Thứ Tư, 9 tháng 1, 2013

Bài 2 : MAI TRONG THI CA

Nhat chi mai






1./ Thi ca trung quốc

Từ ngàn năm trước, hoa mai đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao thi nhân. Hoa mai được nhắc nhở trong thi ca của người xưa, cả ở Trung Hoa lẫn Việt Nam, thường là loại mai trắng. Đó là loại mai được nhắc đến trong thơ Trương Thuyết đời Đường:


Khứ tuế Kinh Nam mai tự tuyết

Kim niên Kế Bắc tuyết như mai

Năm ngoái ở Kinh Nam (nay thuộc tỉnh Hồ Quảng), hoa mai trắng như tuyết

Năm nay ở Kế Bắc (nay là Bắc Kinh), tuyết trắng như hoa mai
Không như hầu hết các giống mai vàng ở phương Nam, loại mai trắng ở Trung Hoa và miền Bắc nước ta có mùi hương dịu dàng, thanh khiết, chẳng hạn như mùi hương của rừng mai nơi cung Dao Trì thuở xưa:

Dao Trì bất thị tuyết

Vị tiểu ám hương lai
(Cổ thi)

Nhìn về cung Dao Trì (thấy một mầu trắng nhưng) biết không phải là tuyết

Vì có phảng phất mùi hương (thơm)


Lư Mai Pha, một thi nhân đời Tống, đã so sánh mai và tuyết qua hai câu:


Mai tu tốn tuyết tam phân bạch

Tuyết khước thâu Mai nhất đoạn hương

Mai nên nhường tuyết ba phân trắng

Tuyết phải thua mai một bậc thơm


Về hình dáng, loại mai trắng trong thơ cổ của Trung Hoa và Việt Nam trông giống

như giống mai mù u, hiện còn một cây trong vườn chùa Gò ở Phú Lâm, ngoại ô Sài Gòn.
Trong văn học Trung Hoa, có lẽ người yêu mai nhất là Lâm Bô, tức Lâm Hòa Tĩnh (967-1028), sống vào đời nhà Tống. Vị hiền sĩ này tài trí hơn người nhưng chán ghét tục lụy nên ở ẩn trên núi Cô Sơn, xem mai là vợ, hạc là con. Ông chính là tác giả bài thơ Mai Hoa bất hủ, được truyền tụng qua nhiều thế hệ. Bốn câu đầu của bài thơ như sau:


Chúng phương dao, lạc độc tiên nghiên

Chiếm tận phong tình hướng tiểu viên
Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiển
Ám hương phù động nguyệt hoàng hôn

Các loài hoa rơi rụng, chỉ một mình (hoa mai) tươi tốt

Chiếm cả vẻ đẹp trong khoảnh vườn nhỏ

Bóng cành thưa đâm ngang lòng nước trong ở nơi cạn

Hương thầm thoảng lên dưới ánh trăng hoàng hôn


Hai câu thực của bài (câu 3 và 4) được đúc kết lại thành "ám hương phù động ánh hoành tà" và được cụ Giản Chi dịch là "chập chờn hương thoảng, bóng cành xiên ngang". Các thi nhân đời sau đã khen ngợi rằng chỉ với bẩy chữ, câu này đã diễn tả đủ được vẻ đẹp của hoa mai.

Vương Duy (701-761), một thi sĩ kiêm họa sĩ đời Đường, đã nhắc đến hoa mai qua bài Tạp Thi bất hủ:



Quân tự cố hương lai

Ung tri cố hương sự
Lai nhật ỷ song tiền
Hàn mai trước hoa vị

Người từ quê cũ đến

Hẳn biết những chuyện ở quê nhà
Ngày đi qua trước cửa buồng thêu
Có thấy Hàn Mai nở hoa không?


Nơi đất khách, gặp bạn cùng quê, nhà thơ không vội hỏi thăm chuyện quê cũ mà hỏi đến cội mai xưa. Cũng vậy, Lý Bạch, trong khi ngồi uống ruợu trên lầu Hoàng Hạc, nghe có người thổi khúc sáo Lạc Mai Hoa, đã bồi hồi nhớ đến bóng mai nơi kinh thành Trường An xa xôi vạn dặm:


Nhất vi thiên khách khứ Trường Sa

Tây vọng Trường An bất kiến gia
Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch
Giang thành ngũ nguyệt "Lạc mai hoa"

Thân là người khách đến tận Trường Sa xa vạn dặm

Trông về phía Tây, nơi thành Trường An, mà không thấy nhà
Ngồi trên lầu Hoàng Hạc, nghe tiếng sáo ngọc thổi
Giữa tháng năm, chợt vang khúc "hoa mai rụng" ở chốn Giang thành
Lô Đồng (790-835), một nhà thơ khác đời Đường, đã thi vị hóa hoa mai với người đẹp (hay người đẹp với hoa mai?) trong những câu cuối của bài Hữu Sở Tư:


Mỹ nhân hề! mỹ nhân!

Bất tri mộ vũ hề! vi triêu vân?
Tương tư nhất dạ mai hoa phát
Hốt đáo song tiền nghị thị quân

Người đẹp này! người đẹp!

Chẳng hay (bây giờ) là mưa chiều hay mây sớm?
Một đêm nhớ nhau mai nở hoa
Trông thấy hoa trước cửa sổ, ngỡ là bóng nàng

Bài thơ được nhiều người dịch ra tiếng Việt. Bài dịch hay nhất, theo thiển ý, là bài của Tản Đà với nhan đề "Có Nhớ Ai":



Hỡi ơi! Người đẹp ta đâu?

Mưa chiều mây sớm, ai hầu biết ai?
Nhớ nhau suốt một đêm dài,
Trước song trắng toát hoa mai lúc nào!
Ngỡ mình chẳng phải mình sao?

Các nhà thơ cổ thường ca ngợi hoa mai vì vẻ đẹp, vì hương thơm, và đặc biệt, vì cốt cách của hoa. Ví von mai với tình nhân như Lô Đồng đã là trường hợp ngoại lệ. Ấy thế mà sau Lô Đồng một đời, có một nhà thơ tên Hàn Ốc (844-933) đã so sánh làn da nõn nà, trắng mịn trên bộ ngực của người đẹp với một cánh... hoa mai. Ông viết:



Phấn trứ lan hung tuyết áp mai


Phấn thoa lên ngực như tuyết áp trên hoa mai



Quả là táo bạo và độc đáo.

Lâm Hòa Tĩnh (967-1028), một hiền sĩ ở Cô Sơn (Hàng Châu, Trung Quốc) vào đời Tống. Họ Lâm không vợ con, chỉ thích trồng hoa mai và nuôi chim hạc, nên người đời nói về ông : "Cưới mai làm vợ, nuôi hạc làm con". Lâm Bô có để lại bài thơ "Mai hoa" được nhiều thế hệ truyền tụng. Đây là 4 câu đầu :


Chúng phương hoa lạc động huyên nghiêm

Chiếm tận phong tình hướng tiểu viên

Sơ ảnh hoành tà thủy thanh thiên

Ám hương phù đông nguyệt hoàng hôn...

Nghĩa : Các hoa rụng hết, chỉ còn hoa mai tươi đẹp dưới bóng nắng ; chiếm cả vẻ đẹp của mảnh vườn con ; bóng cành thưa nằm ngang giữa làn nước trong nơi cạn ; hương thoảng đưa nhè nhẹ dưới ánh trăng buổi hoàng hôn...

Cặp thực của bài thơ trên lại được cô đúc thành một câu :

Ánh hương phù động, ảnh hoành tà.

Giản chi dịch :

Chập chờn hương thoảng, bóng cành xiên ngang.

Nhiều thi nhân khen rằng chỉ 7 chữ mà lột tả đầy đủ vẻ đẹp của hoa mai, không thể thêm bớt được một chữ nào

Nếu các thi nhân thường làm thơ ca tụng vẻ đẹp và hương thơm của mai, hoặc mượn mai để gói ghém tâm sự hay khí tiết của mình, thì các thiền sư thường dùng mai làm ẩn dụ để chuyển tải ý đạo, như một thiền sư Trung Hoa đời Đường với bài "Cổ Mai" nêu sau:



Hỏa ngược phong thao thủy tí căn

Sương thuân tuyết trựu cổ đài ngân
Đông phong vị khẳng tùy hàn thử
Hựu nghiệt thanh hương dữ phản hồn

Lửa táp, gió lùa, nước ngâm thân

Sương (như) búa tuyết (như) cưa khắc vết hằn
Gió đông buốt giá dầu chưa đến
Vẫn cứ đâm chồi tỏa ngát hương.


Phải chăng thiền sư muốn nhắn nhủ chúng ta hãy bền gan vượt qua mọi cám dỗ, mọi thử thách trên đường tu đạo và hành đạo? Công phu đến độ chín muồi thì tâm ắt sẽ khai hoa, cũng như mai nở sẽ đúng thời khắc sau khi dãi dầu đủ gió mưa sương tuyết.

Bài Cổ Mai nêu trên khiến chúng ta nhớ đến bài kệ của Tổ Hoàng Bá (?-850), một thiền sư danh tiếng người Phúc Kiến:



Trần lao quýnh thoát sự phi thường

Hệ bã thằng đầu tố nhất trường
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.

Vượt cõi trần lao việc chẳng thường

Đầu dây nắm chặt giữ lập trường
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.


*Thi ca việt nam


Ở phương Nam, các nhà thơ của dân tộc ta không hề thua kém các nhà thơ phương Bắc trong lãnh vực thưởng thức và ca ngợi hoa mai


Thập tải luân giao cầu cổ kiếm

Nhất sinh đê thủ bái mai hoa

Mười năm xuôi ngược giao du cốt tìm thanh kiếm cổ

Một đời chỉ cúi đầu vái lạy trước hoa mai

Cụ Chu Thần, tức Cao Bá Quát, một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam, người tự phụ riêng mình chiếm đến hai trong bốn bồ chữ của thiên hạ, đã thốt lên hai câu thơ trên. Hoa mai có những đặc tính nào mà đã dành được sự tôn kính của nhà nho kiêu ngạo, từng xem khinh cả vua lẫn quan như vậy?


Đối với cụ Chu Thần, có lẽ trong suốt quãng đời bôn ba khắp chốn để cầu cổ kiếm (hay để xây dựng nghiệp bá vương?), cụ không hề gặp bậc chính nhân quân tử nào có cốt cách như "mai ngự sử". Vì vậy, theo thiển ý, "nhất sinh đê thủ bái mai hoa" là lời xưng tụng của cụ dành cho loại bách hoa khôi, đồng thời cũng hàm ý rằng anh hùng trong thiên hạ chẳng ai xứng để họ Chu này bái phục. Rõ là khẩu khí của Chu Thần.


Được như mai há phải là chuyện dễ?

Một trong những nhà thơ hết lòng ưu ái loại hoa này là Nguyễn Trãi, vị khai quốc công thần của nhà Hậu Lê. Cụ đã từng giải thích lý do tại sao mình yêu mai đến thế:


Ái mai, ái tuyết, ái duyên hà?

Ái duyên tuyết bạch, mai phương khiết

Yêu mai, yêu tuyết bởi vì đâu?

Vì tuyết trắng, mai thơm và tinh khiết


Cụ đã từng thổ lộ thú tiêu khiển trang nhã của cụ:
 

Hái cúc, ương lan, hương bén áo
Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn

Trong 21 bài "Ngôn Chí", Nguyễn Trãi đã nhắc đến mai qua 8 bài. Điển hình như:


Trà mai đêm nguyệt dậy xem bóng

Phiến sách ngày xuân ngồi chấm câu
(Ngôn Chí 2)

Quét trúc, bước qua lòng suối

Thưởng mai, về đạp bóng trăng
(Ngôn Chí 15)
Lê Cảnh Tuân, một danh thần trong thời kháng Minh, khi bị quân Minh bắt về giam tại Kim Lăng, đã gửi gấm nỗi nhớ cố hương trong bài "Nguyên Nhật" (ngày đầu năm):


Lữ quán khách nhưng tại

Khứ niên xuân phục lai
Quy kỳ hà nhật thị
Lão tận cố hương mai

Đất khách ngày lần qua

Xuân đã quay trở lại
Bao giờ về quê cũ
Cội mai hẳn đã già?
(Nguyễn Ngọc Bảo dịch)
 

Đến cụ Nguyễn Du, lòng yêu mai có lẽ tăng thêm một bậc nữa. Trên đường trở về cố hương sau chuyến đi sứ sang Trung Quốc, cụ đã nán lại Từ Châu và chống chọi với giá buốt suốt ba tháng trời chỉ cốt để ngắm mai nở trên đầu núi:


Nhượng tận khổ hàn tam duyệt nguyệt

Lĩnh đầu lạc đắc khán mai hoa
(Trích Từ Châu Đạo Trung)

Cố chịu khổ với giá buốt trong ba tháng nữa

Để được vui mừng ngắm hoa mai nở trên đầu non
 

Cho nên, chúng ta không lấy làm lạ khi cụ đã sử dụng rất nhiều mỹ từ kèm với "mai" trong tác phẩm bất hủ Đoạn Trường Tân Thanh như lầu mai, tiên mai, mưa mai, sân mai, hồng mai, song mai, trướng mai, hồn mai, giấc mai. 
Trong thơ văn thời Lý- Trần, thấy xuất hiện khá dày đặc hình ảnh hoa mai và dường như mỗi khi hoa mai hiện diện đều khiến những áng thơ của thi nhân xưa trở thành những câu chữ xuất thần. Có lẽ, nụ mai nở sớm nhất trong thơ ca Việt Nam lại là đóa hoa nở... muộn. Ấy là cành mai cuối mùa của một đại sư thuộc phái Vô Ngôn Thông : đại sư Mãn Giác (1052-1096). Nguyên văn được chép trong "Thiền Uyển Tập Ánh" như sau :

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận



Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai."
(Ngô Tất Tố dịch)

Trước khi viên tịch, thiền sư cáo bệnh, đóng cửa thiền phòng để tham thiền nhập định. Đến chiều tối, ngài thảo bài kệ, bước ra khỏi phòng, mỉm cười trao cho các đệ tử đang bồn chồn lo lâu cho sức khỏe người thày. Bài kệ trở thành những lời dậy hàm súc nhất của một bậc thiền sư gửi lại cho hậu thế

Bình luận cái hay, cái đẹp trong những áng thơ kiệt tác này, sẽ là thừa nếu như sa đà vào sự săm soi, thắc mắc rằng đó là hoa mai vàng, mai trắng, hay mai hồng? Bởi hoa mai ở đây chỉ mang tính ước lệ hàm chỉ mùa xuân - sự sống - hạnh phúc, và mai vàng hay mai trắng đều mang ý nghĩa thoát tục như nhau, cũng như bất cứ loài hoa thanh khiết và cao thượng nào khác.


Cuộc đời là một dòng vô thường không ngừng biến chuyển theo thời gian. Tất cả mọi vật hiện hữu trong vũ trụ, hễ có sinh thì có diệt; vì vậy, với con người, sinh lão bệnh tử là chuyện dĩ nhiên. Tuy nhiên, có một cái bởi không sinh nên không diệt. Đó chính là bản lai diện mục, là pháp gốc, là cái Tâm của mỗi người chúng ta. Cành mai trong bài kệ có thể không có thật ở chốn đình tiền đêm năm ấy (dẫu có thật, rồi hoa cũng phải rụng rơi theo ngày tháng). Tuy nhiên, điều chúng ta biết chắc, cành mai ấy đã hiện hữu ở từng sát na trong mắt nhìn của thiền sư, đúng ra là ở trong tâm ngài. Cành mai ấy mọc bên ngoài dòng sinh tử vô thường của thời gian và nở bên ngoài quy luật bể dâu của vũ trụ.


Tâm hoa nếu đã nở thì việc gì phải cậy đến mùa xuân. Mà thật ra, làm gì có mùa xuân. Chúng ta thấy xuân đến xuân đi chỉ vì chúng ta đang sống trong vọng thức.

Thấu đáo ẩn dụ của cành mai trong bài kệ, có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy an nhiên tự tại khi đối diện với sinh tử vô thường của tạo hóa, với được, thua, còn, mất của kiếp người.
So với tùng và trúc, mai giống ở khí tiết. Nhưng mai có ưu điểm hơn chính là : sắc hương.

Sắc, ai ai cũng dễ dàng nhìn thấy, dù ngồi gần hay đứng xa, kể cả qua "bóng thưa ánh nước" chập chờn : Mai hoa như tuyết chiếu tình xuyên (Hoa mai như tuyết chiếu xuống lòng sông buổi trời nắng - thơ Trần Quang Khải). Song, hương thì "khách tục" làm sao nhận ra. Chỉ tri âm tri kỷ mới đủ khả năng tương thức. Đó là vầng trăng. Lịm đưa hương, một nguyệt hay : câu thơ lục ngôn thầm kín đáo quá, kín đáo như hương mai vậy.

Huyền Quang Tôn Giả một thiền sư danh tiếng đời nhà Trần, đệ tam Tổ phái Trúc Lâm cũng là một thi nhân tài hoa tuyệt đỉnh. Ngài thường có những bài thơ nho nhỏ tuyệt hay và Ngài cũng đã có bài "Mai hoa tác" tức là Vịnh hoa mai:

"Dục hướng thương thương vấn sở tùng?

Lẫm nhiên cô trỉ tuyết sơn trung

Chiết lai bất vị già thanh nhãn

Nguyện tá xuân tư tuý bệnh ông"

Toàn bài không nói đến một chữ mai nào cả nhưng suốt câu thứ hai đã ca ngợi hết sức cái đặc tính của cây mai. Đứng một mình giữa non trơ trọi đầy tuyết trắng. Tuyết thì đương nhiên là lạnh. Nhưng tác giả thì sao? Tác giả đã bẻ một cành mai trong miền tuyết lạnh ấy đem về. Một cành mai không chỉ là một cành mai, mà một cành mai là cả một mùa xuân, có mai là có xuân

". Đề bài là vịnh hoa mai song không hề nhắc đến mai mà lại ca ngợi cái tính chất đặc biệt của mai qua màu tuyết lạnh mà mùa xuân với cái trơ trọi của nó, không có cây lá nào hỗ trợ. Thực là loại thơ tượng trưng về mai vậy.

Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, một thi hào nổi tiếng đã dùng cây mai để diễn đạt tâm sự cô đơn của mình trong lúc giao thời, khi hai nền văn minh Đông-Tây mới khởi đầu gặp gở. Những vần thơ trong bài vịnh cây Mai đã hình dung được loại cây quý nói trên:


Chẳng hay gốc tích nơi nào ?
Ngẩu nhiên năm trước, trồng vào vườn ta
Lá chưa mọc, đã đầy hoa,
Hoa tàn lá mới rườm rà đua tươi
Xanh tươi hơn mọi cây rồi
Mà hương thanh lại khác vời trăm hoa
Ong say hôm sớm mặn mà
Người; đời hờ hững thực là đáng thương.
( Đỗ Ngọc Toại dịch )

Nhà thơ Chu Mạnh Trinh, nổi tiếng với những bài thơ lãng mạn, vần điệu trau chuốt, nhẹ nhàng, cũng đã tụng mơ lạc bước giữa rừng mai :

..Lác đác rừng mai chim cúng trái
Lững lờ khe yến cá nghe kinh
Thoảng đâu đây một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng ..

Trong văn học, các nhà thơ tiền chiến cũng đã bộc lộ tình cảm mình qua dáng người con gái núp mình dưới gốc cây mai già như Thế Lữ trong bài thơ ‘Giây phút chạnh lòng‘ :


..Em đứng nương mình dưới gốc mai
Vịn cành sương đọng, lệ hoa rơi
Cười nâng tà áo đưa lên gió
Em bảo : hoa kia khóc hộ người .

Hay Vũ Hoàng Chương với Tïnh Liêu Trai :

.. Rượu ngấm say nằm dưới gốc Mai
Khói sương tha thướt áo bay dài
Đam mê trở gối - ồ trăng lặn
Rêu biếc còn ghi nhẹ dấu hài.

Và trong thế kỷ thứ hai mươi, ở miền Nam chúng ta ra đời ‘Bạch Mai thi xã‘, qui tụ những cây bút tên tuổi thời bấy giờ như Phan Văn Trị, Trần Thiện Chánh,Nguyễn Thông.. có người cho rằng biểu tượng của Bạch Mai Thi Xã là cây mai trắng ở chùa Gò, Phú Lâm thời ấy- cùng thời gian sau tại Nha Trang, Quách Tấn cùng một số nhà nho đã thành lập ‘Hoàng Mai Thi Xã‘ với các cụ Phan Bá VÏ, nhà nho Trần Khắc Thuần, cụ đề Ngô Văn Nhượng tại rừng Mai Phước Hải (1954- 1975).Bài thơ ‘Sau Trước’ của cụ Quách Tấn nói về Mai:

Trước tết mai là hoa Sau tết mai là củi.
Trước bao nhiêu nâng niu Sau bấy nhiêu hất hủi
Nâng niu mai chẳng mừng! Hất hủi mai chẳng tủi!
Ngàn trước gẩm nghìn sau, Khe trong lòng bóng núi.
(Tràng hạt ngũ ngôn).

Ngay cả cụ Đào Tấn, một nhà thơ nổi tiếng, một nhà viết tuồng xuất sắc, rất yêu thích cây mai vàng. Cụ đã sống vì cây mai và chết vì cây mai ! Chính tay cụ đã trồng một vườn mai ở trước sân nhà, tại xã Vïnh Thạnh với câu liễn:

Dỹ vi danh tự, vi viên phố
Diệc hữu nhân duyên, hữu tính tình
Vườn Mai
( Đã nên tên hiệu tên vườn Phong nhã văn chương, mai cốt cách Âu cũng mối duyên, mối nợ Thanh cao chí khí, tuyết tinh thần .)

Cụ suốt đời chăm sóc cây mai vàng, lấy hiệu là Mộng Mai, Mai Tăng và cụ đã chọn núi Huÿnh Mai để gởi nắm xương tàn như vậy ít có ai gắn bó, yêu thích cây mai vàng suốt đời như cụ.

Nhà thơ “ điên” Bùi Giáng cũng đã viết bài thơ ‘Những Nhành Mai‘:

Những nhành mai sớm sương bên lá Những nhành liễu chiều gió bên cây Cũng lay lắt bởi đời xuân em ạ Thế nên chi anh cũng viết giòng này.

Hồng vàng tụ bữa kia em có thấy
Nước xuôi giòng là cổ độ nhìn theo
Tuổi mười sáu bây giờ lên gấp gảy
Mộng miên man là mây phủ lưng đèo
Buồn phố thị cũng xa bay như gió
Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng như hươu
Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó
Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu

Tìm theo dấu chân người xưa tư lự Ở bên đường ngóng dõi khánh vân bay Mờ con mắt một lần lên tiếng thử Em ồ em, anh nói một lời này.

Hay:

Niềm đau quá khứ dụm dành
Của tin để lại ngọn ngành tương lai
Làm ghi gọi chút một vài
Một lời vâng tạc thiên thai đá vàng
Mai sau trùng ngộ hàng hang
Những tờ vần điệu thênh thang đoạn trường.

Khi viếng Điện Núi Bà hay Linh Sơn Thánh Mẫu, nơi thắng cảnh thiên nhiên rất hùng vỹ, uy nghi, trước những hàng mai trắng đang trổ hoa mừng xuân, nữ sĩ Thụy Khuê Sương Nguyệt Anh cảm tác hai bài thơ tiêu biểu là "Thưởng Bạch Mai Cảm Đề" và "Linh Sơn Nhất Thụ Mai" như sau:


"Non Linh đất phuớc trổ hoa nhân
Riêng chiếm vườn hồng một cảnh xuân
Tuyết đượm nhành tiên in sắc trắng
Sương pha bóng nguyệt ánh màu ngân
Mây lành gió lạnh nương hơi chánh
Vóc ngọc mình băng hắt khói trần
Sắc nước hương trời nên cảm mến
Non linh đất phước trổ hoa thần.
("Thưởng Bạch Mai Cảm Đề")

Bài thơ trên được thi sĩ Hi Đạm chuyển ngữ sang Việt ngữ:

"Ngọc quỳnh cốt cách trời ban
Đất tịnh trơ vơ lánh thế gian
Ấm áp hương đầm xuân buổi sớm
Lạnh lùng bóng nhạt nguyệt đêm tàn
Nghĩ thân ánh tuyết hơi sương đượm
Thương kẻ hài sương gót tuyết chan
Mến cảnh nước non xa chớ ngại
Cùng lên ngâm vịnh tứ xuân tràn."

Bác Hồ cũng có bài thơ rất hay về Hoa mai

“Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh.

Đường về vó ngựa dẫm mây xanh.

Qua đèo chợt gặp mai đầu suối .

Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành”

(Hồ Chí Minh 1890-1969)

Còn đối với nhà thơ Yến Lan mai đã trở thành một nỗi ám ảnh, một tâm thức hiện sinh. Mai luôn là chứng nhân của những thăng trầm trong cuộc sống, gắn liền với những biến sinh của xã hội mà ông đã trãi nghiệm. Vì vậy, từ một cành mai trong “vườn hoang” ông đã liên tưởng đến sự hưng phế trong cuộc đời:

Trán lựu thâm nghiêm pho cổ tích


Má đào trơ trẽn nét xuê xoang

Xe săn liễu nối dòng bạc mệnh

Buông rụng mai bày cảnh phế hoang

( Vườn hoang)


Thời gian bao giờ cũng đồng hành với sự phát triển, sự sinh sôi nhưng thời gian cũng là chứng nhân của sự tàn tạ, sự hoang phế, sự tan rã vì cuộc đời chỉ là cõi phù du. Và bước đi của thời gian là hiện thân của cõi phù du ấy. Yến Lan đã cảm nhận điều này qua sự chiêm nghiệm về vẻ đẹp mong manh của hoa mai


Nét nhớ cong theo bóng núi đồi


Vương qua nhè nhẹ cõi lòng tôi

Bao nhiêu cánh đẹp như mai nở

Sao vội vàng qua một thoảng hơi

( Nhớ Mai)


Hăm mấy năm xa, trông nhớ mai


Về đây nỗi nhớ vẫn không khuây

Mai ơi, nở đó mà thưa thớt

Phẩm chất thanh u trĩu nhánh gầy.

( Vóc mai)


Theo Yến Lan cuộc sinh nở của hoa mai là một quá trình “đau đớn”. Để có vẻ đẹp huyễn hoặc khoe sắc chào đón mùa xuân, mai đã phải tự lột xác tẩy rửa mình để hóa thân nhiệm mầu trong thế giới của cái đẹp.



Vặt lá đầu mùa để đón hoa


Biết trong chồi biếc sắc vàng pha

Bao nhiêu đau đớn cành mai chịu

Đợi với trời xanh rực bóng nhà.



( Tỉa mai)


Thật khộng thể nào nói hết hình ảnh mai trong thi ca xưa và nay ., đành tạm kết lại với 2 câu thơ trên bia mộ của Thượng thư Đào tấn trên núi mai sơn để thấy được cái hồn mai trong tâm khảm người Việt:

Núi Mai rồi gửi xương mai nhé

Ước được hoa mai hóa mộng hồn

( còn tiếp)
Tổng hợp và biên soạn



2 nhận xét: