Hiển thị các bài đăng có nhãn Tham nhũng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tham nhũng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 13 tháng 9, 2018

Ai tham gia đường dây Đưa Tiền Gỡ Bài?






Ít nhất 6 nhà báo "có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan" được triệu tập đến phiên tòa xét xử vụ án bà Phạm Lê Hoàng Uyển đòi giám đốc một công ty khoản tiền 700 triệu đồng để gỡ loạt bài trên báo Phụ Nữ TPHCM. Tuy rằng bà Phạm Lê Hoàng Uyển có nhiều lời khai bất lợi cho bà NLYT, nhưng nữ nhà báo ấy đã nhanh chân chạy qua Mỹ hơn 1 năm nay. Rõ ràng, cách thức ứng phó và kỹ năng ra giá, cho thấy có một đường dây chuyên chạy gỡ bài bất lợi trên các báo! Bà Phạm Lê Hoàng Uyển là con gái của một cựu Tổng Biên tập, còn bà NLYT là cô ruột của một lãnh đạo báo chí đương nhiệm.

Về vụ “đưa tiền gỡ bài” bị bắt quả tang, Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều – Cần Thơ chuẩn bị xét xử Phạm Lê Hoàng Uyển ( Trưởng cơ quan đại diện phía Nam của báo Hòa Nhập Và Phát Triển) và Võ Hoàng Hà (40 tuổi, nguyên chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty CP Hóa chất khử trùng Châu Á) với tội danh “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đồng thời, nhiều nhà báo cũng phải nhận lệnh triệu tập đến phiên tòa với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Trong số này có một phó tổng biên tập kiêm trưởng văn phòng đại diện phía Nam của một tờ báo; hai phóng viên và một lãnh đạo ban nghiệp vụ của báo Phụ Nữ TP.HCM; phóng viên một số báo và một phó phòng nghiệp vụ thuộc Sở TT&TT TP.HCM.

Vụ án có thể tóm tắt như sau: Khi báo Phụ Nữ TPHCM đăng loạt bài điều tra bất lợi cho công ty do mình làm chủ, Võ Thành Long (tổng giám đốc) gọi điện thoại cho Phạm Lê Hoàng Uyển nhờ gỡ bài. Phạm Lê Hoàng Uyển gọi cho NLYT (Trưởng ban kinh tế báo Người Tiêu Dùng) để tìm phương án. Khi nghe NLYT báo giá 600 triệu đồng, Phạm Lê Hoàng Uyển đã nói lại với Võ Thành Long là 700 triệu đồng cộng với chi phí đi lại 30 triệu đồng.

Phạm Lê Hoàng Uyển yêu cầu đưa trước 350 triệu đồng và “dọa” nếu không đồng ý thì báo sẽ tiếp tục đăng bài. Để tránh bị phát hiện, Phạm Lê Hoàng Uyển nhờ Võ Hoàng Hà hợp thức hóa việc nhận tiền từ ông Võ Thành Long bằng hợp đồng mua bán cây kiểng. Ngày 6-8-2017, Võ Hoàng Hà lái ô tô cá nhân chở Phạm Lê Hoàng Uyển đến quán cà phê ở quận Ninh Kiều để nhận tiền thì bị bắt quả tang.

Tuy rằng Phạm Lê Hoàng Uyển có nhiều lời khai bất lợi cho NLYT, nhưng nữ nhà báo ấy đã nhanh chân chạy qua Mỹ hơn 1 năm nay. Rõ ràng, cách thức ứng phó và kỹ năng ra giá, cho thấy có một đường dây chuyên chạy gỡ bài trên các báo cho doanh nghiệp! Phạm Lê Hoàng Uyển là con gái của một cố Tổng Biên tập, còn NLYT là cô ruột của một lãnh đạo báo chí đương nhiệm.
PV

Thứ Ba, 26 tháng 6, 2018

KHÔNG ĐẬP BÌNH CŨNG VỠ!





Mở đầu CUỘC CHIẾN CHỐNG THAM NHŨNG ( cũng là cuộc chiến CHỐNG GIẶC NỘI XÂM) Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu " Đập chuột sợ bể bình". Câu nói này của ông đã phản ảnh đúng thực trạng " GIẶC THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM.".Ông đã xem 'THAM NHŨNG LÀ GIẶC NỘI XÂM" .

Giặc nội xâm làm mất chế độ đã đành, sao lại có thể lá " MẤT NƯỚC" ?


Ông đã từng bước tiến hành và " ĐỐT LÒ".Lò được đốt những cây " CỦI KHÔ" được đưa vào chụm và khi lò đủ nóng để có thể đốt " CỦI TƯƠI" không phải sợ lửa tắt.

NHƯNG CỦI TƯƠI CHƯA ĐƯỢC ĐƯA VÀO...

Từ năm 2014 đến nay, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 840 tổ chức đảng và hơn 58.000 đảng viên vi phạm, trong đó có trên 2.700 đảng viên vi phạm về tham nhũng, cố ý làm trái.
Như vậy, phải có 2700 đảng viên bị khởi tố hình sự? ( ước chi Danh sách 2700 đảng viên này được công bố cho toàn dân được biết thì hay biết mấy. Các vị ĐBQH 'gà mờ" của chúng ta chắc cũng không biết và cũng không muốn biết!)

Khai mạc Hội nghi toàn quốc về Công tác Phòng chống Tham Nhũng ngày 25/6/2018, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu : " CUỘC CHIẾN CHỐNG GIẶC NỘI XÂM CÒN KHÓ KHĂN , GIAN KHỔ, LÂU DÀI, CHỊU SỨC ÉP TỪ NHIỀU PHÍA"

SỨC ÉP TỪ PHÍA NHÂN DÂN LÀ ĐIỀU HIỂN NHIÊN!
THẾ CÒN NHIỀU SỨC ÉP NÀO KHIẾN CUỘC CHỐNG NỘI XÂM CÒN KHÓ KHĂN, GIAN KHỔ VÀ LÂU DÀI?

PHẢI CHĂNG TỒN TẠI SỨC ÉP TỪ GIẶC NỘI XÂM VÀ NGOẠI BANG?

CHUỘT VẪN Ở TRONG BÌNH.

Ông Phan Đình Trạc - Bí thư Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực BCĐ, Trưởng ban Nội chính trung ương - trước hội nghị đã lưu ý "Quán triệt và thực hiện phương châm: phòng ngừa giải quyết sớm, "chữa cây bệnh, bỏ cây hỏng"

CHUỘT VẪN Ở TRONG BÌNH VẪN ĐƯỢC ĂN VÀ SINH SẢN NẾU NHƯ VIỆC CHỬA BỆNH CÂY KHÔNG LÀNH !

Cây hỏng loại bỏ chưa xong chửa bệnh cây là vô ích!
Ông Phan Đình Trạc nên chăm sóc một khu rừng thì sẽ hiểu. Đáng tiếc vì ông chưa bao giờ "trồng rừng"!

Lũ chuột sinh sôi đến ngày nào đó sẽ " TỰ PHÁ VỠ BÌNH" .
KHÔNG ĐẬP BÌNH CŨNG VỠ!

Thứ Năm, 10 tháng 5, 2018

Thủ Thiêm, vì sao biến dạng quy hoạch?




Thanh Niên







Sau khi có Quyết định 367 của Thủ tướng phê duyệt quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm, TP.HCM đã nhiều lần điều chỉnh quy hoạch, dẫn đến khu đô thị này bị “biến dạng” và là một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều hệ lụy.


Một khu dân cư cao cấp ở Thủ Thiêm
ẢNH: ĐỘC LẬP

Để làm cơ sở pháp lý triển khai việc xây dựng khu đô thị mới Thủ Thiêm (gọi tắt là Thủ Thiêm), ngày 27.5.1996, UBND TP.HCM trình Thủ tướng đồ án quy hoạch xây dựng tỷ lệ 1/5.000 (thời điểm đó thuộc H.Thủ Đức). Trên cơ sở tờ trình của TP.HCM, ngày 4.6.1996 Thủ tướng ký Quyết định (QĐ) 367 phê duyệt quy hoạch Thủ Thiêm.

Mất trung tâm hành chính, tăng đất ở
QĐ 367 nêu rõ quy mô Thủ Thiêm 930 ha, trong đó khu đô thị mới 770 ha với dân số khoảng 200.000 người, khu tái định cư 160 ha với dân số 45.000 người; đồng thời nêu rõ các phân khu chức năng của Thủ Thiêm gồm: khu trung tâm thương mại, tài chính, dịch vụ 92 ha; khu trung tâm hội chợ, triển lãm quốc tế 100 ha; khu nhà ở cao cấp 55 ha; khu trung tâm văn hóa, du lịch, giải trí 100 ha; công viên trung tâm 95 ha; khu trung tâm hành chính 18 ha; đất dành cho giao thông kết hợp trồng cây xanh 177 ha; phần còn lại trong tổng 770 ha là diện tích mặt nước kênh rạch và sông Sài Gòn. Về quy mô chiều cao công trình kiến trúc, QĐ 367 cho phép cao ốc từ 30 - 100 tầng.





Theo tìm hiểu của PV Thanh Niên, Thủ Thiêm được phê duyệt để xây dựng và phát triển trên nền tảng quy hoạch tổng thể TP.HCM đã được Thủ tướng phê duyệt tại QĐ 20 ngày 16.1.1993, trong đó nhấn mạnh “cần xây dựng TP.HCM thực sự là TP văn minh của nhân dân lao động, thể hiện được tính ưu việt của chế độ và nguyện vọng của nhân dân...”.

Thế nhưng, quá trình thực hiện quy hoạch theo QĐ 367, UBND TP.HCM nhiều lần điều chỉnh, điển hình nhất là 2 lần điều chỉnh quy mô vào năm 2005 (QĐ 6565/QĐ-UBND) và năm 2012 (QĐ 3165/QĐ-UBND), xác định tính chất, chức năng Thủ Thiêm “là khu trung tâm mới, hiện đại và mở rộng của trung tâm TP.HCM, với các chức năng chính là trung tâm tài chính, thương mại, dịch vụ cao cấp của TP, khu vực và có vị trí quốc tế; là trung tâm văn hóa, nghỉ ngơi, giải trí; đảm nhiệm một số chức năng mà trung tâm TP hiện hữu còn thiếu và hạn chế phát triển”.
Thực tế, thay đổi lớn nhất về phân khu chức năng qua các lần điều chỉnh quy hoạch là TP.HCM đã loại bỏ chức năng trung tâm hành chính (18 ha) mà trước đó QĐ 367 của Thủ tướng đã xác định rõ. Đặc biệt, QĐ 3165/QĐ-UBND của UBND TP.HCM vào năm 2012 (căn cứ hiện hành thực hiện quy hoạch - PV) đã tăng chức năng đất ở lên hơn gấp 2 lần theo QĐ 367, từ 55 ha tương ứng 7,1% lên 112 ha tương ứng hơn 17% diện tích quy hoạch; tầng cao công trình tối đa hạ xuống chỉ còn 86 tầng, số tầng cao tối thiểu là 4.
Mất gì khi điều chỉnh quy hoạch?
Theo nhiều chuyên gia, các bản quy hoạch Thủ Thiêm mà TP.HCM duyệt điều chỉnh qua các đợt đã bộc lộ nhược điểm về mặt chiến lược, bỏ qua nhiều “cơ hội vàng” khiến thực tế Thủ Thiêm đến bây giờ vẫn rơi vào tình cảnh “hao tiền tốn của”, ngân sách không được lợi và người dân cũng không được lợi.
“TP.HCM điều chỉnh quy hoạch bỏ chức năng trung tâm hành chính của Thủ Thiêm nên khi mở rộng, xây dựng mới trụ sở HĐND, UBND TP.HCM, TP phải tính đến việc bỏ đi tòa nhà dinh Thượng Thơ hàng trăm năm tuổi. Nếu làm trung tâm hành chính ở Thủ Thiêm, kết nối giao thông vào thẳng trung tâm Q.1 theo trục đường Hàm Nghi, thì có thể chỉ sau 1 năm Thủ Thiêm sẽ thay đổi diện mạo. Thủ Thiêm rất có giá trị vì nằm sát trung tâm Q.1 nhưng sai lầm là việc kết nối giao thông lại nằm ở rìa hết”, kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn phân tích.




Bà Phạm Thị Vinh, bị khuyết tật, bên căn nhà tạm bợ, suốt 17 năm nay vẫn còn khiếu nại
ẢNH: NGỌC LÊ


Cũng theo ông Sơn, việc TP.HCM điều chỉnh hạ chiều cao công trình ở Thủ Thiêm là “không hợp lý”. “Thủ Thiêm là đô thị mới, đúng ra phải xem là nơi có thể phát triển không giới hạn chiều cao nhằm giảm mật độ xây dựng, tăng mảng xanh. Thủ Thiêm là vùng đất thấp, nếu xây cao thì chỉ cần làm móng sâu, về giải pháp kiến trúc công trình là không khó. Đằng này quy hoạch điều chỉnh lại làm ngược lại, đó là khống chế chiều cao nhưng lại cho phát triển dàn hàng ngang (tăng diện tích đất ở, giảm số tầng cao tối thiểu xuống chỉ còn 4 tầng, trong khi QĐ 367 là cao ốc 30 tầng - PV). Đây là một điều bất lợi, bởi bê tông hóa Thủ Thiêm thì nguy cơ gây ngập lụt là rất lớn”, ông Sơn phân tích thêm.

Cho đến thời điểm này, qua các đợt điều chỉnh quy hoạch, TP.HCM đã di dời, giải tỏa hơn 12.000 hộ dân trên địa bàn 5 phường: Thủ Thiêm, An Lợi Đông (giải tỏa trắng), An Khánh (gần như giải tỏa trắng), Bình Khánh và Bình An (giải tỏa một phần). Dù số tiền TP.HCM đổ ra đầu tư đã lên đến gần 30.000 tỉ đồng, nhưng diện mạo Thủ Thiêm chủ yếu vẫn là những bãi đất trống rộng lớn; dân cư thì tương phản giữa một bên là một số dự án nhà ở cao cấp được xây mới và một bên là những căn nhà cũ nát, tạm bợ của người dân Thủ Thiêm vẫn còn bám trụ tại nơi ở cũ của mình...
“Mình giải tỏa rồi có khu đất đẹp nhưng cứ để trống thì người dân có được lợi gì đâu. Ngân sách có được hưởng lợi? Đến nay sau 22 năm triển khai quy hoạch, chỉ nghe thông tin TP.HCM cứ chi tiền ngân sách trả lãi vay ngân hàng để đầu tư cho Thủ Thiêm, chứ chưa nghe công khai là thu được gì. Mà ngân sách cũng là tiền thuế của người dân. Cần phải có một sự cải cách chiến lược, nếu không thì e là sau 10 năm nữa diện mạo Thủ Thiêm có thể cũng vẫn cứ vậy”, kiến trúc sư Ngô Viết Nam Sơn nói.


Địa phương thay thế cả quyết định của Thủ tướng thì dưới gầm trời này chưa thấy bao giờ
TS Lê Hồng Sơn, nguyên Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản - Bộ Tư pháp, đã thốt lên như vậy khi đề cập đến hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm.
Thưa TS, trong dự án Thủ Thiêm, QĐ 367 của Thủ tướng sau đó đã được thay thế bởi QĐ 6565 của UBND TP.HCM phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung, điều này có hợp lý?
Phê duyệt quy hoạch Thủ Thiêm là thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ, còn UBND TP.HCM chỉ là nơi thực thi quy hoạch đó. Về nội dung, thể thức của QĐ 6565 tôi cho rằng có rất nhiều vấn đề cần phải làm rõ. Thứ nhất, Thủ tướng đã phê duyệt cái chung, cái tổng thể rồi giao cho địa phương phê duyệt cái cục bộ, chi tiết nào đó chứ không thể giao cho địa phương phê duyệt cả quy hoạch chung. Nếu nơi nào cũng làm như thế thì sẽ loạn hết. Thứ hai, tại điều 2 của QĐ 6565 nêu: "Quyết định này thay thế Quyết định 367/TTg ngày 4 tháng 6 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ”, là đã vi phạm nguyên tắc về ban hành văn bản. Văn bản của địa phương thay thế QĐ Thủ tướng thì dưới gầm trời này chưa thấy bao giờ.
Nhưng thưa ông, trong QĐ 6565 của UBND TP.HCM cho rằng cơ sở họ ban hành quyết định là thực hiện theo chỉ đạo của Thủ tướng, tức TP đã được giao quyền?
Tôi đã nghiên cứu kỹ các văn bản liên quan đến Thủ Thiêm. Một trong những căn cứ được nêu trong QĐ 6565 là thực hiện theo Văn bản số 1642 lúc đó do Phó thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký. Nên nhớ đây chỉ mới là văn bản phản ánh thông tin chứ không phải do văn bản của chính Thủ tướng ký. Nếu anh muốn giao cho ai thì phải xác định được căn cứ có được giao hoặc ủy quyền không. Về nguyên tắc cấp trên phê duyệt cái chung, cái tổng thể rồi thì giao địa phương phê duyệt cục bộ. Địa phương chỉ xây dựng, trình và thực hiện theo phê duyệt của cấp trên. Trong sự việc này, tôi cho rằng có nhiều vấn đề dích dắc, thiếu chuẩn mực trong chỉ đạo điều hành, kể cả từ Chính phủ và UBND TP.HCM. Ở đây nhìn về mặt thực tế thấy rằng, QĐ 367 được Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 1996, gần 10 năm sau đó UBND TP.HCM ban hành QĐ 6565 để thay thế, còn việc thu hồi đất của dân diễn ra giai đoạn 2002 - 2003. Vấn đề đặt ra ở đây là việc thu hồi đất đó dựa trên căn cứ pháp lý nào, không thể lấy nội dung theo QĐ từ 2005 để hợp thức hóa cho việc thu hồi đất đai thời điểm trước đó được. Từ những vấn đề trên người dân có quyền nghi ngờ QĐ 367 đã không được thực hiện nghiêm, lố ra trong việc thu hồi đất, rồi có quyền nghi ngờ việc ban hành văn bản điều chỉnh của TP.HCM là để hợp thức hóa cho những việc làm sai.
Để xử lý những vấn đề của người dân Thủ Thiêm hiện nay, theo ông cần làm gì?
Từ góc độ ban hành văn bản quản lý hành chính nhà nước, tôi cho rằng một văn bản sai trái về thẩm quyền, thủ tục trình tự, đồng thời đụng chạm rất lớn đến quyền lợi ích của người dân thì phải xem xét lại trách nhiệm từng khâu đoạn, xem xét trách nhiệm của ai và xử lý, thậm chí phải hủy bỏ chứ không thể nói khơi khơi như vậy.
Rộng hơn, tôi cho rằng cơ quan chức năng cần vào cuộc điều tra những vi phạm ở đây. Nó không chỉ thể hiện sự thiếu nghiêm chuẩn trong quản lý hành chính nhà nước, mà còn có dấu hiệu của lợi ích nhóm, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân bị xâm phạm nghiêm trọng.

Thứ Năm, 12 tháng 4, 2018

Chuyện về “Út trọc” Đinh Ngọc Hệ



Tác giả: theo Fb Lê Hồng Hà
.








Ông “Út trọc” Đinh Ngọc Hệ (tên khác Đinh Ngọc Út) sinh năm 1971, quê xã Khánh An, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Cư trú tại 68/210 Trần Quang Khải, phường Tân Định, quận 1, TP.HCM.


Sở dĩ Út có “hỗn danh” Út Trọc vì đầu… nhẵn thín, không tìm đâu ra một sợi tóc. Út có một biệt danh “Út bộ trưởng”, lý do là muốn gặp được Bộ trưởng một số Bộ thì tìm đến Út là có đường đi.


Út cũng nổi danh… ngông cuồng. Có lần, ở sân bay Đà nẵng, Út yêu cầu… máy bay phải khoan lăn bánh để chờ vì Út đến trễ.




Với quân hàm thượng tá quân đội, Út có đủ điều kiện để quan hệ với cán bộ cao cấp. Cách đây mấy năm, nhà Út có giỗ, những người có mặt đều “thót tim” khi thấy xuất hiện hai anh BCT.


Út chơi thân và liên kết làm ăn với Phùng Quang Hải 319. Út Trọc là chủ tich HĐQT, Tổng GĐ Công ty Đầu tư Thái Sơn có trụ sở tại số 32 Phùng Khắc Khoan, phường Đa Kao, quận 1, TP.HCM.


Là doanh nghiệp đa ngành, nhưng Thái Sơn thời Đinh Ngọc Hệ “nổi” lên nhất trên thương trường là các dự án liên quan đến BOT, BT và cả PPP, với nguồn vốn đầu tư lên đến hàng ngàn tỉ đồng nhưng tiềm ẩn rất nhiều khuất tất về tính chính danh trong liên danh thực hiện dự án. Những dự án Út trúng thầu, tham gia điển hình:


1. Dự án đầu tư xây dựng công trình cầu Việt Trì, Bộ Giao thông vận tải phê duyệt tại Quyết định số 2932/QĐ-BGTVT ngày 25/9/2013 và chính thức khởi công xây dựng ngày 30/11/2013. Tổng vốn đầu tư: 1900,55 tỷ đồng.


2. Dự án đầu tư xây dựng công trình khôi phục, cải tạo Quốc lộ 20 đoạn Km123+105,17 – Km268+000 tỉnh Lâm Đồng theo hình thức hợp đồng BOT kết hợp BT , với chiều dài khoảng 134,64km. Tổng vốn đầu tư: 2451,31 tỷ đồng


3. Dự án nâng cấp và cải tạo Quốc lộ 1A đoạn Nha Trang – Khánh Hòa theo hình thức Trái phiếu Chính phủ; Tổng vốn đầu tư: 10.000 tỷ.


4. Dự án kéo dài và nâng cấp đường cất hạ cánh, đường lăn và sân đỗ máy bay – Cảng hàng không Pleiku. Đã hoàn thành 2015. Vốn đầu tư: 944 tỷ.


5. Tháng 2/2016, Công ty Thái Sơn và Công ty cổ phần tập đoàn Đức Bình (Liên danh Thái Sơn – Đức Bình) đã có tờ trình gửi Bộ Quốc phòng, Bộ GTVT, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xin tham gia đầu tư dự án cảng hàng không Vũng Tàu theo hình thức PPP. (dự án đã hoãn)


6. Tháng 5/2016, Liên danh nhà đầu tư Công ty Thái Sơn – Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 1 (Cienco 1) – Công ty cổ phần tập đoàn Đức Bình – Cái Mép đã đề xuất Thành ủy và UBND TP.HCM xem xét, chấp thuận cho phép được nghiên cứu lập đề xuất dự án đầu tư xây dựng cầu Cát Lái (nối Quận 2, TP.HCM với huyện Nhơn Trạch – Đồng Nai) theo hình thức BOT kết hợp BT. Tổng vốn đầu tư: ~ 5700 tỷ.


7. Tháng 12/2016, UBND TP.HCM còn giao Liên danh Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 1 (Cienco 1) – Công ty Thái Sơn – Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Tuấn Lộc nghiên cứu lập Đề xuất dự án Đầu tư xây dựng cầu Thủ Thiêm 3 và mở rộng, nâng cấp đường Tôn Đản, quận 4 theo hình thức đối tác công – tư (Hợp đồng BT).


8. Ngoài ra, Liên danh Thái Sơn – Đức Bình còn xin tham gia đầu tư vào khu “đất vàng” 621 Phạm Văn Chí. Khu đất 621 Phạm Văn Chí, phường 7, quận 6, TP.HCM có tổng diện tích hơn 230.000 m2, tầng cao xây dựng từ 2 – 30 tầng đã chứng kiến cuộc đua khốc liệt khi có tới 5 công ty xin tham gia đầu tư.


Các công ty luôn “như hình với bóng” với Thái Sơn trong các liên danh đầu tư:


1. Công ty TNHH Sản xuất thương mại dịch vụ Yên Khánh được thành lập từ năm 2005, có trụ sở tại 35-37 Ngô Đức Kế, Phường Bến Nghé, Quận 1, TP Hồ Chí Minh; do Vũ Thị Hoan (sinh năm 1985), có hộ khẩu tại phường Bình An, Quận 2, Tp.HCM, làm Chủ tịch HĐQT. Vốn điều lệ hiện là 1.800 tỷ đồng.


Yên Khánh góp mặt ở loạt các dự án BOT như dự án cầu Hạc Trì, Yên Khánh hợp tác cùng Cienco 1 để đầu tư xây dựng dự án cầu Cổ Chiên có tổng mức đầu tư 2.308 tỷ đồng. Công ty Yên Khánh còn là cổ đông chiến lược của Cienco1 với 28,28% tỷ lệ sở hữu.


2. Công ty cổ phần tập đoàn Đức Bình, thành lập từ năm 2002. Trụ sở Địa chỉ: 20 Lê Lợi, Phường Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Hiện nay vốn điều lệ là 500 tỷ đồng. Đinh Ngọc Hùng, sinh năm 1982, có hộ khẩu thường trú tại Yên Khánh – Ninh Bình.


Cơ cấu cổ đông (đến ngày 18/06/2015): Với tỷ lệ nắm giữ: Đinh Ngọc Hùng 26% (57.200 cổ phần); Đinh Ngọc Liên 45% (99.000 cổ phần); Vũ Thị Hoa (em ruột Vũ Thị Hoan TGĐ cty Yên Khánh) 29% (63.800 cổ phần).


3. Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Tuấn Lộc, thành lập năm 2005. Trụ sở : số 362/14, Đường Ung Văn Khiêm, Phường 25, Quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh. Chủ tịch HĐQT của công ty là Trần Tuấn Lộc, sinh 1983 quên Nam Đàn, Nghệ an. Tháng 7/2017, công ty đã nâng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng.


Với Cienco 4, quyền chi phối đã thuộc về Tuấn Lộc. Cuối năm 2014, Bộ Giao thông vận tải đã thoái toàn bộ 35% cổ phần tại Cienco 4 cho CTCP Đầu tư Xây dựng Tuấn Lộc. Sau giao dịch này, Công ty Tuấn Lộc sở hữu 51,5% cổ phần của Cienco 4. Tuấn Lộc còn là cổ đông lớn nắm giữ 2,89% CII B&R –một công ty hạ tầng khác.


Tháng 3/2015, liên danh Tuấn Lộc – Yên Khánh – BMT – Thắng Lợi – Hoàng An – CII B&R, trong đó Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng Tuấn Lộc là thành viên đứng đầu liên danh (tất cả các thành viên trong liên danh đều là doanh nghiệp tư nhân) đã trúng chỉ định thầu Dự án cao tốc Trung Lương có tổng vốn đầu tư lên đến gần 15.000 tỷ.


Điều đáng quan tâm là các dự án ngàn tỷ giao thông đường bộ, cầu… trên cả nước đều rơi vào tay các công ty này. Các công ty mà khi thành lập các ông bà chủ tuổi mới ngoài… 20(!)


Trở lại câu chuyện Út Trọc.


Út Trọc và Vũ Nhôm có nhiều điểm giống nhau. Cả hai đều không măc áo lính, không được đào tạo vả rèn luyện trong LLVT, mà nghiễm nhiên đeo lon… thượng tá. Phía sau họ là “bóng dáng” của các quan chức, cả trung cấp và cao cấp.


Ai bao che, dung túng cho Út và Vũ sẽ dần được “bóc băng”. Cả hai móc nối, hình thành “nhóm lợi ích” hòng chiếm đoạt công sản, tài nguyên quốc gia. Lợi dụng sơ hở trong chính sách để thâu tóm dự án, mua bán trái phép, chia chác đặc quyền đặc lợi có giá trị lên đến hàng ngàn tỷ đồng.


Dùng tiền để mua chuộc, câu kết ăn chia với những kẻ có chức quyền. Tiền bạc và tham vọng quyền lực đã gắn “nhóm lợi ích” trở thành công cụ và “chống lưng” nhau. Mượn văn bản và các cú phone của kẻ quyền lực cao cấp để làm “lá bùa” đe doạ và chiếm đoạt. Cả Út Trọc và Vũ Nhôm đều là những tay “mafia”.


Cả hai lợi dụng danh dự, uy tín của quân đội và công an để “làm mưa làm gió” từ nam ra bắc, lấy đó làm “khiên” che chắn cho hoạt động sai trái, lũng đoạn kinh tế, phá vỡ những nguyên tắc cơ bản của chính sách xây dựng kinh tế, tổ chức cán bộ.


Đó là hành vi bất chấp pháp luật, phá vỡ những giá trị đạo đức cơ bản trong thương trường và nền tảng luật pháp. Chúng lũng đoạn chính trị, âm mưu “phe nhóm” hòng can dự chính trường…


Ngày 11/10/2017, bế mạc HNTW 6 khoá 12, Tổng Bí thư nói: “Đề nghị từng Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và mọi cán bộ, đảng viên, công chức cần thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, thường xuyên tự soi, tự sửa, tự răn mình, tránh xa những cám dỗ vật chất, tham vọng, tránh đi vào vết xe đổ, để tay nhúng chàm và nếu đã trót ít nhiều nhúng chàm rồi thì sớm tự giác tự gột rửa!”


Đến đây, những ai đã “chống lưng” cho Út Trọc và Vũ Nhôm, chia chác tiền bạc và tham vọng quyền lực, đi ngược với lợi ích của nhà nước và nhân dân nên sớm tự giác “gột rửa” trước khi tổ chức và cơ quan quản lý “gột rửa” giúp mình.

Thứ Hai, 9 tháng 4, 2018

Dân ghét cán bộ – Bi kịch từ đâu?





Tác giả: Hoàng Dân

Nhà báo Lê Thanh Phong viết trên trang cá nhân của mình rằng, bi kịch lớn nhất của quan chức thời nay là không được dân yêu. Không làm thì bị chửi vô tích sự, làm thì bảo mị dân hoặc làm để kiếm ăn. Không có bằng cấp thì bảo ngu dốt, có bằng cấp thì bảo lãnh đạo không cần giáo sư tiến sĩ.

Tôi nghĩ nhận định trên rất đúng. Nếu phân tích ra thì rất nhiều vấn đề để bàn, nhưng trong khuôn khổ bài viết này tôi chỉ nêu ra một vài khía cạnh để lý giải từ đâu và tại sao quan chức thời nay lại không được dân tin yêu và hay bị chửi, bị ghét.

Trước năm 1975, ở Miền Bắc và cả nước thời bao cấp dù cuộc cuộc sống khó khăn, thiếu thốn, gian khổ nhưng người dân vẫn tin vào Đảng, tin vào cán bộ. Bởi lẽ, cán bộ (quan chức) thời đó sống giản dị, trong sạch, ít tham nhũng và đặc biệt là gần gủi, gắn bó với dân.. Công bằng mà nói, thời đó ngay đến cả Chủ tịch, Bí thư tỉnh thậm chí kể cả lãnh đạo cấp trung ương khi đương chức hay về hưu tài sản cũng chỉ là căn nhà tập thể mấy chục mét vuông ở thành phố hay căn nhà cấp 4 ở quê nhà và cái sổ lương.

Nhưng kể từ khi đổi mới tới nay thì hoàn toàn ngược lại. Cán bộ trở nên giàu có, thậm chí là siêu giàu. Cuộc sống của họ tách biệt thậm chí là đối lập với dân và mâu thuẩn bắt đầu nảy sinh. Nạn tham nhũng, lạm quyền, hách dịch, mị dân, độc đoán, nói một đằng làm một nẽo, thất hứa, đạo đức lối sống suy đồi, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải…tràn lan. Nếu trước đây, cán bộ tham nhũng chỉ đếm trên đầu ngón tay, thì ngày nay người thanh liêm, trong sạch khó tìm. Cho nên người dân không còn tin, không yêu cũng là lẽ đương nhiên.

Dân mình xưa nay quen với hình tượng cán bộ kiểu như anh chủ nhiệm “áo nâu bạc màu bay với gió”. Nay thấy giàu có, ở nhà lầu đi xe hơi thì sinh ra nghi ngờ, đố kỵ. Rằng tiền đâu, trong khi lương không đủ sống ?

Ông Nguyễn Trần Nam, Thứ trưởng Bộ Xây dựng nói, nếu chỉ trông vào lương, người nghèo đừng nghĩ đến nhà thu nhập thấp, vì “lương cỡ Bộ trưởng cũng phải 40 năm mới đủ tiền mua”. Vậy tiền đâu mà nhiều quan chức xây biệt phủ, mua xe đẹp, con cái du học ? Chỉ có thể là tham nhũng mà thôi. Thậm chí đến chủ tịch xã cũng xây được biệt thự thì nói gì cấp cao hơn. Cho nên, việc Tổng Thanh tra Chính phủ, Bí thư, Chủ tịch tỉnh, huyện, giám đốc sở, ban ngành… xây biệt phủ cũng không lấy gì làm ngạc nhiên.

Cuộc sống đã thay đổi, kinh tế phát triển, nhu cầu xã hội cũng khác xưa. Lương cán bộ công nhân viên chức lại quá thấp, mỗi lần tăng lương không đủ bù trượt giá. Đói thì đầu gối phải bò, từ đó sinh ra tham nhũng.

Và sở dĩ nạn tham nhũng trở thành quốc nạn cũng do cơ chế thiếu minh bạch, pháp luật có nhiều kẻ hở và xét xử sai phạm không nghiêm.

Đã có quá nhiều vụ việc không minh bạch, không xử lý nghiêm đúng người đúng tội, nói thẳng ra là bao che hoặc xử án theo kiểu “giơ cao đánh khẻ” khiến cho người dân bất bình, mất hết niềm tin vào chế độ. Chẳng hạn như: Những vụ thất thoát hàng ngàn tỷ đồng của các tập đoàn kinh tế, những sai phạm trong việc thu hồi đất biến nông dân thành dân oan, những cái chết oan trong đồn công an không được làm rỏ, những cán bộ dùng nhục hình bức cung gây ra án oan thế kỷ không bị trừng trị, những vụ lợi dụng cổ phần hoá để chia chác tài sản của nhà nước…có vụ nào xử tới nơi tới chốn đâu.

Chuyện cán bộ “bán không trừ thứ gì” và “ăn không trừ thứ gì” không còn là chuyện hiếm mà trở nên phổ biến, đâu đâu cũng có, mọi cấp mọi ngành: Cấp xã, ăn chặn từ gói mì tôm cứu trợ cho đến bò dê ủng hộ người nghèo, bớt xén phần khẩu phần ăn học sinh, rút ruột dự án nông thôn mới, lạm thu quỹ. Từ cấp huyện trở lên thì ăn dự án, bán đất, bán rừng, bán tài nguyên, bảo kê này nọ.…

Tham nhũng quyền lực, chuyện cả nhà, cả họ làm quan ở khắp nơi, cha bổ nhiệm con, chồng bổ nhiệm vợ, anh bổ nhiệm em…

Rồi nạn chạy chức chạy quyền, bằng cấp giả, bài bạc, đánh nhau, ăn mãi lộ, nhận phong bì, chạy án, nhục hình bức cung, quan hệ bất chính, hối lộ tình dục…

Xin lỗi chứ, Cán bộ xây biệt thự, đi ô tô mà nói rằng, tôi liêm khiết, tiền tôi xây nhà là do tôi buôn chổi, nuôi lợn, chạy xe ôm thì ai mà tin cho được. Tướng Công an, đứng đầu cơ quan chống tội phạm của đất nước mà tiếp tay, bảo kê cho tội phạm thì còn gì để nói ? Bí thư một tỉnh mà bổ nhiệm mấy chục người trong gia đình, họ hàng giữ các chức vụ chủ chốt thì sao dân không bất bình cho được ?

Quan chức đã tham nhũng, hoặc dính dáng tới tham nhũng thì nói dân không bao giờ nghe. Nhưng họ cũng không thể sống trong cơ chế thị trường với đồng lương tháng èo ọt mãi được. Không có sự thay đổi cơ chế, không cải cách tiền lương, luật pháp không nghiêm, thiếu dân chủ thì không thay đổi được gì cả.

———-

Nguồn: Tiếng Dân

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

Hoàng Hữu Phước Gửi Thư Cho Tổng Bí Thư Về Những Vấn Đề Liên Quan Đến Tướng Lĩnh Bộ Công An




Hoàng Hữu Phước, MIB

22-02-2018

*********

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc

————

Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 02 năm 2018

Ref. No. CV001/HHP-2018



Kình gửi: Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng

Đồng kính gửi: Đại Tướng Đỗ Bá Tỵ, Phó Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam



V/V: AN NGUY CỦA QUỐC GIA TỪ ĐẠI ÁN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐÔNG Á.



Kính thưa Tổng Bí Thư:

Tôi ký tên dưới đây là Hoàng Hữu Phước, Nghị Sĩ Khóa XIII, kính lời chào trân trọng đến Tổng Bí Thư và kính trình bày nội dung sau có liên quan đến các tướng lĩnh Bộ Công An đối với đại án Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đông Á.

Là người từng được Sở Công An Thành Phố Hồ Chí Minh mời dự tuyển vào Ngành An Ninh Tình Báo(1) ngay khi tôi vừa tốt nghiệp đại học, tôi được nghe giới thiệu rằng lực lượng Công An chính là “thanh bảo kiếm của nhân dân”. Cũng vì vậy, tôi nhận thức rằng thanh bảo kiếm ấy phải luôn hiệu quả ngời sáng trong tuyệt đối bảo vệ an ninh chính trị uy tín uy thế cho quốc gia, mà các lãnh đạo cấp cao điều phối quản lý hoạt động của thanh bảo kiếm ấy không thể bị liệt vào danh sách nhúng chàm của các đôi tượng “thuộc diện nghi vấn” việc có dấu hiệu liên quan đến những khuất tất hoặc bao che cho các thế lực tham nhũng trong các đại án tham nhũng mà gần đây cụ thể là vụ Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đông Á.

Theo thông tin tôi nhận được từ nội bộ Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đông Á, Trung Tướng Trần Văn Vệ, Quyền Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Cảnh Sát, Thủ Trưởng Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Bộ Công An, người lãnh đạo toàn bộ hệ thống điều tra và trại giam, bị cho là người thuộc diện nghi vấn rất cần được Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương nhanh chóng vào cuộc điều tra vì các dấu hiệu “bất thường” sau trong Đại Án Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đông Á:

1) Ông Trần Văn Đình hiện nay đang là thành viên Hội Đồng Quản Trị Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đông Á, là em trai ruột của Trung Tướng Trần Văn Vệ, Quyền Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Cảnh Sát, Thủ Trưởng Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Bộ Công An. Trước khi Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đông Á bị đưa vào diện kiểm soát đặc biệt có một nhân vật có tên Trần Văn…. là anh em của hai Ông Trần Văn Đình và Trần Văn Vệ có một khoản tiền rất lớn ở Ngân Hàng Đông Á và đã nhanh chóng rút ra trước ngày ngân hàng này bị đưa vào diện kiểm soát đặc biệt.

2) Bên cạnh đó Thành Ủy Thành Phố Hồ Chí Minh là cổ đông lớn góp vốn và cử đại diện của Thành Ủy làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Đông Á trong suốt nhiều năm dài. Phó Tổng Giám Đốc Ngân Hàng TMCP Đông Á hiện nay là Ông Nguyễn An lại chính là cháu vợ của Tổng Giám Đốc Trần Phương Bình; Bà Nguyễn Thị Ngọc Vân, Phó Tổng Giám Đốc là em dâu của Ông Trần Phương Bình. Ông Nguyễn Ngọc Trân, người nhiều năm là Giám Đốc Khối Công Nghệ có toàn quyền và có năng lực can thiệp hay chỉnh sửa vào hệ thống của ngân hàng lại chính là em ruột của Bà Nguyễn Thị Ngọc Vân, nghĩa là cùng có quan hệ thân tộc với Ông Trần Phương Bình.

3) Do trong thực tế đã và đang tồn tại các quan hệ “quyền lực” và “mật thiết” nêu trên nên không thể không có các quan ngại rằng ắt sẽ có sự thiên lệch hoặc ngụy tạo chứng cớ để đổ oan cho người vô tội. Vào ngày 30/08/2017 nhận được lời kêu cứu của Công dân Nguyễn Thị Ái Lan qua “Đơn kêu cứu khẩn cấp về việc cơ quan điều tra ép cung người vô tội trong Đại án Ngân hàng TMCP Đông Á” tôi đã chuyển đơn kêu cứu của công dân đến Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Tuy nhiên, theo đơn trình bày của gia đình công dân Nguyễn Thị Ái Lan thì vào chiều tối Thứ tư ngày 27/12/2017 điều tra viên của C46 – Bộ Công An bất thình lình mời công dân Nguyễn Thị Ái Lan khi công dân đang làm việc tại ngân hàng lên gặp và di lý ngay ra Hà Nội tạm giam ngay trong tối ngày 27/12/2017 mà thân nhân không nhận được bất kỳ lệnh tạm giam nào được ký bởi Viện Kiểm Sát. Mãi đến ngày hôm sau Thứ năm 28/12/2017 điều tra viên C46 mới mang thông báo số 565/C46-P10 do Thiếu Tướng Nguyễn Duy Ngọc, Phó Thủ Trưởng Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra ký tên và đóng dấu tại Hà Nội ngày 27/12/2017 thông báo “Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam T16 Bộ Công An”, đến nhà công dân Nguyễn Thị Ái Lan và đồng thời tiến hành khám xét nhà, trong biên bản khám xét ghi rõ “Không tạm giữ đồ vật, tài liệu gì”.



Theo đơn kêu oan của Cha ruột Công dân Nguyễn Thị Ái Lan ký ngày 02 tháng 01 năm 2018 đã có nêu các nội dung quan trọng như:

“Tôi xin đính kèm theo đơn này bản sao lá đơn kêu oan do con gái ruột của tôi là Nguyễn Thị Ái Lan đã ký ngày 30/08/2017 liên quan đến nội dung trích đoạn nguyên văn nêu trên và gửi kèm bản sao thông báo số 565/C46-P10 do Thiếu Tướng Nguyễn Duy Ngọc ký tên và đóng dấu tại Hà Nội ngày 27/12/2017.

“Tất cả các nội dung lý giải được nêu lên trước đây và được trích đăng lập lại như trên cho thấy tuyên bố mang tính khẳng định rằng con gái tôi ‘Đã có hành vi: Cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’ như ghi trong Thông báo số 565/C46-P10 do Thiếu Tướng Nguyễn Duy Ngọc ký tên và đóng dấu tại Hà Nội ngày 27/12/2017 là không chính xác, không đúng luật pháp do khẳng định tội danh khi chưa có phán quyết của tòa án sau quá trình xét xử công khai chính thức, hoàn toàn có nội hàm gây ức chế cho con gái tôi và toàn gia đình chúng tôi, dẫn đến tâm lý chung rằng ắt có sự khống chế buộc con gái tôi phải bị buộc vào trọng tội mà cháu nó không chủ động, cố tình, hay có thẩm quyền phạm phải. ‘Quản lý kinh tế’ chưa bao giờ là phạm trù con gái tôi được phân công quyền hạn phải chịu trách nhiệm bằng giấy trắng mực đen, cũng như chưa bao giờ là phạm vi quyền lực được ghi trong hợp đồng lao động hay thỏa ước lao động, bản miêu tả công việc tại cơ quan, và bản phân công bổ nhiệm mà con gái tôi được trao quyền lực lãnh đạo để liên đới liên can đến nội dung “cố ý làm trái các quy định của nhà nước.

“Vì lý do trên, tôi muốn kêu oan cho con gái tôi là Nguyễn Thị Ái Lan, đòi hỏi cơ quan chức năng phải:

1) Thay đổi nội dung ‘thông báo’, bỏ cụm từ ‘Đã có hành vi: cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’, để thay thế bằng ‘Để điều tra về các hành vi có thể liên quan đến việc các lãnh đạo Ngân hàng TMCP Đông Á đã cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng’ và cấp lại ngay cho gia đình Nguyễn Thị Ái Lan bản thông báo mới này.

2) Trong điều tra phải có tính đến các tình tiết theo nội dung của đơn kêu oan ngày 30-8-2017 mà con gái tôi là Nguyễn Thị Ái Lan đã gửi đến Ông Đại Biểu Quốc Hội Khóa XIII Hoàng Hữu Phước và ông Đại biểu này đã chuyển đến Tổng Bí Thứ Nguyễn Phú Trọng yêu cầu xem xét. (Bản sao đơn kêu oan ký ngày 30-8-2017 cũng được đính kèm theo thư này).”



Theo các thông tin được công khai bởi cơ quan truyền thông báo chí, trước đây, Thanh tra Bộ Công an đã tiến hành điều tra Đại Tá Trần Văn Vệ, nguyên Giám Đốc Công An Tỉnh Thái Bình, do có đơn tố cáo của Báo Người Cao Tuổi (2), mà báo đã nêu rằng

“Trong 11 vấn đề xác minh kết luận đều không lí giải cụ thể song vội công khai xác nhận: ‘Không đúng bản chất sự việc, mang tính suy diễn cá nhân và gán ghép trách nhiệm cho ông Vệ’. Điều này đoàn xác minh Thanh tra Bộ Công an cố tình bao che cho những sai phạm về trách nhiệm của ông Vệ. Trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và quy định của pháp luật đã xác lập người đứng đầu các tổ chức, đơn vị, địa phương phải chịu trách nhiệm về những sai phạm xảy ra tại tổ chức, đơn vị, địa phương mình quản lí.

“Là Giám Đốc Công An quản lí trật tự an ninh chính trị như ông Vệ lại để mặc cho tội phạm hoành hành, bỏ lọt tội phạm, phá phách rừng ngập mặn, thi công công trình kém chất lượng gây hậu quả nghiêm trọng, tệ nạn xã hội, tham nhũng tràn lan… như 11 vấn đề đã nêu chẳng lẽ ông Vệ không phải chịu liên đới trách nhiệm?

“Rõ ràng, đó chỉ là quan điểm riêng của Đoàn xác minh chứ không phải là quan điểm của lãnh đạo Bộ Công An? Vụ án tham nhũng gần 600 triệu đồng tại Hội VHNT Thái Bình, tội phạm Trịnh Trung Thông phải lĩnh 3 năm án tù là một minh chứng phản ánh đúng bản chất vụ việc. Nếu ông Vệ không chuyển về Bộ Công an thì vụ án này chắc chắn ‘chìm xuồng’. Đáng tiếc, trước những bằng chứng và lí luận xác đáng của Báo Người Cao Tuổi, nhà báo Nguyễn Trọng Thắng trong buổi đối thoại tại Trụ sở Công An tỉnh Thái Bình, Thiếu tướng Nguyễn Thế Báu, Chánh Thanh tra Bộ Công an (nay đã về hưu) mềm mỏng vỗ về chia tay nhà báo:‘Thôi, bác là đàn anh, bác rộng lượng tha thứ cho chú Vệ’.

“Về tình người, về cá nhân quả lời khuyên giải của ông Báu là nhân ái, nhưng đối với Đảng ta, chế độ ta, nhân dân ta thì không thể tha thứ cho loại cán bộ thoái hóa biến chất ‘leo cao, chui sâu’ vào bộ máy công quyền như trường hợp tướng Trần Văn Vệ.”



Vì vậy, có thể nói phía sau những dấu hiệu “bất thường”, những “quan hệ quyền lực chằng chịt” của Đại Án Ngân Hàng TMCP Đông Á là sự an nguy của Quốc Gia trong đại cuộc Phòng Chống Tham Nhũng đặc biệt khi lãnh đạo cấp cao của Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra lại có quan hệ thân tộc với lãnh đạo cấp cao của Ngân Hàng TMCP Đông Á.



Với tư cách là Đại Biểu Quốc Hội Khóa XIII tôi kính đề nghị Ủy Ban Kiêm Tra Trung Ương tiến hành điều tra làm rõ các vấn đề trên. Ngoài ra, để tránh việc gia đình công dân Nguyễn Thị Ái Lan lo sợ do tác động của các dèm pha “ngoại lai” có nội dung tiêu cực như bức cung, nhục hình hoặc thậm chí thủ tiêu nhân chứng, tôi kính đề nghị ngay lập tức thay đổi biện pháp “tạm giam” hiện nay thành biện pháp “cho tại ngoại điều tra đối với công dân Nguyễn Thị Ái Lan” để tránh việc tạm giam và gây oan sai cho người vô tội và thay đổi nội dung “thông báo”, bỏ cụm từ “Đã có hành vi: cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, để thay thế bằng “Để điều tra về các hành vi có thể liên quan đến việc các lãnh đạo Ngân hàng TMCP Đông Á đã cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và cấp lại ngay cho gia đình Nguyễn Thị Ái Lan bản thông báo mới này mà gia đình đã hoàn toàn đúng khi nêu lên các khúc mắc trên.



Do tại Thành Phố Hồ Chí Minh tôi không thể tin tưởng vào bất kỳ lãnh đạo nào của Đảng và Chính Quyền(3) hay Mặt Trận(4) kể cả Ban Dân Nguyện Quốc Hội (5), tôi xin kính gởi thư này đến Tổng Bí Thư để nêu lên ý kiến quan ngại của cá nhân tôi đối với tiền đồ tổ quốc, đồng thời làm tròn bổn phận một Nghị Sĩ của Khóa XIII với nhân dân.



Trân trọng kính chào,

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế, Nghị Sĩ Khóa XIII

Tham khảo:

(1) Hoàng Hữu Phước và Ngành An Ninh Tình Báo: Tôi Và Ngành An Ninh Tình Báo

(2) Nội dung tố cáo của Báo Người Cao Tuổi: http://me.phununet.com/wiki-news/dien-bien-vu-to-cao-nguyen-gd-cong-an-thai-binh-tran-van-ve/5c-3404sc-578312n.html

(3) Đảng và Chính Quyền Thành Phố Hồ Chí Minh: Nguyễn Thị Quyết Tâm

(4) Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam: Thư Gởi Chủ Tịch Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Trần Thanh Mẫn

(5) Ban Dân Nguyện Quốc Hội: Thư Gởi Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân

Hồ sơ đính kèm:

1) Đơn Cha Ruột Kêu Oan Cho Con Gái Là Nguyễn Thị Ái Lan “Trong Đại Án Ngân Hàng TMCP Đông Á do Ông Nguyễn Tường ký ngày 02/01/2018.

2) Thông báo số 565/C46-P10 do Thiếu Tướng Nguyễn Duy Ngọc- Phó Thủ Trưởng Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra ký ngày 27/12/2017 tại Hà Nội.

3) Đơn Kêu Cứu Khẩn Cấp Về Việc Cơ Quan Điều Tra Ép Cung Người Vô Tội Trong “Đại Án Ngân Hàng TMCP Đông Á” do Công Dân Nguyễn Thị Ái Lan ký ngày 30/08/2017.

Chủ Nhật, 11 tháng 2, 2018

Đặc quyền quan cách mạng



Tác giả: nhà báo Nguyễn Thông








Thiên hạ đang ồn ào về cái dự án nghĩa trang Yên Trung dành cho quan chức cấp cao định mở ở ngoại thành Hà Nội. Rộng hơn trăm mẫu tây, dự chi ngân sách tròm trèm 1.400 tỉ đồng.
Lâu nay, nhà cầm quyền đã tự mặc định chỗ chôn ông to bà lớn ở nghĩa trang Mai Dịch. Nhắc tới cái tên này, một thời đồng nghĩa với sự kính cẩn, khiếp sợ, “nội bất xuất, ngoại bất nhập” bởi đất vàng chỉ dành cho một hạng người nhất định. Nhưng rồi Mai Dịch, phần thì chật chội hết chỗ, phần kém thiêng, nên nhà nước đang tính phải có nơi thay thế, “cho ngày nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau”.


Nếu ai còn chút lăn tăn, giở từ điển tiếng Việt thì từ “đặc quyền” được giải thích là “quyền, quyền lợi đặc biệt dành cho cá nhân, tập đoàn, hay một giai cấp nhất định”. Muốn tin cậy hơn nữa, bởi đây là từ gốc Hán Việt, thì mở thêm cuốn “Từ điển Hán Việt” của cụ học giả Đào Duy Anh thì đặc quyền tức “quyền lợi đặc biệt”. Thế là rõ.


Trong xã hội loài người, xét về lý thuyết, chỉ khi nào tiến lên tới hình thái cộng sản, khi ấy mọi người đều bình đẳng, thì mới hết đặc quyền. Ấy, cứ nghe bộ máy cai trị dóng dả tuyên truyền vậy chứ đã ai biết cái xã hội cộng sản nó mặt ngang mũi dọc thế nào. Giá có sống lâu như cụ Bành Tổ cũng chả mong nhìn thấy thiên đường “cùng làm cùng hưởng, bình quân chia đều”. Câu này thế hệ chúng tôi sinh vào thập niên 50 thế kỷ trước đứa nào cũng thuộc, khoái lắm, nhiều đứa còn mơ mộng sau một đêm ngủ dậy, ngỡ ngàng thấy sự nghèo đói đã lùi xa tít tắp, ngay cả ăn ngon mặc đẹp cũng không thèm, chả cần làm gì vẫn có ăn. Xã hội cộng sản là thế, chỉ nghĩ tới người đã tràn cảm giác lâng lâng.


Lại nhớ câu thơ trong bài thơ “Hoa và rượu” nổi tiếng một thời, trước cách mạng tháng 8.1945, của thi sĩ tài danh Nguyễn Bính: “Chao ôi là mộng hay là thực/Là thực hay là mộng bấy lâu?”. Xã hội xứ ta suốt gần nửa thế kỷ nay, nếu kể luôn ở cả miền Bắc trước đó hơn 20 năm nữa thì những ¾ thế kỷ, cứ lẫn lộn mộng và thực, thực và mộng. Với người này thì là mộng, nhưng với kẻ kia lại là thực. Xã hội cộng sản không đến cùng lúc cho tất cả mọi người, dân chúng lại càng không được léo hánh tới nó, nhưng trên thực tế nó đã vào nhà không ít quan cách mạng. Oái oăm trớ trêu ở chỗ, những anh ra rả tuyên ngôn về xã hội không còn đặc quyền đặc lợi, bình đẳng thì lại chính là những anh đặc quyền đặc lợi nhất, đòi hỏi riêng tư có từ trong máu, và đã được hưởng cuộc sống thiên đường trước hết.


Thời chiến tranh, người dân dễ mủi lòng trước hình ảnh cán bộ 3 cùng, quần xà lỏn, gối đất nằm sương, chia bùi sẻ ngọt với dân. Dân chở che, đùm bọc họ bởi dân thấy những con người ấy gần gũi, bình đẳng, không có sự ngăn cách, đáng tin cậy. Bao nhiêu sinh mệnh, máu xương, của cái tiền bạc, cả vật chất lẫn tinh thần gom cả lại đi cùng họ, cùng nhau hướng về một xã hội bình đẳng, không còn bất công, một thế giới đại đồng. Cứ hy sinh đi, rồi sau này “bao nhiêu quyền lợi ắt qua tay mình”. Những người cộng sản từng nói rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Họ thường nói sai, nhưng câu này thì hoàn toàn đúng. Không có dân, không có thể chế này.


Nhưng khi cùng hưởng thụ thành quả thì bắt đầu sinh chuyện.


*Đặc quyền quan cách mạng


Tối 6.2, tôi coi tivi nhà nước thấy cảnh ông Võ Văn Thưởng, yếu nhân phụ trách mảng văn hóa tư tưởng của đảng cầm quyền (họ gọi là tuyên giáo) đi thăm 2 lực lượng quan trọng lúc này: Bộ Tư lệnh tác chiến không gian mạng (của quân đội) và Cục An ninh mạng (của công an). Ông này thì tôi biết tương đối rõ bởi hồi là người đứng đầu Trung ương Đoàn ông không để lại được dấu ấn, ấn tượng gì cho đám lính lác chúng tôi. Giờ may mắn làm tuyên giáo, ông phải ăn nói như bất cứ anh tuyên giáo nào. Ông ca ngợi này nọ. Ông làm nhiệm vụ bảo vệ đảng của ông.


Tôi biên điều ấy ra để nói rằng người ta thấm nhuần ý thức “đẹp tốt phô ra, xấu xa đậy lại”, chả bao giờ tự phơi bày cái xấu của chính họ. Bệnh đặc quyền quan cách mạng là một thói xấu, thậm xấu, có bề dày lịch sử, ông Thưởng biết mà không thể nói, nhưng chúng ta cần chỉ ra cho mọi người thấy, cũng để những người như ông Thưởng biết rằng chẳng có gì giấu được mãi.


Đa số những người cộng sản mắc chứng nói một đằng, làm một nẻo. Thế gian này, nếu tất cả mọi điều như chính người cộng sản nói thì đẹp vô cùng. Các quan hệ xã hội, cách đối nhân xử thế, nếu cứ theo họ tuyên bố, thì mọi thể chế, hình thái xã hội khác đều phải bái phục, vác bút nghiên đến mà học mệt nghỉ.


Như cuối bài phần 1 tôi đã ghi, họ lôi kéo quần chúng nhân dân đứng lên làm cách mạng, làm cuộc lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới, với nhiều hứa hẹn hấp dẫn, kiểu như dựng lên xã hội công bằng, dân chủ, bình đẳng, không phân biệt đối xử, không ngăn cách phân chia tầng lớp, ai cũng hưởng quyền lợi như ai. Tuy nhiên đến khi có thành quả, đáng lẽ cùng hưởng thụ thì bắt đầu sinh chuyện.


Tôi lớn lên ở miền Bắc sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, dần dà tận mắt chứng kiến, cảm nhận cụ thể những mâu thuẫn giữa lý luận, lý thuyết với thực tế. Đội ngũ quan chức cách mạng đặc quyền hình thành, ngày càng đông, lúc đầu chỉ ở cấp trung ương, sau như nạn dịch lan tới tỉnh thành, huyện, xã. Một ông bạn tôi bỏ thành phố về sống ở nông thôn cũng đã lâu, bảo rằng hình như bây giờ chỉ có trưởng thôn còn trong sạch, bởi đơn giản là anh ta chưa có điều kiện cần và đủ để được coi là quan, chứ đám quan xã, chưa cần kể tới quan huyện còn gớm hơn bọn lý trưởng, chánh hội thời anh Pha chị Dậu.


Quan hư, nguyên nhân sâu xa là thể chế hư hỏng. Thể chế chính sách hư ngay cả trong thời chiến tranh, nghèo khó, khi đất nước khó khăn nhất, cái kim sợi chỉ, hột muối giọt dầu cũng thiếu thốn, đáng nhẽ cần thể hiện sự công bằng nhất thì nhà nước lại công khai chia bôi quyền lợi theo kiểu đặc quyền đặc lợi. Một mặt thì tuyên truyền đề cao giai cấp công nông, bốc người cần lao lên tận mây xanh, nhưng mặt khác so đo tính toán với dân từng xu từng hào, giành giật về cho cán bộ không bao giờ chịu thua kém. Thời ấy lan truyền câu thành ngữ đúc kết nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã hội: “Xẻng cuốc từ dưới lên, đường sữa từ trên xuống”, nghĩa là dân chỉ có quyền làm việc, “lao động là vinh quang”; còn quyền hưởng thụ đương nhiên của cán bộ. Điều ai cũng thấy, họ phân chia các loại tem phiếu, cán bộ càng cao hưởng thụ càng nhiều, dân đen luôn ở mức thấp nhất. Phiếu thực phẩm, dân thành phố mỗi tháng được 5 lạng thịt, có ô phiếu định lượng chỉ 20 gam (miếng thịt to bằng 10 viên thuốc cảm), vài ký đậu phụ, còn nông dân hoàn toàn không có chút nào cả thịt lẫn đậu, trong khi đó cán bộ trung ương được cao gấp 10 lần dân phố về tiêu chuẩn thịt, đường sữa thì thoải mái, nhu yếu phẩm khác dồi dào, xài chẳng hết đem tuồn ra chợ đen, kiếm khoản chênh lệch không nhỏ. Người Hà Nội thời bao cấp chả mấy ai không biết những cửa hàng thực phẩm, bách hóa dành cho cán bộ có đặc quyền đặc lợi như Tông Đản, Nhà Thờ dù mình không bao giờ được bén mảng tới. Câu ca “Tông Đản là của vua quan/Nhà Thờ là của trung gian nịnh thần/Đồng Xuân là của thương nhân/Vỉa hè là của nhân dân anh hùng” ghi lại một quãng lịch sử xã hội đầy bất công ngang trái do chính những người cộng sản chế tạo.


Tiện nói về tem phiếu, ngay cả phiếu vải cũng đầy tính đặc lợi. Cùng chịu chung thời tiết nóng lạnh, cơ thể na ná nhau, nhưng vải lụa cho cán bộ cứ phải phiếu hạng 5 mét, 7 mét tiêu chuẩn/người, đủ loại vải tốt vải bền, nào ốc pho, sơ vi ốt, pô pơ lin, si mi li, sa tanh, còn dân chỉ 3 mét 6 một năm, đủ may một bộ, cũng chỉ quanh đi quẩn lại diềm bâu, chéo go, phin thô, kaki Nam Định… Trời rét, cán bộ được phân phối chăn len chăn dạ, áo đại cán ka ki, chứ dân may lắm chỉ kiếm được tấm mền sợi mỏng, áo sợi dệt kim Đông Xuân cổ lọ ngoài chợ vỉa hè. Ngay cái áo may ô 3 lỗ cũng từng là tiêu chuẩn đánh giá sự “giàu có” của con người, “một yêu anh có may ô”, thật hài hước và bi kịch.


Trung ương tự đặt ra quy định tiêu chuẩn dùng xe, cỡ nào được ngự trên Volga (mà ngay cả Volga cũng phân biệt, ai xe đen, ai xe trắng hoặc màu khác), cỡ nào cho đi Moskvic, Lada. Làng tôi có ông Phòng làm lái xe cho cán bộ trung ương, nghe đâu là ông Lê Thanh Nghị, có lần đưa sếp về Phòng công tác, tranh thủ chạy chiếc Volga đen về qua nhà, cả làng nhìn ngưỡng mộ lòi con mắt, chỉ dính tới Volga cũng đã oách thế rồi.


Cán bộ to đi xe ô tô, cán bộ thấp dùng xe đạp (được nhà nước phân phối), dân quanh năm chỉ diện xe cá nhân, mà họ gọi là xe “căng hải” (nói lái từ chữ hai cẳng, cẳng tức là chân). Đẳng cấp đặc quyền đặc lợi được mặc nhiên xem như chính sách, bất công từ miếng ăn miếng uống, tấm áo manh quần, tới chiếc xe đi lại. Dân được hứa hẹn “có độc lập tự do thì có tất cả” nhưng thực ra chả có gì.


Thời thập niên 80 trở về trước, vừa trải qua cuộc chiến tranh kéo dài mấy chục năm, thiệt hại vật chất không biết bao nhiêu mà kể, miền Bắc dù thắng cuộc nhưng gần như chỉ còn cái xác. Những anh cả anh hai Liên Xô, Trung Quốc thấy Việt Nam thắng được Mỹ có vẻ vênh váo nên cũng ghét, cắt dần viện trợ. Tôi còn nhớ những năm 76-77 chi đó, báo Nhân Dân hãnh diện ca ngợi sức mạnh quân sự của Việt Nam giờ đây mạnh nhất khu vực, riêng hải quân có thể đứng đầu châu Á bởi thu được của hải quân Việt Nam cộng hòa (mà họ gọi là ngụy) cơ man tàu chiến hiện đại, đó là chưa kể đám quân dưới quyền đề đốc Chung Tấn Cang đã lấy không ít chiếc để chạy trốn, chứ nếu không hải quân ta sẽ vào nhóm mạnh nhất địa cầu. Cứ như cách mô tả của tờ báo lớn này thì so với tàu chiến lợi phẩm của ta, tàu dạng Hải Ưng (trong một bộ phim Trung Quốc tôi xem thời niên thiếu) chỉ là con muỗi so với đại bàng. Liên Xô cũng giảm viện trợ và bắt đầu đòi nợ, khi “bạn chí cốt trên tuyến đầu chống Mỹ” chưa có tiền trả thì lấy bằng phương tiện chiến tranh do Mỹ bỏ lại, vơ bèo vạt tép, gom cả hạt điều, tiêu, cà phê, cao su, quần áo may sẵn…, lấy tất. Dùng máu người Việt ngăn được Mỹ rồi, thế là xong nhiệm vụ quốc tế, không cần giúp theo tình hữu nghị anh em nữa. Mỹ thì ngày càng cấm vận gắt gao. Người tài bỏ nước đi từng đàn dù biết có thể bỏ mạng trên hành trình gian khổ. Đất nước vì vậy càng xơ xác, kiệt quệ. Chính ông Nguyễn Văn Linh tại đại hội 6 của đảng cầm quyền cũng phải thừa nhận tình hình đang trên bờ vực.


Thực tế là vậy, nhưng tư duy đặc quyền đặc lợi đã ngấm vào máu cán bộ mất rồi. Sau bao năm chiến tranh gian khổ, giờ phải là lúc được tận hưởng, chia phần. Không thế, ai thèm dấn thân làm cách mạng. Ngay cả những vị từng nếm mật nằm gai, vào sinh ra tử, cùng sống chết với dân, ngọt bùi chia sớt “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” thời chống Pháp, chống Mỹ cũng ngày càng chễm trệ như ông lớn. Ra đường phải ngựa ngựa xe xe, đến công sở đòi bàn này ghế nọ. Một mặt họ tuyên truyền ca ngợi tấm gương lão thực, giản dị, tiết kiệm của cụ Hồ, kêu gọi dân hãy noi gương cụ, mặt khác họ lên chương trình, kế hoạch chia bôi, giành phần cho cá nhân. Họ mặc nhiên coi đó là chủ trương của đảng, của nhà nước, chứ mình trong sạch, vô can. Dân có thắc mắc lăn tăn điều gì, cứ tìm hiểu chính sách của đảng và nhà nước. Mà dân chúng an phận, ngại đụng đến chính sách (bởi bao tấm gương tày liếp đang đếm kiến trong tù còn sờ sờ ra kia) nên cán bộ cứ ung dung hưởng lợi. Dần dà, đặc quyền đặc lợi trở thành nếp, anh nào nhảy vào bộ máy cai trị cũng nghiễm nhiên ngồi “chiếu hoa cạp điều” vênh váo với làng nước.


Chính sách đặc quyền đặc lợi đã làm hư hỏng cán bộ. Tấm gương “đày tớ trung thành phục vụ nhân dân” xưa rồi. Cha làm quan, phải cố dọn đường lôi con cháu vào kế nghiệp chốn quan trường. Nếu chúng tài hèn sức mọn thì đã có cửa chạy chọt mua danh bán tước. Câu kết với nhau, anh lo con tôi, tôi lo cho con anh vào mỗi kỳ cơ cấu, bầu bán, sắp xếp nhân sự. Làm ông nọ bà kia, nếu không được hưởng hơn thiên hạ thì tranh đoạt làm gì. Hơn nhau là hơn ở căn nhà, chiếc xe, lương lậu bổng lộc do chế độ ban phát, không hơn thì thà ở nhà đuổi gà cho vợ. Cứ như thế, đích phấn đấu là những ân thưởng đặc quyền đặc lợi chứ chả phải tổ quốc nhân dân gì sất.


Điều lố bịch nhất là bộ máy cai trị không cần giấu diếm những hành vi vơ vét của họ. Họ nhân danh quốc hội, chính phủ ra những nghị quyết, nghị định quy định đẳng cấp cán bộ được hưởng đặc quyền đặc lợi, coi như luật. Chẳng hạn với cái quyết định số 32/2015 của thủ tướng chính phủ về xe công, họ tự cho phép cán bộ nào được xài xe mấy trăm triệu, cán bộ nào xe tiền tỉ, cán bộ nào xe vô giá. Thậm chí họ còn tùy tiện tới mức ngay cả người đã nghỉ làm việc rồi cũng được hưởng đặc quyền đặc lợi vĩnh viễn, suốt đời. Ví dụ điều 3 nêu rõ: “Các chức danh được sử dụng thường xuyên một xe ô tô, kể cả sau khi đã nghỉ công tác, không quy định mức giá cụ thể: 1. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. 2. Chủ tịch nước. 3. Thủ tướng Chính phủ. 4. Chủ tịch Quốc hội”. Cứ theo như họ cắt nghĩa thì đó là sự biết ơn, đền đáp, có trước có sau, uống nước nhớ nguồn… Thế chả nhẽ những vị ấy khi đương chức đương quyền làm việc không công chắc. Ngồi ghế cao, giữ chức to thì ắt lương cao, bổng lộc nhiều, chức càng thấp thì lương bổng phụ cấp ít theo, không giữ chức gì thì chỉ làm công ăn lương theo giờ, theo sản phẩm, theo hợp đồng. Nông dân có việc của nông dân, thủ tướng có việc của thủ tướng. Không ai đáng trọng hơn ai. Xã hội đã mặc định như vậy, không để ai phải thiệt. Còn làm việc thì còn được trả công. Không làm thì thôi. Sự công bằng là ở đó. Cớ đâu lại tự định ra phép đặc quyền ban phát này nọ. Xin nhớ rằng, tất cả những khoản chi đó đều từ ngân sách, tức là tiền thuế, tiền mồ hôi nước mắt của dân.


Khách quan mà nói không phải tất cả cán bộ đều xấu, đều đặc quyền đặc lợi. Có những người tốt, rất tốt, có nhân cách, tự trọng, không hùa theo đám đông hư hỏng. Họ biết từ chối đặc quyền đặc lợi bởi hiểu rằng như thế là vô lý, là chiếm đoạt quyền lợi của dân. Đơn cử như luật sư Trần Quốc Thuận, chồng bà Võ Thị Thắng. Ông Thuận có lẽ là vị lãnh đạo cấp cao có nhân cách nhất trong bộ máy tồn tại bấy nay. Khi còn đương chức Phó chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội, ông Thuận dứt khoát ủng hộ chủ trương khoán xe công, tự gương mẫu bắt xe ôm hoặc taxi đi làm. Nhiều người khen ngợi nhưng cũng không ít kẻ dè bỉu, nhất là những anh thấy bị động chạm đến quyền lợi. Nhưng tiếc thay, ông Thuận như một anh Đông Ki Sốt đơn độc, không phá nổi cái bờ tường bảo thủ đặc quyền đặc lợi được trung ương đổ bê tông vững chắc. Quốc hội đã bao nhiêu lần đưa việc khoán xe công, thuê nhà công vụ lên bàn nghị sự, cuối cùng đâu vẫn vào đó, ném đá ao bèo. Quốc hội còn thua, cá nhân ông Thuận ăn nhằm gì.


Một người nữa, chính tôi gặp và trò chuyện nhiều lần. Đó là cụ Lê Quang Ngoạn, bác ruột của chị dâu tôi, bố vợ của bạn đồng nghiệp tôi. Cụ Ngoạn tham gia kháng chiến chống Pháp, thời những năm 70-80 đóng hàm đại tá, giữ chức Cục trưởng Cục Cảnh sát bảo vệ (ngang cỡ thiếu tướng bây giờ). Cụ liêm khiết, tự trọng, nhất định không dùng xe công đưa đón, hằng ngày đi bộ đến nơi làm việc. Sinh thời, có lần cụ tâm sự, mình từ chối đặc lợi chứ không phải quyền lợi. Quyền lợi thì mình hưởng. Mình xứng đáng đến đâu thì hưởng đến ấy, không tham lam, không giành phần của người khác, nhất là tài sản của nhân dân, do nhân dân tạo nên.


Những người như cụ Ngoạn, như luật sư Thuận không nhiều. Như con thiên nga trắng giữa bầy quạ đen. Cứ nhìn vào đội ngũ cán bộ là có thể đánh giá được bản chất xã hội. Bao giờ tỷ lệ phải lật ngược lại thì xã hội mới trở nên tốt đẹp.


Nhà thì đòi nhà to (có những căn nhà, biệt thự tịch thu của sĩ quan, công chức chế độ cũ, cấp cho cán bộ, khi chủ nhân mới bán thu vài nghìn cây vàng), xe đắt tiền, chế độ ăn uống đặc biệt, bác sĩ riêng săn sóc sức khỏe, mua sắm cũng cửa hàng riêng, ốm đau bệnh viện riêng, nghỉ hưu vẫn cố bám lấy quyền lợi đặc biệt, dứt khoát không chịu nhả những gì đã hưởng, khi chết còn đòi mộ to sinh phần lớn nghĩa trang hoành tráng… Tất cả những thứ ấy có vẻ tạo nên một tầng lớp thượng lưu nhưng thực chất nó là cái tổ mối khổng lồ khiến con đê có thể vỡ bất cứ lúc nào.


Đáng buồn cười nhất là bộ máy thể chế này mồm leo lẻo nói không đặc quyền đặc lợi nhưng chẳng ai chịu nhả những phần hà lạm mồ hôi nước mắt của dân. Giá như họ đừng nói thì đã đi một nhẽ.


Chán, chả muốn biên nữa.
Nguyễn Thông

Thứ Bảy, 13 tháng 1, 2018

Bắt ông Vũ Nhôm khó hơn bắt ông Đinh La Thăng- vì sao?





Tác giả: Nhà báo Hoàng Hải Vân, nguyên Tổng Thư ký Tòa soạn báo Thanh Niên

.

Vụ Đinh La Thăng và những sai phạm tày đình tại Tập đoàn Dầu khí là cái giá phải trả cho sự chậm trễ của quá trình tự do hóa nền kinh tế theo định hướng của đường lối Đổi Mới.

Trong hình ảnh có thể có: 2 người, mọi người đang đứng

Nó hoàn toàn không phải là “mặt trái” của kinh tế thị trường mà là sự nửa vời của kinh tế thị trường được duy trì một cách có chủ đích dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Nhóm lợi ích này lợi dụng “vai trò chủ đạo” của kinh tế nhà nước, sự lỏng lẻo của cơ chế quản lý tài sản công, được sự dung túng của những người có quyền lực không bị kiểm soát. Khi pháp quyền được lập lại, quyền lực được kiểm soát thì nhóm lợi ích này, dù đương chức hay đã về hưu, cũng khó mà thoát khỏi sự điều chỉnh của luật pháp.

Đối với trường hợp của Vũ nhôm thì phức tạp hơn nhiều. Suốt 15 năm anh ta làm mưa làm gió ở Đà Nẵng và nhiều nơi khác, nhưng không ai dám động đến anh ta. Từ một người kinh doanh nhỏ (làm nhôm), anh ta nhanh chóng trở thành cánh tay đắc lực của ông Nguyễn Bá Thanh trong những “phi vụ” đặc biệt, rồi lũng đoạn cả cơ quan Thành ủy và chính quyền thành phố, thâu tóm đất đai công sản, rồi đột nhiên trở thành một sĩ quan cao cấp (điều này không ai dám nói công khai, cho đến khi Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Trương Quang Nghĩa chính thức công bố anh ta là một thượng tá) và dùng tư cách đó đi dọa người khác để tích lũy tài sản.

Điều lạ lùng nhất là anh ta đã khống chế hầu như toàn bộ các cơ quan truyền thông chính thống lớn và phần lớn các địa chỉ đông người theo dõi nhất trên mạng xã hội. Cả “lề phải” lẫn “lề trái” đều không dám động đến anh ta. Ai gây bất lợi cho anh ta đều bị anh ta làm cho điêu đứng. Hiệu lực dập tắt thông tin bất lợi cho anh ta đối với truyền thông còn mạnh hơn là hiệu lực chỉ đạo của Ban Tuyên giáo. Tôi không tin là lãnh đạo các cơ quan truyền thông lớn bị anh ta mua chuộc, nhưng điều chắc chắn là có không ít các nhà báo đã bị anh ta biến thành công cụ hoặc bị anh ta khống chế làm cho sợ hãi. Theo tôi được biết thì có cả một số bộ trưởng và một số vị tướng công an cũng sợ thế lực của anh ta.

Thế lực bảo kê cho anh ta lớn đến cỡ nào, hàng rào bảo kê cho anh ta dày dặc tới đâu, chắc chắn sẽ được làm rõ trong quá trình điều tra sau khi anh ta bị bắt.

Khi cơ quan an ninh tiến hành điều tra tình trạng vi phạm pháp luật của các dự án của anh ta và hàng chục công sản ở vị trí đắc địa mà thành phố Đà Nẵng bán cho anh ta với giá rẻ mạt không qua đấu giá, tôi đã từng cảnh báo trên trang facebook này, rằng những người trong cuộc và đối tượng bị điều tra, trong đó có anh ta, đều phải được bảo vệ để tránh bị diệt khẩu. Nhưng anh ta đã được tạo điều kiện trốn ra nước ngoài sau khi rút gần hết vốn tại các dự án ngay trước khi lệnh khởi tố được thực hiện. Việc bắt được anh ta chỉ là do ngẫu nhiên may mắn.

Đối với những kẻ bảo kê cho anh ta, việc tạo điều kiện cho anh ta chạy trốn chắc chắn sẽ bị quy trách nhiệm. Nhưng tôi đồ rằng, trách nhiệm của ai đó trong việc để cho anh ta chạy trốn sẽ nhẹ hơn rất nhiều so với trách nhiệm của ai đó phải chịu từ những gì mà anh ta sẽ khai ra về những kẻ bảo kê khi anh ta bị bắt. Bởi vì, nếu như anh ta chạy trốn thì phần lớn vụ án sẽ bị kéo dài, có thể kéo dài đến hết nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Tôi không biết những kẻ bảo kê cho anh ta có tính toán như vậy hay không, điều này phải đợi đến sau khi kết thúc điều tra mới có thể biết được.

Đó là lý do nói rằng việc bắt ông Vũ nhôm còn khó hơn là bắt cựu Ủy viên Bộ Chính trị Đinh La Thăng.

Điều đáng mừng là lực lượng trung kiên chính trực trong Bộ Công an hiện đang ở thế thượng phong.

Thứ Bảy, 9 tháng 12, 2017

Nhân vụ Đinh La Thăng, bàn về chống tham nhũng



BẮC THANG LÊN HỎI ÔNG TRỜI
ĐẢNG LUẬT LÀ GÌ ÔNG HỠI ÔNG ƠI !
THẰNG NGU ĐÓI RÁCH TƠI BỜI
CHỈ CẦN VÀO ĐẢNG LÀ ĐỜI LÊN HƯƠNG

Nhân vụ Đinh La Thăng, bàn về chống tham nhũng

Thế là cuối cùng con cá bự Đinh La Thăng cũng bị tóm, điều mà mọi người mong chờ cả năm nay. Câu hỏi đặt ra là tại sao chậm đến vậy? Để trả lời cho sự chậm chạp này thì nó liên quan đến vấn đề vai trò của pháp luật trong đất nước này.

Như ta biết sự chồng chéo Đảng Luật và Pháp luật nó làm nên sự chậm trễ này. Đảng luật thì bao che, xử lý nhẹ nhưng lại đứng trên pháp luật nên dễ dàng vô hiệu hóa Pháp luật. Đấy là nguyên nhân chính tội tham nhũng nấp kỹ trong Đảng nhờ Đảng luật che chắn thì sẽ an toàn và tiến lên cao hơn trong bộ máy chính quyền để tàn phá đất nước này. Để đất nước phát triển thì phải thượng tôn pháp luật, nghĩa là dẹp Đảng luật. Nếu không thì đất nước này không bao giờ giảm được nạn tham nhũng.

Tội của Đinh La Thăng gây ra trong thời kì ông ta nắm PVN từ 2005-2011 có dính dáng tới 12 dự án làm thất thoát 63.734 tỷ đồng (theo nhà báo Huy Đức), tức gần 3 tỷ đô la. Có thể kể ra như sau: Bột Giấy phương Nam 3.000 tỷ, Đạm Ninh Bình 12.000 tỷ, Gang Thép Thái Nguyên giai đoạn hai 8.100 tỷ, Etanol Phú Thọ 2.500 tỷ, Etanol Dung Quất 2.100 tỷ, Etanol Bình Phước 1.700 tỷ, công ty công nghiệp tàu thủy Dung Quốc 5.095 tỷ, PVTex Đình Vũ 7.000 tỷ, Đạm Hà Bắc 11.000 tỷ, DAP Lào Cai 5.170 tỷ, DAP Đình Vũ 2.764 tỷ, công ty TNHH khoáng sản và luyện kim Việt Trung 3.300 tỷ. Liệt kê thấy chóng mặt, vụ nào cũng như cái núi, thế mà tháng 8 năm 2011 ông Thăng bước vào nắm Bộ GTVT cho đến tháng 4 năm 2016, trong nhiệm kỳ làm bộ trưởng Bộ GTVT ông này tiếp tục gây ra cái ung nhọt BOT hút máu dân như chúng ta thấy. Chưa hết, năm 2016 ông ta còn chui vào BCT và làm đến bí thư thành ủy Sài Gòn.


Như vậy suốt thời gian rất dài từ 2005 đến 2017 là 12 năm ông này cứ làm nơi nào cũng là tham nhũng, lãng phí gây thất thoát tiền thuế dân đến đấy vậy mà cứ lên chức mãi cho đến hôm nay mới bị bắt. Hàng tỷ đô la tiền mồ hôi nước mắt của dân bị ném qua cửa sổ không thương tiếc và hàng núi nợ công đổ lên đầu dân bằng đủ thứ sưu cao thuế nặng. Mầm họa cứ lớn mạnh sống khỏe mà chẳng ai động chạm vào được trong suốt hơn một thập kỷ thì đất nước nào còn nữa? Dân đóng thuế 100 đồng, quan chức đem vứt 99 đồng rồi còn một đồng chia nhau bỏ túi, còn đất nước thì chẳng còn gì. Trong khi đó nếu một nhà nước trong sạch thì dân đóng 100 đồng thì số tiền đó quay lại đầu tư phúc lợi cho người dân.

Hãy xem tham nhũng của xứ người ta như thế nào và ta cùng bàn luận đến cái ung nhọt tham nhũng của Việt Nam nó kinh khủng như thế nào. Chuyện là thế này, năm 2011 ông Barry O’Farell tranh cử chức thủ hiến bang New South Wales – Úc và thắng cử. Lúc đó một doanh nhân tên Di Girolamo có tặng chai rượu vang hiệu Penfolds Grange Hermitage đời 1959 trị giá 2.780 đô. Năm 2014, nhân viên ủy ban độc lập điều tra tham nhũng (ICAC) hỏi ông Barry O’Farell về món quà này và ông chối. Khi nhân viên này trưng ra lá thư cảm ơn của ngài thủ hiến gởi doanh nhân Di Girolamo thì ông thừa nhận trí nhớ mình kém và xin từ chức.

Chúng ta xem giá trị tham nhũng của ông Barry O’Farrell và ông Đinh La Thăng chênh nhau bao nhiêu lần? Số tiền mà ông Đinh La Thăng làm thất thoát lên đến gần 3 tỷ đô, gấp 1 triệu lần món quà ông Barry O’Farell đã nhận. Chỉ món quà chưa tới 3 ngàn đô đã bị loại khỏi bộ máy nhà nước . Nước Úc, một nước xây dựng bộ máy nhà nước tự làm sạch bằng thể chế tam quyền phân lập đã diệt trừ tham nhũng từ lúc manh nha nên chính quyền họ rất sạch. Tiền thuế dân đóng cho chính phủ sẽ được dành ra một phần trả lương cho bộ máy nhà nước và phần còn lại sẽ được đầu tư phúc lợi cho người dân. Còn ở Việt Nam thì sao? Tham nhũng ung dung vừa tham nhũng vừa phá phách tiền thuế dân mà vẫn lên chức trong hàng chục năm để từ thằng tham nhũng vặt thành tên tham nhũng khủng tàn phá đất nước chẳng còn gì cả.

Tham nhũng trong hàng chục năm mới bị tóm, mà từ lúc kết luận sai phạm đến lúc bị tóm đến hơn 7 tháng. Thực sự những sai phạm của quan chức là do có những kẻ có quyền thật lớn gật đầu thì báo chí mới dám nói, chứ bình thường chẳng báo nào dám tự ý nói bừa cả. Trong chính quyền này ai sạch?

Lương thủ tướng chỉ 600 USD/tháng thì lấy đâu ra nhà xe con cái du học? Như vậy tham nhũng là vấn nạn đất nước này, nó chiếm 100% quan chức chứ chẳng ai sạch cả. Có điều là kẻ ăn ít hay ăn nhiều chứ không bao giờ có kẻ không ăn.

Kỳ này ông tổng bí thư bắt Đinh La Thăng là một điều đáng khen. Những kẻ tàn phá đất nước phải bị trừng trị không khoan nhượng. Hôm nay Đinh La Thăng thì khi nào tới Nguyễn Tấn Dũng? Đấy là câu hỏi mà mọi người đặt ra với ĐCS, ý dân rất rõ xem như đó là cái phao mà ĐCS nên nắm bắt để làm gì đó nhằm vớt vát lại chút danh dự vì đã quá bệ rạc trong mắt nhân dân.

Còn về người dân chúng ta thì cũng chớ vội mừng vì vụ này. Chúng ta cần quan chức không tham nhũng chứ không phải để tham nhũng khủng rồi mới bị bắt, mà bắt thì thu lại cho đất nước được mấy đồng? Chúng ta cần đất nước được xây dựng chứ không phải bị tàn phá, để tàn phá rồi mới bắt thì đất nước cũng đã nát rồi.

Tham nhũng vốn là vấn đề của thể chế này, lãnh đạo chỉ tồn tại một thời gian ngắn trong khi thể chế tồn tại lâu dài hơn. Việc người dân cần là thể chế sạch chứ không phải một thời điểm ngắn ngủi nào đó lãnh đạo hành động quyết liệt là đủ.

Đỗ Ngà

Thứ Sáu, 8 tháng 12, 2017

AI LÀ NGƯỜI BAO CHE CHO ĐINH LA THĂNG?





Khi còn giữ chức Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, ông Đinh La Thăng từng nhận trách nhiệm về việc bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng vào chức Cục trưởng Cục hàng hải Việt Nam.

“Với tư cách Bí thư Ban cán sự, Bộ trưởng Bộ GTVT, tôi xin nhận trách nhiệm về việc này. Đó là chưa thực sự sâu sát trong việc đánh giá, quản lý cán bộ, còn nóng vội trong thời điểm bổ nhiệm... chúng tôi xin được rút kinh nghiệm sâu sắc và kiểm điểm hết sức nghiêm túc," ông Thăng phát biểu trước Quốc hội vào ngày 14/06/2012.


Ông Dương Chí Dũng, Nguyên Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) bị tuyên án tử hình về tội tham ô, 28 năm tù về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trong phiên xử sơ thẩm ngày 16/12/2013.

Đinh La Thăng vốn được ngài cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ưu ái cất nhắc từ vị trí của một anh kế toán Thủy điện Sông Đà lên đến chức Bộ trưởng Bộ GTVT và Vinalines cũng là đơn vị không chỉ thuộc Bộ GTVT mà còn dưới sự lãnh đạo trực tiếp của VP Thủ tướng trong thời gian ông Nguyễn Tấn Dũng đương chức.

Hy vọng trong phiên tòa xét xử ĐINH LA THĂNG sẽ không còn việc bỏ " lọt người, lọt tội' như đã từng xãy ra với phiên tòa xét xử DƯƠNG CHÍ DŨNG


Thứ Ba, 14 tháng 11, 2017

Thư ngỏ gửi thanh tra và công an Hà Nội về sự vụ Đồng Tâm




Nguyễn Đình Ấm




Qua 4 tháng từ khi các vị công bố KLTT đến nay ngay sau khi có phát biểu của ĐBQH Dương Trung Quốc, Phó chánh TTHN Nguyễn An Huy lại dùng ngay tờ báo “của nhà” (Hà Nội Mới ngày 3/11/2017) để làm rối thông tin?
Kính gửi: Thanh tra, công an thành phố Hà Nội
Tôi là Nguyễn Đình Ấm, trú tại phường Gia Thụy, quân Long Biên Hà Nội.
Điện thoại: 0913364940
Nay tôi có mấy ý kiến gửi lãnh đạo và hai cơ quan thanh tra, công an Hà Nội như sau:
Thưa các vị, trong vụ Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức Hà Nội) tôi đã theo dõi thông tin từ nhiều phía, khảo sát thực địa, trao đổi rộng rãi với dân Đồng Tâm (ĐT) nên có hiểu biết cơ bản về vụ việc, nay xin chân thành gửi tới các vị mấy ý kiến mong mang lại tác dụng tốt nào đó cho các phía.
-Về thanh tra Hà Nội:
Tôi đã đọc hai bản kết luận thanh tra của các vị đối chiếu với thực tế thì thấy: Dù sự việc vô cùng đơn giản nhưng có vẻ các vị cố tình “phức tạp hóa” tình hình để làm “rối trí người đọc” đúng như kiến trúc sư Trần Thanh Vân nói trong thư ngỏ gửi chủ tịch HN Nguyễn Đức Chung.
Sự việc chỉ đơn giản thế này: Quyết định 113 TTg ngày 14/4/1980 của Phó thủ tướng Đỗ Mười ký giao cho Bộ Quốc phòng 208 ha đất để làm sân bay Miếu Môn trong đó chỉ có 47,36 ha thuộc xã Đồng Tâm.
Quyết định rất rõ ràng, có thống kê diện tích, số tiền bồi thường cho 3 loại đất là 150.312 đ (xem ảnh). Tôi đã xem quyết định này rất kỹ, ngoài 47,36 ha không có diện tích nào khác ở Đồng Tâm được thu hồi, bồi thường theo luật định khi đó.
Vậy nay TTHN cứ đo đạc (có sự giám sát của đại diện dân ĐT) lấy đúng 47,36 ha ở Đồng Tâm cho Viettel chứ làm sao phải lằng nhằng?
Hôm tôi về ĐT cụ Kình và dân ĐT khẳng định chính thiếu tá Nguyễn Văn Sơn và đội cảnh vệ D31 thường xuyên tuần tra vẫn quản lý đủ 47,36 ha thuộc xã Đồng Tâm, quân dân vui vẻ không có thắc mắc gì.
Thậm chí khi đi qua 59 ha đất nông nghiệp liền kề của dân ĐT họ vẫn “xin phép” dân. Đặc biệt, cái gốc của vấn đề là 47,36 ha tại sao các vị không hề căn cứ vào đó mà chỉ thấy đưa những thông tin không liên quan gì vào bản kết luận như hơn 30 ha “tăng do thi công, đồng chí Vũ Hồng Khanh ký này nọ, rồi đất chỗ nọ, chỗ kia ở huyện Chưng Mỹ, dân ĐT khiếu nại việc tham nhũng của 14 cán bộ đã được giải quyết…” không liên quan gì, dân không hề thắc mắc mà chỉ quan tâm đến 47,36 ha ở xã Đồng Tâm sao thành phố lại lấy hết cả cánh đồng Sênh?
Cần khẳng định rằng dù những năm qua lãnh đạo TP Hà Nội có lấy khoản đất nào ở ĐT thì cũng phải theo luật đất đai,phải bồi thường, dân phải biết chứ! Nếu các vị làm đúng thì tại sao trong quá trình thanh tra, kết luận TTHN không hề họp trao đổi, tranh luận với dân để họ “tâm phục, khẩu phục”mà hôm 7/7/2017 công bố dự thảo KLTT ở trụ sở huyện chỉ cho vài người lên dự và hạn chế họ phát biểu?
Qua 4 tháng từ khi các vị công bố KLTT đến nay ngay sau khi có phát biểu của ĐBQH Dương Trung Quốc, Phó chánh TTHN Nguyễn An Huy lại dùng ngay tờ báo “của nhà” (Hà Nội Mới ngày 3/11/2017) để làm rối thông tin?
Hôm 4/11 tôi về ĐT, dân đang bàn tán bài báo, họ rất bức xúc nói “ghê tởm” sự man trá, lì lợm của TTHN... Sẽ đến lúc dân yêu cầu các vị đo đạc lấy đúng 47,36 ha ở ĐT và... xong!
Theo tôi, nếu Thành phố có chủ trương lấy bằng được ngoài số đất 47,36 ha chính phủ giao cho Bộ Quốc phòng của dân ĐT (hành vi hôm 15/4 thể hiện rõ điều này) thì các lãnh đạo thành phố và các vị cùng phải chịu trách nhiệm hậu quả.
Ngược lại, vì lý do nào đó các vị cố tình kết luận sai, lừa cấp trên để họ đi vào con đường thất đức, mạt vận thì tội nặng hơn.
- Về công an Hà Nội (CAHN):
- Từ năm 2016 CAHN đã làm những việc trái chức năng của ngành công an khi dùng lực lượng vũ trang để khống chế dân cho DN Viettel xây công trình trên đất tranh chấp chưa ngã ngũ(biểu hiện là đến tháng 6/2017 TTHN mới thanh tra, tức cánh đồng Sênh chưa rõ ràng là thuộc đất nông nghiệp hay đất đã thu hồi định làm sân bay năm 1980).
Như vậy là CAHN sử dụng lực lượng vũ trang của nhân dân một cách tùy tiện.Công an có chức năng bảo vệ an ninh trật tự xã hội chứ không phải mang súng đạn đứng về một bên nào đó trong tranh chấp dân sự, đất đai.
- Việc ngày 15/4/2017 ba sĩ quan quân đội và đội cảnh sát, an ninh CAHN mời dân ra đồng Sênh “kiểm tra mốc giới” khi đến mốc 15- 20thì nổ súng uy hiếp, trung tá Trần Thanh Tùng phó CA huyện Mỹ Đức đá cụ Kình văng 2m rồi cùng “côn đồ mặc quần bò, áo thun” xốc nách cụ đưa lên ô tô khóa tay, bịt miệng đồng thời bắt 4 người nữa chở lên Hà Nội thẩm vấn, tra khảo…
Việc này được 4 cụ trên 70 tuổi dân ĐT, 4 người bị bắt cóc và nhiều người dân khác chứng kiến, khẳng định nhưng trong cuộc họp quốc hội ngày 7/11/2017 ông Đào Thanh Hải phó giám đốc CA Hà nội ngang nhiên tuyên bố cụ Kình bị gẫy chân do các con cháu cụ giằng co...
Vậy các ông lấy gì làm bằng chứng trong kết luận này? Clip của an ninh quay ở hiện trường hôm đó sao không đem ra chứng minh?
Dân cho biết hôm ấy thấy người bên công an ghi hình.Ở cả các đám ma người thân của người bất đồng chính kiến còn luôn có nhân viên quay clip theo dõi thì vụ được tính toán kỹ như vụ này không thể không có ghi hình.
Con cháu nào của cụ có mặt lúc đó khi sĩ quan quân đội, công an, “côn đồ” yêu cầu mọi người phải về hết riêng anh Công con cụ Kình và 3 người trẻ ở gần đó thì đã bị bắt rồi? Ông Hải nói công an lập đoàn kiểm tra do một thứ trưởng bộ CA làm trưởng đoàn thì thấy công an HN “làm đúng quy trình pháp luật”...
Vậy ông Thứ trưởng kia là ai?
Thanh tra vụ việc có hai bên tham gia sao không hề gặp bên dân ĐT, không gặp người bị gẫy chân để xác minh mà lại kết luận được? Lừa dân ra đồng để xác định mốc giới nhưng không “xác định” mà lại dùng vũ lực bắt, đánh cụ già 82 tuổi, khóa tay, bịt miệng đưa lên Hà Nội thẩm vấn mà lại gọi là “đúng pháp luật” à?
Ngay sau khi cụ Kình bị đánh gẫy chân dư luận đã kịch liệt lên án công an HN nhưng qua hơn 6 tháng Đại tá Đào Thanh Hải mới công bố lý do, phải chăng kịch bản “gãy chân do giằng co” khó sáng tác quá nên hoàn thành quá chậm như ý đại biểu QH Dương Trung Quốc nói? Người nào nói mà biết không ai tin nhưng cứ nói là người không có lòng tự trọng.
- Theo dõi quá trình diễn ra vụ việc, đọc các tường trình của nhiều CSCĐ do dân ĐT cầm giữ và nhận định chung, hôm 15/4/2017 công an HN và cục điều tra hình sự Bộ Quốc phòng thực hiện một cuộc “đánh úp” dân ĐT, bắt, thủ tiêu cụ Kình (người đứng đầu cuộc đấu tranh đang giữ nhiều tài liệu quan trọng) để dập tắt cuộc đấu tranh của họ.
Theo cụ Kình thì sở dĩ công an không dám để cụ chết như kế hoạch vì tung tích người bắt cụ đã bị lộ (do các CSCĐ người biết rõ vụ việc đang nằm trong tay dân trong đó có cả trung tá Trần Thanh Tùng người trực tiếp đánh cụ gẫy chân), nhiều nhân viên y tế ở bệnh viện 108, Việt Đức rất cảm phục biết cụ không thể chết yêu cầu phải cứu chữa. Nếu không cứu để cụ chết công an HN sẽ gặp chút rắc rối.
Ngoài ra, việc 38 CBCS chịu ở lại với dân làm con tin khiến kịch bản kiểu ở Văn Giang, Đoàn Văn Vươn (Tiên Lãng Hải phòng)của chính quyền HN, Bộ Quốc phòng mới tạm thời bị phá sản.
Thực tế khẳng định, cách hành xử của các vị (thanh tra, quân đội, công an) với dân ĐT thời gian qua mang tính chất cường quyền.
- Công an HN khởi tố dân ĐT với tội danh “bắt giữ người trái pháp luật, hủy hoại tài sản” là không chính xác. Vì tôi đọc các bản tường trình của các CSCĐ và hình ảnh ghi lại hôm các CSCĐ từ biệt bà con ra về thì chính xác phải là “phòng vệ chính đáng” của dân ĐT. Việc dân xịt lốp các xe ô tô cảnh sát rồi trông coi đề phòng kẻ gian trộm xe mang đi không phải là “hủy hoại tài sản”.
- Cụ Kình bị gẫy xương chân, rạn xương chậu hôm 15/4/2017 dù công an HN có đánh cụ hay không thì các vị vẫn phải chịu trách nhiệm, bởi vì cụ đang xác định mốc giới theo yêu cầu của công an và quân đội tại sao công an lại bắt cóc cụ để xẩy ra sự “giằng co”?
Từ đây tôi xin chân thành có ý kiến với các vị như sau:
- Nếu xét các hành vi diễn ra trong thời gian qua thì lẽ phải cả tình và lý thuộc về dân ĐT.
- Dân ĐT rất cao thượng, nghĩa hiệp, nghĩa tình, biết rõ cái khó của chính quyền nếu thực thi pháp luật nghiêm chỉnh và họ muốn giúp đỡ chính quyền chứ không muốn căng thẳng.
- Dân ĐT xác định những kẻ bất chấp sự thật, không cần chứng cứ định chiếm đoạt đồng Sênh bằng vũ lực là nhóm lợi ích tham nhũng, “giặc nội xâm” nên sẽ chống trả bằng bất kỳ giá nào. Chính 14 quan chức xã ĐT và huyện Mỹ Đức phải hầu tòa hồi tháng 8/2017 là kết quả đấu tranh của dân ĐT và “nhóm đồng thuận”. Họ quyết tâm chống tham nhũng theo hiệu triệu của đảng CS, giữ đất nông nghiệp đồng Sênh, giữ gìn phẩm giá dân làng, không có sức mạnh bạo lực nào làm họ run sợ.
- Nếu chính quyền HN vẫn không chịu gặp gỡ đối thoại, đưa ra chứng cứ thuyết phục họ mà cứ áp dụng vũ lực với dân ĐT thì sẽ dẫn đến thiệt hại mọi mặt chưa thể lường hết cho dân, chính quyền và cả đảng CSVN. Họ xác định: Nếu ai chết trong cuộc này thì cả làng sẽ làm giỗ hết đời này qua đời khác, bàn thờ, cổng làng sẽ mãi mãi ghi tên những kẻ gây ra thảm họa.
Hiện tại dù trung tá Trần Thanh Tùng đánh cụ Kình tàn phế bị giữ làm con tin đến ngày cuối cùng mà vẫn an toàn, vô can nhưng dân Đồng Tâm không bao giờ quên tội ác của anh ta với cụ Kình.
- Thời gian qua, dù bất cứ ai đụng vào CA cũng phải nhận những hình phạt nghiệt ngã nhưng tại sao ngày càng nhiều người không sợ chống lại công an rất dã man, sỉ vả cán bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ rất thảm hại trước công chúng dù có khi họ chỉ có lỗi nhẹ?
Tôi khuyên các vị lãnh đạo như đại tá Đào Thanh Hải hãy tôn trọng sự thật, tôn trọng nhân dân làm gương để cấp dưới của mình noi theo thì công việc của họ mới được dễ dàng, an toàn, được dân quý mến.
Những vụ như “giơ tay trúng má,chân giơ hơi cao, giằng co gẫy chân”,… sẽ khiến cán bộ, chiến sĩ thấy dù có hành vi sai trái, tàn bạo đến đâu cũng vẫn an toàn thì họ sẽ “phát huy thành tích” dẫn đến hình ảnh công an trong mắt dân rất xấu.
Hiện tượng này cùng với ngày càng nhiều dân “thích tự tử” trong đồn công an, những cảnh công an đàn áp dã man những người nông dân còm cõi lấy đất của họ để làm giàu cho đại gia, quan chức,… càng tạo nên ấn tượng tồi tệ trong dân chúng với ngành công an dù tôi biết nhiều người “là công an nhưng mà tốt”.
Thật đau xót khi có cán bộ chiến sĩ công an bị tổn thất dư luận lại hoan hỉ và ngày càng có nhiều người bên ngoài không muốn làm dâu, rể công an.
Vài lời chân thành với các vị thanh tra và công an HN, rất mong đem lại được điều tốt đẹp nào đó cho cả các phía và xã hội trong vụ Đồng Tâm.





HN ngày 13/11/2017

Thứ Bảy, 4 tháng 11, 2017

Hồ Chủ Tịch Tử Hình Cán Bộ Cao Cấp Tham Nhũng






Năm 1950, Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu bị tử hình. Chúng ta đều đã được biết qua các bài báo của nhà báo Hồng Hà (nguyên phóng viên báo Cứu Quốc), nhà báo Lưu Vinh… Qua đó, tác giả đã cho thấy sự trừng phạt nghiêm khắc của Hồ Chủ tịch đối với tội tham nhũng.

Tuy nhiên, đó mới chỉ là tình tiết về sau của vụ án. Còn diễn biến điều tra bước đầu của vụ tham nhũng này được thực hiện ra sao, thì chưa có tài liệu nào nói tới. Vị đại tá Cục truởng Cục Quân pháp Trước đây, trong một lần đến thăm bà Nguyễn Kim Nữ Hạnh, trưởng nữ của cố Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Văn Huyên (1905-1975), bà có cung cấp một tư liệu rất thú vị. Đó là lời kể của cụ Phạm Trinh Cán (Chánh Văn phòng Bộ Giáo dục từ tháng 4/1953) về cố Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, tháng 3/1990. Nhưng trước khi về Bộ Giáo dục, cụ Phạm Trinh Cán nguyên là Đại tá, Cục trưởng Cục Quân pháp nên cụ nắm rõ quá trình tham gia điều tra ban đầu vụ Trần Dụ Châu. Bà Nữ Hạnh căn dặn: “Tôi tặng em để em sử dụng trên báo chí, có thể đưa vào mục những tư liệu mới được phát hiện”.

Cụ Phạm Trinh Cán sinh năm 1912, nguyên quán xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Gia đình có khả năng kinh tế nên cụ được học hết bậc Trung học. Dẫu có bằng Tú tài, cụ tự nhận là vẫn thấy mình còn dốt và rất muốn học thêm lên đại học. Học đại học thì phải tự túc nên vừa học khoa Luật trường Đại học Đông Dương cụ vừa đi dạy tư tại trường Trung học Tư thục Thăng Long cùng với các giáo sư Hoàng Minh Giám, Đặng Thai Mai, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp...

Cách mạng Tháng Tám 1945, cụ Phạm Trinh Cán tham gia khởi nghĩa và được cử làm Phó Chủ tịch UBND lâm thời tỉnh Quy Nhơn (nay là Bình Định). Cụ được phong hàm đại tá đợt đầu tiên (năm 1948) và đã trải qua các chức vụ: Phó Cục trưởng rồi Cục trưởng Cục Quân pháp – Bộ Quốc phòng, Chánh Văn phòng Bộ Tổng tham mưu kiêm Chánh án Tòa án binh khu Trung ương, Phó Văn phòng rồi Chánh Văn phòng Bộ Giáo dục, Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ (nay là Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội). Năm 1973 cụ Phạm Trinh Cán về nghỉ hưu. Cụ mất năm 2003 tại Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi.

Vụ án Trần Dụ Châu Sinh thời, cụ Phạm Trinh Cán từng kể diễn biến vụ việc xảy ra từ năm 1949 đến mùa hè năm 1950 như sau:

Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu, hoạt động trước Cách mạng Tháng Tám. Cục Quân nhu có nhiệm vụ lo ăn, mặc, thuốc men của quân đội. Quần áo cho quân đội, thuốc men trong nội thành ta chưa sản xuất được nên đơn vị quân nhu đóng ở Thái Nguyên ra vào thành cho dễ. Cục phó là Phạm Toàn, cốt cán cục Quân nhu là Lê Sĩ Cửu – trưởng phòng tiếp liệu (thuốc, giấy pơ-luya, máy chữ...).

Bấy giờ hoàn cảnh rất khó khăn. Về gạo ăn, mới kháng chiến nên anh em quân nhu chưa có kinh nghiệm bảo quản tốt, kho cất gạo dùng bồ, ẩm thấp nên mục nát nhiều. Lúc bấy giờ, Cục Quân chính do ông Phan Tử Lăng làm Cục trưởng và Cục Quân pháp do ông Phạm Trinh Cán làm Cục trưởng - cùng đóng chung cơ quan ở Thái Nguyên, tổng cộng đến 30 người. Gạo lĩnh về không dám vo mạnh, chỉ rửa qua suối để về nấu ăn. Vì vo kỹ thì gạo sẽ tan biến theo nước.

Để chống đói, bộ đội phải lấy măng rừng làm thức ăn, còn quân đội chủ lực phải ăn cháo để truy kích địch. Về cái mặc, mỗi người một áo trấn thủ và tấm “chăn kháng chiến” chỉ có một lượt bông rất mỏng. Có chiến sĩ không có chăn, không có áo, đứng gác trên đèo phong phanh vải mỏng. Thuốc men thiếu thốn, nhất là thuốc sốt rét, qui-na-cơ-rin cũng không đủ chữa bệnh sốt rét dùng trong quân y. Vì thế uống qui-na-cơ-rin phải pha vào nước, chỉ có tác dụng tinh thần chứ chữa bệnh sốt rét rất hạn chế. - Anh em đều thấm thía cảnh khổ, rồi than phiền, oán trách Cục Quân nhu làm không tròn nhiệm vụ. - Cụ chậm rãi - Càng oán trách hơn khi nghe ba thằng cha Châu, Cửu, Toàn sống sa hoa lắm. Chúng ăn toàn thứ ngon, rượu Tây, đường sữa, sô-cô-la trong Thành mang ra...

Đặc biệt nổi đình đám là đám cưới linh đình của Cửu làm xôn xao cả vùng Thái Nguyên! Bộ đội và nhân dân công phẫn. Chuyện đến tai Bộ Quốc phòng và Trung ương Đảng. Một hôm, anh Trần Tử Bình – Thiếu tướng, Phó cục trưởng Cục Thanh tra quân đội - tìm tôi, hỏi: “Anh nghe tin tức gì về vụ Châu không?”. Tôi trả lời: “Tôi có nghe. Bộ đội công phẫn lắm”. Xong, anh Bình nói với tôi về chỉ thị của Trung ương Đảng: “Ta phải mở cuộc điều tra về vụ này. Chỉ thị này tối mật. Ngoài mấy ông Trung ương, chỉ có tôi và anh biết. Nếu để lộ, Trần Dụ Châu mà dinh-tê vào thành thì chúng mình mất đầu”. (Vì Châu nắm vững nơi đóng quân, quân số, người chỉ huy, chính ủy... các đơn vị toàn quân). Rồi anh Bình giao nhiệm vụ: “Anh tiến hành cuộc điều tra này”.(Phải mở ngoặc nói thêm, những vụ phạm pháp mức độ nào có thể là xử lý trong nội bộ thì Cục Thanh tra giải quyết. Nếu nặng thì chuyển sang Quân pháp).

Thế là tôi cử 1, 2 anh rất tâm phúc nghe ngóng tình hình Cục Quân nhu. Điều tra sơ bộ xong, anh em về báo cáo lên Trung ương. Sau khi được nghe báo cáo, anh Trần Tử Bình có hỏi tôi: “Theo điều tra sơ bộ như vậy, có thể truy tố ra Tòa án binh không?”. Tôi đã nói rằng: “Đáng truy tố theo tội trạng như vậy. Nhưng cần tiếp tục điều tra nữa để có thêm tài liệu, dẫn chứng cụ thể, để căn cứ mà kết tội”.

Ông Phạm Trinh Cán kể thêm: “Khi xử vụ Trần Dụ Châu, bắt Toàn trước, Cửu sau. Trước khi điều tra vụ Châu, Bộ Tổng tư lệnh cho bắt Phạm Toàn để lấy lời khai. Tạm giam Toàn để lấy khẩu cung tại nhà dân, giao cho bộ đội canh giữ. Tôi trực tiếp hỏi về vụ bê bối của Cục Quân nhu. Đêm ấy, Toàn tự tử bằng cách lấy cắp lựu đạn, mở chốt, úp mặt cho nổ. Cửu cho bắt trước khi bắt Châu. Người ký giấy bắt Cửu, Toàn là tôi. Giam cạnh nhà đơn vị Cục Quân pháp đóng. Mấy ngày sau, Cửu cũng tự tử bằng cách bẻ que nứa cắt mạch máu cổ tay”.

Đến thời gian này thì Bộ Quốc phòng tổ chức lại. Sang năm 1950, ông Phạm Trinh Cán chuyển sang Bộ Tổng tham mưu. Vốn là cử nhân Luật (Đại học Đông Dương) nên ông được điều động vào quân đội, xây dựng luật nhà binh và tổ chức Tòa án binh, chứ không phải người được đào tạo quân đội chính quy. Sau đó ông được cử làm Chánh Văn phòng Bộ Tổng tham mưu kiêm Chánh án Tòa án binh khu Trung ương. Vì thế vụ này được bàn giao cho Cục trưởng Cục Quân pháp mới là ông Ngô Minh Loan. - Cụ thể vụ này là: ngoài tội tham ô ra còn bị tội phá hoại đoàn kết nội bộ Đảng trong Cục Quân nhu, trù dập đảng viên tốt.

Sau khi bàn giao công việc, anh Bình có hỏi ý kiến tôi:
“Nếu tiếp tục điều tra thêm thấy rõ tin đồn là đúng sự thật thì mức độ kết án thế nào?”. Tôi đã nói: “Tùy theo mức điều tra như thế nào. Theo riêng tôi, nặng nhất phải tử hình, dưới nữa phải 15-20 năm tù. Kể cả mức điều tra quan trọng sau lần điều tra báo cáo Trung ương để có chỉ thị. Nếu kết quả cuối cùng của việc điều tra thấy Châu tội nặng cộng với ảnh hưởng công phẫn trong quân đội thì có thể kết án tử hình được”.
Tôi còn nói thêm: “Tới mức ấy không chỉ xin chỉ thị Trung ương mà còn phải xin chỉ thị của Bác”. Việc này phải hết sức thận trọng vì là lần đầu đưa cán bộ cao cấp ra xử, lại là cán bộ hoạt động trước cách mạng.

Hè năm 1950, Tòa án binh tối cao xét xử. Chánh án: Thiếu tướng Chu Văn Tấn – Ủy viên Chính phủ. Công cáo viên: Thiếu tướng Trần Tử Bình. Châu nghe tuyên án không ngờ mình bị tử hình, mặt tái đi, run lên.

Đó là tôi (Phạm Trinh Cán) nghe kể lại chứ tôi không dự vì lúc đó đang đi tìm địa điểm khác để tránh hậu quả sau vụ xử Trần Dụ Châu. Nhỡ còn chân tay của Châu có thể tiếp theo sẽ phá hoại cách mạng. Theo luật, án tử hình được quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm. Nếu Chủ tịch nước cho ân giảm, không bị đưa ra xử tử thì sẽ đưa về tù chung thân. Khi Tòa án binh tối cao tuyên án, Thiếu tướng Chu Văn Tấn hỏi: “Có xin ân giảm không?” thì Trần Dụ Châu nói: “Có”. Khi đệ đơn xin ân giảm lên Chủ tịch Chính phủ thì Hồ Chủ tịch đã bác đơn xin ân giảm.

6 giờ chiều hôm sau, Trần Dụ Châu được đưa ra trường bắn trước sự có mặt của đại diện Bộ Tư pháp, Nha Công an, Cục Quân nhu và một số cơ quan Cụ Phạm Trinh Cán kết luận: “Kể việc này để thấy Bác Hồ rất nghiêm với những cán bộ cao cấp không những không hoàn thành nhiệm vụ mà còn thoái hóa, biến chất!”.

* Cụ Phạm Trinh Cán (1912-2003).

Hà Nội, ngày 1/12/2010 Kiều Mai Sơn

Thứ Tư, 25 tháng 10, 2017

BÀ KIM TIẾN CÓ CÒN 'LIÊM SĨ' KHÔNG?




Năm 2013, dư luận nóng lên với hàng loạt bài báo phanh phui những sai phạm, tiêu cực trong ngành y tế dưới quyền lãnh đạo của bà Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến như :“Những bê bối y tế rúng động dư luận 2013”, (Báo Mới) với những vụ nổi cộm như bệnh nhân phong bị ăn bớt thuốc điều trị và bị "ép" ăn thịt sống, Trẻ tử vong sau khi tiêm vắc xin, Nhân bản xét nghiệm ở bệnh viện Đa khoa huyện Hoài Đức, Sản phụ liên tục tử vong, Nhân viên y tế bị "tố" ăn bớt vắc xin, Vụ tráo thủy tinh thể tại BV Mắt…cho tới vụ Bác sĩ thẩm mỹ ném xác bệnh nhân; “Những khối u đang hoành hành trong cơ thể ngành y?” (Đời sống và Pháp luật)...“Bình Định: Trẻ 19 ngày tuổi tử vong bất thường sau tiêm vắc xin phòng lao”, Dân Trí, tháng 2.2017), Sóc Trăng “Bé trai tử vong sau một ngày tiêm vắc xin”, (Zing.vn, tháng 2.2017). Hà Nội “Bé gái 14 tháng tử vong sau tiêm vắc xin viêm não” (VietnamNet, tháng 3.2017)…


Đỉnh điểm là vụ án nhập và bán thuốc ung thư giả, nguyên Giám đốc VN Pharma và hàng loạt cán bộ ra tòa, hiện đang dược xét xử.


Thời điểm 2013,Petro Times, báo nhà nước cũng có bài “Bộ trưởng Bộ Y tế nên từ chức”
Bà Kim Tiến đã thản nhiên phát biểu ""Tôi không nghĩ đến từ chức ngay".


Và cái việc " không nghĩ" của Bà kéo dài đến 2017 này.


Trơ trẽn nhất là đối với vu án VN Pharma , mặc cho các nhà chuyên môn lên tiếng, Bộ y tế vẫn khăng khăng khẳng định ' thuốc chữa ung thư H-Capita 500mg Caplet là thuốc kém chất lượng"


Có lẽ, Bà Kim Tiến nên đề nghị Tòa Án cho phép Bộ y tế dùng thuốc H-Capita cho bệnh nhân uống thử để xem " thuốc kém chất lượng " thế nào? Trời xuôi đất khiến, bệnh nhân ung thư khỏi bệnh thì chẳng phải " hóa tội thành công" hay sao!


Tự hỏi " Liêm sĩ của một trí thức, một nhà khoa học tài ba " ở Bà Kim Tiến có còn hay không?


Đến lúc cái sự "Không nghĩ" của Bà đã không thể " không nghĩ đến từ chức " nữa rồi nếu như Bà vẫn còn có chút lòng TỰ TRỌNG

Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2017

Vua Lê Thánh Tông chống tham nhũng, Đại Việt thịnh trị



Khi vua Lê thánh Tông (1460-1497) mới lên ngôi, đất nước chìm trong quốc nạn tham nhũng, tướng sĩ thì lo hưởng lạc; quan lại chia bè phái và tham nhũng; người dân đói khổ oán thán. Vua nhìn nhận rằng nạn tham nhũng là nguyên nhân lớn nhất cần phải tiêu diệt.

Chính vì vậy, vua bổ sung hoàn thiện bộ luật Hồng Đức, nhằm tăng sức mạnh chống tham nhũng cho bộ luật này. Việc chống tham nhũng được tiến hành từ các quan to đầu triều xuống tận đến địa phương. Trong 722 điều bộ luật Hồng Đức thì có trên 40 điều thuộc về chống tham nhũng.


Điều 138 có đoạn quy định rõ như sau: “Quan lại mà tham nhũng, nhận hối lộ, làm sai phép nước thì bị phạt: tham ô từ 1 đến 9 quan tiền, bị cách chức. Từ 10 đến 19 quan bị đánh trượng, đi đày. Từ 20 quan trở lên, bị chém. Các ngươi ăn lễ từ 1 đến 9 quan, phải phạt 50 quan. Từ 10 đến 19 quan, phạt từ 60 đến 100 quan. Từ 20 quan trở lên, phạt tội làm phu. Của hối lộ bỏ vào kho một phần, một phần trả lại chủ”. Việc xử phạt này không phân biệt giàu nghèo hay chức vụ đảm trách.

Chống tham nhũng từng giúp Đại Việt có được thời kỳ “ngủ đêm mọi nhà không phải đóng cửa”

Luật Hồng Đức cho thấy sự nghiêm khắc của pháp luật ngày xưa, chỉ tham ô một quan tiền là mất chức, 20 quan tiền là bị tử hình.

Sách sử còn ghi chép lại chuyện Lê Bô phạm tội tham ô bị buộc vào tội “Hình”, có viên quan là Trần Phong xin cho Lê Bô nộp tiền chuộc tội thay vì phải chịu “Hình”. Thế nhưng vua Lê Thánh Tông cho rằng nếu cứ phạm tội rồi dùng tiền chuộc tội thì người giàu có sẽ không phải chịu tội, chỉ còn người nghèo khó thì phải chịu tội hay sao? Vua cho rằng Trần Phong đề xuất như thế là trái với tổ tong và trị tội cả ông ta nữa.

Vua Lê thánh Tông chủ trương chống tham nhũng, chỉ dùng bậc hiền tài, loại trừ kẻ xu nịnh, khiến các quan chức vốn chỉ lo tiến thân bằng nịnh bợ không còn đất dụng võ nữa, nạn tham nhũng đang tàn phá đát nước bị đẩy lùi và dẹp bỏ.

Những quan thanh liêm, thực sự phục vụ cho dân đều được trọng dụng, thậm chí những người từng bị hàm oan trước đây thì cũng được minh oan. Ví dụ như vụ án “Lệ Chi viên” khiến Nguyễn Trãi bị tru di tạm tộc cũng được minh oan trong thời gian này. Từ đó bậc hiền tài an tâm phục vụ dân chúng, người dân được yên ổn.

Thứ Sáu, 22 tháng 9, 2017

Hội nghị Trung ương 6 ‘xem xét kỷ luật’



BBC Tiếng Việt




Hội nghị Trung ương 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam dự kiến diễn ra trong tuần đầu tháng 10.

Dường như trường hợp Bí thư Đà Nẵng, Ủy viên Trung ương Đảng, Nguyễn Xuân Anh, sẽ được Bộ Chính trị trình cho Ban Chấp hành Trung ương tại hội nghị xem xét mức kỷ luật.

Sáng 22/9, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã vào Đà Nẵng công bố chi tiết kết luận về các sai phạm của các lãnh đạo thành phố này.

Trước đó, ủy ban kỷ luật của Đảng đã công bố trên phương tiện truyền thông các vi phạm của Ban Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Xuân Anh và Chủ tịch UBND TP Huỳnh Đức Thơ

Theo quy trình của Đảng Cộng sản, sau buổi họp tại Đà Nẵng, các cá nhân liên quan sẽ tiến hành kiểm điểm, rồi trình cho tổ chức Đảng xem xét hình thức kỷ luật.


Trường hợp ông Nguyễn Xuân Anh, ủy viên Trung ương Đảng, sẽ do Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành trung ương xem xét mức kỷ luật.


Bàn Tròn: Chiến dịch kỷ luật của Đảng trước Hội nghị TƯ6

Vụ Đà Nẵng: Tổng Bí thư muốn ‘chấn chỉnh kỷ luật Đảng’?


Sáu cách chống tham nhũng để VN chọn


Đảng CS ‘cần kỷ luật thép’ để không tan rã?


• Chín dự án sẽ bị điều tra gồm: Công viên An Đồn, khu đô thị Harbour Ville của Công ty Cổ phần Đầu tư Mega, khu đất tại đường 2-9 – Phan Thành Tài đường quy hoạch, dự án Phú Gia Compoud, khu dịch vụ du lịch nhà hàng – cà phê – bar và bến du thuyền, dự án khu đô thị quốc tế Đa Phước (giai đoạn 1: 181 ha), lô 12 khu B4.1 khu dân cư An Cư mở rộng, khu đô thị sinh thái Phú Gia ven sông, khu du lịch ven biển đường Trường Sa của Công ty IVC (4,5 ha).
• 31 nhà, đất công sản gồm: 16 Bạch Đằng, 20 Bạch Đằng, 158 Bạch Đằng, 07 Bạch Đằng, 100 Bạch Đằng, 318 Lê Duẩn, 57 Lê Duẩn, 17 Lê Duẩn, 354 Hùng Vương, 81 Hùng Vương, 89 Hùng Vương, 45 Nguyễn Thái Học, 47 Nguyễn Thái Học, 73 Nguyễn Thái Học, 319 Lê Duẩn, 36 Bạch Đằng, 38 Bạch Đằng…
Sau thông báo của Ủy ban kiểm tra Trung ương, Bộ Công an cũng cho biết sẽ tiến hành điều tra việc bán nhà đất công tại Đà Nẵng từ năm 2006 đến nay.


Đồng thời, Thanh tra Chính phủ sẽ thanh tra việc chấp hành pháp luật đối với các dự án đầu tư xây dựng trên bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng từ 2003 đến 2016.


Chống tham nhũng là ‘tự ta đánh ta’?


Khi doanh nghiệp ‘tặng xe cho lãnh đạo’


Xung quanh vụ ‘đe dọa’ ông Huỳnh Đức Thơ


VN thúc đẩy kinh doanh trong bất ổn thể chế


Một loạt các báo chính thống tại Việt Nam cũng đăng các bài nêu “sai phạm” tại Đà Nẵng không chỉ dưới thời ông Nguyễn Xuân Anh, mà cả thời kỳ nắm quyền của cố Bí thư Thành ủy Nguyễn Bá Thanh.


Thành phố Đà Nẵng từng được xem là mô hình nổi bật trong giai đoạn cuối nhiệm kỳ Bí thư của ông Nguyễn Bá Thanh (làm Bí thư Thành ủy từ 2003 đến 2013).


Ông Nguyễn Xuân Anh, sinh năm 1976, trở thành Bí thư thành phố này năm 2015.


Theo báo Pháp Luật TP. HCM, Bộ Công an đang điều tra các sai phạm trong việc thực hiện chín dự án và mua, chuyển nhượng 31 nhà, đất công sản thuộc sở hữu nhà nước tại Đà Nẵng từ năm 2006 đến nay.


Trong đó, đa số đều được thực hiện từ năm 2006 đến 2012.

Thứ Bảy, 5 tháng 8, 2017

Quan hệ ngoại giao Đức- Việt sẽ ra sao sau vụ Trịnh Xuân Thanh?




Tác giả: Hồ Ngọc Thắng


.
Quanh vụ việc TXT, mấy ngày qua nhiều bạn hỏi tôi chủ yếu tập trung vào 3 chủ đề: Kết quả cụ thể của việc xin tị nạn của TXT như thế nào? Thực hư chuyện „bắt cóc“? Quan hệ Đức-Việt sẽ ra sao sau vụ việc?
Đây là câu trả lời của tôi:


1. Tờ Báo Miền nam Đức (Süddeutsche Zeitung) ngày 2-8-2017 cho biết, ông TXT sang Đức năm 2016 và ngày 24.07.2017 là lịch hẹn sẽ phỏng vấn tại Cơ quan Liên bang phụ trách di cư và tị nan. Như vậy có nghĩa là, ông TXT trước đó đã đến bộ phận tiếp nhận đơn. Ở đó ông đã được chụp ảnh, lấy vân tay, ký vào trang 1 của hồ sơ. Các trang tiếp theo ghi họ tên tuổi của người nộp đơn và của bố mẹ, vợ con, địa chỉ ở VN và ở Đức, tên tuổi luật sư. Lúc đó ông nhận giấy mời phỏng vấn. Có thể có một phiên dịch của văn phòng dịch thuật tư nhân hỗ trợ ông khai báo và đọc các tờ hướng dẫn về quyền lợi và nghĩa vụ của người xin tị nạn. Chỉ đến lúc phỏng vấn, cán bộ phỏng vấn mới hỏi về lai lịch, đường đi từ VN sang Đức, lý do xin tịn nạn, muốn nộp giấy tờ gì…


Theo khoản 3, Điều 33 của Bộ luật về thủ tục xét tị nạn, đơn xin được coi là đã rút, nếu người nộp đơn rời lãnh thổ Đức và trở về đất nước mình, do bất cứ lý do nào. Theo Điều 32, thủ tục xét tị nạn sẽ được đình chỉ (Einstellung). Thông thường, sau 4 tuần mọi chuyện được kết thúc. Hồ sơ thủ tục xin tị nạn được lưu trữ 10 năm và sau đó được hủy. Như vậy ông TXT chưa được hưởng quy chế tị nạn chính trị hay được ở lại vì lý do nhân đạo. Liên quan đến câu hỏi, liệu TXT đã cung cấp thông tin tình báo, tôi xin trích dẫn bài báo của tờ Thế giới (Welt) phiên bản điện tử đăng hôm 04.07.17 „Tình báo cùng nghe“. Bài báo trích dẫn lời Giám đốc Cơ quan Liên bang phụ trách di cư và tị nạn: Từ vài tháng nay, khi phỏng vấn xin tị nạn, trong một số trường hợp, cán bộ cơ quan tình báo ngồi cùng bàn để nghe và nếu cần sẽ đặt câu hỏi. Như vậy có thể đoán, TXT chưa gặp TB Đức.


2. Cho đến nay, các cơ quan Đức không có thể đưa ra bất kỳ một bằng chứng nào cho thấy ông TXT „bị bắt cóc“. Ngày 02.08.2017, hãng thông tấn xã Đức dpa đưa tin, „nhân viên điều tra ở Berlin phỏng đoán… bị bắt cóc“. Từ nguyên gốc tiếng Đức trong bài viết là „vermuten“. Lời phát biểu của ông Winfrid Wenzel, phát ngôn viên của công an Berlin: „Đây là một trường hợp nghi ngờ“ (tiếng Đức „Das ist ein Verdacht“). Trường hợp nghi ngờ cao hơn là nghi ngờ khẩn cấp (dringender Verdacht). Một điều phi lý trong quả quyết „bắt cóc“ là chi tiết „có người thấy ông TXT bị lôi vào xe ô tô“. Tại sao cảnh sát không cho giải cứu ngay lúc đó bằng cách báo động truy lùng khẩn cấp vòng quanh khu vực với phạm vi rộng, từ chuyên môn của cảnh sát Đức cho biện pháp này là Ringfahndung.Tuyên bố của Bộ NG Đức chủ yếu dựa vào phát biểu của bà LS đại diện cho TXT trong thủ tục xét tị nạn. Bà ta không phải là nhân chứng, bà chỉ nghe người khác kể lại. Danh tính người đó cũng không được công bố. Các cơ quan sau chịu sự lãnh đạo của ông Bộ trưởng Bộ nội vụ Liên bang: cảnh sát LB (tức CA biên phòng), tình báo đối ngoại, tình báo đối nội, Cơ quan Liên bang phụ trách di cư và tị nạn, cục kỹ thuật hình sự Liên bang, đơn vị đặc nhiệm GSG 9. Cho đến nay, trên trang mạng của mình cũng như trên báo, Bộ nội vụ Liên bang không đưa ra bất kỳ phát biểu nào liên quan đến vụ việc TXT.


3. Khi nhận định về quan hệ ngoại giao Đức-Việt trong thời gian tới phải chú ý đến các yếu tố sau: trong con mắt của người Đức ông TXT là một người như thế nào? Báo chí Đức gọi ông ta là một „Geschaeftsmann“, người kinh doanh, trong quá khứ ông là Phó chủ tịch một tỉnh nhỏ, như vậy ông ta chỉ là cựu chính trị gia cấp địa phương, ông nổi tiếng vì tham nhũng, ham chơi, thí dụ xe tư nhân tiền tỉ gắn biển KS chỉ dùng cho xe công vụ. Lãnh đạo Bộ nội vụ Liên bang hiện nay là người của đảng CDU, Lãnh đạo Bộ NG là người của đảng SPD. Ngày 27.09.17 Đức bầu cử QH và tháng 10.2017 có CP mới. CP mới sẽ quyết định về đường lối NG mới. Chưa biết đảng nào sẽ thắng cử, nhưng chắc chắn, không vì TXT mà nước Đức làm xấu đi quan hệ toàn diện với Việt Nam. Tôi tin rằng, vài ngày nữa, chậm nhất vài tuần, sự kiện TXT sẽ chìm trong sự lãng quên. Cũng chẳng hay ho gì cho Nhà nước Đức, nếu ai đó nhắc lại vụ việc này. Hiện nay người Đức đang quan tâm đến rất nhiều vấn đề khác. Người được lợi nhiều nhất có lẽ là bà LS đại diện cho TXT. Tên bà được nhắc trên báo và truyền hình và đó là quảng cáo rộng rãi mà không tốn tiền, chỉ tốn nước bọt. Nhưng bọn phản động trong và ngoài nước còn khai thác đề tài này lâu hơn./.

Thứ Bảy, 8 tháng 7, 2017

“Mừng chảy nước mắt” khi đếm người tham nhũng!







Bích Diệp



(Dân trí) - Theo báo cáo sơ bộ công tác thanh tra 6 tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ từ nay tới cuối năm 2017 của Thanh tra Chính phủ, kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng đã được công khai theo đúng quy định pháp luật.


Các bộ ngành, địa phương kiểm tra trên 1.800 cơ quan, tổ chức, đơn vị về công khai, minh bạch nhưng chỉ phát hiện 22 đơn vị vi phạm.


Báo Dân trí, bài “Chỉ có 77 trường hợp được xác minh tài sản trong năm 2016” cho biết chỉ có 77 người thuộc diện kê khai được tiến hành xác minh tài sản, thu nhập trong tổng số trên 1 triệu người kê khai năm 2016.


6 tháng đầu năm 2017 chỉ có 1 trường hợp người đứng đầu bị kết luận thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng; xử lý kỷ luật 4 người do thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng, trong đó có 3 người vi phạm phát hiện từ kỳ trước.


Tổng số vụ tham nhũng mà ngành thanh tra đã phát hiện được là 47 vụ, 66 đối tượng có hành vi tham nhũng và liên quan đến tham nhũng.


Nhận xét trước Chính phủ, ngành thanh tra tự thấy, “số vụ việc phát hiện còn ít”. Ô hay! Ít là tốt chứ! Rất đáng để mừng! Mừng vì hóa ra, “lượng hóa” tham nhũng lại chẳng đến nỗi “nghiêm trọng” như người ta cảm nhận.


Hồi tháng 4 vừa rồi, chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2016 của Tổ chức minh bạch Quốc tế (TI) dựa trên cảm nhận của doanh nhân và chuyên gia về tham nhũng trong khu vực công cho thấy, Việt Nam được 33/100 điểm, đứng thứ 133/176 bảng xếp hạng toàn cầu, nằm trong nhóm các nước mà tham nhũng được cho là “nghiêm trọng”.


Nhưng nói “nghiêm trọng” mà số vụ việc bị phát hiện, số người chịu trách nhiệm… như báo cáo của ngành thanh tra vừa nêu trên thì có vẻ hơi… thái quá!? Vậy, rốt cuộc, tham nhũng bị phát hiện ít là do cán bộ, công chức ở ta trong sạch, hay vì công tác tố giác, phát hiện còn hạn chế?


Mới chỉ cách đây 3 tháng, tại một xã thuộc tỉnh Hà Nam, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và chức vụ Công an tỉnh này đã khởi tố và bắt tạm giam đối tượng có tên là Mai Hiển Dũng – một cán bộ lao động thương binh xã hội ở địa phương. Lý do là cán bộ này đã lợi dụng chức vụ để “ăn chặn” tiền trợ cấp các hộ chính sách trong nhiều năm liền.


Hay như hồi đầu năm (tháng 2/2017), Ủy ban Kiểm tra huyện ủy Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang, cho biết cơ quan này vừa ban hành quyết định kỷ luật đối với 13 cán bộ, cá nhân có liên quan đến vụ sai phạm trong việc chi tiền hỗ trợ người dân vùng hạn, mặn trên địa bàn.


Trong đó, ông Đặng Văn Dũng, nguyên Bí thư Đảng ủy và bà Phan Thị The, chủ tịch UBND xã Vĩnh Thuận, cùng bị khiển trách về mặt Đảng và chính quyền vì để thuộc cấp chi sai, bỏ sót hàng trăm hộ dân hoặc chiếm dụng tiền hỗ trợ hạn, mặn cũng như tiền cấp bù quà Tết cho hộ nghèo, cận nghèo tại địa phương.


Bòn rút, ăn chặn tiền trợ cấp cho người nghèo, những người bất hạnh, những người đang lao đao, khốn khó vì thiên tai… đến mức như thế thì chưa nói đến sĩ diện, tự tôn làm người mà lương tâm của những cán bộ kia chắc cũng đã mục ruỗng, bỏ đi mất rồi!


Lại nhớ đến câu nói của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan vài năm trước: “Đến tiền của các cháu dân tộc thiểu số mà hiệu trưởng cùng với một số cán bộ còn biển thủ đến gần 3 tỷ, vừa rồi mới khởi tố. Cái liều vacxin tiêm cho một cháu, nhưng lại san ra tiêm cho hai cháu ngay tại Hà Nội… Tôi càng đi càng thấy buồn, ăn của dân không từ một cái gì”.


Tham nhũng, hay nói cách khác là “dụng công vi tư”, là lạm dụng vị trí, quyền hạn để lấy của công “đút túi” làm của riêng. Vậy, những trường hợp nêu trên không tham nhũng thì gọi là gì?!


Rồi gần đây, có những sự việc vẫn đang trong quá trình điều tra và chờ đưa ra kết luận, như dinh thự, chung cư, xe sang… của Giám đốc Sở TNMT Yên Bái, những băn khoăn quanh nguồn gốc của khối tài sản cổ phiếu hàng trăm tỷ đồng của một vị Thứ trưởng đương chức. Người dân thực sự đang nóng lòng nhận được câu trả lời: Từ vi phạm “nghiêm trọng” cụ thể như thế nào đến mức độ kỷ luật ra sao?


Còn nhớ, hồi tháng 10 năm ngoái, báo cáo Quốc hội về công tác phòng chống tham nhũng, Tổng Thanh tra Chính phủ Phan Văn Sáu cho biết, có trên 1 triệu cán bộ, công chức hoàn thành việc kê khai tài sản, thu nhập nhưng qua xác minh 414 trường hợp chưa phát hiện người nào kê khai không trung thực (!).


Cho nên, để đấu tranh và ngăn chặn tham nhũng, phải nhìn thẳng vào thực tế quy định pháp luật có lỗ hổng để các cá nhân lợi dụng hay không? Đã có phương án “vá” những lỗ hổng đó với những chế tài thực sự đủ mạnh hay chưa? Chứ nói thật, chỉ dựa vào sự trung thực của cán bộ, đảng viên khi kê khai tài sản, chỉ “khiển trách”, “cảnh cáo” trong các mức án kỷ luật… thì chuyện đẩy lùi tham nhũng được hãy còn xa.