Thứ Năm, 3 tháng 11, 2016

Khế Nhật- giá 350k

Khế Nhật- giá 350k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh


hàng về Đà Nẳng ( Thắng)


Độ lệch giữa chữ quốc ngữ và tiếng Việt




- Cao Tự Thanh

Gần đây nhiều người nói tới việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Nhưng tiếng Việt tự thân nó vốn rất trong sáng, chỉ vì sự sử dụng bừa bãi bậy bạ của xã hội và quan niệm lệch lạc méo mó của những người quản lý và qui hoạch chính sách mới làm nó trở nên không còn trong sáng, điều này thể hiện một phần nơi thực tiễn văn tự mà cụ thể là chữ quốc ngữ Latin. Cho nên phải xem lại cái phương tiện đóng vai trò trung tâm trong việc thể hiện sự trong sáng của tiếng Việt ấy nó đang thế nào. Chính từ chỗ này, độ lệch giữa chữ quốc ngữ và tiếng Việt là một vấn đề có thể và cần thiết được đặt ra.






Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907
chủ trương khai trí cho dân qua những lớp học
chữ quốc ngữ.

Hiện nay muốn học tiếng Việt thì phải học chữ quốc ngữ, muốn tìm hiểu tiếng Việt dù là trong thời gian trước khi có chữ quốc ngữ cũng phải dựa vào hệ thống ngữ liệu tiếng Việt qua các từ điển, tự điển và văn bản chữ quốc ngữ, những biến động của tiếng Việt đều được thể hiện qua chữ quốc ngữ, những thay đổi của chữ quốc ngữ đều có tác động tới tiếng Việt…, tình hình ấy cho thấy đến nay hai hệ thống này đã gắn kết với nhau tới mức không thể tách rời. Hơn thế nữa, giống như việc nghiên cứu các đối tượng khác, việc nghiên cứu tiếng Việt đòi hỏi một cơ sở dữ liệu khả tín, và bộ phận chủ yếu của cơ sở ấy hiện nay chính là hệ thống các văn bản quốc ngữ. Nhưng tiếng Việt có lịch sử riêng của tiếng Việt và chữ quốc ngữ có lịch sử riêng của chữ quốc ngữ, quá trình song hành hàng trăm năm qua chưa đủ để xóa nhòa độ lệch đã hình thành trong quá khứ. Việc tìm hiểu độ lệch ấy là một cách thức để nhìn nhận rõ hơn về sự phát triển của cả tiếng Việt lẫn chữ quốc ngữ trước nay.

Đề cập tới những khiếm khuyết của chữ quốc ngữ, trước nay nhiều người thường nói về hệ thống ký tự của nó, tức cái được dùng để phản ảnh tiếng Việt về mặt ngữ âm. Tuy nhiên, trong những tác động bất lợi đối với tiếng Việt của chữ quốc ngữ thì những tồn tại về ký tự chỉ là một nhân tố rất không chủ yếu, vả lại nhìn từ một góc độ khác thì đó lại là một kết quả chứ không phải là một nguyên nhân. Chính những cách hiểu chưa chính xác, toàn diện và thấu đáo về tiếng Việt nói chung và lịch sử tiếng Việt nói riêng về mặt ngữ âm khiến chữ quốc ngữ cả trong thời kỳ tiên khởi (trước 1862) lẫn thời kỳ định hình (từ 1862 đến 1945) đều còn những hạn chế về ký tự nhưng quan trọng hơn là không ghi nhận được tiếng Việt một cách chính xác. Chẳng hạn những người sáng tạo ra chữ quốc ngữ không biết về một âm vị đặc biệt trong tiếng Việt tức i Tam đẳng Khai khẩu trong mảng từ Việt Hán nên đã gây ra những cuộc tranh cãi kéo dài hàng trăm năm qua chung quanh việc ghi những từ có phần vần là i/y. Lý do đưa tới sự hiện diện song song của i và y trong chính tả tiếng Việt hiện đã được làm rõ, nhưng có thể còn phải khá lâu nữa mới có được câu trả lời thống nhất về việc phải ghi những từ Việt Hán có phần vần là i/y trong tiếng Việt như thế nào.

Do hoàn cảnh lịch sử, chữ quốc ngữ đã được sử dụng một cách không đồng thời trên toàn Việt Nam, và do đó cũng bị chi phối bởi qui luật phát triển lịch sử không đồng đều. Được coi là chữ viết chính thức ở Nam Kỳ từ 1879, sau khi đưa ra miền Bắc khoảng 1888 trở đi, nó được sử dụng phổ biến ở khu vực đồng bằng và đặc biệt là các đô thị vốn có mật độ người Việt tập trung cao và số lượng trí thức đông đảo, nên nhìn chung không bị ảnh hưởng nhiều bởi ngữ âm của các phương ngữ Bình Trị Thiên và Trung Trung Bộ. Song bấy nhiêu cũng đủ khiến chữ quốc ngữ thời Pháp thuộc mang dấu vết rất rõ của phương ngữ Nam và phương ngữ Bắc. Trước 1945 sách báo chữ Việt ở miền Bắc ghi giả ơn, mặt giăng, giầu cau; sách báo chữ Việt ở miền Nam ghi trả ơn, mặt trăng, trầu cau. Người Nam nói là giào, ghi là giàu, người Bắc nói là giàu hay giầu, ghi là giàu và giầu, tức ba biến thể ngữ âm của từ này được ghi với hai cách thức không nhất quán, thiếu giào về hình vị mà thừa giàu hay giầu về chính tả. Theo thời gian, nguồn gốc ngữ âm của những trường hợp loại này dần dần nhạt nhòa khiến tiếng Việt phải đối diện với hậu quả về từ vựng: trong thực tiễn chính tả ở Việt Nam hiện vẫn tồn tại những cách viết song trùng như giày dép-giầy dép, trối trăn-trối trăng-dối giăng, thợ duộm-thợ nhuộm-thợ ruộm hay nhật-nhựt, phúc-phước, uy-oai gây ra sự gia tăng vô ích về từ vựng trong các từ điển – tự điển…. Cho nên ở một mức độ nhất định, có thể nói chữ quốc ngữ dưới thời Pháp thuộc chưa thực sự trở thành chữ viết toàn dân vì còn mang nhiều yếu tố “chữ quốc ngữ của các phương ngữ”, nhưng việc chưa được thống nhất theo hướng chuẩn hóa ấy lại không phải do nó gây ra mà chủ yếu do chính sách ngôn ngữ và nhất là thực trạng giáo dục thời Pháp thuộc đưa tới. Việc xóa nạn mù chữ được ráo riết xúc tiến trên toàn quốc sau Cách mạng Tháng Tám khiến cho đến thời gian 1954 – 1975 tiếng Việt trở nên thống nhất ở mức độ cao hơn hẳn, chính tả chữ quốc ngữ cũng trở nên chính xác hơn ở cả hai miền Nam Bắc, và ngược lại, những yếu kém trong việc dạy tiếng Việt của hệ thống giáo dục, sự hời hợt trong nhiều hoạt động của hệ thống thông tin là nguyên nhân chủ yếu đã gây ra sự suy thoái của tiếng Việt và chữ quốc ngữ khoảng hai mươi năm nay.

Trên cơ sở thực tế phổ biến chữ quốc ngữ từ Nam ra Bắc, đầu thế kỷ XX chính quyền thuộc địa cũng có lần đặt vấn đề chuẩn hóa và thống nhất chính tả đối với hệ thống công cụ này. Tuy nhiên sau thể nghiệm không thành công đầu tiên trong việc cải cách chữ quốc ngữ trên đường hướng “Pháp hóa, qui chế hóa và đơn giản hóa” thời gian 1902 – 1907, họ đã mặc nhiên thả nổi vấn đề chính tả. Cho nên từ đó trở đi chữ quốc ngữ cũng phát triển trong hoàn cảnh lỏng lẻo về mặt quản lý nhà nước mà bằng chứng điển hình là sự biến dạng của một số địa danh hành chính vốn thuộc khu vực được qui hoạch một cách nghiêm cẩn trong hệ thống từ vựng quan phương. Phủ Lý tức phủ Lý Nhân (Hà Nội) nói tắt, phủ Quỳ tức phủ Quì Châu (Nghệ An) nói tắt, phủ Lạng Thương (Bắc Ninh), phủ Điện Biên (Hưng Hóa) đều là địa danh hành chính cấp phủ thời Nguyễn. Nhưng bốn địa danh vốn được ghi chép rất thống nhất về cấu trúc trong các văn bản chữ Hán thế kỷ XIX ấy bị biến dạng tới mức hỗn loạn trong các văn bản chữ quốc ngữ dưới thời Pháp thuộc, đến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 có ba vẫn là địa danh hành chính nhưng đã mang tên Phủ Lý, Phủ Quỳ, Phủ Lạng Thương, qua thế kỷ XXI lại có thêm thành phố Điện Biên Phủ, thành phố Phủ Lạng Thương! Một số trường hợp tương tự như Quốc tử giám ở Hà Nội được nói tắt rồi ghi là Giám, Trấn Lao bảo tức bảo Trấn Lao ở Nghệ An được nói tắt rồi ghi là Lao Bảo trước 1945 cũng thế, đều là những bằng chứng về việc chữ quốc ngữ đã cố định mà vô hình trung cũng là “chuẩn hóa” những cách nói phi qui chuẩn trong khẩu ngữ của dân gian. Một số văn bản song ngữ Việt Pháp với cách đọc cách viết không chính xác của người Pháp còn khiến Cồn Ngao ở Trà Vinh thành Cung Hầu, Trấn Di ở Sóc Trăng thành Trần Đề, Đất Hộ ở Sài Gòn thành Đa Kao. Cũng trên đường hướng sai lạc “song ngữ” ấy, đạo Yên Phái, xã Hương Bì, vùng Lão Nhai ở miền Bắc dần dần được nói và ghi là Yên Bái, Uông Bí, Lào Kay (hay Lào Cai, Lào Kai), gần như không có ý nghĩa gì trong từ vựng tiếng Việt.

Tuy nhiên các trường hợp tên riêng nói trên không có nhiều, vả lại thường có bằng chứng hay dấu vết lịch sử nên còn dễ truy nguyên, chứ trong rất nhiều trường hợp khác thì không phải như thế. Chẳng hạn nhìn từ góc độ ngữ âm thì xoa trong xoa bóp hay xẻo trong cắt xẻo rất có vấn đề, vì theo lý phải là soa, sẻo, bằng chứng là nhiều người miền Nam vẫn nói và viết những từ này là thoa, thẻo. Th gần s về bộ vị phát âm nên dễ chuyển dịch qua lại, ví dụ mảng từ Việt Hán có hai cách đọc khác nhau cho cùng một chữ như Thái/ Sái (họ), thoán/ soán (cướp), thương/ sương (kho) hay tháp/ sáp (ghép), thất/ sất (cái, chiếc), thiển/ siển (cạn), thính/ sảnh (phòng khách), thuyền/ suyền (con ve), mảng từ thuần Việt có các cặp thoãi/ soãi, thớ/ sớ, thẹo/ sẹo, thuôn/ suôn; mảng từ Việt Hán được Việt hóa có các cặp the/ sa, thủ/ sỏ, thưa/ sơ, thửa/ sở; mảng từ tiếng Hoa gốc Quảng Đông du nhập theo con đường khẩu ngữ cũng có sảo tức thảo (cỏ), sầu tức thu (mùa thu), có nơi như Hải Hậu, Nam Định khoảng 1975 trẻ em học bảng cửu chương vẫn râm ran “tháu năm ba mươi, tháu tháu ba tháu” (sáu năm ba mươi, sáu sáu ba sáu). Tình hình này dường như cũng diễn ra ở một số trường hợp như thôi/ xui (đẩy), thực/ xực (ăn), bằng chứng là người Hoa gốc Quảng Đông ở Chợ Lớn hiện nay vẫn phát âm từ sực trong sực phàn (thực phạn – ăn cơm) với s cong lưỡi. Trong các vận thư chữ Hán, ba chữ Thái, thoán, thương được phiên thiết là Thương đại thiết, Thất loạn thiết, Thất cương thiết, đều thuộc thanh mẫu Thanh, nhưng một số từ Việt Hán khác như thai (đoán), thiêm (thăm, cái thẻ), phiên thiết là Thương tài thiết, Thất liêm thiết cũng thuộc thanh mẫu Thanh qua chữ quốc ngữ lại không được viết với s như Sái, soán, sương mà ghi là xai, xăm, có lẽ ở đây s đã dịch chuyển lần thứ hai theo một số tiền lệ s => x trong môi trường ngữ âm tiếng Việt kiểu sao => xào, sát => xét, siết => xiết mới trở thành x, nhưng rõ ràng trên các văn bản chữ quốc ngữ thì dấu vết về chặng th => s ở hai trường hợp này đã bị xóa sạch. Có thể ví từ vựng tiếng Việt khi vừa tiếp xúc toàn diện với chữ quốc ngữ nửa sau thế kỷ XIX giống như vật dùng trong một gia đình dân tộc ít người ở Tây Nguyên hiện nay, cái ná, cái gùi, bật lửa gaz, điện thoại di động có nguồn gốc lịch sử rất khác nhau cùng xuất hiện tại một chỗ, nhưng hệ thống mang tính lịch đại ấy lại được chữ quốc ngữ chụp ảnh và trưng bày cùng một lúc nên rất dễ bị ngộ nhận là một hệ thống đồng đại.

Tìm hiểu sâu hơn về các quá trình ngữ âm ở Việt Nam hơn bốn trăm năm qua, có thể nhận thấy trong một số trường hợp thậm chí chúng còn không được chữ quốc ngữ ghi nhận. Từ vợ lẽ là một ví dụ. Trong tiếng Việt trước nay từ lẽ chỉ có một nghĩa (lý lẽ), nhìn từ góc độ từ pháp thì bất kể thế nào vợ lẽ cũng hoàn toàn không ăn khớp với nghĩa ấy. Nhưng người Việt có vợ lẽ trước khi học chữ quốc ngữ, nên ở đây có thể nghĩ tới việc tìm kiếm nguồn gốc ngữ âm và nghĩa gốc từ vựng của lẽ nơi những tiếng có phụ âm đôi bl, kl, ml, tl trong tiếng Việt cổ. Theo đường hướng này, có thể tìm thấy nơi mục từ tlẻ trong Từ điển Alexandre De Rhodes một số từ ghép như còn tlẻ, tlẻ dại, tlẻ mọn, rõ ràng theo lẽ thì từ vợ lẽ phải ghi là vợ lẻ, và lẻ trong vợ tlẻ là tlẻ rụng t: vợ lẻ tức vợ trẻ, mà trước nay cũng không có ai cưới vợ hai vợ ba bằng hay lớn tuổi hơn vợ chính, những cách nói vợ bé, hầu non đã phản ảnh thực tế ấy (từ điển Alexandre De Rhodes có các từ vợ mọn, vợ lễ, chính là vợ lẽ bị ghi sai). Nhưng trong nhiều từ điển cũng như văn bản chữ quốc ngữ trước nay từ này đều được ghi là vợ lẽ, vừa sai lệch về mặt từ nguyên vừa xóa mất dấu vết của quá trình ngữ âm tlẻ => lẻ.

Tuy nhiên, bên cạnh việc phản ảnh một cách gián đoạn và thiếu hệ thống một số quá trình ngữ âm nói trên, đến thời Pháp thuộc chữ quốc ngữ lại làm “đóng băng” nhiều quá trình ngữ âm khác của tiếng Việt. Khi một số từ Việt Hán có âm đọc là ky (gái đẹp), ky (máy), ky (nền) đã mang căn cước mới với âm cơ trong cơ thiếp, cơ khí, cơ bản thì cờ thoát thai từ kỳ (lá cờ) vẫn không rũ bỏ được thân phận âm đọc Việt hóa để trở thành âm đọc “Việt Hán mới”, chẳng hạn tuy đã có tổ hợp cờ xí (Từ điển Pigneaux, Từ điển Tabert) nhưng không tạo ra được các tổ hợp hồng cờ, quốc cờ. Âm đọc Việt hóa chúa của từ chủ Việt Hán đã bước đầu có được chỗ đứng trong các tổ hợp chúa nhật, công chúa cũng khựng lại không thể tiến tới thay thế chủ ở những chủ tịch, gia chủ. Người ta cũng đã thấy một số trường hợp đọc chệch thanh điệu trong mảng từ Việt Hán được ghi nhận và phổ biến bằng chữ quốc ngữ như để kháng, Sở Liêm phỏng, phỏng viên trở thành đề kháng, Sở Liêm phóng, phóng viên. Cho nên trong ý nghĩa là hệ thống dữ liệu để tìm hiểu cách đọc và âm đọc Việt Hán của khoảng 70% số từ đơn trong tiếng Việt được ghi nhận hơn một trăm năm qua, chữ quốc ngữ có rất nhiều điểm không thể hoàn toàn tin cậy.

Nhìn rộng ra hoạt động giao lưu và thông tin với quốc tế, tình hình còn phức tạp hơn. Các tên riêng Lê nhin, Mátscơva tiếng Nga qua văn bản chữ Pháp trở thành Lénine, Moscou rồi Việt hóa trên văn bản chữ quốc ngữ là Lê nin, Mốt cu, hay cùng một tên thủ đô nước Pháp mà văn bản chữ quốc ngữ trước 1945 có tới mấy cách viết Paris, Pa ri, Ba lê. Tình trạng phi qui chuẩn tới mức giống như tùy tiện ấy còn dẫn tới những trường hợp độc đặc như tên nhà sưu tập Vương Hồng Thạnh, tên nữ diễn viên điện ảnh Hương Cảng Trịnh Bội Bội được nói và ghi là Vương Hồng Sển, Trịnh Phối Phối, tên nhiều công dân Việt Nam thuộc tộc người Hoa được viết bằng chữ quốc ngữ trong giấy khai sinh, chứng minh thư, hộ khẩu, giấy tờ cá nhân hiện nay cũng thế, pha trộn cả hai ngôn ngữ Việt Hán và Hoa Hán. Chữ quốc ngữ từ cuối thế kỷ XIX như vậy đã tạo ra một hệ thống dữ liệu tiếng Việt “mới” có những điểm sai lạc về ngữ âm và mơ hồ về từ vựng, xóa nhòa một số đường ranh lịch đại và đồng đại, vô hình trung tạo ra nhiều “cái bẫy” chết người đối với việc tìm hiểu tiếng Việt nói chung và chuẩn hóa tiếng Việt nói riêng.

Trên phương diện ngữ pháp, chữ quốc ngữ có những đóng góp rất to lớn đối với sự phát triển của tiếng Việt trong thế kỷ XX. Với ưu thế dễ học dễ nhớ, nó đã làm gia tăng số người tham gia hoạt động văn tự ở nhiều lãnh vực hoạt động và khu vực địa lý khác nhau, thông qua đó cũng làm gia tăng lực lượng phát triển ngữ pháp tiếng Việt. Câu trong tiếng Việt hiện nay hoàn toàn có thể dùng để chuyển ngữ chính xác không những nội dung mà cả cấu trúc câu trong nhiều ngôn ngữ Ấn Âu, đủ thấy cái đơn vị ngữ pháp quan trọng này của tiếng Việt đã trưởng thành thế nào sau khi tiếng Việt sử dụng chữ quốc ngữ làm phương tiện biểu đạt. Đáng chú ý là cả các ký tự của chữ quốc ngữ cũng ít nhiều được huy động để thực hiện chức năng ngữ pháp, cụ thể là các chữ viết hoa dùng trong các trường hợp mở đầu văn bản, đầu mỗi đoạn văn bản (sau khi xuống dòng), đầu câu (sau dấu chấm) và tên riêng, ở đây nói về trường hợp thứ tư.

Thông thường, viết hoa là cách chỉ định chữ (từ) được viết hoa có ý nghĩa hay chức năng riêng biệt trong ngữ đoạn. Công giáo Cứu quốc hội hay Công giáo cứu quốc hội tuy không thống nhất nhưng đã có chữ Công viết hoa thì không bao giờ gây ra lầm lẫn về ý nghĩa, có điều nếu viết Công giáo cứu Quốc hội thì vấn đề sẽ khác. Hay cách ghi tên riêng kiểu Hà Nội, Lý Công Uẩn hiện nay rõ ràng tiến bộ hơn Hà-nội, Lý-công-Uẩn trước kia nhưng vẫn còn những điểm cần suy nghĩ, ví dụ nên viết Lý Thái Tổ, Lê Thánh Tông, Hưng Đạo Vương hay Lý Thái tổ, Lê Thánh tông, Hưng Đạo vương? Thật ra tổ hay vương trong các tổ hợp nói trên là danh từ chung, bên cạnh chức năng từ vựng còn có chức năng từ pháp, nhấn mạnh chức năng nào thì viết cách nào cũng là điều dễ hiểu, chỉ là nếu không lưu ý tới chức năng từ pháp thì sẽ ít nhiều xóa nhòa ý nghĩa của những từ Hưng Đạo hay Thái tổ, Thái tông...

Từ một số hiện tượng trực quan nêu trên, có thể thấy trong hơn bốn trăm năm hình thành và phát triển mà chủ yếu là từ thời Pháp thuộc đến nay, chữ quốc ngữ thường xuyên có những hiện tượng, lãnh vực và quá trình không phải lúc nào cũng song hành với tiếng Việt. Để hiểu tiếng Việt một cách chính xác, toàn diện và thấu đáo qua hệ thống dữ liệu chữ quốc ngữ thì cần tiếp tục tìm hiểu độ lệch ấy, vì như người ta đã thấy, đây chính là một vườn ươm cho những mầm mống phi qui chuẩn trong sự phát triển của tiếng Việt và chưa khoa học của chữ quốc ngữ từ 1945 đến nay.

Thứ Tư, 2 tháng 11, 2016

Du Học Hiếp Dâm và Hiếp Dâm Du Học


Du Học Hiếp Dâm và Hiếp Dâm Du Học


Điều Nghiêm Trọng Luôn Bị Dấu Diếm

Phụ Huynh Có Con Em Du Học Âu Mỹ Nhất Thiết Phải Biết

Hoàng Hữu Phước, MIB




A) Giải Thích Qua Dẫn Chứng Landen Gambill

Năm 2013 nữ sinh viên năm thứ hai Landen Gambill lẽ ra bị đuổi khỏi trường Đại Học North Carolina UNC, Bang North Carolina, Hoa Kỳ, nếu đã không có bùng phát cơn sóng căm phẫn rầm rộ ủng hộ cô. Landen bị cưỡng hiếp ngay tại Làng Đại Học Chapel Hill của UNC và bị hội đồng kỹ luật trường UNC thông qua Luật Sư Trưởng của trường kết tội cô vi phạm điều I.C.1.c. của bộ Quy Tắc Bảo Toàn Danh Dự Honor Code mà hình phạt truyền thống duy nhất là đuổi học. Honor Code ấy được mặc định đã được đọc, đã được hiểu nội dung, đã được xem như biết rõ hình phạt duy nhất là gì cũng như cam đoan hình phạt ấy là tuyệt đối đúng đắn bất khả tranh cãi và bất khả kiện tụng, bởi sinh viên khi đặt bút ký tên ghi danh theo học tại trường.



Landen bị hiếp dâm, nhưng danh dự cô được bảo toàn nếu cô không tố cáo ai,và do đó, sự hiếp dâm chẳng gây tai hại cho bất kỳ ai, kể cả cô cũng không phải là nạn nhân cho sự hiếp dâm do cô không phải chịu đựng gì cả vì tất cả là bí mật nghĩa là chẳng ai biết cô đã bị hiếp dâm (nên cô chẳng sợ bị soi mói, bị bươi móc bởi truyền thông, bị thương hại, bị khó khăn trong lập gia đình, v.v.).

Landen sẽ là nạn nhân hiếp dâm, chỉ khi kẻ hay những kẻ hiếp dâm cô – hoặc kẻ hay những kẻ chứng kiến cuộc hiếp dâm – loan truyền tin về cuộc hiếp dâm ấy, và đương nhiên kẻ hiếp dâm cô (và kẻ loan truyền) sẽ bị kết tội vi phạm Quy Tắc Bảo Toàn Danh Dự của trường và đối diện với khả năng bị đuổi học – chứ không phải vi phạm luật pháp hình sự quốc gia!

Landen sẽ bị đuổi học nếu tố cáo kẻ hay những kẻ hiếp dâm cô, vì Quy Tắc Bảo Toàn Danh Dự không cho phép cô làm phương hại đến “danh dự” và “tiền đồ” của sinh viên trong trường, nhất là làm phương hại đến “danh dự” trường như một nơi của hiếp dâm, kém an toàn cho nữ sinh, và là ổ sản sinh “tội phạm tiềm năng” của quốc gia.

Giải thích cho đơn giản hơn: kẻ hay những kẻ hiếp dâm cô chỉ có tội nếu loan tin cô bị chúng hiếp dâm và nếu phát tán hình ảnh cuộc hiếp dâm ấy, vì như vậy sẽ làm tên cô bị tiết lộ, xâm hại đến “danh dự” của cô, vì… “danh” có nghĩa là “tên”, chứ Âu Mỹ hoàn toàn không có khái niệm về “trinh tiết”.

Giải thích cho đơn giản hơn: khi tố cáo kẻ hay những kẻ hiếp dâm cô, Landen đã làm cho cả trường – và cộng đồng dân cư quanh Làng Đại Học – biết “tên” của chúng, tức xâm hại đến “danh” dự của chúng, khiến chúng có nguy cơ bị tẩy chay trong cộng đồng (khó tiếp cận phụ nữ khác – tức “con mồi’ khác), trong đời sống (khó lập gia đình), và trong sự nghiệp (khó kiếm việc), mà nếu sinh viên bị mang “danh” như thế sẽ làm “danh” dự của trường bị giảm sút khi tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp kiếm được việc làm không cao hơn năm trước đó, khiến không hấp dẫn người theo học “ùn ùn” ở các niên khóa sau đó, nhất là không hấp dẫn được sinh viên cực kỳ hấp dẫn về khả năng tài chính đến từ Châu Á trong đó có Việt Nam.

Cái honor code quái gỡ tồn tại nhiều trăm năm một cách đầy vinh diệu tại tất cả các trường đại học Hoa Kỳ ấy cuối cùng đã bị thách đố bởi một nữ sinh của chính Hoa Kỳ là cô Landen Gambill, mà sự dũng cảm của cô đã dấy nên phong trào đầy giận dữ của xã hội Hoa Kỳ: “Hãy Sát Cánh Cùng Landen” (Stand With Landen)



B) Văn Hóa Hiếp Dâm

Hiếp dâm là một thứ “văn hóa” ở các trường đại học Hoa Kỳ.

1- Văn hóa hiếp dâm đến từ xã hội Hoa Kỳ

Như một vấn nạn lịch sử, điều oái oăm là nữ quyền chỉ được chính thức xem trọng – ít ra là qua các tuyên bố chính thống và trên bình diện luật pháp – tại Hoa Kỳ qua Tu Chính Án Thứ 19 được phê chuẩn ngày 18-8-1920 cho phép nữ công dân được quyền bỏ phiếu, nghĩa là trong suốt 144 năm kể từ ngày lập quốc (04-7-1776) thì phụ nữ Hoa Kỳ hoàn toàn không được hưởng các quyền lợi như nam giới, kể cả quyền bỏ phiếu bầu cử. Lý do của sự đàn áp bức chế phụ nữ gồm:

a- Nam giới da trắng e sợ đánh mất quyền lực dù đó là quyền lực tình dục hay quyền lực chính trị, nên đã sử dụng đặc quyền làm các nhà lập pháp, các thẩm phán, các bồi thẩm đoàn, các nhà báo, các chủ nhân tòa soạn báo chí, các y sĩ và học giả, để đề ra những gì bảo vệ đặc lợi của họ, tác động đến xã hội quan tâm đến việc duy trì quyền lợi chung và hy sinh quyền lợi của dân da màu cùng phụ nữ, thậm chí cho phép quan hệ đồng giới giữa đàn ông da trắng với nhau dù đồng thuận hay cưỡng bức, trong khi lại hành hình những người da màu quan hệ đồng tính.

b- Cũng để duy trì quyền lực tình dục, nam giới da trắng Hoa Kỳ phác họa phụ nữ và trẻ em nam nữ như chủng loài không đáng tin cậy, dâm dục tạp nham. Thậm chí họ sử dụng sự vào cuộc của “giới trí thức” để khẳng định lập luận phụ nữ không xứng đáng có quyền lợi và chẳng bị hiếp dâm bao giờ, chẳng hạn “Tiến sĩ” Edmund Arnold năm 1862 đã khẳng định trước tòa án Hoa Kỳ rằng phụ nữ không bao giờ có thai nếu bị hiếp dâm, thậm chí đến năm 1913 của Thế Kỷ XX mà “Tiến sĩ” Gurney Williams còn cho rằng chỉ cần “chống cự” bằng cách khép chân lại thì phụ nữ đã không thể có thai, mà khi đã có thai nghĩa là đã có sự đồng tình hoặc cố tình dụ dỗ các “quý ngài”, nghĩa là các tố cáo bị các “quý ông” hiếp dâm nên có thai là sự vu cáo nhất thiết phải bị trừng trị.

c- Do đó, trong rất nhiều năm, luật pháp Hoa Kỳ ở nhiều tiểu bang tồn tại điều luật rằng phụ nữ da màu về luật pháp không bị xem như bị hiếp dâm, khiến ngay tại nơi công cộng giữa thanh thiên bạch nhật phụ nữ da màu có thể bị đàn ông da trắng hiếp dâm công khai, và trong ngần ấy năm dài chỉ có tội hiếp dâm nếu người da đen dở trò với phụ nữ da trắng (gọi là The Negro Crime) dẫn đến việc đàn ông da trắng có quyền xúm lại hành hình treo cổ người da đen tại chỗ không cần xét xử (gọi là lynching).

Định kiến thâm căn cố đế nhiều trăm năm đã tạo nên một thứ văn hóa hiếp dâm, mà tiến bộ của nhân loại nhiều lắm cũng chỉ dẫn đến những thực tế buồn cười như vụ Honor Code của trường UNC đã nếu ở đầu bài viết này, hay vụ nam sinh viên Brock Allen Turner của Đại học Stanford lừng danh. Năm 2016 này, Brock bị hai nam sinh viên khác tình cờ bắt quả tang đang hãm hiếp một nữ sinh đang nằm bất động trong bụi rậm và bị hai sinh viên này bắt giao cho cảnh sát. Do hãm hiếp một người bất động – do bị đánh ngất hoặc do bị chuốc rượu hay thuốc – nặng tội hơn đối với nạn nhân còn cử động và không bị đánh đập, Brock bị công tố luận tội 6 năm tù giam, để rồi bị kết án 6 tháng tù,và cuối cùng là được thả sau 3 tháng, với lý do 20 năm sống tốt không thể vì 20 phút lỗi lầm mà gây hại cho tiền đồ một thanh niên. Nghĩa là: không bao giờ sự thiệt hại của một nữ sinh viên dù bị hiếp dâm sau khi bị đánh cho bầm dập ngất xỉu lại được xem như tình tiết để xử nặng tội kẻ hiếp dâm. Chưa kể luật pháp Hoa Kỳ còn quy định rằng nếu người bị hiếp dâm có thai rồi sinh con thì người hiếp dâm có toàn quyền đòi nuôi con hoặc đến thăm con bất kỳ lúc nào, với lý do ngộ nghĩnh rằng phụ nữ nếu bị hiếp dâm thì chẳng ai chịu sinh con là kết quả của vụ hiếp dâm ấy, trừ phi có tình ý với người hiếp dâm mình, mà như thế đã mặc nhiên thừa nhận cái gọi là “quyền làm cha” của người hiếp dâm vốn được luật pháp bảo vệ với “sự khoan dung đầy tính nhân văn”.

Tóm lại, điều cần lưu ý khi “hòa nhập” vào xã hội Hoa Kỳ là: mỗi khi trở thành nạn nhân của hiếp dâm, người nữ nói chung và nữ sinh viên nói riêng sẽ phải đối mặt với việc chính mình bị chụp các chiếc mũ như:

– tại đã ăn mặc gợi dục

– tại đã có dùng bia rượu trước đó nên đã không tự kềm chế

– tại đã có hành vi nào đó gây hiểu lầm là mời gọi hoặc chấp thuận

– tại xã hội có bài bản dạy phụ nữ cách để không bị hiếp dâm mà phụ nữ không thuộc bài (không hề có bài bản dạy người nam không hiếp dâm)

– tại không học hỏi từ báo chí truyền thông vốn luôn than tiếc cho sự đe dọa sự nghiệp một ngôi sao bóng rổ vì hiếp dâm chứ không bao giờ đề cập gì đến các cô gái nạn nhân của ngôi sao ấy

– tại không cẩn thận để bị quay phim chụp hình tung lên mạng nên nếu tự tử thì đó là do tự gây ra

– và tại không biết thân biết phận vì luật pháp 31 tiểu bang của Hoa Kỳ cho phép kẻ hiếp dâm có quyền đòi nuôi con hoặc quyền thăm con, đồng nghĩa với việc hiếp dâm là đặc quyền của nam giới nên chẳng bao giờ là trọng tội nếu không đi kèm với việc sát hại người bị hiếp dâm.

2- Văn hóa hiếp dâm trở thành chuẫn mực ở đại học Hoa Kỳ

Như vậy, văn hóa hiếp dâm đã trở thành một thứ lễ nghi, tập tục, ăn sâu vào chốn đại học, nơi từ xa xưa chỉ dành cho nam giới. Sự tồn tại của những hội đoàn nam sinh viên mang tên College Fraternities được cho là còn lưu truyền những tục lệ mà theo đó các thành viên mới gia nhập phải “chứng tỏ mình” bằng cách thực hiện nghi thức gia nhập bằng cách lừa một nữ sinh viên mà họ “chấm” tại một buổi tiệc rồi dụ ra một nơi mà các thành viên khác có thể cùng chứng kiến để thực hiện việc hiếp dâm – chẳng khác nào để họ được xem một phim khiêu dâm “sống” – để ghi nhận “sự xứng đáng” của người mới gia nhập. Và cái gọi là Campus Rape tức hiếp dâm tại trường đại học trở thành một vấn nạn trầm kha ở Hoa Kỳ.

C) Hiện Trạng Campus Rape Ở Hoa Kỳ

Vụ việc của nữ sinh viên Landen Gambill không là điều cá biệt chỉ ở Đại Học North Carolina (UNC). Hiếp dâm tại các “làng đại học” (tức Rape on Campus hoặc Campus Rape) là vấn nạn chung ở nước Mỹ.

Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ năm 2010 ước định rằng 25% nữ sinh viên là nạn nhân của các vụ hiếp dâm trước khi tốt nghiệp sau 4 năm đại học, và rằng trường đại học nào có từ 6.000 sinh viên trở lên thì trung bình mỗi ngày có một vụ hiếp dâm và xảy ra đều đặn trong suốt năm học.

Trong bản báo cáo của Đại Học New York mang tựa đề Số Liệu Thống Kê Quốc Gia Về Bạo Hành Tình Dục Tại Các Làng Đại Học (National Statistics about Sexual Violence on College Campuses) thì chỉ có dưới 5% các vụ hiếp dâm được thưa ra các cơ quan thực thi pháp luật mà thôi – nghĩa là con số thực tế có thể cao hơn rất nhiều so với con số do Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ nêu lên.

Tổng hợp từ tài liệu trên, ta có các số liệu như sau về những nạn nhân hiếp dâm :

– Cứ 4 nữ sinh viên cáo buộc bị hiếp dâm thì có 1 người mà báo cáo về những gì đã trải qua của người đó đáp ứng đúng các định nghĩa của luật pháp về hiếp dâm.

– Cứ 5 nữ sinh viên thì có 1 người bị hiếp dâm trong thời gian học ở đại học.

– Hầu hết những nữ sinh viên bị hiếp dâm là sinh viên nội trú, và khoảng 1/3 trong số họ là sinh viên năm thứ nhất ở lứa tuổi 17 – 19.

– Điều nghiên thực hiện ở 412 trường đại học cho thấy 5,4% nam sinh viên và 11,7% nam sinh viên đồng tính hay lưỡng tính bị cưỡng bức.

– Điều nghiên thực hiện ở 412 trường đại học cho thấy 30.6% nữ sinh viên đồng tính hay lưỡng tính bị cưỡng bức.

– 81% nữ sinh viên bị chính bạn tình cũ hoặc bạn tình hiện thời cưỡng dâm.

– 80% đến 90% được thực hiện bỡi người mà nạn nhân có quen biết.

Còn theo nghiên cứu của Học Viện Tư Pháp Quốc Gia Hoa Kỳ thì thủ phạm hiếp dâm:

– 35.5% là bạn học chung lớp của nạn nhân

– 34.2% là bạn học chung trường

– 23.7% là bạn tình hoặc bạn tình cũ

– 2.6% là người quen

– 35% nam sinh viên cho biết sẵn sàng hiếp dâm nếu biết chắc chắn sẽ không bị bắt hay bị trừng phạt.

– 81% vụ hiếp dâm trong làng đại học và 84% vụ hiếp dâm do sinh viên thực hiện bên ngoài khuôn viên làng đại học đã không được trình báo cảnh sát.

– Gần 60% vụ hiếp dâm được thực hiện bên trong nơi cư trú của nạn nhân.

– 52% vụ hiếp dâm có trình báo xảy ra sau 12 giờ đêm, và 37% xảy ra giữa 6 giờ chiều và 12 giờ đêm.

– Điều tra thực hiện tại 171 học viện và đại học cho thấy 74% vụ hiếp dâm xảy ra do say rượu. Trong năm 2000 Hoa Kỳ đã có hơn 70.000 sinh viên từ 18 đến 24 tuổi trở thành nạn nhân của hiếp dâm có liên quan đến rượu.

– Hơn 50% vụ hiếp dâm xảy ra vào các tháng 8, 9, 10, và 11.

– Sinh viên gặp rủi ro nhiều hơn trong những tháng đầu học kỳ 1 và 2 tức trong năm thứ nhất.

Các loại hình hiếp dâm bao gồm – nhưng không chỉ giới hạn bởi – hiếp dâm tập thể, hiếp dâm lúc hò hẹn, hiếp dâm vì lợi dụng sự quen biết.

Trên đây là vài con số của riêng Hoa Kỳ. Các số liệu khác đối với các vụ hiếp dâm xảy ra tại các làng đại học ở các nước Âu Tây có thể dễ dàng tìm thấy trên internet.

Tình hình trên cho thấy sự bất ổn về an toàn cho nữ sinh viên tại các trường đại học Mỹ, dẫn đến việc các trường đại học Mỹ đều có chương trình nhập môn gọi một cách mỹ miều là Campus Clarity (dịch nghĩa từng chữ: những điều cần biết rõ về sinh hoạt trong làng đại học; nghĩa bóng: những điều cần biết để bảo đảm an toàn nhất, sức khỏe tốt nhất, để theo đuổi thành công mục tiêu học tập hàn lâm và ước mơ tại trường, bằng cách…hãy lưu tâm đến sự thật là…có 1/5 nữ sinh viên bị hiếp dâm trong thời gian học đại học bởi người mà họ quen biết, đặc biệt là bạn học, vì vậy sinh viên cần lưu ý đến việc nhậu nhẹt và đến…bạn học!)

D) Tư Vấn Của Tannhauser Beowulf Thor

Những lời khuyên sau đây của chuyên gia Giao Thoa Văn Hóa (Cross Culture) Tannhauser Beowulf Thor đặc biệt thích hợp cho các du học sinh đến Mỹ từ những quốc gia “mới phất” (newly surging economies) của Châu Á trong đó đặc biệt là Việt Nam do Việt Nam có 5 “yếu điểm” – theo chuẩn mực văn minh Mỹ – mà các nước Châu Á khác không còn như (a) Việt Nam là nước cuối cùng có du học sinh đến Mỹ du học nên kinh nghiệm về văn hóa Mỹ chưa dồi dào đầy đủ; (b) phụ huynh học sinh và học sinh Việt Nam hoàn toàn không quan tâm và/hoặc không biết và/hoặc không được cung cấp thông tin về những thực tế của môi trường đại học Mỹ; (c) Việt Nam là nước Châu Á duy nhất còn sự tồn tại của truyền thống Á Đông đối với gắn bó gia đình; (d) Việt Nam là nước Châu Á duy nhất còn sự tồn tại của truyền thống Á Đông đối với phạm trù mang tên “đức hạnh” và “tiết hạnh” hay “trinh tiết” phụ nữ vốn đã hoàn toàn biến mất ở Châu Á; và (e) học sinh Việt Nam yếu về bản lĩnh, rất thiếu hiểu biết, dễ bị lôi kéo do tâm lý thần phục choáng ngợp trước cường quốc Hoa Kỳ, và kém khả năng phòng vệ:

1) Nếu được tiếp cận bởi “công ty dịch vụ du học” và quan tâm đến một trường đại học cụ thể ở Âu Mỹ, hãy yêu cầu cung cấp thông tin bằng văn bản về cái gọi là “honor code” của trường ấy, và kiểm tra độ chính xác của thông tin với thông tin trên trang web của trường ấy.

2) Nếu quan tâm đến một trường đại học cụ thể ở Âu Mỹ, trước khi tiến hành xin học bổng hoặc đăng ký học tự túc, hãy yêu cầu trường ấy cung cấp thông tin bằng văn bản về cái gọi là “honor code” của trường, kiểm tra độ chính xác của thông tin với thông tin trên trang web của họ, đồng thời kiếm tìm thông tin trên mạng về các vụ việc nổi cộm có liên quan đến “campus rape assaults” tại trường ấy để hiểu rõ nhất về sự danh tiếng cùng sự khét tiếng của nó.

3) Phụ huynh phải “công tác tư tưởng” với con em mình biết (hoặc học sinh nếu cho rằng mình đã đủ trưởng thành, đủ khôn ngoan, đủ bản lĩnh, tự biết) rằng:

a- Nam sinh và nữ sinh Việt Nam: chỉ tham gia các buổi tiệc buổi tối quy mô “toàn trường” do trường tổ chức với sự tham gia của ban giám hiệu và thầy cô, vì mức độ an toàn cao hơn;

b- Nam sinh và nữ sinh Việt Nam: không tham gia các buổi tiệc buổi tối quy mô “tại gia” của một sinh viên nào đó tổ chức (thường là sinh viên “giàu có” ở địa phương), vì sự thác loạn không hề thiếu vắng;

c- Nam sinh và nữ sinh Việt Nam: không tham gia các buổi họp mặt riêng buổi tối tại địa điểm mật nào đó vì rất có thể sẽ trở thành nạn nhân của một vụ tế thần (do Mỹ có các giáo phái tà đạo thờ Quỷ Satan), hoặc bị sát hại khi đi chơi riêng rồi mất tích không thể tìm thấy xác, như vụ của nữ sinh viên Lauren Spierer (Đại học Indiana), nữ sinh viên Denise Lynette Hart (Đại học Connecticut), nữ sinh viên Hannah Graham (Đại học Virginia), nữ sinh viên Phoenix Coldron (Đại học Missouri-St. Louis); nữ sinh viên Anarae Schunk (Đại học Minnesota), nữ sinh viên Michaela Shunick (Đại học Louisiana), nam sinh viên Max Maisel (Đại học Công nghệ Rochester New York), nam sinh viên Brogan Dulle (Đại học Cincinnati), nam sinh viên Shane Montgomery (Đại học Pennsylvania), nam sinh viên Hye Min Choi (Đại học Illinois), nam sinh viên Jonathan Zygmont (Đại học New Hampshire), và rất nhiều những vụ mất tích khác;

d- Nam sinh Việt Nam: từ chối tham gia các họp mặt vầy đoàn của “nhóm bạn nam” để đừng bị “gang rape” tức bị hiếp dâm tập thể đồng giới, hoặc vướng vào “gang rape” tức cùng tham gia hiếp dâm tập thể một nam sinh khác hoặc một nữ sinh, hoặc trở thành đồng lõa tiêu cực (tức không tham gia hiếp dâm nhưng bị buộc phải chứng kiến để rồi phải ra sức bảo vệ nhóm hiếp dâm bằng mọi giá, do không muốn chuyện bại lộ sẽ khiến mình phạm tội nặng hơn kẻ hiếp dâm do các tội đồng lõa, bỏ mặc nạn nhân, và không tố giác tội phạm);

e- Nữ sinh Việt Nam: từ chối tham gia các họp mặt vầy đoàn của “nhóm bạn nữ” để đừng bị “gang rape” tức bị hiếp dâm tập thể đồng giới, hoặc bị nhóm bạn nữ ấy cho vào tròng để các nam sinh bạn thực hiện “gang rape” mình tức để mình cũng bị cái mà các nữ sinh ấy trước đây đã từng bị như thế;

f- Nữ sinh Việt Nam: cảnh giác cao độ và có biện pháp phòng thủ (như khóa cửa, gọi điện cho các bạn nữ khác, v.v.) khi bạn nữ ở cùng phòng trong khu đại học kiếm cớ đi vắng buổi tối (đa số các trường hợp là do có nhóm nam sinh viên yêu cầu người đó đi ra ngoài để họ vào thực hiện hiếp dâm không có nhân chứng).

g- Nam sinh và Nữ sinh Việt Nam: đừng bao giờ dùng bia rượu tại các “buổi họp mặt”. Nói chung là nên sống biệt lập, trừ những giờ nghiên cứu theo tổ nhóm, và đừng bao giờ khờ khạo cho rằng phải thể hiện sự hòa nhập bằng cách “sống như Mỹ” khi ở Mỹ.

h- Nam sinh và Nữ sinh Việt Nam: hãy quan tâm đến nội dung hướng dẫn về phòng chống hiếp dâm luôn sẵn có trên trang web chính thức của các trường đại học Mỹ, để nhận thức một điều hiển nhiên rằng hiếp dâm quả thực là vấn nạn phải đối phó, không thể lơ là.

E) Nhận Xét Của Hoàng Hữu Phước

Dựa vào các tư vấn trên của Ông Tannhauser Beowulf Thor, có thể cho rằng nếu như dân Châu Á đa số sang Âu Mỹ du học để phục vụ sự nghiệp chuyên môn, còn dân Việt Nam đa số sang Mỹ du học (a) để có bằng cấp Mỹ, (b) vì cha mẹ giàu sang cho con du học theo thời thượng “chứng tỏ năng lực tài chính”, (c) do cha mẹ giàu sang cho con du học theo thời thượng “tìm cách định cư tại Mỹ”, và (d) bởi cha mẹ giàu sang cho con du học theo thời thượng “trẻ măng làm chủ tịch tập đoàn tài chính” ở Việt Nam một cách đột nhiên như trên trời rơi xuống,

thì hơn ai hết du học sinh Việt Nam cần khắc cốt ghi tâm ba điều cực kỳ đơn giản sau:

1- Nếu muốn khoe bằng cấp Mỹ, muốn lấy le về năng lực tài chính của mẹ cha, muốn định cư tại Mỹ, muốn thừa kế gia sản mẹ cha để làm chủ tịch tập đoàn ở Việt Nam thì phải còn sống, nghĩa là phải cẩn trọng, học thuộc lòng tất cả các nội dung cảnh báo trên trước khi bước chân qua Mỹ du học; và

2- Nếu muốn không bị sử dụng làm công cụ chống đối Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam để rồi bổng dưng trở thành “tù nhân lương tâm” hay “nhà đấu tranh dân chủ” đột biến, thì phải tuyệt đối cẩn trọng với tất cả các nội dung cảnh báo trên trước khi bước chân qua Mỹ du học, vì rằng rất có thể khi bị hiếp dâm hoặc đồng giới hoặc khác giới thì những phim ảnh được chụp quay lại sẽ được dùng làm vũ khí khống chế khiến người đi du học khi trở về nước sẽ phải hoạt động chống phá Việt Nam theo lịnh của tổ chức nào đó bên Mỹ nếu không muốn bị công khai bằng chứng phim ảnh bản thân đã bị hiếp dâm, đã tham gia hiếp dâm, hoặc đã đồng lõa tham gia nghi lễ tà đạo giết người tế thần, v.v.

3- Tại Mỹ, khuôn viên đại học là một trong những nơi nguy hiểm nhất đối với phụ nữ (xem mục tham khảo bên dưới).

Việc học – dù ở trong nước hay ở ngoài nước – là dành cho người khôn ngoan tài giỏi lanh lợi cẩn trọng hiểu biết khát khao trí tuệ, chứ nào phải dành cho những kẻ thơ ngây khờ khạo cứ tưởng gần đèn thì tự động sáng (mà không biết rằng mình phải bật đèn, rằng đèn ấy là đèn dầu hay đèn pha, rằng bão lụt thì phải cúp điện, và rằng dù đèn gì thì sau lưng hoặc trong đũng quần mình vẫn luôn tối), cứ tưởng hiện diện trong trường đại học Mỹ thì tự động giỏi, và cứ tưởng đứng chụp hình bên trong tòa nhà Liên Hợp Quốc hay choàng vai bá cổ Barack Obama là tự động lòa chói hào quang vinh diệu đời đời.

Việc học – dù ở trong nước hay ở ngoài nước – đều đòi hỏi những nỗ lực ghê gớm tự thân mà không phải lúc nào cũng thành công, nói chi đến “thành công vượt bậc”, vì rằng không bao giờ có cái mặc định rằng hữu chí sẽ cánh thành, rằng bật tất cả các que diêm trong hộp diêm quẹt thế nào cũng có que bùng cháy, rằng “với sức người sỏi đá cũng thành cơm”.

Sự nỗ lực đi kèm với sự cẩn trọng mới có thể tạo ra sự yên tâm nào đó khả dĩ dọn đường cho một thành công chưa hẳn lớn.

Đã không nỗ lực lại chẳng cẩn trọng mà vẫn thành công thành công đại thành công thì đó chẳng qua là minh chứng rằng tạo hóa cũng có lúc thích trêu ngươi và con tạo cũng bị ô nhiễm hài hóa hí hước diễu hề kiểu game show Việt vậy.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế

Tài liệu tham khảo:

Barbara Booth. 2015. One of the most dangerous places for women in America (Một Trong Những Nơi Nguy Hiểm Nhất Đối Với Phụ Nữ Tại Hoa Kỳ).http://www.cnbc.com/2015/09/22/college-rape-crisis-in-america-under-fire.html

Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ. 2000. The Sexual Victimization of College Women (Biến Các Nữ Sinh Viên Thành Nạn Nhân Tình Dục).https://www.ncjrs.gov/pdffiles1/nij/182369.pdf

Đại Học California. Campus Clarity. http://www.calstatela.edu/campusclarity

Đại Học New York. National Statistics about Sexual Violence on College Campuses (Số Liệu Thống Kê Quốc Gia Về Bạo Lực Tình Dục Tại Các Làng Đại Học).http://www.nyu.edu/shc/promotion/svstat.html.

Đại Học New York. Sexual Assault Prevention and Response (Hướng Dẫn Cách Phòng Chống Tấn Công Tình Dục). http://www.nyu.edu/students/health-and-wellness/wellness-exchange/sexual-assault-prevention-and-response.html

Mạng Quốc Gia Về Hiếp Dâm, Lạm Dụng, Và Loạn Luân RAINN. Campus Sexual Violence: Statistics (Số Liệu Thống Kê Về Bạo Lực Tình Dục Tại Các Làng Đại Học). https://www.rainn.org/statistics/campus-sexual-violence

Nick Anderson. 2016. These Colleges Have The Most Reports Of Rape (Danh Sách Những Đại Học Có Nhiều Ca Hiếp Dâm).https://www.washingtonpost.com/news/grade-point/wp/2016/06/07/these-colleges-have-the-most-reports-of-rape/

Kiều Hùng- giá 850k

Kiều Hùng- giá 850k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh




Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

– GIỌT LỆ NÀO TÔI SẼ KHÓC CHO EM…



Hoàng Kim Oanh 



Tôi thả những chùm bong bóng sắc màu
vào không trung
vô tận
dẫu biết chưa đến đích
tất cả đã vỡ tung
chỉ làm vui cho bầu trời dăm phút
đừng dõi mắt làm gì
phù phiếm
em ơi.


Tôi vẽ những đường dọc đường ngang trên bảng đen
Những vườn cỏ hoa, lâu đài cổ tích
Những đại dương, sông suối, núi đồi, đồng cỏ, làng quê…
Những phố thị dập dìu
Những chân trời vô tận
Nơi nhân loại bao ngàn năm đặt dấu chân qua
Nơi hồng hoang tiền kiếp luân hồi
Nơi ta yêu nhau và gọi là xứ sở
để nghẹn ngào
đau xót
căm giận
tủi hờn
phẫn nộ
trong đói nghèo rơm rạ
trong lưu đày phận nhược tiểu bốn ngàn năm
Nhưng tôi không giữ được gì
cho tôi.
cho em.
khi bôi sạch bảng đi rồi

Tôi không muốn vẽ những đường cong
lắm ngõ quẹo quanh dọc ngang. Phải. Trái.
Ngoằn ngoèo
Luồn lách
Sợ rồi em lạc lối
Đánh mất cả chính mình.

Tôi thổi vào từng viên phấn trắng phấn xanh phấn đỏ
sắc màu cuộc đời
hỉ nộ ái ố ai lạc dục
người xưa từng cười khóc giữa trang thơ
để viết lên hồn em tiếng lòng tôi thổn thức
tình yêu đầu run rẩy
tình yêu cuối mặn mòi
tình phụ tình bỏng rát
Tôi viết lên hồn tôi
Tôi viết lên hồn em
lời đam mê
thiết tha
bỏng cháy
những niềm tin tưởng rằng có thật
mà tôi một đời mê mải
kiếm tìm
hy vọng
khát khao
Những nét phấn vô tình
dẫu tôi đã hoài công nắn nót
đã phai nhòa rồi biến mất dưới bàn tay tôi mỗi khi đổi người đứng trên bục giảng
không để lại gì
Chỉ còn lại
Cái Không Gì Hết

hàng về Sài Gòn ( Quý)


Chấm phá về bệnh tâm thần trong xã hội





.

Ở trời Âu, dân tình cũng còn từ chối không nhìn nhận bệnh tâm thần, cái kiểu của đối thoại

– Bác sĩ, tôi không mắc bệnh điên mà!

– Đúng thế, nhưng tôi sẽ chữa lành cho bạn.

.

Rời chuyện cụ thể hàng ngày, một nghiên cứu dịch tể về bệnh tâm thần của Châu Âu gần đây (European Study on Epidemiology of Mental Disorders, 2013) cho biết là hơn 10% dân tình có ít nhất là một lần trong đời mắc bệnh tâm thần – nếu kể luôn cả những vấn đề sa sút trí tuệ của người cao tuổi thì con số này sẽ lên tới 20%- . Nhiều người bệnh tâm thần hoàn toàn mù tịt về tình trạng sức khỏe của họ. Một số khác cố tình dấu diếm vì sợ người chung quanh ruồng bỏ, …Ở Việt Nam, theo vài nguồn tin, bệnh nhân tâm thần chưa được săn sóc đầy đủ.

.

Những bệnh tâm thần ?

Một cách chung chung và rất là sơ lược, ta có thể chia những bệnh tâm thần ra theo bốn hay năm loại

– ở đây xin đừng đọc Wikipedia – Wikipedia còn dựa trên DSM IV – Bài này trình bày theo DSM V và các giáo trình về Psychiatrie (Tâm thần học) ở ĐH Liège –

1. Tất cả những loại nghiện (rượu, ma túy, thuốc kích thích). Những người nghiện là những người không thể sống thiếu các chất ấy. Các chất nghiện gây những tàn phá cơ thể và tâm lý nhưng người nghiện không có khả năng từ bỏ chúng. Ta dịch là «Rối loạn sử dụng chất».

2. Những bệnh về tính khí bất thường không thăng bằng được mà ta gọi là rối loạn tâm trạng – lúc nào cũng lo sợ căng thẳng, mệt mõi mà không có nguyên nhân sinh học, trầm cảm, khó ở, …

3. Những rối loạn về cảm nhận: bị ám ảnh cưỡng chế, hoảng sợ trước mọi tình huống, lo lắng, bất ổn, sợ chốn đông người, sợ những vật lặt vặt không đáng như con nhện, sông nước, tàu bè,… Bệnh tâm thần phân liệt thuộc vào hạng này.

4. Những rối loạn trong hành vi và nhân cách – tự hỏi mình là ai: không thương mình, không bằng lòng với cơ thể, không ăn, ăn nhiều, khó ngủ, ngủ nhiều, tự gây thương tích…

5. Những rối loạn nhân cách trong liên hệ xã hội: nghi ngờ, yêu mình quá độ, phản xã hội, không tôn trọng người khác hay luật lệ xã hội, …

Và cuối cùng phải nói là có những bệnh mang nhiều khía cạnh của hai hay nhiều loại vừa kể trên. Tự tử cũng được xem như một bệnh tâm thần, thuộc loại 2,3,4.

.

Vai trò của xã hội trong cấu thành của một số bệnh tâm thần

Qua danh sách những bệnh tâm thần kể trên, không thể im lặng về vai trò của xã hội.

Thật vậy, rất nhiều trường hợp một người thành nghiện rượu là do hoàn cảnh đưa đẩy. Một người nghiện ma túy vì môi trường lôi cuốn. Có người khác rơi vào trầm cảm vì thất nghiệp hay vì mang tang bạn đời. Nhiều thiếu nữ, mất tự tin, theo những phương thức khốc liệt để giảm cân vì áp lực của bạn bè hay của người yêu, …

Durkheim là nhà xã hội học tiên phong giải thích sự tự tử bằng những thiếu cấu trúc của xã hội từ đầu thế kỷ thứ XX.

Sau Durkheim và nhất là trong hai thập niên vừa qua, với những tiến bộ của khoa tâm thần học và nhất là những nghiên cứu về phạm tội học, nhiều tác giả nêu lên đđược liên hệ giữa bạo lực và bệnh tâm thần. Ở nhiều nước Âu Mỹ, 50% trong số những phạm nhân tội giết người là những người mang bệnh tâm thần (1).



.

Xã hội cũng có thể gây ảnh hưởng lâu dài trên tâm thần. Wootton và đồng sự thiết lập sự liên hệ hổ tương giữa những người mang bệnh phản xã hội (họ vi phạm luật lệ APD Antisocial Personality Disorder) với những yếu kém trong phương thức giáo dục của gia đình họ trước đó.

Những yếu kém như

. không để ý nhiều đến trẻ

. ít cách dạy tích cực

. không chăm chú theo dỏi trẻ

. không có sự liên tục thống nhất trong cách phạt làm cho trẻ mất phương hướng – loại kỷ luật tùy hứng của cha mẹ.

. dùng những hình phạt thể xác (2)


.



Sự nghèo khó cũng có thể là nguồn gốc của bệnh tâm thần. Sicot nghiên cứu những người vô gia cư ở Paris, Pháp và đại đa số họ mang bệnh tâm thần. Gần 100% trong số họ nghiện rượu chẳng hạn. Còn các bệnh như là trầm cảm, lo sợ, mất khả năng tự yêu mình, … thì rất là phổ biến (3).

.

Đó là chưa nói đến những bệnh tâm thần sau các biến động lớn, trauma hay chấn thương. Các chấn thương thường để lại cho các nạn nhân nhiều vết khó lành. Nạn nhân của chiến tranh, của những thiên tai hay thường nhật hơn, của những tai nạn nghề nghiệp hay tai nạn giao thông thường phải được theo dõi về tâm thần sau biến cố (4).

Sau cùng, có thể kể đến quyển sách của Ehrenberg và Lowell. Hai tác giả này nhấn mạnh trên sự tiến triển về số lượng người mắc bệnh tâm thần. Bệnh tâm thần không còn là một chuyện của cá nhân, một vấn đề riêng tư cần giấu kín hay một hổ thẹn, Bệnh tâm thần thành một vấn đề xã hội chính trị và văn hóa. An bình xã hội và giá trị sống của mỗi người tùy thuộc vào sức khoẻ tâm thần của các tất cả thành viên trong xã hội. Bệnh tâm thần là nguyên do thường được nêu ra nhất khi các công nhân viên xin nghỉ việc vì bệnh (5).



.

Xã hội học về bệnh tâm thần ?

Vấn đề tâm thần quan trọng như thế làm cho nhiều xã hội học gia đi vào nghiên cứu.

Bệnh tâm thần, một loại bệnh vừa sinh lý vừa xã hội. Khởi thủy, xã hội chỉ biết đến bệnh điên: người điên là người bị xem như là bị ma quỷ bắt, là người bị trời phạt. Người điên có những phản ứng không ngờ trước được nên xã hội nhốt riêng họ, cách ly với người khác để họ không làm hại cho xã hội.

Goffman khởi đầu, rồi Foucault sau đó, tố cáo xã hội gây áp lực trên người bị bệnh tâm thần và không lo chữa trị họ. Xã hội chỉ lo phòng vệ, bảo vệ trật tự mà xã hội cần có nên nhà thương điên giống nhà tù hơn bệnh viện.

Những nhà văn hóa học thì định nghĩa bệnh tâm thần như tổng thể các hiện tượng gây ra bởi xã hội mà thí dụ cụ thể điển hình là một cán bộ tư sở cao cấp, rủi bị sa thải mất việc, ông giết chết vợ mình và giết cả con chó thân thiết rồi sau cùng, quẩn trí, ông tự tử.

Nhưng tất cả những người trong cùng một hoàn cảnh xã hội không hành xữ giống nhau

Chính vì thể ta có thể định nghĩa, một cách vừa y khoa vừa xã hội học rằng bệnh tâm thần là những cái không bình thường trong sức khỏe và tâm lý có thể làm cho người bệnh hành xữ kém hay mất nhân bản với chính họ và với người khác.

Một cách ví von, ta có thể nói bệnh tâm thần là bệnh với chính bản thể và với tha nhân. Cũng có thể nói, theo trào lưu hiện thời, rằng bệnh tâm thần là bệnh làm cho người bệnh không còn tự do quyết định đời sống của mình, không còn khả năng nhận thức và sống tự lập.

Nhưng định nghĩa thế nào đi nữa thì cũng phải nhìn nhận là xã hội hiện thời, với cấu trúc và các sinh hoạt của nó, là nguồn gốc làm nẩy sinh ra nhiều bệnh tâm thần.

Xã hội là cấu thành của bệnh tâm thần. Và đồng thời «dĩ độc trị độc», xã hội cũng là một trong những phương thức trị bệnh tâm thần – sociothérapie – Cũng là theo một tiến trình hợp lý. Chữa bệnh tâm thần phải vừa là những phương thức Y, Dược vừa là những kỷ thuật tâm lý xã hội.

.

Lời chót ?

Trên thế gian, ta có ít nhất một người vừa điên vừa uống rượu – nghiện rượu cũng là một bệnh tâm thần – vừa tự biết mình «lăng nhăng», “lí nhí” và “lem nhem”. Người đó là Bùi Giáng:

Uống và say nói lăng nhăng

Miệng mồm lí nhí thằn lằn đứt đuôi

Tâm can chân thể chôn vùi

Mặt trời không mọc với người lem nhem

Còn đâu nguyệt tỏ bên thềm

Ôi người uống rượu còn thêm điên rồ

(Bùi Giáng, Người điên uống rượu) – Dĩ nhiên Bùi Giáng không điên, lúc sáng tác bài này.

.

Nguyễn Huỳnh Mai

—–


(1). Hodgins S. (ed.), Mental disorder and crime. NXB Sage Publications, 1993.

(2). Wootton, J. M. & al. , Ineffective parenting and childhood conduct problems: the moderating role of callous-unemotional traits. Journal of Consulting and Clinical Psychology (1997), 65, 292–300.

(3) Sicot F., Maladie mentale et pauvreté. NXB l’Harmattan, 2001.

(4) Shalev A. Y. & al., Prospective Study of Posttraumatic Stress Disorder and Depression Following Trauma. Am J Psychiatry 1998;155:630-637.


(5) Ehrenberg A. và Lovell A., La Maladie mentale 
en mutation
. Psychiatrie et société. NXB Odile Jacob, 2001.

.

Hãy Cảnh Giác Về Tự Do Ngôn Luận Một Chiều Của Phương Tây





Đinh Cương


I. Dẫn:

Trong sách Cổ Học Tinh Hoa của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân xuất bản năm 1926 có câu chuyện "Tăng Sâm Giết Người" Chuyện đại lược về thầy Tăng Sâm, người thời Xuân Thu, học trò của Khổng Tử, tính tình chân chất và rất có hiếu. Mẹ của thầy rất mực tin con. Một hôm đột nhiên có kẻ bảo: “Tăng Sâm giết người”, bà mẹ không tin; người thứ hai bảo, còn chưa tin; đến người thứ ba bảo, thì bà mẹ sợ cuống, quăng thoi đang dệt cửi, trèo qua tường chạy trốn.

Lời bàn ở dưới chuyện mới thú vị:

“…Như thế mới hay cái dư luận của thiên hạ rất là mạnh. Một việc, dù cho sai lầm đến mười mươi, nhiều người đã cùng có một nghị luận đều như thế cả, thì cũng dễ khiến cho ta nghi nghi hoặc rồi đem bụng tin mà cho là phải, nom đỉa hoá ra rươi, trông con chó thành ra con cừu. Đến như giữa chợ làm gì có cọp! Thế mà một người, hai người, đến ba người nói có cọp, thiên hạ cũng tin có cọp thật nữa là!”

Xưa nay con người vẫn xử sự như thế. Ngay cả cái gọi là đạo Thiên Chúa được lan rộng dưới lưỡi gươm của lính La Mã từ thế kỷ thứ 4 cũng không khác. Người ta cứ lập đi lập lại những điều mê tín phi lý, đến một lúc người nghe đành phải chấp nhận cái “phúc cho những kẻ không thấy mà tin”, nếu không thì được đi "hưởng dung nhan thánh Chúa" sớm. Một tên ma cô khát máu nếu được gọi là đức thánh cha cũng chẳng làm ai ngạc nhiên nếu do bộ máy tuyên truyền lập đi lập lại mãi thành quen tai.

II. Truyền Thông Ngày Nay:

Dần dần xã hội tiến bộ hơn và những lời đồn ngoài chợ đã được các nhà cầm quyền hệ thống hóa, hướng dẫn thành các cơ quan "tuyên truyền nhồi sọ", rồi "tuyên truyền phản tuyên truyền", rồi tuyên truyền tung tin giả vv… đủ mọi cách.

Đời sống con người ngày nay bị cuốn vào cơn lốc “mê tiền” đến độ "cứu cánh biện minh cho phương tiện", phải đạt cho được những gì mình muốn bằng mọi thủ đoạn dù gian ác; các chuẩn mực đạo đức, lễ giáo, tín ngưỡng đều trở nên thứ yếu.

Qui luật hiển nhiên là "ai chi tiền thì kẻ đó làm chủ". Ai nắm được bộ máy truyền thông đồ sộ thì kẻ đó luôn được đánh bóng lên một địa vị cao vợi với nhiều danh xưng tuyệt vời. Những điều xấu xa, các âm mưu đen tối của họ đều được che giấu tinh vi, quần chúng không bao giờ biết đến. Các bộ máy truyền thông khổng lồ ở phương tây, TV, báo chí giấy và điện tử, rồi internet (liên mạng) … xây dựng nên bởi tiền vô giới hạn đã làm con người phải sống trong một thế giới bị vây chặt bởi thiên kiến, không còn biết chân/ giả nằm ở nơi nào. Trước đây báo giấy in ấn còn có thể bị nhà cầm quyền các nước nhỏ kiểm soát dễ dàng, nhưng ngày nay với internet thì xem như vô phương ngăn cản.

Khi nhà nước, nhất là giới tư bản làm chủ các phương tiện truyền thông đồ sộ, cho phép loan những tin tức do mình tạo ra qua các bộ máy truyền thông tài phiệt (corporate media) được gọi là dòng chính (main stream), kỳ dư là dòng biên (side stream). Các tuyên truyền dòng chính liền được phân phối nhân rộng nhanh chóng bởi các bộ máy tuyên truyền phụ của "đồng minh" trên toàn thế giới nên không mấy chốc áp đảo các tin tức khác dòng hay ngược dòng. Khi nói đến truyền thông tây phương ngày nay là chủ yếu là truyền thông Mỹ.

Từ khi lập quốc, giới truyền thông ở Mỹ được ca ngợi là "vô tư", là "quyền lực thứ tư" (Fourth Branch hay Fourth Estate) theo Hiến pháp Hoa Kỳ; nhưng dần dần lại bị tiền mua nên nay trở thành một vũ khí tuyên truyềncho chính sách của chủ nhân ông và còn là công cụ gây nhiễu loạn nội bộ các nước kém thân thiện với Mỹ, bằng cách tung những tin khác chiều của nhóm chống đối có ăn lương hay các tin tiêu cực trong nước đối địch để hạ thanh danh hay uy tín của các lãnh đạo của các nước này. Đó là chưa kể làm gián điệp dưới vỏ bọc phóng viên ở các nước khác, tương tự như bọn tu sĩ dòng Tên của Vatican từ trước đến nay trong lịch sử truyền giáo của tổ chức này.

Xưa "không thấy mà tin" thì được chúc phúc; nay thì bảo "một bức ảnh bằng ngàn lời nói". Thời buổi này hình ảnh rẻ hơn bèo cho nên sự kiện được đổi trắng thay đen dễ dàng hơn, dễ tin hơn bằng các kỹ thuật số. Lại thêm có ngành đại công nghệ phim ảnh Hollywood, nơi sản xuất và phát hành toàn thế giới vô vàn phim ảnh dành hết mọi người hùng, người tốt, người đạo đức cho Mỹ, thành phần còn lại xấu xa ác độc dĩ nhiên được gán cho các nước nhược tiểu và địch quốc.

Nhiều người thắc mắc vì sao phim ảnh của Mỹ tràn đầy bạo lực, phơi bày tình dục thô thiển, khuyến khích sử dụng xì ke ma túy thoải mái, hô hào dùng súng đạn bắn giết vô tư, xem mạng người như cỏ rác, cứ như từ thời lập quốc, thổ dân da đỏ bị giết đến tuyệt chủng, rồi buôn nô lệ da đen để khai thác các đồn điền, thuê cu-li rẻ mạc da vàng từ TQ để phá núi đặt cầu cho đường sắt… và ngày nay sản xuất súng đạn đi đôi với chiến tranh cục bộ làm cho nhân loại càng sống bất an. Vì tiền, hay có một chính sách nhồi sọ do bọn lái súng chi tiền?

Những hình tượng trích ra từ những chuyện giả tưởng của Marvel Comics đã ăn sâu vào tâm trí của trẻ mới lên 3 từ thế hệ này sang thế hệ khác, càng làm cho bản chất tự mãn, cao ngạo sắc tộc càng tăng, nên chính sách ngoại giao của Mỹ xem ra vẫn tiếp nối các chính sách thực dân da trắng xưa cũ có phần tinh vi hơn, luôn khinh thị các dân tộc khác. Văn hóa xấu của Mỹ đã tấn công sâu vào các xã hội toàn cầu ở mức độ nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, đã làm nhiều nước thiếu trang bị kiến thức kỹ thuật để ngăn chặn đã bị chao đảo nguy khốn. Xã hội Việt Nam không thể thoát khỏi.

III. Những Mẫu Tin:

Chuyện về bộ máy truyền thông Mỹ không thể nói đơn giản trong một bài viết ngắn, lại không phản ánh đủ trong vài mẫu tin, nhưng phần nào cũng nói lên được thực trạng ngày nay.

1. Xã Hội:

a/. Tệ Nạn:

Những chuyện gian ác tồi tệ trong xã hội lan tràn trên thế giới một cách chóng mặt, và Việt Nam ngày nay cũng có sự gia tăng đáng kể và số lượng tin xấu tràn ngập báo chí trong nước càng nhiều làm mờ đi những thành tựu khác của nhà cầm quyền. Điều đáng nói là tình trạng suy đồi không chỉ xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại được báo chí đua nhau khai thác chỉ vì đó là vùng không bị cấm kỵ trong việc hành nghề.

Ví dụ gần đây ở Anh xảy ra vụ hai đứa con gái 17 tuổi Maria Rossi và Tina Molloy đã hành hạ và đập chết dã man cụ bà hàng xóm Edna Phillips, 70 tuổi. Ba tuần trước đó có vụ 2 đứa trẻ khác 10 tuổi đã sát hại một đứa bé khác mới chập chửng biết đi.

Khi kết án, quan tòa Scott Baker nói với 2 đứa con gái “Chúng mày là sản phẩm đồi bại của thời đại.”

b/. Phe Nhóm:

Tổng thống Tiệp Milos Zeman bị giới truyền thông tây phương kết án là vừa hủy bỏ lễ gắn huy chương vinh danh kẻ sống sót Jews (Do Thái) khỏi lò thiêu xác (Holocaust) có tên là George Brady, 88 tuổi, cho là vì người cháu Daniel Herman, bộ trưởng văn hóa đã tiếp Đạt Lai Lạt Ma; trong khi chính sách của Tổng thống Tiệp là không muốn làm phật lòng TQ. Tổng thống Tiệp đã phản bác tin này cho là thiếu chính xác, nhưng bản tin đã loan đi. Điều này cho thấy dân Jews có tai mắt khắp nơi và sẳn sàng lên tiếng chống những ai làm hại đến lợi ích của dân này, và liền được bộ máy truyền thông của tài phiệt loan ngay. Chuyện từ xưa đã như vậy; tiền là Tiên là Phật. Thiểu số lắm tiền thường lãnh đạo đa số nghèo khổ. Không lạ gì, ngày xưa châu Âu đã lợi dụng Vatican dùng đạo Ca-tô Rô Ma để tiêu diệt dân Jews cả gần hai ngàn năm nhưng không thành vì họ biết dùng tiền lũng đoạn kinh tế các nước ấy. Nay đã đến lúc giống dân nhỏ bé ấy lại dùng tiền để trả thù "tội tổ tông" của đám sát thủ xưa. Cuộc đời vay trả, trả vây cứ vậy mà xoay vòng.

http://www.reuters.com/article/us-czech-president-medal-idUSKCN12L286?il=0

2. Chính trị:

a/. Lập Trường Một Chiều Của Báo Chí Mỹ:



Oliver Stone, nhà viết truyện phim, đạo diển và sản xuất phim, từng nổi tiếng với Scarface, 1983 và Platoon, 1986, trong một cuộc phỏng vấn với đài RT (của Nga) vào ngày 21 tháng 10, 2016 đã tuyên bố ngày nay báo chí Mỹ bị xiết chặt vì hậu quả "tự do báo chí" trong thời chiến tranh Việt Nam, nên rất khó mà có thể lên tiếng chỉ trích giới truyền thông Mỹ đã thiên vị trên mọi chuyện. Khởi đầu từ dưới thời Reagan 1980 với nỗ lực kềm kẹp do Nhóm Bảo Thủ khởi xướng cho đến nay, cộng với sự nhúng tay của CIA vào trong ngành truyền thông đã làm cho dư luận Mỹ không còn được vô tư như trước.

https://www.rt.com/op-edge/363641-oliver-stone-rt-syria/

b/. Chống Nga:

- Cũng trong bài phỏng vấn Oliver Stone, ông ta có nhận xét là báo chí Mỹ còn dùng lối viết tin "cả vú lấp miệng em" một chiều đối với những hoạt động quân sự của Nga trên chiến trường Syria. Ví dụ làm xấu hình ảnh Nga bằng cách cứ tung tin dân lành bị thương vong lớn do không quân Nga cố ý thả bom dù không có bằng chứng. Khi Nga phản bác thì không đính chính và chuyện đã rồi, bản tin đã được loan khắp thế giới. Trong khi ấy những vụ tương tự của Mỹ và đồng minh thì lờ đi hoặc cho là do nhầm lẩn đáng tiếc.

- Nhà báo John O'Sullivan trên Spectator ở Anh đã viết một bái đã kích báo RT (Russia Today) cho nó là cơ quan tuyên truyền nặng ký của Putin. Thế nhưng mục đích của bài báo không đạt được bởi đòn hồi mã thương trong phần bình luận của đa số độc giả bên dưới bài.

http://www.spectator.co.uk/2014/12/the-truth-about-russia-today-is-that-it-is-putins-mouthpiece/

3. Nên Biết Phản Ứng Đúng Lúc Và Mạnh Mẽ:

Ai cũng biết chính sách toàn cầu hóa đã tạo điều kiện giao lưu dễ dàng cho mọi quốc gia. Lợi ích cho nước nhỏ dĩ nhiên thua kém với các nước lớn. Với internet thì các nhà mạng quốc tế như Google, Youtube, Yahoo và Facebook … đều có phiên bản ngôn ngữ địa phương trên hầu hết các nước, qua đó chúng tạo sân chơi cho các phe chống đối chính quyền sở tại dễ xâm nhập vào giới truyền thông trong các nước nhỏ. Hầu hết các nhóm chống đối đều nhận tiền tài trợ của Mỹ, và dĩ nhiên không hề chống Mỹ dù Mỹ có thành tích không mấy tốt về nhân quyền và dân chủ.

Nếu các nước nhỏ cứ tiếp tục "hiếu khách" thì chúng sẽ được đàng chân lân đàng đầu và gây nhiễu loạn thông tin trong nước về bất cứ chuyện gì. Cứ tung hỏa mù, đăng tin giả, nói điều không thật mãi cũng làm lung lạc lập trường người đọc. Nhưng nếu nhà nước biết đâu là giới hạn của trò chơi thì nên dứt khoát khuyến cáo cấm cản kịp thời, ví dụ bản tin về “Google xóa các nội dung 'xúc phạm hoàng gia Thái'” vào ngày 22 tháng 10, 2016 dưới đây của BBC Việt ngữ.

“Thái Lan, quốc gia có những quy định nghiêm ngặt về luật khi quân trên thế giới, đang để tang Quốc vương Bhumibol Adulyadej. Ông Juntong nói rằng hơn 100 nội dung xúc phạm đến hoàng gia đã được tìm thấy qua dịch vụ Google kể từ khi nhà vua băng hà hôm 13/10.

Phát ngôn viên Google nói với hãng tin Reuters rằng hãng tuân theo các quy định của mình về việc xử lý các đề nghị xóa bỏ nội dung. "Khi chúng tôi được thông báo về nội dung có tính bất hợp pháp thông qua trình tự chính thức, chúng tôi sẽ hạn chế nội dung đó tại quốc gia nơi chúng bị coi là bất hợp pháp sau khi cân nhắc kỹ càng."

http://www.bbc.com/vietnamese/world-37739442

Chừng nào bộ máy truyền thông Nhà nước Việt nam mới làm được điều này?

4. Kết:

Nhắc lại lời bàn bên dưới câu chuyện “Tăng Sâm Giết Người” kể trên của cụ Ngọc và Nhân “… Những bậc ra được ngoài vòng dư luận, giữ vững được bụng như cây giữa rừng, như kiềng ba chân rất là hiếm, nhưng có thế được, mới cao. Một chân lý có chứng minh rõ ràng mười phần chắc chắn, thì mới nên công nhận.”

Nhưng than ôi, xã hội có được mấy người có ý thức "ra được vòng dư luận"? Nên chuyện bịp ngày nay vẫn còn tiếp diễn và càng tinh xảo, khó phân biệt hơn thời các cụ. Vì thế trước bất cứ tin tức gì chúng ta nên xem ai viết bản tin, xuất xứ từ đâu; đồng thời tìm hiểu thêm trên các trang mạng khác chiều của nước khác để trang bị thêm kiến thức cho mình, và để không trở thành "tên ngố".

Đinh Cương

Cuối Tháng 10, 2016.

Nguyễn Thanh Sơn : TỰ SỰ VỀ BÁO CHÍ VIỆT NAM





Ông Nguyễn Thanh Sơn - Giám đốc Điều hành T&A Ogilvy.




Báo chí ở Việt Nam


Năm 1994, về nước, tôi được nhận vào làm thực tập tại tiểu ban Tin Tham Khảo, thuộc Ban Quốc tế của Thông tấn xã Việt Nam (một số bạn hẳn còn nhớ, ở thời điểm đó, hàng ngày Thông tấn xã Việt Nam phát hành hai bản tin tham khảo sáng-chiều có đóng dấu “mật- tài liệu không phổ biến”). Tiểu ban của chúng tôi có mười mấy người, do anh Hà Minh Huệ mới từ phân xã New York trở về làm trưởng tiểu ban (anh Huệ hiện đang giữ chức Phó chủ tịch thường trực Hội nhà báo Việt Nam, Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam).



Mặc dù mang tiếng làm việc ở Ban Quốc tế của Thông tấn xã, nhưng công việc của chúng tôi chỉ đơn giản là dịch lại tin tức từ các bản tin của các hãng thông tấn nước ngoài như AP, UPI, Reuter…được chuyển về bằng máy telex (hồi đó chưa có Internet và máy fax cũng rất hạn chế). Cứ đầu giờ sáng, anh Huệ qua phòng telex lấy tin, mang về xé cho chúng tôi mỗi người một mảnh cặm cụi ngồi dịch, sau đó chừng 10h sáng thì nộp cho anh Huệ để làm bản tin chiều, đầu giờ chiều lại nhận tin để dịch, tới 3h30 chiều nộp làm bản tin sáng. Anh Huệ là người thày đầu tiên trong quãng đời nghề báo ngắn ngủ của tôi, người cặm cụi sửa cho tôi từng lỗi dịch sai, từng dấu chấm câu. Tôi còn nhớ, sau nhiều ngày hùng hục làm việc, một buổi chiều, anh Huệ rất hớn hở cầm một tập bản tin tới bàn làm việc của tôi khoe: “tin em dịch được đăng rồi đây này!”. Tôi run bắn lên vì hồi hộp, nhưng khi nhìn thấy bản in thì lại thất vọng tràn trề: toàn bộ bài báo tôi dịch đã bị cắt còn lại đúng năm dòng, thông báo về việc một nhóm cựu binh Mỹ tới bờ biển Đà Nẵng tổ chức lướt sóng!


Suốt thời gian làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, tôi học được hai bài học chính về nghề báo ở Việt Nam. Bài học thứ nhất- đừng làm ngôi sao, hãy viết như mọi người! Tôi rất ngạc nhiên khi những bài báo tôi dành tâm huyết để nghiên cứu, tìm cách diễn đạt đặc sắc lại là những bài báo không bao giờ qua được cửa biên tập, trong khi những bài báo vô thưởng vô phạt, được viết ra một cách qua quít cẩu thả lại được khen ngợi. Chúng tôi thường đùa nhau, cơ quan của chúng tôi giỏi nhất việc vo tròn phong cách viết của mọi người, là cái lò tạo ra những sản phẩm dập khuân.


Bài học thứ hai tôi học được sau ba tháng làm việc đầu tiên, khi tôi được anh Huệ biểu dương ở cuộc họp chung ở tiểu ban về thái độ và hiệu suất làm việc. Lý do là thông thường, chúng tôi chỉ phải dịch tin đến 10h sáng, sau đó có thể nghỉ ngơi, đọc báo, uống trà hay tán láo cho đến lúc ăn trưa. Nhưng tôi thường chỉ mất hơn một tiếng để dịch một tin, nên đến 9.30 đã xong phần việc của mình và tiện tay dịch thêm vài tin nữa, kết quả là nhiều khi tới giờ ăn tôi vẫn cặm cụi ngồi làm. Sau buổi họp, mấy chị lớn tuổi hơn nửa đùa nửa thật nói với tôi “này, buổi trưa chị còn phải đi đón con, giặt quần áo, đi chợ, nên cậu đừng có phấn đấu làm chiến sĩ thi đua như thế sếp cứ lấy cậu là làm gương là chết bọn chị”. Hóa ra nếu bạn không muốn vừa phải làm thêm nhiều việc, vừa bị mọi người ghét, thì chỉ viết giống như mọi người chưa đủ, bạn còn phải làm việc giống mọi người nữa. Khi tôi biết cách mỗi buổi chỉ dịch một tin, thời gian còn lại đọc báo, uống trà và tán láo giống như mọi người, không khí trong tiểu ban đối với tôi thay đổi hẳn, thân thiện hơn trước rất nhiều, chỉ có anh Huệ là cười cười nói “mày học nhanh quá”.


Mười bảy năm sau ngày tôi rời khỏi Thông tấn xã Việt Nam, báo chí Việt Nam đã có những thay đổi lớn. Với gần 800 tờ báo và tạp chí, hàng chục đài truyền hình trung ương và địa phương, hơn một trăm kênh truyền hình đang được phát sóng, báo chí Việt Nam, cũng giống như xã hội Việt Nam, đang loay hoay trong một giai đoạn bản lề.


Nói đến báo chí Việt Nam, trước tiên phải nói đến sự khác biệt của nó đối với báo chí ở bên ngoài. Một trong những đặc điểm đầu tiên tôi đã có dịp đề cập ở trên, đó là vấn đề uy tín. Ở những quốc gia mà tôi có dịp tới học tập hay làm việc, báo chí- trừ những tờ báo in hay kênh truyền hình cực kỳ lớn- phần lớn bị coi là “rác rưởi”. Cạnh tranh gay gắt về thông tin, sự hùng hậu của báo lá cải khiến cho sự cạnh tranh trong giới truyền thông trở nên hết sức khốc liệt, và người ta không từ một thủ đoạn nào để có được thông tin. Uy tín và sự tin cậy dành cho phóng viên ở mức đặc biệt thấp, và mỗi một cuộc phỏng vấn đối với lãnh đạo của các thương hiệu hay công ty là một cuộc đấu trí thực sự. Trong khi đó, báo chí Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn trước, được công chúng coi trọng- dù dưới tư cách là kênh phát ngôn chính thức của các cơ quan thuộc Đảng và nhà nước, hay dưới tư cách phản biện của tiếng nói quần chúng lao động.


Trên phương diện phát ngôn chính thức (“là tiếng nói của…”, “là cơ quan ngôn luận của…”-được in rõ ràng trên manchette báo), báo chí Việt Nam thường được chia thành ba nhóm: báo chí nhóm một, báo chí nhóm hai và báo chí nhóm ba. Nhóm một là những cơ quan báo chí quan trọng nhất như báo Nhân Dân, đài truyền hình Việt Nam, đài phát thanh tiếng nói Việt Nam và Thông tấn xã Việt Nam.


Báo chí nhóm hai là báo chí thuộc chính quyền và đảng bộ địa phương hay các tổ chức chính trị xã hội cấp Trung ương như Hà nội mới, Đài truyền hình Hà nội, Sài gòn Giải phóng, Thanh Niên hay Lao Động…


báo chí nhóm ba là các báo, tạp chí hay bản tin còn lại. Tuy có vai trò quan trọng trong việc “định hướng dư luận”, nhưng trừ truyền hình, còn các báo in thuộc nhóm một và hai lại có lượng người đọc ít hơn so với báo chí nhóm ba (tất nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ, ví dụ như báo T.T, tờ nhật báo lớn nhất và có uy tín nhất cả nước, lại chỉ được coi là báo chí nhóm ba).


Chính vì chức năng “tuyên truyền cho các chính sách của Đảng và Nhà nước” cũng như vai trò “định hướng dư luận” được coi là chính yếu, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi trình độ chuyên môn về thông tin của báo chí Việt Nam chưa thể so sánh với báo chí khu vực, chưa nói gì đến báo chí trên thế giới. Trong một giờ lên lớp, khi tôi đề nghị các sinh viên của tôi (đang theo học năm thứ ba của khoa báo chí trường Đại học Xã hội và Nhân văn) thử viết một tin ngắn chừng hai trăm chữ về thông tin một công nhân bị tai nạn ngã chết trên công trường xây dựng, khai thác thông tin này trên mười hướng khác nhau, tôi rất ngạc nhiên khi tuyệt đại đa số họ không hiểu được thế nào là “khai thác trên mười hướng”, thậm chí chỉ trên khía cạnh một tin vắn thông thường, họ cũng chưa viết được.


Thực ra, nếu bạn nhìn vào giáo trình giảng dạy cho sinh viên báo chí, bạn sẽ không thể trách họ được, nhất là khi bạn biết, phần lớn giáo viên giảng dạy tại khoa báo chí lại chưa từng được làm báo theo đúng nghĩa của nó, mà chủ yếu hoặc nghiên cứu về lịch sử báo chí tại các trường đại học thuộc Liên xô cũ, Cu-ba hay Đông Đức, hoặc được chuyển từ khoa Ngữ văn sang. Các tờ báo buộc phải đào tạo lại các phóng viên theo kiểu truyền nghề, từ kinh nghiệm thực tế (như anh C.K của báo S.G.T.T phải tự soạn ra một cuốn sách lấy tên là “Những gì họ không dạy bạn ở trường báo chí” để huấn luyện lại cho phóng viên) nên thỉnh thoảng lại có một đợt sóng trồi sụt về chất lượng của báo chí khi những phóng viên lâu năm nghỉ việc hoặc chuyển sang làm việc ở tờ báo khác


Báo chí Việt Nam hình thành một số nét đặc biệt khác, mà tôi tạm gọi là “văn hóa” để so sánh nó với báo chí quốc tế. Đầu tiên là văn hóa “báo không thể sai”. Ở các nước khác, trước khi đến được với người đọc, thông tin thường phải trải qua một quá trình kiểm tra chéo nghiêm ngặt để đảm bảo tính trung thực và khách quan của nó, và nguồn tin thường được phân cấp về mức độ tin cậy (nguồn tin cấp một- nhận trực tiếp từ nguồn, được tiếp cận văn bản; nguồn tin cấp hai –nhận trực tiếp từ nguồn, không được tiếp cận văn bản; nguồn tin cấp ba- thông tin nhận qua trung gian, không được tiếp cận văn bản…vv).


Trong khi đó, ở Việt Nam, các tờ báo rất ít khi đưa việc kiểm tra chéo thông tin như một qui trình bắt buộc của tác nghiệp báo chí, nên lấy lý do báo sắp ra nhà in, thông tin cần đưa ngay, người ta khá thoải mái trong việc cung cấp các nguồn tin thiếu kiểm chứng. Ngay cả khi đưa tin không đúng sự thật, báo chí Việt Nam cũng rất hiếm khi xin lỗi hay đăng thông tin cải chính- mặc dù luật báo chí có qui định về việc này.




Thiếu sự đòi hỏi nghiêm ngặt về tính chính xác của thông tin sẽ dẫn đến thiếu cạnh tranh gay gắt về thông tin, nên báo chí Việt Nam hình thành một văn hóa “chia sẻ”, trái ngược hoàn toàn với văn hóa “độc quyền” của báo chí nước ngoài. Ở Việt Nam, thông tin có thể được các phóng viên làm việc ở các tờ báo khác nhau chia sẻ với nhau, và các phóng viên ở các tờ báo khác nhau hoàn toàn thoải mái khi cùng ngồi trao đổi hoặc phỏng vấn đại diện của một công ty.


Các phóng viên viết cùng một lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, giáo dục hay y tế hình thành các nhóm chơi với nhau khá thân thiết, và có rất ít cạnh tranh về thông tin giữa họ với nhau. Điều này là trái ngược hoàn toàn với báo chí phương Tây, nơi phóng viên của các tờ báo luôn luôn dè chừng, cảnh giác với phóng viên của các tờ báo khác mà họ coi là đối thủ cạnh tranh trực tiếp, và hầu như không có chuyện họ lại chơi với nhau theo nhóm. Văn hóa chia sẻ này khiến cho những khái niệm như “ dành riêng cho…” (exclusive…) hầu như ít tồn tại ở Việt Nam, và “đặc quyền tiếp cận” không còn là một công cụ hữu hiệu của quan hệ công chúng (“đặc quyền tiếp cận” là một công cụ của quan hệ công chúng, khi bạn cung cấp quyền tiếp cận thông tin hoặc nguồn tin chỉ dành riêng cho một phóng viên hay một tờ báo, do đó tạo giá trị cho riêng tờ báo hay phóng viên đó). “Văn hóa chia sẻ”, cộng thêm với văn hóa “đừng làm ngôi sao” khiến cho các bài viết thường na ná như nhau, ít có bản sắc riêng của người viết, và đặc biệt khi đã có thông cáo báo chí được soạn sẵn, thì việc các bài báo với nội dung giống nhau xuất hiện trên vài ba chục tờ báo là điều thường xuyên xảy ra. “Văn hóa chia sẻ” cũng khiến cho các tin xấu lan đi rất nhanh, và hầu như rất khó làm cái điều mà nhiều khách hàng của chúng tôi đòi hỏi-“bịt” tin xấu lại không cho phát tán ra ngoài. Khi các phóng viên quyết định “đánh” một vấn đề gì đó, họ cũng thường phát động “chiến tranh tổng lực” hay “chiến tranh trường kỳ” dựa trên sự chia sẻ thông tin trong nhóm.


“Văn hóa chia sẻ” của báo chí Việt Nam lại dẫn đến văn hóa “báo không ăn thịt báo”- báo chí Việt Nam rất e ngại trong việc đưa ra những thông tin ngược lại với thông tin đã được đăng tải trên “các báo bạn”, cho dù biết rằng những thông tin đó có thể không chính xác. Phần lớn trường hợp, họ chỉ dùng thái độ im lặng của mình để phản ứng thông tin sai lệch, mà hầu như không bao giờ trực tiếp đứng ra chỉ trích tính tin cậy hay công khai thách thức tính xác thực các bài báo của đồng nghiệp. Có một sự “ngầm định” khi có ai đó có ý định thách thức văn hóa “báo không thể sai” của báo chí Việt Nam


Một nét văn hóa nữa chúng ta có thể nhận rõ trong thời gian vừa qua, đó là văn hóa “lề trái” và “lề phải” của báo chí Việt Nam- rất nhạy cảm về mặt chính trị, có các qui tắc và “cấm kỵ” bất thành văn và chịu sự kiểm soát chặt chẽ về mặt nội dung của các cơ quan chính quyền và tổ chức Đảng. Chuyên gia quan hệ công chúng phải nắm được “văn hóa lề phải”: các định hướng tuyên truyền và các chính sách chính trị, xã hội kinh tế trọng tâm, từ đó khéo léo lồng ghép vấn đề của mình cho phù hợp với chính sách đó, đồng thời phải hiểu được “văn hóa lề trái” những mối quan tâm và bức xúc của quần chúng, phản ánh thông qua báo chí, hiểu được ranh giới mong manh giữa hai lề và sự tế nhị của các tổng biên tập khi phải giữ một khoảng cách vừa phải với cả hai lề


Một đặc điểm nữa của báo chí Việt Nam là văn hóa đồng dạng. Phần lớn các báo hay chương trình truyền hình của Việt Nam có nội dung tương tự như nhau, và không có sự khác biệt quá nhiều về “thương hiệu” báo chí như các tờ T.T, T.N, L.D, N.L.D…Báo chí chuyên ngành ở Việt Nam còn chưa phát triển, nội dung nghèo nàn, chất lượng bài viết không cao và lượng người đọc thấp. Đây là thiệt thòi lớn đối với ngành quan hệ công chúng, vì quan hệ công chúng chủ yếu tác động đến những nhóm đối tượng nhỏ và chuyên biệt (ví dụ như các nhà khoa học, các chuyên gia một ngành khoa học cụ thể, các chính trị gia..vv) mà báo chí chuyên ngành, ở các nước khác, lại là công cụ đắc lực để tác động đến nhóm đối tượng này. Lý do chủ yếu, có lẽ là, thói quen nghiên cứu vấn đề của mình một cách nghiêm túc và khoa học chưa được hình thành ở Việt Nam. Khi các chuyên gia không có thói quen tổng kết những vấn đề mà mình nghiên cứu hay theo dõi, trình bày cho công chúng hay đồng nghiệp của mình dưới dạng các bài viết hay công trình có giá trị thực tiễn, thì sẽ khó có đất cho sự phát triển của báo chí chuyên ngành.


Trong rất nhiều cuộc hội thảo về nghề báo và mối quan hệ giữa quan hệ công chúng và báo chí Việt Nam, có một câu hỏi thường xuyên được nhắc tới, đó là “văn hóa phong bì”. Tôi cố giải thích cho các khách hàng của chúng tôi, những khách hàng bị ràng buộc bới Điều luật về chống hối lộ các cơ quan và tổ chức nhà nước (báo chí Việt Nam, do nhà nước sở hữu và quản lý, nằm trong phạm vi của điều luật này), nguồn gốc của văn hóa này.


Năm 1988, khi tôi rời khỏi Việt Nam, tôi đang nhận tiêu chuẩn tem phiếu hạng N (Nhân dân). Tiêu chuẩn này cung cấp cho tôi hàng tháng một khẩu phần là 13 kg gạo (được tăng lên 18 kg khi tôi vào học đại học), 100 gram thịt (có giá trị chuyển đổi sang 200 gram sườn hay 150 gram mỡ), 500 gram đường và 0.5 lít nước chấm. Với các tiêu chuẩn tem phiếu khác (A-B cho cấp Bộ/Thứ trưởng, C cho cấp Vụ trưởng, D-E cho cấp trưởng phòng, chuyên viên, cán sự), khẩu phần có khá hơn, nhưng tựu trung cũng vẫn là một khẩu phần chết đói. Để giúp cán bộ của mình có thể tồn tại mà không suy nhược đến chết, các cơ quan nhà nước phải có “kế hoạch 3”, bằng mọi cách tăng khẩu phần ăn cho cán bộ của mình.


Tuy vậy, danh chính ngôn thuận các “quĩ đen” như vậy không được công nhận, và phân chia các quĩ như vậy cũng rất phức tạp. Cách chia đơn giản nhất là ở các cuộc họp, mỗi người dự họp được phát một cái phong bì, trong đó có một số tiền nhỏ. Cứ như vậy, hình thành một thói quen, thậm chí là một văn hóa, đó là khi tới dự các cuộc họp, các đại biểu đều được phát một phần quà nhỏ hoặc một phong bì có tiền. Khi tôi làm việc ở Thông tấn xã, chúng tôi có một quĩ nhỏ, do đóng góp của cán bộ trong ban đang làm việc ở các phân xã nước ngoài, quà của địa phương khi chúng tôi đi công tác..vv tất cả được cho vào một “quĩ đen” được dùng vào các việc hiếu, hỉ, thăm nom người ốm và, chia đều cho các cán bộ của tiểu ban dưới dạng phong bì trong các cuộc họp. “Miếng bít-tết mà quí vị đang ăn trong bữa trưa nay”- tôi thường nửa đùa nửa thật nói với họ-“gấp đôi số thịt mà tôi được ăn trong cả tháng, cho nên đừng giận dữ khi chúng tôi bắt buộc phải tìm cách để tồn tại”. Phần lớn các bạn có lẽ còn nhớ câu nói quen thuộc của thời đó “nhà văn-nhà báo-nhà giáo= nhà nghèo”


Chính vì hiểu được lý do bắt nguồn của văn hóa đó, nên trong một thời gian dài, tôi không cảm thấy có vấn đề gì khi trong các cuộc họp báo, các phóng viên nhận một phong bì với một số tiền nhỏ. Chúng tôi coi số tiền nhỏ đó là số tiền bù cho chi phí xăng xe đi lại của phóng viên, những thứ chúng tôi biết tòa soạn sẽ không bao giờ hoàn trả ngược lại cho họ. Dù có nhận phong bì đó, phóng viên cũng không có bất cứ một trách nhiệm nào về nội dung bài viết, về thái độ trong cuộc họp báo…vv.


Điều đáng tiếc là, cùng với thời gian, văn hóa phong bì đã bị biến tướng bới một số công ty quan hệ công chúng hay một số khách hàng coi việc “mua bài” của phóng viên là công việc chính của chuyên gia quan hệ công chúng. Các phóng viên đã tức giận kể cho tôi nghe, trong buổi họp báo của một công ty kinh doanh bất động sản, người phát ngôn của công ty đã viết lên bảng số fax của công ty mình và bảng giá của các bài viết- hỡi các phóng viên, hãy fax bài viết của bạn tới cho chúng tôi và chúng tôi sẽ trả tiền cho các bạn dựa vào nội dung ca ngợi của bài viết! Chúng tôi sẽ đếm chữ để trả tiền, các bạn hãy cố gắng lên! Cho dù làm các nhà báo chân chính tức giận, không thể thừa nhận rằng có một số nhà báo đã bị ảnh hưởng, và “phong bì” trở thành nguồn thu nhập chính của họ, đặc biệt là khi tờ báo không đủ sức nuôi sống họ. Cho nên, chúng tôi đã gặp cả hai trường hợp, khi thì có phóng viên kiên quyết không nhận phong bì có số tiền nhỏ kia, lúc lại có phóng viên thẳng thừng hỏi sao không trả tiền cho họ “kiếm chút cháo” khi mà chúng tôi đã lấy tiền từ khách hàng để “có cơm ăn”.


Theo Nguyễn Thanh Sơn - Giám đốc Điều hành T&A Ogilvy