủ : bám víu vào những quan điểm cá nh ân hay sai lầm (những tà kiến)
c- Giới cấm thủ : bám víu vào những tập tục nghi lễ dị đoan, mê tín, không đưa đến giải thoát hay lợi ích tinh thần.
d- Ngã chấp thủ : bám víu vào ảo tưởng về một cái ta.
Thanh Tinh Đạo (XVII, 242) giải thích Ái là ham muốn những điều chưa đạt được, còn THỦ là bám chặt những điều đã đạt được (câu chuyên Nữ Hoàng thành con giòi)
Nói tóm lại :
- Bản chất của Thủ : là tâm tham hợp với với các sở hữu giống như Ái
- Thể hiện : qua 4 sắc thái dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã chấp thủ.
- Kết quả : có sự bám víu, giữ chặt.
- Nguyên nhân : ái
10/ Thủ duyên cho HỮU
Chữ HỮU (existence, devenir) chỉ định những cõi sinh tồn khác nhau trong 3 cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới và đồng thời cũng nói lên những tiến trình đưa đến sự tái sinh trong những cõi đó. (Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu)
Có hai loại HỮU
a/ Nghiệp Hữu : là sắc thái chủ động và nguyên ủy (nguyên động lực) của đời sống hay tất cả các loại nghiệp thiện và bất thiện dẫn tới kiếp sống mới.
Nói theo Vi Diệu Pháp là 29 tâm thiện và bất thiện hiệp thế hành động dưới sự điều khiển của tâm sở Tư (cetana)
b/ Sanh Hữu : là tiến trình tái sanh và kiến tạo ngũ uẩn, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ…
Hữu là nghiệp ở hiện tại còn Hành là nghiệp trong quá khứ .
Tóm lại :
- Bản chất : 29 tâm bất thiện và thiện hiệp thế.
- Thể hiện : tiến trình tái sanh vào 3 cõi : Dục giới , Sắc giới và Vô sắc giới
- Kết quả : (trở thành) cuộc sống trong 3 cõi.
- Nhân gần : của Hữu là Thủ.
11/ hữu duyên SANH : (JATI)
Đối với con người SANH diễn tả tiến trình từ lúc thụ thai cho đến khi ra khỏi bụng mẹ và tiếp tục cho đến hết tiến trình sinh trưởng (croissance). Ở người con trai có thể kéo dài đến 25 tuổi và con gái đến 18 tuổi.
Sự tái sinh của chúng sinh tùy thuộc 4 yếu tố : nghiệp, cách sinh, chủng loại, sự khẩn cầu của 1 vị trời.
a- Nghiệp : Nghiệp là căn nguyên của sự luân hồi. Chúng ta có nghiệp quá khứ (hành) và nghiệp hiện tại (hữu). Khi nào hết nghiệp thì hết tái sanh. Vì vậy cần phải tu để rũ sạch nghiệp
b- Cách sinh : - noãn sinh : những loài sinh từ quả trứng : chim, gà, vịt, rùa…
- thai sinh : như loài có vú sinh ra từ bào thai và cho con bú.
- thấp sinh : như loài ký sinh trùng sinh ra từ chỗ ẩm thấp.
- hóa sinh : tự sinh ra trực tiếp, không qua trung gian của cha mẹ như các vị trời, chư thiên, ma quỉ.
c- Chủng loại : Theo v ũ tr ụ luận c ủa Phật giáo, chúng sinh có 31 cõi sinh tồn
d- Sự khẩn cầu : trường hợp nầy rất hiếm, do sự khẩn cầu của vị trời Sakka, là vua của cỏi trời 33, một vị trời có thể tái sinh làm người trong một gia đình đã được chọn lựa trước để sau nầy có thể đảm nhiệm một vai trò quan trọng trong xã hội loài người như là sẽ trở thành 1 chuyển luân thánh vương, một vị Phật.
Tóm lại : - Bản chất : là sự khởi đầu của một chúng sanh.
- Thể hiện : qua 4 cách : noãn, thai, thấp, hóa.
- Kết quả : một chúng sinh ra đời và trưởng thành.
- Nhân gần : là hữu (nghiệp).
12/ Sanh duyên cho LÃO TỬ
Lão, Tử là tiến trình ngược lại của sự sinh và trưởng. Tiến trình Lão hóa (sénescence) bắt đầu khi tiến trình sinh trưởng (croissance) chấm dứt vào khoảng 30 tuổi. Tiến trình sinh trưởng của bộ óc con người chấm dứt vào khoảng 25 tuổi.
Sau 30 tuổi chỉ còn là Hoại và Diệt. Đó là lẽ thường. Không nên có ảo tưởng là chúng ta trẻ mãi không già.
Sự Tử cũng giống như sự Sinh, chỉ xảy ra trong 1 satna tâm, khi đó mọi chủng tử nghiệp được trao truyền, giữa hai chúng sinh, vừa chết bên nầy và sẽ sinh ra bên kia thế giới để tiếp tục cuộc luân hồi không dứt.
Đối với khoa học sự chết xãy ra khi điện não đồ trở nên đường thẳng, không còn những sóng não lến xuống theo nhịp độ nữa.
Theo đạo Phật có 4 cách chết :
a/ Chết vì hết tuổi thọ : tuổi thọ của mỗi loài sinh vật đã được định trước theo những định luật di truyền và những điều kiện sinh sống của mỗi loài, mỗi cá thể. Tuổi thọ của con người ở các nước văn minh được kéo dài. Hiện tại Nhật và Pháp là những nước có nhiều người sống trên 100 tuổi nhất.
b/ Chết vì hết nghiệp : nghiệp ở đây có thể được hiểu là sinh nghiệp của kiếp sống đó hoặc nghiệp của toàn bộ kiếp sống của một chúng sinh, như vậy chúng sinh nầy đã đắt đạo quả A la Hán, đã thoát khỏi dòng sinh tử luân hồi.
c/ Chết vì hết tuổi thọ và hết nghiệp : đây là cái chết của người lớn tuổi, đã sống hết tuổi thọ sinh học và đồng thời hết nghiệp của kiếp sống đó
- hoặc là cái chết của một vị A la Hán đã hết tuổi thọ (như của Đức Phật, của ngài Ananda (120 tuổi), ngài Ca Diếp…) Những vị nầy đã chết vì hết tuổi thọ và đồng thời cũng chấm dứt mọi nghiệp báu từ những tiền kiếp.
d/ Chết vì một Đoạn nghiệp : có những Đoạn nghiệp cho quả làm cắt đứt thình lình dòng sinh nghiệp trước kỳ hạn của kiếp sống. Đây là cái chết bất đắc kỳ tử do tai nạn, bịnh tật, hoặc tự tử. Sinh nghiệp là năng lực có thể làm phát sinh và duy trì tâm và sắc trong đời sống hiện tại, đồng thời lúc vừa chết có khả năng tái tạo một đời sống mới, nó là sức mạnh để đưa đi tái sinh.
Tóm lại : - Bản chất : là sự hoại diệt của danh và sắc.
- Thể hiện : là sự đau đớn, khổ sở của thân và tâm do sự già yếu bịnh tật và sự chết hoặc sự suy yếu dần của thân tâm do tuổi già.
- Kết quả : 4 cách chết.
- Nguyên nhân : do có sanh mới có Lão và Tử.
Chúng ta đã học qua 12 yếu tố của thuyết Nhân duyên (hay Luật Duyên Khởi, hay còn gọi vòng luân hồi) trong đó chúng ta cần để ý những khía cạnh sau đây :
1/ Ba thời kỳ :
- kiếp quá khứ : gồm có : Vô Minh và Hành.
- kiếp hiện tại : gồm có từ Thức àHữu.
- kiếp vị lai: gồm có Sanh và Lão Tử.
Sự phân chia ra ba thời kỳ là để cho thấy cấu trúc sanh khởi của nhân quả trong vòng luân chuyển của các kiếp sinh tồn. Điều nầy không có nghĩa là các yếu tố chỉ có mặt cố định trong một thời kỳ mà không thể có mặt và tác động ở thời kỳ khác. Như ngay trong kiếp hiện tại, cả 12 yếu tố đều hiện hữu và tác động lẫn nhau.
2/ Ba Trục (hay 3 Khâu) :
- Trục I : giữa nhân quá khứ và quả hiện tại.
(HànhàThức)
- Trục II : giữa nhân hiện tại và quả hiện tại.
(Thọà Ái)
- Trục III : giữa nhân hiện tại và quả tương lai
(Hữuà Sanh)
3/ Bốn nhóm Tích Cực hoặc Tiêu Cực (hay Nhân và Quả)
- Năm Nhân (tích cực) quá khứ : Vô Minh, Hành (+ Ái, Thủ, Hữu).
- Năm Quả (tiêu cực) hiện tại : Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ.
- Năm Nhân (tích cực) hiện tại : Ái, Thủ, Hữu (+ Vô Minh, Hành)
- Năm Quả (tiêu cực) vị lai : Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ.
Trong 4 nhóm Nhân Quả (hay Tích Cực, Tiêu Cực) trên, Sanh và Lão Tử không được liệt kê vì chúng chỉ là đặc tính của danh sắc không phải là thực tại chân đế. Chúng tùy thuộc vào pháp chân đế là nhóm « Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ »
4/ Ba Vòng Luân :
- Phiền não luân gồm : Vô Minh, Ái và Thủ.
- Nghiệp luân gồm : Hành và một phần của Hữu là Nghiệp hữu.
- Quả luân gồm : Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Sanh, Lão Tử và,
một phần của Hữu là Sanh hữu .
Ba Vòng Luân cho thấy rõ mô hình luân chuyển của các kiếp sinh tồn trong cõi ta bà (vòng samsara). Quan trọng nhất là Phiền não luân : vì bị Vô minh che mờ và Ái Thủ lôi cuốn, nên ta mới tạo nghiệp bởi các hành động bất thiện cũng như thiện. Như vậy Phiền não luân trợ duyên cho Nghiệp luân sanh khởi. Quả sẽ trổ khi đầy đủ nhân duyên, như vậy Nghiệp luân trợ duyên cho Quả luân. Yếu tố quan trọng nhất trong Quả luân là Thọ. Quả thiện sẽ cho ta thọ Lạc hoặc thọ Hỉ, Quả bất thiện sẽ cho ta thọ Ưu hoặc thọ Khổ ; vì vẫn còn chìm đắm trong Vô minh và Ái Thủ nên ta vẫn bị Ái Dục hành xử, ta muốn những cảm giác Hỉ Lạc kéo dài và tăng thêm mãi mãi. Do đó Quả luân lại trợ duyên cho Phiền não luân.
Bằng cách nầy 3 vòng luân cứ vận chuyển cho tới khi Vô minh bị diệt tận gốc rễ bởi Tuệ Minh Sát là Trí Tuệ phát sinh do hành thiền Minh sát , để dẫn đến Tâm Siêu thế.
5/ Hai nhân gốc :
Thuyết Duyên khởi cho ta thấy rõ hai nhân gốc :
- Trong quá khứ Vô Minh khởi đầu cho giai đoạn tích cực tạo nghiệp (Hành).
- Trong hiện tại Ái dục cũng khởi đầu cho giai đoạn tích cực tạo nghiệp (Hữu)
Vô Minh là nguồn gốc của Ái Dục. Ái Dục là nhân sinh ra khổ đau. Vô Minh là cha, Ái dục là mẹ, khổ đau là con.(sư Giác Tuệ)
6/ Hai sự thật :
Quán xét Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều thuận từ Vô Minh đến Lão Tử cho ta thấy hai sự thật
- « Vô Minh, Hành » là Tập Đế quá khứ
« Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ » là Khổ Đế hiện tại
- « Ái, Thủ, Hữu » là Tập Đế hiện tại
« Sanh, Lão Tử » là Khổ Đế vị lai
7/ Áp dụng : quán niệm 12 nhân Duyên theo chiều thuận và chiều nghịch.
Đức Phật đã phân tách trong bài kinh « Đại Đoạn-Tận Ái »( MN38) do 1 vị tỳ khưu tên Sati, khi nghe kể về các truyện tiền thân của Thế tôn mới có ý nghĩ sai lầm về một Thức thường hằng luân chuyển từ đời nầy sang đời khác.Phật cho gọi ông để hỏi có thực ông nghĩ như vậy không ? Ông trả lời đúng như vậy. Phật nói đó là xuyên tạc lời ngài dạy và là một loại tà kiến (thường kiến).
-Rồi ngài giảng Duyên Sinh theo chiều nghịch từ Ái -> Vô Minh ;
-Sau đó ngài giảng theo chiều thuận toàn bộ Thập Nhị Nhân Duyên từ Vô Minh -> Lão Tử ;
-Tiếp theo ngài hỏi lại các tỳ khưu từng khoen sanh khởi của 12 Nhân Duyên bắt đầu từ Sanh : « này các tỳ khưu Sanh duyên Lão Tử, có phải vậy không ?...Vô Minh duyên Hành, có phải vậy không ? hay ở đây nghĩa như thế nào ?... » các tỳ khưư trả lời rằng họ cũng thấy như vậy. Ngài xác nhận ngài và các tỳ khưu đều nói cùng một ý là : « Khi cái nầy có, cái kia có. Với sự sanh khởi của cái nầy, cái kia sanh » Thập nhị Nhân Duyên là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
-Rồi ngài lại hỏi các tỳ khưu từng khoen hoại diệt của 12 Nhân Diệt bắt đầu từ Sanh : « này các tỳ khưu, do Sanh diệt nên Lão Tử diệt, có phải vậy không ?...Do Vô Minh diệt nên Hành diệt, có phải vậy không ? hay ở đây nghĩa như thế nào ?... » các tỳ khưu trả lời rằng họ cũng thấy như vậy. Ngài xác nhận ngài và các tỳ khưu đều nói cùng một ý là : « khi cái nầy không có, cái kia không có.Với sự diệt tận của cái nầy,cái kia diệt ». Thập nhị Nhân diệt là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn nầy.
DUYÊN HỆ
Nguyên lý Duyên Hệ được trình bày trong bộ Vị Trí (Patthana) là bộ thứ 7 của Tạng Luận, bộ sách quan trọng nhất và to lớn nhất của Tạng Diệu Pháp. Hệ thống Duyên Hệ trình bày 24 duyên, mà tên gọi diễn tả đặc tính của sự tương quan giữa Năng Duyên Pháp và Sở Duyên Pháp. Năng Duyên Pháp là cái tạo điều kiện duy trì, hỗ trợ, ảnh hưởng để cho Sở Duyên Pháp có mặt hay xuất hiện.
A- Lược giải 24 duyên hệ :
1-NHÂN DUYÊN(Hetu paccaya) : điều kiện tương quan giữa 2 pháp là 6 nhân : Tham, Sân, Si, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si.Thí dụ : Khi tức giận thì sắc mặt chúng ta thay đổi, lời nói và hành động của chúng ta dể sai lầm và ta lại tạo thêm oan trái cũng như nghiệp xấu.
2-CẢNH DUYÊN (Arammara p.) : điều kiện tương quan là 6 cảnh : sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.Thí dụ : chúng ta luôn luôn tiếp xúc với 5 cảnh bên ngoài và các cảnh bên trong (cảnh pháp) Nếu cảnh vui đẹp thì chúng ta vừa lòng thích thú, nếu cảnh xấu buồn thì chúng ta chán nản.
3-TRƯỞNG DUYÊN (Adhipati p.) : tương quan giữa 2 pháp do tính cách ưu việt, mạnh mẻ như một đối tượng có sức hấp dẫn mảnh liệt làm thống trị tâm và tâm sở đã bắt được cảnh đó (Cảnh Trưởng Duyên) hoặc do tính cách đồng sanh với một trong 4 yếu tố ưu thắng : Dục, cần, tâm, thẩm trong Tứ Như Ý Túc (ở đây ta có Đồng Sanh Trưởng Duyên).TD : trong một nhóm người có 1 người có ước vọng cao cả (Dục) và có trí tuệ nhìn xa hiểu rộng( thẩm), sẽ chinh phục được lòng người và được tôn là lảnh tụ của cả nhóm.( Gandhi, N.Mandela)
4-VÔ GIÁN DUYÊN (Anantara p.) : tương quan giữa hai pháp do tính cách tiếp nối liên tục, không gián đoạn. TD : dòng tâm thức được tiếp nối liên tục từ satna tâm trước qua satna tâm sau từ vô lượng kiếp luân hồi, cho tới khi tâm được giải thoát hoàn toàn khỏi dòng sanh tử .Cho nên cái ý niệm Vô thuỷ Vô chung dành cho những ai còn mờ mịt, còn ai biết tu sẽ có ngày ra khỏi luân hồi. Bởi vì tu là sự dấn thân trên con đường giải thoát.
5-ĐẲNG VÔ GIÁN DUYÊN (Samanantara p.) : gần như đồng nghĩa với Vô-Gián Duyên, sự tương quan có tính cách tiếp nối, nhưng có những khoảng gián đoạn đều đặng. Một người ngủ đều đặn 6-7 giờ một ngày, thì trong lúc ngủ tâm tạm thời không tiếp xúc với ngoại cảnh mà quay vào trong và làm việc riêng của nó, đến khi thức dậy lại tiếp xúc với bên ngoài. Ngày qua ngày, tâm có những khoảng Đẳng vô gián.
6-ĐỒNG SANH DUYÊN (Sahajata p.) : sự tương quan do cùng sanh, cùng hiện hữu hỗ trợ nhau.Như trong buổi giảng pháp này, sự có mặt của quí vị hỗ trợ cho tôi và sự có mặt của tôi hỗ trợ cho quí vị, chúng ta cùng sách tấn nhau tu tập.
7-HỖTƯƠNG DUYÊN (Annamanna p.) : tương quan do hỗ trợ nhau như vợ với chồng hỗ trợ nhau để cùng tát bễ Đông.
8-Y CHỈ DUYÊN (Nissaya paccaya) : tương quan do cái nầy làm chỗ nương tựa cho cái kia sanh khởi : như Lục căn là chỗ nương tựa cho Lục thức cùng các tâm sở sinh khởi. Cha mẹ là Y chỉ Duyên cho con cái, nhưng khi lớn tuổi con cái sẽ là Y chỉ Duyên cho cha mẹ.
9-CẬN Y DUYÊN (Upanissaya p.) : do làm chỗ nương tựa vững chắc hơn Y-Chỉ Duyên, ta có Cảnh Cận-Y duyên giống như gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Cha mẹ già yếu mất hoàn toàn sự tự quản ( autonomie) thì con cái hoặc nhà già là Cận Y duyên
10-TIỀN SANH DUYÊN (Purejata p.) : do sự có mặt trước. Như Lục căn có mặt trước làm duyên cho sự sinh khởi của Lục thức.
11-HẬU SANH DUYÊN (Pacchàjàta p.) : do cái có mặt sau làm duyên cho cái đã hiện hữu trước. Ví dụ : sự chứng quả của vị Tỳ khưu Bakula sẽ xãy ra sau nầy đã hỗ trợ cho ông khỏi chết chìm lúc còn trẻ. Một người yếu đuối bịnh tật, cố gắng tập thiền đều đặn một thời gian cảm thấy sức khỏe cải thiện, hết đau ốm lặt vặt, người trông trẻ ra. Thân tâm an lạc nhờ thiền xãy ra sau đã ảnh hưởng trên thân thể ốm yếu trước đây. Ở đây Tâm sinh sau trợ duyên cho Sắc sinh trước bằng hậu sinh duyên.
12-TẬP HÀNH DUYÊN (Asevana p.) : do sự lập đi lập lại của sự huân tập làm cho một pháp hành trở nên thuần thục.
13-NGHIỆP DUYÊN (Kamma paccaya ) : có hai loại :
- Sự cố ý (tâm sở tư) làm điều kiện cho các tâm và sắc pháp sinh khởi (ở đây ta có Đồng sanh Nghiệp duyên)
- Những nghiệp tạo ở các kiếp quá khứ, khi có đủ điều kiện sẽ trổ quả ở kiếp sau (ở đây ta có Dị thời Nghiệp Duyên)
14-QUẢ DUYÊN(dị thục duyên,Vipaka p.) : sự tương quan do quả TD :trong Thập nhị Nhân Duyên Thức Tái sanh là một tâm quả trợ duyên cho Danh Sắc phát sinh. bằng Quả Duyên.
15-THỰC DUYÊN(Ahara p.) : tương quan do 4 loại thực phẩm làm duyên sinh ra :
- Đoàn thực : thức ăn vật chất nuôi dưỡng cơ thể.
- Xúc thực : 6 trần nuôi dưỡng 6 căn. (hay nuôi dưỡng 6 thọ)
- Tư thực : chính là nghiệp nuôi dưỡng sự luân hồi.
- Thức thực : chính là thức tái sanh nuôi dưỡng danh sắc lúc thụ thai.
16- QUYỀN DUYÊN(Indriya p.) : điều kiện do những khả năng chuyên biệt trong lãnh vực của nó (chẳng hạn mắt có khả năng thấy chứ không
nghe được)
Có 22 quyền : - 6 căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
- 2 phái tính : nam, nữ.
- 1 mạng quyền. (danh mạng quyền)
- 5 thọ quyền : hỉ, lạc, ưu, khổ, xã.
- 5 quyền tâm linh : tín, tấn, niệm, định, tuệ.
- 3 quyền siêu thế : Vị tri quyền, Dĩ tri quyền, Cu tri quyền là 3 mức trí tuệ của các bậc thánh từ Tu Đà Hoàn tới A La Hán
17- THIỀN DUYÊN (Jhana p.) : là những điều kiện do 7 yếu tố thiền tạo
ra cho các tâm và sắc pháp : Niệm, Trạch Pháp, Cần, Hỉ, Lạc, Định, Xả
đễ chế ngự các triền cái, lậu hoặc.
18- ĐẠO DUYÊN (Magga p.) : là những điều kiện : do 12 yếu tố :8 chánh đạo dẫn tới Niết Bàn, 4 tà đạo dẫn vào khổ cảnh : tà kiến, tà tư duy, tà tinh tấn và tà định.
19- TƯƠNG ƯNG DUYÊN : (Sampaytta p.) : là những điều kiện do sự
kết hợp, phối hợp với nhau như 4 danh uẩn : Thọ, Tưởng, Hành, Thức
cùng sanh, cùng diệt, cùng tác động hỗ trợ nhau.Hoặc Tâm với Tâm sở.
20- BẤT HỢP DUYÊN (Vippaytta p.) : là những điều kiện do sự không kết hợp, không hòa trộn của năng duyên pháp và sở duyên pháp. Như dầu và nước hay Thiện và Ác.
21- HIỆN HỮU DUYÊN (Atthi paccaya) : là điều kiện liên hệ giữa Năng Duyên và Sở Duyên do sự cùng có mặt. Như Cảnh thấy được do có ánh sáng.
22- VÔ HIỆN HỮU DUYÊN (Natthi paccaya) : là điều kiện liên hệ giữa Năng Duyên và Sở Duyên do sự không có mặt. Một loại tâm phải diệt đi thì một loại tâm khác mới sanh khởi. Như tâm Sân phải diệt đi thì tâm Từ mới sinh khởi. Ánh sáng phải tắt đi thì bóng tối mới xuất hiện.
23- LY KHỨ DUYÊN (Vigata p.) : điều kiện liên hệ do sự tách rời ra giống như Duyên số 22, nhưng Năng Duyên chưa hoàn toàn biến mất thì Sở Duyên đã bắt đầu xuất hiện. Như trong buổi hoàng hôn, ánh sáng mặt trời chưa tắt, nhưng mặt trăng đã có mặt.
24- BẤT LY KHỨ DUYÊN(Avigata p.) : điều kiện liên hệ do sự không thấy tách rời, giống như Duyên số 21 (Hiện hữu duyên). Như vua cha nhường ngôi cho con, nhưng vẫn có mặt để làm cố vấn.
B-Luận giải theo những tính cách liên hệ của 24 duyên:
- liên hệ về không gian : có Cảnh Duyên (2), Cảnh Cận-Y duyên(9)
- liên hệ về thời gian : có Đồng Sinh Duyên (6), Tiền Sinh Duyên (10), Hậu Sinh Duyên (11), Vô Gián Duyên(4), Đẳng Vô Gián Duyên(5)
- liên hệ về tính cách tương sinh : có Thực Duyên (15), Y Chỉ Duyên (8), Cận Y duyên (9).
- liên hệ về tính cách tương khắc : Thiền Duyên (17)
- liên hệ về tính cách quan trọng : Trưởng Duyên (3)
- liên hệ về tính cách chuyên biệt : Quyền Duyên (16)
- liên hệ về tính cách hổ tương : Hổ Tương Duyên (7)
- liên hệ về tính cách tương đồng : Tương Ưng Duyên (19)
- liên hệ về tính cách tương phản : Bất Hợp Duyên (20)
- liên hệ về tính cách có mặt : Hiện Hữu Duyên (21)
- liên hệ về tính cách vắng mặt : Vô Hiện Hữu Duyên (22)
- liên hệ về không xa lìa : Bất Ly Duyên (24)
- liên hệ về sự lập lại : Tập Hành Duyên (12)
- liên hệ về Nhân, Nghiệp, Quả : Nhân Duyên (1), Nghiệp Duyên (13), Quả Duyên (14)
- liên hệ về phương tiện và con đường : Đạo Duyên (18)
Tổng cộng có tất cả 24 Duyên.
Nguyên lý Duyên Hệ đưa ra những điều kiện cần và đủ để đưa tới một kết quả như lâu nay ta vẫn thường nói một cách tổng quát mà không đưa ra chi tiết : phải có thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Cũng như khi ta nấu cơm, chúng ta phải kể hết những yếu tố : gạo, nước, lửa, nồi… Nếu người nông dân không sản xuất gạo thì tất cả yếu tố khác đều vô ích ; Nguyên lý Duyên Sinh cốt cho thấy cái yếu tố căn bản, ở đây là gạo. Còn Nguyên lý Duyên Hệ xem xét tất cả các điều kiện quan hệ hoặc hoàn cảnh cần thiết để làm thành món cơm. Ngoài ra giữa hai yếu tố của Duyên Sinh, chẳng hạn giữa Vô Minh và Hành những yếu tố của Duyên Hệ có thể chen vào để chi phối. Hoặc giả 2 yếu tố của Duyên Hệ có thể phối hợp lại để tác động cùng một lúc tạo thành một Duyên mới : Cảnh Duyên + Trưởng Duyên = Cảnh Trưởng Duyên. Do đó nên mới có câu “trùng trùng duyên khởi”.
Các nhà khoa học, mặc dầu không có nghiên cứu Phật giáo, nhưng trong thực tiễn quan sát và thí nghiệm, cũng đã nhìn thấy phần nào những sự liên hệ như thế giữa những phần tử vật chất nên họ đã đưa ra những ý niệm như yếu tố tiền sinh( facteur prédisposant), yếu tố trợ tạo (facteur favorisant), yếu tố nguy hại (facteur de risque)… Phật giáo đưa ra một cái nhìn tổng thể có tính cách tri thức luận (épistémologie) về những yếu tố thời gian, không gian, vật chất và tinh thần…
C-Áp dụng : theo những tương quan Danh, Sắc, Danh-Sắc, Khái niệm
(6) Danh
-> Danh
(5) Danh
-> Danh Sắc
(1) Danh
-> Sắc
(1) Sắc
-> Danh
(2) Danh Sắc Khái niệm
-> Danh
(9) Danh Sắc
-> Danh Sắc
4. Vô gián
anantara
5.Đẳng vô gián
samanantara
12. Tập hành
āsevana
19. Tương ưng
sampayutta
22.Vô hiện hữu
natthi
23. Ly khứ
vigata
1. Nhân hetu
13.Nghiệp
kamma
14. Quả vipāka
17.Thiền jhāna
18. Đạo magga
11. Hậu sanh
pacchājāta
10. Tiền sanh
purejāta
2. Cảnh
ārammaṇa
9. Cận y
upanissaya
3. Trưởng
adhipati
6. Đồng sanh
sahajāta
7. Hỗ tương
aññamañña
8. Y chỉ
nissaya
15. Thực
āhāra
16. Quyền
indriya
20. Bất hợp
vippayutta
21. Hiện hữu
atthi
24. Bất ly
avigata
Muốn tìm hiểu Nhân, Duyên, Quả trước hết phải xem xét cái quả, rồi từ từ tìm ngược lại cái nhân. Ví dụ muốn có một nhãn thức (quả) một cách tổng quát chúng ta cần có 4 điều kiện sau :
1/-Nhãn thức là một tâm quả, nhân duyên trực tiếp của nó là Tâm Khán Ngủ môn , có mặt trước nó trong lộ trình tâm nhãn môn. Sự tương quan ở đây là Danh => Danh. Ta có những duyên sau đây :Vô-gián duyên(4), Đẳng Vô-gián duyên (5), Vô-gián Cận-Y duyên(9b), Vô Hiện-hữu duyên(22) (vì tâm K5M phải biến mất thì Nhãn thức mới xuất hiện được, Ly-khứ duyên(23)
-Điều kiện đủ để có Nhãn thức là phải có sự phối hợp của 7 tâm sở biến hành : xúc, thọ, tưởng, tư, định, mạng quyền, tác ý.Trong đó Tác ý làm chủ để hướng tâm tới đối tượng. Sự tương quan ở đây là giữa Danh=>Danh, có tính cách đồng sinh, hỗ tương, tương ứng, nghiệp, quả. Ta có ở đây 10 duyên ( nếu kể những duyên không trùng tên) : 15b,13a, 16c, 7, 14, 19, 6, 8a, 21a, 24.
-Vì là một tâm quả, kết quả của nghiệp, ta cũng có Nghiệp duyên.
2/-Kế đến là phải kể Nhãn vật ( mắt và thần kinh nhãn). Nhãn vật phải có mặt trước để làm căn cứ cho Nhãn thức xuất hiện. Sự tương quan ở đây là giữa Sắc=> Danh ; với tính cách tiền sanh là quan trọng nhứt và Vật ( vatthu) là quan trọng thứ nhì. Ta có 6 Duyên : 16a, 8b, 10a, 20b, 21b, 24.( xem bảng đối chiếu)
3/-Điều kiện sau đó là Ánh sáng : bởi vì trong bóng tối sẽ không thấy cảnh. Sự tương quan ở đây là giữa Sắc=> Sắc, ta có Tự-Nhiên Cận-y duyên (9c) và Sắc mạng-quyền duyên (16b).
4/-Sau cùng điều kiện cần để có 1 nhãn thức là phải có Cảnh (đối tượng), bởi vì thấy là phải thấy 1 cái gì. Sự tương quan ở đây là giữa Sắc(cảnh)=> Danh (nhãn thức), với tính cách là Cảnh duyên và Tiền sanh duyên, ta có 4 duyên : Cảnh duyên (2), Cảnh Tiền-sinh duyên(10b), Cảnh Tiền-sinh Hiện-hữu duyên(21b), Cảnh Tiền-sanh Bất-ly (10b+24).
KẾT LUẬN
Từ hai nguyên lý Duyên Sinh và Duyên Hệ chúng ta có thể rút ra được những hệ luận sau đây :
1-Không có gì hiện hữu mà không có Nhân Duyên hợp trợ và sinh thành Nhân khi hội đủ Duyên sẽ sinh ra Quả.
2-Vật chất tuân theo những Định luật của nó. Tâm thức cũng có những Định luật của nó.
3-Vật chất ảnh hưởng đến tâm thức. Tâm thức cũng ảnh hưởng đến vật chất.
4-Không có cái Ngã nào chen vào làm chủ vật chất và tinh thần.
5-Không có Thượng Đế nào làm chủ vật chất và tinh thần.
6-Vô thường, Vô ngã là chân lý phổ quát.
7-Khổ là chân lý dành cho chúng sanh hữu thức.
8-Tái sanh và luân hồi là sự thật hiển nhiên của chúng sanh hữu thức.
9-Mỗi người đều tùy thuộc 3 yếu tố : Nghiệp Quả, Hoàn cảnh và Ý chí.
Nguyên lý Duyên Sinh đã được Đức Phật phát hiện ở canh ba trong đêm ngài đắc đạo quả Chánh Đẳng Giác. Nguyên lý Duyên Hệ được ngài nghiền ngẫm trong tuần lễ đầu tiên sau khi thành đạo. Những Tuệ giác nầy đã giúp Ngài giải thích bản thể của con người nói riêng và chúng sanh nói chung trong cuộc trầm luân vô tận. Ngài đã tuyên bố về định luật nầy như sau : “Nầy Ananda, chuỗi dây Tùy thuộc Phát sanh rất sâu sắc. Do không thấu hiểu, không thấm nhuần định luật nầy nên thế gian giống như một nùi chỉ rối, một tổ chim đan, một bụi tre sậy. Do đó mà con người không thoát khỏi tái sanh vào những cõi sinh tồn thấp kém, những trạng thái phiền muộn tiêu hoại và đau khổ trong vòng sanh tử luân hồi. Người nào hiểu được chuỗi Tùy thuộc Phát sanh sẽ hiểu được giáo pháp.”
Thật là cần thiết cho một phật tử phải hiểu sâu xa giáo huấn nầy.Trước hết phải tìm hiểu qua sách vở, sau đó phải bổ túc bằng sự luyện tập tâm linh để có thể nhìn thấy định luật nầy trong chính thân tâm và đời sống của mình, có như thế mới mong vượt thoát vòng sinh tử luân hồi. Tu phải chăng là sự dấn thân trên con đường chuyển nghiệp, muốn chuyển nghiệp phải thanh lọc tâm, muốn thanh lọc tâm phải thiền ; có như vậy mới tiến bước vững chắc trên con đường giải thoá