Thứ Năm, 31 tháng 3, 2016

Những định mệnh kỳ lạ





Lên đường, đối với chúng tôi là một tiếng nói định mệnh.

Hầu như chưa có một dân tộc nào mà lịch sử được chứng nghiệm một hành trình dài lâu đến thế. Dài lâu trong đêm tối máu xương.

Không phải chỉ cần một đôi chân rắn chắc, bền bỉ và một ý chí không hề mỏi mệt, mòn lụt mà một cái gì khác hơn, trên tất cả những thứ đó: Định mệnh.

Không phải từ những ngàn năm trước, mỗi một người dân nơi đây đã nhận lãnh “định mệnh đi lên” từ một bàn tay quyền uy nào đó như bây giờ những người lính trẻ nhận tấm thẻ bài và vũ khí để ra chiến trận. Định mệnh đó không biết từ một phép mầu quỷ quái và hiểm độc nào, đã hòa tan trong dòng sữa của những bà mẹ đầu tiên. Đã làm nên máu huyết và mỗi dòng máu chảy ngược về tim là từng nhát búa đánh mạnh vào chiếc cồng làm vang lên những bình minh rực rỡ.

Và như thế họ đã ra đi cùng với giấc mơ.

Bàn chân cha mẹ làm thành bàn chân con cháu. Núi cao thành đồng bằng. Đồng bằng thành nhà cửa, ruộng nương phố xá. Đất của mãnh thú thu gọn lại trong những biên giới khiêm nhường hơn. Những giống chân yếu đuối biến mất.

Hành trình đã được làm bằng máu xương và nước mắt. Bằng vinh quang và tuyệt vọng. Bằng hăm hở và hối hận. Tất cả những kinh nghiệm đã vót nhọn những cơ năng của con người. Và trong mớ tên sắc bén đó, mũi tên quí giá nhất: ý thức đi lên.

Đi lên! Không còn là một lời kêu gọi nữa mà chính mỗi chúng tôi là sự đi lên đó.

Cả một dân tộc lên đường rất hồn nhiên. Như những đứa con của sứ mệnh gian truân và cao cả.

Tôi đã từng qua nhiều nơi trên quê hương sau những trận đánh lớn. Không thể kể hết những tang thương của từng thành phố, từng quận lỵ, từng xóm làng, thôn ấp. Những gì là hình ảnh của đời sống đều biến dạng, rũ tan. Thoạt nhìn, không ai tin nổi về quá khứ của một nơi định cư phồn thịnh, huyên náo. Tất cả đã trở thành sa mạc gạch hồng cao nguyên tro than. Vốn liếng của một đời người tan ra thành tiếng khóc vắng lặng. Một vài nơi gần như không còn một cái gì được tha thức dưới sự tàn bạo khắc nghiệt của chiến tranh. Con người chỉ là trò chơi của một định mệnh rẻ rúng. Chỉ là những mẩu tàn của một người hút thuốc cuồng nhiệt, được vứt bỏ nhẹ nhàng, nhanh chóng.

Cái chết tự nó dĩ nhiên không biết thở than. Nhưng mọi sự rồi cũng qua đi rất nhanh. Một thời gian ngắn, trên những đổ nát kia đã mọc lên nhà cửa, trường học, bệnh viện. Trên đường đã khua vang những bước chân họp chợ. Tiếng cười nói tung vào đời sống như những thách thức không ngừng với định mệnh. Hồi sinh nhanh chóng. Những con người nhỏ bé, nghèo nàn kia đã thức dậy rất sớm từ cơn đau. Họ không tàn trữ lời thở than. Không cất giữ những xót xa. Họ là những nhà ảo thuật tài tử và tài tình. Họ đã biến những vết tích chiến tranh thành những phần hữu dụng của đời sống. Những hố bom sau cơn mưa là hồ nuôi vịt, cá. Những hố lớn hơn làm hồ tắm cho trẻ con. Những vỏ đạn làm đèn, thành lò bếp. Cuộc sống cứ như thế mà tiếp tục.

Dường như chúng tôi thoáng biết rằng còn có một cõi hạnh phúc ngoài những bất hạnh mỗi ngày phải biết sống cùng. Phải đi tới mãi và chờ đợi. Nhẫn nại và tiến lên không ngừng. Hai mươi ba năm. Ba mươi năm. Hơn thế nữa và hơn mãi thế nữa. Cho mỗi thế hệ. Đi, đi, đi. Trên mọi ngõ ngách, trên mọi làng mạc, đô thị, người dân chúng tôi, mỗi giờ phút, mang định mệnh trên vai và bước tới. Không quay nhìn lại bao giờ nữa. Đã từ lâu không muốn nhớ những bước chân đã bỏ lại. Phải đi lên. Nhìn về phía trước. Mỗi ngày đã ra đi. Ra đi và nuôi dưỡng hy vọng. Chúng tôi đã đi mấy ngàn năm. Và chưa biết sẽ còn đi đến bao giờ. Chúng tôi không là người thất vọng. Dù mỗi phút trong đời người là những con số mang tên thất vọng nhảy đều trên một chiếc máy. Chiếc máy thảm khốc của thời gian. Nó không ngừng làm chúng tôi hoảng hốt. Mỗi ngày trôi qua là một lời thúc giục. Những bình minh những hoàng hôn chớp nhanh như ảo ảnh bên cạnh những đổ nát và thây người càng ngày càng gia tăng. Mức độ hủy diệt to lớn quá đã gây nên khủng hoảng trầm trọng trên lương tâm chúng tôi. Dù ý lực được phân bón và chăm sóc từng giây, chúng tôi cũng không che giấu nổi sự phiền não hiện ra trong đôi mắt. Những đứa bé đã già đi quá sớm. Những nụ cười chúng tôi kém tươi.

Sau mỗi giai đoạn nguy nan và chết chóc, mỗi đứa bé là một kinh nghiệm đau thương. Chúng nó biết về địa ngục và vực thẳm như những đứa trẻ Tây phương biết về hạnh phúc. Sự khôn ngoan của chúng đôi khi làm xót xa những nhà hiền triết. Chúng đã sống tận cùng sự sợ hãi. Và cũng đã sống tận cùng cái chết của những người thân. Từ đó chúng tôi biết rằng chúng tôi sinh ra từ vựng thẳm. Và nếu không muốn bị hủy diệt, chỉ có con đường duy nhất là: Đi lên!

Hy vọng của chúng tôi thường nẩy mần sau mỗi cuộc tang thương. Chúng tôi chỉ có hai mùa để sống. Màu bão tố phải chống đỡ, vượt qua. Và mùa xuân, chúng tôi thổi lửa vào những gốc cây ẩm ướt để làm hồi sinh từng thớ gỗ. Bắt cây phải đâm chồi. Đó là mùa phục sinh của bao nhiêu tâm hồn tan nát. Chúng tôi không ngừng vá lại những rách nát, khâu lại từng vết thương. Và nhờ ơn trời, tất cả đều lành lặn và được bồi dưỡng kịp thời.

Sau mỗi giai đoạn bình phục chúng tôi lại lên đường. Tuy nhiên, mỗi khởi hành mới lại bớt đi một chút hăm hở. Chúng tôi ít nói về hạnh phúc trong những câu chuyện. Chân những đứa bé đã biết dè dặt hơn trên cách đồng chè, trên những ruộng mía. Những con trâu trên đồng lúa cũng được lèo lái thận trọng trên những vùng đất không đủ an toàn. Thận trọng cũng là một danh từ học được trong hành trình đi lên.

Có bao nhiêu lục địa trên trái đất này, con người thế giới không đi tới trong thể điệu của chúng tôi. Trên con đường đi tới tiến bộ, họ được chuyên chở trên những chuyến tàu êm ái, không nhọc mệt. Định mệnh họ là “hãy ngồi xuống thật thoải mái” và mệnh lệnh đi tới được chuyển qua đầu máy và động cơ của con tàu. Trong chuyến tàu mọi thứ đều được chuyên chở cùng một lúc. Người, thú vật, và thiên nhiên. Dĩ nhiên tôn giáo hay một cái gì tương tự như lòng sùng bái, đạo lý cũng được mang theo cùng với hành trang của họ. Mọi thứ đó đều có một bộ mặt sáng sủa và mới mẻ như nhau. Mỗi thứ đều được bảo vệ bởi một loại luật pháp riêng tư. Có cả sự bình đẳng và danh dự cho từng loại súc vật. Người ta cũng không quên sáng tạo ra cách cư xử tế nhị đối với chúng.

Ở đây, trên mặt đất khô héo này, chúng tôi tự chuyên chở đi tới bằng hai chân và bằng ý chí của chính mình. Đó là sự đi lên đầy khổ nhọc, cam go. Sự đi lên ngược chiều với dòng hủy diệt. Dòng hủy diệt chảy xiết như từ một bờ đê vỡ. Tàn phá, đánh chìm. Định mệnh của những con người nhỏ bé nơi đây là đi thẳng vào dòng hủy diệt để vượt qua bên kia đêm tối. “Phải sống còn” là mệnh lệnh tối yếu.

Có những kẻ may mắn sống còn để tiếp tục hành trình, có những kẻ bất hạnh đã bị cuốn đi. Nhưng tựu trung tất cả đã tranh đấu bằng ý chí siêu nhân. Và sự sống còn không phải là niềm kiêu hãnh mà là bổn phận phải hoàn thành một con đường đến nơi đến chốn do những kẻ chết tiếp sức qua kỷ niệm.

Đôi khi, bên những thảm cảnh xảy ra hàng ngày, chúng tôi có những phút giây đắm mình trong tuyệt vọng. Chúng tôi tự hỏi về nơi chốn cuối cùng của hành trình. Có thật một biên giới để dừng chân hay không?

Chúng tôi không còn thì giờ để mơ ước thiên đường hay niết bàn nữa. Đối với tôi đó là sự xa xỉ của những kẻ nhàn hạ vô tư. Mỗi giờ phút là một cuộc chạy đua cam go giành lấy sự sống. Cái chết nơi đây không có hạn kỳ. Tử thần không mang lưỡi hái tao nhã. Nó vồ chụp chúng tôi từ mọi phía, mọi giờ giấc, không bao giờ nương tay. Đó là một cuộc chiến đấu gian nan mà chúng tôi phải tìm đủ mọi cách để tự vệ.

Chúng tôi phải luôn luôn thay đổi những khuôn mặt. Sáng chế những nơi trú ẩn an toàn. Ngay cả trong giấc ngủ chúng tôi cũng không được nghỉ ngơi. Bóng dáng ác thú vồ chụp tâm não mỗi đêm. Và cuộc chiếc đấu bên trong này thường làm chúng tôi ngã bệnh một thời gian. Những sợi thần kinh dãn ra tệ hại như những sợi thừng tuyệt vọng. Với những lần có tình trạng khốn đốn đó, chúng tôi tự chế ngự và chữa lành bằng rượu. Rượu chính là một kinh nghiệm rất tốt để làm kích thích lại những giác quan tê liệt và cho giấc ngủ. Đó cũng là cơ hội để bằng hữu quay quần với nhau. Bên một dòng sông hay trong những quán vắng. Với rượu, chúng tôi được khôi phục dễ dàng trong chốc lát. Và trong ánh mắt đỏ rực buổi chiều, tiếng nước đá chạm vào ly thủy tinh luôn luôn tạo nên những âm thanh nhã nhặn.

Cũng không nên bỏ qua những ngày có thời tiết đẹp đẽ. Chúng tôi lợi dụng thiên nhiên tốt lành để làm những cuộc du ngoạn ngắn. Bên cạnh thực tế phũ phàng chúng tôi cần đôi phút thơ mộng. Tạo một chút ảo tưởng bình an và cứ cho là cuộc đời chưa đến nỗi nào. Hẳn nhiên đó không phải là một cuộc chiến chạy trốn thực tại. Chỉ là cách thế để làm trẻ lại tinh thần đấu tranh và để cho sự chịu đựng đừng bị mài nhẵn quá.

Có những giây phút, hốt nhiên thoái ra ngoài cảnh tượng đời sống chung, chúng tôi không khỏi bàng hoàng và kinh ngạc về chính mình và về những kẻ chung quanh. Phép mầu nào đã cho chúng tôi sự chịu đựng bền bỉ thế?

Chưa bao giờ chúng tôi từ khước sự hủy hoại. Không hề lẩn tránh. Lầm lì nhận chịu và nuốt cạn đắng cay, tủi nhục vào bên trong. Sự tàn phá của chiến tranh và của thiên nhiên chỉ đủ tạo nên một số ít người mất trí. Họ là những kẻ duy nhất đứng lại giữa hành trình. Hình ảnh họ thỉnh thoảng gợi lại trong chúng tôi về một giống nòi gian khổ. Họ là tiếng khóc của ngày đã qua. Cũng là lời than thở của những giọt máu để rơi lại sau những chuyến lên đường. Không đủ làm nhụt chí nhưng cũng là những vết buồn trên trang sử. Những ngày mùa đông rét mướt họ thường biến mất. Đến những mùa ấm áp hơn lại hiện ra với một khuôn mặt hoàn toàn biến đổi. Có kẻ đã móc mất đôi mắt của mình. Có kẻ vì sự hãi và thiếu ăn, đã mang hẳn khuôn mặt thú. Ở nơi khác, người điên có thể làm trò cười giải khuây thiên hạ. Nơi đây, thấy họ, không ai giấu nổi lòng ái ngại.

Chúng tôi đã học được những bài học lớn lao về trò dâu bể. Bao nhiêu triều đại đã qua đi. Bao nhiêu đền đài đã sụp đổ. Bao nhiêu mùa màng đã tan nát. Có lẻ nhờ thế dân tộc chúng tôi có những binh đoàn quá đông đảo về thi sĩ. Họ là những binh sĩ của một anh hùng ca dài bất tận. Có cả những thi sĩ trữ tình. Bởi lẽ bên những mộ phần thường có những bông hoa. Học đường chẳng dạy dỗ chúng tôi được bao nhiêu. Chỉ có cuộc đời đã giáo huấn chúng tôi về tất cả. Chúng tôi không tìm hiểu sự phi lý trong những cuốn sách. Chúng tôi sống chính sự phi lý đó. Không hiểu có cần phải bày tỏ sự khôn ngoan của chúng tôi hay không. Tuy nhiên khi đã thấm nhuần được cuộc biển dâu của đời người, chúng tôi đã vượt qua bên kia mọi triết lý.

Trên con đường đi tới, hành trang của chúng tôi đã nhẹ nhàng hơn thêm mỗi ngày. Không phải vì sự khôn ngoan của một chiến sĩ ở trên sa mạc mà vì sự khôn ngoan của định mệnh đã tước đoạt mất của chúng tôi. Tuổi thanh xuân của chúng tôi bị tát cạn. Ước mơ của chúng tôi bị cắt lìa. Chúng tôi phải đi lên bằng sự già dặn của những kẻ leo núi cao. Vào mùa xuân khi những tàng lá đã đổi màu, chúng tôi có cảm thấy hân hoan đôi chút nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy sự liên quan mật thiết nào giữa tuổi thơ và màu xanh non của lá. Vẻ đẹp của thiên nhiên một phần nào đã được cất ra khỏi chúng tôi những so sách đồng hóa với vẻ già cỗi của tâm hồn chúng tôi. Chúng cũng gian truân không kém. Tôi muốn nói về những cánh rừng tật nguyền, lở loét. Những đồng ruộng tràn đầy cỏ dại và sắt vụn. Mầu mỡ phì nhiêu của đất đai, nhiều nơi hỡi ơi chỉ để nuôi lớn hoang tàn. Điều này cũng xảy ra trên đời sống tinh thần chúng tôi. Những người dân quê dũng cảm hơn họ trung thành sắt son với chính họ. Không có gì lay chuyển nổi. Họ giữ được lòng trung tín với cuộc lên đường như một lời thề nguyền khắc ghi bằng máu. Riêng đám thị dân yếu đuối và hèn nhát hơn. Họ buông mình theo những chọn lựa dễ dàng mới để thủ lợi. Vì thế chúng tôi bắt đầu sợ hãi chọn lựa. Bởi vì mỗi chọn lựa mới thường là một cái bẫy đáng ngại đánh bật chúng ta ra khỏi con đường. Trong hành trình những ai ra khỏi con đường đương nhiên bị loại. Chúng tôi không coi họ là kẻ phản bội mà chỉ dành cho họ lòng thương xót.

Đã có nhiều biến đổi trong hành trình. Những bước chân của chúng tôi dần dà đã không còn thuộc về con đường nữa. Mỗi chúng tôi chính là con đường. Con đường cưu mang ý hướng đi lên. Trong mỗi người dù ý thức hay vô thức, đang thành tựu một con dốc cheo leo và hiểm nghèo. Con dốc nối liền vực thẳm và côi cao. Có thể đó là quê hương. Nơi chúng tôi phải trở về. Mọi người chúng tôi đang cần ngơi nghỉ.

Có lẽ chúng tôi sẽ không tìm thấy được gì ngoài chính mình. Nơi một quê hương sẽ có tên gọi. Cái tên đích thực của một giống dân đã soi tỏ được nguồn cội và đã hoàn thành sứ mệnh về nguồn.

Riêng tôi có lẽ sẽ không đến được. Sẽ không bao giờ giáp mặt được quê hương. Nơi đỉnh cao chờ mong kia, đứa con gian truân không trở về. Bởi một điều quá giản dị: tôi không còn thì giờ nữa.

Xin chúc phúc cho những kẻ còn đi.

Trịnh Công Sơn

Thứ Hai, 28 tháng 3, 2016

Vũ Khí Nhân Quyền Nguyên Tử Hay Nguyên Tử Nhân Quyền




Lời Cảnh Báo Cho Phương Tây

Hoàng Hữu Phước, MIB



Giống như bất kỳ đạo luật quan trọng nào tại bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh này, phần giải thích từ ngữ luôn được nêu lên không bao giờ ở phần cuối cùng.

Thời còn là sinh viên Đại Học Văn Khoa, thấy tôi dù làm thơ tiếng Anh hay tiếng Việt dù cho đề tài yêu đương vẫn luôn mang sắc thái cá tính riêng biệt không bao giờ gặp thấy nơi bất kỳ ai khác là sự dữ dội hừng hực nóng bỏng dung nham, những bạn thân khi cùng nhau uống cà phê vệ đường đã nói họ lúng túng không rõ tôi là một nhà thơ chiến sĩ hay lại là một chiến sĩ nhà thơ. Cấu trúc văn phạm tiếng Việt có thể cho rằng trong hai cụm từ trên thì phần đầu tiên là phần chính, và phần tiếp theo là phần bổ sung ý nghĩa. Như vậy, nhà thơ chiến sĩ có thể là một nhà thơ mạnh mẽ như một chiến sĩ, còn chiến sĩ nhà thơ có thể là một chiến sĩ thích làm thơ, theo ý tứ thuần Việt của Sách Đỏ hay Sách Trắng, trong đó “sách” là từ chính, còn từ theo sau là bổ sung ý nghĩa phân định riêng, tương tự Chữ Thập Đỏ vậy. Tuy nhiên, nếu là từ Hán Việt thì thứ tự lại không như vậy, vì Hồng Quân hay Hồng Thập Tự hoặc cường quốc thì chữ sau mới là chính còn chữ trước mang ý nghĩa một bổ sung từ. Đối với tiêu đề của bài viết này, dựa theo kiểu Hán-Việt thì nói vềNguyên Tử Nhân Quyền, song nếu lập luận rằng tuy là từ Hán-Việt nhưng do đã được sử dụng hòa trộn hòa lẫn vào tiếng Việt nên phải xem như đó là tiếng Việt không chút biệt phân thì bài này nói về Nhân Quyền Nguyên Tử. Để nói gọn lại thì tác giả bài viết chỉ muốn nói đến Nhân Quyền, và cái Nhân Quyền này có sức tàn phá như vũ khí nguyên tử.

Ngoài ra, Phương Tây không có nghĩa là ở phương Tây hay mang tính địa dư, mà là cụm từ chỉ tất cả các quốc gia tư bản thân Mỹ, nên Phương Tây bao gồm cả Úc và New Zealand.

Đã từ lâu, các nước tư bản thân Mỹ nào muốn chứng tỏ ta đây hùng mạnh như Mỹ thì luôn thể hiện qua hai cách truyền thống vững bền là (a) chõi lại Mỹ trên thương trường, trong văn hóa, và tại vài chính kiến địa chính trị; và (b) cùng Mỹ nhận ra sức mạnh hủy diệt của Nhân Quyền. Vì lẽ đó, Mỹ và các nước này hay sử dụng quả bom nguyên tử có sơn dòng chữ Nhân Quyền để bắn phá thành trì các nước cộng sản như Việt Nam hoặc các nước tư bản thân cộng sản như ở khu vực Nam Mỹ.

Trung Quốc cũng láu cá không kém. Hàng năm khi Mỹ tung ra Báo Cáo Nhân Quyền để đánh giá và cho điểm tất cả các quốc gia về lĩnh vực nhân quyền thì Trung Quốc cũng phát hành Báo Cáo Nhân Quyền đánh giá tình hình nhân quyền chỉ của Mỹ mà tôi trong một bài blog cách nay nhiều năm đã phân tích và ngợi khen Trung Quốc vì trong khi Mỹ viết về tất cả các quốc gia trong một báo cáo dày cộm thì Trung Quốc viết về Mỹ trong một báo cáo dày hơn gấp rưỡi bằng thứ tiếng Anh tuyệt hảo kèm chứng cứ thuyết phục từ chính các cơ quan thông tấn báo chí của Hoa Kỳ. Trong khi đó, dù bị đánh phá bằng vũ khí Nhân Quyền Nguyên Tử chính thức (qua các nghị sĩ Mỹ chống Việt và các tổ chức muốn có tiền chu cấp của chính quyền Mỹ và người Mỹ yêu Việt Nam Cộng Hòa) hay vũ khí Nguyên Tử Nhân Quyền buôn lậu (các nhóm ngoại kiều gốc Việt chống Việt), Việt Nam vẫn tỉnh bơ vì tổ tiên Việt Nam có lưu truyền cho cháu con người Việt lời dạy “đi đêm có ngày gặp ma” và “đừng đùa với lửa” hoặc đại loại như thế.

Trên thực tế, một hai Nguyên Tử Nhân Quyền đã có nổ. Khi nguyên tử nổ, sức tàn phá cực kỳ ghê gớm: nó giết chết con người, mọi sinh vật, mọi vật chất, và mọi môi trường. Tương tự, Nguyên Tử Nhân Quyền nổ thì xô sập một chế độ chính trị và giết luôn đất nước cùng dân tộc của chế độ chính trị ấy. Sạch sành sanh. Y như tại những quốc gia có các cuộc kách mệnh màu.

Trên thực tế, đa số Nguyên Tử Nhân Quyền bị tịt ngòi, nên các quốc gia bị Mỹ tố cáo vi phạm nhân quyền vẫn cứ tồn tại trơ gan cùng tuế nguyệt, thậm chí có kẻ tiếm ngôi Nhật trở thành đế chế kinh tài thứ nhì thế giới, theo bén gót Mỹ và Mỹ càng lúc càng thấy hơi thở nóng hổi gấp rút sát sau mông mình với nguy cơ đầu hàng để mất vị trí siêu cường kinh tế hàng đầu thế giới.

Trên thực tế, internet cung cấp đầy đủ các cách chế tạo bom nguyên tử nên ai cũng chế được Nguyên Tử Nhân Quyền, hậu quả là:

1- Hàng triệu người di cư ào ạt đổ vào Châu Âu dưới ngọn cờ Nhân Quyền làm cả Châu Âu náo loạn, bây giờ mới tỉnh ngộ đã dại dột ra rả suốt về nhân quyền, nay ra tay chà đạp nhân quyền bằng cách đóng cửa biên giới từng được ngợi ca là khối tự do nhân quyền tuyệt hảo khuôn vàng thước ngọc của nhân loại;

2- Thổ Nhĩ Kỳ đã sử dụng hơn một triệu người di cư đang tá túc ở Thổ Nhĩ Kỳ để đe dọa Châu Âu, khiến Châu Âu phải chu cấp nhiều tỷ đồng Euro cho Thổ Nhĩ Kỳ và khởi động xem xét đơn xin gia nhập EU của Thổ Nhĩ Kỳ, trước viễn cảnh Thổ Nhĩ Kỳ “xả cảng” mở tung biên giới cho hàng triệu người ồ ạt tràn vào Châu Âu dẫn đến sự trà trộn đột nhập của hàng vạn chiến binh thánh chiến cảm tử Hồi Giáo tiêu diệt Châu Âu; và

3- Không phải tự nhiên ứng cử viên tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump dõng dạc tuyên bố xây bức vạn lý trường thành suốt biên giới Mỹ-Mê.

Từ ba thực tế trên, dẫn đến ba tình huống đương nhiên là sẽ sớm trở thành sự thật sau:

1- Phương Tây sẽ không dám sử dụng vũ khí nhân quyền và thậm chí sẽ cấm dân chúng nhất là các dân nhập quốc tịch được phép nói về nhân quyền, không được phép “biểu tình” giương cao ngọn cờ nhân quyền chống chính phủ nước khác để tránh bị chính phủ nước khác ném bom nguyên tử nhân quyền đáp trả.

2- Các kẻ thù của Phương Tây ở vùng Trung Đông, Phi Châu, và Trung Quốc sẽ nghiên cứu phát triển bom nguyên tử nhân quyền thế hệ mới để liên tục tràn ngập bằng tay không để tàn phá tiêu diệt chiếm hữu Phương Tây.

3- Việt Nam, Ấn Độ và Úc phải thận trọng nếu Trung Quốc sử dụng Nguyên Tử Nhân Quyền. Thí dụ như 1 triệu dân Trung Quốc ở Trung Quốc cùng 1 triệu người Trung Quốc ở Campuchia và 500.000 người Trung Quốc ở Lào đồng loạt dắt díu vợ con, tay xách nách mang lủ khủ đồ đạc, hoàn toàn không cầm vũ khí, ồ ạt tràn qua biên giới Việt Nam từ mọi hướng, tiến hành cuộc chiến tranh nhân quyền nguyên tử tiêu diệt Việt Nam bằng cách “hòa bình” buộc Việt Nam phải nuôi ăn, cho ở, vì nếu đuổi xua kiểu Phương Tây đang hành xử với dân tỵ nạn Syria thì Việt Nam sẽ bị kết tội “vi phạm nhân quyền”; còn nếu dùng vũ lực vũ khí thì vừa bị kết tội “diệt chủng”, vừa xài hết sạch kho đạn dược, vừa không còn đất canh tác do phải chôn mấy triệu xác quân thù “xâm lược hòa bình” ấy khiến dân chúng đói khát, kinh tế kiệt quệ, và chế độ tự động diệt vong. Tương tự, các đoàn quân “dân sự” tràn vào Nga, còn tàu thuyền vượt biển công suất mạnh do Trung Quốc cấp cho quân đội giả dạng thường dân tràn ngập bờ biển Úc để “xâm lăng hòa bình” cũng sẽ đẩy Nga và Úc vào tình thế “lãnh thổ Trung Hoa kéo dài từ Cực Bắc đến Cực Nam địa cầu do hàng triệu người ra đi là do “chống Cộng”, “chống Trung Quốc”, “tìm đến thế giới tự do”, “tìm sự sống nơi nhân quyền được ca ngợi vinh danh”.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế

Không Quên Và Không Chê





Hoàng Hữu Phước, MIB



Cách nay hơn một phần tư thế kỷ, vợ tôi sinh khó phải mổ, lúc ấy vào tháng 12, trời Thành phố Hồ Chí Minh lạnh ngắt chứ không như bây giờ nóng quanh năm suốt tháng. Sau khi đưa vợ và con tôi về ngôi nhà nhỏ xíu ở Phú Nhuận mà tôi vẫn đang cư trú tại đấy cho đến tận ngày nay, tôi một mình lo toan mọi việc mà người đàn ông lập gia đình ra ở riêng nào cũng phải gánh vác trong hoàn cảnh tương tự.

Không quên và không chê lời dạy của Má tôi về chăm sóc sản phụ – đúc kết từ kinh nghiệm dân gian bao đời nay – tôi đã phối hợp với kiến thức Tây học để thực hiện việc sau:

Nếu kinh nghiệm dân gian nói về việc sản phụ nên “nằm than”, còn Tây học nói bếp than sinh ra khí carbonic cực kỳ độc hại cho sản phụ và hài nhi, tôi phối hợp bằng cách đặt bếp than hồng ngoài sân, đưa úp hai bàn tay của mình hứng lấy sức nóng của than, rồi chạy nhanh vào phòng trong, thử úp sơ bàn tay vào hai bên mặt của mình để yên tâm về độ nóng ấm vừa phải trước khi đặt hai bàn tay lên ngực vợ tôi, ôm từng bầu sữa một. Xong, tôi lại chạy ra chạy vào như thế, để ấp hơi ấm lên ngực vợ tôi, hai bầu sữa của vợ tôi, lên bụng vợ tôi, cũng như nhè nhẹ trên vết khâu đường giải phẫu. Sau đó, tôi lại tiếp tục việc chạy ra chạy vào để ấp ấm lên người, tay và chân của con tôi.

Má tôi đã truyền lại kinh nghiệm dân gian ấy mà Bà ngoại của tôi đã dạy Má tôi thủa sắp về nhà chồng, rằng khi sinh con, phải nằm than, không được nằm trước gió, không được tắm gội ngay cả tắm gội bằng nước ấm, mà nếu cần chỉ được lau mình qua loa bằng khăn thấm nước ấm, vì rằng nếu không thì sẽ thấy hậu quả nhãn tiền: chỉ cần vừa bước qua tuổi 30 là người phụ nữ sẽ phải luôn mặc áo ấm vì luôn thấy ớn lạnh dù trưa hè nóng bức, cũng như không thể chịu nỗi lúc trái gió trở trời. Còn việc ấp tay lên bộ ngực sản phụ để kích thích tiết sữa, lên bụng để vừa ấm bụng vừa săn chắc da bụng vừa ổn định tình hình dạ con đang bị tổn thương bên trong bụng.

Thế là sau khi cho vợ ăn sáng, cho con bú bình, ấp vợ ấp con xong, tôi chạy đi làm, để trưa quay về làm tiếp công việc y như sáng, và lại chạy đi làm đến chiều. Chưa kể, để vợ tôi ngủ yên, tôi đêm khuya bế con ra chốn thư phòng (tức nơi có một cái bàn, bốn chiếc ghế và một tỷ quyển sách) vừa cho con bú bình, vừa nói chuyện với nó bằng tiếng Anh, kể nó nghe tôi yêu nó biết bao, và mong muốn nó ngày sau hãy cố gắng hiếu thảo với mẹ, hãy là công dân tốt, và hãy thay tôi mà hết lòng chăm sóc mẹ của nó, người đã chấp nhận làm vợ một hàn sĩ như bố của nó để rồi phải trãi qua thử thách khắc nghiệt hiểm nguy để sinh nó ra đời.

Hơn nửa thế kỷ nay, Má tôi ở khu Bàn Cờ Quận 3 vẫn đánh gió cho các con cũng như cho hàng xóm. Còn tôi ra Hà Nội họp Quốc Hội bao giờ hành trang vẫn có chai dầu khuynh diệp và dụng cụ đánh gió, để khi trái gió trở trời nhức đầu mõi cổ tôi có thể tự mình đánh gió sau gáy. Ngay cả khi không cần đến cái gọi là dụng cụ đánh gió, tôi vẫn có thể dùng ngón tay cái thấm dầu khuynh diệp để miết tới miết lui sau gáy như một cách đánh gió massage.

Phóng sự quốc tế cho thấy nhiều người Âu Mỹ ngồi xếp hàng chầu chực ở các cơ sở y học dân tộc bên Hàn Quốc chờ đến phiên được vào để được đánh gió, giác hơi. Còn tại Việt Nam thì bác sĩ thay vì nói “đánh gió là một kiểu massage tốt, đặc biệt nếu các bạn không bị cao huyết áp”, thì lại nói “đánh gió rất nguy hiểm nếu bạn bị cao huyết áp”.

Quên hết và chê hết những tinh hoa của dân tộc gần như là một đặc điểm thường thấy nơi những con người Việt Nam hiện đại. Nhưng lẽ nào người Hàn Quốc không hiện đại hay sao?

Tôi không quên và không chê những gì đã luôn được dùng để chăm sóc hiệu quả cho các chiến binh Việt trên đường Phạt Tống, Bình Chiêm.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế

Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2016

Đạo diễn Trần Văn Thủy: 'Không hối tiếc khi nói lên sự thật'




Sự thật đó là cảnh ngộ, thân phận con người trong hơn 20 bộ phim tài liệu của ông. Sự thật đó cũng là những lận đận, khó dễ của hành trình đưa các bộ phim tới công chúng, được kể lại trong 'Chuyện nghề của Thủy'.

Tối 18/6, tại Nhà sách Phương Nam, Hà Nội, hai tác giả Trần Văn Thủy và Lê Thanh Dũng ra mắt cuốn sách đang gây xôn xao: “Chuyện nghề của Thủy”. Đây là chặng cuối cùng trong hành trình giới thiệu xuyên Việt, qua năm tỉnh thành (TP HCM, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội) của cuốn sách. Như một cái kết trọn vẹn, buổi ra mắt ở Hà Nội giống một cuộc sum họp, đoàn viên của hai tác giả với những người bạn, để họ “gặp mặt, nắm tay nhau, cười vui, ôn chuyện” - như lời tác giả mào đầu sự kiện - hơn là nói về cuốn sách.
Trước đó, tại buổi ra mắt ở Đà Nẵng, Huế, theo đạo diễn Trần Văn Thủy, cả ông và thính giả có mặt đều không cầm được nước mắt, khi những người thật việc thật được nhắc tới trong cuốn sách, trong đó có nhà văn Nguyên Ngọc, xuất hiện. Họ cùng đọc những lá thư cũ, nói những câu chuyện cũ, những cay đắng, vất vả trong hành trình làm nghề của vị đạo diễn hơn 70 tuổi và mừng tủi khóc. Trong buổi ra mắt sách ở Hà Nội, không có nước mắt, ngoài khoảnh khắc xúc động của đạo diễn Trần Văn Thủy khi hồi cố, nhắc tới những ân nhân trong “nghề của Thủy” giờ đã thành thiên cổ. Suốt buổi ra mắt là sự hoan hỷ của người trong cuộc, của người nghe, là những chia sẻ thật lòng, sự đồng cảm, và tiếng cười đến từ cách nói chuyện chân thành có phần tếu táo của vị đạo diễn. Trần Văn Thủy tỏ ra vui khi hành trình ra mắt sách xuyên Việt cuối cùng đã suôn sẻ hơn mong đợi, nhiều bất ngờ, kỷ niệm, mà ông đùa: “Có khi lại phải viết thêm một cuốn sách về chuyến ra mắt này”.

Hai tác giả "Chuyện nghề của Thủy" - Lê Thanh Dũng (trái) và Trần Văn Thủy.

“Chuyện nghề của Thủy”, đúng như cái tên, kể lại cuộc đời làm phim của đạo diễn phim tài liệu số một Việt Nam Trần Văn Thủy, do ông và người bạn thân - Tiến sĩ Khoa học Lê Thanh Dũng nhớ và viết lại. Cuốn sách khởi nguồn từ việc hai nhà nghiên cứu người Mỹ sang Việt Nam thực hiện công trình về đạo diễn Trần Văn Thủy và bộ phim "Chuyện tử tế”, phỏng vấn ông. Người bạn Lê Thanh Dũng khi đó nói với Trần Văn Thủy, tại sao không kể cho chính người Việt mình nghe những câu chuyện này? Và thế là dự án viết một cuốn sách kể lại hành trình làm nghề của Trần Văn Thủy bắt đầu. Đạo diễn cho biết, ông vốn không mấy hào hứng, khi phải lục lọi trí nhớ về những năm tháng khó khăn, nhọc nhằn, lận đận, nhưng chính người bạn Lê Thanh Dũng đã động viên ông và hạ quyết tâm làm. Một người kể, một người chấp bút tái dựng “chuyện nghề của Thủy”.
Cho rằng, mọi điều cần nói đã nói hết trong tác phẩm, buổi ra mắt “Chuyện nghề của Thủy” không nhắc nhiều đến nội dung cuốn sách mà chủ yếu để những người bạn ôn chuyện, chúc mừng nhau. Cuộc trò chuyện với đạo diễn Trần Văn Thủy vì thế đến bên lề sự kiện, khi mọi sự đã xong xuôi. “Tôi thấy bằng lòng. Không dám dùng từ mãn nguyện. Dở hay hay, không biết, nhưng tôi đã nói ra sự thật. Thực ra vẫn còn nhiều chuyện nhưng trong quá trình viết sách, chúng tôi cũng tự lược bỏ đi, bởi mình chọn nói những điều lớn, những điều thuyết phục thì có ích hơn”. Theo Trần Văn Thủy, những gì ông lược bỏ “cũng phải mấy trăm trang nữa”.
Trước sau, trong câu chuyện của Trần Văn Thủy vẫn là hai từ “Sự thật” và “Con người”. Đạo diễn Trần Văn Thủy chia sẻ: “Đối với khoa học xã hội, có lẽ ngoài tri thức ra thì nhân cách và bản lĩnh phải đặt lên hàng đầu, nó thể hiện trách nhiệm của mình với xã hội. Nếu không lăn xả vào nghề, không chịu trách nhiệm, không có chính kiến về tác phẩm của mình thì rất khó đóng góp một cách tích cực cho sự hoàn thiện, phát triển của xã hội. Chuyện nói thật rất cần thiết, tôi từng nói nhiều lần, một dân tộc toàn những người nói dối là dân tộc chết. Thượng đế cho người ta cái mồm, phải nói những điều mình nghĩ".
Đạo diễn Trần Văn Thủy chia sẻ, nói sự thật là điều quan trọng, nếu một xã hội không được nói thật, đó là xã hội bế tắc, ắt dẫn đến tai họa, nhưng nói bằng cách nào còn quan trọng hơn. “Nếu cứ cậy bản lĩnh và trách nhiệm mà không tìm một cách nói để người nghe có thể nghe được, để những người dù mang tư tưởng nào cũng cảm thấy có lý, thì không nên... Nếu có trách nhiệm, suy nghĩ về niềm vui nỗi buồn của đất nước thì phải tìm cách nói thích hợp, không nên nói để hả lòng mình”, đạo diễn chia sẻ.
Trần Văn Thủy nhắc lại những câu cuối cùng trong cuốn sách của ông và Lê Thanh Dũng: Mỗi người có thể có những cách nhìn khác nhau về những gì đã qua (…) Những điều bộc bạch trong cuốn sách này cũng là một cách nhìn. Một cách nhìn thẳng thắn, thiện tâm và thành thật.
Các bộ phim của Trần Văn Thủy đa phần đều hướng tới con người, không phải ngợi ca, tâng bốc, mà xoáy sâu vào tâm tư, số phận cá nhân của họ. Ông nói: “Những bộ phim đầu tiên tôi làm, rất bản năng, nhưng tình cờ đều xoay quanh thân phận con người. Nếu trong một xã hội mà con người luôn là mục đích tối thượng thì mọi hành xử chúng ta sẽ khác, nhưng khi con người chỉ là phương tiện thì... tội quá”.
Với mấy chục năm làm nghề, Trần Văn Thủy tóm lại những nguyên tắc mà ông thừa nhận là quan niệm cực đoan của chính ông: “Bất kỳ một sản phẩm văn hóa nào không có tư tưởng thì không nên gọi là tác phẩm. Còn một tác phẩm rời xa thân phận con người không bao giờ có thể thành kiệt tác”. Cuộc đời gian nan, chìm nổi, cập bến vinh quang, và đến giờ, bước qua tuổi thấp thập, đạo diễn không hối tiếc điều gì. “Tôi thấy mình may mắn. Rất nhiều đồng nghiệp giỏi hơn tôi, đã dấn thân, hy sinh, mất sớm trong chiến tranh hay vì bệnh tật. Nhìn lại tôi thấy, những bạn bè đồng niên của mình chẳng còn mấy người, trong khi mình vẫn còn làm việc, đi đây đi đó, đóng góp cho xã hội thì đó là một hạnh phúc lớn”.
Những "sự thật" trong “Chuyện nghề của Thủy”
Không ít người lo ngại, cuốn sách "nói sự thật" của Trần Văn Thủy và Lê Thanh Dũng sẽ khó khăn mới đến được tay độc giả, như số phận những cuốn phim của ông. Nhưng không, tác phẩm đã có hành trình xuyên Việt trọn vẹn. Trần Văn Thủy cũng hài lòng vì ông đã không nói dối một điều gì trong cuốn sách của mình. Vậy, sự thật ở đây là gì?
Từ chuyện một anh cán bộ văn hóa công tác ở Tây Bắc cuốc bộ về Hà Nội xin dự thi lớp quay phim, dù hết hạn thi nhưng được đặc cách vì “từ miền núi xuống”, tới những năm tháng làm phóng viên chiến trường đói khổ, bệnh tật, chui hầm, ngụp lặn dưới nước giấu phim, trốn đám lính Mỹ đang lùng sục khắp nơi, những ngày tháng sốt rét tưởng nằm chờ chết giữa đường. Đạo diễn không ngại thú nhận, trong chiến trường, khi mà nhiều người khác không ngại xông pha, sẵn sàng hy sinh thì người quay phim như ông phải có trách nhiệm sống, tìm cách sống để có được những thước phim, và nếu chẳng may có chết, thì vẫn phải bảo toàn “tính mạng” những cuốn phim đã quay. Trong cuốn sách có đoạn kể, Trần Văn Thủy nằm giữa đường chờ chết, ôm khư khư hộp phim trên bụng với dòng chữ ghi cẩn thận, tất cả là phim quay ở chiến trường, chưa tráng, ai nhặt được xin bảo quản hết sức và gửi giùm về cơ quan có trách nhiệm của ngành Điện ảnh, không được phép mở.
Tác giả cũng kể lại câu chuyện thật mà như phim, khi anh phóng viên Trần Văn Thủy đói quá đã phải ăn cắp con cua đá của đứa trẻ tên Vinh nướng lên ăn, để sáng mai khi đứa trẻ khóc đòi con cua thì cảm thấy nhục nhã quá. Cuốn sách kể những ngày tháng đói không có cái ăn nhưng không dám ăn một hạt gạo rang được dùng để chống ẩm cho phim. Cuốn sách cũng kể những lúc Trần Văn Thủy đứng ngập mình dưới sông quay cảnh chiếc cầu bị bom dội bốc cháy, khi nước duềnh lên lại phải rướn người, giơ máy lên trời.

Đạo diễn Trần Văn Thủy ký tặng sách độc giả.

Cuộc sống chiến trường khó khăn, ác liệt chưa phải là tột cùng gian khổ. Sau lần suýt chết, anh quay phim Trần Văn Thủy không đủ sức tiếp tục bám chiến trường nên trở về Hà Nội. Về đến nơi, nhập viện vì kiệt sức với thân hình 42 kg, Trần Văn Thủy nằm trên giường bệnh rụng rời khi hay tin toàn bộ phim đã quay ở chiến trường, dù còn nguyên vẹn, không ẩm mốc, nhưng không tráng được. Đồn thổi, lời ra tiếng vào, gã Thủy thì quay cái gì, quay vớ vẩn cho hết phim để thoát khỏi chiến trường thôi. Án B-quay treo trước mắt. Cuối cùng, nhờ sự giúp đỡ của ân nhân Nguyễn Thế Đoàn, Trần Văn Thủy tránh được vòng lao lý. Thế nhưng những thước phim chỉ được in ra bản đen trắng, lại có những đoạn chớp chớp vì tráng lỗi, chứ không phải phim màu. “Đâu rồi những cảnh chân trời bầm tím sau những hàng rào thép gai của đồn bốt, đâu rồi những cảnh cây lê ki ma bị cháy nửa vàng nửa xanh, đâu rồi những hàng dương xanh mướt, những con sóng bạc đầu…”, Trần Văn Thủy đau xót từng khúc ruột. Thế rồi, ông vẫn dựng, dựng cả những cảnh chớp nháy do tráng hỏng vào đoạn chiến trường ác liệt. Đó là cuốn “Những người dân quê tôi” - tác phẩm quay ở chiến trường - sau đó dự thi tại Liên hoan phim Leipzig năm 1970 và đoạt giải Bồ Câu Bạc.
Cuốn sách cũng dành phần lớn để nói chuyện những tác phẩm phim tài liệu của ông sau này, nổi bật là “Hà Nội trong mắt ai” và “Chuyện tử tế”, với số phận long đong khi ra mắt. “Hà Nội trong mắt ai”, thực hiện năm 1982, là cuốn sách "kê đơn bốc thuốc" những căn bệnh của xã hội đương thời, bày tỏ những lời gan ruột về con người, trích các tuồng lịch sử khiến con người ta phải giật mình ngẫm ngợi chuyện thế sự hiện tại. Tác phẩm điêu đứng, bị cấm chiếu lên cấm chiếu xuống, trong khi tác giả của nó bị gắn cho những cái danh “phản bội”, “có thế lực thù địch đứng sau”. Trần Văn Thủy không giấu sự biết ơn những con người mà nhờ có họ, phim của ông mới sống được. Sách trích lời thủ tướng Phạm Văn Đồng sau khi xem phim: “Đừng bắt anh em nghệ sĩ phải chui qua một lỗ kim, theo một khuôn mẫu có sẵn” hay “Tôi lạy các anh, tôi xin các anh, khi duyệt phim thì cố gắng rộng lượng như tôi”. Trần Văn Thủy cũng ám ảnh câu nói của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thốt lên về "Hà Nội trong mắt ai": “Bộ phim này chỉ có thế thôi à các anh?” – “Vâng, bộ phim nó chỉ có thế thôi ạ”. – “Nếu chỉ có thế này thôi thì tại sao lại cấm? Hay vì trình độ có hạn mà tôi không hiểu được?”.
“Chuyện tử tế”, được xem là phần hai của “Hà Nội trong mắt ai”, cũng không thoát khỏi số phận lao đao. Bộ phim xoay quanh việc đi tìm khái niệm thế nào là sự tử tế, bằng cách đi vào tâm tư, thân phận của từng con người trong xã hội khi đó, để nói rằng: “Chỉ có súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi đau khổ của con người, mà chăm lo riêng cho bộ da của mình” như lời Karl Mark, hay “Ở trên đời này, không có một nghề nghiệp nào, không có một công việc gì và cũng không có một con người nào trở nên tử tế nếu không bắt đầu từ tình yêu thương con người, sự trân trọng con người và đi từ nỗi đau của con người” (lời bình trong phim). Chuyện kể về người bạn Đồng Xuân Thuyết của đạo diễn trong những ngày tháng cuối đời khi lâm bệnh ung thư, một người bình thường nhưng sống có tình nghĩa, chân thành khiến bạn bè thương, tin - một đại diện của lòng tử tế. Chuyện về những người mắc phong bị rẻ rúng, miệt thị, những ông bơm xe là thượng tá, trung tá đã tham gia chiến tranh và có công lao, những người làm gạch ở thôn quê… và mọi số phận trong xã hội. Sau mọi gian nan, trắc trở, “Hà Nội trong mắt ai” sau này đoạt Giải vàng Liên hoan phim Việt Nam 1988. “Chuyện tử tế” thực hiện năm 1985 cũng giành giải Bồ Câu Bạc Liên hoan phim Quốc tế Leipzig.

Nhiều người bạn vong niên tới dự lễ ra mắt sách của Trần Văn Thủy và Lê Thanh Dũng.

Cũng có ý kiến cho rằng, dường như "Chuyện nghề của Thủy" dành nhiều trang giải trình những khó khăn, lận đận trong nghề, nhất là số phận những bộ phim của ông, hơn là mang đến cho thế hệ sau - những người kỳ vọng ở đạo diễn phim tài liệu hàng đầu Việt Nam một chỉ dẫn về nghề, Trần Văn Thủy cho rằng, nếu là kiến thức làm phim, ông sẽ truyền dạy trong những bài giảng. "Còn viết sách thì nên viết về những khó dễ trong nghề, điều mà chắc chắn người ta sẽ trông đợi để được đọc hơn".
Nhà văn Võ Thị Hảo có mặt tại buổi ra mắt sách của Trần Văn Thủy và Lê Thanh Dũng, chia sẻ niềm vui khi chứng kiến sự quan tâm của độc giả. "Chuyện nghề của Thủy kể lại hành trình làm phim cũng như cuộc đời Trần Văn Thủy, được tác giả Lê Thanh Dũng viết lại bằng giọng văn chân thực, giản dị. Tác phẩm có sức hút lớn, chứng tỏ độc giả vẫn khao khát sự thật, và rõ ràng, sự tử tế vẫn đánh thức được lương tri. Tôi nghĩ những người làm nghề, làm phim, nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo… có thể nhìn vào để thấy, tại sao người ta thờ ơ với tác phẩm của mình, trong khi có những tác phẩm lại được quan tâm như vậy. Như đạo diễn Trần Văn Thủy nói, phải đánh vào sợi dây lương tâm của con người, cái gì làm cho người ta đau đớn, khát khao, phải đồng hành với sự thật và công chúng. Cảm ơn Trần Văn Thủy, khi anh đã không chọn con đường bằng phẳng, dễ dàng, con đường nhiều lợi lộc hay làm nô lệ mà đã bằng “sự thật” để đồng hành với nhân dân Việt Nam".
“Cảm ơn Hà Nội trong mắt ai, Chuyện tử tế… cho đến Chuyện nghề của Thủy hôm nay. Nó khiến nhiều người phải nghĩ về điều tử tế. Điều này vừa vui, vừa buồn. Lẽ ra chuyện về sự tử tế chỉ là chuyện của một thời, khi mà người ta phải kêu lên vì thiếu nó, nhưng đến nay điều đó vẫn còn thời sự, thậm chí thời sự hơn”, Võ Thị Hảo chia sẻ.
Có lẽ, không riêng nhà văn Võ Thị Hảo, hẳn trong số nhiều người tham dự buổi ra mắt sách "Chuyện nghề của Thủy", khi ra về, cũng mang trong mình những thắc thỏm về ba chữ: "Sự tử tế".
Kỳ Thư
Ảnh: Mi Ly

Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2016

Bài thơ Tâm sự Người lính




Đỗ Hoàng




"Tòng quân lữ thứ tằng kinh chiến
Thuyết đáo nam chinh các tự sầu"

(Nguyễn Trung Ngạn)



khi trái tim con người đã biét yêu thương
đã biết phân biệt đâu là lẽ phải
thì lúc đó người ta phải chịu những gì tưởng như không chịu nổi
của những thế kỷ chiến tranh bạo tàn trên mặt đất sinh ra!

tuổi thành niên năm tháng trôi đi
bộ quân phục bạc phai màu nắng cháy
mọi khổ đau đều bắt nguồn từ nơi ấy
buổi chiều nhàu trên những dải rừng hoang...

ngày dài lãng quên theo nẻo lối hành quân
đêm co quắp với đội hình đánh giặc.
lính truyền cho nhau những tin kín mật
chung lưng khi gặp quân thù!

đã vào lính rồi
người ta ít nói đến ước mơ
kỷ niệm cũng phai dần theo khói lửa
cái riêng kia nhiều khi không biết nữa
mải mê công việc quên người!

thiên nhiên đổi mùa mưa ngàn nắng nôi
da dẻ thay màu
người thay suy nghĩ!
đời lính tập làm quen với đói khổ
làm quen với cái chết thường ngày.

thời gian trôi đi cũng chẳng ai hay?
Không có khái niệm thì giờ nơi chiến trường hoang dã.
khoảng thời gian vụt trôi qua đó
nhẩm tính ra cũng mấy vạn năm rồi!

khi trái tim con người đã biết yêu thương
là khi trái tim con người từng biết khổ đau
vì những niềm vui
vì những ký ức ban đầu trổi dậy
vì những gì quý mến nhất trên đời tàn lụi!

trong cuộc trường chinh khó gặp lại một lần!
người lính sống nhiều với nỗi gian truân
với bao nghĩ suy
với bao dằn vặt!
nỗi đắng cay điên cuồng
nỗi thâm gan uất ức.
mà cuộc đời không để để cho yên!

không thể đi tìm một sự thật lãng quên
không thể sống tách mình ra ngoài quân ngũ.
kỷ luật nhà binh vẫn làm khốn khổ
- lòng tự do khao khát của con người!

người lính đi nhiều và qua trăm nơi.
họ biết được nỗi đau của đời họ đang sống.
họ biết lắm kẻ gào lên
rồi im lặng
triền mien trong suy nghĩ lao lung.

ai là người tri kỷ của nỗi lòng họ
có không?
hay chỉ kẻ đứng bên ngoài tán thưởng.
họ muốn tìm ra thực chất cuộc sống
mà máu tim hồng của họ đang rơi!

bao cái chết của một thời xa xôi
nay lại trở về trên giường bệnh
cái chết bình thường cũng làm nên con tính
để loài người phải suy nghĩ hôm nay!

sống sót qua cuộc chiến tranh này còn lại là ai?
bụi chiến trường trên ngã đường chưa lắng đọng.
người lính ngã mũ ra
trời cao đất rộng.
tưởng niệm hồn người quá cố năm xưa!

chiến tranh khốc tàn
kẻ chết
người chưa!
qua khói lửa bây giờ dừng lại.
nơi bờ tre có bàn tay run rẫy
của mẹ già khóc đón con về!

chiến tranh đã đi qua
chiến tranh là thế kia!
cái chết cũng bình thường như mạng kiến.
nhiềư chứng nan y làm cho con người trống rỗng.
phần yêu thương nay đã mất đi rồi!

phút giây trở về
đổi lấy đời trai
họ mệt mỏi ê chề như năm tháng.
mẹ hiền đón anh
một người trọng bệnh.
qua vạn năm chưa ai chữa cho lành!

bây giờ anh không muốn tìm về người thân
bỡi sức lực trong anh đã kiệt.
tuổi yêu đương ngày đánh mất
tráo tim vết chém. u bầm!

phía quê nhà không một ánh lửa thắp lên.
bom đạn xáo trộn đều sông bến.
người lính tần ngần như kẻ chưa hồi sinh sự sống
nhìn tầng mây ngơ ngác giữa trời quê.

chiến tranh
chiến tranh
là thế kia!
lứa tuổi yêu đương không còn mơ ước.
khi biết kẻ làm ra điều ác
là khi anh đã ma dại thân tàn!

nghìn năm qua nhân loại đã căm hờn.
bao cảnh chiến tranh vô nghĩa lý
nghìn năm nay loài người xâu xé
nghìn năm sau nhân loại vẫn lên án cuộc chiến tranh này!

chiến tranh chẳng đem lại cho con người lợi ích nào đâu.
chỉ cái chết đè lên đầu lên cổ.
bao đói rét dồn về người cùng khổ
bao bất công phải ôm hận nghìn năm!

chỉ một nhúm người làm giàu trong chiến tranh
chỉ một nhùm người nuôi sống đời mình
bằng máu đồng loại chảy.
chỉ một nhúm người ấy
xui cả tỷ người chém giết lẫn nhau!

được sống sót trở về trong khoảng vắng cô đơn.
đồng đội chết còn ai bât giờ nữa?
lạ lùng lắm dù đứng nơi xứ sở
có mẹ già run rẩy đón con xa!

người lính thân tàn như một vật vô tri
người ta nhìn vào anh lạ lắm
- đấy giá trị của người trai chinh chiến!
đổi lấy gì khi anh trở về đây?

người lính u buồn úp mặt vào hai bàn tay
vết thương trong lòng máu túa.
giá anh như đồng đội anh không còn nữa
sẽ yên hơn khi phải sống với thế gian này!

cuộc đời vẫn chưa hết đâu!
vạn người như anh hồn bay lưỡng vưởng...
rồi sau này còn ai nhắc đến
nỗi đau sâu kín của con người.
mà thế kỷ chiến tranh này đã tàn phá!




Điểm chốt 176
Biên giới Việt - Lào
Tháng 9 năm 1973

Đ - H


Loài ngườii bao nhiêu triệu năm Tạo Hóa mới sinh ra được chữ Người. bao nhiêu triệu năm Tạo Hóa mới cho Ta niềm kiêu hãnh của loài vật Thông Minh bậc nhất .Bao nhiêu triệu năm niềm kiêu hãnh không một loài nào cướp mất xuyên qua ngàn thế kỷ xa xôi. Bao nhiêu triệu năm Ta mới có được chữ Người! - dẫn Ta tới những tình yêu kỳ lạ - dẫn Ta tới cái căm hờn nghiệt ngã trên hành tinh này - nửa trắng nửa đen! Ôi! Ta đã tự hào với những niềm tin với những đam mê điên cuồng cỗ vũ với những tình thương rộn ràng ghê sợ khi Ta đứng trên đỉnh núi muôn loài! Con Người con Người lúc đang bé thơ đã biết bắt kẻ khác loài về thần phục đã biết gieo vào triệu năm sự chết trong ngàn niên đại xa xưa. Con Người con Người với tiếng cười điển hình trên lớp thú với tiếng cười biết làm nên tất cả cuộc sống khác thường trên khắp hành tinh!


  Ôi! Ta đã mất lòng tin Ta biết bắt đầu từ trong loài ta ở .Ta biết bắt đầu từ khi Ta đứng trong loài Ta. Ta nhìn rất rõ sự thật đắng cay sự thật đảo điên sự thật ác tàn ngự trị thế gian loài vật Người loài vật thú sự thông minh sự thật ngu sy man rợ thế gian dầy nỗi thương đau!
 Điển hình cho sự điên cuồng cấu xé lẫn nhau điển hình cho sự thù hằn khủng khiếp là sự thật hàng tỷ Người bị giết nguyên do loài vật Người gây ra. Mấy ngàn đời vạn thế kỷ trôi đi loài Người cô đơn sống trong loạn lạc. Loài Người cô đơn ở trong chết chóc. Loài Người cô đơn không có đường ra! Loài Người thông minh ,loài Người ngu sy! Để bạo chúa nghìn đời ngự trị để những cuộc sát tàn vô nghĩa lý như chứng nan y hoành hành mãi trên đời!
 Trong cái chết thất kinh cũng có tiếng cười. Trong cái chết thất kinh cũng có kẻ lấy làm hàng mua bán. Trong cái chết thất kinh cũng có kẻ lấy làm mục đích sự sống nhuộm đồng tiền bằng máu Người ơi! loài Người ngu si và lũ chù hôi hàng niên đại đè lên mạng Người cùng khổ. Hàng niên đại vạn kẻ lánh đi vì sợ để ngợi ca cái ác điên cuồng! Bao nhà thơ mất hết lương tâm. Bao bọn báo bồi văn bồi làm gián điệp. Bao tác phẩm nghệ thuật biến thành biệt kích cuộc đời này đánh đĩ với văn chương! 
 Bọn thống trị lấy ác tàn để làm "trí nhân". Bọn xu thời lấy cúi luồn làm nơi thăng tiến. Mục đích đời là gì? Khi ác tàn cần đến chúng sẵn sàng bán hết lương tâm! Chỉ lấy một mẩu đời thôi có bao nỗi bất công. Bao nỗi oán thù khủng khiếp. Bao tai họa chùm lên đầu Người. Bao oan nghiệt hành tinh đói nghèo ly loạn đến nghìn sau! Chỉ lấy một mẩu đời thôi. Có ai tính hết đâu một phần triệu triệu lần cái ác con Người.Con Người gớm ghiếc ,bao triết gia coi khinh sự chết, bao nhà thơ ca ngợi cái điên cuồng, bao nhà văn bán đứng văn chương, bao chính khách phỉnh phờ ngồi một nơi xui gào cổ vũ... 
 Chưa một nhà thống kê nào tính chính xác cái tàn ác  hôm nay mai sau và quá khứ. Chưa một nhà nhân đạo nào nói hết sự thật trắng đen. Chưa có kẻ cầm quyền nào tự nhận mình là lũ ác tàn. Chưa có kẻ nào dám ngoảnh lại nhìn đời mình trong lốt thú! Loài Người vỹ đại làm ra những điều diệu kỳ trên trái đất .Con Người cũng là kẻ bạo tàn bậc nhất. Đau thương nghìn đời xưa, đau thương nghìn đời nay và sau những thế kỷ xa xôi... 
 Không gian thời gian vĩnh viễn kéo dài bao tai họa. Loài Người còn phải chịu bao đau thương còn đẵng đeo mãi mãi. Bao kẻ ác tàn đang sống phởn phơ ,bao con Người lương thiện chết bơ vơ, bao nhiêu... mà chữ Người lại chia đều cho mọi đứa? Biết bao giờ Ta được tin ,được cầu mong hơn chút nữa? Loài Người xóa đi cái căm ghét thù hằn .Loài Người xóa đi cái dai đẵng chiến tranh! Để cho con Người được nhìn trời cao đất rộng đem điều thiện trở về cuộc sống mọi thù hằn tàn ác sẽ tan đi! Cho trái đất không còn bị cắt chia, cho cuộc đời khồng còn ngu si ác tàn bịp bợm. Để chỉ có con Người. Con Người duy nhất trên hành tinh này tan hết màu đêm .Ta mong một ngày ta có lại niềm tin. Ta có lại niềm tin trong loài Ta ở thì chữ Người mới trở về với loài Ta đó!

ĐH

Thứ Năm, 24 tháng 3, 2016

260 TỪ NGỮ THÔNG DỤNG CỦA DÂN SAIGON & NGƯỜI MIỀN NAM







Tổng hợp 260 từ ngữ thông dụng của dân Saigon xưa nói riêng & người miền Nam ngày nay nói chung !

1. À nha = thường đi cuối câu mệnh lệnh dặn dò, ngăn cấm (không chơi nữa à nha)
2. Áo thun ba lá = Áo May Ô
3. Ăn coi nồi, ngồi coi hướng = Ăn trông nồi, ngồi trông hướng
4. Âm binh = phá phách (mấy thằng âm binh = mấy đứa nhỏ phá phách)
5. Bà chằn lữa = người dữ dằn (dữ như bà chằn)
6. Ba ke, Ba xạo
7. Bá Láp Bá Xàm
8. Bá chấy bù chét
9. Bà tám = nhiều chuyện (thôi đi bà tám = đừng có nhiều chuyện nữa, đừng nói nữa)
+ Bà quại = bà ngoại
10. Bang ra đường = chạy ra ngoài đường lộ mà không coi xe cộ, hoặc chạy ra đường đột ngột, hoặc chạy nghênh ngang ra đường
11. Bạt mạng = bất cần, không nghĩ tới hậu quả (ăn chơi bạt mạng)
12. Bặc co tay đôi = đánh nhau tay đôi
13. Bặm trợn = trông dữ tợn, dữ dằn
14. Bất thình lình = đột ngột
15. Bẹo = chưng ra (gốc từ cây Bẹo gắn trên ghe để bán hàng ở chợ nổi ngày xưa)
16. Bẹo gan = chọc cho ai nổi điên
17. Bề hội đồng = hiếp dâm tập thể
18. Bển = bên đó, bên ấy (tụi nó đang chờ con bên bển đó!)
19. Biết đâu nà, biết đâu nè = biết đâu đấy
20. Biệt tung biệt tích = không thấy hiện diện
21. Biểu (ai biểu hổng chịu nghe tui mần chi! – lời trách nhẹ nhàng) = bảo
22. Bình thủy = phích nước
23. Bình-dân = bình thường
24. Bo bo xì = nghỉ chơi không quen nữa (động tác lấy tay đập đập vào miệng vừa nói của con nít)
25. Bỏ qua đi tám = cho qua mọi chuyện đừng quan tâm nữa (chỉ nói khi người đó nhỏ vai vế hơn mình)
26. Bỏ thí = bỏ
27. Bùng binh = vòng xoay
28. Bội phần = gấp nhiều lần
29. Buồn xo = rất buồn ( làm gì mà coi cái mặt buồn xo dậy? )
30. Bữa = buổi/từ đó tới nay (ăn bữa cơm rồi về/bữa giờ đi đâu mà hổng thấy qua chơi?)
31. Cà chớn cà cháo = không ra gì
32. Cà chớn chống xâm lăng -Cù lần ra khói lửa.
33. Cà kê dê ngỗng = dài dòng.
34. Cà Na Xí Muội
+ Cà rá = chiếc nhẫn
35. Cà nhỗng = rãnh rỗi không việc gì để làm (đi cà nhỗng tối ngày)
36. Cà nghinh cà ngang = nghênh ngang
37. Cà rem = kem
38. Cà rịt cà tang = chậm chạp.
39. Cà tàng = bình thường, quê mùa,….
40. Cái thằng trời đánh thánh đâm
41. Càm ràm = nói tùm lum không đâu vào đâu/nói nhây
Coi được hông?
42. Cù lần, cù lần lữa = từ gốc từ con cù lần chậm chạp, lề mề, chỉ người quá chậm lụt trong ứng đối với chung quanh … (thằng này cù lần quá!)
43. Cụng = chạm
44. Cứng đầu cứng cổ
45. Chà bá , tổ chảng, chà bá lữa = to lớn, bự
46. Chàng hãng chê hê = banh chân ra ngồi ( Con gái con đứa gì mà ngồi chàng hãng chê hê hà, khép chưn lại cái coi! )
47. Cha chả = gần như từ cảm thán “trời ơi! ” (Cha chả! hổm rày đi đâu biệt tích dzậy ông?)
48. Chả = không ( Nói chả hiểu gì hết trơn hết trọi á ! )
+ Chả = thằng chả / thằng cha kia
49. Chậm lụt = chậm chạp, khờ
50. Chém vè (dè)= trốn
51. Chén = bát
52. Chèn đét ơi, mèn đét ơi, chèn ơi, Mèn ơi = ngạc nhiên
53. Chết cha mày chưa! có chiện gì dậy? = một cách hỏi thăm xem ai đó có bị chuyện gì làm rắc rối không
54. Chì = giỏi (anh ấy học “chì” lắm đó).
55. Chiên = rán
56. Chịu = thích, ưa, đồng ý ( Hổng chịu đâu nha, nè! chịu thằng đó không tao gả luôn)
57. Chỏ = xía, xen vào chuyện người khác
58. Chổ làm, Sở làm = hãng xưỡng, cơ quan công tác
59. Chơi chỏi = chơi trội, chơi qua mặt
60. Chùm hum = ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chổ không nhúc nhích, không quan tâm đến ai (có gì buồn hay sao mà ngồi chùm hum một chổ dậy? )
61. Chưn = chân
62. Chưng ra = trưng bày
63. Có chi hông? = có chuyện gì không?
64. Dạ, Ừa (ừa/ừ chỉ dùng khi nói với người ngang hàng) = Vâng, Ạ
Dạo này = thường/nhiều ngày trước đây đến nay (Dạo này hay đi trễ lắm nghen! /thường)
65. Dấm da dấm dẵng
66. Dây = không có dây dzô nó nghe chưa = không được dính dáng đến người đó
67. Dễ tào = dễ sợ
68. Dì ghẻ = mẹ kế
69. Dĩa = Đĩa
70. Diễn hành, Diễn Binh= diễu hành, diễu binh (chữ diễu bây giờ dùng không chính xác, thật ra là “diễn” mới đúng)
71. Diễu dỡ = làm trò
72. Dỏm (dởm), dỏm đời, dỏm thúi, đồ lô (sau 1975, khi hàng hóa bị làm giả nhiều, người mua hàng nhầm hàng giả thì gọi là hàng dởm, đồ “lô” từ chữ local=nội địa)
73. Dô diên (vô duyên) = không có duyên (Người đâu mà vô diên thúi vậy đó hà – chữ “thúi’ chỉ để tăng mức độ chứ không có nghĩa là hôi thúi)
74. Du ngoạn = tham quan
75. Dù = Ô
76. Dục (vụt) đi = vất bỏ đi (giọng miền nam đọc Vụt = Dục âm cờ ít đọc thành âm tờ, giống như chữ “buồn” giọng miền nam đọc thành “buồng”)
77. Dùng dằng = ương bướng
78. Dữ hôn và …dữ …hôn…= rất ( giỏi dữ hén cũng có nghĩa là khen tặng nhưng cũng có nghĩa là đang răn đe trách móc nhẹ nhàng tùy theo ngữ cảnh và cách diễn đạt của người nói ví dụ: “Dữ hôn! lâu quá mới chịu ghé qua nhà tui nhen”, nhưng “mày muốn làm dữ phải hôn” thì lại có ý răn đe nặng hơn )
79. Dzìa, dề = về (thôi dzìa nghen- câu này cũng có thể là câu hỏi hoặc câu chào tùy ngữ điệu lên xuống người nói)
80. Dzừa dzừa (vừa) thôi nhen = đừng làm quá
81. Đá cá lăn dưa = lưu manh
82. Đa đi hia = đi chổ khác.
83. Đài phát thanh = đài tiếng nói
84. Đàng = đường
85. Đặng = được (Qua tính vậy em coi có đặng hông?)
86. Đen như chà dà (và) = đen thui, đen thùi lùi = rất là đen
+ Đền = bồi thường
87. Đêm nay ai đưa em dìa = hôm nay về làm sao, khi nào mới về (một cách hỏi) – từ bài hát Đêm nay ai đưa em về của NA9
88. Đi bang bang = đi nghênh ngang
89. Đi cầu = đi đại tiện, đi nhà xí
90. Đó = đấy , nó nói đó = nó nói đấy
91. Đồ già dịch = chê người mất nết
92. Đồ mắc dịch = xấu nết tuy nhiên, đối với câu Mắc dịch hông 93. nè! có khi lại là câu nguýt – khi bị ai đó chòng ghẹo
94. Đờn = đàn
95. Đùm xe = Mai-ơ
96. Được hem (hôn/hơm) ? = được không ? chữ hông đọc trại thành hôn, hem hoặc hơm
97. Ghẹo, chòng ghẹo = chọc quê
98. Ghê = rất – hay ghê há tùy theo ngữ cảnh và âm điệu thì nó mang ý nghĩa là khen hoặc chê
99. Gớm ghiết = nhìn thấy ghê, không thích
100. Giục giặc, hục hặc = đang gây gổ, không thèm nói chuyện với nhau (hai đứa nó đang hục hặc! )
101. Hãng, Sở = công ty, xí nghiệp
102. Hay như = hoặc là
103. Hậu đậu = làm việc gì cũng không tới nơi tới chốn
Hết = chưa, hoặc chỉ nâng cao mức độ nhấn mạnh (chưa làm gì hết)
104. Hết trơn hết trọi = chẳng, không – “Hết Trọi” thường đi kèm thêm cuối câu để diễn tả mức độ (Ở nhà mà hổng dọn dẹp phụ tui gì hết trơn (hết trọi) á! )
105. Hồi nảo hồi nào = xưa ơi là xưa
106. Hổm rày, mấy rày = từ mấy ngày nay
107. Hổng có chi! = không sao đâu
108. Hổng chịu đâu
109. Hổng thích à nhen!
110. Hột = hạt (hột đậu đen, đỏ) miền nam ghép cả Trứng hột vịt thay vì chỉ nói Trứng vịt như người đàng ngoài
111. Hợp gu = cùng sở thích
112. Ì xèo = tùm lum, …
113. năn nỉ ỉ ôi
114. Kẻo = coi chừng
115. Kể cho nghe nè! = nói cho nghe
116. Kêu gì như kêu đò thủ thiêm = kêu lớn tiếng, kêu um trời,….
Lanh chanh
117. Làm (mần) cái con khỉ khô = không thèm làm
118. Làm (mần) dzậy coi được hông?
119. Làm dzậy coi có dễ ưa không? = một câu cảm thán tỏ ý không thích/thích tùy theo ngữ cảnh
120. Làm gì mà toành hoanh hết zậy
121. Làm nư = lì lợm
122. Làm um lên: làm lớn chuyện
123. Lặc lìa = muốn rớt ra, rời ra nhưng vẫn còn dính với nhau chút xíu
124. Lần = tìm kiếm (biết đâu mà lần = biết tìm từ chổ nào)
125. Lần mò = tìm kiếm, cũng có nghĩa là làm chậm chạm (thằng tám nó lần mò cái gì trong đó dậy bây?)
126. Lắm à nhen = nhiều, rất (thường nằm ở cuối câu vd: thương lắm à nhen)
127. Lẹt đẹt = ở phía sau, thua kém ai ( đi lẹt đẹt! Lảm gì (làm cái gì) mà cứ lẹt đẹt hoài vậy)
128. Lao-tổn (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)
129. Lao-cần (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa)
130. Lên hơi, lấy hơi lên = bực tức (Nghe ông nói tui muốn lên hơi (lấy hơi lên) rồi đó nha!
131. Liệu = tính toán
132. Liệu hồn = coi chừng
133. Lô = đồ giả, đồ dỡ, đồ xấu (gốc từ chữ local do một thời đồ trong nước sản xuất bị chê vì xài không tốt)
134. Lộn = nhầm (nói lộn nói lại)
135. Lộn xộn = làm rối
136. Lụi hụi = ???? (Lụi hụi một hồi cũng tới rồi nè!)
137. Lùm xùm = rối rắm,
138. Lụt đục = không hòa thuận (gia đình nó lụt đục quài)
139. Má = Mẹ
140. Ma lanh, Ma le
141. Mã tà = cảnh sát
142. Mari phông tên = con gái thành phố quê mùa
143. Mari sến = sến cải lương
144. Mát trời ông địa = thoải mái
145. Máy lạnh = máy điều hòa nhiệt độ
146. Mắc cười = buồn cười
147. Mắc dịch = Mất nết, không đàng hoàng, lẳng lơ, xỏ lá, bởn cợt.
148. Mặt chù ụ một đống, mặt chầm dầm
149. Mần ăn = làm ăn
150. Mần chi = làm gì
151. Mậy = mày ( thôi nghen mậy = đừng làm nữa)
152. Mét = mách
153. Miệt, mai, báo, tứ, nóc… chò = 1, 2, 3, 4, 5…. 10.
154. Mình ên = một mình (đi có mình ên, làm mình ên)
155. Mò mẫm rờ rẫm sờ sẩm (hài) = mò
156. Mồ tổ! = câu cảm thán
157. Mả = Mồ
158. Muỗng = Thìa, Môi
159. Mút mùa lệ thủy = mất tiêu
160. Nam Tàu Bắc Đẩu
161. Nào giờ = từ trước tới nay
162. Niềng xe = vành xe
163. Ngang Tàng = bất cần đời
164. Nghen, hén, hen, nhen
165. Ngoại quốc = nước ngoài
166. Ngon bà cố = thiệt là ngon
167. Ngộ = đẹp, lạ (cái này coi ngộ hén)
168. Ngồi chồm hỗm = ngồi co chân ….chỉ động tác co gập hai chân lại theo tư thế ngồi … Nhưng không có ghế hay vật tựa cho mông và lưng … (Chợ chồm hổm – chợ không có sạp)
169. Ngủ nghê
170. Nhan nhãn = thấy cái gì nhiều đằng trước mặt
171. Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi! = đừng nhắc chuyện đó nữa, biết rồi đừng kể nữa – trích lời trong bài hát Ngày đó xa rồi
172. Nhậu = một cách gọi khi uống rượu, bia
173. Nhiều chiện = nhiều chuyện
174. Nhìn khó ưa quá (nha)= đôi khi là chê nhưng trong nhiều tình huống lại là khen đẹp nếu thêm chữ NHA phía sau
175. Nhóc, đầy nhóc : nhiều
176. Nhột = buồn
177. Nhựt = Nhật
178. Nón An toàn = Mũ Bảo hiểm
179. Ổng, Bả, Cổ, Chả = Ông, Bà, Cô, Cha ấy = ông đó ổng nói (ông ấy nói)
180. Phi cơ, máy bay = tàu bay
181. Quá cỡ thợ mộc…= làm quá,
182. Qua đây nói nghe nè! = kêu ai đó lại gần mình
183. Qua bên bển, vô trong trỏng, đi ra ngoải,
184. Quá xá = nhiều (dạo này kẹt chiện quá xá! )
185. Quá xá quà xa = quá nhiều
186. Quê một cục
187. Quê xệ
188. Rành = thành thạo, thông thạo, biết (tui hồng rành đường 189. này nhen, tui hổng rành (biết) nhen)
190. Rạp = nhà hát(rạp hát), dựng một cái mái che ngoài đường lộ hay trong sân nhà để cho khách ngồi cho mát (dựng rạp làm đám cưới)
191. Rân trời = um sùm
192. Rốp rẽng (miền Tây) = làm nhanh chóng
193. Rốt ráo (miền Tây) = làm nhanh chóng và có hiệu quả
194. Ruột xe = xăm
195. Sai bét bèng beng = rất sai, sai quá trời sai!
196. Sai đứt đuôi con nòng nọc = như Sai bét bèng beng
197. Sạp = quầy hàng
198. Sến = cải lương
200. Sến hồi xưa là người làm giúp việc trong nhà. Mary sến cũng có nghỉa là lèn xèn như ng chị hai đầy tớ trong nhà.
201. Sên xe = xích
202. Sếp phơ = Tài xế
203. Sườn xe = khung xe
204. Tà tà, tàn tàn, cà rịch cà tang = từ từ
205. Tàn mạt = nghèo rớt mùng tơi
206. Tàng tàng = bình dân
207. Tào lao, tào lao mía lao, tào lao chi địa, tào lao chi thiên,… 208. chuyện tầm xàm bá láp = vớ vẫn
209. Tàu hủ = đậu phụ
210. Tầm xàm bá láp
211. Tầy quầy, tùm lum tà la = bừa bãi
212. Té (gốc từ miền Trung)= Ngã
213. Tèn ten tén ten = chọc ai khi làm cái gì đó bị hư
214. Tía, Ba = Cha
215. Tiền lính tính liền, tiền làng tàn liền …!
216. Tòn teng = đong đưa, đu đưa
217. Tổ cha, thằng chết bầm
218. Tới = đến (người miền Nam và SG ít khi dùng chữ đến mà dùng chữ tới khi nói chuyện, đến thường chỉ dùng trong văn bản)
219. Tới chỉ = cuối
220. Tới đâu hay tới đó = chuyện đến rồi mới tính
221. Tui ưa dzụ (vụ) này rồi à nhen = tui thích việc này rồi ( trong đó tui = tôi )
222. Tui, qua = tôi
223. Tụm năm tụm ba = nhiều người họp lại bàn chuyện hay chơi trò gì đó
224. Tức cành hông = tức dữ lắm
225. Tháng mười mưa thúi đất
226. Thắng = phanh
227. Thằng cha mày, ông nội cha mày = một cách nói yêu với 228. người dưới tùy theo cách lên xuống và kéo dài âm, có thể ra nghĩa khác cũng có thể là một câu thóa mạ
228. Thấy ghét, nhìn ghét ghê = có thể là một câu khen tặng tùy 229. ngữ cảnh và âm điệu của người nói
230. Thấy gớm = thấy ghê, tởm (cách nói giọng miền Nam hơi kéo dài chữ thấy và luyến ở chữ Thấy, “Thấy mà gớm” âm mà bị câm)
231. Thèo lẽo = mách lẽo ( Con nhỏ đó chuyên thèo lẽo chuyện của mầy cho Cô nghe đó! )
232. Thềm ba, hàng ba
233. Thí = cho không, miễn phí, bỏ ( thôi thí cho nó đi!)
234. Thí dụ = ví dụ
235. Thiệt hôn? = thật không?
236. Thọc cù lét, chọc cù lét = ??? làm cho ai đó bị nhột
237. Thôi đi má, thôi đi mẹ! = bảo ai đừng làm điều gì đó
238. Thôi hén!
239. Thơm = dứa, khóm
230. Thúi = hôi thối,
231. Thưa rĩnh thưa rãng = lưa thưa lác đác
232. Trà = Chè
233. Trăm phần trăm = cạn chén- (có thể gốc từ bài hát Một trăm em ơi – uống bia cạn ly là 100%)
234. Trển = trên ấy (lên trên Saigon mua đi , ở trển có bán đồ nhiều lắm)
235. Trực thăng = máy bay lên thẳng
236. Um xùm
237. Ứa gan
238. Ứa gan = chướng mắt
239. Vè xe = chắn bùn xe
240. Vỏ xe = lốp
241. Xả láng, sáng về sớm,
242. Xà lỏn, quần cụt = quần đùi
243. Xài = dùng, sử dụng
244. Xảnh xẹ, Xí xọn = xảnh xẹ = làm điệu
245. Xe cam nhông = xe tải
246. Xe hơi = Ô tô con
247. Xe nhà binh = xe quân đội
248. Xe đò = xe chở khách, tương tự như xe buýt nhưng tuyến xe chạy xa hơn ngoài phạm vi nội đô (Xe đò lục tỉnh)
249. Xe Honda = xe gắn máy ( có một thời gian người miền Nam quen gọi đi xe Honda tức là đi xe gắn máy – Ê! mầy tính đi xe honda hay đi xe đạp dậy?)
250. Xẹp lép = lép xẹp, trống rổng ( Bụng xẹp lép – đói bụng chưa có ăn gì hết)
251. Xẹt qua = ghé ngang qua nơi nào một chút (tao xẹt qua nhà thằng Tám cái đã nghen – có thể gốc từ sét đánh chớp xẹt xẹt nhanh)
252. Xẹt ra – Xẹt vô = đi ra đi vào rất nhanh
253. Xí = hổng dám đâu/nguýt dài (cảm thán khi bị chọc ghẹo)
254. Xí xa xí xầm, xì xà xì xầm, xì xầm= nói to nhỏ
255. Xía = chen vô (Xí! cứ xía dô chiện tui hoài nghen! )
256. Xiên lá cành xiên qua cành lá = câu châm chọc mang ý nghĩa ai đó đang xỏ xiên mình ???? (gốc từ bài hát Tình anh lính chiến- Xuyên lá cành trăng lên lều vải)
257. Xiết = nổi ( chịu hết xiết = chịu hổng nổi = không chịu được)
258. Xỏ lá ba que = giống như chém dè (vè), tuy nhiên có ý khác là cảnh báo đừng có xen vào chuyện của ai đó trong câu: “đừng có xỏ lá ba que nhe mậy”
259. Xỏ xiên = đâm thọt, đâm bị thóc chọc bị gạo,… (ăn nói xỏ xiên)
260. Xưa rồi diễm = chuyện ai cũng biết rồi (gốc từ tựa bài hát Diễm xưa )

-Tony- Sài Gòn trước 1975
* Mọi người vui lòng để lại ý kiến bên dưới nếu cảm thấy sai hoặc thiếu xót *

NHÂN TÌNH và TÌNH NHÂN




Hoàng Tuấn Công


Trong khi nói và viết, không ít người nhầm lẫn giữa hai từ“nhân tình” và “tình nhân”. Đôi khi người ta xem “nhân tình” hay “tình nhân” đều có nghĩa là người tình hoặc người yêu. Một số người lại lầm tưởng: “tình nhân” là người yêu trong quan hệ yêu đương đứng đắn, hợp pháp. Còn “ nhân tình” là cách ám chỉ những người có quan hệ bất chính, khi cả hai (hoặc một trong hai) đã có vợ, có chồng. Ví dụ “Ông ấy bắt nhân tình với một cô đang còn trẻ lắm” hoặc “Ông ấy có nhân tình nhân ngãi...” Cách dùng sai, hiểu sai từ nhân tình, tình nhân không chỉ tồn tại trong đời sống đại chúng mà còn ảnh hưởng tới cả những người cầm bút.

Câu mở đầu bài thơ “Ghen” Nguyễn Bính Viết: “Cô nhân tình bé nhỏ của tôi ơi”. (Thơ Nguyễn Bính thường có nhiều dị bản). Nếu quả thực đây là văn bản đáng tin cậy thì Nhà thơ đã dùng từ “nhân tình” với nghĩa không chính xác là người yêu, người tình. Trong khi hiểu đúng nghĩa, “nhân tình” là tình người, và “tình nhân” mới có nghĩa là người tình, người yêu.
Từ điển Hán Việt (Đào Duy Anh) giải nghĩa:
-“Nhân tình: tình dục của người, tình riêng đối với nhau (tình dục ở đây hiểu theo nghĩa là tình cảm, lòng ham muốn nói chung của con người, chứ không phải tình dục trong quan hệ tình dục-HTC chú thích)
-“Tình nhân: Hai người trai gái yêu nhau gọi là tình nhân”.
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên):
-“Tình nhân [cũ, hoặc văn chương] người yêu: Tình nhân lại gặp tình nhân, hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình (Kiều).
Thành ngữ Hán Việt có câu “Nhân tình thế thái” (hoặc Thế thái nhân tình) có nghĩa là: tình người, thói đời. Cụ Tú Xương khi nói về tình người bạc bẽo thời bấy giờ (thực dân phong kiến) cũng đã viết: “Đ. mẹ nhân tình đã biết rồi, Lạt như nước ốc bạc như vôi”. Hay “Trước đèn xem truyện Tây minh, Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le” (Lục Vân Tiên) Ở đây, từ nhân tình đã được dùng chính xác với nghĩa là tình người.
Có lẽ, do sự lẫn lộn trong nói và viết quá nhiều nên trong Từ điển tiếng Việt(Hoàng Phê chủ biên) đã đi đến sự “thỏa hiệp” với cái sai. Đó là sau khi giải nghĩa:"Nhân tình: tình cảm giữa con người với nhau, tình người (nói khải quát); Nhân tình thế thái lòng người và thói đời", đã ghi nhận cách dùng lẫn lộn trong thực tế: “nhân tình” đồng nghĩa với “tình nhân, người tình, nhân ngãi” và giải nghĩa: “Nhân tình:người có quan hệ yêu đương với người khác (thường là không chính đáng), trong quan hệ với người ấy”.
Trong khi, thực tế đáng mừng là từ "tình nhân" đã và đang được mọi người, đặc biệt là các bạn trẻ sử dụng đúng. Ví như nói "Ngày lễ tình nhân" chứ không nói Ngày lễ nhân tình !

Thói quen đổ lỗi



 hoạ sĩ Đỗ Đức



1 – Một bạn viết:
“Đứa trẻ còn nhỏ khi nó đi không cẩn thận bị vấp ngã, thay vì nói: con phải nhìn đường chứ và lần sau phải cẩn thận hơn… thì lại bảo: Đánh chừa đất này, đất không có mắt, không biết tránh cu Bi này…”
Đứa trẻ thấy có chỗ chịu lỗi làm nó ngã, bị đòn thì nó nguôi ngoai, thấy hể hả sung sướng và thôi không khóc nữa.
Còn ngàn vạn sự “sáng tạo” khác của các bà mẹ dỗ con luôn tìm cách chạy tội của con, quy tội cho kẻ khác, đẩy lỗi cho khách quan
Đấy là dạy cách đổ lỗi từ nhỏ.
Cái đó thấm vào đứa trẻ mau lắm. Nó tiếp tục diễn ra hàng ngày cho đến lúc thoát vòng tay bế ẵm.
Và tính xấu đổ lỗi cho người khác sẽ theo nó suốt đời, sẽ gây nên bao hệ lụy!!
2 – Còn đây là chuyện người lớn:
Tôi lớn lên sau ngày chiến thắng Điện biên năm 1954. Còn nhớ trong khá nhiều bài phát biểu trong các cuộc mít tinh và diễn văn trong hội nghị, những cái bị phê phán luôn được một chỗ đổ thừa là “ tàn dư của phong kiến đế quốc”.
Thực ra “ tàn dư của đế quốc phong kiến” nó có một phần trách nhiệm, nhưng không phải cái gì cũng “ tàn dư”. “Tàn dư” vô tình thành cái bãi rác khổng lồ để mọi sai trái bắt nó chịu tội .
Như một quy luật tất yếu” chúng khẩu đồng từ/ ông sư cũng chết”, nói mãi thì cái sai cũng thành đúng, để con người sống vùi trong tội lỗi mà cứ tưởng mình trong sạch!
Chưa hết
Bây giờ lại xuất hiện “thế lực thù địch” vu vơ để hứng lỗi cho những việc có vẻ như gây ra cản trở cho bộ máy vốn đang ì ạch, làm cho nó không được như ý muốn của cấp trên. Cái đó thực sự nguy hại khi con người không tự nhìn nhận lại mình,không nghiêm khắc với chính mình vì có chỗ đổ thừa rồi. Chuyện đó thực sự nguy hiểm lâu dài cho nền tảng một xã hội văn minh mặc dù chỉ đơn giản chối tí tội vặt của một hai cá nhân, và lớn hơn là của một tổ chức xã hội!
Thế là sai lầm dẫm chân lên sai lầm, con người không thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của chính mình!
Không biết căn bệnh đổ thừa ấy còn kéo dài đến bao giờ. Nó có từ trẻ con cho đến người già nên sâu gốc bền rễ lắm, không dễ gì sửa được một sớm một chiều!
3 – Phải thừa nhận một bộ phận không nhỏ dân ta có thói quen sống ỷ lại, sống dựa quen xin và thích nhìn túi người khác… Khi có việc gì không nhờ nhõi được người khác thì bắt đầu oán trách chê bai..Người mình bị bệnh đó cũng lâu quá rồi, mà số lượng cũng khá nhiều dù mức độ nặng nhẹ khác nhau. Quốc gia cũng mắc bệnh này, mắc cũng nặng ra phết! Chúng ta ghét Tàu, khinh Nga, chửi Mỹ, chê Nhật…Nhưng rất hiếm người biết ghét, khinh, chê chửi bản thân mình…vì chưa bao giờ tự vấn mình để nhận ra mình vừa là nguyên nhân vừa là nạn nhân. Mà lúc nào cũng chỉ nghĩ mình là nạn nhân!
Muốn thay đổi đi lên, con người phải bước qua chính mình. Nhận ra chính mình là lực cản lớn nhất. Lực cản đó là sự ích kỉ, sự thiếu hiểu biết thiếu sự chia sẻ và cả thiếu lòng nhân ái.
Hiểu được điều đó con người sẽ thấy nhẹ nhõm hơn và thay đổi sẽ nhanh hơn. Nhưng thực sự là việc vô cùng khó!

Văn hóa Nhật Bản dưới một góc nhìn khác




Điều đáng phiền lòng ở Việt Nam hiện nay là hầu hết các bài báo về nước ngoài, ví dụ như các bài báo về Nhật Bản đều mang tính tự ti dân tộc, hoặc chỉ để so bì nhằm nhấn mạnh vào nhược điểm của Việt Nam hoặc ca ngợi và sùng bái nước ngoài một cách thái quá, do vậy làm rối loạn nhận thức của người đọc. Dưới góc nhìn khác, góc nhìn của một nhà nghiên cứu nữ phương Tây về nữ quyền trong cuốn “Womansword: What Japanese words say about woman” của Kittredge Cherry do nhà xuất bản Kodansha International tái bản năm 2002 (xuất bản lần thứ nhất năm 1987) thì người ta lại thấy văn hóa Nhật Bản có nhiều nét gần gũi với Việt Nam. Dưới đây là một số mục từ Nhật Bản được trích trong cuốn sách để minh chứng cho điều ấy.



Vào ngày đầu tiên của năm mới, một số người Nhật Bản sẽ thức giấc sớm để ngắm mặt trời nhô lên khỏi chân trời, nhắc họ nhớ về nguồn gốc. Nữ thần mặt trời, Đại Thiên Quang Mẫu (Amaterasu Omikami), là mẹ tổ tiên của tất cả người Nhật Bản và là vị thần tối cao trong thần thoại Shinto. Shinto là một trong số ít tôn giáo trên thế giới coi mặt trời là nữ giới. Theo thần thoại đầu tiên được ghi nhận vào khoảng 1.300 năm trước đây, Amaterasu đã trao cho cháu trai của bà tấm gương, thanh kiếm và đồ trang sức hình cây đào lộn hột, cho đến nay vẫn được ca tụng là “Ba Bảo Vật Linh Thiêng”, sau đó gửi cậu xuống sinh sống ở “Miền Đất Đồng Bằng Đầy Lau Sậy và Lúa Mới Trổ Bông”, khởi đầu với Nhật Bản. Hoàng đế hiện tại có liên quan phả hệ trực tiếp với nữ thần mặt trời, tạo thành sự kế thừa không ngắt quãng dài nhất thế giới.


Amaterasu và tấm gương linh thiêng của bà được thờ cúng tại thần điện Shinto linh thiêng nhất, Đại Điện Ise. Đại Điện này rất cổ, nguồn gốc của nó vẫn gây ra sự tranh cãi của giới học giả; tờ rơi của Đại Điện khẳng định rằng nó được nữ hoàng Yamato-hime-no-Mikoto xây dựng vào thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên. Không giống với đa số các điện thờ khác, nó được xây dựng theo phong cách kiến trúc cổ xưa nhất của Nhật Bản và có một tu sĩ cao cấp trụ trì. Vị trí đó, theo truyền thống là do một công chúa của triều đình nắm giữ, đã bị bãi bỏ vào năm 1868 và khôi phục vào năm 1946. Mặc dù vị thần tối cao là nữ nhưng hầu như tất cả các tu sĩ Shinto đều là nam. Những nữ tín đồ hỗ trợ họ được gọi là miko.


Trong khi Shinto gợi lại cho một số người Nhật Bản những hồi ức không mấy dễ chịu về chủ nghĩa quân phiệt thì nữ thần mặt trời tối cao mang đến cảm hứng cho phụ nữ Nhật Bản, trong đó có nhà thơ Hiratsuka Raicho. Bà lập ra nhóm văn chương nữ quyền có tên là Hiệp Hội Nữ Học Giả (Seito), một tổ chức tiên phong của phong trào nữ quyền đương thời. Để giới thiệu ấn bản đầu tiên của tờ báo Nữ Học Giả của nhóm vào năm 1911, bà đã nhắc lại truyền thuyết về Amaterasu. Bài thơ của Raicho, có lẽ là tuyên ngôn nữ quyền nổi tiếng nhất của Nhật Bản, mở đầu với câu “Vào thuở ban đầu, phụ nữ là mặt trời. Một con người chân thực.”


Trích trang 16


[Tôi: Có gần gũi với chuyện mẹ Âu Cơ của Việt Nam không nhỉ?]


Bijin: Xinh đẹp


Sự xinh đẹp mang tính nữ. “Hôm nay tôi bắt gặp cái đẹp” nói chung có nghĩa là người nói gặp một phụ nữ đẹp. Cũng giống như vậy, người Nhật Bản nói về việc bắt gặp một bijin, theo nghĩa đen là “người đẹp” nhưng thực tế chỉ được dùng cho phụ nữ đẹp. Trái lại, giới tính thường được nhắc đến trong nhiều từ khác nhau chỉ vẻ đẹp của nam giới như “đẹp trai” (binan).


Khái niệm nàu có thể thêm vào phía trước hầu hết các tên gọi nghề nghiệp để tạo thành một từ ghép chỉ những hiện tượng Nhật Bản như “phát thanh viên xinh đẹp” (bijin anaunsaa) đọc bản tin truyền hình, “chiêu đãi viên xinh đẹp” (bijin hosutesu) phục vụ đồ uống trong các câu lạc bộ chiêu đãi và thậm chí là “biên tập viên xinh đẹp” (bijin henshusha) đang làm việc với những cuốn sách như cuốn này. Vào thời xưa, khoảng một ngàn năm trước đây, một bijin có nghề nghiệp đặc biệt dành riêng cho cô ấy. Các tài liệu văn bản sớm cho thấy dân làng thường nấu rượu saké bằng một quy trình lên men nguyên thủy, bắt đầu bằng việc nhai nát gạo và bỏ chúng vào các bồn gỗ lớn. Sự tinh khiết của rượu saké được đảm bảo bằng cách chỉ dùng gạo được bijin nhai – trong trường hợp này có nghĩa là những trinh nữ trẻ. Rượu tạo ra được gọi là bijinshu hay “saké xinh đẹp”.


Ngày nay, ngoại hình đẹp vẫn là một tiêu chí quan trọng đối với việc làm của phụ nữ. Sự thể hiện “hình dáng yêu kiều” (yoshi tanrei) vẫn nổi bật trong các quảng cáo tuyển dụng phụ nữ. Phong cách đa dạng và vẻ đẹp là yêu cầu bắt buộc với những vị trí như hướng dẫn viên du lịch, người giới thiệu sản phẩm ở nhà trưng bày, nhân viên lễ tân và là luật bất thành văn trong nhiều công việc dành cho phụ nữ. Từ này cũng có thể được dùng cho một người đàn ông hấp dẫn nhưng cách sử dụng thông thường phủ nhận sự diễn giải đó. Các ông chủ đánh giá đàn ông cao hơn về phẩm chất nội tại của họ và hiếm có quảng cáo về nam giới đẹp trai. Cũng tương tự như vậy, từ để chỉ nam giới ưa nhìn không thể gắn với chức danh nghề nghiệp của họ.


Họ có thể tìm được việc làm tương đối đơn giản nhưng phụ nữ đẹp được coi là dễ chịu bất hạnh hoặc thậm chí là đột tử hơn những chị em bình thường của họ. Một câu ngạn ngữ phổ biến nói rằng “Xinh đẹp thì sống ngắn” (Bijin hakumei). Câu ngạn ngữ cũng hàm ý về sự nhất thời của vẻ đẹp thanh xuân và thực tế là người Nhật Bản có khuynh hướng coi bản thân quá khứ là đẹp. Sự đam mê quốc gia đối với hoa anh đào nở một phần bắt nguồn từ thực tế là chúng tàn rất nhanh.


Các tiêu chuẩn về vẻ đẹp cũng thay đổi như được thấy qua nghệ thuật Nhật Bản trong vài thế kỷ, đặc biệt là loại hình ukiyo-e hay còn gọi là “tranh đẹp” (bijinga). Vẻ đẹp của thời kỳ này là sự xấu xí của thời kỳ khác. Răng đen, một phần quan trọng của vẻ đẹp cá nhân đối với phụ nữ, lại tạo ra sự khó chịu ngày nay. Thời trang thay đổi qua lại giữa khuôn mặt tròn và khuôn mặt hình oval dài, được gọi là “mặt hình hạt dưa” (urizane-gao). Vào thời Edo, đàn ông viết về sự khát khao của họ đối với một có gái có miệng nhỏ, lông mày giống như mặt trăng lưỡi liềm nhô lên từ mỏm núi xa xa, tóc giống như đôi cánh của một con quạ nước và “trán giống như núi Phú Sĩ” (Fuji-bitai). Khái niệm thời trang truyền thống này được dùng để chỉ lối rẽ tóc mà người nói tiếng Anh gọi là búi tóc bà góa.


Theo truyền thống, hình ảnh của một phụ nữ Nhật Bản được cho là nằm ở một nơi mà hầu hết các dân tộc khác đều bỏ qua: gáy (unaji). Quan trọng hơn ngực, mông hay chân, gáy thể hiện sự nhạy cảm. Lý do thực sự của quan niệm thẩm mỹ đặc biệt này rất đơn giản. Phần còn lại của cơ thể phụ nữ bị giấu sau áo kimono. Ngay cả gáy của phụ nữ cũng thường được che bằng búi tóc đen, thế nên khi phụ nữ vén tóc lên, nó khiến cho người phương Tây cảm thấy như họ đang nhìn thấy một phụ nữ mặc quần áo ngắn. Sự chú trọng vào gáy đã giảm xuống nhưng vẫn còn đủ mạnh vào giữa những năm 1980 đối với một tạp chí phụ nữ phổ thông để đề cao hình tượngunaji bijin với các bức ảnh ngôi sao phô bày gáy của họ.


Người Nhật khẳng định rằng sự quyến rũ của cái gáy mạnh mẽ hơn sự cố định của bộ ngực, dĩ nhiên gần hơn với sự hấp dẫn của nụ cười thanh tú. Bộ ngực, được gọi thông tục là oppai hay chichi, không bao giờ được coi là mục tiêu tình dục ở Nhật Bản, ở đó các bà mẹ vẫn cho trẻ con bú ở nơi công cộng cho đến ba mươi năm trước đây. Phụ nữ ở các tỉnh vẫn cởi trần đến thắt lưng khi họ làm việc, cho đến khi sự bại trận trong Thế Chiến II đưa những người lính Hoa Kỳ lóng ngóng đến đất nước. Luật pháp vẫn cho phép bộ ngực được phơi bày trên truyền hình với sự đề kháng là di sản của thái độ quá khứ, nhưng tính khêu gợi của nhiều kênh truyền hình là dấu hiệu cho thấy sự sùng bái phương Tây có vẻ như đã chiếm chỗ. Bất chấp những khuynh hướng mới, nhiều đàn ông Nhật Bản giãi bày bí mật rằng bộ ngực lớn đang áp đảo – thậm chí là sợ hãi.


Phấn bột gạo trang điểm da (mochi hada) là một biểu tượng khác được người Nhật Bản thừa nhận, họ nhanh chóng làm quen với sự mềm mại, mịn màng, màu trắng và sự quyến rũ của bột gạo. Mấu chốt là màu trắng, được phổ biến trong câu ngạn ngữ Nhật Bản, “Màu trắng che đi bẩy khuyết tật” (Iro no shiroi wa shichi nan kakusu), có nghĩa là một làn da trắng bù đắp được cho cái miệng lớn hay cái mũi tẹt hoặc vô số những điều kém hoàn hảo khác.


Phụ nữ Nhật Bản bắt đầu sử dụng phấn trang điểm mặt và thân thể có tên là “màu trắng tự hào” (oshiroi) cùng với các mỹ phẩm khác từ hơn một ngàn năm trước đây để hiện thực hóa ý tưởng này. Loại bột xuất hiện sớm nhất, được làm từ bột gạo và đất, đã bị thay thế bằng phấn có pha chì nhập khẩu từ Trung Quốc vào thế kỷ thứ 7. Tính độc hại của loại phấn này được thừa nhận vào những năm 1870 và các phiên bản không chì đã được phát triển, sau đó lại bị các lớp phấn nền trang điểm theo kiểu phương Tây thay thế. Đàn ông cũng trang điểm mặt để tăng sự hấp dẫn vào thời Heian. Việc trang điểm dần dần trở thành hoạt động của nữ giới, mặc dù vào giữa những năm 1980, các hãng mỹ phẩm hàng đầu của Nhật Bản bắt đầu cung cấp các dòng phấn nền trang điểm, son môi và bút kẻ mắt cho nam giới, cùng với các hướng dẫn sử dụng.


Những gì mà màu trắng không che đậy được thì cách đi đứng thích hợp có thể làm được, theo một cuốn sách bán chạy vào thế kỷ 19 của Nhật Bản bàn về cách làm đẹp. Các chỉ dẫn của cuốn sách bao gồm cả chỉ dẫn cách giúp phụ nữ làm cho đôi mắt trông gần nhau hơn: Nhìn vào một điểm cách chân khoảng 1,82 m khi đứng và thu khoảng cách lại một nửa khi ngồi. Ngày nay, một số phụ nữ dùng những biện pháp mạnh hơn – phẫu thuật thẩm mỹ - để đạt được vẻ đẹp lý tưởng hiện thời. Ba loại phẫu thuật thông thường mà phụ nữ Nhật Bản hay thực hiện được gọi là “Tây hóa” mí mắt trên, nâng mũi và làm đẹp cằm.


Trích trang 19-22


[Tôi: Răng đen, mặt tròn phúc hậu, đều là những quan niệm thẩm mỹ của người Việt xưa, hiện giờ bị thay thế bằng các cô gái mặt chữ V với cằm độn nhọn hoắt và mũi cao như người phương Tây.]


Busu: Xấu xí


Phụ đề tiếng Nhật “Busu!” khi diễn viên Dustin Hoffman đánh nhau với bạn gái trong phim Tootsie và thốt ra từ tiếng Anh tục tằn nhất “Fuck you!”. Những từ thô tục này tương đương chỉ trong những tình huống nhất định, bởi vì busu có nghĩa là một phụ nữ với bộ mặt gớm guốc. Đó là một trong những sự xúc phạm ghê ghớm nhất đối với phụ nữ ở Nhật Bản, cho dù đó cũng có thể là sự chòng ghẹo, có thể là đối với bạn trai hoặc thú cưng. Phụ nữ xấu xí được gọi là busu ở Nhật Bản sẽ giống như sự so sánh với “chó” của người nói tiếng Anh.


Người ta thường liên hệ với động vật trong tiếng Anh nhưng tiếng Nhật thì hiếm khi có sự so sánh đó. Một trong số ít đó là sự so sánh nhẹ nhàng và kiểu cũ đối với phụ nữ có vẻ ngoài thô kệch: “con rùa xun xoe” (okame). Cho đến nay người Nhật Bản vẫn không xếp rùa vào giới động vật. Okame là tên của nhân vật nữ trong cặp đôi phổ biến của mặt nạ hài kịch Kyogen có tại hầu hết các cửa hàng bán đồ lưu niệm Nhật Bản. Vẻ mặt ngốc nghếch của cô ta với khoảng cách lớn giữa mắt và lông mày rất khó quên và người Nhật Bản đã dùng tên của cô ta để chế nhạo. Một số nhà sử học Nhật Bản cho rằng mặt nạ Okame đầu tiên là thời trang trước đây rất lâu, khuôn mặt phúng phính giống như rùa của cô ta được coi là lý tưởng. Một diễn viên Kyogenđương thời có lần đã đưa ra bình luận gây choáng váng là tất cả đàn ông Nhật Bản đều hy vọng cô dâu của họ sẽ trông giống như vậy vào đêm tân hôn.


Bắt nguồn từ truyền thống nông nghiệp lâu đời, văn hóa Nhật Bản rút ra nhiều phép ẩn dụ từ cây cối hơn là từ động vật. Busu có thể là một từ như vậy. Theo một lý thuyết, ý nghĩa gốc của từ busu là chất độc được tạo ra từ rễ cây củ ấu tàu. Khi ăn phải busu, người ta sẽ chết với khuôn mặt méo mó, một cảnh tượng đã trở thành bất tử trong hài kịch Kyogen. Đôi khi, ở một vài nơi, sự liên hệ có thể được tạo thành từ sự nhăn nhó của người ăn phải busu và khuôn mặt xấu xí của phụ nữ. Những từ lóng cùng nghĩa tồn tại ngắn ngủi đã được làm giàu thêm, trong đó có seishin (tâm hồn) busu đối với phụ nữ chỉ có vẻ đẹp bên ngoài và kamaboko (xúc xích cá) busu đối với những phụ nữ phù hợp với định nghĩa của busu, giống như xúc xích cá bám vào tấm ván gỗ khi chúng được chế biến.


Trích trang 22-23


[Tôi: Sự xấu xí kiểu Thị Nở ở Việt Nam cũng có nhé]


Gokiburi teishu: Ông chồng gián


Thứ gì có thể vô dụng, phiền hà và gây khó chịu hơn một con gián trong bếp? Một ông chồng trong bếp, đa số các phụ nữ Nhật Bản truyền thống đều dùng khái niệm “ông chồng gián” (gokiburi teishu) để mô tả người đàn ông định xâm lấn lãnh địa của họ. Họ cho rằng việc chuẩn bị bữa ăn sẽ lâu hơn với sự “trợ giúp” của một người thiếu kinh nghiệm nấu nướng. Theo truyền thống, nhà bếp là nơi mà phụ nữ Nhật Bản không cảm thấy sức ép của cái tôi nam tính. Nhiều người coi đây là nơi linh thiêng của họ. Cho tới gần đây, đàn ông đã vui vẻ đảm nhiệm việc nấu nướng, nếu cần phải trích dẫn câu ngạn ngữ “Một quý ông sẽ không vào bếp” (Danshi chubo ni irazu)


Hầu hết các bà nội trợ ngày nay đều không phàn nàn về việc đàn ông đi làm ở bên ngoài trong khi phụ nữ làm việc nhà. Một khảo sát năm 1983 của chính quyền cho thấy có 71% phụ nữ Nhật thích sự sắp xếp này, nhiều hơn so với 56% ở Philippines và 34% ở Hoa Kỳ. Số lượng phụ nữ Nhật rời khỏi nhà bếp đã tăng lên, vào năm 1972 có 83% ưa thích sự phân công lao động truyền thống. Thống kê của chính quyền cho thấy ý tưởng thay đổi nhanh chóng hơn thực tế. Một phụ nữ Nhật Bản trung bình dành 3 giờ 25 phút cho việc nhà và chăm sóc con cái vào năm 1981, trong khi đó một nam giới điển hình chỉ dùng có 8 phút.


Tuy vậy, ông chồng gián không chỉ giới hạn trong nhà bếp. Mỗi khi ông chồng làm vợ không hài lòng, người vợ Nhật Bản có thể dùng khái niệm xúc phạm này. Đàn ông không thể chống lại với khái niệm tương đương, bởi vì không có từ “bà vợ gián”. Từ này phổ biến đến mức hiện nay một số người có tư tưởng tự do còn gọi bạn đời là gián vì không giúp làm việc bếp núc. Số lượng cặp vợ chồng chống lại trạng thái ban đầu bằng cách chia sẻ việc nhà nhiều đến mức người Nhật Bản mới đây đã tạo ra một từ nửa bỡn cợt tương đương với từ “ông nội trợ” trong tiếng Anh. Từ shufu cũng giống như từ phổ thông để chỉ bà nội trợ, nhưng thay vì chỉ “phụ nữ chính” như thông thường, chữ này đánh vần thành “nam chính”.


Từ để chỉ bà nội trợ, cũng giống như nhiều từ chỉ các bà vợ nói chung, sử dụng khái niệm thứ bậc. Việc phụ nữ chỉ làm việc nhà là một điều xa xỉ trước thời hiện đại hóa bắt đầu vào năm 1868. Sau đó, lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, gia đình biến đổi từ trung tâm của sản xuất thành cơ sở tiêu dùng và nuôi dưỡng con cái. Cùng với sự thay đổi này một số từ ngữ mới đã được bổ sung vào công việc giới hạn của thế hệ bà nội trợ mới: kaji (việc nhà), ikuji(chăm sóc con cái) và ryori (nấu nướng). Một tên hiệu cũng được gán cho phần lớn các bà nội trợ mới. Họ được gọi là shufu. Cho đến khi kết thúc Thế Chiến thứ II, khái niệm này chỉ dùng cho phụ nữ đại diện cho hộ gia đình trong khuôn khổ của hệ thống gia đình, nhưng hiện giờ có nghĩa là bà nội trợ nói chung. Khi tạp chí phổ thông của phụ nữ Shufu no Tomo (Sổ Tay Bà Nội Trợ) được thành lập vào đầu thế kỷ 20, tiêu đề của nó cũng sáng tạo như tạp chí Ms. của Hoa Kỳ.


Một số ít ông nội trợ đã bắt đầu tham dự vào thế giới của bát đĩa. Các bài báo về nấu nướng cho đàn ông được xuất bản với tiêu đề như “Bố làm bếp” trên nhiều tạp chí và báo dành cho đàn ông của Nhật Bản, trong đó có cả tờNihon Keizai Shinbun, một tờ báo Nhật Bản nổi tiếng tương đương với tờ Wall Street Journal. Ít nhất thì một hiệu sách lớn ở Tokyo cũng có một khu vực bày “Sách nấu ăn dành cho đàn ông”. Các cậu bé không bị buộc phải tham gia các lớp học nội trợ ở trường học nhưng một số nhóm phụ nữ xôn xao vì sự thay đổi đó. Những người đàn ông cảm thấy việc nấu ăn là vui vẻ đã tập hợp nhau ở Tokyo vào năm 1977 để thành lập “Câu Lạc Bộ Hãy Để Quý Ông Vào Bếp” (danshi chubo ni hairo kai), thu nạp được 500 thành viên chỉ riêng ở Tokyo trong vòng 8 năm sau khi thành lập. Theo triết lý phi giới tính, câu lạc bộ chấp nhận cả hai giới. Nữ thành viên chiếm 20% vào giữa những năm 1980 và tiếp tục gia tăng. Không ít phụ nữ trẻ đã dùng câu lạc bộ để tìm kiếm một ông chồng sẵn sàng và có thể chia sẻ việc bếp núc.


Khuynh hướng này mang lại những lợi ích thực tế đối với đàn ông cũng như phụ nữ, nếu như những câu chuyện đồn thổi trong nhà bếp có chút sự thật nào đó. Các bà nội trợ thích lặp đi lặp lại câu chuyện cổ tích về người đàn ông sống lâu hơn vợ - bị chết đói bởi vì ông ta không biết nấu ăn, dùng cái mở nắp hộp hay thậm chí là tìm nơi chứa thực phẩm. Ít nhất thì những con gián cũng biết đường đi đến nhà bếp.


Trích trang 58-60


[Tôi: Việt Nam thỉnh thoảng cũng cãi nhau như mổ trâu mổ bò vì vụ này. Hồi xưa các bà mẹ cũng không thích chồng vào bếp vì họ làm rối loạn mọi thứ lên hơn là giúp ích. Bây giờ thì nhiều ông chồng vào bếp hơn rồi.]


Meoto-jawan: Tách trà vợ chồng


Quan hệ hôn nhân ở Nhật Bản được củng cố thành một hiện thực có thể nhìn thấy và chạm vào: “tách trà vợ chồng” (meoto-jawan). Hai chiếc tách này giống hệt nhau ngoại trừ kích thước, chiếc tách lớn hơn thuộc về người chồng. Meoto-jawan bắt nguồn từ tầng lớp thương nhân vào cuối thời Edo, sau đó sớm trở thành thời thượng vào thế kỷ này. Một số người cho rằng tách trà của chồng và vợ đầu tiên có kích thước như nhau nhưng chiếc tách của người chồng đã được làm to ra dần dần, cùng với môi trường văn hóa. Tương tự, các quy định xã hội ở quốc gia khác đã buộc người Nhật Bản phải làm bình đẳng một số mẫu meoto-jawan xuất khẩu. Khi phải mua tách trà phương Tây, trong trường hợp không có kiểu châu Á, người Nhật Bản cũng vui vẻ mua thứ mà họ gọi là tách đôi (pea kappu) với kích thước giống nhau.


Một truyền thống về đồ gia dụng khác cũng xuất hiện dưới dạng một đôi có kích thước không cân xứng được thiết kế cho cặp vợ chồng. Chúng bao gồm bát ăn cơm cũng được gọi là meoto-jawan và đũa được gọi là meoto-bashi. Vào thời phong kiến, nhiều người chồng thực sự được ăn thực phẩm tốt hơn và nhiều hơn vợ của họ. Phong tục ăn uống quy định rằng phụ nữ trong nhà trước hết phải dọn phần thức ăn cho người đàn ông đứng đầu gia đình, sau đó tuân theo trật tự. Trẻ em được ăn no bởi vì nhu cầu cho cơ thể đang lớn của chúng được công nhận. Những người phải ăn cuối cùng đôi khi là các cô dâu trẻ.


Bộ meoto-jawan tiếp tục là món quà phổ biến cho các cặp vợ chồng, nhất là mới cưới. Món quà này không chỉ muốn nói rằng đàn ông nhận được nhiều hơn mà còn nói rằng cặp vợ chồng là một đơn vị đơn nhất vĩnh cữu với cùng khẩu vị. Không ai có thể chia cặp tách chồng và vợ ra để bán hay gộp vào thành cặp khác hoặc dùng đơn lẻ, mặc dù chồng hoặc vợ có thể uống cốc còn lại khi “nửa kia” qua đời. Sự kết hợp không thể tách rời với kích thước khác nhau gợi cảm hứng cho người ta gán cái tên meoto, có nghĩa là “chồng và vợ”, cho nhiều hiện tượng tự nhiên khác nhau. Hai hòn đá cuội nằm cạnh nhau được gọi là “đá vợ chồng” (meoto iwa). Khi người Nhật Bản thấy hai cây thông dựa vào nhau, họ gọi chúng là “cây thông vợ chồng” (meoto matsu). Đôi khi họ cầu xin những cây thông giúp đỡ tác thành một cuộc hôn nhân tốt.


Một đồ vật không xuất hiện trong cặp chồng và vợ là kimono. Hiện nay, quần áo phương Tây là thông dụng, các cặp vợ chồng trẻ Nhật Bản đôi khi xuất hiện trong áo phông đẫm mồ hôi, quần áo chơi tennis và đồ tương tự. Các quan niệm phương Tây về quần áo nam nữ, được thiết kế cho cặp đôi đang hẹn hò cũng như đã kết hôn, đã được nền văn hóa sử dụng các vật meoto trong nhiều thế kỷ nhanh chóng chào đón.


Trích trang 60-61


[Tôi: À, cái khoản vợ chồng phải ăn khác nhau trước Việt Nam cũng có đấy]


Meishi! Furo! Neru!: Ăn! Tắm! Ngủ!


Ba từ ngắn này được trao đổi mỗi tối giữa chồng và vợ ở Nhật Bản. Người công nhân làm thuê điển hình ở Tokyo trở về nhà vào khoảng 9-10h tối, kiệt sức sau một giờ chen chúc trên tàu và vẫn còn hơi chếnh choáng do cuộc nhậu bắt buộc sau giờ làm. “Meishi!”, anh ta ra lệnh, sử dụng một từ thô thiển chỉ thức ăn và vợ anh ta nhanh chóng mang đồ ăn tới. Khi đã no bụng, anh ta nói “Furo!”. Cô ấy gật đầu. Cô ấy vốn đã chuẩn bị sẵn nhà tắm. Sau khi ra khỏi nhà tắm bốc khói, anh ta lại nói: “Neru!”. Đấy là lúc cô vợ phải trải tấm đệm ra. Các bà vợ thường xuyên châm biếm một cách buồn bã rằng chồng họ bận đóng góp cho phép màu kinh tế của Nhật Bản đến mức chỉ có ba từ để nói với họ. “Meishi! Furo! Neru!” đã trở thành sáo ngữ đối với rất nhiều công nhân và vợ của họ.


Mặt khác, người vợ Nhật Bản và chồng không thực sự muốn nghe ba từ ngắn khác mà các cặp đôi phương Tây cho là quan trọng, “Anh yêu em”. Hầu hết các cặp đôi đều không bao giờ thốt ra câu đó. Những người quan sát Nhật Bản và phương Tây đều đưa ra những giải thích khác nhau về sự im lặng này. Họ chỉ ra rằng truyền thống Nhật Bản cho rằng hôn nhân chỉ là sự sắp xếp kinh tế để duy trì dòng tộc và bổ sung thêm tình yêu vào đẳng thức đó chỉ gây ra tổn hại nhiều hơn là sự tốt đẹp. Quan niệm này có thể vẫn ảnh hưởng đến nhiều người và một số cặp đôi không có tình yêu vẫn sống với nhau để chăm lo cho con cái, nhưng hầu hết người Nhật Bản kết hôn ngày nay đều nói với người khác rằng họ làm điều đó vì tình yêu. Tuy vậy, việc nói “Anh yêu em” tạo ra cảm giác bối rối và không cần thiết. Sự bối rối được cho là bắt nguồn từ ý tưởng coi một cặp đôi kết hôn là một thể thống nhất, không phải là hai cá thể. Điều này có thể giải thích lý do khiến cha mẹ Nhật Bản không bày tỏ tình yêu đối với con cái. Khi chồng và vợ cảm thấy gần gũi, biểu lộ tình yêu cũng như khen ngợi người kia là một điều cấm kỵ trong văn hóa Nhật Bản. Các từ ngữ trực tiếp là không cần thiết và có thể giới hạn cũng như làm giảm giá trị của cảm xúc mà họ cố gắng bày tỏ. Ở Nhật Bản, tình yêu được truyền tải bằng hàng sa số các cử chỉ cũng sự sự thổ lộ tinh tế đã được thấm đẫm trong các bài thơ haiku đầy thẩm mỹ. Đôi khi tất cả những điều cần nói chỉ là “Meishi! Furo! Neru!”


Trích trang 62-63


[Tôi: Cách đây vài năm có cô nhà văn nào đó gọi đàn ông Việt Nam chỉ biết ăn tắm ngủ là lợn thì phải]


Naijo no ko: Thành công nhờ sự trợ giúp bên trong


Một trong những yếu tố quan trọng của thành tựu kinh tế Nhật Bản bị hầu hết các nhà phân tích phương Tây bỏ qua. Đó là “sự thành công nhờ sự trợ giúp bên trong” (najio no ko). Khi nhiều khái niệm Nhật Bản về kỹ thật quản lý doanh nghiệp được giảng giải chi tiết thì nguồn bị che đậy khiến cho mọi thứ trở nên khả thi này thường bị bỏ sót. Thông thường ở Nhật Bản, sự hữu ích của “tay trong” chính là người vợ. Naijo no ko có nghĩa là thành công của người đàn ông bắt nguồn từ sự trợ giúp và hi sinh của người vợ.


Thiếu sự trợ giúp của người vợ, người chuẩn bị các bữa ăn, sửa soạn quần ào và vun vén tài chính, ông chồng Nhật Bản sẽ không thể tiếp tục làm việc dài và chăm chỉ như họ đã làm để duy trì sự tăng trưởng kinh tế. (Nhà tập thể của công ty cung cấp nhiều dịch vụ này cho đàn ông độc thân, đôi khi cho cả phụ nữ.) Ngôn ngữ tiếp đó khẳng định rằng người vợ Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của người chồng với từ “vai trò của vợ” (nyobo yaku). Một người đàn ông luôn sẵn sàng hỗ trợ và khuyên bảo bạn bè hay đồng nghiệp, người đáng tin cậy này được gọi “cánh tay phải” trong tiếng Anh, tương đương với từ “vai trò của vợ” ở Nhật Bản.


Ở cấp quốc gia, phụ nữ Nhật Bản cũng hỗ trợ theo cách tương tự. Hầu hết những người đại diện cho công việc và chính quyền quốc gia bên ngoài Nhật Bản là nam giới, trong khi ở nhà những công việc không mấy vinh quang nhưng quan trọng như công việc văn phòng và kiểm tra chip máy tính đều nằm trên vai phụ nữ “bên trong”. Đây không phải là chính sách mới. Phụ nữ chiếm trung bình 60% của lao động công nghiệp từ năm 1894 đến 1912, một thời kỳ quan trọng trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa của Nhật Bản.


Khi hỏi bất cứ người Nhật Bản nào về naijo no ko, cô ấy hay anh ấy sẽ trả lời với câu chuyện về gia tộc phong kiến nổi tiếng ở Shikoku có tên làYamanouchi. Sách lịch sử ca ngợi bà Yamanouchi, nói rằng sự lớn mạnh của gia tộc bắt nguồn từ Kazutoyo Yamanouchi (1546-1605) và bà vợ thông minhKenshoin (1557-1617) của ông. Câu chuyện bắt đầu khi lãnh chúa địa phương lên kế hoạch kiểm tra quân đội của mình. Kazutoyo phát hiện ra nhiều chiến mã vô song bị đem bán – với mức giá rẻ mạt. Ông ta phàn nàn về sự túng thiếu khiến ông ta không mua được chiến mã gây ấn tượng với chủ nhân của ông ta. Khi đó bà vợ rút ra đúng số tiền cần thiết từ chiếc gương của bà và đưa cho ông. Kazutoyo sững sờ. Gia tộc vốn rất tằn tiện nhưng cũng chỉ đủ cho nhu cầu tối thiểu về thực phẩm và quần áo. Bà vợ tằn tiện của ông giải thích rằng cha của bà đã cho bà số tiền ấy khi họ cưới nhau để chi dùng trong trường hợp khẩn cấp, như việc mua ngựa. Từ số tiền ban đầu của vợ, ông ấy đã giành được sự kính trọng của thượng cấp, thắng nhiều trận chiến và thu được nhiều của cải cũng như quyền lực cho toàn thể bộ tộc của mình.


Trích trang 64-65


[Tôi: Câu "của chồng công vợ" của người Việt Nam chính là chỉ hiện tượng này còn gì.]


Oshikake nyobo: Vợ đột nhập


Hầu hết phụ nữ Nhật Bản đều chờ có ai đó hỏi họ làm vợ, song có một số phụ nữ cũng có đủ sự can đảm đến mức một khái niệm đặc biệt đã được tạo ra để mô tả họ. Những cô dâu quả cảm này được gọi là “vợ đột nhập” (oshikake nyobo), dựa trên từ thường để chỉ vị khách không được mời (oshikake kyaku). Họ thường là những phụ nữ mạnh mẽ yêu một người đàn ông còn đang lưỡng lự, nhưng lại sẵn sàng yêu thương chăm sóc họ sau khi kết hôn. Ít nhất đối với phụ nữ thì từ này mang ý nghĩa ngạc nhiên hơn là phàn nàn, một người vợ đột nhập cần phải có đủ can đảm để thực hiện chiến thuật của mình.


Thông thường, cô ấy đột nhập vào nhà của người yêu mà không cần được phép và bắt đầu sống ở đó. Cô ấy chăm sóc anh ta bằng cách nấu các bữa tiệc đêm, dọn dẹp sau đó mà không phàn nàn, sắp xếp phòng ở và quần áo ngay ngắn nhất. Anh ta sẽ trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào cô và cho đến khi anh ta nhận ra rằng không thể sống thiếu cô. Sau một thời gian, họ cưới nhau. Mặc dù các thiếu nữ can đảm nhất cũng không đột nhập tới mức chung sống, kỹ thuật bắt chồng bằng nấu nướng, dọn dẹp và chăm sóc đã có truyền thống lâu đời ở Nhật Bản.


Việc bà vợ đột nhập buộc đàn ông phải cưới họ không có nghĩa là họ hạ thấp vai trò của việc hỏi vợ. Tuy vậy, một số phụ nữ Nhật Bản cũng đưa ra đề xuất hôn nhân. Một nghiên cứu của chính quyền nhằm vào nhóm các phụ nữ đủ lớn tuổi để làm bà nội/ngoại để đưa ra câu hỏi. Khảo sát đối với phụ nữ vùng nông thôn và ngoại ô Nhật Bản cho thấy rằng khoảng hơn 10% đã hỏi cưới đàn ông vào cuối những năm 1940, nhưng tỷ lệ nữ đề xuất kết hôn đã giảm xuống nhanh chóng còn 3% vào những năm 1960.


Không có khái niệm về “chồng đột nhập” trong tiếng Nhật bởi vì điều đó có nghĩa là đàn ông là người tấn công trong cuộc săn tìm người phối ngẫu. Mặc dù đàn ông nói chung đảm nhận sự dẫn dắt trong việc đề xuất hôn nhân, song họ hiếm khi sử dụng từ mang tính đột nhập để đưa ra câu hỏi. Câu hỏi truyền thống là “Em có theo anh không?” (Boku ni tsuite kite kuremasu ka). Một khảo sát của tạp chí Shukan Post vào giữa những năm 1980 cho thấy hầu hết đàn ông đề xuất chủ đề này với sự thể hiện mập mờ như “Hãy cùng ăn sáng mỗi ngày” hay “Khi nào em định nghỉ việc?”


Trích trang 69-70


[Tôi: Đàn ông Việt Nam có lẽ hỏi khác đàn ông Nhật một chút, nhưng chuyện Tấm Cám hay Tú Uyên-Giáng Kiều đều phảng phất hình bóng của cô vợ đột nhập nhỉ?]


Otto o shiri ni shiku: Cưỡi lên chồng


Khi một phụ nữ từ chối yêu cầu của chồng về việc nấu món sukiyaki bởi vì cô ấy thích ăn món tempura, người Nhật Bản sẽ nói rằng cô ta “cưỡi lên” chồng. Phiên bản Nhật Bản của người chồng bị bắt nạt là một người đàn ông nằm dưới cặp mông to bự của bà vợ. Người vợ thống trị được gọi là “cưỡi lên” (shiri ni shiku) người chồng, cũng giống như họ sẽ nhún nhảy trên một tấm đệm, trong bối cảnh mà từ ngồi shiku thường được nhắc đến. Người ta thường biến câu này sang thể bị động, hàm nghĩa đồng cảm với người bị áp bức bằng cách nói “người chồng bị cưỡi” (otto ga shiri ni shikareru). Sự liên hệ với người chồng (otto) có thể bỏ đi bởi vì sự thể hiện tiêu cực này luôn luôn lên án người vợ làm chủ. Shiri ni shiku không thể ám chỉ một ông chủ đang áp bức người dưới quyền, hay bà mẹ đang giám sát chặt chẽ đứa con trai.


Về nghĩa đen, shiri ni shiku có nghĩa là bị dí bẹp dưới mông và hông, vốn được thể hiện bằng từ shiri. Khi vật thể phía dưới là tấm nệm hoặc khăn trải giường, sự liên hệ đến cơ thể nói chung bị bỏ qua. Hình tượng được nói đến cũng bao hàm sự phê phán là mông phụ nữ quá to, nếu không chồng của cô ta có thể lật đổ quyền lực của cô ta. Tuy vậy, bộ mông nhỏ cũng chẳng tốt hơn. Khi nói “bộ mông nhẹ” của ai đó (shiri ga karui) có thể là sự cáo buộc thiếu ổn định, thiếu chu đáo, hoặc – chỉ đối với phụ nữ - thiếu đạo đức. Đây chỉ là một số ít trong hàng sa số ý nghĩa của mông được sử dụng ở Nhật Bản.


Sự phổ biến của những ông chồng nằm dưới mông còn được gọi là “sự thống trị của bà vợ” (kakaa-denka). Kakaa, một từ thô tục chỉ bà vợ, là một trong số ít các từ được người Nhật Bản tạo ra chứ không sao chép của người Trung Quốc. Nó được kết hợp từ chữ “nữ” và chữ “mũi” để tạo thành khái niệm bốc mùi hôi thối. Thái cực trái ngược là từ teishu kanpaku, với một từ không chính thống chỉ người chồng và theo sau đó là từ chỉ cố vấn trưởng của hoàng đế. Một số phụ nữ Nhật Bản dùng từ teishu kanpaku với nghĩa tương đương như từ “gã chồng gia trưởng” trong tiếng Anh. Tuy vậy, khi người chồng Nhật Bản về mặt truyền thống được kỳ vọng sẽ hành động như vị vua trong lâu đài, sự cai trị của người chồng có thể mang nghĩa tốt, trong khi bị vợ cưỡi thì chắc chắn là mang tính tiêu cực.


Trong số những người cảm thấy sự cai trị của vợ đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát có các viên chức của chính quyền Nhật Bản. Một hướng dẫn cho bố mẹ của trẻ em 3 tuổi vào năm 1985 do bộ Y Tế và Phúc Lợi ban hành đã sử dụng phép ẩn dụ “ngồi lên” để thúc giục các ông bố tích cực hơn trong việc nuôi dạy con cái và cho con cái thấy ý nghĩa của nam tính. Một bức vẽ trong hướng dẫn mô tả một cậy bé đang chứng kiến cảnh ông bố cố gắng thoát khỏi bộ mông to của bà mẹ. Cậu bé nhớ đến lời của bài hát quân sự cổ ca ngợi những binh lính can đảm đã hy sinh của Nhật Bản: “Bố ơi, bố thật mạnh mẽ!”


Trích trang 70-71


[Tôi: Sư tử Hà Đông đây rồi còn gì!]


Senen teishu: Ông chồng một nghìn yen


Lạm phát cũng tác động đến từ lóng chỉ những ông chồng quỵ lụy. Những gã mà người Nhật Bản thường gọi là “ông chồng một trăm yen” (hyakuen teishu) đã được đổi thành “ông chồng một ngàn yen” (senen teishu) trong vài thập kỷ qua. Tính cách của họ vẫn như cũ. Những người đàn ông này trực tiếp đưa hết tiền lương cho vợ, sau đó được nhận lại một khoản tiền tối thiểu mỗi ngày: một trăm yen vào những năm 1960, một ngàn yen ngày nay. Bất kể theo cách nào, chúng cũng chỉ đủ cho ăn trưa và thuốc lá. Từ này mang tính xúc phạm, không phải bởi vì người chồng để cho vợ kiểm soát tiền bạc mà bởi vì anh ta chấp nhận một số tiền nhỏ.


Không có khái niệm “bà vợ một ngàn yen” ở Nhật Bản. Xử lý chi tiêu gia đình được coi là việc của phụ nữ ở Nhật Bản thời xưa và vẫn được duy trì trong 83% hộ gia đình Nhật Bản, theo một khảo sát năm 1984 của chính quyền. Cũng nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng sự mua sắm càng lớn thì các bà vợ các ít có quyền kiểm soát. Đối với các đồ điện tử chính, 48% cặp vợ chồng cùng đưa ra quyết định, trong khi 30% số ông chồng và 17% số bà vợ ra quyết định một mình. Mức độ đưa ra quyết định chung hầu như tương tự khi mua sắm đất đai và nhà cửa, nhưng tỷ lệ đàn ông tự quyết định việc mua bất động sản (38%) lớn nhiều hơn so với vợ (2%). Phụ nữ chỉ ra rằng nếu như họ quyết định mua tủ lạnh mới hay thậm chí là nhà mới thì điều đó không có nghĩa là họ có thể quyết định sẽ sống cuộc đời của mình ra sao. Ví dụ, họ có thể lưỡng lự chi tiền cho lớp học tennis của bản thân, hoặc bất cứ cách nào khác có thể làm ông chồng, người đưa tiền lương cho họ, không hài lòng. Cho đến nay, phụ nữ Nhật Bản dường như vẫn duy trì sự độc lập tâm lý cho phép họ gọi chồng bằng cái tên mà phụ nữ phương Tây không bao giờ dám mơ tưởng đến, ngay cả trong thời kỳ mà họ phụ thuộc kinh tế lớn nhất. Họ không ngần ngại gọi chồng là “gã chuyển lương” (kyuryu unpannin).


Có một số trường hợp mà phụ nữ thành công so với ông chồng thất nghiệp. Vào lúc mà nghề làm tóc là công việc tốt nhất cho phụ nữ, mỗi người đàn ông để vợ hỗ trợ về tài chính đều được gọi “chồng của thợ làm tóc” (kamiyui no teishu), một khái niệm vẫn còn được dùng hiện nay.


Do phụ nữ Nhật Bản nắm giữ hầu bao nên các hãng bán sản phẩm tiêu dùng và các cơ hội đầu tư thường xuyên ve vãn họ. Những người chuyên tụ tập ở quầy vay nợ và tiền gửi dài hạn tại các ngân hàng Nhật Bản hầu như đều là những phụ nữ trông cáu kỉnh với mái tóc xám và bộ kimono xám. Các nhà quảng cáo Nhật Bản thừa nhận rằng phụ nữ thuận theo sự ưa thích cá nhân ngay cả khi mua sắm cho cả gia đình, do vậy họ ngày càng hướng tới phụ nữ khi quảng cáo xe hơi và máy tính, cũng như thực phẩm và thời trang. Nhờ vào chiến lược mới của các công ty chứng khoán, một số nữ nhân viên bán hàng tại nhà tươi cười ở Nhật Bản hiện nay đang bán cổ phiếu và trái phiếu thay vì mỹ phẩm.


Trích trang 72-73


[Tôi: Mấy ông chồng kiểu này ở Việt Nam giờ cũng phổ biến lắm. Ở Việt Nam có lẽ họ sẽ được gọi là ông chồng năm mươi nghìn!]

http://cunom.blogspot.com/2016/03/van-hoa-nhat-ban-duoi-mot-goc-nhin-khac.html