Thứ Tư, 2 tháng 11, 2016

Du Học Hiếp Dâm và Hiếp Dâm Du Học


Du Học Hiếp Dâm và Hiếp Dâm Du Học


Điều Nghiêm Trọng Luôn Bị Dấu Diếm

Phụ Huynh Có Con Em Du Học Âu Mỹ Nhất Thiết Phải Biết

Hoàng Hữu Phước, MIB




A) Giải Thích Qua Dẫn Chứng Landen Gambill

Năm 2013 nữ sinh viên năm thứ hai Landen Gambill lẽ ra bị đuổi khỏi trường Đại Học North Carolina UNC, Bang North Carolina, Hoa Kỳ, nếu đã không có bùng phát cơn sóng căm phẫn rầm rộ ủng hộ cô. Landen bị cưỡng hiếp ngay tại Làng Đại Học Chapel Hill của UNC và bị hội đồng kỹ luật trường UNC thông qua Luật Sư Trưởng của trường kết tội cô vi phạm điều I.C.1.c. của bộ Quy Tắc Bảo Toàn Danh Dự Honor Code mà hình phạt truyền thống duy nhất là đuổi học. Honor Code ấy được mặc định đã được đọc, đã được hiểu nội dung, đã được xem như biết rõ hình phạt duy nhất là gì cũng như cam đoan hình phạt ấy là tuyệt đối đúng đắn bất khả tranh cãi và bất khả kiện tụng, bởi sinh viên khi đặt bút ký tên ghi danh theo học tại trường.



Landen bị hiếp dâm, nhưng danh dự cô được bảo toàn nếu cô không tố cáo ai,và do đó, sự hiếp dâm chẳng gây tai hại cho bất kỳ ai, kể cả cô cũng không phải là nạn nhân cho sự hiếp dâm do cô không phải chịu đựng gì cả vì tất cả là bí mật nghĩa là chẳng ai biết cô đã bị hiếp dâm (nên cô chẳng sợ bị soi mói, bị bươi móc bởi truyền thông, bị thương hại, bị khó khăn trong lập gia đình, v.v.).

Landen sẽ là nạn nhân hiếp dâm, chỉ khi kẻ hay những kẻ hiếp dâm cô – hoặc kẻ hay những kẻ chứng kiến cuộc hiếp dâm – loan truyền tin về cuộc hiếp dâm ấy, và đương nhiên kẻ hiếp dâm cô (và kẻ loan truyền) sẽ bị kết tội vi phạm Quy Tắc Bảo Toàn Danh Dự của trường và đối diện với khả năng bị đuổi học – chứ không phải vi phạm luật pháp hình sự quốc gia!

Landen sẽ bị đuổi học nếu tố cáo kẻ hay những kẻ hiếp dâm cô, vì Quy Tắc Bảo Toàn Danh Dự không cho phép cô làm phương hại đến “danh dự” và “tiền đồ” của sinh viên trong trường, nhất là làm phương hại đến “danh dự” trường như một nơi của hiếp dâm, kém an toàn cho nữ sinh, và là ổ sản sinh “tội phạm tiềm năng” của quốc gia.

Giải thích cho đơn giản hơn: kẻ hay những kẻ hiếp dâm cô chỉ có tội nếu loan tin cô bị chúng hiếp dâm và nếu phát tán hình ảnh cuộc hiếp dâm ấy, vì như vậy sẽ làm tên cô bị tiết lộ, xâm hại đến “danh dự” của cô, vì… “danh” có nghĩa là “tên”, chứ Âu Mỹ hoàn toàn không có khái niệm về “trinh tiết”.

Giải thích cho đơn giản hơn: khi tố cáo kẻ hay những kẻ hiếp dâm cô, Landen đã làm cho cả trường – và cộng đồng dân cư quanh Làng Đại Học – biết “tên” của chúng, tức xâm hại đến “danh” dự của chúng, khiến chúng có nguy cơ bị tẩy chay trong cộng đồng (khó tiếp cận phụ nữ khác – tức “con mồi’ khác), trong đời sống (khó lập gia đình), và trong sự nghiệp (khó kiếm việc), mà nếu sinh viên bị mang “danh” như thế sẽ làm “danh” dự của trường bị giảm sút khi tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp kiếm được việc làm không cao hơn năm trước đó, khiến không hấp dẫn người theo học “ùn ùn” ở các niên khóa sau đó, nhất là không hấp dẫn được sinh viên cực kỳ hấp dẫn về khả năng tài chính đến từ Châu Á trong đó có Việt Nam.

Cái honor code quái gỡ tồn tại nhiều trăm năm một cách đầy vinh diệu tại tất cả các trường đại học Hoa Kỳ ấy cuối cùng đã bị thách đố bởi một nữ sinh của chính Hoa Kỳ là cô Landen Gambill, mà sự dũng cảm của cô đã dấy nên phong trào đầy giận dữ của xã hội Hoa Kỳ: “Hãy Sát Cánh Cùng Landen” (Stand With Landen)



B) Văn Hóa Hiếp Dâm

Hiếp dâm là một thứ “văn hóa” ở các trường đại học Hoa Kỳ.

1- Văn hóa hiếp dâm đến từ xã hội Hoa Kỳ

Như một vấn nạn lịch sử, điều oái oăm là nữ quyền chỉ được chính thức xem trọng – ít ra là qua các tuyên bố chính thống và trên bình diện luật pháp – tại Hoa Kỳ qua Tu Chính Án Thứ 19 được phê chuẩn ngày 18-8-1920 cho phép nữ công dân được quyền bỏ phiếu, nghĩa là trong suốt 144 năm kể từ ngày lập quốc (04-7-1776) thì phụ nữ Hoa Kỳ hoàn toàn không được hưởng các quyền lợi như nam giới, kể cả quyền bỏ phiếu bầu cử. Lý do của sự đàn áp bức chế phụ nữ gồm:

a- Nam giới da trắng e sợ đánh mất quyền lực dù đó là quyền lực tình dục hay quyền lực chính trị, nên đã sử dụng đặc quyền làm các nhà lập pháp, các thẩm phán, các bồi thẩm đoàn, các nhà báo, các chủ nhân tòa soạn báo chí, các y sĩ và học giả, để đề ra những gì bảo vệ đặc lợi của họ, tác động đến xã hội quan tâm đến việc duy trì quyền lợi chung và hy sinh quyền lợi của dân da màu cùng phụ nữ, thậm chí cho phép quan hệ đồng giới giữa đàn ông da trắng với nhau dù đồng thuận hay cưỡng bức, trong khi lại hành hình những người da màu quan hệ đồng tính.

b- Cũng để duy trì quyền lực tình dục, nam giới da trắng Hoa Kỳ phác họa phụ nữ và trẻ em nam nữ như chủng loài không đáng tin cậy, dâm dục tạp nham. Thậm chí họ sử dụng sự vào cuộc của “giới trí thức” để khẳng định lập luận phụ nữ không xứng đáng có quyền lợi và chẳng bị hiếp dâm bao giờ, chẳng hạn “Tiến sĩ” Edmund Arnold năm 1862 đã khẳng định trước tòa án Hoa Kỳ rằng phụ nữ không bao giờ có thai nếu bị hiếp dâm, thậm chí đến năm 1913 của Thế Kỷ XX mà “Tiến sĩ” Gurney Williams còn cho rằng chỉ cần “chống cự” bằng cách khép chân lại thì phụ nữ đã không thể có thai, mà khi đã có thai nghĩa là đã có sự đồng tình hoặc cố tình dụ dỗ các “quý ngài”, nghĩa là các tố cáo bị các “quý ông” hiếp dâm nên có thai là sự vu cáo nhất thiết phải bị trừng trị.

c- Do đó, trong rất nhiều năm, luật pháp Hoa Kỳ ở nhiều tiểu bang tồn tại điều luật rằng phụ nữ da màu về luật pháp không bị xem như bị hiếp dâm, khiến ngay tại nơi công cộng giữa thanh thiên bạch nhật phụ nữ da màu có thể bị đàn ông da trắng hiếp dâm công khai, và trong ngần ấy năm dài chỉ có tội hiếp dâm nếu người da đen dở trò với phụ nữ da trắng (gọi là The Negro Crime) dẫn đến việc đàn ông da trắng có quyền xúm lại hành hình treo cổ người da đen tại chỗ không cần xét xử (gọi là lynching).

Định kiến thâm căn cố đế nhiều trăm năm đã tạo nên một thứ văn hóa hiếp dâm, mà tiến bộ của nhân loại nhiều lắm cũng chỉ dẫn đến những thực tế buồn cười như vụ Honor Code của trường UNC đã nếu ở đầu bài viết này, hay vụ nam sinh viên Brock Allen Turner của Đại học Stanford lừng danh. Năm 2016 này, Brock bị hai nam sinh viên khác tình cờ bắt quả tang đang hãm hiếp một nữ sinh đang nằm bất động trong bụi rậm và bị hai sinh viên này bắt giao cho cảnh sát. Do hãm hiếp một người bất động – do bị đánh ngất hoặc do bị chuốc rượu hay thuốc – nặng tội hơn đối với nạn nhân còn cử động và không bị đánh đập, Brock bị công tố luận tội 6 năm tù giam, để rồi bị kết án 6 tháng tù,và cuối cùng là được thả sau 3 tháng, với lý do 20 năm sống tốt không thể vì 20 phút lỗi lầm mà gây hại cho tiền đồ một thanh niên. Nghĩa là: không bao giờ sự thiệt hại của một nữ sinh viên dù bị hiếp dâm sau khi bị đánh cho bầm dập ngất xỉu lại được xem như tình tiết để xử nặng tội kẻ hiếp dâm. Chưa kể luật pháp Hoa Kỳ còn quy định rằng nếu người bị hiếp dâm có thai rồi sinh con thì người hiếp dâm có toàn quyền đòi nuôi con hoặc đến thăm con bất kỳ lúc nào, với lý do ngộ nghĩnh rằng phụ nữ nếu bị hiếp dâm thì chẳng ai chịu sinh con là kết quả của vụ hiếp dâm ấy, trừ phi có tình ý với người hiếp dâm mình, mà như thế đã mặc nhiên thừa nhận cái gọi là “quyền làm cha” của người hiếp dâm vốn được luật pháp bảo vệ với “sự khoan dung đầy tính nhân văn”.

Tóm lại, điều cần lưu ý khi “hòa nhập” vào xã hội Hoa Kỳ là: mỗi khi trở thành nạn nhân của hiếp dâm, người nữ nói chung và nữ sinh viên nói riêng sẽ phải đối mặt với việc chính mình bị chụp các chiếc mũ như:

– tại đã ăn mặc gợi dục

– tại đã có dùng bia rượu trước đó nên đã không tự kềm chế

– tại đã có hành vi nào đó gây hiểu lầm là mời gọi hoặc chấp thuận

– tại xã hội có bài bản dạy phụ nữ cách để không bị hiếp dâm mà phụ nữ không thuộc bài (không hề có bài bản dạy người nam không hiếp dâm)

– tại không học hỏi từ báo chí truyền thông vốn luôn than tiếc cho sự đe dọa sự nghiệp một ngôi sao bóng rổ vì hiếp dâm chứ không bao giờ đề cập gì đến các cô gái nạn nhân của ngôi sao ấy

– tại không cẩn thận để bị quay phim chụp hình tung lên mạng nên nếu tự tử thì đó là do tự gây ra

– và tại không biết thân biết phận vì luật pháp 31 tiểu bang của Hoa Kỳ cho phép kẻ hiếp dâm có quyền đòi nuôi con hoặc quyền thăm con, đồng nghĩa với việc hiếp dâm là đặc quyền của nam giới nên chẳng bao giờ là trọng tội nếu không đi kèm với việc sát hại người bị hiếp dâm.

2- Văn hóa hiếp dâm trở thành chuẫn mực ở đại học Hoa Kỳ

Như vậy, văn hóa hiếp dâm đã trở thành một thứ lễ nghi, tập tục, ăn sâu vào chốn đại học, nơi từ xa xưa chỉ dành cho nam giới. Sự tồn tại của những hội đoàn nam sinh viên mang tên College Fraternities được cho là còn lưu truyền những tục lệ mà theo đó các thành viên mới gia nhập phải “chứng tỏ mình” bằng cách thực hiện nghi thức gia nhập bằng cách lừa một nữ sinh viên mà họ “chấm” tại một buổi tiệc rồi dụ ra một nơi mà các thành viên khác có thể cùng chứng kiến để thực hiện việc hiếp dâm – chẳng khác nào để họ được xem một phim khiêu dâm “sống” – để ghi nhận “sự xứng đáng” của người mới gia nhập. Và cái gọi là Campus Rape tức hiếp dâm tại trường đại học trở thành một vấn nạn trầm kha ở Hoa Kỳ.

C) Hiện Trạng Campus Rape Ở Hoa Kỳ

Vụ việc của nữ sinh viên Landen Gambill không là điều cá biệt chỉ ở Đại Học North Carolina (UNC). Hiếp dâm tại các “làng đại học” (tức Rape on Campus hoặc Campus Rape) là vấn nạn chung ở nước Mỹ.

Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ năm 2010 ước định rằng 25% nữ sinh viên là nạn nhân của các vụ hiếp dâm trước khi tốt nghiệp sau 4 năm đại học, và rằng trường đại học nào có từ 6.000 sinh viên trở lên thì trung bình mỗi ngày có một vụ hiếp dâm và xảy ra đều đặn trong suốt năm học.

Trong bản báo cáo của Đại Học New York mang tựa đề Số Liệu Thống Kê Quốc Gia Về Bạo Hành Tình Dục Tại Các Làng Đại Học (National Statistics about Sexual Violence on College Campuses) thì chỉ có dưới 5% các vụ hiếp dâm được thưa ra các cơ quan thực thi pháp luật mà thôi – nghĩa là con số thực tế có thể cao hơn rất nhiều so với con số do Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ nêu lên.

Tổng hợp từ tài liệu trên, ta có các số liệu như sau về những nạn nhân hiếp dâm :

– Cứ 4 nữ sinh viên cáo buộc bị hiếp dâm thì có 1 người mà báo cáo về những gì đã trải qua của người đó đáp ứng đúng các định nghĩa của luật pháp về hiếp dâm.

– Cứ 5 nữ sinh viên thì có 1 người bị hiếp dâm trong thời gian học ở đại học.

– Hầu hết những nữ sinh viên bị hiếp dâm là sinh viên nội trú, và khoảng 1/3 trong số họ là sinh viên năm thứ nhất ở lứa tuổi 17 – 19.

– Điều nghiên thực hiện ở 412 trường đại học cho thấy 5,4% nam sinh viên và 11,7% nam sinh viên đồng tính hay lưỡng tính bị cưỡng bức.

– Điều nghiên thực hiện ở 412 trường đại học cho thấy 30.6% nữ sinh viên đồng tính hay lưỡng tính bị cưỡng bức.

– 81% nữ sinh viên bị chính bạn tình cũ hoặc bạn tình hiện thời cưỡng dâm.

– 80% đến 90% được thực hiện bỡi người mà nạn nhân có quen biết.

Còn theo nghiên cứu của Học Viện Tư Pháp Quốc Gia Hoa Kỳ thì thủ phạm hiếp dâm:

– 35.5% là bạn học chung lớp của nạn nhân

– 34.2% là bạn học chung trường

– 23.7% là bạn tình hoặc bạn tình cũ

– 2.6% là người quen

– 35% nam sinh viên cho biết sẵn sàng hiếp dâm nếu biết chắc chắn sẽ không bị bắt hay bị trừng phạt.

– 81% vụ hiếp dâm trong làng đại học và 84% vụ hiếp dâm do sinh viên thực hiện bên ngoài khuôn viên làng đại học đã không được trình báo cảnh sát.

– Gần 60% vụ hiếp dâm được thực hiện bên trong nơi cư trú của nạn nhân.

– 52% vụ hiếp dâm có trình báo xảy ra sau 12 giờ đêm, và 37% xảy ra giữa 6 giờ chiều và 12 giờ đêm.

– Điều tra thực hiện tại 171 học viện và đại học cho thấy 74% vụ hiếp dâm xảy ra do say rượu. Trong năm 2000 Hoa Kỳ đã có hơn 70.000 sinh viên từ 18 đến 24 tuổi trở thành nạn nhân của hiếp dâm có liên quan đến rượu.

– Hơn 50% vụ hiếp dâm xảy ra vào các tháng 8, 9, 10, và 11.

– Sinh viên gặp rủi ro nhiều hơn trong những tháng đầu học kỳ 1 và 2 tức trong năm thứ nhất.

Các loại hình hiếp dâm bao gồm – nhưng không chỉ giới hạn bởi – hiếp dâm tập thể, hiếp dâm lúc hò hẹn, hiếp dâm vì lợi dụng sự quen biết.

Trên đây là vài con số của riêng Hoa Kỳ. Các số liệu khác đối với các vụ hiếp dâm xảy ra tại các làng đại học ở các nước Âu Tây có thể dễ dàng tìm thấy trên internet.

Tình hình trên cho thấy sự bất ổn về an toàn cho nữ sinh viên tại các trường đại học Mỹ, dẫn đến việc các trường đại học Mỹ đều có chương trình nhập môn gọi một cách mỹ miều là Campus Clarity (dịch nghĩa từng chữ: những điều cần biết rõ về sinh hoạt trong làng đại học; nghĩa bóng: những điều cần biết để bảo đảm an toàn nhất, sức khỏe tốt nhất, để theo đuổi thành công mục tiêu học tập hàn lâm và ước mơ tại trường, bằng cách…hãy lưu tâm đến sự thật là…có 1/5 nữ sinh viên bị hiếp dâm trong thời gian học đại học bởi người mà họ quen biết, đặc biệt là bạn học, vì vậy sinh viên cần lưu ý đến việc nhậu nhẹt và đến…bạn học!)

D) Tư Vấn Của Tannhauser Beowulf Thor

Những lời khuyên sau đây của chuyên gia Giao Thoa Văn Hóa (Cross Culture) Tannhauser Beowulf Thor đặc biệt thích hợp cho các du học sinh đến Mỹ từ những quốc gia “mới phất” (newly surging economies) của Châu Á trong đó đặc biệt là Việt Nam do Việt Nam có 5 “yếu điểm” – theo chuẩn mực văn minh Mỹ – mà các nước Châu Á khác không còn như (a) Việt Nam là nước cuối cùng có du học sinh đến Mỹ du học nên kinh nghiệm về văn hóa Mỹ chưa dồi dào đầy đủ; (b) phụ huynh học sinh và học sinh Việt Nam hoàn toàn không quan tâm và/hoặc không biết và/hoặc không được cung cấp thông tin về những thực tế của môi trường đại học Mỹ; (c) Việt Nam là nước Châu Á duy nhất còn sự tồn tại của truyền thống Á Đông đối với gắn bó gia đình; (d) Việt Nam là nước Châu Á duy nhất còn sự tồn tại của truyền thống Á Đông đối với phạm trù mang tên “đức hạnh” và “tiết hạnh” hay “trinh tiết” phụ nữ vốn đã hoàn toàn biến mất ở Châu Á; và (e) học sinh Việt Nam yếu về bản lĩnh, rất thiếu hiểu biết, dễ bị lôi kéo do tâm lý thần phục choáng ngợp trước cường quốc Hoa Kỳ, và kém khả năng phòng vệ:

1) Nếu được tiếp cận bởi “công ty dịch vụ du học” và quan tâm đến một trường đại học cụ thể ở Âu Mỹ, hãy yêu cầu cung cấp thông tin bằng văn bản về cái gọi là “honor code” của trường ấy, và kiểm tra độ chính xác của thông tin với thông tin trên trang web của trường ấy.

2) Nếu quan tâm đến một trường đại học cụ thể ở Âu Mỹ, trước khi tiến hành xin học bổng hoặc đăng ký học tự túc, hãy yêu cầu trường ấy cung cấp thông tin bằng văn bản về cái gọi là “honor code” của trường, kiểm tra độ chính xác của thông tin với thông tin trên trang web của họ, đồng thời kiếm tìm thông tin trên mạng về các vụ việc nổi cộm có liên quan đến “campus rape assaults” tại trường ấy để hiểu rõ nhất về sự danh tiếng cùng sự khét tiếng của nó.

3) Phụ huynh phải “công tác tư tưởng” với con em mình biết (hoặc học sinh nếu cho rằng mình đã đủ trưởng thành, đủ khôn ngoan, đủ bản lĩnh, tự biết) rằng:

a- Nam sinh và nữ sinh Việt Nam: chỉ tham gia các buổi tiệc buổi tối quy mô “toàn trường” do trường tổ chức với sự tham gia của ban giám hiệu và thầy cô, vì mức độ an toàn cao hơn;

b- Nam sinh và nữ sinh Việt Nam: không tham gia các buổi tiệc buổi tối quy mô “tại gia” của một sinh viên nào đó tổ chức (thường là sinh viên “giàu có” ở địa phương), vì sự thác loạn không hề thiếu vắng;

c- Nam sinh và nữ sinh Việt Nam: không tham gia các buổi họp mặt riêng buổi tối tại địa điểm mật nào đó vì rất có thể sẽ trở thành nạn nhân của một vụ tế thần (do Mỹ có các giáo phái tà đạo thờ Quỷ Satan), hoặc bị sát hại khi đi chơi riêng rồi mất tích không thể tìm thấy xác, như vụ của nữ sinh viên Lauren Spierer (Đại học Indiana), nữ sinh viên Denise Lynette Hart (Đại học Connecticut), nữ sinh viên Hannah Graham (Đại học Virginia), nữ sinh viên Phoenix Coldron (Đại học Missouri-St. Louis); nữ sinh viên Anarae Schunk (Đại học Minnesota), nữ sinh viên Michaela Shunick (Đại học Louisiana), nam sinh viên Max Maisel (Đại học Công nghệ Rochester New York), nam sinh viên Brogan Dulle (Đại học Cincinnati), nam sinh viên Shane Montgomery (Đại học Pennsylvania), nam sinh viên Hye Min Choi (Đại học Illinois), nam sinh viên Jonathan Zygmont (Đại học New Hampshire), và rất nhiều những vụ mất tích khác;

d- Nam sinh Việt Nam: từ chối tham gia các họp mặt vầy đoàn của “nhóm bạn nam” để đừng bị “gang rape” tức bị hiếp dâm tập thể đồng giới, hoặc vướng vào “gang rape” tức cùng tham gia hiếp dâm tập thể một nam sinh khác hoặc một nữ sinh, hoặc trở thành đồng lõa tiêu cực (tức không tham gia hiếp dâm nhưng bị buộc phải chứng kiến để rồi phải ra sức bảo vệ nhóm hiếp dâm bằng mọi giá, do không muốn chuyện bại lộ sẽ khiến mình phạm tội nặng hơn kẻ hiếp dâm do các tội đồng lõa, bỏ mặc nạn nhân, và không tố giác tội phạm);

e- Nữ sinh Việt Nam: từ chối tham gia các họp mặt vầy đoàn của “nhóm bạn nữ” để đừng bị “gang rape” tức bị hiếp dâm tập thể đồng giới, hoặc bị nhóm bạn nữ ấy cho vào tròng để các nam sinh bạn thực hiện “gang rape” mình tức để mình cũng bị cái mà các nữ sinh ấy trước đây đã từng bị như thế;

f- Nữ sinh Việt Nam: cảnh giác cao độ và có biện pháp phòng thủ (như khóa cửa, gọi điện cho các bạn nữ khác, v.v.) khi bạn nữ ở cùng phòng trong khu đại học kiếm cớ đi vắng buổi tối (đa số các trường hợp là do có nhóm nam sinh viên yêu cầu người đó đi ra ngoài để họ vào thực hiện hiếp dâm không có nhân chứng).

g- Nam sinh và Nữ sinh Việt Nam: đừng bao giờ dùng bia rượu tại các “buổi họp mặt”. Nói chung là nên sống biệt lập, trừ những giờ nghiên cứu theo tổ nhóm, và đừng bao giờ khờ khạo cho rằng phải thể hiện sự hòa nhập bằng cách “sống như Mỹ” khi ở Mỹ.

h- Nam sinh và Nữ sinh Việt Nam: hãy quan tâm đến nội dung hướng dẫn về phòng chống hiếp dâm luôn sẵn có trên trang web chính thức của các trường đại học Mỹ, để nhận thức một điều hiển nhiên rằng hiếp dâm quả thực là vấn nạn phải đối phó, không thể lơ là.

E) Nhận Xét Của Hoàng Hữu Phước

Dựa vào các tư vấn trên của Ông Tannhauser Beowulf Thor, có thể cho rằng nếu như dân Châu Á đa số sang Âu Mỹ du học để phục vụ sự nghiệp chuyên môn, còn dân Việt Nam đa số sang Mỹ du học (a) để có bằng cấp Mỹ, (b) vì cha mẹ giàu sang cho con du học theo thời thượng “chứng tỏ năng lực tài chính”, (c) do cha mẹ giàu sang cho con du học theo thời thượng “tìm cách định cư tại Mỹ”, và (d) bởi cha mẹ giàu sang cho con du học theo thời thượng “trẻ măng làm chủ tịch tập đoàn tài chính” ở Việt Nam một cách đột nhiên như trên trời rơi xuống,

thì hơn ai hết du học sinh Việt Nam cần khắc cốt ghi tâm ba điều cực kỳ đơn giản sau:

1- Nếu muốn khoe bằng cấp Mỹ, muốn lấy le về năng lực tài chính của mẹ cha, muốn định cư tại Mỹ, muốn thừa kế gia sản mẹ cha để làm chủ tịch tập đoàn ở Việt Nam thì phải còn sống, nghĩa là phải cẩn trọng, học thuộc lòng tất cả các nội dung cảnh báo trên trước khi bước chân qua Mỹ du học; và

2- Nếu muốn không bị sử dụng làm công cụ chống đối Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam để rồi bổng dưng trở thành “tù nhân lương tâm” hay “nhà đấu tranh dân chủ” đột biến, thì phải tuyệt đối cẩn trọng với tất cả các nội dung cảnh báo trên trước khi bước chân qua Mỹ du học, vì rằng rất có thể khi bị hiếp dâm hoặc đồng giới hoặc khác giới thì những phim ảnh được chụp quay lại sẽ được dùng làm vũ khí khống chế khiến người đi du học khi trở về nước sẽ phải hoạt động chống phá Việt Nam theo lịnh của tổ chức nào đó bên Mỹ nếu không muốn bị công khai bằng chứng phim ảnh bản thân đã bị hiếp dâm, đã tham gia hiếp dâm, hoặc đã đồng lõa tham gia nghi lễ tà đạo giết người tế thần, v.v.

3- Tại Mỹ, khuôn viên đại học là một trong những nơi nguy hiểm nhất đối với phụ nữ (xem mục tham khảo bên dưới).

Việc học – dù ở trong nước hay ở ngoài nước – là dành cho người khôn ngoan tài giỏi lanh lợi cẩn trọng hiểu biết khát khao trí tuệ, chứ nào phải dành cho những kẻ thơ ngây khờ khạo cứ tưởng gần đèn thì tự động sáng (mà không biết rằng mình phải bật đèn, rằng đèn ấy là đèn dầu hay đèn pha, rằng bão lụt thì phải cúp điện, và rằng dù đèn gì thì sau lưng hoặc trong đũng quần mình vẫn luôn tối), cứ tưởng hiện diện trong trường đại học Mỹ thì tự động giỏi, và cứ tưởng đứng chụp hình bên trong tòa nhà Liên Hợp Quốc hay choàng vai bá cổ Barack Obama là tự động lòa chói hào quang vinh diệu đời đời.

Việc học – dù ở trong nước hay ở ngoài nước – đều đòi hỏi những nỗ lực ghê gớm tự thân mà không phải lúc nào cũng thành công, nói chi đến “thành công vượt bậc”, vì rằng không bao giờ có cái mặc định rằng hữu chí sẽ cánh thành, rằng bật tất cả các que diêm trong hộp diêm quẹt thế nào cũng có que bùng cháy, rằng “với sức người sỏi đá cũng thành cơm”.

Sự nỗ lực đi kèm với sự cẩn trọng mới có thể tạo ra sự yên tâm nào đó khả dĩ dọn đường cho một thành công chưa hẳn lớn.

Đã không nỗ lực lại chẳng cẩn trọng mà vẫn thành công thành công đại thành công thì đó chẳng qua là minh chứng rằng tạo hóa cũng có lúc thích trêu ngươi và con tạo cũng bị ô nhiễm hài hóa hí hước diễu hề kiểu game show Việt vậy.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế

Tài liệu tham khảo:

Barbara Booth. 2015. One of the most dangerous places for women in America (Một Trong Những Nơi Nguy Hiểm Nhất Đối Với Phụ Nữ Tại Hoa Kỳ).http://www.cnbc.com/2015/09/22/college-rape-crisis-in-america-under-fire.html

Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ. 2000. The Sexual Victimization of College Women (Biến Các Nữ Sinh Viên Thành Nạn Nhân Tình Dục).https://www.ncjrs.gov/pdffiles1/nij/182369.pdf

Đại Học California. Campus Clarity. http://www.calstatela.edu/campusclarity

Đại Học New York. National Statistics about Sexual Violence on College Campuses (Số Liệu Thống Kê Quốc Gia Về Bạo Lực Tình Dục Tại Các Làng Đại Học).http://www.nyu.edu/shc/promotion/svstat.html.

Đại Học New York. Sexual Assault Prevention and Response (Hướng Dẫn Cách Phòng Chống Tấn Công Tình Dục). http://www.nyu.edu/students/health-and-wellness/wellness-exchange/sexual-assault-prevention-and-response.html

Mạng Quốc Gia Về Hiếp Dâm, Lạm Dụng, Và Loạn Luân RAINN. Campus Sexual Violence: Statistics (Số Liệu Thống Kê Về Bạo Lực Tình Dục Tại Các Làng Đại Học). https://www.rainn.org/statistics/campus-sexual-violence

Nick Anderson. 2016. These Colleges Have The Most Reports Of Rape (Danh Sách Những Đại Học Có Nhiều Ca Hiếp Dâm).https://www.washingtonpost.com/news/grade-point/wp/2016/06/07/these-colleges-have-the-most-reports-of-rape/

Kiều Hùng- giá 850k

Kiều Hùng- giá 850k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh




Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

– GIỌT LỆ NÀO TÔI SẼ KHÓC CHO EM…



Hoàng Kim Oanh 



Tôi thả những chùm bong bóng sắc màu
vào không trung
vô tận
dẫu biết chưa đến đích
tất cả đã vỡ tung
chỉ làm vui cho bầu trời dăm phút
đừng dõi mắt làm gì
phù phiếm
em ơi.


Tôi vẽ những đường dọc đường ngang trên bảng đen
Những vườn cỏ hoa, lâu đài cổ tích
Những đại dương, sông suối, núi đồi, đồng cỏ, làng quê…
Những phố thị dập dìu
Những chân trời vô tận
Nơi nhân loại bao ngàn năm đặt dấu chân qua
Nơi hồng hoang tiền kiếp luân hồi
Nơi ta yêu nhau và gọi là xứ sở
để nghẹn ngào
đau xót
căm giận
tủi hờn
phẫn nộ
trong đói nghèo rơm rạ
trong lưu đày phận nhược tiểu bốn ngàn năm
Nhưng tôi không giữ được gì
cho tôi.
cho em.
khi bôi sạch bảng đi rồi

Tôi không muốn vẽ những đường cong
lắm ngõ quẹo quanh dọc ngang. Phải. Trái.
Ngoằn ngoèo
Luồn lách
Sợ rồi em lạc lối
Đánh mất cả chính mình.

Tôi thổi vào từng viên phấn trắng phấn xanh phấn đỏ
sắc màu cuộc đời
hỉ nộ ái ố ai lạc dục
người xưa từng cười khóc giữa trang thơ
để viết lên hồn em tiếng lòng tôi thổn thức
tình yêu đầu run rẩy
tình yêu cuối mặn mòi
tình phụ tình bỏng rát
Tôi viết lên hồn tôi
Tôi viết lên hồn em
lời đam mê
thiết tha
bỏng cháy
những niềm tin tưởng rằng có thật
mà tôi một đời mê mải
kiếm tìm
hy vọng
khát khao
Những nét phấn vô tình
dẫu tôi đã hoài công nắn nót
đã phai nhòa rồi biến mất dưới bàn tay tôi mỗi khi đổi người đứng trên bục giảng
không để lại gì
Chỉ còn lại
Cái Không Gì Hết

hàng về Sài Gòn ( Quý)


Chấm phá về bệnh tâm thần trong xã hội





.

Ở trời Âu, dân tình cũng còn từ chối không nhìn nhận bệnh tâm thần, cái kiểu của đối thoại

– Bác sĩ, tôi không mắc bệnh điên mà!

– Đúng thế, nhưng tôi sẽ chữa lành cho bạn.

.

Rời chuyện cụ thể hàng ngày, một nghiên cứu dịch tể về bệnh tâm thần của Châu Âu gần đây (European Study on Epidemiology of Mental Disorders, 2013) cho biết là hơn 10% dân tình có ít nhất là một lần trong đời mắc bệnh tâm thần – nếu kể luôn cả những vấn đề sa sút trí tuệ của người cao tuổi thì con số này sẽ lên tới 20%- . Nhiều người bệnh tâm thần hoàn toàn mù tịt về tình trạng sức khỏe của họ. Một số khác cố tình dấu diếm vì sợ người chung quanh ruồng bỏ, …Ở Việt Nam, theo vài nguồn tin, bệnh nhân tâm thần chưa được săn sóc đầy đủ.

.

Những bệnh tâm thần ?

Một cách chung chung và rất là sơ lược, ta có thể chia những bệnh tâm thần ra theo bốn hay năm loại

– ở đây xin đừng đọc Wikipedia – Wikipedia còn dựa trên DSM IV – Bài này trình bày theo DSM V và các giáo trình về Psychiatrie (Tâm thần học) ở ĐH Liège –

1. Tất cả những loại nghiện (rượu, ma túy, thuốc kích thích). Những người nghiện là những người không thể sống thiếu các chất ấy. Các chất nghiện gây những tàn phá cơ thể và tâm lý nhưng người nghiện không có khả năng từ bỏ chúng. Ta dịch là «Rối loạn sử dụng chất».

2. Những bệnh về tính khí bất thường không thăng bằng được mà ta gọi là rối loạn tâm trạng – lúc nào cũng lo sợ căng thẳng, mệt mõi mà không có nguyên nhân sinh học, trầm cảm, khó ở, …

3. Những rối loạn về cảm nhận: bị ám ảnh cưỡng chế, hoảng sợ trước mọi tình huống, lo lắng, bất ổn, sợ chốn đông người, sợ những vật lặt vặt không đáng như con nhện, sông nước, tàu bè,… Bệnh tâm thần phân liệt thuộc vào hạng này.

4. Những rối loạn trong hành vi và nhân cách – tự hỏi mình là ai: không thương mình, không bằng lòng với cơ thể, không ăn, ăn nhiều, khó ngủ, ngủ nhiều, tự gây thương tích…

5. Những rối loạn nhân cách trong liên hệ xã hội: nghi ngờ, yêu mình quá độ, phản xã hội, không tôn trọng người khác hay luật lệ xã hội, …

Và cuối cùng phải nói là có những bệnh mang nhiều khía cạnh của hai hay nhiều loại vừa kể trên. Tự tử cũng được xem như một bệnh tâm thần, thuộc loại 2,3,4.

.

Vai trò của xã hội trong cấu thành của một số bệnh tâm thần

Qua danh sách những bệnh tâm thần kể trên, không thể im lặng về vai trò của xã hội.

Thật vậy, rất nhiều trường hợp một người thành nghiện rượu là do hoàn cảnh đưa đẩy. Một người nghiện ma túy vì môi trường lôi cuốn. Có người khác rơi vào trầm cảm vì thất nghiệp hay vì mang tang bạn đời. Nhiều thiếu nữ, mất tự tin, theo những phương thức khốc liệt để giảm cân vì áp lực của bạn bè hay của người yêu, …

Durkheim là nhà xã hội học tiên phong giải thích sự tự tử bằng những thiếu cấu trúc của xã hội từ đầu thế kỷ thứ XX.

Sau Durkheim và nhất là trong hai thập niên vừa qua, với những tiến bộ của khoa tâm thần học và nhất là những nghiên cứu về phạm tội học, nhiều tác giả nêu lên đđược liên hệ giữa bạo lực và bệnh tâm thần. Ở nhiều nước Âu Mỹ, 50% trong số những phạm nhân tội giết người là những người mang bệnh tâm thần (1).



.

Xã hội cũng có thể gây ảnh hưởng lâu dài trên tâm thần. Wootton và đồng sự thiết lập sự liên hệ hổ tương giữa những người mang bệnh phản xã hội (họ vi phạm luật lệ APD Antisocial Personality Disorder) với những yếu kém trong phương thức giáo dục của gia đình họ trước đó.

Những yếu kém như

. không để ý nhiều đến trẻ

. ít cách dạy tích cực

. không chăm chú theo dỏi trẻ

. không có sự liên tục thống nhất trong cách phạt làm cho trẻ mất phương hướng – loại kỷ luật tùy hứng của cha mẹ.

. dùng những hình phạt thể xác (2)


.



Sự nghèo khó cũng có thể là nguồn gốc của bệnh tâm thần. Sicot nghiên cứu những người vô gia cư ở Paris, Pháp và đại đa số họ mang bệnh tâm thần. Gần 100% trong số họ nghiện rượu chẳng hạn. Còn các bệnh như là trầm cảm, lo sợ, mất khả năng tự yêu mình, … thì rất là phổ biến (3).

.

Đó là chưa nói đến những bệnh tâm thần sau các biến động lớn, trauma hay chấn thương. Các chấn thương thường để lại cho các nạn nhân nhiều vết khó lành. Nạn nhân của chiến tranh, của những thiên tai hay thường nhật hơn, của những tai nạn nghề nghiệp hay tai nạn giao thông thường phải được theo dõi về tâm thần sau biến cố (4).

Sau cùng, có thể kể đến quyển sách của Ehrenberg và Lowell. Hai tác giả này nhấn mạnh trên sự tiến triển về số lượng người mắc bệnh tâm thần. Bệnh tâm thần không còn là một chuyện của cá nhân, một vấn đề riêng tư cần giấu kín hay một hổ thẹn, Bệnh tâm thần thành một vấn đề xã hội chính trị và văn hóa. An bình xã hội và giá trị sống của mỗi người tùy thuộc vào sức khoẻ tâm thần của các tất cả thành viên trong xã hội. Bệnh tâm thần là nguyên do thường được nêu ra nhất khi các công nhân viên xin nghỉ việc vì bệnh (5).



.

Xã hội học về bệnh tâm thần ?

Vấn đề tâm thần quan trọng như thế làm cho nhiều xã hội học gia đi vào nghiên cứu.

Bệnh tâm thần, một loại bệnh vừa sinh lý vừa xã hội. Khởi thủy, xã hội chỉ biết đến bệnh điên: người điên là người bị xem như là bị ma quỷ bắt, là người bị trời phạt. Người điên có những phản ứng không ngờ trước được nên xã hội nhốt riêng họ, cách ly với người khác để họ không làm hại cho xã hội.

Goffman khởi đầu, rồi Foucault sau đó, tố cáo xã hội gây áp lực trên người bị bệnh tâm thần và không lo chữa trị họ. Xã hội chỉ lo phòng vệ, bảo vệ trật tự mà xã hội cần có nên nhà thương điên giống nhà tù hơn bệnh viện.

Những nhà văn hóa học thì định nghĩa bệnh tâm thần như tổng thể các hiện tượng gây ra bởi xã hội mà thí dụ cụ thể điển hình là một cán bộ tư sở cao cấp, rủi bị sa thải mất việc, ông giết chết vợ mình và giết cả con chó thân thiết rồi sau cùng, quẩn trí, ông tự tử.

Nhưng tất cả những người trong cùng một hoàn cảnh xã hội không hành xữ giống nhau

Chính vì thể ta có thể định nghĩa, một cách vừa y khoa vừa xã hội học rằng bệnh tâm thần là những cái không bình thường trong sức khỏe và tâm lý có thể làm cho người bệnh hành xữ kém hay mất nhân bản với chính họ và với người khác.

Một cách ví von, ta có thể nói bệnh tâm thần là bệnh với chính bản thể và với tha nhân. Cũng có thể nói, theo trào lưu hiện thời, rằng bệnh tâm thần là bệnh làm cho người bệnh không còn tự do quyết định đời sống của mình, không còn khả năng nhận thức và sống tự lập.

Nhưng định nghĩa thế nào đi nữa thì cũng phải nhìn nhận là xã hội hiện thời, với cấu trúc và các sinh hoạt của nó, là nguồn gốc làm nẩy sinh ra nhiều bệnh tâm thần.

Xã hội là cấu thành của bệnh tâm thần. Và đồng thời «dĩ độc trị độc», xã hội cũng là một trong những phương thức trị bệnh tâm thần – sociothérapie – Cũng là theo một tiến trình hợp lý. Chữa bệnh tâm thần phải vừa là những phương thức Y, Dược vừa là những kỷ thuật tâm lý xã hội.

.

Lời chót ?

Trên thế gian, ta có ít nhất một người vừa điên vừa uống rượu – nghiện rượu cũng là một bệnh tâm thần – vừa tự biết mình «lăng nhăng», “lí nhí” và “lem nhem”. Người đó là Bùi Giáng:

Uống và say nói lăng nhăng

Miệng mồm lí nhí thằn lằn đứt đuôi

Tâm can chân thể chôn vùi

Mặt trời không mọc với người lem nhem

Còn đâu nguyệt tỏ bên thềm

Ôi người uống rượu còn thêm điên rồ

(Bùi Giáng, Người điên uống rượu) – Dĩ nhiên Bùi Giáng không điên, lúc sáng tác bài này.

.

Nguyễn Huỳnh Mai

—–


(1). Hodgins S. (ed.), Mental disorder and crime. NXB Sage Publications, 1993.

(2). Wootton, J. M. & al. , Ineffective parenting and childhood conduct problems: the moderating role of callous-unemotional traits. Journal of Consulting and Clinical Psychology (1997), 65, 292–300.

(3) Sicot F., Maladie mentale et pauvreté. NXB l’Harmattan, 2001.

(4) Shalev A. Y. & al., Prospective Study of Posttraumatic Stress Disorder and Depression Following Trauma. Am J Psychiatry 1998;155:630-637.


(5) Ehrenberg A. và Lovell A., La Maladie mentale 
en mutation
. Psychiatrie et société. NXB Odile Jacob, 2001.

.

Hãy Cảnh Giác Về Tự Do Ngôn Luận Một Chiều Của Phương Tây





Đinh Cương


I. Dẫn:

Trong sách Cổ Học Tinh Hoa của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân xuất bản năm 1926 có câu chuyện "Tăng Sâm Giết Người" Chuyện đại lược về thầy Tăng Sâm, người thời Xuân Thu, học trò của Khổng Tử, tính tình chân chất và rất có hiếu. Mẹ của thầy rất mực tin con. Một hôm đột nhiên có kẻ bảo: “Tăng Sâm giết người”, bà mẹ không tin; người thứ hai bảo, còn chưa tin; đến người thứ ba bảo, thì bà mẹ sợ cuống, quăng thoi đang dệt cửi, trèo qua tường chạy trốn.

Lời bàn ở dưới chuyện mới thú vị:

“…Như thế mới hay cái dư luận của thiên hạ rất là mạnh. Một việc, dù cho sai lầm đến mười mươi, nhiều người đã cùng có một nghị luận đều như thế cả, thì cũng dễ khiến cho ta nghi nghi hoặc rồi đem bụng tin mà cho là phải, nom đỉa hoá ra rươi, trông con chó thành ra con cừu. Đến như giữa chợ làm gì có cọp! Thế mà một người, hai người, đến ba người nói có cọp, thiên hạ cũng tin có cọp thật nữa là!”

Xưa nay con người vẫn xử sự như thế. Ngay cả cái gọi là đạo Thiên Chúa được lan rộng dưới lưỡi gươm của lính La Mã từ thế kỷ thứ 4 cũng không khác. Người ta cứ lập đi lập lại những điều mê tín phi lý, đến một lúc người nghe đành phải chấp nhận cái “phúc cho những kẻ không thấy mà tin”, nếu không thì được đi "hưởng dung nhan thánh Chúa" sớm. Một tên ma cô khát máu nếu được gọi là đức thánh cha cũng chẳng làm ai ngạc nhiên nếu do bộ máy tuyên truyền lập đi lập lại mãi thành quen tai.

II. Truyền Thông Ngày Nay:

Dần dần xã hội tiến bộ hơn và những lời đồn ngoài chợ đã được các nhà cầm quyền hệ thống hóa, hướng dẫn thành các cơ quan "tuyên truyền nhồi sọ", rồi "tuyên truyền phản tuyên truyền", rồi tuyên truyền tung tin giả vv… đủ mọi cách.

Đời sống con người ngày nay bị cuốn vào cơn lốc “mê tiền” đến độ "cứu cánh biện minh cho phương tiện", phải đạt cho được những gì mình muốn bằng mọi thủ đoạn dù gian ác; các chuẩn mực đạo đức, lễ giáo, tín ngưỡng đều trở nên thứ yếu.

Qui luật hiển nhiên là "ai chi tiền thì kẻ đó làm chủ". Ai nắm được bộ máy truyền thông đồ sộ thì kẻ đó luôn được đánh bóng lên một địa vị cao vợi với nhiều danh xưng tuyệt vời. Những điều xấu xa, các âm mưu đen tối của họ đều được che giấu tinh vi, quần chúng không bao giờ biết đến. Các bộ máy truyền thông khổng lồ ở phương tây, TV, báo chí giấy và điện tử, rồi internet (liên mạng) … xây dựng nên bởi tiền vô giới hạn đã làm con người phải sống trong một thế giới bị vây chặt bởi thiên kiến, không còn biết chân/ giả nằm ở nơi nào. Trước đây báo giấy in ấn còn có thể bị nhà cầm quyền các nước nhỏ kiểm soát dễ dàng, nhưng ngày nay với internet thì xem như vô phương ngăn cản.

Khi nhà nước, nhất là giới tư bản làm chủ các phương tiện truyền thông đồ sộ, cho phép loan những tin tức do mình tạo ra qua các bộ máy truyền thông tài phiệt (corporate media) được gọi là dòng chính (main stream), kỳ dư là dòng biên (side stream). Các tuyên truyền dòng chính liền được phân phối nhân rộng nhanh chóng bởi các bộ máy tuyên truyền phụ của "đồng minh" trên toàn thế giới nên không mấy chốc áp đảo các tin tức khác dòng hay ngược dòng. Khi nói đến truyền thông tây phương ngày nay là chủ yếu là truyền thông Mỹ.

Từ khi lập quốc, giới truyền thông ở Mỹ được ca ngợi là "vô tư", là "quyền lực thứ tư" (Fourth Branch hay Fourth Estate) theo Hiến pháp Hoa Kỳ; nhưng dần dần lại bị tiền mua nên nay trở thành một vũ khí tuyên truyềncho chính sách của chủ nhân ông và còn là công cụ gây nhiễu loạn nội bộ các nước kém thân thiện với Mỹ, bằng cách tung những tin khác chiều của nhóm chống đối có ăn lương hay các tin tiêu cực trong nước đối địch để hạ thanh danh hay uy tín của các lãnh đạo của các nước này. Đó là chưa kể làm gián điệp dưới vỏ bọc phóng viên ở các nước khác, tương tự như bọn tu sĩ dòng Tên của Vatican từ trước đến nay trong lịch sử truyền giáo của tổ chức này.

Xưa "không thấy mà tin" thì được chúc phúc; nay thì bảo "một bức ảnh bằng ngàn lời nói". Thời buổi này hình ảnh rẻ hơn bèo cho nên sự kiện được đổi trắng thay đen dễ dàng hơn, dễ tin hơn bằng các kỹ thuật số. Lại thêm có ngành đại công nghệ phim ảnh Hollywood, nơi sản xuất và phát hành toàn thế giới vô vàn phim ảnh dành hết mọi người hùng, người tốt, người đạo đức cho Mỹ, thành phần còn lại xấu xa ác độc dĩ nhiên được gán cho các nước nhược tiểu và địch quốc.

Nhiều người thắc mắc vì sao phim ảnh của Mỹ tràn đầy bạo lực, phơi bày tình dục thô thiển, khuyến khích sử dụng xì ke ma túy thoải mái, hô hào dùng súng đạn bắn giết vô tư, xem mạng người như cỏ rác, cứ như từ thời lập quốc, thổ dân da đỏ bị giết đến tuyệt chủng, rồi buôn nô lệ da đen để khai thác các đồn điền, thuê cu-li rẻ mạc da vàng từ TQ để phá núi đặt cầu cho đường sắt… và ngày nay sản xuất súng đạn đi đôi với chiến tranh cục bộ làm cho nhân loại càng sống bất an. Vì tiền, hay có một chính sách nhồi sọ do bọn lái súng chi tiền?

Những hình tượng trích ra từ những chuyện giả tưởng của Marvel Comics đã ăn sâu vào tâm trí của trẻ mới lên 3 từ thế hệ này sang thế hệ khác, càng làm cho bản chất tự mãn, cao ngạo sắc tộc càng tăng, nên chính sách ngoại giao của Mỹ xem ra vẫn tiếp nối các chính sách thực dân da trắng xưa cũ có phần tinh vi hơn, luôn khinh thị các dân tộc khác. Văn hóa xấu của Mỹ đã tấn công sâu vào các xã hội toàn cầu ở mức độ nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, đã làm nhiều nước thiếu trang bị kiến thức kỹ thuật để ngăn chặn đã bị chao đảo nguy khốn. Xã hội Việt Nam không thể thoát khỏi.

III. Những Mẫu Tin:

Chuyện về bộ máy truyền thông Mỹ không thể nói đơn giản trong một bài viết ngắn, lại không phản ánh đủ trong vài mẫu tin, nhưng phần nào cũng nói lên được thực trạng ngày nay.

1. Xã Hội:

a/. Tệ Nạn:

Những chuyện gian ác tồi tệ trong xã hội lan tràn trên thế giới một cách chóng mặt, và Việt Nam ngày nay cũng có sự gia tăng đáng kể và số lượng tin xấu tràn ngập báo chí trong nước càng nhiều làm mờ đi những thành tựu khác của nhà cầm quyền. Điều đáng nói là tình trạng suy đồi không chỉ xảy ra ở Việt Nam, nhưng lại được báo chí đua nhau khai thác chỉ vì đó là vùng không bị cấm kỵ trong việc hành nghề.

Ví dụ gần đây ở Anh xảy ra vụ hai đứa con gái 17 tuổi Maria Rossi và Tina Molloy đã hành hạ và đập chết dã man cụ bà hàng xóm Edna Phillips, 70 tuổi. Ba tuần trước đó có vụ 2 đứa trẻ khác 10 tuổi đã sát hại một đứa bé khác mới chập chửng biết đi.

Khi kết án, quan tòa Scott Baker nói với 2 đứa con gái “Chúng mày là sản phẩm đồi bại của thời đại.”

b/. Phe Nhóm:

Tổng thống Tiệp Milos Zeman bị giới truyền thông tây phương kết án là vừa hủy bỏ lễ gắn huy chương vinh danh kẻ sống sót Jews (Do Thái) khỏi lò thiêu xác (Holocaust) có tên là George Brady, 88 tuổi, cho là vì người cháu Daniel Herman, bộ trưởng văn hóa đã tiếp Đạt Lai Lạt Ma; trong khi chính sách của Tổng thống Tiệp là không muốn làm phật lòng TQ. Tổng thống Tiệp đã phản bác tin này cho là thiếu chính xác, nhưng bản tin đã loan đi. Điều này cho thấy dân Jews có tai mắt khắp nơi và sẳn sàng lên tiếng chống những ai làm hại đến lợi ích của dân này, và liền được bộ máy truyền thông của tài phiệt loan ngay. Chuyện từ xưa đã như vậy; tiền là Tiên là Phật. Thiểu số lắm tiền thường lãnh đạo đa số nghèo khổ. Không lạ gì, ngày xưa châu Âu đã lợi dụng Vatican dùng đạo Ca-tô Rô Ma để tiêu diệt dân Jews cả gần hai ngàn năm nhưng không thành vì họ biết dùng tiền lũng đoạn kinh tế các nước ấy. Nay đã đến lúc giống dân nhỏ bé ấy lại dùng tiền để trả thù "tội tổ tông" của đám sát thủ xưa. Cuộc đời vay trả, trả vây cứ vậy mà xoay vòng.

http://www.reuters.com/article/us-czech-president-medal-idUSKCN12L286?il=0

2. Chính trị:

a/. Lập Trường Một Chiều Của Báo Chí Mỹ:



Oliver Stone, nhà viết truyện phim, đạo diển và sản xuất phim, từng nổi tiếng với Scarface, 1983 và Platoon, 1986, trong một cuộc phỏng vấn với đài RT (của Nga) vào ngày 21 tháng 10, 2016 đã tuyên bố ngày nay báo chí Mỹ bị xiết chặt vì hậu quả "tự do báo chí" trong thời chiến tranh Việt Nam, nên rất khó mà có thể lên tiếng chỉ trích giới truyền thông Mỹ đã thiên vị trên mọi chuyện. Khởi đầu từ dưới thời Reagan 1980 với nỗ lực kềm kẹp do Nhóm Bảo Thủ khởi xướng cho đến nay, cộng với sự nhúng tay của CIA vào trong ngành truyền thông đã làm cho dư luận Mỹ không còn được vô tư như trước.

https://www.rt.com/op-edge/363641-oliver-stone-rt-syria/

b/. Chống Nga:

- Cũng trong bài phỏng vấn Oliver Stone, ông ta có nhận xét là báo chí Mỹ còn dùng lối viết tin "cả vú lấp miệng em" một chiều đối với những hoạt động quân sự của Nga trên chiến trường Syria. Ví dụ làm xấu hình ảnh Nga bằng cách cứ tung tin dân lành bị thương vong lớn do không quân Nga cố ý thả bom dù không có bằng chứng. Khi Nga phản bác thì không đính chính và chuyện đã rồi, bản tin đã được loan khắp thế giới. Trong khi ấy những vụ tương tự của Mỹ và đồng minh thì lờ đi hoặc cho là do nhầm lẩn đáng tiếc.

- Nhà báo John O'Sullivan trên Spectator ở Anh đã viết một bái đã kích báo RT (Russia Today) cho nó là cơ quan tuyên truyền nặng ký của Putin. Thế nhưng mục đích của bài báo không đạt được bởi đòn hồi mã thương trong phần bình luận của đa số độc giả bên dưới bài.

http://www.spectator.co.uk/2014/12/the-truth-about-russia-today-is-that-it-is-putins-mouthpiece/

3. Nên Biết Phản Ứng Đúng Lúc Và Mạnh Mẽ:

Ai cũng biết chính sách toàn cầu hóa đã tạo điều kiện giao lưu dễ dàng cho mọi quốc gia. Lợi ích cho nước nhỏ dĩ nhiên thua kém với các nước lớn. Với internet thì các nhà mạng quốc tế như Google, Youtube, Yahoo và Facebook … đều có phiên bản ngôn ngữ địa phương trên hầu hết các nước, qua đó chúng tạo sân chơi cho các phe chống đối chính quyền sở tại dễ xâm nhập vào giới truyền thông trong các nước nhỏ. Hầu hết các nhóm chống đối đều nhận tiền tài trợ của Mỹ, và dĩ nhiên không hề chống Mỹ dù Mỹ có thành tích không mấy tốt về nhân quyền và dân chủ.

Nếu các nước nhỏ cứ tiếp tục "hiếu khách" thì chúng sẽ được đàng chân lân đàng đầu và gây nhiễu loạn thông tin trong nước về bất cứ chuyện gì. Cứ tung hỏa mù, đăng tin giả, nói điều không thật mãi cũng làm lung lạc lập trường người đọc. Nhưng nếu nhà nước biết đâu là giới hạn của trò chơi thì nên dứt khoát khuyến cáo cấm cản kịp thời, ví dụ bản tin về “Google xóa các nội dung 'xúc phạm hoàng gia Thái'” vào ngày 22 tháng 10, 2016 dưới đây của BBC Việt ngữ.

“Thái Lan, quốc gia có những quy định nghiêm ngặt về luật khi quân trên thế giới, đang để tang Quốc vương Bhumibol Adulyadej. Ông Juntong nói rằng hơn 100 nội dung xúc phạm đến hoàng gia đã được tìm thấy qua dịch vụ Google kể từ khi nhà vua băng hà hôm 13/10.

Phát ngôn viên Google nói với hãng tin Reuters rằng hãng tuân theo các quy định của mình về việc xử lý các đề nghị xóa bỏ nội dung. "Khi chúng tôi được thông báo về nội dung có tính bất hợp pháp thông qua trình tự chính thức, chúng tôi sẽ hạn chế nội dung đó tại quốc gia nơi chúng bị coi là bất hợp pháp sau khi cân nhắc kỹ càng."

http://www.bbc.com/vietnamese/world-37739442

Chừng nào bộ máy truyền thông Nhà nước Việt nam mới làm được điều này?

4. Kết:

Nhắc lại lời bàn bên dưới câu chuyện “Tăng Sâm Giết Người” kể trên của cụ Ngọc và Nhân “… Những bậc ra được ngoài vòng dư luận, giữ vững được bụng như cây giữa rừng, như kiềng ba chân rất là hiếm, nhưng có thế được, mới cao. Một chân lý có chứng minh rõ ràng mười phần chắc chắn, thì mới nên công nhận.”

Nhưng than ôi, xã hội có được mấy người có ý thức "ra được vòng dư luận"? Nên chuyện bịp ngày nay vẫn còn tiếp diễn và càng tinh xảo, khó phân biệt hơn thời các cụ. Vì thế trước bất cứ tin tức gì chúng ta nên xem ai viết bản tin, xuất xứ từ đâu; đồng thời tìm hiểu thêm trên các trang mạng khác chiều của nước khác để trang bị thêm kiến thức cho mình, và để không trở thành "tên ngố".

Đinh Cương

Cuối Tháng 10, 2016.

Nguyễn Thanh Sơn : TỰ SỰ VỀ BÁO CHÍ VIỆT NAM





Ông Nguyễn Thanh Sơn - Giám đốc Điều hành T&A Ogilvy.




Báo chí ở Việt Nam


Năm 1994, về nước, tôi được nhận vào làm thực tập tại tiểu ban Tin Tham Khảo, thuộc Ban Quốc tế của Thông tấn xã Việt Nam (một số bạn hẳn còn nhớ, ở thời điểm đó, hàng ngày Thông tấn xã Việt Nam phát hành hai bản tin tham khảo sáng-chiều có đóng dấu “mật- tài liệu không phổ biến”). Tiểu ban của chúng tôi có mười mấy người, do anh Hà Minh Huệ mới từ phân xã New York trở về làm trưởng tiểu ban (anh Huệ hiện đang giữ chức Phó chủ tịch thường trực Hội nhà báo Việt Nam, Phó Tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam).



Mặc dù mang tiếng làm việc ở Ban Quốc tế của Thông tấn xã, nhưng công việc của chúng tôi chỉ đơn giản là dịch lại tin tức từ các bản tin của các hãng thông tấn nước ngoài như AP, UPI, Reuter…được chuyển về bằng máy telex (hồi đó chưa có Internet và máy fax cũng rất hạn chế). Cứ đầu giờ sáng, anh Huệ qua phòng telex lấy tin, mang về xé cho chúng tôi mỗi người một mảnh cặm cụi ngồi dịch, sau đó chừng 10h sáng thì nộp cho anh Huệ để làm bản tin chiều, đầu giờ chiều lại nhận tin để dịch, tới 3h30 chiều nộp làm bản tin sáng. Anh Huệ là người thày đầu tiên trong quãng đời nghề báo ngắn ngủ của tôi, người cặm cụi sửa cho tôi từng lỗi dịch sai, từng dấu chấm câu. Tôi còn nhớ, sau nhiều ngày hùng hục làm việc, một buổi chiều, anh Huệ rất hớn hở cầm một tập bản tin tới bàn làm việc của tôi khoe: “tin em dịch được đăng rồi đây này!”. Tôi run bắn lên vì hồi hộp, nhưng khi nhìn thấy bản in thì lại thất vọng tràn trề: toàn bộ bài báo tôi dịch đã bị cắt còn lại đúng năm dòng, thông báo về việc một nhóm cựu binh Mỹ tới bờ biển Đà Nẵng tổ chức lướt sóng!


Suốt thời gian làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, tôi học được hai bài học chính về nghề báo ở Việt Nam. Bài học thứ nhất- đừng làm ngôi sao, hãy viết như mọi người! Tôi rất ngạc nhiên khi những bài báo tôi dành tâm huyết để nghiên cứu, tìm cách diễn đạt đặc sắc lại là những bài báo không bao giờ qua được cửa biên tập, trong khi những bài báo vô thưởng vô phạt, được viết ra một cách qua quít cẩu thả lại được khen ngợi. Chúng tôi thường đùa nhau, cơ quan của chúng tôi giỏi nhất việc vo tròn phong cách viết của mọi người, là cái lò tạo ra những sản phẩm dập khuân.


Bài học thứ hai tôi học được sau ba tháng làm việc đầu tiên, khi tôi được anh Huệ biểu dương ở cuộc họp chung ở tiểu ban về thái độ và hiệu suất làm việc. Lý do là thông thường, chúng tôi chỉ phải dịch tin đến 10h sáng, sau đó có thể nghỉ ngơi, đọc báo, uống trà hay tán láo cho đến lúc ăn trưa. Nhưng tôi thường chỉ mất hơn một tiếng để dịch một tin, nên đến 9.30 đã xong phần việc của mình và tiện tay dịch thêm vài tin nữa, kết quả là nhiều khi tới giờ ăn tôi vẫn cặm cụi ngồi làm. Sau buổi họp, mấy chị lớn tuổi hơn nửa đùa nửa thật nói với tôi “này, buổi trưa chị còn phải đi đón con, giặt quần áo, đi chợ, nên cậu đừng có phấn đấu làm chiến sĩ thi đua như thế sếp cứ lấy cậu là làm gương là chết bọn chị”. Hóa ra nếu bạn không muốn vừa phải làm thêm nhiều việc, vừa bị mọi người ghét, thì chỉ viết giống như mọi người chưa đủ, bạn còn phải làm việc giống mọi người nữa. Khi tôi biết cách mỗi buổi chỉ dịch một tin, thời gian còn lại đọc báo, uống trà và tán láo giống như mọi người, không khí trong tiểu ban đối với tôi thay đổi hẳn, thân thiện hơn trước rất nhiều, chỉ có anh Huệ là cười cười nói “mày học nhanh quá”.


Mười bảy năm sau ngày tôi rời khỏi Thông tấn xã Việt Nam, báo chí Việt Nam đã có những thay đổi lớn. Với gần 800 tờ báo và tạp chí, hàng chục đài truyền hình trung ương và địa phương, hơn một trăm kênh truyền hình đang được phát sóng, báo chí Việt Nam, cũng giống như xã hội Việt Nam, đang loay hoay trong một giai đoạn bản lề.


Nói đến báo chí Việt Nam, trước tiên phải nói đến sự khác biệt của nó đối với báo chí ở bên ngoài. Một trong những đặc điểm đầu tiên tôi đã có dịp đề cập ở trên, đó là vấn đề uy tín. Ở những quốc gia mà tôi có dịp tới học tập hay làm việc, báo chí- trừ những tờ báo in hay kênh truyền hình cực kỳ lớn- phần lớn bị coi là “rác rưởi”. Cạnh tranh gay gắt về thông tin, sự hùng hậu của báo lá cải khiến cho sự cạnh tranh trong giới truyền thông trở nên hết sức khốc liệt, và người ta không từ một thủ đoạn nào để có được thông tin. Uy tín và sự tin cậy dành cho phóng viên ở mức đặc biệt thấp, và mỗi một cuộc phỏng vấn đối với lãnh đạo của các thương hiệu hay công ty là một cuộc đấu trí thực sự. Trong khi đó, báo chí Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn trước, được công chúng coi trọng- dù dưới tư cách là kênh phát ngôn chính thức của các cơ quan thuộc Đảng và nhà nước, hay dưới tư cách phản biện của tiếng nói quần chúng lao động.


Trên phương diện phát ngôn chính thức (“là tiếng nói của…”, “là cơ quan ngôn luận của…”-được in rõ ràng trên manchette báo), báo chí Việt Nam thường được chia thành ba nhóm: báo chí nhóm một, báo chí nhóm hai và báo chí nhóm ba. Nhóm một là những cơ quan báo chí quan trọng nhất như báo Nhân Dân, đài truyền hình Việt Nam, đài phát thanh tiếng nói Việt Nam và Thông tấn xã Việt Nam.


Báo chí nhóm hai là báo chí thuộc chính quyền và đảng bộ địa phương hay các tổ chức chính trị xã hội cấp Trung ương như Hà nội mới, Đài truyền hình Hà nội, Sài gòn Giải phóng, Thanh Niên hay Lao Động…


báo chí nhóm ba là các báo, tạp chí hay bản tin còn lại. Tuy có vai trò quan trọng trong việc “định hướng dư luận”, nhưng trừ truyền hình, còn các báo in thuộc nhóm một và hai lại có lượng người đọc ít hơn so với báo chí nhóm ba (tất nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ, ví dụ như báo T.T, tờ nhật báo lớn nhất và có uy tín nhất cả nước, lại chỉ được coi là báo chí nhóm ba).


Chính vì chức năng “tuyên truyền cho các chính sách của Đảng và Nhà nước” cũng như vai trò “định hướng dư luận” được coi là chính yếu, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi trình độ chuyên môn về thông tin của báo chí Việt Nam chưa thể so sánh với báo chí khu vực, chưa nói gì đến báo chí trên thế giới. Trong một giờ lên lớp, khi tôi đề nghị các sinh viên của tôi (đang theo học năm thứ ba của khoa báo chí trường Đại học Xã hội và Nhân văn) thử viết một tin ngắn chừng hai trăm chữ về thông tin một công nhân bị tai nạn ngã chết trên công trường xây dựng, khai thác thông tin này trên mười hướng khác nhau, tôi rất ngạc nhiên khi tuyệt đại đa số họ không hiểu được thế nào là “khai thác trên mười hướng”, thậm chí chỉ trên khía cạnh một tin vắn thông thường, họ cũng chưa viết được.


Thực ra, nếu bạn nhìn vào giáo trình giảng dạy cho sinh viên báo chí, bạn sẽ không thể trách họ được, nhất là khi bạn biết, phần lớn giáo viên giảng dạy tại khoa báo chí lại chưa từng được làm báo theo đúng nghĩa của nó, mà chủ yếu hoặc nghiên cứu về lịch sử báo chí tại các trường đại học thuộc Liên xô cũ, Cu-ba hay Đông Đức, hoặc được chuyển từ khoa Ngữ văn sang. Các tờ báo buộc phải đào tạo lại các phóng viên theo kiểu truyền nghề, từ kinh nghiệm thực tế (như anh C.K của báo S.G.T.T phải tự soạn ra một cuốn sách lấy tên là “Những gì họ không dạy bạn ở trường báo chí” để huấn luyện lại cho phóng viên) nên thỉnh thoảng lại có một đợt sóng trồi sụt về chất lượng của báo chí khi những phóng viên lâu năm nghỉ việc hoặc chuyển sang làm việc ở tờ báo khác


Báo chí Việt Nam hình thành một số nét đặc biệt khác, mà tôi tạm gọi là “văn hóa” để so sánh nó với báo chí quốc tế. Đầu tiên là văn hóa “báo không thể sai”. Ở các nước khác, trước khi đến được với người đọc, thông tin thường phải trải qua một quá trình kiểm tra chéo nghiêm ngặt để đảm bảo tính trung thực và khách quan của nó, và nguồn tin thường được phân cấp về mức độ tin cậy (nguồn tin cấp một- nhận trực tiếp từ nguồn, được tiếp cận văn bản; nguồn tin cấp hai –nhận trực tiếp từ nguồn, không được tiếp cận văn bản; nguồn tin cấp ba- thông tin nhận qua trung gian, không được tiếp cận văn bản…vv).


Trong khi đó, ở Việt Nam, các tờ báo rất ít khi đưa việc kiểm tra chéo thông tin như một qui trình bắt buộc của tác nghiệp báo chí, nên lấy lý do báo sắp ra nhà in, thông tin cần đưa ngay, người ta khá thoải mái trong việc cung cấp các nguồn tin thiếu kiểm chứng. Ngay cả khi đưa tin không đúng sự thật, báo chí Việt Nam cũng rất hiếm khi xin lỗi hay đăng thông tin cải chính- mặc dù luật báo chí có qui định về việc này.




Thiếu sự đòi hỏi nghiêm ngặt về tính chính xác của thông tin sẽ dẫn đến thiếu cạnh tranh gay gắt về thông tin, nên báo chí Việt Nam hình thành một văn hóa “chia sẻ”, trái ngược hoàn toàn với văn hóa “độc quyền” của báo chí nước ngoài. Ở Việt Nam, thông tin có thể được các phóng viên làm việc ở các tờ báo khác nhau chia sẻ với nhau, và các phóng viên ở các tờ báo khác nhau hoàn toàn thoải mái khi cùng ngồi trao đổi hoặc phỏng vấn đại diện của một công ty.


Các phóng viên viết cùng một lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, giáo dục hay y tế hình thành các nhóm chơi với nhau khá thân thiết, và có rất ít cạnh tranh về thông tin giữa họ với nhau. Điều này là trái ngược hoàn toàn với báo chí phương Tây, nơi phóng viên của các tờ báo luôn luôn dè chừng, cảnh giác với phóng viên của các tờ báo khác mà họ coi là đối thủ cạnh tranh trực tiếp, và hầu như không có chuyện họ lại chơi với nhau theo nhóm. Văn hóa chia sẻ này khiến cho những khái niệm như “ dành riêng cho…” (exclusive…) hầu như ít tồn tại ở Việt Nam, và “đặc quyền tiếp cận” không còn là một công cụ hữu hiệu của quan hệ công chúng (“đặc quyền tiếp cận” là một công cụ của quan hệ công chúng, khi bạn cung cấp quyền tiếp cận thông tin hoặc nguồn tin chỉ dành riêng cho một phóng viên hay một tờ báo, do đó tạo giá trị cho riêng tờ báo hay phóng viên đó). “Văn hóa chia sẻ”, cộng thêm với văn hóa “đừng làm ngôi sao” khiến cho các bài viết thường na ná như nhau, ít có bản sắc riêng của người viết, và đặc biệt khi đã có thông cáo báo chí được soạn sẵn, thì việc các bài báo với nội dung giống nhau xuất hiện trên vài ba chục tờ báo là điều thường xuyên xảy ra. “Văn hóa chia sẻ” cũng khiến cho các tin xấu lan đi rất nhanh, và hầu như rất khó làm cái điều mà nhiều khách hàng của chúng tôi đòi hỏi-“bịt” tin xấu lại không cho phát tán ra ngoài. Khi các phóng viên quyết định “đánh” một vấn đề gì đó, họ cũng thường phát động “chiến tranh tổng lực” hay “chiến tranh trường kỳ” dựa trên sự chia sẻ thông tin trong nhóm.


“Văn hóa chia sẻ” của báo chí Việt Nam lại dẫn đến văn hóa “báo không ăn thịt báo”- báo chí Việt Nam rất e ngại trong việc đưa ra những thông tin ngược lại với thông tin đã được đăng tải trên “các báo bạn”, cho dù biết rằng những thông tin đó có thể không chính xác. Phần lớn trường hợp, họ chỉ dùng thái độ im lặng của mình để phản ứng thông tin sai lệch, mà hầu như không bao giờ trực tiếp đứng ra chỉ trích tính tin cậy hay công khai thách thức tính xác thực các bài báo của đồng nghiệp. Có một sự “ngầm định” khi có ai đó có ý định thách thức văn hóa “báo không thể sai” của báo chí Việt Nam


Một nét văn hóa nữa chúng ta có thể nhận rõ trong thời gian vừa qua, đó là văn hóa “lề trái” và “lề phải” của báo chí Việt Nam- rất nhạy cảm về mặt chính trị, có các qui tắc và “cấm kỵ” bất thành văn và chịu sự kiểm soát chặt chẽ về mặt nội dung của các cơ quan chính quyền và tổ chức Đảng. Chuyên gia quan hệ công chúng phải nắm được “văn hóa lề phải”: các định hướng tuyên truyền và các chính sách chính trị, xã hội kinh tế trọng tâm, từ đó khéo léo lồng ghép vấn đề của mình cho phù hợp với chính sách đó, đồng thời phải hiểu được “văn hóa lề trái” những mối quan tâm và bức xúc của quần chúng, phản ánh thông qua báo chí, hiểu được ranh giới mong manh giữa hai lề và sự tế nhị của các tổng biên tập khi phải giữ một khoảng cách vừa phải với cả hai lề


Một đặc điểm nữa của báo chí Việt Nam là văn hóa đồng dạng. Phần lớn các báo hay chương trình truyền hình của Việt Nam có nội dung tương tự như nhau, và không có sự khác biệt quá nhiều về “thương hiệu” báo chí như các tờ T.T, T.N, L.D, N.L.D…Báo chí chuyên ngành ở Việt Nam còn chưa phát triển, nội dung nghèo nàn, chất lượng bài viết không cao và lượng người đọc thấp. Đây là thiệt thòi lớn đối với ngành quan hệ công chúng, vì quan hệ công chúng chủ yếu tác động đến những nhóm đối tượng nhỏ và chuyên biệt (ví dụ như các nhà khoa học, các chuyên gia một ngành khoa học cụ thể, các chính trị gia..vv) mà báo chí chuyên ngành, ở các nước khác, lại là công cụ đắc lực để tác động đến nhóm đối tượng này. Lý do chủ yếu, có lẽ là, thói quen nghiên cứu vấn đề của mình một cách nghiêm túc và khoa học chưa được hình thành ở Việt Nam. Khi các chuyên gia không có thói quen tổng kết những vấn đề mà mình nghiên cứu hay theo dõi, trình bày cho công chúng hay đồng nghiệp của mình dưới dạng các bài viết hay công trình có giá trị thực tiễn, thì sẽ khó có đất cho sự phát triển của báo chí chuyên ngành.


Trong rất nhiều cuộc hội thảo về nghề báo và mối quan hệ giữa quan hệ công chúng và báo chí Việt Nam, có một câu hỏi thường xuyên được nhắc tới, đó là “văn hóa phong bì”. Tôi cố giải thích cho các khách hàng của chúng tôi, những khách hàng bị ràng buộc bới Điều luật về chống hối lộ các cơ quan và tổ chức nhà nước (báo chí Việt Nam, do nhà nước sở hữu và quản lý, nằm trong phạm vi của điều luật này), nguồn gốc của văn hóa này.


Năm 1988, khi tôi rời khỏi Việt Nam, tôi đang nhận tiêu chuẩn tem phiếu hạng N (Nhân dân). Tiêu chuẩn này cung cấp cho tôi hàng tháng một khẩu phần là 13 kg gạo (được tăng lên 18 kg khi tôi vào học đại học), 100 gram thịt (có giá trị chuyển đổi sang 200 gram sườn hay 150 gram mỡ), 500 gram đường và 0.5 lít nước chấm. Với các tiêu chuẩn tem phiếu khác (A-B cho cấp Bộ/Thứ trưởng, C cho cấp Vụ trưởng, D-E cho cấp trưởng phòng, chuyên viên, cán sự), khẩu phần có khá hơn, nhưng tựu trung cũng vẫn là một khẩu phần chết đói. Để giúp cán bộ của mình có thể tồn tại mà không suy nhược đến chết, các cơ quan nhà nước phải có “kế hoạch 3”, bằng mọi cách tăng khẩu phần ăn cho cán bộ của mình.


Tuy vậy, danh chính ngôn thuận các “quĩ đen” như vậy không được công nhận, và phân chia các quĩ như vậy cũng rất phức tạp. Cách chia đơn giản nhất là ở các cuộc họp, mỗi người dự họp được phát một cái phong bì, trong đó có một số tiền nhỏ. Cứ như vậy, hình thành một thói quen, thậm chí là một văn hóa, đó là khi tới dự các cuộc họp, các đại biểu đều được phát một phần quà nhỏ hoặc một phong bì có tiền. Khi tôi làm việc ở Thông tấn xã, chúng tôi có một quĩ nhỏ, do đóng góp của cán bộ trong ban đang làm việc ở các phân xã nước ngoài, quà của địa phương khi chúng tôi đi công tác..vv tất cả được cho vào một “quĩ đen” được dùng vào các việc hiếu, hỉ, thăm nom người ốm và, chia đều cho các cán bộ của tiểu ban dưới dạng phong bì trong các cuộc họp. “Miếng bít-tết mà quí vị đang ăn trong bữa trưa nay”- tôi thường nửa đùa nửa thật nói với họ-“gấp đôi số thịt mà tôi được ăn trong cả tháng, cho nên đừng giận dữ khi chúng tôi bắt buộc phải tìm cách để tồn tại”. Phần lớn các bạn có lẽ còn nhớ câu nói quen thuộc của thời đó “nhà văn-nhà báo-nhà giáo= nhà nghèo”


Chính vì hiểu được lý do bắt nguồn của văn hóa đó, nên trong một thời gian dài, tôi không cảm thấy có vấn đề gì khi trong các cuộc họp báo, các phóng viên nhận một phong bì với một số tiền nhỏ. Chúng tôi coi số tiền nhỏ đó là số tiền bù cho chi phí xăng xe đi lại của phóng viên, những thứ chúng tôi biết tòa soạn sẽ không bao giờ hoàn trả ngược lại cho họ. Dù có nhận phong bì đó, phóng viên cũng không có bất cứ một trách nhiệm nào về nội dung bài viết, về thái độ trong cuộc họp báo…vv.


Điều đáng tiếc là, cùng với thời gian, văn hóa phong bì đã bị biến tướng bới một số công ty quan hệ công chúng hay một số khách hàng coi việc “mua bài” của phóng viên là công việc chính của chuyên gia quan hệ công chúng. Các phóng viên đã tức giận kể cho tôi nghe, trong buổi họp báo của một công ty kinh doanh bất động sản, người phát ngôn của công ty đã viết lên bảng số fax của công ty mình và bảng giá của các bài viết- hỡi các phóng viên, hãy fax bài viết của bạn tới cho chúng tôi và chúng tôi sẽ trả tiền cho các bạn dựa vào nội dung ca ngợi của bài viết! Chúng tôi sẽ đếm chữ để trả tiền, các bạn hãy cố gắng lên! Cho dù làm các nhà báo chân chính tức giận, không thể thừa nhận rằng có một số nhà báo đã bị ảnh hưởng, và “phong bì” trở thành nguồn thu nhập chính của họ, đặc biệt là khi tờ báo không đủ sức nuôi sống họ. Cho nên, chúng tôi đã gặp cả hai trường hợp, khi thì có phóng viên kiên quyết không nhận phong bì có số tiền nhỏ kia, lúc lại có phóng viên thẳng thừng hỏi sao không trả tiền cho họ “kiếm chút cháo” khi mà chúng tôi đã lấy tiền từ khách hàng để “có cơm ăn”.


Theo Nguyễn Thanh Sơn - Giám đốc Điều hành T&A Ogilvy

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2016

Từ khái niệm vật thể hóa phụ nữ …





Tác giả: Nguyễn Huỳnh Mai








Khái niệm “người đẹp” …
Khái niệm về cái đẹp của người phụ nữ chỉ có giá trị tương đối. Thế nào là một phụ nữ “đẹp” thay đổi tùy theo thời điểm, tùy theo xã hội, …

Ai cũng biết bài ca dao “Mười thương”. Thế nhưng tóc bỏ đuôi gà, má lúm đồng tiền, ăn nói mặn mà có duyên, … hiện không còn là những tiêu chí cho các hoa hậu ở xứ ta.

Các người đẹp phải cao, phải có vòng 1 và vòng 3 thật to, phải da trắng, … Sự “độc tài” của các tiêu chí này “lây” sang các lĩnh vực giải trí khác. Rốt cục, các nữ diễn viên, ca sĩ cũng cố gắng mang giày có đế cao, kín đáo (hay ồn ào) nhờ giải phẩu thẫm mỹ để “đẹp”. Có cô còn tuyên bố là “đẹp giả còn hơn xấu thật”. Bất cứ nhà giáo, nhà tư tưỡng nào cũng không thể chấp nhận câu này.

Khác với các sắc diện phụ nữ các nước láng giềng, đi du lịch ở nước ngoài, khi gặp người đồng hương, ai trong chúng ta cũng nhận ra ngay. Thế nhưng, nếu nhìn các người mẫu và hoa hậu Việt Nam hiện giờ, họ giống bất cứ hoa hậu hay người mẫu nào trên thế giới và đồng thời họ khác xa với cái kiều diễm mộc mạc của các thiếu nữ Việt Nam- vì họ đã được chọn theo tiêu chí “quốc tế”..

Rất nhiều các cô gái trẻ hào hứng tham dự các cuộc thi Hoa hậu, Người đẹp, Hoa hậu học đường…

Thật không ngoa khi nói là hoa hậu hay người mẫu Việt là những phụ nữ tình cờ hội đủ các tiêu chỉ hiện thời của thị trường khai thác vóc dáng của các cô.

Bên cạnh các cô, đại đa số phụ nữ khác cũng đẹp, nhưng không sống vì hào nhoáng và không bỏ suốt thời gian mỗi ngày để ngồi trước gương trang điểm..

Cái đẹp là một giá trị, đồng hàng với các giá trị khác như sự thật, công lý và bác ái. Ta nghiêng mình trước các kiệt tác của thiên nhiên, của các nghệ sĩ và cái đẹp của tri thức.

Nhưng cái đẹp của phụ nữ mà một số thành phần đang tôn vinh là một cái đẹp bề ngoài của thể hình, một cái đẹp nhuộm nhiều sắc màu tình dục giới tính, tạo ham muốn cho phái mạnh chứ không phải cái đẹp thuần hậu mặn mà mà ta có thể tưởng tượng khi ta nghĩ đến một hình ảnh phụ nữ vừa đẹp nết vừa đẹp người..

Đến ý thức về thân thể và bản năng bảo vệ thân thể.

Có thể nói trẻ sơ sinh đã có ý thức về thân thể mình : chúng khóc khi bị lạnh, chúng hét khi bao tử bị dày vò bởi cơn đói, chúng thoải mái khi được săn sóc bồng bế, …Ý thức về cái riêng tư của thân thể cũng phát hiện rất sớm : có nhiều nghiên cứu cho thấy, ở nhà trẻ, các cháu, 6 – 8 tháng tuổi, “từ chối” một cô bảo mẫu lạ thay tả cho mình, bỏ ăn khi đau nhức ở đâu đó trong thân thể..

Về liên hệ giữa cá thể và người khác, trẻ đã có nhận định từ 8-9 tháng tuổi nên bắt đầu sợ người lạ. Bắt đầu 6 tuổi, ý thức giới tính đã rõ rệt, … môi trường xã hội trong suốt thời niên thiếu ảnh hưởng rất lớn trên trẻ, chứ không phải đợi đến lúc dậy thì..

Các cô người mẫu và hoa hậu không thoát khỏi các “luật phát triển tâm sinh lý” đó. Có khác chăng là quá sớm, nếu không nói là từ bé, bởi ảnh hưởng của báo chí, internet, các phương tiện truyền thông khác và các khuôn mẫu chung quanh, nên các cô, có khi từ 13-14 tuổi đã bắt đầu “ hành trình” của hotgirl, người đẹp tuổi học trò, … tạo dáng, chụp ảnh, cả những ảnh phô trương những phần nhạy cảm của thân thể. “Mới lạ sau quen”, dần dần các cô xem việc trút bỏ quần áo là bình thường..

Nhìn các ảnh của các người đẹp, nhiều người … lo sợ..

Trước nhất là các kiểu tạo dáng cong lưng ưỡn ngực, những tư thế không bình thường chút nào (các cô sẽ thế nào sau này nhỉ, đau lưng, vẹo sống ?).

Thứ nhì, khoe thân thể, không tôn trọng cái riêng tư của cá nhân, chụp những ảnh phòng ngủ, giường chiếu là đánh mất cái tự trọng căn bản..

Ăn mặc đẹp, đồng ý, nhưng ăn mặc hở hang không có nghĩa là đẹp, nhất là khi cái hở hang đi ngược lại nhu cầu bảo vệ thân thể mình.

Tôi không quan niệm phụ nữ phải che mặt hay phải vận áo quần đen từ đầu đến chân như người theo đạo Hồi, nhưng tôi muốn bảo vệ tính riêng tư của thân thể người phụ nữ, một cái riêng tư bất khả xâm phạm. Đó là chưa nói tới luân thường đạo lý của Việt Nam..

Có người bảo ở bên trời Âu còn “hở” hơn thế nữa. Nhưng sự thật khác hẳn : Ở miền Nam nước Pháp có vài bãi biển “top less” (không mặc áo ngực) nhưng chỉ hạn chế ở đấy thôi và hạn chế trong bối cảnh của mùa hè. Ngoài ra, các “người đẹp” không nhởn nhơ trên các báo chí hàng ngày (trừ vài báo lá cải chuyên đăng chuyện người nổi tiếng) và không ăn mặc khêu gợi ngoài đường phố để gây ảnh hưởng trên giới trẻ. Cách ăn mặc của học sinh, sinh viên các trường bên này hoàn toàn khác với cách ăn mặc của các Lady Gaga. Giới trẻ bên này cũng không mơ túi xách Louis Vuiton hay Chanel như giới trẻ bên Trung Quốc hay ở xứ ta đến nỗi phải cần bán thân để xài hàng hiệu. Các em cũng không bị ám ảnh bởi giải phẫu thẩm mỹ nâng mũi, độn cằm hay nâng ngực….

Vật thể hóa phụ nữ.
Các phương tiện truyền thông thì tặng cho các người đẹp những mỹ từ như “gợi cảm”, “nóng bỏng”, “khó cưỡng”, … toàn là những từ thuộc giới tính. Một người đẹp chỉ là một vật thể giới tính thôi sao?.

Người ta còn tóm tắt những “sở hữu” của các cô bởi chiều dài của đôi chân, vòng đo của bộ ngực – chữ “sở hữu” thông thường để chỉ “vai trò làm chủ một vật dụng”? Các bộ phận của thân thể các cô, như thế, được xem như những vật vô tri chứ không phải là một phần không tách rời được của các cô..

Lại các chữ như “khoe hàng, lộ hàng” được dùng để tả cách ăn mặc của các cô và các bộ phận của cơ thể. Như vậy thì một người đẹp chỉ là một hàng hóa ?.

Nữ hoàng sắc đẹp nhiều khi còn được cho là một “thương hiệu” – tức là một cái gì kinh doanh được, bán được, làm ra tiền được.

Ngôn ngữ tải biểu tượng : trong ngôn ngữ hiện thời, các người đẹp đã bị vật thể hóa từ từ, mà không một ai lên tiếng phản đối. Khi đã bị vật thể hóa thì nhân phẩm các cô có còn hay không ?.

Bị vật thể hóa, không còn phản ứng tự bảo vệ vẹn tròn cơ thể, không còn “vùng riêng tư”, nói ra thì có vẻ nghịch lý nhưng các cô không yêu cơ thể mình (đây là giải thích theo tâm thần học), sẵn sàng phơi bày trước mắt mọi người, dùng cơ thể như một phương tiện mưu sinh. Như thế, đi đến bán thân chỉ còn một bước. Một bước ngắn.

Trước sức mạnh của tiền bạc, phải có bản lĩnh để giữ một cái “đầu lạnh”. Trước cám dỗ của …đô la, phải có khả năng suy nghĩ, cân nhắc, phải có đạo đức. Một chuyện dễ cho những người lớn tuổi nhưng cho một thiếu nữ 18, 20 tuổi, còn nông nổi…chuyện không đương nhiên chút nào..

Ở châu Âu, nhóm chữ “được bảo bọc” (protégée) để chỉ một thiếu nữ không phải lo sự sống mà được một người đàn ông chi tiền giúp, là một cụm từ có ý nghĩa xấu xa. Bên ta thì dịch ra là “sống bám” nhưng nhiều khi người sống bám không lấy đó làm hổ thẹn. Đúng ra, lòng tự trọng cá nhân không cho phép cô ấy núp bóng một người đàn ông như thế – trừ khi người ấy và cô ta sống trong một liên hệ gia đình với bổn phận tương trợ lẫn nhau..

Cách đây gần nửa thế kỷ, phụ nữ Âu Tây nổi lên chống lại hình ảnh phụ nữ “vật cảnh”, “búp bê”, “đồ trang trí” để giành quyền … làm người, đòi được đi học, đi làm, tự lập, …. Hiện nay, một số tựa bài báo của ta trên mạng mời độc giả ngắm “vẻ đẹp búp bê” của vài phụ nữ trẻ. Quả là phản bội những đấu tranh của các bà các mẹ và các chị của chúng ta..

Vai trò của truyền thông ?

Báo chí trên mạng phần đông đi theo thị hiếu của độc giả : chuyện các người đẹp, các đại gia, … ăn khách nên báo nào cũng có chuyên trang về mục này, kể cả những báo “nghiêm chỉnh” nhất..

Thế nhưng cũng nên đánh hồi chuông báo động, kêu gọi giới truyền thông chú ý đến tầm ảnh hưởng của mình trên quần chúng nói chung và trên giới trẻ nói riêng. Trách nhiệm của các cơ quan truyền thông rất lớn. Phơi bày cơ thể phụ nữ trên các phương tiện truyền thông không những xúc phạm phụ nữ mà còn lung lạc trẻ con, ám ảnh trí tưởng tượng của người lớn, thậm chí có thể đưa đẩy tới những chuyện vi phạm thuần phong mỹ tục, hay vi phạm luật pháp (những hiện tượng như cướp, hiếp, mại dâm… mà ta vẫn chưa nghiên cứu nguyên nhân, hậu quả )..

Kết luận

Nhiều người hay viện cớ “có cầu thì có cung” hay ngược lại. Theo lý thuyết này, không ai có trách nhiệm hết mà trách nhiệm đó là do một bàn tay vô hình (khái niệm này của Adam Smith) của thị trường..

Trách nhiệm ở đây liên hệ tới rất nhiều người và cơ quan : những người xem việc tổ chức các cuộc thi sắc đẹp như một hoạt động văn hóa (bán thân thể hay ít nhất bán hình ảnh của thân thể phụ nữ là văn hóa thật à ?), những người sống nhờ những sinh hoạt liên quan đến sắc đẹp phụ nữ, những phương tiện truyền thông ăn theo, sự thiếu cẩn mật và suy nghĩ của một số cha mẹ và sự thiếu chín chắn của một số các cô người đẹp..

Sự kiện một số hoa hậu, hay một số người thuộc giới giải trí chọn cách sống “lạ đời” là quyền của họ. Họ chỉ là một thiểu số. Nhưng có thể cũng cần giúp họ nhìn rõ hơn trước khi họ lựa chọn (để tránh cho họ những “sụp đổ” của ngày mai)..

Trong khi đó, phải làm sao để các cách sống ấy không được đưa ra như khuôn mẫu, không “bình thường hóa” những cái “bất bình thường” để bảo vệ giới trẻ. Để chúng không nghĩ rằng trở thành người mẫu và hoa hậu là một trong những cứu cánh trong đời.

———

http://huynhmai.org/2014/04/07/tu-khai-niem-vat-the-hoa-phu-nu/

Hồng ngọc-giá 300k

Hồng ngọc-giá 300k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh



Trung ương Đảng nhận diện những biểu hiện suy thoái, “tự chuyển hoá”




Tác giả: PT


Nghị quyết Hội nghị TƯ 4 khoá XII của Ban Chấp hành TƯ Đảng được ban hành nêu rõ 9 biểu hiện về suy thoái tư tưởng chính trị, 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ Đảng viên hiện nay. TƯ xác định nhìn thẳng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật… để chỉnh đốn Đảng.
. >> Toàn văn nghị quyết Hội nghị 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng
>> “Cán bộ suy thoái sống ích kỷ, hám danh, ham quyền, vô cảm với dân”


Văn phòng TƯ Đảng vừa thông báo đến các cơ quan ngôn luận, báo chí toàn văn Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XII: “Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ”.

TƯ Đảng thống nhất ra Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng sau Hội nghị lần thứ 4, diễn ra đầu tháng 10/2016.





Tham nhũng tập trung vào số Đảng viên có chức vụ

Nghị quyết nêu rõ, thời gian qua, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về xây dựng Đảng đã tạo được những chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị. Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm.

TƯ thống nhất đánh giá, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi mất sức chiến đấu. Công tác tổ chức, cán bộ và quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái.

Theo đó, việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI ở nhiều khía cạnh chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm

Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn. Tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty.

Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Trong khi đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Nghị quyết nêu rõ hạn chế như việc tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chồng chéo, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả. Cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở. Thiếu cơ chế để xử lý, thay thế kịp thời những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu về năng lực, giảm sút uy tín, trì trệ trong công tác, kém hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực.

Việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ được nhận định chung là còn nể nang, cục bộ. Một số cơ chế, chính sách trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chưa công bằng; chính sách tiền lương, nhà ở chưa tạo được động lực cống hiến cho cán bộ, công chức.

Việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm, còn có biểu hiện “nhẹ trên, nặng dưới”. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu. Việc kê khai tài sản, thu nhập còn hình thức.

Cụ thể hoá biểu hiện suy thoái, tự chuyển hoá

Nghị quyết TƯ 4 lần này nêu rõ 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị

1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ hoạ theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.

3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị

4) Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao.

5) Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.

6) Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu.

7) Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.

8) Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh.

9) Vướng vào “tư duy nhiệm kỳ”, chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích.

9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống cũng được chỉ rõ:

1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.

2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.

3) Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.

4) Mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu”.

5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.

6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên…; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.

7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.

8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội… Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.

9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội.

TƯ cũng chỉ rõ 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ:

1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”.

2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”. Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.

4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi “phi chính trị hoá” quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.

6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.

7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.

8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học – nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ suý cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hoá, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.

9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước.

Nghị quyết TƯ 4 lần này nhấn mạnh quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách.

Với 4 nhóm giải pháp được nêu ra (nhóm giải pháp về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách; nhóm giải pháp về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội), TƯ Đảng thống nhất để Bộ Chính trị ban hành kế hoạch thực hiện, phân công cụ thể và chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết.

Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ được giao chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu, thể chế hoá, cụ thể hoá nội dung Nghị quyết thành các văn bản pháp luật để thực hiện. Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ, cơ quan trực thuộc Trung ương phải tổ chức học tập, quán triệt, chủ động xây dựng kế hoạch, đề án cụ thể để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết.

Nghị quyết được phổ biến đến từng chi bộ Đảng.

—————-

http://dantri.com.vn/chinh-tri/trung-uong-dang-nhan-dien-nhung-bieu-hien-suy-thoai-tu-chuyen-hoa-20161031190928642.htm