Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2012

MÓN NỢ ĐẦU ĐỜI






 


Từ giã cuộc sống công nhân, tôi trở về bước vào cái cảnh của thằng thanh niên vô công rồi nghề. Đã vậy lại thêm cái sự chán đời, cái sức trai tràn ngập trong tôi cứ muốn nhảy ra ngoài mà đập phá. Mà phá cái gì, đập cái gì? Những thằng như chúng tôi ngày đó cũng chẳng biết, duy có điều là không thể ở nhà để bị mẹ la.
Để có tiền tiêu vặt,, Tôi- Phúc và An mở một chỗ sửa xe đạp, nơi dốc Cầu Quan. Cây cầu 3 nhịp được xây dựng từ thời Pháp, bắc ngang con rạch Tây ninh.Vì sao cây cầu có cái tên như vậy, chúng tôi cũng đâu có thời gian để mà thắc mắc.Phúc và tôi là bạn học, còn An thì sống cùng xóm với Phúc, cái xóm ven sông tập trung nhiều người Chàm nên có tên gọi  là xóm Chàm. An lớn hơn chúng tôi, là bộ đội xuất ngũ sau chiến tranh 
Cam-Pu-chia. Tuy vậy, từng đoàn quân tình nguyên  vẫn đưa qua và thỉnh thoảng những xe Cam-nhông  trùm kín bạt lại về ngang qua cây cầu này. Đó là những xe chuyển xác . Tôi biết về cái sự sống chết của con người cũng từ cuộc chiến này, khi mà những trái pháo từ bên kia bên giới pháo sang một cách vô tội vạ chỉ nhằm vào mục đích giết người. Ngày đó chúng tôi luôn có ý nghĩ, cuộc đời thật ngắn ngủi, và cũng không biết mình có thể chết lúc nào nữa.
Vốn dĩ đã gan góc, lại coi sống chết không là gì đã khiến 3 chúng tôi trở thành những thanh niên nổi cộm lên ở Thị xã lúc bấy giờ với hàng loạt những trận đánh nhau với những lý do thật đơn giản :Thích thì chìu.Vậy thôi !Không bao lâu, dân anh chị trong khu vục cũng phải kiêng dè chúng tôi mấy phần.
Cái việc sửa xe đó , tôi chỉ là đứa phụ vặt nhưng thường thì chẳng có mấy khách, nên phần lớn thời giờ là tôi nằm ngủ để An và Phúc làm. Chỉ những ngày lễ, họa hoằn chúng tôi mới kiếm dược chút đỉnh, đủ nhậu một bữa ra trò.An tụ tập quanh mình một đám em út vô công rỗi nghề, một vài thằng công tử nhà giàu học đòi làm anh hùng hảo hán và cả những đứa không nhà lang thang, để được tôn làm đại ca, oai oai một chút cho cái cuộc sống không có ngày mai. Hẳn, tôi và Phúc cũng được xem như vậy vì ba chúng tôi thân với nhau như anh em. Vậy là vô vàn những cuộc đánh nhau từ những chuyện vặt vãnh của bọn nhóc, từ những thằng công tử bột gây ra. Bản thân cả ba chúng tôi ít gây chuyện, mà có chuyện gì để gây, khi cuộc sống chỉ có giá trị bởi những tranh chấp không đâu, có khi chỉ là vì một đưa con gái, vì một câu chửi thề nơi quán nhậu, vì một gương mặt vất hất, vì cái thằng ỷ tiền khinh người…, hay ho lắm là vì một chuyện bất bình.Tôi tham gia vào những cuộc đánh nhau ấy gần như vô thức và mỗi lần khi công an ập xuống, bao giờ Phúc và An cũng đứng ra bao che, chịu tội thay tôi.Phúc bảo: " Có gì thì mày cứ chối, để tao hay và thằng An gánh cho. Tụi tao bị nhốt cũng quen rồi."Mỗi lần bị bắt vì cái tội đánh lộn, An hay Phúc bị phạt lao động thường là làm vệ sinh công viên, quét đường, quét chợ… và chúng tôi gọi đùa là “ làm công đức”. Thế nhưng, sự hiện diện của chúng tôi, cũng phần nào giúp được những người nghèo buôn bán về đêm, dọc con rạch,đen đúa ngày đó chút yên ổn không bị lưu manh quậy phá
Trước giải phóng, cái xóm Chàm nghèo hèn  còn có cả dãy nhà “năm căn” và còn có tên gọi là xóm đĩ. Hẳn nhiên sau giải phóng thì không còn nữa, còn chăng là những dãy nhà lụp xụp, che chắn tạm bợ.Nơi một trong những căn nhà đó Hoa đã lớn lên. Lúc đó Hoa lớn hơn tôi một tuổi. Ba mẹ Hoa không may, trong một lần đi đánh trái trên sông, trái nổ khiến ba của Hoa bị thương mất đi một tay và một chân. Thế là gánh nặng gia đình đều đặt trên đôi vai của mẹ Hoa với gánh xôi chè rong ruổi sáng và đêm,nhưng chẳng bao giờ lấp liếm đủ 6 miệng ăn trong thời điểm khó khăn và đói lúc đó.
Hoa lớn lên như hoa dại, đẹp và hoang dã. Cô bước vào cái nghề bán trôn nuôi miệng cũng tự nhiên như cô đã sống và lớn lên.
Thỉnh thoảng, về đêm ,Hoa tụ lại nơi cái lô cốt chân cầu để nhậu cùng chúng tôi.  Hoa, Phúc, An vốn cùng xóm và những đêm khuya về nhà cô đều đi qua chúng tôi. An thì coi Hoa như em gái vậy, Phúc thì tôi không rõ., còn với tôi thì chẳng bao giờ tôi muốn gần gũi với Hoa cả, bởi Hoa đẹp và hát hay.
Một buổi tối, tôi và Phúc mệt nhoài nằm trên nóc cái lô cốt mà ngắm trời. Mấy hôm nay chúng tôi ngh làm vì An bị bắt và lần này thì không đơn giản, bởi một trong những thằng em út đã đâm một người bị thương trong một trận đánh ẩu đả. Cả ngày, hai thằng chúng tôi chẳng muốn làm gì và cũng không ăn gì, bởi số tiền trong túi đã vứt hết vào cuộc nhậu buồn bả, nặng nề tối qua.
Tôi bảo với Phúc : ‘’ Hay tụi mình về nhà một thời gian đi”. Phúc nói : “ Về đâu, về nhà mày à?’”. Tôi đáp: Ừ. Nó nói: ; Cũng được, mà mày đi không về chắc cũng hơn cả tháng rồi, tôi sợ Bác Tám chửi. Tôi nói : Thì bả có chửi rồi cũng thôi. Tao với mày ra dẫy cỏ mì, trồng lang thì má tao vui rồi. “. Phúc nói : ‘’ Còn thằng An thì sao?”. Tôi đáp: Cùng lắm thì nó bị đưa đi cải tạo thôi. Có cơm mà ăn, có việc để mà làm. “. Phúc chửi : Mày thì có vào bao giờ mà biết. Mẹ, tụi nó ni hứng là bạt tay mình.”. Tôi bảo: “ sao mày không đánh lại ?”. Phúc hỏi: Đánh ai? Mấy thằng quản giáo à? Mày vào mà đánh.” Tôi cười. Lúc đó, Hoa đi lên. Có lẽ từ nhà ra. Thấy tôi và Phúc nằm trên nóc lô cốt, Hoa hỏi tôi : “ Anh Thu sáng giờ ăn gì chưa? Em nghe nói anh An bị bắt rồi hả?.’ Phúc đáp : “ hết tiền, làm biếng ăn” vừa nói nó vừa nhổm dậy hỏi Hoa; “ Còn thuốc không, cho tụi anh vài điếu.? “. Hoa đáp : E cũng mới ở nhà ra, có đâu?. Rồi Hoa đi.
Lát sau, thằng Nhị chạy đến. nó dựng xe đạp rồi leo lên nóc lô cốt với chúng tôi. Trên tay nó cầm bọc bánh mì, miệng nói : Chị Hoa bảo em đem cho hai anh ăn đó. Có gói thuốc nữa. Phúc nhổm ngồi dậy , nó lấy bánh mì ra và đưa tôi một ổ.Nó nói : Ăn đi mày. Con Hoa nó thương mày thiệt đó.”. Nhị lên tiếng : Tội nghiệp, chị Hoa mới hết bịnh vậy mà đi khách liền.”. Tôi bật dậy : Hoa bịnh khi nào ? Nhị nói : Mấy bữa nay rồi, anh không biết hả? Phúc nhìn tôi cười nói :" mày quan tâm nó rồi hả? Thôi, có thì ăn đi.” Tôi cầm ổ bánh mì lòng xót xa vô cùng. Từ lâu, tôi biết Hoa thương tôi và vì vậy mà tôi luôn tránh né Hoa.
Nhị lên tiếng : "Anh Thu ăn đi.Chị còn đưa em 10 ngàn đưa anh nè." Nó móc túi lấy tiền đưa tôi.Bất giác cơn giận trong lòng tôi bùng lên dữ dội. Tôi nhảy xuống bảo Nhị. : Mày chở tao về nhà coi”. Thằng Nhị lật đật nhảy xuống, đẩy xe chở tôi đi. Cả đoạn đường nó không dám lên tiếng.
Tháng sau, tôi tình nguyện đi thanh niên xung phong vì lý lịch của tôi không tham gia quân đội được. Lúc đó, gia đình tôi chưa nhận được tin tức của anh tôi nên trong lý lịch tôi vẫn khai : Trung sĩ lính ngụy mất tích.”.
Sau này, Tôi về Phúc cho tôi biết Hoa bỏ đi làm xa, không biết đi đâu.
Phúc giờ, theo vợ qua Mỹ làm tài xế tắc xi. Còn An nghe đâu sau vài lần ra vào tù rồi cũng lấy vợ sinh con nhưng ở đâu tôi vẫn không rõ.
Cái xóm ven sông cũng không còn nữa, đã được giải tỏa. Nghe nói Hoa cũng tìm được anh chồng Việt kiều và đã ra nước ngoài. Còn gia đình thì cũng đã dọn đi nơi khác.
Cây cầu Quan đã được đập, xây mới tuy vẫn giữ lại cái dáng cầu 3 nhịp thời xưa. Riêng cái lô cốt- nơi tôi vẫn ngã lưng ngắm sao trời thì không còn nữa.
Ngày đó, tôi không ăn ổ bánh mì, nhưng trong lòng tôi đã nhận một món nợ ân tình cho dù người trao nó mãi mãi không bao giờ cần tôi phải trả. Món nợ ấy đã theo tôi bao năm nay và tôi đã không thể quên

NHÁT DAO VỀ CỘI





Tuổi trẻ niềm tin không còn chẳng khác nào một con thú hoang ,lạc bầy đến vùng đất xa lạ, hoảng sợ và điên cuồng cắn xé bất cứ thứ gì chắn trên đường đi của nó. Những đứa chúng tôi là vậy. Đánh nhau đã là điều mà chúng tôi thấy thích thú để giải quyết mọi vấn đề, cho dù đó là vấn đề cỏn con, hay đúng hơn là những bất bình nho nhỏ.
Tối đó, như mọi hôm tôi lên bãi hát chơi khi có đoàn cãi lương về hát. Lúc tôi đang ngồi nơi tủ thuốc lá của Thủy tán chuyện thì Phúc chạy vào, vẽ mặt rất tức giận. Thấy tôi, nó hỏi ngay : 
-" Thằng An lên chưa?"- Tôi đáp : " Chưa. Chuyện gì vậy?". Phúc vừa thở vừa nói : " Mẹ nó, mấy thằng nó vây đánh tao". Tôi đưa nó điếu thuốc, hỏi luôn: " Sao đánh?".
-  Đ.m., tao trên đường lên thấy tụi nó ghẹo gái, vỗ đít mấy con nhỏ ở xóm. Tao cự, chửi tụi nó.
-  Tụi nó mấy thằng?. -tôi hỏi
- Bốn năm đứa, có thằng cha già nữa, nó đánh tao hai tát.
- Mày nhớ mặt tụi nó chứ?
- Nhớ- Vừa lúc đó, Phúc nhìn dòng người đi vào bãi hát, lên tiếng- Nó kìa. 
Tôi nhìn thấy một thanh niên chạy xe đạp, ánh sáng trên con đường vào bãi hát lờ nhờ nên chẳng trông rõ mặt. Đi qua chúng tôi, nó dừng lại tủ thuốc của Sương mua thuốc cách chúng tôi khoảng 10 mét . Tôi nói : " Chơi nó".
- Còn mấy thằng nữa, coi nó có đi chung không?- Phúc bảo và nhìn quanh tìm kiếm. Khi biết chắc là thằng đó chỉ đi một mình, Phúc ra hiệu tôi và tiến đến.
Tôi và Phúc tiến đến ra vẽ mua thuốc hút, rồi bất ngờ Phúc ra tay. Cú đánh đã hất người thanh niên văng khỏi xe té xuống đất cạnh tôi.
Tôi cũng đã không ngần ngại cắm luôn chỏ mình vào đầu anh ta. Cú đánh ác hiểm đó khiến người thanh niênco giựt người giãy lạch bạch. Phúc còn bồi thêm hai đá nữa thi người thanh niên ngất lịm, bất động.  Tôi hốt hoảng, vội áp tai vào ngực xem anh ta còn thở không. Dòng người xôn xao, có người la ó lên. Nghe lộn xộn, anh Thành là kiểm soát quân sự đang trực gác cửa bãi hát chạy ra. Thấy tôi anh hỏi:
- Chuyện gì vậy?
- Tụi em lỡ tay đánh nó không biết có sao không?
Anh đưa tay ấn mạch máu cổ của người thanh niên bị chúng tôi đánh, rồi chửi ;
- Nó chết giấc thôi, đm... hai thằng mày đứng đó làm gì nữa.Muốn bị nhốt hả?
Nghe anh bảo vậy tôi và Phúc vội bỏ đi vào luôn bãi hát. Anh và chúng tôi thân nhau.Tôi biết người thanh niên sẽ không sao nên cũng an tâm.


Khoảng một tiếng sau, An vào bãi hát tìm chúng tôi, nó bảo: " Tụi nó kéo lên tìm hai thằng bây, đang đón ngoài cửa đó."
- Mày tìm thằng Phi, kêu nó nó lên chơi luôn- Phúc nói
- Trong đó có mấy thằng tao quen. Thôi thì dàn hòa đi.
- Tùy mày- tôi nói với Phúc.
- Mày ra đi- An nói với tôi- để thằng Phúc ra mắc công lớn chuyện thêm.
- Ừ- tôi không chút do dự đáp.
- Đm.. mày ra trước xem sao, rồi tụi tao ra - Phúc nói với An


Mười phút sau tôi và Phúc đi ra. Hai bên đã dàn trận rồi và chỉ đợi chúng tôi. Tôi thấy bên chúng tôi cũng khá đông với nhiều gương mặt quen thuộc.Bên kia đường là một nhóm. Trong đó có một người luống tuổi- cha già mà Phúc nói.
Nhóm chúng tôi đứng ở bên này đường.Tôi nhìn thấy người thanh niên mà chúng tôi đánh. Đứng cùng với anh ta còn có Bảy Gon, cầm đầu nhóm anh chị ở bến xe. Thấy tôi và Phúc , bảy Gon bước qua, vừa nói:
- Chỗ quen biết không, tụi bây cũng bỏ qua đi cho. 
Cùng lúc đó, lão già cũng đi theo cùng, lớn tiếng chửi
- Địt mẹ, tụi mày ăn hiếp nó
Nghe giọng Bắc kỳ và thái độ xấc xược, tôi đã dị ứng, thì Phúc đã lên tiếng
- Đ.m.. già còn vỗ đít gái.- An đã vội cản Phúc.
Bảy Gon quay lại xô lão già, lớn tiếng:
- Anh để tôi dàn xếp. Hay muốn đánh nhau
- Đ.m.tụi này cũng đâu có ngán- Phúc đã sấn ra- Tôi ôm Phúc cản nó lại. Đúng lúc tôi xoay lưng để cản ,đẩy Phúc trở về.
- Bình- Tôi nghe đau thấu ở lưng- biết đã bị đâm. An và Phúc lao ra. Phúc la lớn :
- Nó đâm thằng Thu rồi.
 Cuộc ẩu đã xảy ra loạn cả lên. Tôi đưa tay bịt vết thương nơi lưng, máu đã thấm ra ướt cả lưng chiếc áo lính tôi mặc. Tôi bỏ đi về phía tủ thuốc của Thủy và gọi :
- Thằng nào lấy xe chở tao vào bệnh viện coi.
Lúc đó, tôi không cảm thấy sợ hãi hay căm giận. Một ý nghĩ thoáng qua về cái chết, về ba tôi, khiến tôi bình tỉnh đến lạ thường.
Hẳn nhiên bên tôi thắng thế và  rượt đuổi . Lúc đó, Tâm mới  lấy xe chở tôi đi. Nó vừa đạp, lính quýnh hỏi:
- Mày có sao không?
- Không biết có sâu không?- tôi trả lời.


Cũng may, nhát dao đâm trúng xương và không đủ mạnh để lệch qua vào phổi. Băng vết thương xong tôi tr ra bãi hát.  Bọn chúng tôi vẫn còn tụ lại khá đông. Có lẽ, chờ tin tôi. Thấy tôi về có vẽ bình an, cả bọn nhẹ nhỏm.
Không thấy Phúc và An, tôi hỏi : 
-Thằng An, thằng Phúc đâu
- Anh An với anh Phúc đuổi theo thằng đâm anh rồi.
- Thằng nào chạy tìm kêu tụi nó về đi- tôi nói- Bảo tao dặn không có trả thù.-Tôi lại kêu Tâm chở tôi về nhà.
Trên đường Tâm hỏi tôi tính trả đũa thế nào, tôi cười đáp:
- Cũng may vết thương nhẹ thôi. Đánh nó nặng vậy nó đâm mình cũng phải.
Trong lòng tôi như thức tỉnh. Tôi nghĩ về gia đình tôi, về ba tôi và về tôi , rồi tự hỏi : " Không lẽ cuộc đời của tôi lại tệ đến như vậy, chết trong một  vũng lầy"
Mấy ngày sau, người thanh niên đâm tôi đã tìm đến nhà tôi để xin lỗi, xin tôi bỏ qua và đền tiền thuốc cho tôi. Cái chuyện tôi bị đâm khiến hầu hết các nhóm hoang đàng đều muốn tìm anh ta trả thù. Dù sao tôi cũng được đám giang hồ quý mến. Tôi chỉ cười,nói với anh ta lời tôi đã nói với Tâm. Tôi đã nhận ra thù hận trả qua trả lại khó mà chấm dứt. Tôi tìm An và Phúc nói ngưng việc tìm trả đũa và nói tôi sẽ trở về đi học lại.


Sau cái ngày đó, tôi đã về nhà. Rồi tôi quyết định đi học trở lại. Tôi trở lại trường sau 3 năm cách biệt. Thỉnh thoảng tôi mới ra thăm An và Phúc. Kể từ đó, tôi đã thật sự thoát ly khỏi cái thế giới giang hồ không có ngày mai. Khi tôi đi làm báo, đôi lần tôi đã giúp được vài đứa trong giới quay trở lại với cuộc sng lương thiện nhưng trong số đó đã có những đứa gây ra tội lỗi, để phải chấm dứt cuộc sống với bản án tử hình. An và Phúc, sau này cũng bị tù vài năm cũng vì tội đánh người gây thương tích. Ra tù rồi , tụi nó cũng  đủ trưởng thành để hiểu mình phải tiếp tục sống một cách đàng hoàng.
Vết thương nơi lưng tôi đã để lại vết sẹo cho tôi nhớ mãi về một cái chết  và cuộc sống vô nghĩa





THÙNG BIA TỐT NGHIỆP




Dù đi học trở lại nhưng tâm trạng của tôi vẫn luôn u ám, chán chường và chưa bao giờ tôi nghĩ đến tương lai. Ước mơ vào đại học cũng không còn trong tôi, cho dù tôi đã theo kịp việc học hành và vẫn đậu vào lớp học sinh chuyên toán của trường. Ngày đó, trong lý lịch của tôi có một người anh thứ ba là đang sống ở bên Mỹ. Với cái lý lịch đó muốn đậu vào đại học tôi phải thi hơn 18 điểm ở 3 môn. Tôi biết sức học của mình, ngoài môn toán khả dĩ thôi chứ các môn còn lại tôi chỉ học cho có. Trước đây, khi chưa nhận được thư của anh ba- tôi khai lý lịch là có người anh là trung sĩ lính ngụy đào ngũ mất tích. Trưa ngày 30/4 anh còn ở nhà. Tôi còn nhớ,  mẹ tôi rầy anh khi anh ngồi trước cửa gảy đàn. Thế là, chiều anh đi rồi biệt tích. Mãi đến năm 79, gia đình tôi mới nhận được thư anh từ Mỹ gửi về. Cũng bởi cái phần lý lịch đó, giữa năm học lớp 11 sau những vụ tôi gây ra ở trường, tôi nghỉ học để xin vào học ở trường Công nhân kỹ thuật điện ở Hóc Môn. Tôi kéo cả đám bạn hơn 10 đứa trong lớp theo tôi đi học nghề. Thế nhưng chỉ chỉ được học 1 tháng, Ban tuyển sinh của tỉnh đã gọi tôi về không cho học gì cái lý lịch không rõ ràng của anh tôi. Điều đó đã đẩy tôi bước ra đường phố.


Cuối cùng rồi cũng đến ngày thi tốt nghiệp năm 1984. Lúc đó, tôi còn nhớ rõ cho thi 4 môn toán, văn, sinh, ngoại ngữ ( Tôi học tiếng Anh). Riêng môn ngoại ngữ học sinh được quyền chọn đổi sang thi môn Địa lý.
Tôi đi học lại và cũng như trước thân với các thầy trong trường, nhất là các thầy ở tập thể. Có thể do tôi chơi thể thao khá lại biết uống rượu, thuốc lá.Năm 12, gần như tôi ở trong trường chung với thầy Hòa ( Thầy là giáo viên dạy văn). Giữa tôi và thầy có điều thú vị là  tôi đã từng rũ thầy đánh lộn tay đôi. Lúc tôi nghỉ học và đi làm công nhân . Hôm tôi về phép, Tấn- bạn thân- học chung với tôi từ lớp 4 kể tôi nghe về những chuyện của lớp tôi, đặc biệt nó ấm ức vì bị thầy Hòa "đì" khi nó có thái độ ra mặt trước việc thầy cố nâng đỡ Thu Sang- bạn cùng lớp với chúng tôi. Đúng hơn là Thầy Hòa cặp bồ Sang. Sang là con gái Bắc, học chung với tôi từ năm lớp 6. Sang đẹp - vốn là hoa khôi của trường.Thoạt đầu, tôi không tin là có chuyện cặp bồ đó, nhưng tối hôm sau, Tấn rũ chúng tôi uống cà phê trước cổng trường và thấy thầy Hòa chở Sang đi chơi. Lúc đó cả Đình Thanh, cũng là bạn học lớp tôi( tôi  và Thanh cùng bỏ học một lượt). Sáng hôm sau, giờ ra chơi tôi vào thăm lớp ( tôi rất được bạn bè trong lớp yêu mến, nhất là con gái), và tôi cố tình rũ Sang đi uống nước. Lúc chúng tôi xuống cầu thang, chạm mặt Thầy Hòa, tôi chẳng nói chẳng rằng kéo Sang vào lòng mình và hôn lên má cô nàng luôn( Sang chơi thân với tôi  và tôi vẫn thường đùa như vậy). Quả nhiên thầy Hòa có thái độ tức giận ra mặt, còn Sang thì mặt mày xanh mét. Thầy bước đến nạt Sang bảo con gái để con trai ôm hôn giữa trường như vậy. Sang vừa đẩy tôi ra vừa phân bua.: " thằng quỷ Thu nó giỡn mà thầy". Tôi thì khinh khỉnh bảo : " Ê, ghen hả". Sang chạy lên lớp, tôi cũng ra về. Lúc tôi ra cổng trường thầy Hòa đi theo, kêu tôi lại hỏi : "Thế mày muốn gì ". Tôi tỉnh queo trả lời : " đánh anh đó". Thầy Hòa tuổi cũng chỉ mới 22- 23 lúc đó, nghe tôi nói vậy thì hất mặt bảo : " Mày muốn chơi kiểu nào tao chìu". Tôi lại cười đi ra chỉ nhắn lại " Tối gặp nha".
Tối hôm đó, tôi cùng Thanh vào trường và tìm đến phòng thầy Hòa gõ cửa. Mở cửa thấy tôi, thầy khựng người rồi kéo tôi lại hành lang nói chuyện. Tôi bảo : " Sao, anh muốn chơi không xuống sân trường tôi với anh tay đôi thôi". Có lẽ, thấy tôi hai đứa, nhất là Thanh người chắc nịch, thầy có lẽ ngán nên nhỏ nhẹ phân bua và ra vẽ mình cũng là dân chơi. Đúng lúc thầy Liên đi qua, thấy tôi thầy hỏi ngay : " ê, cái thằng này đi đâu đây". Tối nói luôn: " Định vào rũ thầy Hòa pặc-co tay đôi  nè thầy.". Nghe tôi nói thầy bật cười, cái giọng Huế của thầy đặc sệt bảo :" Mẹ, thằng Hòa mà xuống dưới thằng Thu nó đánh cho gãy xương ". Tôi cười, ghẹo luôn : " Thầy làm trọng tài nha". (Thầy Liên dạy tôi môn Địa lý và chơi thân với tôi vì thầy rất mê võ, còn tôi thì cũng vốn bước ra từ khu S- nơi mà nổi tiếng võ nghệ ở tỉnh. ). Nghe vậy thầy nói luôn vi thầy Hòa : " Tao chơi sòng phẳng với nó còn chưa biết hạ nó nỗi không nói chi mày. ( Thầy ở trong trường có tiếng về võ Bình định ai cũng biết.). Nghe vậy, thầy Hòa càng ngán hơn xuống nước luôn, kéo thầy Liên vào để mong giảng hòa. Thầy Liên nghe chuyện cười nói " Mày phải dẫn chầu ca phê mới được"- Thầy nói với Thầy Hòa.Nghe vậy thầy Hòa đồng ý ngay. Thầy Liên kéo tôi ta , kề tai nói nhỏ : " Mày định kiếm chuyện thật hả." Tôi gật đầu. Thầy lắc đầu nói : Chưa biết đó chứ thằng Hòa coi vậy mà chơi được." Vậy là chúng tôi đi uống cà phê. Lúc về, Thanh nói với tôi : Cha Hòa đẹp trai vậy con Sang mê cũng phải. Tôi cười đáp : Nó dụ chả thì có. 
Sau, Tấn bảo tôi nó chẳng bao giờ bị điểm Văn dưới trung bình nữa.
Buổi sáng tôi vào trường định xin học lại thì chạm mặt ngay thầy Hòa. Tôi thật không ngờ thấy tôi, thầy vui vẻ gọi ngay : Ê, Thu đi đâu vậy. Tối đáp : dạ, em vào xin học lại thầy. Nói xong , tôi cảm thấy ngỡ ngàng với cái lễ phép và cách xưng hô của tôi khi nhớ lại chuyện cũ. Trong lúc tôi còn ái ngại , Thầy đã vui vẻ cặp cổ tôi kéo lên phòng hiệu trưởng vừa đi vừa nói : Lên gặp cô Đào, tao xin cho. Bề ngoài nhìn, có thể nghĩ tôi và thầy là hai người bạn thân lâu ngày gặp lại vậy.
Khi tôi còn học cô Đào là hiệu phó và hẳn nhiên cô quá rành về một học sinh cá biệt như tôi. Thầy Hòa lên lớp, tôi ở lại phòng Hiệu trưởng. Cô  hỏi thăm tôi thời gian nghỉ học làm gì. Tôi kể cô nghe tôi đi thanh niên xung phong và đưa quyết định xuất ngũ của tôi cho cô đọc. Cô chỉ đọc lướt qua, rồi hỏi thăm gia đình tôi , về ba tôi. Ba tôi đã vào trường vài lần vì tôi. Khi biết tôi không còn học bạ cấp ba, cô lấy trong tủ ra một học bạ mới, ký tên và đóng mộc của trường vào rồi bảo tôi gặp các thầy cô cũ xin điểm ký lại, còn thầy cô nào đã đổi đi thì để trống cô giúp cho. Tôi cầm học bạ cám ơn cô ra về.
Các thầy cô cũ đều vui khi tôi đi học lại, nên chỉ tuần sau tôi đã vào lớp. lúc đó cũng vừa hết học kỳ 1 lớp 11.
Đi học lại, tôi vẫn như xưa là thường cúp giờ ngồi quán cafe và lui tới với các thầy nhậu nhẹt. Thầy Hòa cũng thích chơi bóng chuyền và chiều tôi hay ở lại trường đánh bóng chuyền cho đến tối mịt. Thế là chúng tôi thân nhau vì tôi đánh cầu hai giỏi thường nâng bóng cho thầy Hòa đập rất ăn ý. Đến năm 12, tôi không ở nhà vào ở hẳn phòng Thầy Hòa, cơm nước chung luôn.
Đến cuối năm trong lúc nhậu chia tay, Thầy đùa bảo với lớp tôi nếu tôi mà đậu được tốt nghiệp loại khá thầy sẽ chung một thùng bia. Thầy biết thắng chắc vì biết tôi đã không xin chuyển qua thi địa lý, mà môn anh văn thi tôi dốt đặc. Chật vật lắm tôi mới đủ điểm trung bình môn này cuối năm. 
Tôi cũng không quan tâm đến việc có đậu tốt nghiệp hay không nhưng mấy đứa trong lớp kéo nhau đến nhà tôi mà học ôn thi. Vậy là tôi cũng phải học.
Buổi thi đầu tiên là môn toán, tôi làm dễ dàng chỉ khoảng nửa tiếng là xong. Gác thi môn toán là một cô giáo trẻ - cô giới thiệu tên Phong Lan.Sau khi làm bài xong, tôi không biết làm gì, nên ngồi lấy giấy nháp mà vẽ chơi. hẳn nhiên tôi vẽ cố giáo gác thi xinh đẹp.  Cô đi chỗ tôi và khi thấy tôi vẽ cô, cô có vẻ ngạc nhiên ( bởi tôi cũng không dấu ) hỏi tôi làm bài xong chưa. Tôi gập đầu và xin nộp bài sớm. Cô đồng ý cho tôi nộp bài dù còn một tiếng nữa mới hết giờ. Cô bảo tôi có thể ra khỏi lớp đứng ngoài hành lang nếu thích. Vậy là tôi ra ngoài hành lang hút thuốc  và trò chuyện với thầy Huynh là giám thị phòng tôi, thầy dạy tôi môn Lý. Môn sinh vật và môn văn cũng ổn, tôi đều làm bài dư thời gian khá nhiều. 
Buổi trưa hôm đó trời mưa tầm tả tôi phải đội mưa đi để thi nốt môn anh văn. Nhà tôi cách trường cây số, tôi không có xe mà đi bộ, nên khi đến trường tôi gần như ướt sũng. Cô giáo gác thi môn anh văn phòng tôi lại là cô Phong Lan. Cô xinh đẹp, nhỏ người và chắc cũng chỉ hơn tôi một hai tuổi.
Sau khi chép đề xong, tôi đọc đi đọc lại vài lần và biết chắc là tôi không thể làm được. Thế là tôi chỉ biết ngó ra ngoài trời để ngắm mưa. Tôi cũng không có cảm giác ân hận hay lo âu khi tôi phải rớt tốt nghiệp. Không học nữa thì tôi kiếm việc mà làm. Mẹ tôi cũng không mong muốn gì hơn ở một đứa con được xem là hư hỏng như tôi. Chỉ có cảm giác buồn chán tràn ngập trong tôi. Một tâm trạng chán đời, chán sống luôn ám ảnh tôi. Tôi lấy tờ giấy nháp viết luôn mấy câu thơ :

" Tôi lại làm học sinh
Tôi trốn cuộc đời trong sách vỡ mộng mơ
Tôi học làm người
Người dạy tôi làm thú dữ dã man

Tôi học yêu người
Người dạy tôi những điều ti tiện, hận thù..."


 
Thời gian cứ chậm chạp trôi đi chung quanh tôi các học sinh khác cũng hầu như chỉ biết cắn bút. Có lẽ đề thi quá khó. Hơn một tiếng trôi qua, cô Lan đi lên xuống xem học sinh làm bài, thấy tôi không viết gì cả, cô đến bên hỏi nhỏ : "Sao bạn không làm bài". Tôi nhún vai : Không biết gì để làm". Cô hỏi tôi : My môn kia bn làm thế nào? . Tôi đáp: Thưa cô ổn. Cô có vẽ ngẫm nghĩ gì đó rồi nói : Bạn không làm bài bị điểm không sẽ rớt tốt nghiệp. Tôi cười gượng bảo : " Đành chịu". Có lẽ, thái độ thản nhiên ấy của tôi khiến tôi tò mò, cô hỏi : "Sao bạn không chuyển qua thi địa ?". Tôi đáp : "Em học Anh mà cô. Tại mình không học thì chịu". Cô cầm lấy tờ nháp của tôi, đọc mấy câu thơ và hỏi : " Của bạn viết?". Tôi gật đầu. Cô cầm tờ giấy nháp của tôi đi lên. Lát sau tôi thấy cô ngồi viết  rồi cô đi ra ngoài nói chuyện với giám thị và cố ý tạo sự dễ dãi cho học sinh làm bài. Tôi lại ngắm mây trời. Bầu trời chiều hôm ấy dù mưa đã tạnh nhưng vẫn xám xịt.
Khi trống trường điểm báo 15 phút nữa hết giờ. Tôi thở phào nhẹ nhỏm. Đúng lúc đó ,cô  Lan xuống bàn  trả lại tôi tờ nháp và nói : "Bạn làm bài đi". Tôi nhìn vào tờ nháp thấy chữ cô rất đẹp. Đó là bài dịch Anh sang Việt.  Tôi ngỡ ngàng chần chừ nhìn cô. Cô nói khẽ : "Đừng để rớt tốt nghiệp như vậy". Rồi cô quay sang nói với lớp : "Các bạn cố gắng tranh thủ làm nhanh rồi nộp bài". Nói xong cô bỏ ra ngoài. Dường như có sự đồng tình của cả cô giám thị. Thế là cả phòng nhốn nhào. Tôi nhún vai, thở dài chép bài dịch 5 điểm đó.
Hết giờ chúng tôi nộp bài. Tôi xuống cổng trường đợi cô gửi một lời cám ơn. lát sau cô mới xuống khi mọi người như dã về hết. Cô loay quay bên chiếc xe đạp mini, tôi bước đến chào và nói lời cám ơn cô. Cô chỉ cười rồi hỏi tôi : "Lúc nảy Trúc Thu có nhìn thấy cái chìa khóa xe  tôi không ?". Tôi hơi giật mình khi nghe cô gọi tên mình. Tôi đáp : "Dạ không .  Mất chìa khóa xe hả cô?"- Tôi hỏi . Cô bối rối đáp: "không biết đâu mà tìm hoài không thấy". Tôi bước đến nhìn thấy cái ổ khóa vòng Trung quốc. Tôi bảo : " để em mở cho". Tôi móc túi lấy con dao xếp nhiều lưỡi mà tôi vẫn thường có thói quen đem theo bên mình và mở khóa. Một tiếng tách vang lên, cần khóa nhảy ra. Cô nhìn tôi đầy vẽ kinh ngạc. Tôi đẩy xe cho cô và lại nói cám ơn cô lần nữa. Khi biết tôi đi bộ cô bảo cho tôi đi nhờ, cô đưa về, vì nhà cô ở Hòa thành đi ngang qua nhà tôi. Tôi do dự rồi lên xe chở cô. Tôi mời cô uống nước và cô đồng ý. Vậy là chúng tôi vào quán cà phê, cô hỏi thăm về tôi rất nhiều, tôi cũng chỉ trả lời chặng dừng thôi. Cô lớn hơn tôi hai tuổi. Rồi chúng tôi ra về. Tôi cũng không quên đưa lại cô tờ nháp mà cô đã viết bài dịch cho tôi.
Vậy là năm đó tôi đậu tốt nghiệp với tổng số điểm là 28. Môn anh văn tôi được 5 điểm. Ngày vào nhận bằng tốt nghiệp bọn tối kéo đến phòng thầy Hòa nhậu và thầy đành phải móc túi mua thùng bia đãi tôi. Sau này Thầy cũng bỏ nghề giáo về làm ở đài truyền hình Việt nam. Lúc thầy vào làm phóng sự về người lao công ở trường tôi, chúng tôi có gặp nhau và sau ln đó tôi cũng không liên lạc với thầy nữa. Phim phóng sự năm đó của thầy được huy chương vàng toàn quốc. Giờ, nghe đâu thầy đã là vụ trưởng một vụ của đài truyền hình Việt nam. Cô Phong Lan ,tôi cũng không có dịp gặp. Nghe nói, cô và gia đình đã định cư ở Mỹ.
Tôi đã may mắn tốt nghiệp phổ thông như thế đấy!

 

Thứ Bảy, 15 tháng 12, 2012

ĐỜI SỠ DĨ LOẠN CHẲNG PHẢI VÌ THIẾU NGƯỜI!



" MÌNH CÓ THỂ LÀ NGƯỜI CÓ ÍCH CHO ĐỜI, NHƯNG KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI NHU-THIẾT CHO ĐỜI "- câu nói này là của Trang Tử. Nhu -thiết cũng có nghĩa là Cần thiết, tức là không có không dược, cũng như không có mặt trời thì sinh vật không sao tồn tại được nữa. Ấy, không ít người lại tin tưởng mình là cần -thiết. cần -thiết cho người mình yêu, cần thiết cho con, cho xã hội...Phàm những kẻ tư tin tưởng mình là cần thiết thường thường có biểu hiện độc tài như một căn bịnh chủ quan, họ nghĩ rằng : đời say cả , một mình ta tỉnh! Cho nên nếu không phải là ta, thì không ai thay thế được ta để cứu " chúng sanh" ( hai chữ Chúng sanh này có một Dị nhân làng Blog rất ưa sử dụng là Công tử Rừng Phong ). Bởi tự cho là "ta tỉnh, đời say" nên mới ham làm, ham "đóng cọc" cho sự hiện diện của mình. Kẻ tỉnh ấy, tin tưởng mình là một nhân vật không thể thiếu sót được trong xã hội, nếu không ai phong cho họ thì họ cũng tự phong cho có cái sứ mạng làm đấng cứu thế , vì vậy mới có cái mộng làm " Thầy đời", thích làm người dẫn đạo con người, trước khi mình đủ sáng suốt dẫn đạo đến mình ra khỏi vòng vô minh đau khổ.Thật sự không có ai cứu rỗi ai được cả.
Cái danh dự lớn nhất của con người là ngoài mình ra, không ai giải thoát cho mình được. Cái mà thiên hạ phần đông gọi là " Lo cho đời" hay " phụng sự cho đời " phải chăng đều là những hoạt động có cao vọng đem kẻ khác về cùng một quan niệm với ta về điều phải hay lẽ quấy, tốt hay xấu, đúng hay sai..., Và nhân đó , theo ta là phải, là đúng không đồng quan niêm với ta là quấy, là sai!
Người Việt hiểu rõ cái đạo lý này nên có câu :  Có mợ, chợ cũng đông. Không mợ thì chợ cũng không buổi nào." Đời sỡ dĩ loạn chẳng phải vì thiếu người " lo đời", mà thực sự phải chăng vì đã có quá nhiều kẻ "lo đời".

Lão tử, Giê su... chắc không bao giờ có cái mộng đem ý kiến cá nhân của mình để hạn chế sinh hoạt tinh thần của nhân loại.


BÀI THƠ 50





XUÂN NÀY KỀ CẬN TUỔI 50
SỐNG DƯ 10 NĂM VINH NHỤC
DÒNG SÔNG NGÀY THÊM VẨN ĐỤC
TÌNH YÊU ĐƯỢC MẤT NHƯ KHÔNG?

LẪN QUẪN LO TOAN
NỢ NẦN CHỒNG CHẤT
TAY ĐÃ KHÔNG CÒN ĐỦ SỨC
NHẶT SẠN TRONG CHÉN CƠM QUA NGÀY

KHÔNG QUÁ KHỨ
KHÔNG TƯƠNG LAI
CHỈ LÀ HIỆN TẠI
CHẬP CHỜN NHỮNG GIẤC MƠ

Ký ức


Một ngày nào đó bỗng dưng ta nhận ra những gì ta đã làm và đã sống là vô nghĩa, trong ta chỉ là một sự trống rỗng. Ta cũng không có cảm giác sợ hãi, chính lúc đó ta bình thản nghĩ đến cái chết. Và thật kỳ lạ, ký ức nhanh chóng đổ về trong ta. Mỗi ký ức là một sắc màu lung linh như muôn ngàn vì sao lấp lánh....

Văn chương


                Nhớ ngày nào đăng một truyện ngắn, một bài thơ trên báo đã khó, đăng trên báo văn nghệ chuyên ngành thì lại càng khó hơn huống chi là in sách thành tập truyện, tập thơ.Ngày đó cũng có lý do các nhà xuất bản ít tiền, sách in nhà nước bao cấp nhưng cái khó là các  "Cụ" xuất bản chọn lọc tử tế.
                Bây giờ, thấy Hội văn nghệ các nơi được chút ưu ái, nhà nước cấp tiền in sách. Vậy là hàng loạt tác phẩm ra đời từ các hội văn nghệ tỉnh và được in ở các nhà xuất bản văn học hẳn hòi. Để rồi có những tuyển tập thơ, tuyển tập truyện ngắn đọc xong rồi mà không thấy thơ đâu, truyện đâu. Người in lấy được tiền in. Người đưa in có cái xài tiền được cho và có con số cuối năm ghi vào báo cáo. Chỉ có người mua, đọc xong thấy mình đã ngu lại ngu thêm.
                 Anh bạn, vốn là dân văn nghệ đàn anh trách : " mày cầu toàn quá, phải có dở mới có hay. Thời buổi kinh tế thị trường mà. ".Ô hô, văn chương dở hay ai dám nói, chỉ nói thứ văn chương không có người cũng được xem là tác phẩm văn học. Truyện , thơ ... không có hồn thì cũng như miếng thịt bò. Ừ, thịt bò cũng có miếng ngon miếng dở mà bây giờ các nhà biên tập phần đông đều khoái thịt bò.
                Bởi vậy, ông Nguyễn Huy Thiệp chỉ thích thịt chó không mê thịt bò nên lặng luôn.
                Mấy ông chủ quán bán thịt bò còn sợ khách ăn thịt bò chê.Chỉ có người đọc chẳng ai sợ cả. Đọc không được thì đừng đọc đem mà gói đồ.
                Vậy mà mấy anh mấy chị chàng được in sách thì ra vẻ lắm, bởi có sách thì được gọi là nhà văn , nhà thơ oai ra phết, mà ra sức cố viết thêm nữa, bởi viết dễ quá má, in dễ quá mà.
                 Quý các cụ ngày xưa, cả đời đọc đọc, viết viết chẳng dám đưa in vì sợ người đọc, sợ làm tổn thương cái phần người trong con- người của người đọc.Cũng bởi cái sợ đó mà Giac-lanđon, Hueminwe ... phải tư tử.
                 Truyện ngắn,thơ ... không phải văn chương giải trí nên khi đem ra công chúng không phải ở chỗ hay hay dở mà ở chỗ cái phần người được thể hiện. Tính Nhân văn của một tác phẩm văn học bị bỏ lên mốc rồi. Có in thì in kiếm hiệp, trinh thám ...cho người đọc khen chê.
                 Viết blog cho minh đọc thôi để thấy mình còn biết cầm viết
                  


TRI KỶ



Tri kỷ người là ai?

Có mấy ai tìm được người tri kỷ? Bá Nha _ Tử Kỳ  là tri âm hay tri kỷ? Người tri âm có thể đến với ta nhưng tri kỷ thì không? Vậy là ta vẫn phải đi tìm. Tìm tri kỷ đã khó, Hồng nhan tri kỷ lại càng khó hơn.

Chuyện kể, để có người cai quản vườn địa đàng ở Thiên đường, Thượng đế đã nặn ra Adam từ cục đất sét. Cục đất sét thì bất động làm sao canh giữ địa đàng.Ngài bèn thổi vào cục đất sét chút phần hồn của loài vật,và ngài chọn phần hồn của loài khỉ. Vậy là cái cục đất sét chuyển động như một con khỉ xinh đẹp( bởi ở địa đàng thì phải đẹp mới được). Ngài yên tâm rời khỏi vườn địa đàng vì đã có Adam chăm sóc ( Thượng đế đã đặt tên cho cục đất sét là Adam). Vài tháng sau, Thượng đế trở lại. Hỡi ơi, trước mặt người là cảnh tàn phá tan hoang.Còn Adam thì chỉ biết nhe răng ra cười. Thượng đế hóa phép khôi phục vườn địa đàng, rồi tần ngần nhìn con khỉ  adam phân vân. Hủy nó đi hay giữ nó lại? Cuối cùng rồi ngài cũng nghĩ ra cách giải quyết. Ngài thổi vào Adam một chút nhân ái của thiên thần. Từ đó ngài yên tâm vườn địa đàng không còn bị phá phách,cỏ cây hoa lá sẽ được chăm sóc. Thằng người đầu tiên đã ra đời. Thượng đế gọi đó là con người.

Nhiều năm sau, Thượng đế trở lại thăm vườn địa đàng, ngài hài lòng khi nhìn thấy muôn hoa cỏ cây xanh tốt, tươi đẹp. Chỉ riêng Adam thì lặng lẽ, không còn có nụ cười. Ngài nhận ra từ adam một nỗi buồn cô đơn của một sinh vật, của một thiên thần không trọn vẹn. Ngài tự trách mình đã vội vàng nên tạo ra một sinh linh nữa thú nữa thiên thần như vậy. Cuối cùng, thượng đế chỉ còn cách an ủi adam bằng cách lấy đi của adam một cọng xương sườn và tạo ra một sinh linh như Adam và và ngài đặt tên cho nó là Eva. Vạn vật vốn có âm dương bảo hòa, Adam được tạo ra từ đất thuộc dương nên thượng đế bèn lấy khí thuộc âm để thổi vào Eva. Ngài gọi Adam là đàn ông và Eva là đàn bà.Vậy là vườn địa đàng trở lại sự cân bằng của vạn vật.

Vườn địa đàng có một cây trời một triệu năm mới ra trái và chỉ ra một trái duy nhất. Thượng đế gọi đó là Trái Tình Yêu. Trái Tình Yêu có công dụng kỳ diệu,các thiên thần chỉ cần ăn một miếng thôi thì dục vọng tiêu tan và đổi lại nếu loài thú ăn vào thì dục vọng tăng lên ngàn lần. Adam và Eva vốn chỉ có một phần của thiên thần nên ngài căn dặn họ không được ăn Trái Tình Yêu. Adam và Eva gọi đó là Trái cấm.

Rồi đến một ngày Trái cấm đã chín, hương thơm ngào ngạt, quyến rũ cả đất trời và đó cũng là ngày các thiên thần trở về tụ họp vui chơi nơi vườn địa đàng. Không cưỡng lại được sự quyến rũ của quả cấm, Adam và Eva bèn hái và chia nhau ăn. Thượng đến đến thì đã muộn màng,ngài chỉ còn biết thở dài. Ôi đó cũng  là do tạo hóa vận hành. Thượng đế không còn cách nào khách đưa Adam và Eva xuống trái đất chung sống với loài thú. Trái tình yêu đã kết đôi Adam và Eva, để rồi loài người cũng ra đời từ đó. Loài người sinh sôi nảy nở ngày càng nhiều,thì cái phần dục vọng của loài vật ngày càng tăng lên và chút nhân ái của Thiên thần càng bị sẽ chia, càng thêm nhợt nhạt.

Câu chuyện này đã được Adam và Eva lưu truyền cho cho con cháu.Kể từ đó con người cứ vẫn phải đi tìm cái phần thiên thần của nhau kết lại mà hạn chế sự phát triển của phần thú tính, duy trì loài giống con người ( không thì bị loài thú đồng hóa) và tìm đường trở lại địa đàng. Họ trở thành Tri kỷ.Hơn thế nữa, khi 2 người Tri kỷ là một nam một nữ và chỉ khi đó họ mới thực sự hoàn thiện để cùng nhau trả lại Trái Tình Yêu cho Thượng đế mà trở lại Địa đàng

Bá Nha mượn tiếng đàn để tìm tri kỷ và ông trên đường ông gặp được Tử Kỳ. Tử kỳ không còn Bá Nha đập đàn bởi câu đàn đã không còn giá trị nữa

Và tôi tin vào câu chuyện  này.

DẤU ƠI LÀ DẤU !




             

    Khi bắt đầu bập bẹ, mẹ nghe bé ngọng nghịu hỏi : “ cái gì?”, mẹ vui mừng khen bé ngoan. Nói rành một chút, khách đến nhà nghe bé luôn miệng hỏi đã khen : thằng nhỏ sau này thông minh học giỏi lắm đây. Rồi bắt đầu biết con chữ, biết cái dấu hỏi và tin dấu hỏi làm mẹ vui, làm mọi người thích..Đến lúc có thể long nhong theo ông anh lớn hơn vài tuổi ra đường miệng cứ luôn hỏi. Ban đầu còn được trả lời. Vừa nghe xong lai hỏi và lại hỏi làm ông anh nổi cọc nạt : “ mày hỏi gì mà hỏi hoài. Có im hay không. Mai mốt tao không dẫn mày theo nữa.”. U hu, sao dấu hỏi làm làm phiền người? Cái dấu hỏi lần đầu nhảy ngược  vào trong.

   Đi học, thấy đám con gái túm tụm , to nhỏ lại hỏi bị ngay con nhỏ chanh chua chửi luôn : “ chuyện gi kệ người ta, mắc mớ gi mà hỏi. Đồ nhiều chuyện”. Trời đất, dấu hỏi dễ nhớ vậy sao mà khó xài?

   Rồi thời gian trôi đi, mỗi năm thêm một tí tuổi, dấu hỏi sinh ra nhảy ra ngoài ngày càng ít dần, lại chui tọt vào trong  ngày càng đầy khiến thấy  đầu óc mụ mẫm, cũng may còn chưa quay ngược lại thành cái móc câu sốc vào cổ họng.Thôi thì dần quên cái dấu hỏi để được xem là trưởng thành. Dấu hỏi trong đầu dần vỡ vụn như những ước mơ vụn vỡ mà làm quen với cái dấu phẩy.Để rồi, một ngày nhìn thấy những trái gòn khô treo lững lơ, trơ trọi trên cành trông như cái dấu chấm than.

Nhìn cái dấu chấm than mà cảm thán nghĩ đến cái dấu chấm hết. Bất chợt, cái dấu chấm than gòn kia nổ tung, bông gòn theo gió bay lượn lờ, cái dấu hỏi lại nhảy ra to đùng. Bông gòn ơi, bay về đâu vậy? Mũi lòng, thấy mình sao lại phụ bạc cái dấu hỏi, quên luôn lời Ba dạy : “ Ta đã sống thế nào?”.

  Muộn rồi khi cái dấu chấm hết mỗi ngày càng to đùng khiến con mắt già nhìn càng ngày càng rõ. Dấu hỏi –thằng bạn trẻ thơ-lại xuất hiện tra vấn : “ chết rồi ai khóc thương?”. Đương nhiên là vợ con, người thân rồi chứ ai?. “ Còn ai nữa không?”. Ừ hé, ông Vũ thành An đâu có vô cớ mà viết: “ triệu người quen có mấy người thân, khi lìa trần có mấy người đưa?”. Lại cái dấu hỏi. Mà chết rồi thì biết chi nữa. Hỏi chi hỏi ác. Mệt.


  Thằng con bây giờ bập bẹ biết nói, dấu hỏi sắp bay ra. Có khen nó thông minh hay không ?Ái cha, tóc  bạc lẽ nào lòng lại bạc theo? Sao lại hỏi nữa vậy kìa? Lại đây coi dấu phẩy,  còn muốn sống lâu kia mà? Lại dấu hỏi. Con mẹ nó!

Cái dấu hỏi còn có dấu chấm bên dưới kìa ? Đâu  như dấu chấm.Thôi thì có chết cũng được giống như dấu hỏi cho ấm cúng một chút chứ như dấu chấm thì trụi lủi quá...

" TRÍ THỨC BẦY ĐÀN"


Thưa tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy,
Tôi mặc dù không phải là người học nhiều như chị, có học hàm học vị cao như chị, đi nhiều đọc rộng như chị, nhưng cũng xin có đôi lời muốn trao đổi với chị, dựa trên những luận điểm chị đã nêu ra trong bài "trao đổi với Đông La".
Luận điểm thứ nhất: cách hiểu và luận của chị về cách gọi "trí thức bầy đàn" của Đông La.
Chị viết:
Nhưng các trí thức đã ký kiến nghị, họ cũng không sai, đấy là lựa chọn của họ. Nói rằng họ sai lúc này e là quá sớm, lịch sử sẽ phán xét một cách công bằng các phán quyết của ngày hôm nay. Nói rằng họ phạm pháp thì không biết điều luật nào có thể dùng làm cơ sở cho quy kết đó của ông ?
Còn nếu nói họ bầy đàn thì rất thiếu chính xác. Họ chỉ có một trăm bốn bốn người trên tổng số chín mươi triệu người. Thực ra họ rất đơn độc, rất cô đơn. Họ là thiểu số của thiểu số. Đúng ra, phải nói rằng, những người không ký kiến nghị (trong đó có tôi, tôi cũng đã không ký) mới là thuộc về bầy đàn, nếu nhìn theo nhãn quan của ông. Vì thế nếu ông cho rằng một số vô cùng ít ỏi làm một việc mà đa số những người khác không làm là bầy đàn thì sẽ không chính xác. Ngoài ra, nếu ông gọi họ là trí thức bầy đàn chỉ vì họ tập hợp lại với nhau vì một mục đích mà họ cho là cao đẹp thì ông cũng cần gọi những trí thức hàng đầu thế giới như Maurice Blanchot, André Breton, Margeritte Duras, Claude Simon… là trí thức bầy đàn, bởi họ đã ký tuyên bố để phản đối chiến tranh Algérie, có 121 trí thức Pháp đã ký vào tuyên bố đó, họ chống lại cuộc chiến tranh do chính phủ Pháp tiến hành.

Trước hết, tôi cảm thấy hơi bị bối rối về cách chị hiểu cái từ "bầy đàn" thuần túy theo kiểu số lượng như vậy, nhất là đối với một tiến sĩ về văn chương như chị. Nhưng không sao vì hiện giờ tôi cũng đã được "tiêm ngừa" những ca sốc kiểu này rồi - nhờ vào sự thể hiện khả năng của các vị "trí thức cấp tiến" nước nhà. Theo kiến giải của chị thì "bầy đàn" phải là để chỉ đám đông thay vì thiểu số như các vị trí thức kia. Thế nào là đông ? Đàn kiến có hàng nghìn con. Đàn gà có hàng chục con. Đàn chó có mười mấy con. Đàn sư tử có năm, sáu con,... Vậy thì "đàn trí thức" cũng có thể hơn 100 vị chứ nhỉ (nhiều hơn khối đàn khác rồi!)?!

Đó là tôi nói theo cách nghĩ của chị thôi, chứ còn với cách hiểu của kẻ (ít học hơn chị) như tôi thì "bầy đàn" trong cách gọi của tác giả Đông La là nói về cái hành vi chỉ biết làm theo hành động của kẻ dẫn dắt mà không biết nghĩ suy, không thiết phải trái - đúng sai,... Tỷ dụ như đàn chó ấy, một con sủa là cả đám sủa nhặng lên mà không cần biết lý do, mục đích, đối tượng,... là gì cả. Vậy mới có chuyện cả đàn chó cắn trăng!

Giờ ta quay lại cái "mục đích cao đẹp" của các vị trí thức nhà ta. Khi chị viết những dòng chữ ấy thì chắc hẳn chị cũng đã biết rằng vụ cô Nguyễn Phương Uyên và đồng bọn đã được các cơ quan ngôn luận, các blog, diễn đàn,... rầm rộ đưa tin (cập nhật chẳng thua gì mấy tờ "tin nhanh World Cup" thuở nào). Bản thân tôi, ngay từ khi vụ việc mới "chớm nở", cũng đã cất công đi tìm tư liệu để làm rõ vấn đề, trong bài "
Nguyễn Phương Uyên - yêu nước chưa theo định hướng?". Vậy nhưng, ai cũng hiểu chỉ trừ những người "trí tuệ đỉnh cao" như các vị "trí thức cấp tiến" này là không chịu hiểu. Họ vẫn mặt dày mày dạn "gửi thư cho chủ tịch nước" dù biết tỏng rằng cái kiến nghị đó của họ chỉ có tác dụng làm cho tên tuổi họ được nhắc nhiều hơn trên các diễn đàn, báo mạng,... chứ chẳng bao giờ có cơ hội nằm trên bàn làm việc của vị chủ tịch nước, vì sự lố bịch của nó. "Trí thức bầy đàn" cũng chỉ là một trong số rất nhiều phản ứng của những người không chịu nổi sự trơ trẽn của họ.
(Nếu chị đọc đến đây mà hồi tâm chuyển ý về những gì mà các "thần tượng" của chị đang làm, thì thay vì luyến tiếc khi đã không ký vào kiến nghị của các vị ấy, chị có thể ký vào lá thư gửi các vị trí thức này!).

Chưa hết, khi những nhân vật chính cũng đã thú nhận tội lỗi của mình (vì những động cơ rất "đời thường"), các vị trí thức này vẫn rất "
bản lĩnh" đứng trên lẽ phải (hay theo cách chị nói là "chờ lịch sử phán xét"). Hỡi ơi,.. một cô bé có hành vi chống phá chính quyền rành rành (rải truyền đơn chống chính quyền, phát tán cờ vàng, tàng trữ thuốc nổ,...) và đã thú nhận hoàn toàn nhưng quý vị  vẫn cho rằng phải cần đến lịch sử để phán quyết đúng sai! Ôi, sao mà tôi yêu lịch sử đến vậy ! Phải chăng ở Pháp quốc họ dạy chị là hãy vứt bỏ luật pháp đi, vứt bỏ những chuẩn mực xã hội đi, đã có lịch sử cầm cân nảy mực rồi ? Nói đến lịch sử, sao chị không tìm đến nhà tưởng niệm nạn nhân của diệt chủng Pol Pot ở Ba Chúc để mà đặt mình vào hoàn cảnh những nạn nhân ấy trước khi "thất vọng vì tôi có thể làm nhiều điều hơn thế mà tôi chỉ làm được cái điều tối thiểu", đó là "ký vào kiến nghị trả tự do cho Cù Huy Hà Vũ", kẻ cho rằng việc quân Việt Nam ta phản công, tiêu diệt lũ diệt chủng khát máu ấy là xâm lược Campuchia?! 

Cái tính chất bầy đàn của các vị trí thức còn thể hiện ở sự ve vuốt, nịnh nọt lẫn nhau một cách lố bịch trong khi mạ lị những người không cùng phe cánh chẳng tiếc lời (vì không thể phản bác lại được những lý lẽ của họ). Có người đàng hoàng nào không cảm thấy sởn da gà khi nghe những lời này từ một gã đàn ông già khú đế:
“Từ Huy yêu quý,
Chú đọc một hơi "nhật ký" ngày 9 của Từ Huy. Đọc được hai phần ba thì nức nở một mình. Sau đó thì phải lau mắt vài lần để đọc cho hết bài...
......
Dẫu sao, cháu vẫn làm chú không hết ngưỡng mộ cháu."

Tôi không rõ tiêu chuẩn đánh giá về đàn ông của chị thế nào nhưng với tôi, khi đọc những dòng chữ ấy, tôi có cảm giác như mình vừa nắm phải một con lươn. Còn nếu như chị đọc những comments ủng hộ chị dưới bài viết "Trao đổi với Đông La" đăng trên trang danluan.org thì sẽ thấy toàn là lời lẽ của những kẻ xu thời vuốt ve chị và rủa xả tác giả Đông La bằng những từ ngữ vô văn hóa chứ chẳng đưa ra được lý lẽ nào ra hồn. Họ là những phiên bản hạ cấp của những kẻ ăn nói trơn tuột trên kia. Là đám lâu la trong bầy đàn.
Ấy vậy mà, chị lại "đánh lận con đen" khi đem những thần tượng của mình so sánh với các vị trí thức chân chính bên Pháp. Có thể là với nhãn quan tiến sĩ của chị thì nhìn sự việc khác với người thường chúng tôi nhưng khác đến mức đánh đồng việc phản đối một cuộc chiến tranh phi nghĩa của thực dân đối với thuộc địa (tương tự các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam tại Mỹ) với việcphản đối chính quyền bắt một tên tội phạm có đầy đủ chứng cứ thì tôi cũng không thể tưởng tượng nổi. Quay lại với cách hiểu "bầy đàn - số lượng" của chị, tôi cũng xin phép bổ sung rằng việc phản đối chiến tranh Algéria không chỉ có 121 vị ký tên trong bản tuyên ngôn ấy mà còn có hàng ngàn, hàng vạn người dân yêu chuộng hòa bình khác mà rấtnhiều người trong số đó đã bỏ mạng vì "được chính phủ Pháp văn minh tiếp đón" bằng bạo lực.

Chị có hỏi rằng cơ sở luật pháp nào để buộc tội những thần tượng của chị là phạm pháp. Tôi thì cho rằng với những hộp sọ đầy ăm ắp não của họ thì họ dư sức để biết cách giữ mình đứng trước lằn ranh của luật pháp, để khỏi phải "dấn thân vô là phải chịu tù đày". Bởi lẽ họ đâu phải là những nhà cách mạng chân chính! Ví dụ nhé:  "Vừa qua, theo dõi thông tin trên mạng ...". Chỉ vài từ ngắn ngủi vậy thôi nhưng nó chứa đựng rất nhiều điều, phải nói là quan trọng bậc nhất trong bức thư của các vị trí thức này. Quan trọng vì nó là cơ sở để những người có lương tri và hiểu biết chỉ ra sự lố bịch của bức thư và những người viết ra nó. Nhưng quan trọng hơn là nó là lá chắn, chứng tỏ rằng các vị trí thức nhà ta là vô can trong việc phạm pháp của cô nàng Nguyễn Phương Uyên, và họ "ra tay nghĩa hiệp" chỉ là vì "ủng hộ lòng yêu nước nhiệt tình của thanh niên". Họ chỉ "nghe nói" chứ chẳng "biết rõ" về những hành vi của cô này và đồng bọn cả nên giả sử có mấy quả bom phát nổ giữa trung tâm thành phố họ cũng không liên đới. Ôi, thật là trí tuệ! Nhưng hành vi "xúi trẻ con ăn cứt gà sáp" của họ còn đáng kinh tởm và nguy hại hơn nhiều việc họ phạm pháp rõ ràng.
(Tôi không phải là trí thức - theo tiêu chuẩn của các vị ấy - nên chỉ suy nghĩ được có thế này: nếu họ thực sự tin tưởng và muốn giúp đỡ, bảo vệ cô bé thì sao họ không thuê những luật sư thật giỏi để tìm những chứng cứ chứng minh cô bé và đồng phạm là vô tội; hoặc tố cáo lại sự phạm pháp của các cơ quan hành pháp trong vụ này; hoặc đóng góp tiền giúp đỡ gia đình các "bị hại" vì xem ra họ cũng chẳng dư dả gì; hoặc khuyên răn cô bé lần sau có chống Tàu thì chống chứ đừng rải truyền đơn chống nhà nước, chống Đảng, tàng trữ thuốc nổ,... cần laptop, điện thoại và đi du lịch thì các chú các bác sẽ giúp,...)

Thế thì phải chăng danh xưng "trí thức bầy đàn" còn có vẻ chưa xứng tầm với họ?
( nguồn Vua Làm Báo )