Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện hay. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện hay. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 28 tháng 2, 2019

HÃY CHÁY BÙNG LÊN, NGỌN LỬA






“ Linh hồn ta ơi, đừng ngóng tận trường sinh miên viễn, hãy kiệt tận miên bạc cứu tận hạn độ khả năng”. Albert Camus



Từ ngày ba mẹ bán nhà vào Nam theo các anh chị, tôi còn lại một mình.

Khu vườn là chỗ trở về. . là chốn nương thân của tôi sau những giờ mệt mỏi trên lớp, cái lớp nổi tiếng hoang nghịch của một trường nhà quê, chỉ im lặng trong giờ tôi dạy ; một nơi cây cối um tùm, là khô rụng đầy trên những lối đi trong vườn, có ngày được quét sạch, có ngày không. Một khoảng không gian rộng đầy tiếng chim cùng tiếng lá khô xào xạc dưới mỗi bước chân là chỗ tôi muốn tìm về sau một tuần dạy học ( một tuần phờ phạc bởi mỗi ngày dậy lúc 5 giờ 30 sáng nấu cơm mang theo, đạp xe 8km, đêm dạy Bổ túc văn hóa đến 11 giờ. những phiên họp kéo lê ở trường, những tiết văn lớp 6 lớp 7, cái lớp chủ nhiệm tôi không thích hợp mặc dù tôi yêu chúng ). Tay trong tay chúng tôi bước trên lối mòn dưới những tàn cây, cây cao bóng cả trong vườn chàng thì nhiều. Nhỡn, đào, mận, sapotier là những cây cao. Trứng gà, bưởi, chanh, thanh trà thấp hơn cho bóng râm và mùi hương, dù cao hay thấp …ở đó trời đất giao hòa, tình yêu của chàng và thiên nhiên vây quanh trong một khung cảnh vắng vẻ thanh bình. Tôi yêu khu vườn anh ấy, cây cối um tùm, cỏ mọc xanh rì sau những ngày mưa.

Thế nhưng… Người đàn ông đã cưới lộn vợ là tôi, nói như vậy cũng được, nói ngược lại cũng không sao. Vợ thời bao cấp là một nội tướng đa khoa, không làm bếp trưởng mà chỉ cần giỏi tài chế biến: nấu hột mì ( là hạt bobo nhập từ Ấn ) sao cho chín, để độn vào cơm hoặc sang hơn, độn với đậu huyết. Làm bánh mì , hoặc biết đỗ bánh tráng cho chồng con ăn sáng, miễn no bụng. Nấu bánh canh không cần tôm, chi cần có mì chính( vị tinh ). Là gia sư kiêm luôn hầu phòng, là người đi chực cửa hàng lúc 4 giờ sáng để mua 13 kilô kể cả gạo, bột mì và bo bo…độn. Thậm chí có cả khoai, sắn…Là người đạp xe mối ngày từ 5 – 10km - không phải là thanh niên xung phong - chỉ đến trường để dạy. Cái quan trọng khi ấy là bao tử, sau đó mới có các thứ khác. Vậy mà tôi đã để dành chút thì giờ sau khi sanh con nhỏ để viết. Nhu cầu viết hay khát vọng bên trong mạnh hơn cái chết. Không đủ sức để tìm hiểu, khi mà cuộc sống vất vả, những giáo án, những buổi họp kéo lê ở trường không cần thiết…( để quản lí cho đủ một ngày 8 tiếng, người ta còn biết làm gì, ngoài việc ngồi họp đây )!?Những bữa ăn thanh đạm, tất cả không giết chết được nhu cầu bức thiết trong tôi khi ấy. Là viết…viết. Tôi viết khi đợi đò ở bến chợ Dinh, khi đi dạy bổ túc văn hóa về trên đường khuya( thực chất là đi xem học trò dạy )! Ở thôn Lại Thế, có vài lần ở thôn Chiết Bi về, tôi mệt lử. Vậy chỉ còn cách viết trong trí giữa đường đêm, trên con đò nhỏ giữa khuya..

Với một vườn trồng cây ăn quả, cái quan trọng là có một phụ nữ sẵn sàng đi chợ bán đồ vườn, biết trèo cây, hái trái , trồng rau. Một phụ nữ quần vo quá gối suốt ngày, nuôi một chục con vừa gà vừa vịt, hết đi chợ lại tất tả ra vườn, đốn cây chuối vào xắt cho heo, nấu cám heo khi chiều xuống, dậy lúc 5 giờ nấu cơm sáng cho cả nhà rồi cho heo, gà vịt ăn. Là học sinh trường tiểu học cộng đồng anh ta biết chẻ sợi lạt, đan giỏ, biết đào ao thả cá, biết cuốc đất trồng rau, đi bứt tót ngoải ruộng về ủ phân heo. Dạy học đã mệt quá rồi, tôi ốm nhom, nghỉ giờ nào tôi tranh thủ soạn bài giờ đó, không còn thì giờ để ngủ. Chồng tôi dạy ở một trường huyện đi về phía núi, tôi ở một trường đi về phía biển. Có bữa hai chúng tôi cùng gặp nhau trước cửa nhà lúc 11 giờ khuya, Một vài phiên họp để bình bầu kiểm điểm ở một trường điểm của huyện kéo dài đến 12 giờ khuya …hay 1 giờ sáng chỉ là chuyện thường tình mà thôi. Định mệnh dun dẩy chúng tôi yêu nhau và lấy nhau,có điều tôi không bao giờ làm lễ kỉ niệm ngày cưới bởi tôi ghét cái ngày ấy. Tiệc cưới chúng tôi được hiệu trường trường điểm tổ chức tại trường, tôi còn nhớ khung cảnh lúc đó. Tôi mặc chiếc áo lụa màu vàng chị dâu ở Sài gòn gởi ra cho, một người bạn gái học cùng lớp đang mang thai đứa con đầu lòng( từ nhà nó đạp xe 9 km mới đến trường), vừa cười vừa nói: “ Tụi tao ở lại làm bánh cưới mừng mi và anh đây”. Bánh cưới là các món bánh Huế: su sê, ít đen, …Kể cũng khá cảm động, giáo viên thời bao cấp phần đông đi xe đạp về trường, mỗi ngày đi vài chục cây số, lương vài chục đồng, bây giờ mỗi người đóng ít nhất 5 đồng hay mười đồng, mừng đám cưới chúng tôi! Văn phòng trường rất rộng, trang hoàng nhiều màu sắc như một sân khấu. Chúng tôi cùng hát chung một bài hát ngắn. Mấy chục năm sau không có cái đám cưới thứ hai như vậy nữa, tôi nghe anh ta nói vậy. Lễ thành hôn tổ chức trên Huế, cô tôi đi từ Hội An ra bằng xe lửa, bước thấp bước cao vào căn phòng tôi ở, là căn phòng nhỏ ở mái tây, tay xách bịch bánh cô tôi làm nhìn rất đẹp mắt. Các thứ bánh Huế như bánh sơn tán làm bằng đậu ngự, bánh hột sen được gói trong giấy gương đủ màu đều ngon. Mẹ từ Saigon ra. Anh em không có ai. Cha sức yếu không thể ngồi tàu lửa hai ngày một đêm như mẹ. Mẹ thức tôi dậy lúc 4 giờ 30 sáng để còn kịp ăn sáng và trang điểm..Lễ rước dâu 7 giờ. Tiệc đưa dâu và tiệc dọn bạn kéo dài đền khuya. Hôm đó trời nắng rồi mưa… Mệt phờ tôi tưởng mình có thể nằm lăn ra giường ngủ một giấc. Té ra suốt đêm tôi không ngủ. Vừa mới chìm vào giấc ngủ say khi gần sáng, chị chồng tôi mở cửa phòng kêu chồng tôi dậy đi đổi tiền, số tiền sau khi đổi tôi không biết còn bao nhiêu, chừng như khoảng vài trăm đồng bạc bắc.

Ba ngày sau, hết phép chúng tôi lao vào việc tổng kết học kì. Ban ngày anh ta ngồi dưới tán cây khế để làm hồ sơ, cọng điểm, đánh giá học sinh. Tôi ngồi trong nhà, nắng hắt lên mái tôn hầm hập.

Ba tháng sau, nghỉ hè, xin được giấy phép vào thăm nhà ở Sài gòn( thời bao cấp việc đi lại trong nước của người dân không được tự do như bây giờ), chúng tôi mới thật sự sống cuộc sống tiền hôn nhân và có những chuyến đi chơi riêng cũng như chung với cô em gái trong nhà ”.

Sau này trong số những miền đất tôi đã đi qua, cái nơi tôi nhớ nhiều nhất là Nha Trang. Kỉ niệm thì nhiều, không sao nhớ hết, chỉ ở những miền biển, chỗ có những cây phi lao rì rào điệu đàn bất hủ là chỗ khó quên. Năm ấy tôi đi Nha Trang cùng một số bạn. Mà ở nơi này bà cô tôi đã mất, tôi muốn về để thăm lại mộ bà. Quang vừa cười vừa hỏi lúc đón tôi ở sân ga: “ Chị về thăm Nhà của Biển sao”? Tôi ừ. Một giàn hoa tim tím leo từ trước ra sau. Nhà nghỉ có phòng khách rộng mở cửa ra hai phía, một hướng đông, phía biển, một hướng tây, chiều tà. Vào lúc mặt trời lên sớm ngoài biển xanh , Quang đi ngang qua phòng kêu tôi dậy đi dạo, lúc đó tôi còn nằm trong giường lười biếng( tôi đã làm việc đến 12g đêm rồi còn gì ). Tôi thích ra biển ngắm những đoàn thuyền đánh cá trở về: cả một bức tranh sống động khi đứng xem ngư dân kéo lưới lúc chiều hôm. Những bắp thịt nổi lên cuồn cuộn trên những cánh tay màu đồng hun. Những khuôn mặt vui vẻ hoặc khẩn trương. Cá, mực đều tươi xanh. Ở họ có cái gì đó nằm trên sức chịu đựng, có cái gì quả cảm và …rất người. Lúc ấy biển còn hoang sơ lắm, chưa có những resort hiện đại như bây giờ. Biển đẹp biết mấy lúc bình minh và mênh mang vô tận lúc chiều tà. Buổi sáng đi dạo một vòng quanh những con đường nhỏ tráng nhựa ở ngôi làng ven biển, hít sâu vào lồng ngực mùi vị của biển cả, chúng tôi, gồm có hai người bạn nữa thích thú ngắm những cây hoa vàng người ta trồng trong vườn nhà nở hoa. Giống hoa vàng tương tự như Mimosa ở Đà Lạt giống một loại hoa trước đây được trồng trong công viên trước trường Đồng Khánh. Tôi yêu màu vàng của tất cả các loài hoa, chúng trông vui mắt, chúng làm cho tâm hồn thư thái.

Buổi tối tôi trèo lên những bậc thang dẫn đến hành lang rộng nhìn xuống biển, biển đêm có vẻ đẹp riêng. Biển bao la ban ngày, thăm thẳm một màu về đêm. Đứng một lát, nghe âm thanh tiếng dương cầm văng lên bài Sérénate tôi xuống lầu. Hạnh đang trong phòng khách Nhà của Biển, có Minh cùng ngồi, nghe Hạnh đàn. Tôi vốn nhạy miệng, hỏi ngay: “ Minh, sao ông không đàn”? “ Không, tôi đang viết kịch bản, tôi đàn là đắm mình vào đó”. Hạnh ngẩng lên: “ Em chỉ mới tập sự, ông này mới là thầy”. Tuy vậy, Minh không đàn mà bỏ về phòng.



Biển đẹp nhất vào lúc bình minh. Có một lần ngắm cảnh bình minh lên trên cửa Tư Hiền, đoạn ấy tôi viết trong cuốn Bình Minh. Những lúc tâm hồn mệt mỏi tôi thường tìm về với cuốn sách ấy. Một lần, một độc giả trắng trợn gọi điện hỏi tôi:“ Em cho Lá Rừng chết, vì hắn nghèo, còn Vĩnh Tâm giàu thì sống à”? Anh là ai. Là Lá Rừng. Hắn cười hà hà trong máy. Là Lá Rừng, hai mươi sáu tuổi. Tôi đã nhận nhiều cuộc điện đàm nói về cuốn sách. Nó là cuốn sách của tôi, vậy đủ rồi.

Những gì tôi muốn trình bày không đơn thuần chỉ là một chuyện tình. Con người phải làm gì để vượt lên số phận đây. Lòng đam mê quyền lực(có khi lòng đam mê này mạnh hơn bản thân ) là nguyên nhân gây ra bao mất mát điêu linh. Trong một buổi gặp gỡ tại chùa, mười năm sau khi in cuốn sách ấy, anh bạn học cùng lớp ngày xưa hỏi tôi:“ Cô muốn nói cái gì trong cuốn sách ấy thế , bây giờ tôi mới đọc lại ”? Tôi nói cho Hát biết điều đó. Để vượt qua bao nghiệt ngã phi lí, không phải chỉ con đường duy nhất là hướng về nội tâm và tu Thiền. Ít ra , dưới sự đòi hỏi khe khắt của thời đại bây giờ, con người còn phải mạnh nữa.



Sau này có nhiều ngày tôi ngồi viết dưới những tàn cây.

“ Hãy thôi đi ngọn lửa, hãy dập tắt tro tàn, tưới nước lên cho nguội, những gì đã hừng hực cháy từ thuở thanh xuân ”. Tôi nhiều lần tự nhủ tôi như thế. Tưởng chừng đã ném khỏi tôi chiếc áo dài tơ lụa, những son phấn đắt tiền, những chiếc robesac thời thiếu nữ… Nhưng vào những lúc gian nan chật vật nhất, ngọn lửa tưởng chừng đã tắt vụt cháy bùng lên.

Bao giờ vấn đề ấy cũng ám ảnh tâm trí. Chiến tranh và thiên tai. Kant nói chiến tranh giúp lịch sử tiến bộ. Chiến tranh còn hơn cả thiên tai, ở đây con người tàn hoại lẫn nhau. Giữa các phạm trù đối nghịch , bình ổn và điêu linh, sống còn và chết chóc, chiến tranh và thiên tai, nghiệt ngã và phi lí chúng hỗ trợ lẫn nhau, chúng nằm trong nhau gây ra bao nhiêu mất mát đau khổ.

Thèm một chỗ trở về cho trái tim. Được lười lĩnh nằm dài trên cỏ, nghe gió rúc rích trong lá, nghe trời bằn bặt mây mù, nghe sương rả rích trên cỏ, và trăng lai láng khắp vườn. Được nằm lười biếng một ngày không suy nghĩ. Cuộc đời vẫn đẹp sao! Tên một bài hát tôi hay hát khi còn ở Đông Hà năm 1977. Thế nhưng cánh cửa khó mở nhất là cảm thông.

Sau cùng, tôi nhảy thẳng vào ngọn lửa và sáng tạo nghệ thuật giúp con người phục sinh.







“ Buổi sáng như dàn trải rộng thêm, như chở theo cả mây nõn và gió bên ngoài vào căn phòng vắng vẻ u tịch này”. Có ngờ đâu những gì mình viết ra từ năm 76 nay trở thành sự thật.

Vĩnh Tâm không phải là hình ảnh sống đẹp, ông ta rực sáng chỉ vì những gì ông ta làm. Những nhân vật của tôi làm khổ tôi. Tôi sống đời ông( cô )ta, thở hơi của( cô )ông ta. Nửa đêm tôi giật mình thức dậy vì ông ( cô ta ) tìm đến. Ban ngày đạp xe đi nhân vật đuổi theo.

Thời đại bây giờ danh vọng và tiền bạc tác động mạnh tới nhà văn - đến nỗi chuyện, Viết cái gì? bỗng trở nên lỗi thời. Ngay cả việc Viết như thế nào? Chỗ đứng của nó khá mong manh. Cái đêm khao khát đi tìm một chút gió ngoài biển khơi khiến tôi thấy mình gần gũi với Hạnh hơn. Henry Miller nói, viết là trở về ngồi khóc bên nấm mộ thanh xuân. Tôi không muốn trở về ngồi khóc. Đứng dậy sau bao nhiêu phi lí nghiệt ngã đổ xuống đầu, tôi còn con đường mình đã chọn. Là trở về với chính mình, tiếp tục cuộc lên đường ; tiếp tục – cho dù gió bên ngoài và khát vọng bên trong không phải lúc nào cũng hòa hợp cùng nhau!

Phạm ngọc Túy

Thứ Hai, 3 tháng 12, 2018

MÙI CỦA GIÓ MÙA



Truyện ngắn Cung Tích Biền

Ngoài bảy mươi tuổi, hãy còn khỏe mạnh, minh mẫn; từ bao năm, Cụ Gàn tiêu biểu cho niềm vui, lòng tận tụy với xã hội. Ngồi gần cụ, bên cốc cà phê, năm ba bè bạn, thì thật thú vị, vì sự dẫn dắt câu chuyện, lý giải các sự kiện lịch sử, văn chương, triết học.

Kiến thức sâu rộng, biết nhiều ngọai ngữ nên nguồn đọc của cụ Gàn không lệ thuộc vào sách nhập nội thông qua dịch thuật. Cách nói ngắn gọn, hàm súc, nhiều ẩn dụ, đậm chất hài huớc. Giọng cụ hiền hòa, hấp dẫn; không dạy đời, không cường điệu; rất chân tình, nhưng thẳng thắn, vì tôn trọng sự thật.

Cụ là nguồn tư liệu phong phú cho các ký giả trẻ muốn tìm hiểu sinh họat của Sài Gòn cũ, từ chuyện chính trường đến chỗ ăn chơi, nhà hàng vũ trường; từ tổ chức guồng máy hành chính đến hệ thống quân đội. Cụ là cố vấn đặc trị thiếu hụt kiến thức nhiều mặt, cho quý vị thạc sĩ tiến sĩ nội địa có ngọn mà thiếu cái gốc, đang giảng dạy ở một số Đại học hiện nay.

Cụ Gàn nói chung, là đẹp; uyên bác một học giả; phong thái ung dung một đạo gia. Cụ là đủng đỉnh của thời gian ngưng lại. Của vững chải khi ta đối diện. Nhưng thỉnh thoảng cụ cũng va vào đời thường trong những chuyện vặt vãnh. Cụ tận tụy kiểu con tằm. Cụ dập mỏ vì cái nghịch lý chết người này.      

Cụ không hiểu nhiều về thế hệ mới trong một xã hội có một nền giáo dục mới. Cái nền giáo dục mà hình vuông có đường bán kính và hình tròn có khi nó có ba góc. Cụ không hiểu rằng nền giáo dục mấy thập kỷ trên nước non này dạy con-người-hai-chân nên sống theo cách con-lừa-bốn-chân cho vững chắc thăng tiến, và cho người khác một niềm tin đồng đội: “ Được, thế là tốt, mày khôn ngoan quá, nhiều sáng kiến quá, ra ngoài luồng,  là chết mẹ mày”.

Cụ quên rằng trái đất không còn tròn trịa như thế hệ cụ nhập tâm. Cụ là một nhàn nhã nối tiếp những cha ông, trong xa xăm, không hề có dự báo bão từ xa theo đài thiên văn như hôm nay. Trong thôn xóm bình lặng, xưa kia, với cụ, kinh nghiệm mọc ra như cỏ dại đồi hoang. Đêm khuya nghe tiếng sóng biển vỗ ngược miền; hôm qua nó reo vùng Cửa Bắc, khuya này âm vang hơi cuồng nộ, đã chuyển vào phía nam An hòa. Vậy là biển Đông đã cho ta lời báo bão. Nhân gian trước truyền lại kinh nghiệm cho nhân gian sau là như thê. Chưa hề có cái nhân gian Chát, Mạng, Meo, Bờ Lốc.

Hoặc một chiều hôm, ta biết trời đất sẽ chuyển dạ, thông qua chỉ một vài ngọn mây xám đen chân trời. Biết một trời sẽ điên dữ tối tăm, qua cái chớp nguồn, qua một thoáng lạnh nhận ra chỗ não trạng khi trong chiều hãy còn nắng ấm mông lung. Rõ, là cụ Gàn vẫn còn trong một khoanh vùng, dừng lại có điều kiện, giữa một thế giới cũ, tâm thức hãy còn xa lạ so với bọn trẻ, ngay trong gia đình. Cụ thanh sạch trong một xã hội mới, đã từ lâu đồng thuận một thứ thanh sạch ngược chiều.

Cụ đạt tới chỗ vi diệu của Đạo nhưng rất ngây thơ với những trò ma giáo sơ đẳng. Cụ là núi là rừng của kiên thức, kinh nghiệm. Nhưng thiếu cập nhật những hiện tình.Từ nhiều năm trước cụ bị lừa mất cả một căn nhà. Cụ thông rõ lẽ thiên địa vô tướng hình của Dịch, đọc cả ruột gan âm dương, nhưng cụ chẳng hiểu gì văn hóa của hôm nay, tỉ như trong cái nhà tiêu chẳng hạn.

Một hôm ở một quán nhậu, tình cờ đứng trong toa lét cụ thấy y như rằng một chục thằng trai trẻ chẳng có đứa nào vạch cu ra đái xong mà chịu rửa tay, khi la va bô và nước sẵn một bên.

Ấy thế, bàn tay bẩn, chúng cứ xé một miếng khô mực, nồng nàn cùng mình, dí vào mồm con bồ cao cẳng. Ngứa cái não, cụ nhẹ nhàng bảo một thằng trai trẻ:

“Này, xin lỗi, tiểu xong thì nên rửa tay đi cháu”

Cụ bị phản đòn ngay:

“Con cặc là chỗ ngon cơm nhất sao lại phải rửa? Đáng lẽ phải rửa tay sạch sẽ  rồi mới kính cẩn cầm thằng nhỏ mà tè chớ”.

Mà đâu phải mỗi thằng trai trẻ mất dạy hỗn láo với cụ. Cả một bàn nhậu ồn ào, thân ái, như cả một thế hệ tươi mới của nước non anh hùng đồng lọat xông tới cái trào lưu mới, cuộc hiện đại bát ngát riêng mùi.

Rõ ràng một thằng nhóc vừa từ nhà tiêu ra, nó bốc một lọn chả tròn tròn như cái cán dao, đùa vui với con nhỏ cùng bàn: “Hả mồm ra, hả ra, ngậm nào” Đứa con gái phạch mồm ngậm một lọn chả. Có thể vì đó là thịt chăng. Con nhỏ đôi mắt riu ríu, ngậm đầy miệng cái dài dài tròn tròn như cái ngón chân cái. Nó ngước mặt đỏ lựng lên, để cho khỏi rơi, cho thêm hình tượng. Nó chừng như nhận ra trong chả lợn beo béo có cái hương vị cặc

Một hôm nhân giỗ kỵ ông cố nội của cụ, tức ông cao của thế hệ sau cụ. Ông này quan thượng thư triều Nguyễn. Con cháu tề tựu. Lạ thay, bọn nghèo khó làm thuê cuốc mướn, thợ hồ, thợ may, bán báo dạo, bọn này ăn bận khá đàng hòang, tác phong cung kính. Nhưng một đám tạm gọi là có ăn học, cha mẹ chúng là các quan lớn, các đại gia tư sản, lại ăn bận khá phiêu lưu trong mắt cụ. Áo ba lỗ, quần cụt ống, trang diện cở May - Cồ; có đứa lòi lỗ rốn, tròn sâu màu trắng nhủ, tô vẽ lỗ rốn như môi mắt; có đứa con gái cúi xuống lạy ông Cao tổ thì lòi cái khe mông đít đen đen mốc mốc.

Cụ gọi một thằng đầu đinh trong đám ra nói nhỏ nhẹ:

“ Này cháu, ông đây cũng  từng nhảy đầm, rất thích nhạc pop, cũng khoái cái cách tân, nhưng hôm nay ngày kỵ giỗ ông Cao các cháu. Không có ông Cao không có giềng mối tộc họ to lớn nhiều mặt này”.

Bọn nam nữ OK, rồi lặng lẽ cùng nhau ra về. Tưởng rằng bọn nó về thay áo quần chỉnh tề, trùng tu những bộ mặt coi ông bà ông vải chẳng là cái đinh cái đéo gì, quay trở lại đám kỵ giỗ. Không phải, chúng đồng lọat kéo nhau ra quán lai rai. Trước khi ra quán, con nhỏ lòi khe mông đít khề khà dớt một mớ đồ cúng chưa kịp đưa lên bàn thờ ông Thượng thư làm mồi nhậu.

Một sáng cụ Gàn đi tập dưỡng sinh. Trời hãy còn tối đen, cái sao Mai lơ láo một phần trời, một bọn lưu manh – mà bọn lưu manh thời hiện đại đi xe dream, ăn mặc đàng hoàng, có điện thoại cầm tay, trộm cướp lưu động – đang cạy cửa một căn nhà, định gom của.

Nhiều người đi qua thấy vậy lặng thinh, làm ngơ bỏ đi. Mặc kệ, chúng cạy cửa nhà người đâu cướp của nhà mình. Không quan tâm tới nỗi đau kẻ khác là hợp trào lưu. Nhưng cụ Gàn, cụ từ tốn vào cuộc:

“Này các cháu, ta nên làm ăn lương thiện, sao đi làm chuyện phi pháp thế này”.

Bọn ăn trộm thời thượng bị động ổ, bỏ đi. Ra đầu đường chúng dừng lại, chờ cụ tới. Bọn lưu manh vừa dạy dỗ vừa hài tội cụ:

“Thằng cha già. Việc ai nấy làm, đời ai nấy biết, không nên lắm chuyện nghe. Tao tặng lão một cục gạch này”
  
Tưởng nể tuổi già dọa chơi, hóa ra tụi nó đinh cụ. Đinh nhiệt tình.

+++

Tôi hay tin cụ Gàn qua đời đã bảy ngày sau. Hôm ấy trời đất buồn bã. Cỏ cây hóa xám. Trong những khoảng cách nắng mềm, lại mịt mù những cơn mưa lớn. Lội qua năm bảy con sông phố nước ngập, tôi giáp mặt cái bàn thờ của cụ.

Cái lạ, trên bàn thờ thay vì thờ tấm chân dung cụ Gàn, con cháu cụ lại thờ một cục gạch thấm máu. Nó như một bức tượng. Thần tượng này bị bể một miếng dính máu. Chỗ ấy là chỗ cục gạch từng tử chiến với cái sọ não uyên bác của cụ.Tôi định hỏi cách tôn kính lạ lùng này nhưng lại chợt hiểu: 

“Con cháu nhà cụ Gàn thật tuyệt cú mèo. Trên mặt đất này, hôm nay, nếu thờ cái nạn nhân thì có mà hàng triệu triệu. Thờ quách cái tội lỗi, cái nguồn cội bao la gây ra tội. Đơn giản là thờ cái hệ thống.”

“ Ừ, thờ quách cái Hệ-thống-thấm- máu”


Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2018

Trại súc vật của George Orwell: Biếm họa sâu cay về “các thế lực thù địch”




Thuận Nhân

Trại súc vật của George Orwell là một tác phẩm nổi tiếng từng được tờ Time bình chọn là một trong 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất, nằm thứ 31 trong danh sách các tác phẩm hiện đại hay nhất của thế kỷ 20, và nằm trong tuyển tập các tác phẩm lớn của thế giới phương Tây.

Trại súc vật bắt đầu bằng việc một bầy súc vật không chịu nổi sự “bóc lột” của con người mà vùng lên làm cách mạng tạo phản, cuối cùng đã đuổi được con người và thành lập một “Trại súc vật” do mình làm chủ.

Nhưng không lâu sau đó, con heo lãnh tụ, kẻ dẫn đầu bầy động vật tiến hành “cách mạng”, lại được hưởng đặc quyền, một mình hưởng thụ sữa bò và táo. Khi các loài động vật khác, những kẻ từng ôm giữ ý niệm “tất cả các loài động vật đều bình đẳng như nhau” mà tham gia cách mạng, nghi ngờ con heo lãnh tụ, con heo phụ trách tuyên truyền đã giải thích rằng:

Chúng tôi ăn những thứ này mục đích duy nhất là phải giữ gìn sức khỏe cho chúng tôi. Toàn bộ việc quản lý và tổ chức công việc trong khu vườn đều dựa vào chúng tôi. Chúng tôi vì hạnh phúc của mọi người mà ngày đêm tận tâm tận lực. Do đó, điều này là vì các bạn, chúng tôi mới uống sữa bò và mới ăn táo. Các bạn có biết không, lỡ khi loài heo chúng ta mất chức, vậy chuyện gì sẽ xảy ra? Jones sẽ cuốn bụi mà quay trở lại! Đúng vậy Jones sẽ cuốn bụi mà quay trở lại! Quả thực, các đồng chí! Jones vốn là ông chủ của khu vườn, cũng là kẻ thống trị của ‘xã hội cũ’.

Một vài loài động vật cá biệt mơ hồ nhớ rằng khi Jones còn ở đây, tình hình cuộc sống của các loài động vật hầu như không kém hơn so với hiện tại. Nhưng theo sự tuyên truyền ngày qua ngày, nỗi sợ hãi Jones sẽ cuốn bụi mà quay trở lại đã ăn sâu vào đầu những loài động vật như một phản xạ có điều kiện. Vậy là lũ động vật không còn lời nào để nói về đặc quyền của heo. Rất nhanh, đặc quyền của heo càng ngày càng nhiều…

Mặt khác, làm thế nào để đề phòng việc Jones lại cuốn bụi quay trở lại, đặc biệt là sự câu kết giữa kẻ đồ tể và Jones, phá hoại trang trại mà lũ động vật vận hành, đã trở thành một nội dung quan trọng trong cuộc sống thường nhật của các loài động vật. Đối mặt với “đại sự hàng đầu” như vậy, những bất mãn và ý kiến bất đồng khác đã trở thành chuyện vặt vãnh không quan trọng. Hơn nữa, luôn luôn “đề cao cảnh giác”, “chuẩn bị chiến đấu” đã trở thành một nội dung quan trọng bậc nhất vượt qua mọi điều trong cuộc sống xã hội. Bên cạnh đó, dưới sự điều động của con heo lãnh tụ, lũ động vật làm việc ngày càng chăm chỉ hơn, hứa hẹn cho một “cuộc sống tương lai dễ chịu”.

Cá biệt trong lũ động vật, có một con ngựa cần cù chăm chỉ, làm việc cho đến khi gục ngã. Thế là con heo lãnh tụ cử một chiếc xe kéo tới, nói là để đưa ngựa tới bệnh viện an dưỡng. Tuy nhiên, con lừa biết đọc lại phát hiện ra rằng đó là chiếc xe của một tay giết thịt. Vậy là con heo tuyên truyền phải vào cuộc, nói rằng chiếc xe đó đã được mua lại từ tay kẻ đồ tể, và rằng con ngựa sẽ được an dưỡng thích đáng.

Một thời gian sau, con heo tuyên truyền công bố rằng con ngựa đã ra đi hạnh phúc trong bệnh viện, và lũ heo tổ chức một ngày lễ để tôn vinh con ngựa, cùng trại súc vật vinh quang, và khuyến khích các con vật khác noi gương con ngựa…

Nhưng sự thật là con ngựa đã bị bán cho kẻ đồ tể, để lũ heo có tiền mua rượu whisky.


Nhiều năm sau đó, trại súc vật ngày càng hoạt động tốt hơn, và thu được nguồn lợi nhiều hơn. Nhưng những gì được hứa hẹn như đèn điện, hệ thống sưởi, nước uống đều bị quên lãng. Con heo lãnh tụ đã khiến lũ động vật tin rằng sống một cuộc sống giản dị là điều hạnh phúc nhất. Những con heo bắt đầu bắt chước lối sống của người, đi bằng hai chân, mang theo roi da, mặc quần áo. Lý niệm “tất cả các loài động vật đều bình đẳng như nhau” được thay thế bằng lý niệm “tất cả các loài động vật đều bình đẳng như nhau, nhưng một số thì bình đẳng hơn những con khác”.

Khi con heo lãnh tụ mở một bữa tiệc và mời những người nông dân ở địa phương tới, lũ động vật trong trại nhìn từ heo sang người, và chợt nhận ra rằng, chúng không còn phân biệt được heo và người nữa…

Mặc dù Trại súc vật vẫn còn thể hiện rõ những luyến tiếc về quan niệm bình đẳng xã hội không tưởng của tác giả, nhưng quả thật George Orwell đã thành công trong việc khắc họa bản chất triết học đấu tranh của kẻ thống trị chuyên chế một cách giàu hình tượng và sâu sắc.

Thông qua hình tượng kẻ địch vô hình được tạo ra và lưu giữ mọi thời khắc trong đầu óc lũ động vật, thông qua việc cường điệu sự nguy hiểm của kẻ địch mọi lúc, cường điệu tính tất yếu của việc “đoàn kết nhất trí”, kẻ thống trị đã khiến lũ động vật phải “tạm thời nhẫn nhịn” tất cả sự bạo ngược. Lũ động vật ngây thơ tin rằng hành vi bạo lực này xuất phát từ một nguyện vọng bình đẳng tốt đẹp, và cuối cùng sẽ mang lại hạnh phúc cho mọi người.

Nhưng tất nhiên, người ta có nam có nữ, có giàu có nghèo, có sướng có khổ, có ngọt bùi có đắng cay, có chăm chỉ có lười biếng, có giỏi có kém, có cảm nhận khác nhau, có tính cách khác nhau, có hoàn cảnh khác nhau, vậy thì cuộc sống mới thật là phong phú và có hương vị. Cái gọi là nguyện vọng bình đẳng không tưởng bên trong nguồn tài nguyên có hạn là trái đất này, và thứ học thuyết đấu tranh luẩn quẩn kia, đều chỉ là ngụy biện mà thôi…

Thứ Năm, 6 tháng 9, 2018

PHÙNG GIA LỘC và Cái Đêm Hôm Ấy Đêm Gì chấn động 30 năm trước





Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng… Thế nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh ốm o ấy lại luôn là một tấm lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái ác, không chịu được sự bất công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới… Giai đoạn quyết liệt nhất, sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội… Tôi vẫn nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc sau những ngày trốn tránh. Vợ anh chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng, tất tả, tiêu điều không khác gì chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo hơn nhà chị Dậu…








Thế là đúng 30 năm tính từ khi bài kí “Cái đêm hôm ấy đêm gì” (1988) của Phùng Gia Lộc xuất hiện trên tờ Văn nghệ. . Ngày ấy báo Văn nghệ bán chạy như tôm tươi. Ngày ấy bạn đọc hồi hộp chờ từng giờ, từng ngày đón đợi báo ra để…. đọc. Ngày ấy đã xa rồi, bao giờ báo Văn nghệ lại được như… ngày ấy.
Ngày ấy tôi dạy lớp chuyên văn trường Lam Sơn. Tôi quen Phùng Gia Lộc bắt đầu từ cuộc đấu tranh chống tiêu cực ở Thanh Hóa, sau đó mới là văn chương. Văn chương của anh cũng bắt đầu từ chống tiêu cực ở huyện Thọ Xuân, nơi có di tích Lam Kinh nổi tiếng.
Phùng Gia Lộc người nhỏ thó, ốm yếu, gầy gò; nước da xanh xám, thở lúc nào cũng nặng nhọc, khò khè suốt ngày vì bị hen suyễn nặng…Phùng Gia Lộc nhẹ đến nỗi, có lần ngồi sau xe tôi, anh nhảy xuống gặp người quen mà tôi không hề hay biết, cứ thế đi, mãi sau hỏi chuyện vẫn không thấy anh trả lời, quay lại mới biết là đã đánh rớt anh từ lúc nào không hay. Cũng vì ốm yếu, bệnh tật thế nên anh rất sợ nước. Hầu như anh ít khi tắm, nhất là về mùa đông. Cũng vì thế mà, thú thực người anh rất bẩn, bẩn theo nghĩa đen. Anh ngủ lại nhà tôi mấy lần. Cứ mỗi lần anh về, vợ tôi lại phải giặt giũ, chăn chiếu rất nặng mùi…
Thế nhưng, bên trong con người có bề ngoài mảnh khảnh ốm o ấy lại luôn là một tấm lòng nồng hậu, một tinh thần sục sôi chống lại cái ác, không chịu được sự bất công, ngang ngược của bọn quan lại, cường hào mới thời ấy ở xứ Thanh. Giai đoạn quyết liệt nhất, sau khi đăng “Cái đêm hôm ấy đêm gì”, Phùng Gia Lộc phải trốn ra Hà Nội, nương nhờ bạn bè ngoài thủ đô, nhất là gia đình anh Bế Kiến Quốc và chị Đỗ Bạch Mai như nhiều người đã biết. Gần tết năm 1988, anh trở về. Tôi và vài người bạn nữa đưa anh từ thành phố Thanh Hóa lên Thọ Xuân quê anh.
Tôi vẫn nhớ như in cái cảnh về quê của Phùng Gia Lộc sau những ngày trốn tránh. Vợ anh chạy từ đâu về không biết, mặt mày hốt hoảng, tất tả, tiêu điều không khác gì chị Dậu trong Tắt đèn ngày trước. Mấy đứa con ngơ ngác, lạ lẫm trước đoàn khách xe pháo, hàng hóa lềnh kềnh đầy một khoảng sân đất trước nhà. Nhà anh xiêu vẹo hơn nhà chị Dậu, bốn phía được níu chằng bằng 4 giây thép vào 4 chiếc cọc để khỏi đổ. Ba gian nhà tranh, ngăn bằng vách nứa, gian giữa là chiếc bàn khách, mặt bàn là 1 tấm phên, đặt trên 4 chiếc cọc tre cắm xuống nền nhà. Gian kề đó là 1 chiếc giường gỗ xoan, thấy vẫn còn buông chiếc màn màu cháo lòng… không thể gọi là màn. Tôi vào gian bên trong, thấy 1 chiếc giây kéo chéo góc, trên vắt toàn áo quần cũ, dưới đất là chiếc ổ lá chuối lẫn rơm thay giường ngủ…Thế là hết, không thấy thêm gì khác. Bước ra sân mới thấy một chiếc rổ đựng mấy củ khoai lang, đặt cạnh một chiếc chum sứt miệng đựng nước uống được gánh từ sông về, đục màu nước luộc hến. Chủ nhà loay hoay pha trà đãi khách, nhưng không có phích nước sôi nên đành xuống bếp đun. Đun bằng rơm nên mùi nước ám khói, khó uống, cứ mỗi lần đổ thêm lại chạy xuống đun lại…Cạnh bếp lửa thấy có thêm một chiếc ổ lót bằng lá chuối và rơm rạ để ngủ…
Tôi, lúc đó và ngay cả bây giờ, khi viết những dòng này, vẫn bâng khâng khôn tả, không hiểu được tại sao một người như Phùng Gia Lộc lại chịu cảnh khốn cùng đến thế, ngoài sức tưởng tượng của tôi. Bỗng nhớ mấy câu thơ Bế Kiến Quốc tặng Phùng Gia Lộc: “Cái đời cán bộ ở Hà Nội/ Thấy mình thiếu thốn đủ trăm đường/ Nhìn xuống chao ôi, thăm thẳm mãi/ Tận cùng là bạn ở quê hương”.


Hôm nay 5-9-2018, tôi viết đôi dòng nhắc lại kỉ niệm về Phùng Gia Lộc 30 năm trước
ĐỖ GIA THỐNG








Mời đọc lại tác phẩm chấn động 30 trước


CÁI ĐÊM HÔM ẤY ĐÊM GÌ…


Cuối năm 1983, tôi được ở nhà chờ quyết định về nghỉ chế độ. Chiều chủ nhật, thằng Học con tôi rủ rỉ nói:
- Con bắt được bác Quang ăn bánh cuốn ở hàng anh Minh. Bác đi thồ sắn ở chợ Phúc Địa về. Bác cho mấy bó nhưng con không lấy. Bác dặn con về đừng nói với bố mẹ là đã gặp bác. Nói, hôm nào sang bác đánh chết.
- Hừ! Lại thế nữa...
Tôi buột miệng bảo với con thế, rồi thừ ra. Bạn bè anh em cùng một phòng với nhau mà đi qua không vào. Có điều gì nhỉ?
Sáng thứ hai tôi sang cơ quan ứng mấy cân gạo và định bụng sẽ gặp, trút sấm sét lên đầu anh ấy. Nghe tôi trách, Lê Trung Quang, trưởng phòng tổ chức Ủy ban huyện Thọ Xuân, cười hà hà làm lành thật đôn hậu, dễ yêu:
- Giá có một mình thì tôi vào. Đằng này những bốn binh, khao được, anh cũng liệt. Vả lại, bốn cái xe nặng è, sợ tối.
Là trưởng phòng tổ chức ủy ban huyện, anh cũng để gia đình vợ con đói thiếu. Ra anh còn kém cỏi hơn cả tôi, một kẻ chân chim trần trụi, một tay sắp trở thành "phó thường dân". "Nhà mình cũng bí. Nộp sản đi rồi, lúa đã cạn. Khó mà ăn thấu tết được". Quang lắc đầu bảo thế.
Anh gạn tôi:
- Ông ở đây với tôi đêm nay cho vui. Tôi buồn quá.
Tôi chỉ vào mấy cân gạo đã bó buộc sau xe, bảo anh Quang:
- Phải mang "hàng chiến lược" này về chứ.
Nếu nghe lời Lê Quang Trung nằm lại với anh một đêm, thì tôi đã không thể nào hình dung nổi ở Phú Yên xã tôi Cái đêm hôm ấy là đêm gì...
Có cái "các" quá giang của Lê Trung Quang cho mượn, tôi không phải mất ba đồng tiền đò. Qua sông Chu gió vù vù bên tai, tôi phải kéo vành mũ len, trùm thấp cho đỡ run. Tôi về đến nhà, trời đã sẩm tối, con mực xông ra í a í ẳng vờn chân lên hông. Vợ tôi bế thằng Văn ngủ khì trong lòng, ngồi bên bếp than vỏ cao su um khói. Bên cạnh, thằng cu Thức bốn tuổi đang liến láu. Còn Học - thằng con nhớn đang học bài ở nhà trên.
Thấy tôi về thằng Thức reo lên:
- A bố! Bố về là bố về! Có chi không bố?
- Có cái rét cóng đây này!
Tôi nói rồi dắt xe vào nhà, mở túi gạo, vác xuống bếp khoe:
- Ứng được năm cân gạo.
Bà cụ thân sinh ra tôi mệt đã lâu, thấy tôi về, cũng gượng chống gậy xuống bếp sưởi. Cụ bảo:
- Mẹ Học đi nấu cơm cho bố va ăn!
Tôi hỏi:
- Nhà ăn rồi hả mẹ?
Cái thằng Thức đến là hở miệng, cấm có giấu nó được tí gì. Nó nói:
- Chỉ nấu cơm cho bà với em thôi! Mẹ với anh Học, với con ăn cháo rau má rồi. Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau cải.
Tôi thấy cay sè trong mắt.
- Thế thì nấu thêm vào. Hết thì tao đi bới đất, nhặt cỏ, van ông vái bà. Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào?
Vợ tôi định cãi câu gì đó, nhưng lại thôi, vội trao thằng Văn cho bà rồi lại mở túi gạo đi vo. Bà cụ nói:
- Rau cải ế nhăn! Đói, chả mấy người mua. Hôm nay mẹ va không đong được gạo. May lấy được đấy, không thì mai gác con lên...
Ngoài cửa gió ào ào, tiếng chó sủa ổng oảng ở đầu ngõ. Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú Được. Hoa cũng người họ Phùng, gọi tôi bằng bác. Chồng cô ấy là đội trưởng đội sản xuất cũ, nay vừa được rút lên làm trưởng ban định mức, rồi phó chủ nhiệm. Cô vào bếp vừa nói, vừa run:
- Sao năm nay rét sớm thế này? Bác bán cho cháu mấy bó rau cải xào.
Vợ tôi bắc nồi cơm lên bếp, mấy bà cháu phải dồn chỗ cho hai người đàn bà tê cóng này ngồi cạnh bếp hơ tay, ngó chẳng khác những viên đạn bị nén trong cái băng lò xo tròn. Tuy gần bằng tuổi vợ tôi, nhưng là hàng cháu họ, nên Hoa vẫn bác bác, cháu cháu ngon ơ.
- Bác có ngan, gà gì để cho cháu vài cân. Giá mấy cũng được, cháu không quản.
- Còn có vài ba con, phải để hôm sau bà...
Tôi lừ mắt chặn lại câu nói hớ, khiến vợ tôi im bặt. Chả là vì mẹ đẻ ra tôi yếu lắm rồi. Cụ đã bảy mươi lăm tuổi, lại phù nề mặt mũi vàng ủng như quả thị rụng. Ai cũng bảo khó qua cái đầu mùa Đông này. Vì vậy gia đình tôi đã lo chuẩn bị ngầm, phòng sau khi cụ về cõi. Cái gì vợ tôi cũng bảo dành để hôm sau bà... thành quen miệng. Cau cũng phơi kỹ bỏ be để hôm sau, thậm chí bọt bẹt được đồng rau nào cũng dồn mua ván đóng sẵn áo quan để hôm sau... Ấy nhưng nói đến cái chết, cụ lại giận và làm nau: Bay trông tao chết à? Tao phải sống để nhìn con cháu được đến lúc sung sướng chứ. Khổ mãi rồi.
Tôi hỏi Hoa để lấp láp câu hớ rồi cho bà cụ khỏi giận:
- Mua đồ nhậu làm gì tối thế này?
- À... mua cho mấy thằng về đội ta thu sản, khuya các hắn đớp. Đội và quản trị thuê khoán cháu nấu.
Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện "bí mật nội bộ". Hoa thì thò cho vợ tôi biết đêm nay là đêm "đồng khởi" thu sản, tổng vét cả xã. Họ sẽ đổi chéo, công an và dân quân đội này về đội kia, vét bằng hết. Vì đội 12 này là nặng gánh nhất, nên họ sẽ điều về đây những tay cứng cựa. Hoa khuyên:
- Bác có thiếu sản, thì liệu mà xoay đi
- Thế thì tao đét bán rau cho mi nữa.
Vợ tôi toan từ chối, nhưng Hoa nài mãi và có tôi nói vào nên chị chàng mới chịu nghe. Hoa cầm đèn ra vườn soi cho vợ tôi hái. Cô ấy cầm rau, rồi còn đi các nhà bên cạnh hỏi mua gà. Cơm cạn, tôi vần cạnh bếp. Vì không phải ghế độn khoai độn sắn gì nên chín rất mau. Thấy chỉ nấu mình cơm tôi, lòng tôi lại buồn nổi gai. Vợ tôi bế thằng út vào lót cho nó ngủ trong buồng, rồi lấy cho tôi cái bát, đôi đũa. Cuộc chào mời đùn đẩy, nhường nhịn nhau rõ bực.
Tôi lùa hai bát cơm với nước dưa chua, rồi bỏ đấy. Bà cụ nài, rồi tôi dỗ thằng Thức cũng lắc đầu không dám ăn chỗ cơm còn lại. Hắn sợ mẹ. Nhà này, mẹ chúng nó có quyền uy tối thượng. Biết vậy, nhưng tôi cũng sắp trở thành kẻ sống nhờ...
Ngồi ở bếp, tôi hỏi vợ:
- Nhà mình còn thiếu của hợp tác xã bao nhiêu thóc nữa em?
Cô ấy không trả lời tôi mà nói rất vô lễ:
- Có biết thế này, đái tòe tòe vào, chứ tội gì lôi về. Cha đời! Bữa trước thì tuyên bố vớt được nấy ăn nấy, người ta mới hụp lặn xuống nước lụt mà khở (gở) từng bông lúa. Nay lại giở trò giảm tỷ lệ!
Tôi vỗ về:
- Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao nhiêu?
- Một tạ mười hai cân, em đã trình bày với anh Nhà đội trưởng rồi. Thực tế mò được hạt nào đã ăn hết hạt nấy. Mấy lâu nay bán được đồng rau nào mua ăn, không bán được thì nhịn. Đã nói khất rồi. Không cho khất, thì nhà đấy có dỡ được, đến mà dỡ.
- Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo bán khéo mua thua người khéo nói! Gia đình mình, con cái mình còn ăn đời ở kiếp nơi đây.
Vợ tôi rền rĩ như sắp khóc:
- Chả nhẽ kiếm liều thuốc chuột, cho vào nồi cháo, ăn hết cả nhà cho sướng cái đời...
Ngồi sưởi ở bếp rất lâu, vỏ cao su cháy tàn, đã vạc hai ba đống than, mà chẳng ai muốn nói với ai câu nào nữa. Bà cụ ngồi lâu, mỏi và chán chuyện bỏ đi nằm. Thằng Học làm toán xong, lấy cho bà nồi than, rồi cũng rúc xuống bếp. Hắn đi bốc rơm lót ổ ngay cạnh bếp, lấy ván chắn rồi trải chiếu, ôm chăn ra nằm.
- Ngủ đây mà ấm, bố ạ!
Trong giường thằng Út Văn khóc í óe. Hắn lại đái lạnh đít rồi. Mẹ nó vào quả không sai. Nó được ôm ra bếp sưởi, nằm gọn trong lòng mẹ. Gần một tuổi mà nó còn bắt nhá cơm bón và bú thì hơn con bê non. Lại nhai tòm tọp thế đó! Tôi đùa với con để nó cười sằng sặc cho dịu cơn lo buồn.
Gần mười hai giờ khuya, cả nhà đi nằm. Tôi ngủ với hai thằng oắt trong ổ rơm dưới bếp.
Có điều gì đó bồn chồn và nơm nớp...
Bỗng tiếng kẻng gõ giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã: từ đội 1 đến đội 15, như một sự bùng nổ dây chuyền. Tiếng loa phóng thanh mở hết cỡ đọc bản tin, kế hoạch huy động lương thực của tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về công tác lương thực.
Hoàng Văn Nhân, đội trưởng đội 12, đọc trên loa danh sách những nhà thiếu thóc chưa giao nộp cho hợp tác xã. Đèn đóm soi rừng rực ở các ngã đường. Chó sủa ơi là chó sủa. Cũng cái loa phóng thanh ấy, có tiếng ông chủ tịch xã gọi cán bộ về đội 12 hội ý.
Ông trưởng công an xã Nguyễn Đình Định gào rát cổ trên loa, giọng giật giội gọi lực lượng dân quân, công an tăng cường về chi viện cho đội 12, tạo đà cho đội hoàn thành chỉ tiêu huy động. Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ gõ cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ.
Gần một giờ sáng, công an, dân quân đã ập đến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu èng ẹch như bị chọc tiết ở các nhà gần quanh, làm thằng Út Văn khóc thét lên, ôm riết lấy mẹ. Thằng Thức cũng im thin thít, nằm co trong lòng tôi không dám cựa. Bên nhà ông Ái, láng giềng cách vườn nhà tôi một hàng rào, công an và dân quân đang lùng sục. Tiếng ông bà Ái kêu xin và tiếng quát lác, tôi nghe rõ mồn một.
- Cứ bắt lấy cái xe đạp! Phích, xô, bắt ráo!
Ở cổng nhà tôi đã có bước chân rình rịch, con chó mực đang có chửa bị quất, kêu ử ử.
Cạch cạch cạch.
- Chị cò Lộc, mở cửa ra!
Tiếng thằng bé trong buồng khóc thét. Thằng Thức đang ôm tôi, nghe em khóc cũng òa khóc toáng lên. Thằng Học mười hai tuổi đã học lớp tám rồi, mà cũng níu lưng tôi run bắn. Nghe tiếng quát lần thứ hai, từ nhà bếp, tôi chạy lên. Một luồng đèn pin soi giữa mặt làm tôi lóa mắt, phải lấy tay che.
- Có chuyện gì đấy, các bạn trẻ ơi?
- Thu thóc, thu thóc chứ còn gì, ông đừng hỏi vờ.
Vợ tôi đã mở toang cửa, tay ôm thằng bé ngất lịm. Một anh, hai anh... bốn anh bạn trẻ ùa vào nhà. Anh đi đầu cao to, tóc cắt tăng gô, mặc áo bông thùng thình, soi đèn pin rồi đánh diêm châm cái đèn hoa kỳ ở bàn thờ. Có lẽ Tâm "hộ pháp" là người này. Phải, tôi đã thấy anh ta đứng chân hộ vệ giữa, trong một cuộc đá bóng với xã khác. Tay anh cầm cái choòng sắt cỡ ngón tay cái. Vợ tôi mời họ ngồi ghế. Bà cụ đang ốm ở giường bên cũng cố ngóc dậy, run rẩy chào.
Theo danh sách đội báo, chị còn thiếu hơn tạ thóc. Yêu cầu chị đem nộp ngay!
Bà cụ tôi đáp thay con dâu:
- Các bác các anh ơi! Có còn cái gì mà nộp. Các anh và các bác không thấy đàn con hắn đói xanh đói trong đi à? Các bác không thấy tôi cũng phát phù phát nề, vàng cây úa lá đây à?
- Chúng tôi không hỏi mụ nghe chưa?
Cả bốn người cùng soi đèn pin khắp nhà trong, nhà ngoài, dưới bếp, bên chái. Hai người tuông soi cả trong vườn rau. Vợ tôi mếu máo:
- Làm gì có lúa để ngoài ấy. Các anh xéo nát cả rau.
Tôi chạy ra trụ sở đội, định tìm cán bộ trình bày. Chủ tịch Phê, bạn dạy học với tôi ngày trước, đi bộ đội về giải nghệ, vào cấp ủy, đang đứng đấy. Thấy thế tôi mừng quýnh. Lại thấy cả Phùng Gia Miện anh họ tôi, làm bí thư đảng ủy cũng có mặt, tôi càng yên trí. Nhưng thấy tôi họ quay đi lảng tránh.
Anh Miện bảo nhỏ tôi:
- Chú về động viên gia đình thanh toán bằng đủ, nhà mình là cán bộ. Không có thóc thì nộp bằng tiền. Lãnh đạo đã nhất trí cho nộp cả bằng tiền rồi đó.
Tôi đang định nói: "Đã không có thóc thì làm cóc gì có tiền", nhưng anh họ tôi đã dịu giọng:
- Ở đội trên, hắn bắt cả anh Thiện, anh ruột tôi, mà tôi cũng phải điếc đi... "Mất mùa màng, lợi ích thứ ba của người lao động phải hy sinh cho lợi ích của nhà nước". Đồng chí bí thư tỉnh ủy đã chỉ thị thế, chú biết rồi đó.
Lúc ấy ở trụ sở, công an, dân quân đã khuân về nào xe đạp, bàn ghế, tủ, chum vại, thùng tôn, lợn gà... để ngổn ngang ra tận ngõ. Tên chủ nhà thiếu thóc đề chữ bằng phấn trắng vào các đồ vật: Ông Ất, ông Do Khả, ông Hưng, ông Hồng, ông Khính (mẹ đẻ cô Hoa, mẹ vợ chú Được phó chủ nhiệm)... Mấy con bò bị bắt cột gần đó sợ đèn, sợ đám đông cứ lồng lên, chực bút mũi. Chúng xoay vòng quanh, mgửa lên mặt kêu "hấp bồ", "hấp bồ"...
Tôi loạng choạng đi về nhà, thấy người ta đang còn soi đèn tìm rất kỹ. Tôi nói:
- Các người anh em soi tìm gì cho mất công. Nhà tôi xin khất đến mai, tìm cái bán chác, nộp tiền bằng đủ.
Anh đầu tốp nháy nháy mắt ra hiệu.
- Đêm nay là đêm nay! Mai chúng tôi mất thưởng ai chịu cho?
- Bắt cái xe đạp ni, bay!
Hai ba anh chạy lại. Tôi từ tốn ngăn họ:
- Các đàn anh ơi! Tôi không làm ruộng sản mà. Đây là xe đạp nhà nước cấp cho tôi để tôi đi công tác. Các vị bắt cái này không được đâu.
- Nếu chúng tôi cứ bắt thì sao?
Tôi loáng nghĩ được một mẹo. Rút cái "thẻ hội viên Hội văn nghệ tỉnh" ra, tôi nói:
- Tôi phản đối! Tôi là "nhà báo"! Tôi sẽ kiện lên tận ông Đồng.
Nước cờ của tôi không ngờ lại có hiệu quả. Họ im lặng. Hẳn họ đã biết tên tôi dưới những bài đăng nào chăng.
Chợt vị "hộ pháp" nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài để dưới gầm bàn thờ, rồi đi lại, vừa gõ vừa hỏi:
- Cái gì trong này, chị Lộc?
Im lặng...
- Cái gì trong này, chị nói mau?
Vợ tôi ấp úng. Tôi muốn tắc thở.
- Có cái gì đâu...
Mấy vị hăm hở lại, đạp lật nghiêng một cái. Nắp văn thiên bung ra, lúa chảy rào rào. Cả toán reo lên như một hiệp đào vàng trúng vỉa:
- A! Lúa! A lúa! Lúa! Anh em ơi. Ghê thật! Thế mà giả nghèo giả khổ.
Mẹ tôi chống gậy vái dài:
- Van các anh! Cắn rơm cắn cỏ tôi lạy các anh! Lúa của tôi. Đó là tạ lúa hai đứa con gái hắn mua góp lại cho, để hôm sau tôi chết, bà con thương mà chạy đến để ăn lưng cơm sốt.
Thực ra là của hai bà chị trong đó mỗi người có mười cân thôi. Ba mươi chín cân tiêu chuẩn hai tháng vừa qua tôi lấy về, còn lại là hơn bốn mươi cân, vợ tôi đong để dành "hôm sau" cho bà.
Bà cụ nói như rên rẩm:
- Đã bảo xay phứa đi cho con nó ăn không nghe. Cứ bóp mồm bóp miệng, để dành làm chi. Sống chả thấy đâu nữa là!
Một tay râu tóc lồm xồm hỏi:
- Chị có gánh đi hay không thì bảo?
Một tay khác tôi hơi quen mặt, đến trước vợ tôi lạy lia lịa:
- Thôi em xin bà chị. Em đi làm ở đây thế này, nhưng lại có bọn khác đến chỗ em làm ác y hệt. Nhà em cũng thiếu mà. Chị không gánh, để cánh này bê cả hòm ra, chị phải chịu hai chục công là ít, chưa nói phạt tiền.
Họ xúm vào khiêng bàn thờ ra, để lôi hòm lúa. Bất đồ hai thằng Học và Thức từ bếp tuôn lên, ôm lấy tay chân chư vị, van rối rít.
- Cháu van các chú! Các chú đừng lấy lúa này đi. Lâu nay các cháu phải nhịn để dành bữa sau cúng cỗ bà, làm ma bà!
- Buông ra đi! Ô hay, đồ con nít!
Bà cụ loạng choạng đi lại, giơ gậy cản:
- Các ông không thương trẻ, thì các ông thương lấy thân già, để lấy phúc đức cho con cháu.
Vì họ đá vấp gậy, lại yếu như con căng cắc lột, bà cụ ngã chỏng queo như chiếc ghế đổ.
- Ối Đảng ôi là Đảng ôi! Chính phủ ôi... Trông xuống mà coi...
Tôi xốc mẹ lên giường, bịt mồm cụ lại:
- Mẹ! Mẹ không được la như thế! Đây không phải Đảng! Đảng ta không làm thế. Đảng không chủ trương thế này!
Tôi nói vậy và ngoặp hai hàm răng vào cổ tay mình để kìm giữ cái gì cứ chực tung ra. Hai vợ chồng xúc hết lúa ra thúng bì. Dặn thằng Học trông em, ngó bà, tôi cùng vợ hì hục gánh thóc ra trụ sở nộp...
Đoạn cuối này tôi dành cho anh Quang.
Lê Trung Quang ơi! Anh có thể giấu cái bi kịch của gia đình anh, nhưng tôi không còn có thể che giấu nỗi đau của nhân dân bất hạnh. Dù sự tiết lộ này có làm mất cái chức huyện ủy viên của anh, thì tôi cũng thấy cứ phải nói ra.
Chuyện thật của nhà anh đây: lúa vay ăn còn nợ bảy tạ, con Lâm, thằng Sơn phải đi mò hến từng bữa, chị ấy nấu bánh đúc đi các làng đổi lúa. Anh mà nói ra, người ta cho là anh bêu riếu. Việc thật ở nhà tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình bịa. Cho đến nay, mỗi khi nghĩ đến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình: "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?"
Cuối năm 1987
PHÙNG GIA LỘC

Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2018

Xác Ướp








Tru sa


Tôi sắm được một căn hộ nhỏ nằm liền kề trung tâm thành phố. Tôi không có hàng xóm. Quanh đây chỉ có các cửa hàng và một vài chi nhánh của công ty tư nhân. Tôi vẫn mời nàng về nhà. Hoặc nàng tự đến. Luôn có những bữa cơm theo kiểu vợ chồng son không hôn thú, nhưng cũng chỉ thế.

Chuyển tới căn hộ này, tôi muốn tách khỏi mẹ và dượng. Hẳn nhiên hai người họ còn rất thương tôi. Họ chu cấp đầy đủ tiền bạc, ngay tới căn hộ này đây, dù là ý của tôi nhưng vẫn phải cần đến tiền của dượng. Một sự thay đổi để tôi và nàng có thể sống chung và mãi bên nhau…Tôi không chắc. Tôi không ở nhà thường xuyên. Nàng sống một mình nhưng dù thế nàng cũng không định chuyển tới đây để trở thành một nội trợ đảm đang.

Tôi và nàng chưa bao giờ cố định vào một điều gì.

“Dựng một gia đình, ngay ở đây, được chứ.” –Tôi nói.

“Anh thật muốn như thế.” – Nàng nói.

“Có lẽ…”-Tôi nói.

“Ở cùng nhau, có thật sự là hạnh phúc. Anh nghĩ lý tưởng gì trong chuyện này. Ngày trước cha mẹ em cũng đã nói như vậy. Giờ họ đã vô tăm tích trong cuộc đời nhau.”

“Điều quái gì là nghĩa lý bây giờ?”

Nàng im lặng. Tôi cũng im lặng.

Không có thêm một tiếng vang nào. Tôi khuấy động căn hộ bằng cách bế nàng lên giường.

Nàng biết nấu ăn, thêu thùa hoặc đồ họa máy tính. Nàng chưa ổn định công việc. Đấy là do nàng muốn vậy. Chi tiêu hàng tháng nàng tự kiếm lấy bằng cách làm nhiều việc khác nhau. Đã một lần tôi thấy nàng trong trang phục nhân viên lễ tân nhà nghỉ. Khi ấy tôi đi cùng một cô gái và đặt một phòng theo giờ. Tôi và nàng không nói gì với nhau. Phòng nghỉ tôi vẫn đặt. Nàng đưa chìa khóa rồi chỉ lên tầng. Việc lang chạ của tôi nàng biết. Tôi cũng có thể kể cho nàng mình đã quan hệ với bao nhiêu đàn bà. Nàng không phải người đàn bà duy nhất có quan hệ xác thịt với tôi. Chỉ nàng là người tình của tôi.

Có một thời gian nàng đăng ký học nhu đạo. Chỗ nàng học không phải một lớp ngắn hạn được dạy trong khuôn viên trường học vào mỗi tối. Đấy là võ đường có uy tín do các võ sư người Nhật truyền dạy. Biết vài miếng võ nàng sẽ có thể tự bảo vệ mình khi tôi không có bên cạnh. Được một thời gian nàng bỏ dở. Võ sư dạy cho lớp nàng nuối tiếc về điều này. Nàng học rất nhanh và dường như có tố chất con nhà võ. Trong lớp (Tất nhiên là lớp nữ), nàng là người chỉ trong một thời gian ngắn lên được đai xanh. Bởi nàng học nhu đạo nên tay chân không có nhiều vết chai, nhưng các vết trầy xước thì vẫn có. Trong một lần tập luyện nàng đã bị chấn thương, phần thương tích đấy đã thành sẹo. Nàng không khóc, còn việc vết sẹo có làm thân thể nàng xấu xí hơn không thì có lẽ cũng chẳng phải vấn đề. Vết sẹo nằm ở hông, tôi vẫn thấy nó mỗi khi cùng nàng lõa lồ trong một cuộc ái ân. Tôi chắc nàng không bỏ dở việc học võ chỉ vì thương tích nhỏ này. Lần đó đối thủ của nàng đã bị đo ván và xem chừng tình hình còn đáng lo hơn. Cú vật của nàng đã làm cô ta gãy xương.

Nàng vẫn thường với tôi về một nhà văn. Cái tên này, nàng đã nhiều lần nhắc đến. Nàng vốn không siêng đọc sách. Bằng chứng là tôi chưa bao giờ thấy nàng mua sách, cũng như chẳng có một cuốn sách nào trên kệ tủ nhà nàng. Riêng cái tên này thì nàng lại mến mộ. Một nhà văn, với cái tên Ai.

*

Trời bắt đầu sáng. Nắng đã lên cao và phủ xuống mọi ô nhà manh áo bằng rơm. Sân thượng của tòa nhà cao đã thấy tiếng chim gọi bầy. Ngoài đường đã thấy tiếng người đi lại. Chiếc xe buýt đi chậm lại và dừng ở một tuyến đợi ven đường. Tôi ngáp dài rồi mở bao thuốc rút thêm một điếu. Nơi tôi ngồi là bậc lên xuống cầu thang bộ. Tôi ngồi đây từ tối qua, sau khi tạm biệt nàng ở quán bar. Suốt đêm qua tôi loanh quanh trên cầu thang bộ và hút thuốc. Ống lọc và tàn thuốc vương vãi dọc lối đi. Cách đây vài giờ tôi đã đái một bãi trên này. Vũng nước tiểu đã ngấm mất tiêu nhưng mùi vẫn khăm khẳm. Tôi đi lại trên cầu thang bộ. Mở bao thuốc, tôi rút thêm một điếu. Bật lửa đã hết ga. Tôi ngậm điếu thuốc trên miệng, cắn lấy đầu lọc rồi đi ngược lại phía mình vừa đi.

Một lát, tôi nhổ điếu thuốc với đầu lọc đã bị nhai nát. Tôi rời khỏi cầu thang bộ. Bắt đầu nghe thấy tiếng còi xe.

Tôi không ăn sáng. Hơn một tiếng sau tôi gặp nàng.

“Anh đi bộ à?” – Nàng nói với tôi.

Tôi gọi thuốc lá. Nàng gọi thêm một cốc sữa tươi để ăn cùng bánh ngọt.

“Nhìn anh có vẻ mệt mỏi quá, tối qua anh không về nhà phải không?”

“Anh đi dạo cả đêm, không mệt chút nào.”

Chúng tôi nói về chuyện các bài hát đang thịnh hành cùng mấy bộ phim bom tấn sắp công chiếu. Tôi châm thuốc hút. Khói thuốc phả vào mặt nàng. Nàng không xua khói, cũng không cau mày.

Tôi nhìn nàng. Đôi mắt tròn nằm dưới hàng lông mày lá liễu này tôi đã vài lần nhìn vào. Mắt nàng sâu lắng như vướng phải một nỗi buồn từ hàng thế kỷ. Đôi mắt nàng luôn hướng về một nơi chốn mà không bao giờ tôi hiểu được. Tôi không muốn nhìn vào mắt nàng. Tôi ghét điều này. Hút hết thuốc, tôi rút thêm một điếu.

Nàng nói về Ai.

“Ông ấy tự tử bằng súng lục. Một phát đạn ngay chính miệng.” – Nàng nói.

“Mỗi ngày có biết bao nhiêu người chết.” – Tôi vẩy tàn thuốc xuống sàn - “Già chết, bị đâm chết, bệnh chết hay tự bắn chết cũng như nhau cả. Vẫn chỉ là một cái xác ngã xuống và thối rữa.”

“Một phát đạn vào cuống họng, và chấm hết…” – Nàng vẫn nói.

Quán có thêm khách. Họ ngồi đối diện với tôi. Chủ quán mở nhạc, một bản nhạc đồng quê với volum vừa đủ. Tôi đốt thêm một điếu thuốc. Tôi cảm thấy váng đầu và đắng miệng. Mười mấy tiếng qua tôi chỉ cháy trong khói thuốc. Nàng hỏi tôi có ăn gì không. Tôi lắc đầu và gọi thêm thuốc lá.

*

Nàng đã đúng. Hôm trước tôi đã đi bộ tới quán. Tôi không nhớ rõ mình đã để xe ở đâu. Chắc chắn tôi không cho ai mượn hoặc gửi ở một bãi trông xe nào đó quanh thành phố. Chìa khóa xe cũng mất tiêu cùng.

“Chắc mình quên rút chìa khóa xe và một thằng cha đã nhanh tay.” – Tôi nói với suy nghĩ của mình. Tôi châm một điếu thuốc, chậm rãi hút.

Trên tờ nhật báo cuối tháng có đăng một bài về một nữ diễn viên đột tử trên sàn diễn. Gương mặt diễn viên này kể ra cũng khá quen. Bà ấy quá bảy mươi và đây cũng là vai cuối cùng của bà ấy. Theo những gì tôi đọc ở bài viết thì diễn viên đã dùng thuốc mỗi khi lên sàn diễn. Đây là một bộ phim điện ảnh và đòi hỏi có những phân đoạn mạo hiểm.

“Nếu không có sự cố này, đây sẽ là một bước ngoặt lớn của…Bộ phim đã được giới Holywood để mắt tới.”

Đấy là lời kết lại của người viết bài này.

Bộ phim rất thành công. Danh tiếng của đoàn làm phim trở thành vị trí dẫn đầu trong ngành phim ảnh Việt. Người nghệ sỹ được trả cát-xê bằng một lễ tang long trọng.

Tôi mở trang báo tiếp theo.

*

Từ ngày thành phố có khu thương mại tổng hợp, nhiều người đã tụ họp ở đây. Ngoài khu bách hóa, bên trong còn có bể bơi và một sân bóng nhỏ sẵn sàng cho thuê. Tôi ít khi ra vào mấy nơi chuyên về hoạt động ngoài trời. Chỗ của tôi là ở quầy bar. Nơi đây luôn có âm nhạc, đủ loại đồ uống và tôi thì luôn gọi thuốc lá. Tôi vẫn gặp nàng ở quầy bar. Nàng tới đây để gặp tôi, nàng không chủ ý một món ăn hay đồ uống nào ở quầy. Tôi gọi gì nàng uống nấy, nhiều khi nàng còn nhờ tay bồi bàn chọn giúp. Giá cả ở đây rất đắt nhưng tôi thì không thiếu tiền. Người dượng của tôi không phàn nàn về chuyện này, ông ấy dành cho tôi một tài khoản. Hàng tháng tiền vẫn chuyển đều.

Hôm nay nàng không đến. Tôi ngồi một mình. Trên bàn chỉ có tàn thuốc và đầu lọc thuốc lá. Ly cocktail gọi từ lúc vào vẫn còn đấy. Sau cú đấm trời giáng, tay bồi bàn đã không dám lèo nhèo về việc vứt tàn thuốc bừa bãi của tôi nữa. Nhạc đã hết, người phục vụ tua lại từ đầu. Tiếng kèn trumlet và một câu hát vang lên. Tôi đã nghe bài hát này đâu đó rồi. Có lẽ là tôi đã từng mê mẩn và còn hát theo khi tới đoạn mình yêu thích. Tôi thử hát theo, lời không khớp. Tôi huýt sáo, tiếng vẫn lệch. Gõ tay theo nhịp, tôi thành kẻ phá ngang bản nhạc.

“Bố khỉ…” – Tôi gác những suy nghĩ lại bằng một hơi thuốc.

“Em có thể ngồi đây chứ.”

Một vũ nữ. Tôi chắc chắn. Ả ngồi cạnh tôi và bắt đầu hỏi chuyện.

“Anh có chuyện buồn phải không? Em cũng không vui vẻ gì…”

Ả hỏi tôi. Tôi rút thuốc hút. Ả kể về mình.

Tôi hút một hơi sâu rồi nhả khói qua mũi.

Chợt ả cười phá lên. Ả lại tiếp tục nói. Tôi rít thuốc.

“Vừa nãy em nói đến đâu rồi.”

“Chịu.”

“Ừ, thì chịu.”

Ả uống cạn ly cocktai.

Ả đã nói thêm gì đấy. Ngay khi rời khỏi Bar, chúng tôi tìm một khách sạn và làm tình. Tôi không ngủ chung với ả. Hai chúng tôi chỉ cuồng hoan trong chốc lát rồi biến khỏi cuộc đời nhau. Tôi mở bao thuốc. Ngón tay tôi không tìm thêm được điếu nào. Ném vỏ thuốc, tôi đi dọc trên vỉa hè. Gần sáng, trời lất phất mưa. Sương vẫn dày và nặng trĩu trên mỗi cành cây. Tôi đi trong màn sương. Mưa xối xuống. Tôi không đi nép dưới mái hiên. Tôi trầm mình trong cả mưa lẫn sương.

*

Căn hộ thế là đã năm ngày vắng chủ. Mấy ngày qua tôi như tên hành khất. Bạ đâu ăn đấy và qua đêm ở bất kì đâu, hễ thấy mệt. Khi thì ở quán karaoke, khách sạn, ghế đá công viên, vỉa hè, dưới chân cầu thang bộ hoặc một xó xỉnh trong chợ…Giờ, tôi mới rời đi. Tôi trở về nhà. Không phải căn hộ. Đây là nhà tôi. Chuyện chiếc xe khiến việc đi lại của tôi khó khăn. Nàng sẵn sàng nhượng lại chiếc Attila cho tôi nhưng đấy không phải điều tôi mong. Tôi chỉ cần nàng chở đến điểm dừng xe bus có tuyến đi qua nhà tôi.

Cửa mở, tôi đi vào. Nhà tôi rộng, có sân và nuôi ăn ở một đám giúp việc. Mấy con nhóc giúp việc đang tuổi mới lớn tôi đã thử qua. Chúng sành sỏi chuyện giường chiếu hơn tôi nghĩ. Sau mỗi cuộc chơi, tôi phóng tinh lên bụng chúng rồi lấy chân, di bằng hết. Tôi rút tiền, quăng tung tóe trên giường. Khi một đứa đe dọa tôi bằng một cái que với hai vạch đỏ, tôi ném thêm tiền. “Tống nó khỏi bụng mày, hoặc chính tao sẽ lóc nó ra.” – Tôi nói thế và mấy hôm sau con nhóc trình diện tôi bằng một cái bụng eo ót. Cái bụng nhỏ nhắn đó khiến tôi vừa lòng và khơi dậy trong tôi ý nghĩ về một cuộc mây mưa.

“Cậu chủ đi đâu cả tháng nay thế.” – Một ai đó trong bọn giúp việc nói.

Tôi nghe thấy tiếng mẹ. Bà đang ở tầng hai và đang khóc nấc lên. Chẳng có gì hệ trọng cả. Chỉ là bà đang xem một bộ phim tình cảm. Những đĩa phim luôn chật ních trong ngăn tủ.

Tôi đi tới cạnh bà, bốc một miếng bánh trong hộp bánh mà bà đang ăn.

“Con về rồi đấy à.” – Mẹ tôi nói, rồi mời tôi ngồi xuống.

Đôi mắt mẹ vẫn ướt nhòe vì bộ phim.

“Phim hay lắm con ạ. Anh này…Cô này…”

“Con ghét phim tình cảm.” – Tôi nói và bốc thêm một miếng bánh.

Mẹ tôi tiếp tục xem phim. Một lúc mẹ hỏi về việc dọn ra ngoài ở của tôi. Tôi nói ổn. Bà mỉm cười với tôi.

“Dượng đâu rồi!”- Tôi nói. Lời tỏ tình của đôi tình nhân trong phim vang hơn tiếng tôi.

“Cha con đi công tác.”

“Mẹ còn nhớ mã két không?”

“Ngày sinh của con.”

“Mẹ đọc đi.”

“Con không nhớ à? Trong chứng minh thư hoặc giấy tờ tùy thân có đấy.”

Tôi ngồi dậy. Đi vài bước tôi nghe thấy tiếng nấc. Lúc trước mắt mẹ hoe đỏ và giờ thì nó đã ướp nhèm. Nước mắt rơi thành hai hàng dài và chảy đều nhau. Mẹ rút khăn giấy lau mắt. Trong tiếng khóc mẹ kêu lên “Don Suke, đừng bỏ cô ấy…”

Tôi lấy mười triệu, rồi đi khỏi nhà.

*

Khác với mẹ, nàng không khóc bao giờ. Nàng là người thành phố, tôi chuyển đến đây không lâu nhưng nàng thì ở đây từ lúc còn rất nhỏ. Cha mẹ nàng tôi không thấy mặt, cũng không nghe nàng kể và tôi cũng không hỏi. Giờ nàng sống một mình. Ngày trước…Dẹp chuyện vớ vẩn đó đi. Quá khứ đáng bị nhổ nước bọt. Một tên bạn của tôi, đã từng là nhân tình của nàng. Hắn là người đàn ông đầu tiên của nàng. Tất nhiên. Cũng chính hắn giới thiệu nàng với tôi. Về chuyện này, tôi mang ơn hắn.

“Nó chẳng khóc bao giờ, tao ghét điều này. Tao đã tát vào mặt nó, xé hết quần áo rồi dẫm lên người nó. Tao lấy roi đánh vào người nó, rất mạnh đấy tiếc là nó vẫn không chịu khóc lấy một tiếng. Một con đàn bà như vậy thật cụt hứng. Này, khi làm tình mày làm nó kêu to tới mức nào.” – Hắn nói với tôi, và cười. Tôi biết được lý do về mấy vết sẹo, không do tập nhu đạo.

Mấy hôm sau, nhà hắn bị cháy. Ngọn lửa khủng khiếp, lớn ngoài sức tưởng tượng đã nghiền nát mọi thứ. Người nhà hắn bị lửa hun thành xương đen. Hắn thoát chết nhưng cơ thể hỏng cả. Tôi tới thăm, mang theo quà cùng một bó cẩm chướng vàng. Hắn giờ đây nằm còng queo trên giường. Toàn bộ cơ thể hắn bị băng kín như xác ướp. Chỉ có hai con mắt ló ra từ lớp băng bùng nhùng. Thấy tôi hắn mừng rỡ và dường như muốn nói gì đấy. Miệng hắn không mở được thành tiếng. Tôi ghé vào tai hắn và khẽ nói : “Nhà mày cháy hả? Tao biết hết, biết cả. Tao đã nhìn, trọn vẹn. Vì…”

Mắt hắn trợn trừng, dường như định nói gì đấy. Tôi không nhìn hắn và ra khỏi phòng. Ra đến cửa, cô y tá hỏi tôi về hắn, tôi nói ổn và nhét cho cô ta một chút tiền.

Chuyện này, tôi có kể với nàng. Nàng hỏi tôi “Thích không.” Tôi lắc. Rồi tôi hỏi lại “Em thấy thế nào.”

“Chịu thôi.” Lời của nàng. Tôi dự trù sẽ đáp lại chính câu này, nếu nàng hỏi lại. Thế nhưng nàng không hỏi.

Nói đến nước mắt thì tôi chưa khóc bao giờ. Ngày chào đời tôi đã không khóc. Ngày cha mất tôi không khóc. Một tuần lễ sau, mẹ tái giá tôi cũng không khóc. Nàng cũng không khóc bao giờ

“Em đang theo một lớp hội họa.” – Nàng nói với tôi.

“Rồi thì em cũng bỏ nó theo một trò gì khác thôi.” – Tôi rít một hơi thật sâu.

“Phía chân trời, vết nứt đã loang ra và rộng lắm rồi. Tôi bẻ đầu mình xuống. Nơi cần cổ máu không chảy mà mọc lên cái đầu khác. Tôi lại bẻ nó xuống. Một cái đầu tiếp tục nhú lên. Dưới chân, những cái đầu lăn lóc. Biết bao cái miệng lập bập như nói thầm với nhau. Tôi vẫn đứng đấy và tiếp tục ngắt đầu mình…”

“Cái quái gì thế.” – Tôi dập điếu thuốc đang cháy dở.

“Mỗi người cần bao nhiêu cái đầu để sống đây?” – Nàng nói. Lời nàng ngắt quãng nhưng rất rõ ràng. Đôi mắt nàng vẫn lạ quá. Ánh nhìn. Chẳng buồn, chẳng vui, cũng không phải đăm chiêu. Nó hờ hững như vệt khói bị gió thổi tan.

“Ai đã viết thế.”

“Em nói ai?”

“Ai đã viết thế.”

“Ai kia?”

“Là Ai.”

“Có phải cái tay nhà văn tự bắn vào mồm.”

“Ông ấy giã biệt khỏi trần gian và đến thánh đường của mình.”

Tôi châm điếu mới.

“Tự tìm đường chết thì hay quái gì. Mà em đọc toàn thứ nhố nhăng thế.”

“Ai đã chết trên số bản thảo chưa một lần công bố. Nó là di cảo của thánh thần. Chẳng ai biết được về sự vĩ đại như thế.”

“Nhà văn thích tự sát lắm.” – Tôi nói.

“Cuộc đời nhà văn chỉ có cái chết.” – Nàng nói. Một nụ cười hé trên môi nàng - “Họ gánh cái chết thay chúng ta. Máu họ đổ thành chữ và đấy là kinh thánh.”

Nàng ngửa cổ, mắt nàng nhìn lên cánh quạt trần rồi nhắm từ từ. Tôi rít một hơi dài rồi nhả khói. Ba mảnh khói, lồi lõm như ba cái sọ người.

Tôi bật cười, rồi im hẳn.

*

Một tháng nay tôi lang thang khắp thành phố. Vạ vật ở nhiều ngõ ngách. Ăn uống bừa bãi, thậm chí tôi còn chẳng ngủ. Có một vài chuyến đi xa, cùng bầy bạn. Nàng không có trên chuyến đi. Gần đây nàng bận với trò vẽ vời. Nàng có gọi điện cho tôi, hỏi về chuyến đi. Tôi nói ổn.

Nàng nói về Ai. Tôi đã rõ, nhà văn Ai.

Kết thúc chuyến đi, tôi về căn hộ. Việc đầu tiên về nhà là tìm mua một cây Ba Số để hút dần. Phòng ẩm thấp vì lâu chưa được quét dọn. Trần nhà bắt đầu có mạng nhện. Đĩa cơm rang trên bàn giờ đã mốc meo, hạt cơm khô đanh như hạt sỏi. Có một lớp nấm trắng mọc trên đấy. Gián bò quanh nhà. Có chuột nhưng chúng đã lẩn đi khi tôi bật đèn. Quá mệt mỏi và không muốn dọn dẹp. Tôi châm một điếu thuốc.

Tôi ngả lưng sau ghế sofa. Có thật là tôi đã vui chơi hết sức và đang mệt lử. Tôi nói gì trong chuyến đi. Ai nhỉ? Người này…Người kia…Đã nói chuyện gì với tôi. Thuốc lá và rượu mạnh…Hình như có mấy thân xác đàn bà…Và…Chắc chỉ có thế.

Thuốc cháy hết, tôi hút thêm.

Mở máy tính, tôi truy cập vào một trang wed chuyên về giải trí. Trên trang chủ có một bức ảnh hài hước với các bộ mặt đã bị làm méo đi. Có một dòng chữ ngô ngê được chèn dưới bức ảnh. Tôi phì cười.

Tôi luôn cười mỗi khi xem một bức tranh hề, hoặc do vẽ tay hoặc là ảnh một ai đó cố làm mình méo mó bởi những động tác quái gở. Tôi dễ bị chọc cười. Và tôi đã cười phá lên, trong giây lát. Nhớ lại về điều đấy, tôi cố tìm lý do để cười.

*

Nàng cho tôi xem mấy bức tranh vẽ trong khóa học. Ngoài mấy mẫu tĩnh vật còn lại đều là chân dung. Có vẻ như nàng đã quá thích thú với trò vẽ vời này rồi. Nàng đã sắp xếp hẳn một gian phòng chỉ để vẽ tranh. Nhìn vào giá vẽ, tôi thấy một tranh chân dung. Mái tóc ngắn với những lọn xoăn, khuôn cằm vuông và điểm ít râu thì hẳn là một hình đàn ông. Chưa có mắt mũi, ngay tới một nét nhỏ, biểu hiện cho một nếp nhăn vẫn chưa có.

“Thử vẽ anh đi.” – Tôi nói.

“Anh ngồi xuống ghế đi.” – Nàng hỏi lại.

“Đùa thôi.” – Tôi nhìn sang các bức tranh khác.

Không một bức nào. Thật là như thế. Không một bức chân dung nào là đầy đủ mặt mũi. Tôi đã tìm cả các bức tranh đã được phối màu thì vẫn chỉ thấy một bộ mặt trống rỗng. Ở một bức tranh, xét theo mái tóc buông dài cùng cái cổ áo dài thì nàng vẽ một thiếu nữ. Khuôn mặt rất cân đối, nét vẽ dù chưa đủ cứng cáp nhưng rất uyển chuyển và tạo được một trạng thái sống cho bức tranh. Tiếc rằng các nét trên khuôn mặt vẫn chưa được vẽ. Nàng để rỗng bức chân dung.

“Anh uống trà hay cafe.”- Nàng nói.

“Sao cũng được.”

“Bao giờ thì em hoàn chỉnh các bức tranh.”

Nàng chọn café. Tôi hút thuốc trong lúc chờ nước sôi.

“Em không biết.” – Nàng nói.

“Em sợ vẽ hỏng ư?”- Tôi nói.

“Không.” – Nàng đáp.

“Vậy vẽ làm khỉ gì.”

“Anh nghĩ bao nhiêu đường nét mới đủ cho một khuôn mặt đây. Không quy chuẩn nào hết.”

Mắt nàng, tôi không muốn nhìn vào nữa. Tôi chỉ hút thuốc. Nàng nói về Ai.

“Họ là ai? Tại sao tôi đi cùng họ? Họ có đi cùng nhau không hay đấy chỉ là sự lạc đường của những đức tin.” – Lại một câu văn ngu ngốc nữa từ Ai.

Tôi cố pha trò bằng mẩu chuyện cười vớ được trên báo. Nàng không cười, tôi cũng không cười. Tôi nói về chuyện của một người. Thêm một người nữa…Câu chuyện chết trong im lặng. Tôi hút cạn điếu thuốc bằng một hơi dài.

“Có bao giờ anh nghĩ chúng ta là thứ gì đó không?”

“Thứ gì.”

“Anh nói xem…”

“Thứ quái gì chẳng được.”

“Ai đã từng nói về một trạng thái sống. Ôi, một dạng sống nhưng chẳng sống và cũng chẳng chết. Có lẽ rằng, lâu lắm rồi chỉ những cái bóng nhưng chẳng là bóng vật vờ qua lại...”

“Làm sao bây giờ…” – Nàng nói trong nỗi buồn. Nàng nhấp một ngụm café.

Ai. Tại sao lúc nào cũng là Ai. Thứ ám muội này luẩn quẩn trong đầu nàng lâu quá rồi. Tôi nghĩ đến việc làm tình. Ý nghĩ tắt phụt ngay khi vừa hiện ra. “Có lẽ nào, tôi với nàng…Chỉ như thế…”

Tôi ngậm một điếu thuốc. Bật lửa hết ga. Nhà nàng không trữ bật lửa hay diêm. Tôi nhào lên nàng. Nàng lẩm bẩm gì đấy, tôi nghe không rõ. Đầu lọc thuốc bị tôi nhai nát nhừ. Phần dưới vẫn nã xuống nàng.

*

Mẹ gọi điện.

Dượng chưa về. Tài khoản của tôi và mẹ hàng tháng vẫn được chuyển tiền.

Mẹ kể về mấy bộ phim tình cảm. Một hoàn cảnh bi đát, rồi một cuộc tình đẹp bị chia cắt bởi sóng gió…Thế là mẹ khóc. Nhắc tới một chuyện tình éo le khác, mẹ bật khóc. Nước mắt rơi dễ thế sao.

Tôi cáo bận và gác máy.

*

Ngồi quầy Bar nửa ngày trời, giờ tôi muốn đi đâu đấy. Tụ điểm vui chơi ở khu số 6 khá nhộn nhịp với đủ mọi lứa tuổi. Tôi tạt qua đó, rồi lại đi ra vì không biết chơi trò gì. Loanh quanh một hồi, tôi ấn thang máy và lên tầng thượng.

Không vướng vào chút suy nghĩ nào. Tôi châm thuốc hút. Trước giờ tôi không hút cố định một loại thuốc nào, thấy thuốc là tôi vớ lấy. Đứng trên này có thể thấy mọi sinh hoạt ở dưới. Từng điếu thuốc cháy liền một lúc.

Tôi nhìn xuống một quầy trò chơi. Có lẽ là bốc thăm trúng thưởng. Mấy hình ảnh chưa kịp nhập vào đầu đã chạy biến đi. Tôi nhìn sang một phía kia, rồi một phía kia…Một thân xác đàn bà nóng rẫy, bộ ngực căng tròn với đầu vú săn cứng vì được mơn trớn, cặp đùi hé mở chờ đợi…Và…Và…Chẳng nghĩ nổi nữa. Điếu thuốc tiếp tục cháy trên miệng.

Cười một cái xem. Tôi ráng nghĩ như thế. Một ông già luống tuổi râu ria xồm xoàm mặc váy đang õng ẽo và tỏ vẻ bẽn lẽn. Một thanh niên ngã cắm đầu vào bãi cứt, hai chân chổng lên trời, vẫy vẫy…Rồi thì, một ai đấy…Thế nào nhỉ…Tôi nhớ lại một đoạn trong Mr.Bean.

Tôi vẫn chưa cười được. Trước đấy tôi từng cười phá lên cơ mà.

Tôi rút thêm thuốc. Điếu cuối cùng. Tôi xuống tầng.

Một phút dừng chân. “Vừa rồi mình nghĩ về cái gì nhỉ.”

Một tuần đã qua. Tôi không gặp nàng. Nàng cũng không gọi cho tôi. Điện thoại có tin nhắn. Nhiều số và nhiều cái tên.

Căn hộ của tôi như một bãi rác. Mọi ngõ ngách đều có mùi ẩm mốc. Chuột không tránh tôi và tôi ở chung với chúng. Tôi ghét phải dọn dẹp, tôi cũng nghĩ điều này không cần thiết. Nếu muốn một chỗ sạch sẽ, tôi có thể vào khách sạn. Trong nhà nhìn đâu cũng chỉ thấy đầu lọc và tàn thuốc. Đèn vẫn bật sáng. Tôi ngồi trên giường, miệng vẫn ngậm điếu thuốc. Tôi không nghĩ ra cái khỉ gì trong đầu. Nếu mở máy, nhìn vào bức hình nàng trên desktop, rất có thể tôi sẽ nảy ý gặp nàng. Nhưng để lúc khác.

“Ai là ai?”

Nàng luôn nói về người này. Như nàng từng nói, đấy là một nhà văn tầm cỡ. Rõ ràng lão đã chết rồi. Sao nàng luôn thích nhắc về một người chết nhỉ. Mối bận tâm của nàng là về nhà văn Ai. Cái kẻ lạ hoắc này đã chen vào chuyện tình giữa tôi và nàng. Ghen tuông ư? Không thể nói vậy. Bởi lẽ tôi chưa bao giờ bực bội mỗi khi nàng dùng cái tên này để cắt ngang lời tôi nói. Không chút ngờ vực nào. Tôi tin tưởng nàng đến thế ư…

Điếu thuốc vẫn ngậm trên miệng dù đã cháy hết từ bao giờ.

Tôi ngồi dậy. Cái tên Ai vẫn chạy trong đầu tôi. Mở Wikipedia và tìm kiếm cái tên này?

Ý nghĩ là thế. Tôi không mở máy và hút một điếu mới.

Chờn vờn sáng, tôi nhận được hung tin. Nàng đã chết. Khi đấy còn sớm, tôi đương ngái ngủ và thế là tôi ngủ lại ngay.

*

Không gọi được cho nàng, tôi tin hơn về cái tin báo của số máy gọi cho mình. Một số máy lạ hoắc, hẳn là thế vì không thấy hiện tên. Tôi gọi lại cho số máy kia thì nghe tiếng báo không liên lạc được của tổng đài.

Tôi đến nhà nàng. Những người sống quanh đấy cho biết xác nàng đã được chuyển vào bệnh viện. Điếu thuốc vẫn trên miệng, tôi thong thả rít từng hơi.

Đầu óc tôi có còn tỉnh táo nữa không. “Nàng chết rồi đấy.”- Tôi muốn nói to như thế. Tôi dừng hút thuốc. Sao chẳng có một chút bận lòng. Tôi không nghĩ gì, cũng chẳng thứ gì vướng vào đầu để tôi có thể, chút nào đó nghĩ về nàng và rưng rưng.

Trong ví tôi có một ảnh thẻ chụp nàng. Tôi lấy nó ra và nhìn thật lâu. Để chắc ăn, tôi hồi tưởng đến gương mặt nàng trong đầu.

“Nàng chết rồi đấy!” – Một lần nữa tôi muốn mình nói to như thế. Miệng tôi vẫn mím chặt. Tiếng nói đấy chỉ ở trong đầu. Nó rất nhỏ và dường như đang biến mất.

Cố gắng tìm một lý do để mình phát điên lên. Tôi thất bại.

Theo khám nghiệm y khoa thì nàng đột tử. Thi thể nàng được đưa vào bệnh viện. Tôi phải đến sớm hơn, trước khi đám người đó chuyển nàng xuống nhà xác.

Khuôn mặt nàng bắt đầu nhợt nhạt vì mất đi sức sống. Tóc nàng xơ và rụng từng sợi. Mắt nàng vẫn mở. Có lẽ cái chết đến với nàng quá nhanh. Mắt nàng không vuốt xuống được. Nàng chết rồi cơ mà, đôi mắt này cũng nên nhắm lại đi thôi. Mở thấy gì nữa đâu.

Tôi không khóc. Cũng không gào rống lên. Tôi bình thản.

“Cô ấy chết vì dùng morphin quá liều.” – Viên bác sỹ nói với tôi.

“Morphin ư?” – Tôi nói.

“Đúng vậy, morphin.”

Tôi mở bao thuốc. Bác sỹ bảo không được. Đây là bệnh viện.

Hai ngày sau khi nàng chết tôi vẫn ăn ngủ bình thường. Tôi chẳng dính vào một giấc mơ hoặc hồi tưởng nào liên quan đến nàng. “Nàng đã chết.” – Có nói to cũng chỉ thế. Bức chân dung của nàng kia. Tôi nhìn vào đấy, giục mình nhớ về nàng. Tôi nhớ ra nhiều thứ, và rồi lại quên đi.

Tôi bước vào nhà tắm. Tôi mở vòi hoa sen ở mức to nhất. Nước lạnh xối xuống lạnh buốt. Cái gương phòng tắm ở kia, tôi nhìn vào nó. Khuôn mặt tôi chẳng vui cũng chẳng buồn. Nó bình thản đến tức cười.

Tôi cố làm khuôn mặt trở nên đau đớn, trong đầu tôi nghĩ về nàng. Một cái chết trong tuyệt vọng. Nàng giẫy giụa, quờ quạng tay trên không và gọi tên tôi. Nàng có gọi cho tôi không? Có đi, và bao nhiêu cú? Nàng mong nghe giọng tôi lắm phải không? Hẳn thế rồi…Và sao nữa…Chịu. Cơ mặt tôi vẫn trơ lì như tượng vôi. Còn cái miệng đang tỏ vẻ đau đớn bằng cách ngoác ra gào thét thì lại giống với một điệu mếu máo đầy miễn cưỡng.

“Nàng chết rồi đấy! Hiểu chưa!” – Tôi nói to với cái mặt trong gương. Hắn nhìn tôi. Tôi nhìn hắn. Bốn mắt đâm thẳng vào nhau và chết lặng.

Tôi đập mạnh đầu vào cái bản mặt đang trân trân nhìn mình. Một tiếng “Xoảng” và gương vỡ. Từng lớp, từng lớp toác ra. Bộ mặt thối tha vỡ thành các khuôn mặt nhỏ. Những mảnh thủy tinh cắm vào trán và mặt tôi. Một cơn đau và tôi khoái chí. Tôi đã đau đớn vì nàng, cứ cho là thế…

*

Họ nói về việc làm lễ tang cho nàng. Ý của chính tôi và đây là sự chuộc lỗi của tôi với nàng.

Không ai biết tin tức về cha mẹ nàng. Nàng là con một. Lá đơn ly hôn chia đôi hai người họ và cũng chia đôi nàng với họ. Tôi muốn nàng yên nghỉ trong thanh thản và vì thế tôi lo tất cả chi phí. Mẹ tôi không phản đối, vì trước đó bà cũng biết đến sự có mặt của một nàng dâu tương lai. Dốc hết thẻ tín dụng và lấy thêm từ tài khoản dượng tôi đã có đủ tiền chuẩn bị cho đám tang. Tôi đã thuê được một người ở vũ đoàn kịch nói không tên tuổi đã hết thời. Đây sẽ là người chủ trì lễ tang dưới danh phận ông ngoại nàng.

Mắt nàng không thể vuốt xuống. Một điều không hay. Nàng sẽ khó về trời. Một người đã nói với tôi vậy đấy. Phải có cách khiến mắt nàng khép lại. Tôi không làm được. Viên bác sỹ đã khám nghiệm cho nàng nói về một liều thuốc có thể khiến cơ mắt giãn ra. Ông ấy đã thử nó và không được. Họ đã khâu mắt nàng bằng một cuộc tiểu phẫu. Tôi không phản đối.

Lòng tôi bình yên quá. Không có chút nhỏ nhói đau khi nghĩ đến nàng. Không, nghĩ về nàng, đấy là khi tôi ép mình phải làm vậy.

Tôi rút thuốc hút. Tôi hút tất cả thuốc mình có cùng một lúc. Vẫn chẳng gì vướng lại.

Nàng luôn yêu thích Ai. Điều này tôi còn nhớ. Nhà văn Ai.

Tôi muốn lão ta phải trở thành người hầu của nàng. Bởi tôi có chìa khóa nhà nàng nên có thể vào. Mấy đồ vật trong nhà không giúp tôi nhớ lại nàng. Ký ức về nàng đang nhòa dần.

Phòng tranh. Nàng chết trong phòng vẽ tranh. Các bức chân dung do chính nàng vẽ đều bị xé rách hết. Không một bức nào nguyên vẹn. Giá vẽ nằm chỏng chơ dưới đất. Cửa kính để mở. Cọ vẽ và hộp màu vung vãi khắp nơi. Tôi hút thuốc trong phòng tranh. Bóng tối ăn gần hết gian phòng dù cửa sổ vẫn đang mở và ngoài trời nắng to. Tôi đứng lặng ở đây. Một cái đầu rỗng tuyếch. “Phải rồi, người văn sỹ tên Ai…”

Tôi không tìm thấy Ai.

*

Không một chiếc khăn tang. Họ đến dự lễ tang bằng một cái đầu được chải chuốt gọn gàng cùng áo xống chỉnh tề. Trong đám người chỉ những con rối của tôi-Người nhà nàng là chít khăn và mặc áo xô gai. Họ rất chuyên nghiệp trong việc tạo một vẻ mặt khổ sở.

Mẹ tôi không chít khăn. Nàng chưa hoàn toàn là con dâu của bà. Những người viếng đang bắt chuyện với nhau. Một vài người còn tỏ ra hợp ý trong cách trò chuyện. Họ kết thân. Không ai nhắc tới nàng và tôi cũng chẳng thắc mắc. Nàng đâu có giao tình gì với họ. Ngày hôm nay họ viếng tang, vì cái tước vị mang tên tình làng nghĩa xóm.

Bưu ảnh của nàng kia. Tôi đứng rất gần. Mấy ngọn nến leo lét bởi một cơn gió lạ thổi qua. Mẹ đứng cạnh tôi và đang khóc. Mẹ đã an ủi tôi nhiều và tôi không còn muốn nghe thêm nữa.

“Cô ấy còn rất trẻ.” – Một người nói.

“Tớ từng học cùng cậu ấy, năm nào cậu ấy cũng đoạt giải nữ sinh thanh lịch.” – Một nhóm người nói với nhau, ở hàng bên kia.

Ông ngoại nàng đọc xong điếu văn và đã khóc. Mấy giọt nước mắt và điệu bộ khổ sở này cũng đáng đồng tiền bát gạo.

“Anh chị của…”

“Cô của…”

Họ đều là diễn viên của tôi. Họ tới trước linh cữu, thắp hương cho nàng.

Tôi đứng đó. Không một nỗi buồn. Ai tát cho tôi một cái đi chứ.

Tôi muốn hút thuốc.

Đã tới lúc mặc niệm. Tất cả im lặng. Hơn ba mươi khuôn mặt đều tỉnh bơ. Các diễn viên của tôi mắt cũng ráo nước. Quy định trong phút mặc niệm là phải im lặng. Họ im lặng, tôi cũng im lặng. Mấy cái đầu cúi thấp trước linh cữu. Vòng hoa đã ở kia. Một vài ngọn nến đã tắt dù chưa cháy hết.

Chưa hết một phút nhưng tôi đã nghe thấy một tiếng nấc nghẹn ngào. Đấy là mẹ tôi. Bà rút khăn chấm nước mắt. Bà lầm bầm tiếng gì đó. Vẻ mặt này tôi đã thấy rồi. Cái động tác chấm nước mắt bằng khăn mùi xoa, mắt chăm chú về một phía này…Chính là khi bà xem phim.

Mấy người đứng quanh mẹ đã nghe thấy tiếng nấc. Một người cố nghẹn ngào, thế nhưng do làm không khéo cái âm thanh đó giống như một tiếng ợ. Một vài bộ mặt nhăn nhúm lại trong khi miệng vẫn ngậm chặt. Họ tỏ ra mếu máo. Những người khác cũng đang nhăn mặt. Mấy bản mặt được trang điểm thật kiều diễm cũng cố làm theo những người quanh mình. Da mặt họ méo hẳn đi. Vì trời nóng, son phấn họ tan chảy và nhễ nhại trên khuôn mặt. Họ cố điều chỉnh gương mặt mình theo khuôn mẫu của một cái mặt khổ đau.

“Ha! Ha! Ha! Ha!”

Tiếng cười của chính tôi. Tôi cứ cười lớn như thế. Tôi không nghe rõ đám người quanh mình nói gì nhưng họ đang nói chuyện với nhau. Họ nói rất to.

Mẹ không giữ tôi lại. Bà không khóc và nói với người bên cạnh mình - “Nó đau khổ vì con bé đây mà. Hai người yêu nhau mà mất nhau thì khác nào mặt trời mất đi ánh sáng. Khi Don Suke chết, Lee Yang cũng…”

Người bên cạnh nhận ra điều mẹ nói và hai người trò chuyện với nhau.

Phút mặc niệm qua rồi. Tiếng cười của tôi vẫn chưa dứt. Tôi đã thấy người lấy tay che miệng và quay đi chỗ khác. Bọn chúng tôi xiêu vẹo hàng lối. Chẳng một ai chỉnh tề áo xống. Đám họ hàng của nàng đang gào rống lên để át đi tiếng tôi cười. Từng người, như bị thương một chân, đang đi lò cò. Họ lắc lắc, đổ nhào lên nhau thành hàng như hiệu ứng Đôminô.

*

Không ai nhớ về tang lễ của nàng. Họ quên sạch những gì xảy ra ngày hôm đó. Còn tôi, thì lấy làm lạ. Đấy là lễ tang cơ mà. Một nghi lễ thiêng liêng để tiễn biệt một kiếp người. Trong áo quan còn là nàng. Nhưng thú thực khi nhìn những bộ mặt quanh mình lúc đó tôi không sao kìm được và buộc phải cười phá lên.

Sau khi nhận được thù lao, những kẻ sắm vai người thân nàng cũng rời khỏi sàn diễn. Họ bá vai nhau, cười với số tiền mình được hưởng. Sẽ có một bữa nhậu ở quán bia vỉa hè.

Nàng được chôn ở nghĩa trang ngoài thành phố. Ngôi mộ chỉ là một bãi đất gờ lên. Có bia, và bia có khắc tên. Tôi đọc thấy một sai chính tả. Rõ ràng là Tr chứ không phải Ch. Các que hương cắm đầy bát hương mộ phần nàng. Tất cả hương đều do tôi thắp. Chỉ có một vài cây là do những người khác đi viếng mộ, vì thừa ra nên thắp cho nàng.

“Có phải con đã rút tiền từ tài khoản.” – Tôi nhận được cuộc gọi từ một số máy lạ. Nghe tiếng thì tôi biết là dượng. Không thấy tôi đáp, dượng lặp lại thêm một lần nữa. Lần này thì tôi đáp lời. Một tiếng “Vâng” thật khẽ và thật ngoan.

“Nếu cần con cứ lấy. Vậy cha cứ tưởng đứa ăn hại nào đã rút lõi.”

“Dượng này…”

“Sao?”

“…”

“Có gì à?”

“Không!”

“Chào con, yêu con nhiều.”

“Chào dượng, yêu dượng nhiều.”

Dượng đã gác máy từ trước. Chỉ tiếng tút tút còn nghe và nó nghe hết, những lời yêu thương từ thằng lỏi ranh ma, là tôi. Tôi tắt máy. Tôi định bấm một số gọi. Số? Số nào? Và của ai? Tôi tắt máy. Tôi mở bao thuốc rồi châm một điếu.

Nàng không còn nữa. “Đã chết rồi! Chết thật rồi!” – Tôi đã hét thật lớn như vậy ở giữa đường. Tiếng của tôi ai cũng nghe thấy, và tất nhiên họ hồi đáp bằng cách tập trung hết về phía tôi. Tiếng xì xào, và những cái mặt cười. Chỉ một chốc lát thôi, rồi họ đi mất.

Tôi không buồn, không giận dữ, cũng không cười rống lên như ngày đưa tang nàng. Tôi hút thuốc, uống rượu. Chẳng có giấc mơ hay một giọt nước mắt nào chã ra để tôi có thể coi đấy là nỗi đau mất nàng. Nàng đã ra đi như thế ư…

Vẫn có đàn bà tìm đến tôi. Tôi không từ chối. Mấy lý do để tìm đến nhau không còn cần thiết nữa. Chúng tôi chỉ đang khát, và cần phải tìm nước uống để không trở thành xác khô.

“Ai.”- Ý nghĩ hiện trong tôi – “Ai. Nhà văn Ai, đúng. Nàng luôn nói về hắn. Kẻ tên Ai chứ không phải ai.”

Ai. Tôi cần tìm ra những gì của người này. Tôi sẽ gom hết lại và hóa vàng chúng trước ngôi mộ nàng.

Không ai biết Ai. Google gõ ra nhiều hàng chữ ai là…

Trong nhà nàng không có sách vở gì. Tôi đã lục tung những chỗ có thể giấu đồ nhưng vẫn không thấy.

Tôi tìm thấy những lọ morphin. Trong sọt rác chật cứng vỏ morphin.

Nàng không có chút tài liệu nào của Ai hay nàng đã nhanh tay hơn tôi, đốt thành tro và nuốt hết vào bụng…

Tôi đốt một điếu thuốc.

Một lần nữa tôi vào phòng tranh của nàng. Nhiều bức đã bị vò nát. Số còn lại, có lẽ là hoàn chỉnh thì bị xé nát. Hẳn là nàng đã xé. Tôi tìm thấy vài mảnh vẽ mắt, mũi. Bởi tất cả tranh đã tan nát và bừa bộn khắp phòng nên tôi chẳng thể ghép lại.

“Nàng vẽ ai đây? Tôi ư? Chính nàng? Một khuôn hình tưởng tượng? Hay một ai đấy…”

“Ai…” Tôi lẩm bẩm “Nhà văn Ai hay ai…Ai hay ai…Có thể là ai…”

Một cơn gió lạc vào phòng thổi tắt điếu thuốc. Tôi không châm lại.

Đầu óc tôi sạch sẽ tới mức không vướng vào gì. Tôi muốn nghĩ về nàng, rất nhiều. Những phút bên nàng, nụ cười, cái ôm hôn, thân thể nàng, đôi mắt không hồn vía…Cái chết của nàng. “Nàng, đã chết rồi…” – Tôi lẩm bẩm mãi như vậy.

Tưởng tượng về cái chết của nàng, một cơn đau khiến mọi tế bào nàng hóa thành máu, máu trào đến họng nàng thì kết đông lại và giống như bị bóp cổ, nàng không kêu được ra nửa tiếng, mũi nàng xì khói đỏ, rồi, sao nữa nhỉ? À, thì nàng tắt thở, tắt thở và rồi thì chết, vì tắt thở. Tôi điềm nhiên tưởng tượng và cũng điềm nhiên để mọi tưởng tượng bay sạch thành hư không. Thấy rằng mọi sự như vẫn tốt, và bình yên…Tâm tôi phẳng lặng như mặt hồ.

Tôi châm thuốc. Điếu cuối cùng. Lửa bén phừng phừng. Khói thuốc xông lên mắt. Mắt cay, không ứa nước. Một tưởng tượng khác ló trong đầu tôi. Đôi mắt nàng, dưới hầm mộ rứt tung lớp chỉ khâu và mở to. Mắt nàng nhìn tôi, vẫn là lạ, thờ ơ như ngày nào. Chỉ nửa giây, rồi mọi mường tượng rơi tõm đi, mất hoàn toàn.

“Vô lại đến thế…”

*

Tôi nằm nhoài trên những xác tranh được gom lại, vun đống. Điếu thuốc còn trên miệng. Thuốc còn ăn lửa. Tôi không hớp thêm hơi thuốc nào. Khói rỉ ra từ điếu thuốc, tỏa đều trên mặt tôi như mồi hương còn sót, thắp trước nấm mộ không còn nàng.

Nén hơi, tôi phun điếu thuốc lên cao. Khói rạch một đường ngắn trên không. Tàn thuốc vương mỏng rồi rơi lấm chấm như giọt nước còn sót từ cõi Ta Bà. Đầu lọc xoay vòng trên cao rồi rơi cắm ngập giấy tranh, bắt lửa.

Lửa hừng hực dâng từ mặt đất. Tôi thấy một bức chân dung đủ nét họa từ cành cọ lửa.

Thứ Ba, 20 tháng 2, 2018

Kẻ Bên Ngoài


Truyện ngắn của Tru Sa




Thế là, hắn đã quay lại.

Đã có người thấy hắn trước tôi. Có lẽ không phải chỉ một mà nhiều người đã thấy hắn trước tôi. Lạ gì chứ, khu phố này chẳng hề mất an ninh tới mức cần đến lệnh giới nghiêm. Hắn hoàn toàn có thể đi lại tự do, nằm lăn giữa đường ngủ, thậm chí tán tỉnh các cô gái trẻ đẹp…Bộ dạng hắn vốn nhếch nhác. Bộ đồ xô gai chẳng biết mặc từ bao giờ đã rách tan nát, sánh đặc vì đất và bụi bẩn. Hắn không cao lắm nhưng gầy rộc. Xương nhô hết ra ngoài. Má hắn hóp sâu, cái miệng lúc nào cũng há để lộ ra hàm răng xỉn đen, vàng ố. Hắn chột bên mắt phải. Mắt trái thì lúc nào cũng mở trừng trừng, trắng dã. Hắn đi đất, hai bàn chân phồng rộp to tướng như bánh đa nhưng cũng chai sần và dày như da trâu. Mỗi bước đi của hắn đều để lại những dấu chân đen kịt bùn đất. Đã có lần tôi thấy dòi rơi ta từ người hắn. Những con dòi béo múp, ngoe nguẩy nhằm bò khỏi dấu chân hắn. Nếu không ai dẫm nát hoặc bị kiến ăn thì lũ dòi sẽ trở lại vo ve quanh hắn.

Hắn chẳng một lần gây hấn với tôi. Tôi cũng luôn tránh mặt hắn vì lý do mình quá sạch sẽ. Ấy thế mà tôi lại luôn thấy hắn gai mắt. Có lẽ vì bộ dạng nhếch nhác, thối hoắc mùi rác rưởi của hắn chăng? Đây chẳng phải lý do lớn để tôi thấy cần phải loại bỏ hắn khỏi tầm mắt mình. Nhưng rõ ràng là thế. Khi nhìn thấy hắn thọc tay vào bới thùng rác, rồi hí hửng khi tìm được một miếng thịt thừa, hoặc chút patê còn dính lại trên một mẩu bánh mỳ đã mốc trắng tôi thấy phát tởm. Lúc đấy tôi đã muốn kết liễu hắn ngay, bằng gì cũng được. Nhưng tôi đã không xuống tay. Gia cảnh của hắn tôi không được biết, cũng chẳng ai biết. Giống như hầu hết kẻ vô gia cư, hắn vạ vật ngoài đường xá, gầm cầu, bãi rác hoặc ghế đá công viên. Không biết vì sao gần đây hắn lại thường xuyên lui tới khu phố này. Nhiều người cũng không ưa gì hắn. Họ không nói ra nhưng tôi biết là thế. Họ bố thí đồ ăn cho hắn, cho hắn uống nước, thậm chí còn hỏi thăm. Tôi biết tỏng. Họ nói thế vì có người nhìn họ, cũng vì đó là cách để họ giống con người hơn. Rất nhiều người muốn đập chết hắn. Đừng nghĩ là tôi võ đoán bởi đã có người làm thế. Kẻ đầu tiên tấn công hắn còn là chú ruột tôi. Chú tôi rất ôn hòa, dường như cả đời chẳng hại ai bao giờ. Chú tôi không bia rượu, thịt cá rất ít khi ăn. Mỗi tháng chú tôi thường đi lễ chùa, quỳ rất lâu dưới tượng tam bảo. Tôi nghĩ ông chú mình có căn tu, hoặc quá dư thừa lương thiện. Cái chết của chú tôi sẽ nhẹ nhõm như cất một hơi thở. Từ khi hắn xuất hiện chú tôi bắt đầu thay đổi. Tôi vẫn nhìn thấy sự nhã nhặn, ôn hòa của chú nhưng đấy là khi chú tôi chưa ở một mình. Lúc mọi ô cửa khép lại, chú tôi bước vào phòng thì vẻ mặt méo hẳn đi. Quả đấm cứ thế giáng nhiều lần vào vách tường. Miệng chú không ngừng chửi rủa. Ở vách tường bên kia, qua khe nứt tôi thấy chú đấm đá tay chân như đang vật lộn với một ác quái vô hình. Tiếng chửi không to lắm nhưng thế là đủ để tôi thấy choáng tai. Mấy lời nguyền rủa này sẽ hủy hết kinh phật trong bụng chú mất thôi.

Chú tôi lén lút rời khỏi nhà, mang theo một cây gậy. Cũng như chú, tôi lén lút đi theo. Đêm hôm đấy tôi nhớ như in. Chú tôi xô ngã hắn xuống đất rồi bổ nhiều nhát gậy lên đầu hắn. Vẻ mặt chú tôi hung ác lạ thường. Chân mày nhướn cao lên, gân xanh nổi cộm từng sợi. Mỗi nhát gậy bổ xuống đều hết lực. Nếu đèn sáng hơn có thể tôi sẽ thấy cả mạt cưa. Nhìn chú tôi thỏa thê lắm. Hắn chẳng phản kháng, chỉ bò lăn dưới đất. Hắn không kêu tiếng nào, cũng chẳng chạy trốn. Con mắt trái của hắn nhìn chú tôi, cũng như nhìn cả tôi. Sau đấy, đội dân phòng đã phát hiện ra và giải chú tôi về đồn. Tôi không rõ chuyện sau đấy thế nào. Nghe người nhà tôi nói lại thì chú tôi khóc rất nhiều. Ai hỏi chú chỉ khóc. Bởi chú tôi chưa tiền án, tiền sự nên chỉ bị phạt hành chính. Trở về nhà. Chú tôi không nói gì về chuyện đã xảy ra. Bởi phòng tôi liền kề với phòng chú nên chú làm gì tôi đều biết. Qua bức vách, tôi nghe thấy tiếng gõ mõ. Chú có đọc một bài kinh. Sớm hôm sau, gia đình tôi phát hiện ra chú đã treo cổ trong phòng. Thật lạ, tối hôm đấy tôi không nghe thấy tiếng gì đổ vỡ ở phòng chú cả. Hay do tôi ngủ say quá. Cái mõ, quyển kinh nằm tứ tung dưới đất. Hàng chục viên hạt tràng rơi khắp nhà.

Còn hắn, vẫn lang thang trong khu phố. Nghe kể, trên phường từng gô cổ hắn lại để điều tra về thân thế nhưng không có kết quả. Sau một thời gian tạm giam, hắn được thả ra.

*

Chưa một ai nghe thấy hắn nói bao giờ. Hắn từng vươn vai, ngoác miệng ngáp nhưng không thành tiếng. Lúc xin ăn, hắn chỉ chìa tay. Bị đánh đau, hắn cũng chẳng kêu lấy một tiếng. Lúc nhồm nhoàm ăn, tôi vẫn thấy cái lưỡi của hắn. Giả thiết bị mất một mẩu lưỡi là không thể. Bị câm bẩm sinh? Có lẽ là thế. Người hắn dính đầy đất và cáu ghét. Chắc hắn cũng chẳng tắm gội. Cơ thể hắn lở loét mủ và mụn cóc. Người đi đường luôn bịt mũi mỗi khi thấy hắn. Móng tay hắn đen kịt đất. Quần hắn rách đến tận đầu gối. Vảy đen đóng thành từng lớp dày. Họ nhường hẳn đường rộng cho hắn. Sang đường hắn chẳng đợi đèn đỏ. Xe cộ phóng vèo vèo, còn hắn điềm nhiên mà đi. Hắn không né, không vẫy tay xin đường, ngay cả chút sợ hãi khi một chiếc xe phóng vọt qua mặt. Tôi mong một chiếc xe tải không cầm lái kịp đâm thẳng vào hắn. Ác cảm về con người lở loét này vẫn không chịu rời tôi ra. Cái chết của chú tôi hắn vô can nhưng không hoàn toàn là vô tội. “Như một con chó ghẻ…” – Tôi nói thẳng ra miệng mà không sợ bị ai phán xét. Từng tuần trôi qua, hắn vẫn chưa chịu rời khu phố. Khu này đâu phát đạt tới mức trở thành miếng ngon cho những kẻ lười. Vẫn có người cho hắn đồ ăn. Đều là đồ ăn thừa nhưng chưa đến mức ôi thiu. Tôi đã một vài lần đụng mặt hắn trên đường. Nhìn gần tôi càng thấy ghê tởm. Trên người hắn không chỉ là mùi hôi từ quần áo, cáu ghét hay đất bẩn. Có cả mùi thối của cứt đái, bùn cống và thật kinh khủng khi tôi thấy một tổ dòi trong thịt hắn. Con mắt trái, ngọn đèn soi đường duy nhất chỉ một màu trắng đục. Mắt hắn không hề có lòng đen. Cũng không có lấy một sợi thần kinh trong tròng mắt. Kì lạ thay dù không hề có đồng tử, hình ảnh tôi vẫn in lại trong đấy. Tôi thù nhất con mắt hắn. Bởi nó đủ lớn để tôi soi được mặt mình. Để hình mình phản chiếu trong mắt con vật này thì thật sỷ nhục. Tôi nôn một bãi nhưng không quên ý nghĩ muốn tẩn cho hắn một trận. Lúc đó ngoài đường có người và tôi đã phải lấp sát ý bằng cách rẽ sang lối khác.

Tối hôm đấy tôi không ngủ được vì nóng. Hắn vẫn vảng vất trong đầu tôi. Uống một cốc nước lạnh, tôi bớt nóng hơn nhưng tinh thần vẫn đờ đẫn. Tôi dị ứng với mùi xú uế. Kể cả khi đấy là mùi từ người mình. Nghĩ rằng ngoài đường sẽ mát hơn, tôi ra khỏi nhà. Tôi mặc mỗi chiếc áo ba lỗ, quần đùi, dép tổ ong. Tôi cao 1m80, vì tập thể hình thường xuyên nên tôi khá cường tráng. Ăn mặc thế này có khi lại hút hồn được một cô nàng hư hỏng. Ngoài đường mát, kha khá người đi lại.

Đi được một lúc tôi gặp hắn. Hắn ngồi dựa vào cánh cửa kéo của cửa hàng quần áo. Cửa hàng đóng lâu rồi. Hè vắng, thỉnh thoảng lại có gió mát, thằng cha này cũng thật khéo chọn địa điểm. Hai tay hắn đặt trên bụng. Một đàn ruồi bay quanh người hắn tạo thành những vòng xoắn ốc không giao nhau. Hắn đang ngủ thì phải. Mùi hôi thối chẳng dịu đi mà nồng nặc hơn khi có cơn gió thổi qua. Cần phải đi thế nhưng tôi đã ở lại. Trong đầu tôi lúc đấy chẳng nghĩ gì. Thứ quái gì đã níu tôi lại, và còn sai khiến để bàn chân tôi bước lên từng bước, thật chậm về phía hắn. Ngọn đèn cao áp không sáng lắm để tôi có thể thấy trọn vẹn thân hình hắn. Như vậy cũng tốt. Cứ nhá nhem thế này tôi sẽ không phát hoảng nếu có nhìn thấy một đoạn thịt chảy mủ vàng bị rữa đến tận xương. Nhịp tim tôi vẫn ổn định. Hắn kia, ngay trước mặt tôi. Chợt, con mắt trái đáng lẽ đã nhắm lại mở thô lố. Hắn thấy tôi và nhỏm dậy. Tôi ở gần hắn lắm, lúc nhìn vào mắt hắn tôi còn thấy cả bộ mặt mình. Nỗi thù hằn từ đây. Chính cái ảnh tôi trong mắt hắn. Ở cái màu trắng đục, chỉ thấy tôi đang đứng. Trông tôi lở loét không khác gì hắn. Nhìn vào mắt tôi, hắn có thấy mình. Cũng lở loét, chắc thế. Nhưng lúc này đây các ngón tay tôi đã chụm lại thành quả phật thủ. Một quả đấm, thêm một quả nữa. Đấm, rồi đạp, cùi trỏ vào mặt, vào bụng, rồi hạ bộ. Định ngừng tay để chạy đi vì sợ bị ai bắt gặp nhưng lúc thấy bản mặt lở loét của mình trong mắt hắn, sát ý trong tôi lại sôi sục. Hắn co quắp trong trận đòn. Mỗi cú đánh của tôi đều hết lực. Cả người hắn giãy lên. Chưa bao giờ tôi đấm mạnh và điên cuồng đến thế. Quả đấm dính vào người hắn nhưng vẫn tiếp tục ấn mạnh vào như muốn xuyên thủng con người hắn. Cũng lạ là chẳng một ai can tôi. Có thể đoạn đường này quá vắng hoặc họ thấy nhưng thây kệ.

Một lúc sau, khi chắc chắn hắn đã chết hẳn tôi mới dừng tay. Đèn cao áp vẫn mờ mờ nhưng tôi vẫn có thể thấy đôi bàn tay dính đầy máu. Ruồi bay toán loạn, nhiều con chui cả vào tai tôi. Toàn thân tôi nhễ nhại mồ hôi và máu. Thịt hắn dính một ít lên ngón tay tôi. Không phải thịt, có lẽ là mủ, một đoạn ruột, chất nhầy hoặc cái gì đấy kinh tởm hơn. Con mắt trái đã không mở ra. Nó còn chẳng lồi lên sau vành mắt, giống như đã biến mất khỏi hốc mắt. Tôi rất sợ nếu ai đó đã thấy tôi và lén lút chạy trốn để hôm sau sẽ báo với chính quyền. Mồ hôi tôi vã ra. Sống lưng lạnh buốt như dựa phải một phiến băng. Không kịp phi tang hắn, tôi chạy khỏi hiện trường. Cái áo ba lỗ tôi đã vứt vào thùng rác. Về đến nhà tôi lăn ra giường ngủ vì quá mệt.

Tôi cứ nghĩ chỉ ít ngày nữa trên An Ninh Thủ Đô sẽ có một bài viết về nghi án khu phố này. Còng số tám mở sẵn, chỉ đợi đôi tay tôi giơ ra. Tôi đâm ra sợ ra ngoài, sợ tiếng đỗ xe ngoài cổng hoặc ngay đến một tiếng bấm chuông của người đưa sữa đậu nành cũng làm tôi rùng mình.

Đến chiều, tôi thấy hắn qua khung cửa sổ. Sợ rằng mình nhìn nhầm tôi chạy xuống đường để nhìn thật rõ. Đúng là hắn. Vẫn cái áo xô gai rách bươm, cơ thể lúc nào cũng nồng nặc như cái xe rác. Con mắt trái mắt láo liên. Cứ cho rằng trận đánh hôm qua không lấy nổi mạng hắn thì hắn cũng phải bị thương nặng đến mức đi không nổi. Tôi vẫn nhớ là mình đã bẻ ngược tay hắn ra sau, có cả tiếng xương gãy rôm rốp. Một cú đấm hết lực của tôi có thể làm vỡ đôi cả gạch nung cơ mà. Giờ đây hắn đi lại bình thường ngay trước mắt tôi. Tay còn huơ hoắng, còn chìa ra, còn bốc cơm nguội ở âu…

Hắn thấy tôi. Rồi chìa tay xin ăn. Tôi đứng yên đó, chỉ tay ra hướng khác. Hắn đi. Mái tóc hắn rối bù, bết cứng lại, nhiều sợi chổng lên chổng xuống. Dáng đi hắn vẫn thế, lúc lệch sang trái, khi rẽ sang phải, rất chậm. Ác cảm với hắn vẫn còn đấy. Ngay lúc hắn ngoảnh ra, rồi con người tôi hiện ra trong con mắt trắng đục đấy tôi đã điên tiết rồi. Chẳng rõ vì sao. Tôi chỉ biết là thế.

*

Tôi thường đi xa khỏi khu phố để không nhìn thấy hắn. Công việc hiện tại của tôi là người mẫu ảnh. Chỉ là hợp đồng ngắn hạn, thậm chí chẳng cần đến hợp đồng. Hễ họ cần là gọi cho tôi. Nhiều chỗ đã yêu cầu tôi làm người mẫu đồ lót. Tôi nhận lời ngay. Để giữ vóc dáng và cơ bắp tôi thường xuyên tập thể hình. Dạo này tôi tập thường xuyên hơn. Ý nghĩ muốn đập chết hắn vẫn thôi thúc. Rất khó để quên cái bản mặt hắn. Có phải những thứ kinh tởm thường dễ nhớ hơn, hay vì tôi đã một lần gây tội với hắn nên chẳng quên được.

Ở phòng tập đều là những tay đàn ông vạm vỡ. Nhiều lứa tuổi ở đây, chúng tôi vẫn thường bắt chuyện hoặc giúp đỡ nhau khi tập. “Thế có ai biết thằng cha đấy không?” – Tôi hỏi. “Chịu.” – Họ nói. Chỉ rất ít người là biết hắn. Số người lẻ đấy hoặc ở cùng khu phố tôi, hoặc ở khu phố bên cạnh, cũng có thể mấy người ở xa nhưng đã từng nhìn thấy hắn. Liệu đã người nào trong phòng tập này đã hành hung hắn chưa. Tôi hỏi và họ nói chưa. Tôi biết họ nói dối. Nhiều người có quả đấm to hơn tôi. Bụng sáu múi, bộ ngực vồng to, săn chắc lại trông như loài tinh tinh. Có người còn nâng được tạ 100. Nếu họ cũng thấy gai mắt thì sẽ như tôi, tấn công hắn khi trời tối. Và tôi tin thế nào hắn cũng sẽ trở lại trước mặt họ. Nhìn chằm chằm họ bằng con mắt trái đục ngầu. Hình của họ được chiếu ngược lại trong con mắt quạ tha đấy. Họ sẽ thấy mình bị lở loét, bị thối rữa. Không khó tin nếu họ thấy răng lợi mình bị tụt ra, mọi cơ bắp teo lại như cái xác khô. Mấy cô nàng điệu đà thường kiêu hãnh về nhan sắc sẽ ốm cả tháng trời nếu lỡ nhìn vào con mắt hắn. Cái kẻ này đây, sẽ chẳng tổ chức từ thiện nào chịu chứa chấp. Ngay đến lũ người vô gia cư thường tụ tập ở gầm cầu, công viên hoặc các công trường bỏ hoang cũng chẳng kết bạn với hắn. Mấy người đấy dù bẩn thỉu nhưng vẫn còn thấy vía người. Hắn thì không. Tôi nghĩ hắn chỉ mang bộ dạng người, hoặc là một dạng Zombie.(1)

Đài báo hai hôm nữa sẽ có một trận mưa lớn. Mấy hôm nay trời oi, chốc chốc lại mưa bóng mây. Nhiều người ra đường phải mang theo áo mưa và ô. Có người mặc sẵn vào phòng khi cơn mưa đột ngột đến, phun ướt họ rồi trốn vào trong nắng. Đường xá nửa ướt, nửa khô ráo. Nắng không quá gắt nhưng oi quá. Lúc nào tôi cũng thấy khô cổ. Khu phố tôi ở có một địa điểm café. Quán đẹp, mặt tiền đẹp nhưng giờ chẳng mấy khách lui tới. Nguyên do là từ hắn. Dù hắn chẳng bao giờ vào quán xin café uống nhưng việc hắn có mặt đã làm vấy bẩn không gian, khiến tách café ngon mang mùi bùn hầm mộ. Có lần hắn nằm ngủ ngay ngoài quán. Người ở quán chửi bới, rồi hất nước, hắn vẫn chẳng buồn rời đi. Không ai kéo hắn đi cả vì hắn quá bẩn thỉu còn người dân phố này thì quá sạch sẽ. Ruồi bay thành từng đàn quanh hắn. Tôi nghĩ hắn chẳng còn mấy thịt đâu. Ruồi đã xơi hết rồi. Cũng có thể hắn giống như người đàn ông trong bộ phim The Fly(2) mà tôi từng hãi hùng tới mức không dám xem lại lần thứ hai.

“Thằng bỏ mẹ đấy dai thế không biết.” – Một người nói.

“Ai đập chết nó đi.” – Một người khác nói vào.

“Ai đập đi.” – Hình như một người nữa.

Sau đấy nhiều cái miệng luyến thoắng. Rồi chỉ mặt nhau. Tôi không buồn nhìn ra xem có ai quen hoặc người nào hăng máu nhất. Một hồi tranh cãi, đôi co nhau, tất cả đưa ra biểu quyết hòa bình. Lý do họ kết lại câu chuyện là về tình người, giá trị sống, quyền làm người và một mớ hầm bà lằng khác cốt để gột lại danh dự mình sau những lời đao phủ.

Mỗi khi hắn đi qua dãy nhà nào, thì cửa ngõ nhà đấy lại thối hoắc. Mấy dấu chân đen vẫn có thôi, thậm chí còn có dòi ngoe nguẩy dưới đất. Nước hoa, nước xịt phòng, thậm chí đến thuốc tẩy cũng không át đi mùi hắn. Nhà tôi hắn cũng từng viếng qua. Cũng để lại dấu chân đen, cũng để lại dòi. Người nhà tôi đã rửa sạch lại ngõ bằng nước xà phòng. Bọn trẻ con bị cha mẹ quản chặt hơn. Trừ lúc đi học, còn thì chúng không được ra ngoài phố. Đấy chỉ là sự lo lắng của những người lớn. Họ sợ rằng bọn trẻ sẽ bị lây bệnh của hắn. Còn gì đáng sợ hơn việc một ngày nào đấy lại có một đứa trẻ giống hắn. Thời bình rồi, người ta sợ phải giết người lắm, trừ phi có ai đấy thay mặt họ giết người mà họ vẫn vô can và còn có cơ hội đứng ngoài lên tiếng như một nhà lương tâm bất đắc chí.

“Mẹ kiếp, tởm quá đi…” – Lại một người nữa chửi rủa.

Tôi bỏ tách café lại rồi ra quầy gửi tiền.

*

Tôi ngủ không được vì nóng. Điều hòa vẫn chạy kia mà. Khắp nơi trong phòng nhà nghỉ vẫn mát lạnh. Vậy mà tôi vẫn thấy nóng. Cái cơn nóng này đây không làm tôi đổ mồ hôi, cũng không khiến da tôi khô rang lại. Chúng thôi thúc tôi phải tìm đến nước. Nước ở tủ lạnh, rồi nước lã tôi bật ở vòi nhà tắm cũng không làm cơn nóng trong người tôi dịu xuống. Không lẽ phải uống đến no căng bụng để hạ hoàn toàn cơn nóng? Hơi nóng từ thân nhiệt tôi thì phải. Cái cảm giác này tôi từng nhiều lần trải đến nhưng không giống lắm. Nửa thân dưới của tôi vẫn ổn định tới mức tôi còn kiểm soát được. Tay tôi nóng ran. Lúc xiết lại thành quả đấm tôi thấy nắm quyền mình như bốc cháy. Mở cửa rèm tôi thấy trời đã tối. Lúc đặt phòng tôi có nhìn đồng hồ. Ba giờ chiều. Sau khi dùng bữa qua loa tôi đã đi ngủ ngay vì quá mệt. Thế mà đã tối mịt rồi sao. Tôi không chắc giấc ngủ mình kéo dài đến thế. Mở điện thoại. Tôi thấy mới 6h chiều. Có lẽ hệ thống báo giờ ở điện thoại trục trặc.

Đi xuống trả phòng, tôi có hỏi giờ cô gái lễ tân. 6h10, không trễ lấy một giây.

Ra khỏi nhà nghỉ, tôi tính gọi cho vài đứa bạn để đi Bar hoặc lai rai ở quán café, không thì trở về nhà dùng bữa với gia đình. Tôi dần không thấy đường vì quá tối. Mây đen rất dày và không ngừng kéo đến. Nhiều nhà đã tắt hết đèn. Một giọt nước va xuống đầu tôi. Thêm vài giọt nước, rơi trúng vai, mặt. Mây kéo đen cả khu phố, rồi vạn giọt nước dội xuống khắp nơi như một cuộc dội bom. Mấy kẻ qua đường trú mưa ở các mái hiên. Số khác mua áo mưa hoặc ráng phóng xe thật nhanh, mong về kịp đến nhà. Tôi không kịp chạy đến mái hiên nào vì mọi luồng sáng đã tắt cạn. Mắt tôi không mở nổi vì bị nước văng vào. Tôi thấy rát và vì cơn mưa quá lớn nên dù có mở to mắt cũng chẳng nhìn rõ.

Chạy loanh quanh một hồi, quần áo tôi ướt nhẹp. Trong tiếng mưa tôi nghe thấy một thứ tiếng khác. Dù âm vang này vẫn bị lẫn vào tiếng mưa nhưng tôi vẫn nghe được đại khái. Tiếng ai đấy đang chửi bới. Chính là thế. Màn mưa vẫn rất dày. Nhiều khe nứt dưới đường đã bị đổ tràn. Cống dềnh lên hôi thối. Tôi không thấy rõ mấy nhưng có lẽ lòng đường cũng bắt đầu ngập.

Tiếng này rất gần. Đi vài chục bước nó đã sát bên tai. Mắt vẫn xót, khó mở to nổi nhưng tôi vẫn thấy hàng mấy chục người đang tụ tập lại. Họ chẳng đứng yên mà đang huơ hoắng. Kẻ cầm gậy, kẻ lăm lăm viên gạch, số khác thì đạp chân. Tiếng họ chửi rủa, gào thét ầm ĩ và hoàn toàn át đi tiếng mưa. Tôi chen vào không khó khăn gì.

“Ra thế…”

Giữa lòng đám người là hắn. Cái tên lở loét không tên tuổi lúc nào cũng đeo bám khu phố và sinh tồn bằng việc xin ăn. Giờ hắn nằm còng quoeo nơi đây, cô độc hứng chịu trận đòn từ bọn chúng tôi. Mặt mũi mấy người này trông hung dữ. Nét mặt họ làm tôi nhớ đến người chú của mình. Chính là thế. Cái tia nhìn hả hê này không khác nhau là mấy. Tôi không can họ mà đứng yên đó. Có người muốn đẩy tôi để chen vào nhưng tôi quá khỏe để bị xô ngã. Mưa vẫn xối xả. Một tầng mây đen nữa lại phủ lên. Khu phố tối thêm và tôi cũng không nhìn rõ mặt đám người hung dữ này. Nhiều đầu gậy bổ xuống. Rồi có kẻ lấy chiếc ghế nhựa đập mạnh tới mức vỡ tung ra. Hắn giật đùng đùng nhưng chẳng hét tiếng nào. Tôi không đủ sức để cản nổi bọn người này, thế nên tôi đã dồn sức, hô một tiếng lớn để bọn người này tạm dừng. Chỉ cần nửa giây ngắn, tôi sẽ có thể đem pháp luật ra để hăm dọa họ. Cũng lúc này đây, một ít mây đen lại hé ra. Chút ánh sáng đâm xuống chỗ chúng tôi và soi bừng khuôn mặt hắn. Con mắt trái độc nhất của hắn. Và tôi thấy hình mình được chiếu lại. Da mặt tôi giống như bức tường bị ngấm nước nhiều năm, đang tróc ra từng mảng. Cái mũi tôi như bị gọt mất, trơ ra hai hốc đen. Bởi lý do da đã bị tróc nên tôi thấy thịt, rồi xương mình lồi ra ngoài. Cái miệng đã ngấu nghiến không ít đàn bà giờ thật thảm hại. Viền môi lở loét, thậm chí một nửa môi đã tuột đi đâu mất. Tôi nhìn thấy rõ từng cái răng của mình. Tôi chỉ nhìn được thế vì cái lỗ nhỏ, mang đến ánh sáng đã bị mây đen lấp mất. Trời lại mưa. Tiếng hạt mưa chạm mái tôn nghe ào ào như núi lở.

Luồng khí nóng tưởng đã dịu bớt, nay lại được dịp bốc lên. Có gì đấy đã thôi thúc nắm quyền tôi nắm chặt lại và giáng hết sức bình sinh vào tên người đang nằm co cụm trong đám đông. Chẳng phải nỗi oán hận. Cũng không phải lời mách bảo từ trong óc rằng đấy là kẻ mang trên người con số 666(3). Lưỡi lửa đã cuốn vào tôi và tôi cần chạy đến suối. Nhiều tiếng nói vẫn vang quanh tai tôi. Không có tiếng của tôi nhưng mỗi thương tích của hắn đều có dấu tay tôi. Cái mặt đáng kinh tởm của tôi dường như đang cười nhạo chính tôi từ trong con mắt hắn. Không thể nào đấy lại là tôi. Mưa xối xả. Trời tối hơn, không hẳn vì mây đen hay đèn tắt. Tôi không nghĩ lý do nào tốt hơn, nhưng đây có thể là một sự hưởng ứng của cả cộng đồng đang vây quanh hắn.

Xương vỡ, thịt văng, dạ dày, ngũ tạng bắn ra và dính lại người mỗi chúng tôi.

Từ xác hắn rất nhiều ruồi bọ bay ra. Có lẽ thế thôi vì tôi không thấy rõ hẳn. Tôi chỉ nghe thấy tiếng vo ve trong tai, rồi một con côn trùng rẽ màn mưa, đâm lạc vào mặt tôi.

Tôi rã rời vì phải đấm đá quá nhiều. Bọn người quanh tôi nghiêng ngả. Đâm sầm vào nhau. Chưa có sự thỏa chí, và tất cả lại chụm lại như một bầy kên kên. Bủn rủn tay chân, mùi hơi người lẫn lộn. Tôi bị kẹt lại trong đám người. Phải, trái, ở sau đều có người. Người lạ, người quen, nếu có ai rọi đèn vào có khi tôi còn thấy người nhà mình. Vẫn có kẻ muốn chen lên để ít nhất lóc đi một miếng thịt hắn nhưng từng khối người đã tê cứng như bị trát keo dán sắt. Không thở ra hơi, tôi muốn xô hết ra để chạy ra ngoài. Sức lực tôi cạn dần. Từng thân người vẫn chồng chất lại như một bầy kiến lửa. Hắn hẳn đã chết và xác còn bị xé nát ra. Năm mươi mảnh? Có lẽ nhiều hơn thế. Con mắt quái quỷ kia…Sao tôi vẫn thấy nó vẫn mở và soi chiếu ảnh mình bằng thứ hình hài ung hoại.

Mưa xả xuống, dữ dội như một trận bão.

*

Lúc tỉnh lại tôi thấy mình nằm ngoài đường. Mưa tạnh, nắng ấm, và đường thoáng không chút nước đọng. Không một mùi hôi thối. Đường xá không một mảnh rác, vỏ lon hay xác lác. Ngay đến cống rãnh cũng đã thoát đi hết. Trận mưa ngày hôm qua đã rửa trôi tất cả. Mọi vật xinh tươi, nảy nở như vừa qua đại lụt Nô-Ê.

Sự việc ngày hôm qua như khắc lại vào đầu tôi. Trí não tôi dường như chỉ lưu nhớ lại mỗi điều này. Hắn bẹp dí trong vòng vây của chúng tôi. Không chút phản kháng. Bất lực như con vật tế thần đã bị phế đi tứ chi.

Trong một ngày mưa lớn, đường lầy lội, tối, ẩm ướt và nhiều người.

Mặc áo mưa hoặc không. Cầm ô hoặc không.

Kẻ lạ kia bị dồn vào một cái góc hẹp được tạo ra bởi những thân người. Bức tường này cứ thế ngày một dày lên. Thịt đè vào thịt. Chồng chất lên như tường thành. Chúng biết chuyển động, và xoay thành vòng tròn. Cái thân thể lở loét, còi cọc kia bị lóc nham nhở nhưng con mắt thì chưa chịu khép. Nó mở trừng trừng, lồi ra khỏi hốc mắt và giống như một chiếc máy ghi hình, nhiều thước phim được thâu lại.

Hắn không quay về khu phố này nữa.

Người con phố này ngại nhìn nhau. Chào, rồi phớt lờ nhau. Tôi có hỏi hắn và ai cũng đều lắc. Không ai nhớ về ngày hôm đấy ư. Họ quên, còn tôi thì nhớ. Các hình hài nứt toác và bị rút khỏi bộ xương. Không riêng hình tôi mà toàn bộ bọn họ đều bị chiếu ngược thành ác quỷ trong tròng mắt trắng đục đấy.

“Ngày mới tốt lành…”

Cũng trong cái ngày tốt lành đấy, tôi hay tin một người ở khu phố mình đã tự chọc thủng mắt mình. Xe cứu thương đã đến tận nhà để đưa người đấy vào viện.

*

Vào phòng người chú quá cố, tôi bị trượt ngã vì dẫm phải một viên tràng hạt.

Nhìn vào tấm kính cửa sổ, tôi thấy bóng mình lờ mờ. Đi gần về phía tấm kính vài bước, hình tôi rõ hơn. Tôi dẫm vào vài viên tràng hạt nhưng không ngã. Một vài viên dính dưới lòng bàn chân tôi và rơi xuống khi tôi nhấc chân lên.

Nhìn sát vào tấm kính, tôi chợt run lên nhưng vẫn đứng yên.

Mặt mũi tôi vẫn tươi tỉnh. Nửa thân người tôi hòa với chút khung cảnh phía ngoài. Trong tròng mắt mình, hình của tôi được phản chiếu lại. Nó mờ tối trong hạt đen. Tôi nhìn chằm chằm, và cái ảnh mang hình tôi cũng nhìn lại.

Thế là,







(1) Zombie : Thây ma, xác chết sống dậy. Phổ biến trong văn hóa phương Tây từ thế kỉ 19, là nguyên mẫu cho nhiều bộ phim kinh dị.

(2) The Fly : Một bộ phim kinh dị của Mỹ.

(3) 666 : Trong chương cuối của kinh Cựu Tân Ước, ám chỉ dấu ấn của Satan.