" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Tư, 2 tháng 11, 2016
Du Học Hiếp Dâm và Hiếp Dâm Du Học
Du Học Hiếp Dâm và Hiếp Dâm Du Học
Điều Nghiêm Trọng Luôn Bị Dấu Diếm
Phụ Huynh Có Con Em Du Học Âu Mỹ Nhất Thiết Phải Biết
Hoàng Hữu Phước, MIB
A) Giải Thích Qua Dẫn Chứng Landen Gambill
Năm 2013 nữ sinh viên năm thứ hai Landen Gambill lẽ ra bị đuổi khỏi trường Đại Học North Carolina UNC, Bang North Carolina, Hoa Kỳ, nếu đã không có bùng phát cơn sóng căm phẫn rầm rộ ủng hộ cô. Landen bị cưỡng hiếp ngay tại Làng Đại Học Chapel Hill của UNC và bị hội đồng kỹ luật trường UNC thông qua Luật Sư Trưởng của trường kết tội cô vi phạm điều I.C.1.c. của bộ Quy Tắc Bảo Toàn Danh Dự Honor Code mà hình phạt truyền thống duy nhất là đuổi học. Honor Code ấy được mặc định đã được đọc, đã được hiểu nội dung, đã được xem như biết rõ hình phạt duy nhất là gì cũng như cam đoan hình phạt ấy là tuyệt đối đúng đắn bất khả tranh cãi và bất khả kiện tụng, bởi sinh viên khi đặt bút ký tên ghi danh theo học tại trường.
Landen bị hiếp dâm, nhưng danh dự cô được bảo toàn nếu cô không tố cáo ai,và do đó, sự hiếp dâm chẳng gây tai hại cho bất kỳ ai, kể cả cô cũng không phải là nạn nhân cho sự hiếp dâm do cô không phải chịu đựng gì cả vì tất cả là bí mật nghĩa là chẳng ai biết cô đã bị hiếp dâm (nên cô chẳng sợ bị soi mói, bị bươi móc bởi truyền thông, bị thương hại, bị khó khăn trong lập gia đình, v.v.).
Landen sẽ là nạn nhân hiếp dâm, chỉ khi kẻ hay những kẻ hiếp dâm cô – hoặc kẻ hay những kẻ chứng kiến cuộc hiếp dâm – loan truyền tin về cuộc hiếp dâm ấy, và đương nhiên kẻ hiếp dâm cô (và kẻ loan truyền) sẽ bị kết tội vi phạm Quy Tắc Bảo Toàn Danh Dự của trường và đối diện với khả năng bị đuổi học – chứ không phải vi phạm luật pháp hình sự quốc gia!
Landen sẽ bị đuổi học nếu tố cáo kẻ hay những kẻ hiếp dâm cô, vì Quy Tắc Bảo Toàn Danh Dự không cho phép cô làm phương hại đến “danh dự” và “tiền đồ” của sinh viên trong trường, nhất là làm phương hại đến “danh dự” trường như một nơi của hiếp dâm, kém an toàn cho nữ sinh, và là ổ sản sinh “tội phạm tiềm năng” của quốc gia.
Giải thích cho đơn giản hơn: kẻ hay những kẻ hiếp dâm cô chỉ có tội nếu loan tin cô bị chúng hiếp dâm và nếu phát tán hình ảnh cuộc hiếp dâm ấy, vì như vậy sẽ làm tên cô bị tiết lộ, xâm hại đến “danh dự” của cô, vì… “danh” có nghĩa là “tên”, chứ Âu Mỹ hoàn toàn không có khái niệm về “trinh tiết”.
Giải thích cho đơn giản hơn: khi tố cáo kẻ hay những kẻ hiếp dâm cô, Landen đã làm cho cả trường – và cộng đồng dân cư quanh Làng Đại Học – biết “tên” của chúng, tức xâm hại đến “danh” dự của chúng, khiến chúng có nguy cơ bị tẩy chay trong cộng đồng (khó tiếp cận phụ nữ khác – tức “con mồi’ khác), trong đời sống (khó lập gia đình), và trong sự nghiệp (khó kiếm việc), mà nếu sinh viên bị mang “danh” như thế sẽ làm “danh” dự của trường bị giảm sút khi tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp kiếm được việc làm không cao hơn năm trước đó, khiến không hấp dẫn người theo học “ùn ùn” ở các niên khóa sau đó, nhất là không hấp dẫn được sinh viên cực kỳ hấp dẫn về khả năng tài chính đến từ Châu Á trong đó có Việt Nam.
Cái honor code quái gỡ tồn tại nhiều trăm năm một cách đầy vinh diệu tại tất cả các trường đại học Hoa Kỳ ấy cuối cùng đã bị thách đố bởi một nữ sinh của chính Hoa Kỳ là cô Landen Gambill, mà sự dũng cảm của cô đã dấy nên phong trào đầy giận dữ của xã hội Hoa Kỳ: “Hãy Sát Cánh Cùng Landen” (Stand With Landen)
B) Văn Hóa Hiếp Dâm
Hiếp dâm là một thứ “văn hóa” ở các trường đại học Hoa Kỳ.
1- Văn hóa hiếp dâm đến từ xã hội Hoa Kỳ
Như một vấn nạn lịch sử, điều oái oăm là nữ quyền chỉ được chính thức xem trọng – ít ra là qua các tuyên bố chính thống và trên bình diện luật pháp – tại Hoa Kỳ qua Tu Chính Án Thứ 19 được phê chuẩn ngày 18-8-1920 cho phép nữ công dân được quyền bỏ phiếu, nghĩa là trong suốt 144 năm kể từ ngày lập quốc (04-7-1776) thì phụ nữ Hoa Kỳ hoàn toàn không được hưởng các quyền lợi như nam giới, kể cả quyền bỏ phiếu bầu cử. Lý do của sự đàn áp bức chế phụ nữ gồm:
a- Nam giới da trắng e sợ đánh mất quyền lực dù đó là quyền lực tình dục hay quyền lực chính trị, nên đã sử dụng đặc quyền làm các nhà lập pháp, các thẩm phán, các bồi thẩm đoàn, các nhà báo, các chủ nhân tòa soạn báo chí, các y sĩ và học giả, để đề ra những gì bảo vệ đặc lợi của họ, tác động đến xã hội quan tâm đến việc duy trì quyền lợi chung và hy sinh quyền lợi của dân da màu cùng phụ nữ, thậm chí cho phép quan hệ đồng giới giữa đàn ông da trắng với nhau dù đồng thuận hay cưỡng bức, trong khi lại hành hình những người da màu quan hệ đồng tính.
b- Cũng để duy trì quyền lực tình dục, nam giới da trắng Hoa Kỳ phác họa phụ nữ và trẻ em nam nữ như chủng loài không đáng tin cậy, dâm dục tạp nham. Thậm chí họ sử dụng sự vào cuộc của “giới trí thức” để khẳng định lập luận phụ nữ không xứng đáng có quyền lợi và chẳng bị hiếp dâm bao giờ, chẳng hạn “Tiến sĩ” Edmund Arnold năm 1862 đã khẳng định trước tòa án Hoa Kỳ rằng phụ nữ không bao giờ có thai nếu bị hiếp dâm, thậm chí đến năm 1913 của Thế Kỷ XX mà “Tiến sĩ” Gurney Williams còn cho rằng chỉ cần “chống cự” bằng cách khép chân lại thì phụ nữ đã không thể có thai, mà khi đã có thai nghĩa là đã có sự đồng tình hoặc cố tình dụ dỗ các “quý ngài”, nghĩa là các tố cáo bị các “quý ông” hiếp dâm nên có thai là sự vu cáo nhất thiết phải bị trừng trị.
c- Do đó, trong rất nhiều năm, luật pháp Hoa Kỳ ở nhiều tiểu bang tồn tại điều luật rằng phụ nữ da màu về luật pháp không bị xem như bị hiếp dâm, khiến ngay tại nơi công cộng giữa thanh thiên bạch nhật phụ nữ da màu có thể bị đàn ông da trắng hiếp dâm công khai, và trong ngần ấy năm dài chỉ có tội hiếp dâm nếu người da đen dở trò với phụ nữ da trắng (gọi là The Negro Crime) dẫn đến việc đàn ông da trắng có quyền xúm lại hành hình treo cổ người da đen tại chỗ không cần xét xử (gọi là lynching).
Định kiến thâm căn cố đế nhiều trăm năm đã tạo nên một thứ văn hóa hiếp dâm, mà tiến bộ của nhân loại nhiều lắm cũng chỉ dẫn đến những thực tế buồn cười như vụ Honor Code của trường UNC đã nếu ở đầu bài viết này, hay vụ nam sinh viên Brock Allen Turner của Đại học Stanford lừng danh. Năm 2016 này, Brock bị hai nam sinh viên khác tình cờ bắt quả tang đang hãm hiếp một nữ sinh đang nằm bất động trong bụi rậm và bị hai sinh viên này bắt giao cho cảnh sát. Do hãm hiếp một người bất động – do bị đánh ngất hoặc do bị chuốc rượu hay thuốc – nặng tội hơn đối với nạn nhân còn cử động và không bị đánh đập, Brock bị công tố luận tội 6 năm tù giam, để rồi bị kết án 6 tháng tù,và cuối cùng là được thả sau 3 tháng, với lý do 20 năm sống tốt không thể vì 20 phút lỗi lầm mà gây hại cho tiền đồ một thanh niên. Nghĩa là: không bao giờ sự thiệt hại của một nữ sinh viên dù bị hiếp dâm sau khi bị đánh cho bầm dập ngất xỉu lại được xem như tình tiết để xử nặng tội kẻ hiếp dâm. Chưa kể luật pháp Hoa Kỳ còn quy định rằng nếu người bị hiếp dâm có thai rồi sinh con thì người hiếp dâm có toàn quyền đòi nuôi con hoặc đến thăm con bất kỳ lúc nào, với lý do ngộ nghĩnh rằng phụ nữ nếu bị hiếp dâm thì chẳng ai chịu sinh con là kết quả của vụ hiếp dâm ấy, trừ phi có tình ý với người hiếp dâm mình, mà như thế đã mặc nhiên thừa nhận cái gọi là “quyền làm cha” của người hiếp dâm vốn được luật pháp bảo vệ với “sự khoan dung đầy tính nhân văn”.
Tóm lại, điều cần lưu ý khi “hòa nhập” vào xã hội Hoa Kỳ là: mỗi khi trở thành nạn nhân của hiếp dâm, người nữ nói chung và nữ sinh viên nói riêng sẽ phải đối mặt với việc chính mình bị chụp các chiếc mũ như:
– tại đã ăn mặc gợi dục
– tại đã có dùng bia rượu trước đó nên đã không tự kềm chế
– tại đã có hành vi nào đó gây hiểu lầm là mời gọi hoặc chấp thuận
– tại xã hội có bài bản dạy phụ nữ cách để không bị hiếp dâm mà phụ nữ không thuộc bài (không hề có bài bản dạy người nam không hiếp dâm)
– tại không học hỏi từ báo chí truyền thông vốn luôn than tiếc cho sự đe dọa sự nghiệp một ngôi sao bóng rổ vì hiếp dâm chứ không bao giờ đề cập gì đến các cô gái nạn nhân của ngôi sao ấy
– tại không cẩn thận để bị quay phim chụp hình tung lên mạng nên nếu tự tử thì đó là do tự gây ra
– và tại không biết thân biết phận vì luật pháp 31 tiểu bang của Hoa Kỳ cho phép kẻ hiếp dâm có quyền đòi nuôi con hoặc quyền thăm con, đồng nghĩa với việc hiếp dâm là đặc quyền của nam giới nên chẳng bao giờ là trọng tội nếu không đi kèm với việc sát hại người bị hiếp dâm.
2- Văn hóa hiếp dâm trở thành chuẫn mực ở đại học Hoa Kỳ
Như vậy, văn hóa hiếp dâm đã trở thành một thứ lễ nghi, tập tục, ăn sâu vào chốn đại học, nơi từ xa xưa chỉ dành cho nam giới. Sự tồn tại của những hội đoàn nam sinh viên mang tên College Fraternities được cho là còn lưu truyền những tục lệ mà theo đó các thành viên mới gia nhập phải “chứng tỏ mình” bằng cách thực hiện nghi thức gia nhập bằng cách lừa một nữ sinh viên mà họ “chấm” tại một buổi tiệc rồi dụ ra một nơi mà các thành viên khác có thể cùng chứng kiến để thực hiện việc hiếp dâm – chẳng khác nào để họ được xem một phim khiêu dâm “sống” – để ghi nhận “sự xứng đáng” của người mới gia nhập. Và cái gọi là Campus Rape tức hiếp dâm tại trường đại học trở thành một vấn nạn trầm kha ở Hoa Kỳ.
C) Hiện Trạng Campus Rape Ở Hoa Kỳ
Vụ việc của nữ sinh viên Landen Gambill không là điều cá biệt chỉ ở Đại Học North Carolina (UNC). Hiếp dâm tại các “làng đại học” (tức Rape on Campus hoặc Campus Rape) là vấn nạn chung ở nước Mỹ.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ năm 2010 ước định rằng 25% nữ sinh viên là nạn nhân của các vụ hiếp dâm trước khi tốt nghiệp sau 4 năm đại học, và rằng trường đại học nào có từ 6.000 sinh viên trở lên thì trung bình mỗi ngày có một vụ hiếp dâm và xảy ra đều đặn trong suốt năm học.
Trong bản báo cáo của Đại Học New York mang tựa đề Số Liệu Thống Kê Quốc Gia Về Bạo Hành Tình Dục Tại Các Làng Đại Học (National Statistics about Sexual Violence on College Campuses) thì chỉ có dưới 5% các vụ hiếp dâm được thưa ra các cơ quan thực thi pháp luật mà thôi – nghĩa là con số thực tế có thể cao hơn rất nhiều so với con số do Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ nêu lên.
Tổng hợp từ tài liệu trên, ta có các số liệu như sau về những nạn nhân hiếp dâm :
– Cứ 4 nữ sinh viên cáo buộc bị hiếp dâm thì có 1 người mà báo cáo về những gì đã trải qua của người đó đáp ứng đúng các định nghĩa của luật pháp về hiếp dâm.
– Cứ 5 nữ sinh viên thì có 1 người bị hiếp dâm trong thời gian học ở đại học.
– Hầu hết những nữ sinh viên bị hiếp dâm là sinh viên nội trú, và khoảng 1/3 trong số họ là sinh viên năm thứ nhất ở lứa tuổi 17 – 19.
– Điều nghiên thực hiện ở 412 trường đại học cho thấy 5,4% nam sinh viên và 11,7% nam sinh viên đồng tính hay lưỡng tính bị cưỡng bức.
– Điều nghiên thực hiện ở 412 trường đại học cho thấy 30.6% nữ sinh viên đồng tính hay lưỡng tính bị cưỡng bức.
– 81% nữ sinh viên bị chính bạn tình cũ hoặc bạn tình hiện thời cưỡng dâm.
– 80% đến 90% được thực hiện bỡi người mà nạn nhân có quen biết.
Còn theo nghiên cứu của Học Viện Tư Pháp Quốc Gia Hoa Kỳ thì thủ phạm hiếp dâm:
– 35.5% là bạn học chung lớp của nạn nhân
– 34.2% là bạn học chung trường
– 23.7% là bạn tình hoặc bạn tình cũ
– 2.6% là người quen
– 35% nam sinh viên cho biết sẵn sàng hiếp dâm nếu biết chắc chắn sẽ không bị bắt hay bị trừng phạt.
– 81% vụ hiếp dâm trong làng đại học và 84% vụ hiếp dâm do sinh viên thực hiện bên ngoài khuôn viên làng đại học đã không được trình báo cảnh sát.
– Gần 60% vụ hiếp dâm được thực hiện bên trong nơi cư trú của nạn nhân.
– 52% vụ hiếp dâm có trình báo xảy ra sau 12 giờ đêm, và 37% xảy ra giữa 6 giờ chiều và 12 giờ đêm.
– Điều tra thực hiện tại 171 học viện và đại học cho thấy 74% vụ hiếp dâm xảy ra do say rượu. Trong năm 2000 Hoa Kỳ đã có hơn 70.000 sinh viên từ 18 đến 24 tuổi trở thành nạn nhân của hiếp dâm có liên quan đến rượu.
– Hơn 50% vụ hiếp dâm xảy ra vào các tháng 8, 9, 10, và 11.
– Sinh viên gặp rủi ro nhiều hơn trong những tháng đầu học kỳ 1 và 2 tức trong năm thứ nhất.
Các loại hình hiếp dâm bao gồm – nhưng không chỉ giới hạn bởi – hiếp dâm tập thể, hiếp dâm lúc hò hẹn, hiếp dâm vì lợi dụng sự quen biết.
Trên đây là vài con số của riêng Hoa Kỳ. Các số liệu khác đối với các vụ hiếp dâm xảy ra tại các làng đại học ở các nước Âu Tây có thể dễ dàng tìm thấy trên internet.
Tình hình trên cho thấy sự bất ổn về an toàn cho nữ sinh viên tại các trường đại học Mỹ, dẫn đến việc các trường đại học Mỹ đều có chương trình nhập môn gọi một cách mỹ miều là Campus Clarity (dịch nghĩa từng chữ: những điều cần biết rõ về sinh hoạt trong làng đại học; nghĩa bóng: những điều cần biết để bảo đảm an toàn nhất, sức khỏe tốt nhất, để theo đuổi thành công mục tiêu học tập hàn lâm và ước mơ tại trường, bằng cách…hãy lưu tâm đến sự thật là…có 1/5 nữ sinh viên bị hiếp dâm trong thời gian học đại học bởi người mà họ quen biết, đặc biệt là bạn học, vì vậy sinh viên cần lưu ý đến việc nhậu nhẹt và đến…bạn học!)
D) Tư Vấn Của Tannhauser Beowulf Thor
Những lời khuyên sau đây của chuyên gia Giao Thoa Văn Hóa (Cross Culture) Tannhauser Beowulf Thor đặc biệt thích hợp cho các du học sinh đến Mỹ từ những quốc gia “mới phất” (newly surging economies) của Châu Á trong đó đặc biệt là Việt Nam do Việt Nam có 5 “yếu điểm” – theo chuẩn mực văn minh Mỹ – mà các nước Châu Á khác không còn như (a) Việt Nam là nước cuối cùng có du học sinh đến Mỹ du học nên kinh nghiệm về văn hóa Mỹ chưa dồi dào đầy đủ; (b) phụ huynh học sinh và học sinh Việt Nam hoàn toàn không quan tâm và/hoặc không biết và/hoặc không được cung cấp thông tin về những thực tế của môi trường đại học Mỹ; (c) Việt Nam là nước Châu Á duy nhất còn sự tồn tại của truyền thống Á Đông đối với gắn bó gia đình; (d) Việt Nam là nước Châu Á duy nhất còn sự tồn tại của truyền thống Á Đông đối với phạm trù mang tên “đức hạnh” và “tiết hạnh” hay “trinh tiết” phụ nữ vốn đã hoàn toàn biến mất ở Châu Á; và (e) học sinh Việt Nam yếu về bản lĩnh, rất thiếu hiểu biết, dễ bị lôi kéo do tâm lý thần phục choáng ngợp trước cường quốc Hoa Kỳ, và kém khả năng phòng vệ:
1) Nếu được tiếp cận bởi “công ty dịch vụ du học” và quan tâm đến một trường đại học cụ thể ở Âu Mỹ, hãy yêu cầu cung cấp thông tin bằng văn bản về cái gọi là “honor code” của trường ấy, và kiểm tra độ chính xác của thông tin với thông tin trên trang web của trường ấy.
2) Nếu quan tâm đến một trường đại học cụ thể ở Âu Mỹ, trước khi tiến hành xin học bổng hoặc đăng ký học tự túc, hãy yêu cầu trường ấy cung cấp thông tin bằng văn bản về cái gọi là “honor code” của trường, kiểm tra độ chính xác của thông tin với thông tin trên trang web của họ, đồng thời kiếm tìm thông tin trên mạng về các vụ việc nổi cộm có liên quan đến “campus rape assaults” tại trường ấy để hiểu rõ nhất về sự danh tiếng cùng sự khét tiếng của nó.
3) Phụ huynh phải “công tác tư tưởng” với con em mình biết (hoặc học sinh nếu cho rằng mình đã đủ trưởng thành, đủ khôn ngoan, đủ bản lĩnh, tự biết) rằng:
a- Nam sinh và nữ sinh Việt Nam: chỉ tham gia các buổi tiệc buổi tối quy mô “toàn trường” do trường tổ chức với sự tham gia của ban giám hiệu và thầy cô, vì mức độ an toàn cao hơn;
b- Nam sinh và nữ sinh Việt Nam: không tham gia các buổi tiệc buổi tối quy mô “tại gia” của một sinh viên nào đó tổ chức (thường là sinh viên “giàu có” ở địa phương), vì sự thác loạn không hề thiếu vắng;
c- Nam sinh và nữ sinh Việt Nam: không tham gia các buổi họp mặt riêng buổi tối tại địa điểm mật nào đó vì rất có thể sẽ trở thành nạn nhân của một vụ tế thần (do Mỹ có các giáo phái tà đạo thờ Quỷ Satan), hoặc bị sát hại khi đi chơi riêng rồi mất tích không thể tìm thấy xác, như vụ của nữ sinh viên Lauren Spierer (Đại học Indiana), nữ sinh viên Denise Lynette Hart (Đại học Connecticut), nữ sinh viên Hannah Graham (Đại học Virginia), nữ sinh viên Phoenix Coldron (Đại học Missouri-St. Louis); nữ sinh viên Anarae Schunk (Đại học Minnesota), nữ sinh viên Michaela Shunick (Đại học Louisiana), nam sinh viên Max Maisel (Đại học Công nghệ Rochester New York), nam sinh viên Brogan Dulle (Đại học Cincinnati), nam sinh viên Shane Montgomery (Đại học Pennsylvania), nam sinh viên Hye Min Choi (Đại học Illinois), nam sinh viên Jonathan Zygmont (Đại học New Hampshire), và rất nhiều những vụ mất tích khác;
d- Nam sinh Việt Nam: từ chối tham gia các họp mặt vầy đoàn của “nhóm bạn nam” để đừng bị “gang rape” tức bị hiếp dâm tập thể đồng giới, hoặc vướng vào “gang rape” tức cùng tham gia hiếp dâm tập thể một nam sinh khác hoặc một nữ sinh, hoặc trở thành đồng lõa tiêu cực (tức không tham gia hiếp dâm nhưng bị buộc phải chứng kiến để rồi phải ra sức bảo vệ nhóm hiếp dâm bằng mọi giá, do không muốn chuyện bại lộ sẽ khiến mình phạm tội nặng hơn kẻ hiếp dâm do các tội đồng lõa, bỏ mặc nạn nhân, và không tố giác tội phạm);
e- Nữ sinh Việt Nam: từ chối tham gia các họp mặt vầy đoàn của “nhóm bạn nữ” để đừng bị “gang rape” tức bị hiếp dâm tập thể đồng giới, hoặc bị nhóm bạn nữ ấy cho vào tròng để các nam sinh bạn thực hiện “gang rape” mình tức để mình cũng bị cái mà các nữ sinh ấy trước đây đã từng bị như thế;
f- Nữ sinh Việt Nam: cảnh giác cao độ và có biện pháp phòng thủ (như khóa cửa, gọi điện cho các bạn nữ khác, v.v.) khi bạn nữ ở cùng phòng trong khu đại học kiếm cớ đi vắng buổi tối (đa số các trường hợp là do có nhóm nam sinh viên yêu cầu người đó đi ra ngoài để họ vào thực hiện hiếp dâm không có nhân chứng).
g- Nam sinh và Nữ sinh Việt Nam: đừng bao giờ dùng bia rượu tại các “buổi họp mặt”. Nói chung là nên sống biệt lập, trừ những giờ nghiên cứu theo tổ nhóm, và đừng bao giờ khờ khạo cho rằng phải thể hiện sự hòa nhập bằng cách “sống như Mỹ” khi ở Mỹ.
h- Nam sinh và Nữ sinh Việt Nam: hãy quan tâm đến nội dung hướng dẫn về phòng chống hiếp dâm luôn sẵn có trên trang web chính thức của các trường đại học Mỹ, để nhận thức một điều hiển nhiên rằng hiếp dâm quả thực là vấn nạn phải đối phó, không thể lơ là.
E) Nhận Xét Của Hoàng Hữu Phước
Dựa vào các tư vấn trên của Ông Tannhauser Beowulf Thor, có thể cho rằng nếu như dân Châu Á đa số sang Âu Mỹ du học để phục vụ sự nghiệp chuyên môn, còn dân Việt Nam đa số sang Mỹ du học (a) để có bằng cấp Mỹ, (b) vì cha mẹ giàu sang cho con du học theo thời thượng “chứng tỏ năng lực tài chính”, (c) do cha mẹ giàu sang cho con du học theo thời thượng “tìm cách định cư tại Mỹ”, và (d) bởi cha mẹ giàu sang cho con du học theo thời thượng “trẻ măng làm chủ tịch tập đoàn tài chính” ở Việt Nam một cách đột nhiên như trên trời rơi xuống,
thì hơn ai hết du học sinh Việt Nam cần khắc cốt ghi tâm ba điều cực kỳ đơn giản sau:
1- Nếu muốn khoe bằng cấp Mỹ, muốn lấy le về năng lực tài chính của mẹ cha, muốn định cư tại Mỹ, muốn thừa kế gia sản mẹ cha để làm chủ tịch tập đoàn ở Việt Nam thì phải còn sống, nghĩa là phải cẩn trọng, học thuộc lòng tất cả các nội dung cảnh báo trên trước khi bước chân qua Mỹ du học; và
2- Nếu muốn không bị sử dụng làm công cụ chống đối Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam để rồi bổng dưng trở thành “tù nhân lương tâm” hay “nhà đấu tranh dân chủ” đột biến, thì phải tuyệt đối cẩn trọng với tất cả các nội dung cảnh báo trên trước khi bước chân qua Mỹ du học, vì rằng rất có thể khi bị hiếp dâm hoặc đồng giới hoặc khác giới thì những phim ảnh được chụp quay lại sẽ được dùng làm vũ khí khống chế khiến người đi du học khi trở về nước sẽ phải hoạt động chống phá Việt Nam theo lịnh của tổ chức nào đó bên Mỹ nếu không muốn bị công khai bằng chứng phim ảnh bản thân đã bị hiếp dâm, đã tham gia hiếp dâm, hoặc đã đồng lõa tham gia nghi lễ tà đạo giết người tế thần, v.v.
3- Tại Mỹ, khuôn viên đại học là một trong những nơi nguy hiểm nhất đối với phụ nữ (xem mục tham khảo bên dưới).
Việc học – dù ở trong nước hay ở ngoài nước – là dành cho người khôn ngoan tài giỏi lanh lợi cẩn trọng hiểu biết khát khao trí tuệ, chứ nào phải dành cho những kẻ thơ ngây khờ khạo cứ tưởng gần đèn thì tự động sáng (mà không biết rằng mình phải bật đèn, rằng đèn ấy là đèn dầu hay đèn pha, rằng bão lụt thì phải cúp điện, và rằng dù đèn gì thì sau lưng hoặc trong đũng quần mình vẫn luôn tối), cứ tưởng hiện diện trong trường đại học Mỹ thì tự động giỏi, và cứ tưởng đứng chụp hình bên trong tòa nhà Liên Hợp Quốc hay choàng vai bá cổ Barack Obama là tự động lòa chói hào quang vinh diệu đời đời.
Việc học – dù ở trong nước hay ở ngoài nước – đều đòi hỏi những nỗ lực ghê gớm tự thân mà không phải lúc nào cũng thành công, nói chi đến “thành công vượt bậc”, vì rằng không bao giờ có cái mặc định rằng hữu chí sẽ cánh thành, rằng bật tất cả các que diêm trong hộp diêm quẹt thế nào cũng có que bùng cháy, rằng “với sức người sỏi đá cũng thành cơm”.
Sự nỗ lực đi kèm với sự cẩn trọng mới có thể tạo ra sự yên tâm nào đó khả dĩ dọn đường cho một thành công chưa hẳn lớn.
Đã không nỗ lực lại chẳng cẩn trọng mà vẫn thành công thành công đại thành công thì đó chẳng qua là minh chứng rằng tạo hóa cũng có lúc thích trêu ngươi và con tạo cũng bị ô nhiễm hài hóa hí hước diễu hề kiểu game show Việt vậy.
Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế
Tài liệu tham khảo:
Barbara Booth. 2015. One of the most dangerous places for women in America (Một Trong Những Nơi Nguy Hiểm Nhất Đối Với Phụ Nữ Tại Hoa Kỳ).http://www.cnbc.com/2015/09/22/college-rape-crisis-in-america-under-fire.html
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ. 2000. The Sexual Victimization of College Women (Biến Các Nữ Sinh Viên Thành Nạn Nhân Tình Dục).https://www.ncjrs.gov/pdffiles1/nij/182369.pdf
Đại Học California. Campus Clarity. http://www.calstatela.edu/campusclarity
Đại Học New York. National Statistics about Sexual Violence on College Campuses (Số Liệu Thống Kê Quốc Gia Về Bạo Lực Tình Dục Tại Các Làng Đại Học).http://www.nyu.edu/shc/promotion/svstat.html.
Đại Học New York. Sexual Assault Prevention and Response (Hướng Dẫn Cách Phòng Chống Tấn Công Tình Dục). http://www.nyu.edu/students/health-and-wellness/wellness-exchange/sexual-assault-prevention-and-response.html
Mạng Quốc Gia Về Hiếp Dâm, Lạm Dụng, Và Loạn Luân RAINN. Campus Sexual Violence: Statistics (Số Liệu Thống Kê Về Bạo Lực Tình Dục Tại Các Làng Đại Học). https://www.rainn.org/statistics/campus-sexual-violence
Nick Anderson. 2016. These Colleges Have The Most Reports Of Rape (Danh Sách Những Đại Học Có Nhiều Ca Hiếp Dâm).https://www.washingtonpost.com/news/grade-point/wp/2016/06/07/these-colleges-have-the-most-reports-of-rape/
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét