" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Ba, 3 tháng 5, 2016
30 THÁNG TƯ 1975, Nhìn Và Suy Nghĩ Của Một Nhân Chứng Trích đoạn từ Hồi ký Nguyễn Hiến Lê
Nguyễn Hiến Lê (1912-1984)
Thơ văn, cả nhạc phản chiến nữa xuất hiện rất nhiều, mà phản chiến tức là phản Mĩ, chính quyền mới đầu còn cấm, sau làm thinh. Ai cũng ghét bọn lính Mĩ; chúng có nhiều tiền. nhiều vật dụng, nhiều đồ xa xỉ (đồ P.X.: dầu thơm, thuốc lá thơm, quần áo. máy thu thanh, tủ lạnh…) tới đâu là mở những hộp đêm ở đó, gây cái nạn trụy lạc, mãi dâm, gái bán “bar”, trai “phi xì ke” (ma túy); chúng ăn cắp, ăn quịt, bán chợ đen… Ngay những kẻ rút rỉa tiền của chúng cũng khinh, ghét chúng. Chúng quả là một đoàn quân chiếm đóng và hành động như một đoàn quân chiếm đóng (NHL)
Vừa đánh vừa đàm – Hiệp định Paris
Từ năm 1965, Mĩ đã dùng phi cơ oanh tạc Bắc việt, có ý buộc Bắc phải điều đình. Mãi đến giữa 1968, hai bên mới bắt đầu thương thuyết với nhau ở Parỉs. Mĩ buộc Bắc phải rút hết quân về. Bắc cũng đòi Mĩ phải rút hết quân về. Nam không chấp nhận Mặt trận Giải phóng. Bắc đòi phảí chấp nhận. Từ đó đến 1973 họ vừa đàm vừa đánh. Để làm áp lực, Mĩ oanh tạc mỗi ngày một mạnh hơn, nhưng càng oanh tạc thì thái độ của Bắc càng cứng rắn, dân chúng càng sát cánh với nhà cầm quyền. Phá hủy khu kĩ nghệ Thái nguyên, Bắc cũng không núng, oanh tạc các đường sắt, đê điều họ cũng không núng; Nga và Trung hoa càng viện trợ khí giới, đại bác. hỏa tiển, phi cơ cho họ.
Cuộc oanh tạc lớn nhất xảy ra năm 1972, sau vụ Bắc việt đại tấn công thành phố Quảng trị, san phẳng thành bình địa. Liên tiếp mười hai ngày, Hà nội bị dội bom. Mĩ còn thả thủy lôi trên các sông Bắc Việt, nhất là biển Hải phòng, không cho tàu Nga ra vô. Trung hoa chỉ lên tiếng phản đối gọi là, còn Nga thì trước sau làm thinh. Một số người ở Sài gòn nguyền rủa Mĩ mà cũng nguyền rủa cả Nga lẫn Trung hoa.
Chúng ta nên để ý: năm 1972, Nixon, tổng thống Mĩ qua thăm Mao rồi thăm Nga, chắc chắn là để tìm một giải pháp cho chiến tranh Việt nam, có lẽ vì vậy mà Mĩ mới dám ngang tàng dội bom Hà nội và phong tỏa hải cảng Hải phòng.
Cả thế giới bất bình với Mĩ: một anh khổng lồ mà ăn hiếp một chú bé, dùng những đòn nặng như vậy, thật vô liêm sỉ. Chính dân chúng Mĩ cũng chê kẻ cầm đầu của họ. Một triết gia Anh, Bertrand Roussell, lập một tòa án ở Na uy (?) để xử tội Mĩ.
Dội bom Hà nội 12 ngày rồi Mĩ ngừng để thương thuyết với Bắc Việt, và ngày 27-1-73, Mĩ, miền Nam Việt nam kí với Bắc Việt và Mặt trận Giải phóng hiệp định Paris có nhiều nước chứng kiến: Nga, Trung hoa, Pháp, Anh.
Tôi không nhớ rõ nội dung hiệp định đó, đại khái là Mĩ rút hết quân về. Bắc cũng vậy; Nam và Bắc trao đổi tù binh với nhau; ở miền Nam sẽ có một chính phủ lâm thời gồm ba thành phần: người của chính phủ miền Nam, người của Mặt trận Giải phóng và một số người không đứng về phe Nam hay phe Bắc, do hai chính phủ Nam và Giải phóng đề cử, số người đó là thành phần thứ ba.
Những bí mật trong chiến tranh Việt Mĩ
Trong chiến tranh Việt Mĩ có nhiều bí mật tôi không hiểu nổi. Mĩ thay Pháp ở Đông dương để chặn làn sóng cộng sản Trung hoa tràn xuống Đông nam Á. Vậy là mới đầu Mĩ thù Trung hoa, sau tại sao lại thân thiện với Trung hoa? Chỉ vì thị trường hàng tỉ người ở Trung hoa chăng? Hay là còn vì Mĩ biết Trung hoa thù Nga từ 1960, mà Trung hoa yếu hơn Nga, cho nên đứng về phía Trung hoa để cho thế lực của Nga giảm đi?
Nga, Hoa đều phải giúp Bắc Việt để chống Mĩ, nhưng cả hai đều gờm nhau: có hồi Trung hoa không cho khí giới Nga viện trợ đi qua Trung hoa để tới Bắc Việt, còn Nga thì không muốn Bắc Việt lệ thuộc vào Trung hoa nhiều quá. Nhờ uy tín và sự khéo léo của Hồ Chí Minh mà Bắc Việt giữ được tình hòa hảo với hai nước đó.
Hình như Nga có hồi khuyên Bắc Việt nhượng bộ Mĩ. Tại sao? Và chính trong hội nghị Paris, Trung hoa cũng muốn vậy chăng? Có phải là cả ba cường quốc Mĩ, Nga, Hoa đều muốn cho miền Nam trung lập, không lệ thuộc vào nước nào chăng?
Còn nhiều bí mật nữa, các sử gia chưa thể công bố được, mà các phóng viên báo Âu Mĩ chưa hề xuất bản một cuốn nào về chiến tranh Việt Mĩ, cho nên chúng ta đành chịu, không hiểu chút gì về những âm mưu của các nước anh chị để định đoạt thân phận của chúng ta.
Ngay từ 1968. trong bài tựa cuốn Bài học Israel tôi đã viết:
“Thực dân nào, bất kì đông hay tây, cũng chỉ nghĩ tới quyền lợi của họ trước hết; còn có lợi cho họ thì họ giúp, hết lợi thì họ bỏ và đàn áp. Do thái bị Anh bỏ rồi Nga bỏ; Ai cập bị Mĩ bỏ, rồi Nga bỏ (…)
“Càng đọc lịch sử thế giới tôi càng thấy đi theo thực dân thì luôn luôn lợi bất cập hại. Phải là một dân tộc có thực lực, có bản lãnh cao, có tài chống đỡ giỏi thì mới có thể khỏi bị họ lợi dụng, nhưng nếu lỡ mà gắn bó với họ thì sớm muộn, thế nào cũng khốn đốn, điêu tàn với họ. Còn các nước nhược tiểu thì chỉ đem thân ra làm quân tốt thí cho họ trên bàn cờ quốc tế. Có lẽ chính Israel cũng hiểu như vậy nên năm 1967 họ đòi trực tiếp thương thuyết với Ả rập, không muốn Nga, Mĩ làm trung gian.
“Nội một điều này cũng đủ cho ta suy nghĩ. Từ sau thế chiến đến nay, cường quốc nào cũng đua nhau chế tạo võ khí cho thật tinh xảo, có sức mạnh tàn phá mỗi ngày một khủng khiếp. Năm nào cũng có những phát minh mới, thành thử võ khí nào tối tân nhất cũng chỉ ít năm hóa cổ lỗ. Họ có liệng xuống biển không, có phá hủy không, hay phải tìm cách “tiêu thụ” mà tiêu thụ ở đâu? Có ở trên đất họ không?”
Đoạn đó, năm 1979, đầu chiến tranh Việt Hoa, môt cán bộ Nam bảo tôi, bây giờ đọc nó mới thấm thía. Và cuốn Bài học Israel được nhiều người tìm mua ở chợ sách cũ mà không còn.
Đầu năm 1972, thấy Nixon sắp bỏ rơi miền Nam, tôi chua chát viết bài “Sau 18 năm tiếp xúc với người Mĩ” đăng trên tạp chí Bách Khoa. Xin dẫn dưới đây một đoạn:
“Họ (người Mĩ) đã tiêu hai trăm tỉ Mĩ kim, hi sinh năm chục ngàn thanh niên, trút hàng triệu tấn bom, làm cho non triệu người mình bi giết, hằng vạn hằng ức mẫu vườn ruộng, hằng ngàn làng mạc bị tàn phá, gây biết bao tang tóc, mấy trăm ngàn phế binh, cô nhi quả phụ, non mười năm rồi mà vẫn chưa giải quyết nổi chiến tranh này (…), rốt cuộc phải tìm cách thương thuyết.
Thương thuyết mấy năm không xong, bây giờ một mặt họ lo vuốt ve Trung cộng (mới mấy năm trước là kẻ thù số 1 của họ) hi vọng tìm một giải pháp cho Đông dương, một mặt họ cấp tốc Việt hóa chiến tranh để rút lui. Họ hai trăm triệu người, một dân tộc hùng cường nhất thế giới, trút hết cả gánh nặng bảo vệ “tiền đồn thế giới tự do” như họ nói, bảo vệ “tân biên cương” của họ như họ chủ trương, lên vai 17 triệu dân Việt nam, mà lại tính cắt hết viện trợ kinh tế nữa, như vậy có khác gì họ chạy làng, đánh trống bỏ dùi không? Lương tâm họ ở đâu nhỉ? Thể diện của họ ở đâu nhỉ?”
Giọng gay gắt như vậy mà sở kiểm duyệt không bỏ một chữ, chỉ vì niềm phẫn uất của tôi là tâm trạng chung của mọi người.
Thơ văn, cả nhạc phản chiến nữa xuất hiện rất nhiều, mà phản chiến tức là phản Mĩ, chính quyền mới đầu còn cấm, sau làm thinh. Ai cũng ghét bọn lính Mĩ; chúng có nhiều tiền. nhiều vật dụng, nhiều đồ xa xỉ (đồ P.X.: dầu thơm, thuốc lá thơm, quần áo. máy thu thanh, tủ lạnh…) tới đâu là mở những hộp đêm ở đó, gây cái nạn trụy lạc, mãi dâm, gái bán “bar”, trai “phi xì ke” (ma túy); chúng ăn cắp, ăn quịt, bán chợ đen… Ngay những kẻ rút rỉa tiền của chúng cũng khinh, ghét chúng. Chúng quả là một đoàn quân chiếm đóng và hành động như một đoàn quân chiếm đóng. Mĩ thất bại ở Trung hoa và Việt nam, nguyên nhân chính ở đó. Mà các thực dân da trắng không nhiều thì ít như vậy hết, tệ nhất là Mĩ. Nếu phe tư bản không thay đổi chính sách thì dần dần đệ tam thế giới sẽ theo phe Cộng hết mặc dầu dân chúng không ưa chế độ độc tài của Nga, Trung hoa.
Mĩ rút về, quân Nam tan rã. Chiến tranh chấm dứt
Đúng là Mĩ chạy làng. Họ vội vã rút hết quân về, và khi không còn một lính Mĩ nào ở Việt nam nữa thì Bắc, Nam lại choảng nhau. Chủ trương Việt nam hóa chiến tranh của Nixon đã được thực hiện.
Mới đầu Nixon cũng cho phi cơ từ Phi luật tân hay đảo Guam trợ chiến với quân đội của Thiệu; nhưng khi nửa triệu quân Mĩ còn ở trên đất miền Nam, quân đội của Thiệu đã không có tinh thần thì bây giờ làm sao có tinh thần được? Thiệu xin thêm viện trợ tiền bạc và võ khí, quốc hội Mĩ không cho, Thiệu nổi khùng, chửi Mĩ thậm tệ hơn một giờ trên đài truyền hình.
Ngày 10-3-75 Việt cộng tấn công Ban mê thuột, ngày 11-3 Ban mê thuột thất thủ.
Ngày 15-3, Thiệu họp các tướng. quyết đinh bỏ Pleiku, Kontum một cách vội vàng, để lại hàng núi chiến cụ. Hai trăm ngàn dân bị bỏ rơi, mạnh ai nấy tự tìm cách thoát thân; Cộng quân chặn đường pháo kích; hai vạn dân bỏ mạng, hằng ngàn người kiệt sức, chết dọc đường.
Ngày 19-3 Quảng trị di tản.
Hôm sau, An lộc thất thủ, sau một thờí gian bị bao vây ngày đêm bị đại bác, hỏa tiễn nã vào.
Kế đó là Huế, Quảng ngãi, Đà nẵng, Qui nhơn, Nha trang bị Cộng quân chiếm một cách rất dễ. Cũng có một vài tướng rán chống cự, nhưng quân lính không tuân lệnh thì chỉ còn cách đào tẩu để thoát thân.
Đà lạt bỏ ngỏ, Phan rang đầu hàng, Phan thiết tan rã.
Ngày 21-4 Xuân lộc thất thủ (trước đó bốn ngày, Nam vang lọt vào tay Khmer đỏ). Thiệu từ chức, Trần văn Hương lên thay. Ít bữa sau Thiệu dắt vợ con qua Đài loan, đem theo không biết mấy tấn vàng.
Ngày 26-4, Trần văn Hương yêu cầu lưỡng viện bầu người khác thay ông để thương thuyết với Mặt trận Giải Phóng.
Hôm sau đại tướng Dương văn Minh được bầu lên thay Hương.
Ngày 30-4, Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng, kêu gọi buông súng cho đỡ chết dân. Mười hai giờ trưa, tướng Trần văn Trà ngồi xe thiết giáp tiến vào dinh Độc lập. Chiến tranh chấm dứt.
Có sách hay báo nói: trong chiến tranh Việt Mĩ này, miền Nam chết khoảng 200.000 quân, miền Bắc chết non 1.000.000 quân; thường dân cả hai miền chết trên một triệu. Trong số này chắc không kể những thường dân miền Nam chết trong khi chạy loạn tháng 3 và tháng 4-1975. Bi đát hơn cuộc chạy loạn của dân Paris tháng 6-1940 nhiều.
Từ miền thượng xuống miền đồng bằng, từ Huế vô Phan thiết, Biên hòa, trên khắp các lộ xe hơi, xe căm nhông chật đường, nhích từng thước một; dân chúng dắt díu, bồng bế nhau chạy. Vợ hay con chết ở dọc đường, đành phải vùi nông ở ngay bên đường rồi chạy… Chạy để tránh cuộc tàn sát ở Huế tết Mậu thân mà người ta không sao quên được. Tới bờ biển Qui nhơn, Nha trang, Phan thiết… người ta nhảy ùm xuống biển, cố lội ra mấy tầu của Mỹ. Người trên tầu cũng là dân tị nạn, xô đẩy, có khi chém vào tay kẻ ở dưới biển đòi leo lên. Trẻ em chết đói, chết khát, chết bệnh ở trên bãi biển, cha mẹ gạt nước mắt, vủi thây chúng xuống cát.
Ở các phi trường, cảnh còn hỗn độn hơn nữa. Người ta bỏ lại hết các va li quần áo, tiền của, vàng bạc để cố leo lên phi cơ, mà cũng bị hất xuống, thế là của cải mất hết mà vẫn không thoát thân. Phi trường Tourane như vậy, phi trường Nha trang, Biên hòa đều như vậy, mà ngay phi trường Tân sơn nhất cũng vậy. Nghe nói có người bám lấy đuôi một chiếc xe Jeep để vào phi trường, bị xe kéo lết cả câv số.
Không có trận Điện Biên Phủ ở miền Nam – tướng Mĩ hứa từ trước như vậy và họ giữ đúng – nhưng còn nhục nhã gấp chục lần Điện Biên Phủ nữa vì họ chịu thua trước rồi, có chống cự tới cùng đâu. Thà như quân Pháp ở Điện Biên Phủ mà còn được tiếng anh dũng. Chính người Mĩ cũng nhận chưa bao giờ nước Mĩ thất bại lớn như vây. Nguyên nhân thất bại cũng như Pháp mà lại mang tiếng phản bạn.
Vậy là hiệp định Paris kí ngày 27-1-73, chưa ráo nét mực đã bị xé. Ai xé trước? Lỗi tại ai? Không biết. Chỉ biết trong mười hai tháng đầu sau hiệp định, trung bình ở Việt nam chết thêm 1.000 người mỗi tuần nữa.
Năm 1976 có thuyết cho rằng tướng Võ Nguyên Giáp không cho quân Bắc tiến vô quá Đà nẵng, nhưng rồi không cản được. Có thực vậy không? Cũng không biết. Vận mạng của bốn năm chục triệu dân Việt do cái gì quyết định? Không ai biết được.
-- o0o --
Chiển tranh Việt-Mĩ chấm dứt sau 15 năm nếu kể từ ngày Mặt trận Giải phóng chính thức thành lập (1960), dài gần gấp hai chiến tranh Việt-Pháp.
Theo P. Singh trong Le jeu des puissances en Asie (Marabout 1974) thì chiến tranh đó làm thiệt hai triệu mạng người (chắc cho cả hai bên) và ở Việt nam cả Nam lẫn Bắc, Mĩ đã liệng trung bình nửa tấn bom xuống mỗi héc-ta đất.
Mĩ đã đổ vào chiến tranh đó trên 200 tỉ đô la.
Nguyễn Hiến Lê
Nguồn trích dẫn: http://www.vietnamvanhien.org/HoiKyNguyenHienLe.pdf
Tác giả: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn Hiến Lê
Chủ Nhật, 1 tháng 5, 2016
Thảm họa môi trường miền Trung và câu hỏi về một số Quy chuẩn VN
FB Phạm Hồng Phong
Đọc thêm: http://petrotimes.vn/vi-sao-thang-42016-lai-co-nhieu-vu-ca-chet-hang-loat-tren-the-gioi-414366.html
.
Những ngày qua, cả nước lên đồng vì cá chết ở miền trung với nhiều suy đoán, thuyết âm mưu và cả “thủy triều đỏ” định hướng.
Hầu như không có báo nào khai thác theo hướng các quy chuẩn và quy định Việt Nam mà Bộ Tài nguyên áp dụng cho việc cấp phép xả thải cho Formosa. Và chưa ai đặt câu hỏi Quy chuẩn đó liệu có… chuẩn hay không và dựa trên cơ sở nào.
Có 2 Quy chuẩn Việt Nam dụng để áp dụng cho trường hợp xả thải của Fomosa:
1- Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước biển: QCVN 10-MT: 2015/BTNMT ban hành năm 2015 thay thế Quy chuẩn QCVN 10-MT: 2008/BTNMT
Giá trị giới hạn của các thông số chất lượng nước biển. QCVN 10-MT:2015/BTNMT
2- Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về nước thải công nghiệp sản xuất thép: QCVN 52: 2013/BTNMT ban hành năm 2013
Giấy phép xả thải 3215/GP-BTNMT của Bộ Tài nguyên và môi trường cấp cho Formosa do Thứ trưởng Nguyễn Thái Lai ký ngày 11-12-2015 dựa trên Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về nước thải công nghiệp sản xuất thép: QCVN 52: 2013/BTNMT ban hành năm 2013.
Theo giấy phép này, nước thải công nghiệp sau xử lý được phép xả ra môi trường tiếp nhận, (trường hợp Formosa là biển ven bờ vịnh Sơn Dương, xã Kỳ Phương, Kỳ Anh, Hà Tĩnh) và các thông số giới hạn nồng độ chất ô nhiễm (của nước sau xử lý) được tính toán dựa trên Quy chuẩn QCVN 52: 2013/BTNMT như sau:
Cmax = C x Kq x Kf
Cmax là nồng độ tối đa cho phép,
C là giá trị thông số ô nhiễm trong nước thải công nghiệp theo cột B (khi xả vào nguồn nước không dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt) bảng dưới:
Theo giấy phép này, nước thải công nghiệp sau xử lý được phép xả ra môi trường tiếp nhận, (trường hợp Formosa là biển ven bờ vịnh Sơn Dương, xã Kỳ Phương, Kỳ Anh, Hà Tĩnh) và các thông số giới hạn nồng độ chất ô nhiễm (của nước sau xử lý) được tính toán dựa trên Quy chuẩn QCVN 52: 2013/BTNMT như sau:
Cmax = C x Kq x Kf
Cmax là nồng độ tối đa cho phép,
C là giá trị thông số ô nhiễm trong nước thải công nghiệp theo cột B (khi xả vào nguồn nước không dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt) bảng dưới:
Kq là hệ số nguồn tiếp nhận nước thải, trường hợp này là vịnh Sơn Dương và Bộ TNMT đã sử dụng 1,3 cho vùng nước biển ven bờ không dùng cho mục đích bảo vệ thủy sinh, thể thao và giải trí dưới nước.
Kf là hệ số lưu lượng nguồn thải. Trong giấy phép Bộ Tài nguyên và môi trường cấp cho Formosa đã sử dụng hệ số Kf là 0,9 tương đương với lưu lượng F >5.000 m3/ngày đêm (trị số lưu lượng lớn nhất trong bảng phía dưới vì không có trị số nào lớn hơn) để tính toán các giá trị thông số giới hạn nồng độ chất ô nhiễm được phép xả ra nguồn thải (vịnh Sơn Dương).
Kf là hệ số lưu lượng nguồn thải. Trong giấy phép Bộ Tài nguyên và môi trường cấp cho Formosa đã sử dụng hệ số Kf là 0,9 tương đương với lưu lượng F >5.000 m3/ngày đêm (trị số lưu lượng lớn nhất trong bảng phía dưới vì không có trị số nào lớn hơn) để tính toán các giá trị thông số giới hạn nồng độ chất ô nhiễm được phép xả ra nguồn thải (vịnh Sơn Dương).
Bảng hệ số Kf sử dụng để tính toán giá trị tối đa cho phép của các thông số ô nhiễm trong nước thải công nghiệp sản xuất thép. QCVN52:2013/BTNMT
Formosa là một Đại dự án, với quy mô xả thải đăng ký để cấp phép lên tới 45.000m3/ngày đêm, nó đương nhiên là giá trị >5000m3/ngày đêm theo quy chuẩn, nhưng gấp tới 9 lần.
Kết quả tính toán cho giấy phép xả thải Formosa đã được cấp, cụ thể là: Nhiệt độ nước xả thải < 40 độ C; độ pH trong khoảng 5,5-9; Chất rắn lơ lửng: 117mg/l; Tổng dầu mỡ khoảng 11,7mg/l; Tổng phenol: 0,585mg/l; Tổng xyanua: 0,585mg/l; Ni tơ: 70,2mg/l; Thủy ngân: 0,0117mg/l.
Công suất xả thải tối đa được phép: 45,000m3/ngày đêm.
Như vậy, theo Giấy phép xả thải và quy chuẩn QCVN 52: 2013/BTNMT, nước sau khi xử lý có hàm lượng dưới các giới hạn nêu trên Formosa được phép xả thẳng ra biển.
Formosa là một Đại dự án, với quy mô xả thải đăng ký để cấp phép lên tới 45.000m3/ngày đêm, nó đương nhiên là giá trị >5000m3/ngày đêm theo quy chuẩn, nhưng gấp tới 9 lần.
Kết quả tính toán cho giấy phép xả thải Formosa đã được cấp, cụ thể là: Nhiệt độ nước xả thải < 40 độ C; độ pH trong khoảng 5,5-9; Chất rắn lơ lửng: 117mg/l; Tổng dầu mỡ khoảng 11,7mg/l; Tổng phenol: 0,585mg/l; Tổng xyanua: 0,585mg/l; Ni tơ: 70,2mg/l; Thủy ngân: 0,0117mg/l.
Công suất xả thải tối đa được phép: 45,000m3/ngày đêm.
Như vậy, theo Giấy phép xả thải và quy chuẩn QCVN 52: 2013/BTNMT, nước sau khi xử lý có hàm lượng dưới các giới hạn nêu trên Formosa được phép xả thẳng ra biển.
Giấy phép xả thải của Formosa (Nguồn ảnh: Báo giao thông)
So sánh với Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước biển: QCVN 10-MT: 2015/BTNMT (ở trên) Quy định giá trị giới hạn các thông số chất lượng nước biển, áp dụng để đánh giá và kiểm soát chất lượng nước biển của các vùng biển, phục vụ mục đích thể thao, giải trí dưới nước, nuôi trồng thủy sản, bảo vệ môi trường biển và các mục đích khác thì các thông số giới hạn như sau:
Bảng so sánh các giá trị giới hạn nước biển
So sánh với Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước biển: QCVN 10-MT: 2015/BTNMT (ở trên) Quy định giá trị giới hạn các thông số chất lượng nước biển, áp dụng để đánh giá và kiểm soát chất lượng nước biển của các vùng biển, phục vụ mục đích thể thao, giải trí dưới nước, nuôi trồng thủy sản, bảo vệ môi trường biển và các mục đích khác thì các thông số giới hạn như sau:
Bảng so sánh các giá trị giới hạn nước biển
Như vậy, theo tính toán thì Formosa được phép xả thải ra vịnh Sơn Dương với hàm lượng Xyanua cao gấp 58,5 lần giá trị giới hạn của nước biển theo Quy chuẩn QCVN 10-MT:2015/BTNMT. Ngoài ra các hàm lượng Cadimi, Crom 6+ được phép vượt quá 11,7 lần, Thủy ngân 2,34 lần, Tổng Phenol 19,5 lần, Tổng dầu mỡ khoáng 23,4 lần.
Và điều này hoàn toàn phù hợp với Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về nước thải công nghiệp sản xuất thép: QCVN 52: 2013/BTNMT
Nhưng với hàm lượng đó, nếu Formosa xả ra biển đúng quy định thì vẫn có thể gây chết hầu hết các loài thủy sinh xung quanh luồng nước thải (đã qua xử lý đạt tiêu chuẩn đúng quy định trên) đi qua. Vì lưu lượng 10-40.000m3/ngày đêm là rất lớn, xả thải liên tục, cục bộ, nước biển sẽ không kịp trung hòa hết được các chất gây ô nhiễm.
Trong các trả lời báo chí, Formosa đều khẳng định họ làm theo tất cả các quy định, quy chuẩn của Việt Nam. Và có vẻ họ đúng, “đồng chí” Chu Nhược Phàm đúng, nhưng đa số người dân Việt Nam đã không chấp nhận cái đúng đó. Vì mọi người thường nghĩ rằng nước đã qua xử lý, đúng quy định, quy chuẩn thì không thể chết tôm cá được. Nhưng theo QCVN 52: 2013/BTNMT để tính toán nước thải thì cá vẫn có thể chết, không tin các mời các nhà khoa học cứ làm thí nghiệm.
Theo báo Tuổi trẻ, sau khi có giấy phép xả thải trong Quý 1/2016, Fomorsa đã xả thải trên 931.830 m3 nước (đã qua xử lý) ra biển, bình quân 10.000m3/ngày đêm, nghĩa là Formosa mới chỉ xả thải chưa đến 1/4 công suất tối đa được phép (45.000m3/ngày đêm) và đó mới chỉ là giai đoạn khởi động, xúc rửa đường ống.
Nếu Formosa đi vào sản xuất thực sự và xả thải tới công suất được phép, có thể khẳng định thảm họa môi trường sẽ kéo dài đến Nha Trang, Phan Thiết, Vũng Tàu thậm chí đến Cà Mau. Dù họ hoàn toàn theo đúng các Quy định, Quy chuẩn, tiêu chuẩn Việt Nam.
Nếu dòng hải lưu biển Đông đổi chiều vào mùa hè thì Vịnh bắc Bộ cũng sẽ bị ảnh hưởng cá chết sẽ lan ra khắp 3,000km bờ biển. Đó sẽ thực sự là một thảm họa kinh hoàng.
Và điều này hoàn toàn phù hợp với Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về nước thải công nghiệp sản xuất thép: QCVN 52: 2013/BTNMT
Nhưng với hàm lượng đó, nếu Formosa xả ra biển đúng quy định thì vẫn có thể gây chết hầu hết các loài thủy sinh xung quanh luồng nước thải (đã qua xử lý đạt tiêu chuẩn đúng quy định trên) đi qua. Vì lưu lượng 10-40.000m3/ngày đêm là rất lớn, xả thải liên tục, cục bộ, nước biển sẽ không kịp trung hòa hết được các chất gây ô nhiễm.
Trong các trả lời báo chí, Formosa đều khẳng định họ làm theo tất cả các quy định, quy chuẩn của Việt Nam. Và có vẻ họ đúng, “đồng chí” Chu Nhược Phàm đúng, nhưng đa số người dân Việt Nam đã không chấp nhận cái đúng đó. Vì mọi người thường nghĩ rằng nước đã qua xử lý, đúng quy định, quy chuẩn thì không thể chết tôm cá được. Nhưng theo QCVN 52: 2013/BTNMT để tính toán nước thải thì cá vẫn có thể chết, không tin các mời các nhà khoa học cứ làm thí nghiệm.
Theo báo Tuổi trẻ, sau khi có giấy phép xả thải trong Quý 1/2016, Fomorsa đã xả thải trên 931.830 m3 nước (đã qua xử lý) ra biển, bình quân 10.000m3/ngày đêm, nghĩa là Formosa mới chỉ xả thải chưa đến 1/4 công suất tối đa được phép (45.000m3/ngày đêm) và đó mới chỉ là giai đoạn khởi động, xúc rửa đường ống.
Nếu Formosa đi vào sản xuất thực sự và xả thải tới công suất được phép, có thể khẳng định thảm họa môi trường sẽ kéo dài đến Nha Trang, Phan Thiết, Vũng Tàu thậm chí đến Cà Mau. Dù họ hoàn toàn theo đúng các Quy định, Quy chuẩn, tiêu chuẩn Việt Nam.
Nếu dòng hải lưu biển Đông đổi chiều vào mùa hè thì Vịnh bắc Bộ cũng sẽ bị ảnh hưởng cá chết sẽ lan ra khắp 3,000km bờ biển. Đó sẽ thực sự là một thảm họa kinh hoàng.
Hiện tại, Formosa vẫn khẳng định không hề sai các quy định của Việt nam. Và điều này có vẻ họ đúng, họ bỏ tiền đầu tư 10 tỷ USD (đã giải ngân 98%), Tổng lượng thuế đóng cho Hà Tĩnh hơn 10 nghìn tỷ đồng trong khi chưa sản xuất ra 1 tấn thép thương phẩm nào. Trước khi đầu tư một dự án 10 tỷ USD, họ đã cân nhắc rất kỹ các yếu tố vị trí, cảng biển, các điều kiện, yêu cầu về môi trường cũng như các ưu đãi về thuế của chính quyền sở tại, đánh giá các mặt, mức độ rủi ro ảnh hưởng đến Dự án, thậm chí các khoản đếm đếm, bôi trơn khi bị bắt bẻ… Họ không dại gì làm sai một chút quy định để phải đóng cửa tổ hợp và mất đi khoản đầu tư khổng lồ đó cả.
Phải nói chân thành rằng Formosa đã làm thay đổi bộ mặt và cuộc sống của nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. Tạo ra gần 40,000 công ăn việc làm. Theo số liệu công khai Dự toán thu chi của Bộ Tài chính, năm 2014, Tổng thu ngân sách của Hà Tĩnh là xấp xỉ 5.000 tỷ đồng, dự kiến năm 2016 là 10.615 tỷ đồng.
Trong tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, 50% đến từ Formosa. Tương lai không xa khi tổ hợp này đi vào hoạt động, Hà Tĩnh sẽ không cần hỗ trợ ngân sách từ TW, mà có thể đóng góp vào ngân sách TW như TPHCM, Hà Nội, Hải Phòng hay Bình Dương… Đó chính là những lợi ích mà Việt Nam có được.
Nói như vậy không phải để bênh vực Formosa, mà muốn nói rằng mọi việc phải dựa trên các quy định của luật pháp Việt Nam, cân nhắc các yếu tố thiệt hơn để có giải pháp chứ không phải chỉ đăng ảnh “Chúng tôi chọn biển, không chọn nhà máy” và kêu gọi tẩy chay để đẩy đuổi, đóng cửa một nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài, điều đó làm ảnh hưởng rất lớn đến môi trường đầu tư của Việt Nam.
GIẢI PHÁP NÀO CHO VIỆT NAM VÀ FORMOSA.
Phải nói chân thành rằng Formosa đã làm thay đổi bộ mặt và cuộc sống của nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. Tạo ra gần 40,000 công ăn việc làm. Theo số liệu công khai Dự toán thu chi của Bộ Tài chính, năm 2014, Tổng thu ngân sách của Hà Tĩnh là xấp xỉ 5.000 tỷ đồng, dự kiến năm 2016 là 10.615 tỷ đồng.
Trong tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, 50% đến từ Formosa. Tương lai không xa khi tổ hợp này đi vào hoạt động, Hà Tĩnh sẽ không cần hỗ trợ ngân sách từ TW, mà có thể đóng góp vào ngân sách TW như TPHCM, Hà Nội, Hải Phòng hay Bình Dương… Đó chính là những lợi ích mà Việt Nam có được.
Nói như vậy không phải để bênh vực Formosa, mà muốn nói rằng mọi việc phải dựa trên các quy định của luật pháp Việt Nam, cân nhắc các yếu tố thiệt hơn để có giải pháp chứ không phải chỉ đăng ảnh “Chúng tôi chọn biển, không chọn nhà máy” và kêu gọi tẩy chay để đẩy đuổi, đóng cửa một nhà máy có vốn đầu tư nước ngoài, điều đó làm ảnh hưởng rất lớn đến môi trường đầu tư của Việt Nam.
GIẢI PHÁP NÀO CHO VIỆT NAM VÀ FORMOSA.
Về phía Bộ Tài nguyên Môi trường, phải xem xét lại QCVN 52: 2013/BTNMT và giấy phép xả thải của Formosa, cũng như cân nhắc rà soát lại các Quy chuẩn, tiêu chuẩn về Môi trường đã ban hành liên quan đến các ngành công nghiệp. Một Quy chuẩn của con người đưa ra không thể coi là chuẩn nếu nó giết chết môi trường sống của con người. Trừ phi cơ sở khoa học khẳng định, phải theo quy chuẩn đó và chúng ta phải chọn được cái này thì phải mất cái kia như ông Phàm nói.
Về Chính phủ, và các địa phương cần xem xét lại, Chiến lược phát triển công nghiệp, cũng như chính sách thu hút các Dự án FDI. Việt Nam cần một nền kinh tế phát triển bền vững, các công nghệ thân thiện với thiên nhiên thay vì chạy theo các con số chỉ tiêu tăng trưởng cao nhưng phải trả giá về đất đai, môi trường và biển. Cần phải từ chối thẳng thừng những Dự án công nghệ lạc hậu, có nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến mỗi trường. Minh bạch các quy trình cấp phép, giám sát Dự án đầu để đảm bảo không có các thỏa thuận ngầm, hay tư túi, lợi ích nhóm (cái này hơi khó, có ông sẽ hỏi có giải pháp nào khác không? :v ).
Cá của ngư dân đã chết, Chính phủ chưa tìm ra nguyên nhân thì phải đánh giá thiệt hại và hỗ trợ khẩn cấp cho người dân để khôi phục sản xuất, quan trắc môi trường và khuyến cáo khi nào có thể sản xuất lại. Trong trường hợp cá chết do nước từ Formosa thải ra nhưng vẫn theo đúng các Quy định, luật pháp của Việt Nam thì lỗi là do Chính phủ, trước hay sau cũng đều là lỗi của Chính phủ. Khẳng định luôn, không nói nhiều. Còn nếu phát hiện lỗi ở Formosa thì khỏi bàn.
Về phía Formosa, dù các ban ngành chức năng vẫn đang “vật lộn” tìm nguyên nhân cá chết, ông Bộ trưởng bộ Môi Tài đã lên tiếng xin lỗi, nhận trách nhiệm, phải nói rất thành thật rằng các bạn biết rõ cá chết ven biển miền trung Việt Nam những ngày qua là do Thủy triều đỏ hay thủy triều xanh hay không.
Một thí dụ đơn giản nhất để biết nguyên nhân từ đâu, các bạn hãy cứ mở van xả thải như bình thường theo giấy phép Bộ Tài nguyên môi trường đã cấp, xem cá có tiếp tục chết không, báo chí có lên đồng nữa không là biết ngay.
Hiện tại, sự bình yên đã dần trở lại, biển đã trong xanh hơn, số cá chết giảm dần, nhưng không phải vì thế mà lòng người dân Việt Nam dịu bớt.
Dù thực hiện đúng theo tất cả các quy định hiện hành của Việt Nam, các bạn cần phải ngồi lại với Hà Tĩnh, Bộ Tài nguyên và Môi trường để đưa ra một giải pháp có lợi cho cả hai bên, Tổ hợp thép Hưng Nghiệp Formosa vẫn hoạt động hiệu quả, và biển của Việt Nam không bị giết chết. Nếu biển Việt Nam bị bức tử, Tổ hợp của các bạn cũng sớm muộn đi theo, đó là điều chắc chắn.
Phần chi phí tăng thêm để xử lý nước thải triệt để hơn trước khi xả ra biển thì 2 bên cùng gánh, hoặc các bạn gánh cả cũng được, tùy khả năng thương lượng.
Về phía các nhà báo, các ký giả, ký thật đáng kính. Chúng tôi cần những thông tin sự thật, trung thực, khách quan, và khoa học, chứ không phải chạy theo các bài báo giật gân, câu view, hay định hướng, dắt mũi chúng tôi như trâu bò.
Về phía người dân Việt Nam, cố gắng xem thông tin đa chiều, nâng cao hiểu biết để biết chỗ nào đúng, chỗ nào sai, thay vì lên đồng và bị truyền thông giật giây, dắt mũi như những con rối.
Việt Nam vẫn là một góc nghèo của thế giới, vẫn cần những dự án đầu tư, tạo công ăn việc làm thay đổi bộ mặt đất nước, nâng cao thu nhập của người dân, chất lượng của cuộc sống và an sinh xã hội.
Vụ việc Formosa, tất cả phải dựa trên luật pháp, chứ không đấu tố vu vơ. Vụ biểu tình, đập phá các nhà máy, xí nghiệp có chữ Tàu năm 2014 (khi TQ hạ đặt giàn khoan ở Biển Đông) làm người nước ngoài nhìn Việt Nam như một thứ man rợ, mình đi đâu họ cũng hỏi tại sao chúng mày đập phá các nhà máy Singapore, Đài Loan, họ có phải là Trung Quốc đâu. Mình có cả đồng nghiệp Đài Loan và TQ, nhưng phải nói thật rằng họ rất khác biệt. Các đồng nghiệp Đài loan rất chừng mực và chuyên nghiệp, họ hầu như không nhận mình là người TQ, họ đều nói họ là Taiwanese thay vì Chinese.
Làm tổn hại môi trường đầu tư, chính là hại người dân Việt Nam, và hại chính chúng ta.
Thứ Sáu, 29 tháng 4, 2016
ĐẤT NƯỚC MÌNH... ( nhân đọc bài ĐẤT NƯỚC MÌNH NGỘ QUÁ PHẢI KHÔNG ANH)
Đất nước mình thú vị lắm phải không em
người thất nghiệp vẫn sáng say chiều xỉn
ngã xuống rồi lắm người đưa tiễn
thắp nén nhang mong người chết thành tiên.
Đất nước mình may mắn lắm phải không em
ngày lại ngày qua ba đài xổ số
hàng trăm người mạng sanh vận đỏ
đổi thay đời thành tỷ phú như ai
Đất nước mình tự hào lắm phải không em
xây tượng đài lễ hội nhiều hơn bệnh viện
tháng tháng rong chơi sống vui hoài niệm
dân tộc anh hùng đánh gục ngoại bang
Đất nước mình nhân ái lắm phải không em
chùa chiền nhiều hơn quán cơm từ thiện
phật tứ phương một lòng cầu kiến
xin an bình cúi lạy muôn niên
Đất nước mình can đảm lắm phải không em
tám trăm ngàn tấn bom mìn còn là rác thải
bốn ngàn người một năm nào sợ hãi
xác lìa hồn chỉ như tai nạn số trời định phân
Đất nước mình xinh đẹp lắm phải không em
mình hạc xương mai ba vòng kỳ mỹ
Bắc- Trung _ Nam đều mang tuyệt kỷ
như thi sĩ mỗi người mỗi vẽ " mười phân vẹn mười"
Đất nước mình thoải mái lắm phải không em
nhà " dân chủ' ai ai cũng lắm tài
chữ " giàu" đi với chữ "sang"
oang oang diễn đàn " thả tép bắt tôm"
Đất nước mình nhiều...nhiều chuyện lắm phải không em
nếu có kể bốn ngàn năm chưa hết
nên em ơi xin đừng vội kết
đất nước mình sao chẳng giống đất nước người ta...
Nhưng có một điều anh muốn kể
đất nước mình có "khủng bố" đó em!
Thứ Tư, 27 tháng 4, 2016
về bức “Tam Bạc” của Mai Duy Minh
Yết Kiêu & Dã Tượng
Xin được mở đầu chùm bài nhỏ này bằng một bức tranh của họa sĩ mà tôi yêu mến: Mai Duy Minh.
Mai Duy Minh sinh tại Hải Phòng, năm 1976, rồi ra Hà Nội học Mỹ thuật Yết Kiêu khóa 1994 – 1999. Hiện anh sống và làm việc tại Hải Phòng, thuộc nhóm họa sĩ theo đuổi trường phái Hiện thực – thứ hiện thực mạnh mẽ và quyết bám chắc lấy cái chuyển động của đời sống, chán ngán với những bức tranh nho nhỏ vẽ con mèo nằm bên bình hoa hay tĩnh vật con cá trên cái đĩa v.v… – loại tranh tĩnh đặt vào thời nào cũng vẫn là thế, không phải là trường tồn mà là nhàm chán đến phi thời gian.
Hải Phòng là một thành phố nay đã buồn và như bị bỏ lại, không phải là lùi hẳn lại như vào quên lãng hẳn như những trung tâm đã bị dời đi, chỉ như một nơi lỗi mốt so với các đô thị “đáng sống” khác. Mai Duy Minh sau bao nhiêu năm lăn lộn ở Hà Nội và các phong cách vẽ khác nhau (có khi vẽ cả những bức rất như “làm hàng”, loại dễ treo trong các khách sạn sang hay nhà các tùy viên sứ quán có vợ Việt), đã trở về Hải Phòng và lựa chọn một lối vẽ khắc nghiệt khác, nhưng như thế hình như càng đẹp hơn. Tôi tạm gọi là “hiện thực khắc nghiệt của tay bất mãn”.
“Đường Mây”, 2011, một bức mà theo tôi là rất “chợ” của Mai Duy Minh
Nhắc đến Mai Duy Minh là ai cũng nói đến bức tranh bát cơm khổng lồ với đôi bàn tay nhăn nheo bưng có tên “Miền Đất Hứa”. Tranh có kích thước khổng lồ (5.4m x 2m) không hiểu hiện treo ở đâu, đã bán được chưa. Nhưng hôm nay tôi muốn bàn về bức “Tam Bạc” giản dị của anh. Tôi chỉ được xem qua mạng, chưa có dịp đến nơi xem trực tiếp, không biết khổ tranh thế nào. Màu trên máy có thể khác xa với màu bên ngoài. Những bạn nào đã có cơ hội xem bên ngoài xin hãy góp thêm vào cho xôm tụ. Câu này tôi cũng sẽ nhắc đi nhắc lại trong những bài sắp tới.
Mai Duy Minh, “Tam Bạc”, sơn dầu, 2012. (Các bạn bấm vào hình để phóng to)
Tam Bạc trong tranh này là phố cổ Tam Bạc, nằm bên bờ sông Tam Bạc. Trước kia phố mang tên nhà tư sản Việt Nam chuyên ngành tàu biển là ông Bạch Thái Bưởi, sau đổi lại là phố Tam Bạc. Gốc thì phố có nhiều người Hoa sống và làm ăn. Giờ đây xuống Hải Phòng chơi, người ta không thể không nhẩn nha đi dọc phố cổ này và cảm giác trộn lẫn giữa phố cổ Hà Nội với phố cổ Hội An, với điểm đặc trưng là màu vàng của vôi nhà của những ngôi nhà lầu cũ.
Một đoạn phố phố bên sông Tam Bạc. Ảnh của decu_decu
Mai Duy Minh chọn một căn nhà lầu phố chợ trên phố này làm chủ thể cho bức tranh mình vẽ. Nhà hai mặt tiền, cấu trúc mái nhọn kế mái bằng tạo lớp. Cửa sổ nhỏ và cao, sơn xanh đậm. Tường vôi vàng rất “phố cổ”.
Nhìn từ bên hông. Ảnh từ trang này
Nhà này nhìn ra bến đò ngang trên sông, và có lẽ cũng là chủ thể trong nhiều tác phẩm của các tay máy Hải Phòng.
.
“Tam Bạc” vẽ lối tả thực nhưng tôi không nghĩ Mai Duy Minh đã ngồi bên sông, nhìn căn nhà mà làm phác thảo, hoặc vẽ trực tiếp với giá vẽ ngoài trời. Có thể anh đã vẽ từ một cái ảnh chụp, sau khi zoom ra cho gần lại và to lên. Nhưng dù thế nào, đây là một bức tranh đã vẽ ở thì quá khứ, mang nhiều tính chất của hoài niệm. Hoài niệm của ta về một kiến trúc thường không có người, trong tranh này phố Tam Bạc là phố buôn bán sầm uất nhưng cũng không có người – không có cả đến vật dụng của con người đang sống. Bến đò cũng vắng tanh… Nhưng phố trong tranh vẫn sống, bởi vì nó chứa một thứ gì đó cựa quậy. Thứ gì ta còn chưa rõ, phải xem kỹ tranh hơn nữa.
Chi tiết tranh
Trạnh Mai Duy Minh vốn có một phổ màu vàng rất rộng, với độ trong đục thay đổi tùy tranh, tùy đề tài. Nếu như trong “Miền Đất Hứa” là một màu vàng của Siêu thực tràn ngập các đối tượng trong tranh, với sắc độ dâng dần, từ mặt đất vàng xỉn lam lũ, lên tột cùng ước mơ là màu vàng trong của những ngón tay bưng bát cơm trắng ngà…,
“Miền đất hứa”, Mai Duy Minh, sơn dầu, 540 x 200cm, 2011
… thì trong bức “Tam Bạc”, màu vàng chỉ dành riêng cho đối tượng chính là cái nhà góc phố với cửa sổ xanh, các ngôi nhà khác được đánh màu xanh hoặc xám hoặc nâu nâu nhạt nhẽo, để “nhân vật chính” sáng bừng lên trong ánh đèn spotlight rọi vào. Ở đây, màu vàng của ngôi nhà này được nâng lên, thành một màu vàng sau khi đã lọc qua sự nhớ lại, là một màu vàng của quá khứ, không còn thật nữa, tương tự màu kỷ niệm của người đi xa nhớ về nơi cũ thì màu bao giờ cũng sai đi, rực rỡ hơn, khiến sau này quay lại ngỡ ngàng và cả bẽ bàng vì không nhận ra! Ta bắt chước Đoàn Phú Tứ gọi đó là thứ “màu thời gian“.
Chi tiết tranh
Đã là trí nhớ thì nhập nhoạng, cái nổi rõ nét quá đà, cái mờ đi tù mù. Trong “Tam Bạc”, những hàng phượng không nở hoa, bóng xanh chỉ là mảng xanh lẫn lộn lá với cành thành một khối. Trong khi ấy những thanh rào bên bờ sông lại rõ từng nét, và rõ cả đến xà bần, rác rến nơi mép sông, vết gạch vỡ ở trụ hàng rào, những bậc thang dẫn xuống bến đò. Họa sĩ vẽ rất tỉ mỉ những chi tiết ấy. Sự tỉ mỉ này chính là những cử động của ký ức, làm cho bức tranh này tuy không người mà vẫn có sự sống động của sinh hoạt.
Chi tiết bờ sông trong tranh
*
Đi Hải Phòng rất dễ dàng. Từ Hà Nội lấy xe khách ở Lương Yên hay lấy tàu ở Long Biên, ngồi đọc xong quyển sách nhỏ hoặc chơi game là đã tới thành phố hoa phượng đỏ, bình an và vẫn còn nét ngang tàng, kiêu hãnh của những “anh chị” sông nước một thời. Nhìn thấy sự trộn lẫn giữa cái bạo liệt một thuở với cái yên ả về hưu của thành phố này giúp tôi lý giải việc Mai Duy Minh chọn hướng đi hiện tại cho đường sáng tác của anh. Những bức tranh của Mai Duy Minh, giá như không quá to, vẫn đẹp như thế này nhưng khổ nhỏ đi, cô đọng nữa vào, thì sẽ dễ dàng đi vào các bộ sưu tập không cần của các tay mua tranh thế giới, mà của chính những tay chơi tranh Việt Nam. Sở hữu tranh của Mai Duy Minh chính là sở hữu ký ức về nước mình, ghi lại bằng tranh và nét tài hoa của một người đã định được hướng đi bền vững.
*
Nghĩa của tiếng Việt: từ cắm (hoa) cho tới sáp nhập
Cùng học tiếng Việt
Đây là một từ Hán-Việt, viết đúng chính là sáp nhập, nhưng hay bị viết sai thành sát nhập.
Cùng một bài báo mà lung túng giữa hai từ
Sáp có nghĩa là “cắm, cài, nhét, nhúng”. Để nhớ chữ này, bạn có thể nghĩ về chữ insert tiếng Anh hoặc trên bàn phím máy tính của bạn. Sáp còn có nghĩa là trồng hoặc cấy, vì phải nhét hạt giống hoặc cắm cây con vào đất. Nhập nghĩa là “vào”. Vậy sáp nhập có nghĩa là gom vào, cắm vào, cài vào, cho cái này vào trong cái kia.
Ví dụ câu thơ chữ Hán sau của Nguyễn Du trong Quỷ Môn Quan dùng chữ sáp nhập:
Liên phong cao sáp nhập thanh vân
(Núi liền nhau cao vút, lồng vào mây xanh)
Quỷ môn quan, Lạng Sơn. Hình từ trang này
Hay hai câu sau của Nguyễn Phúc Ưng Bình trong Lộc Minh đình thi thảo dùng chữ sáp nghĩa là cắm (hoa):
Sáp mai tảo ngụ tầm xuân ý,
Ngã tặng đồng nhân nhân tặng dư.
(Sáng sớm cắm hoa mai tìm chút hơi xuân
Ta tặng cho người, người lại tặng cho ta)
Cắm hoa. Tranh từ trang này
Ngoài sáp nhập, tiếng Việt hiện đại không dùng chữ sáp/cắm-cài này trong từ ghép nào nữa (Ngoài nghĩa “cài cắm”, sáp còn là nến). Vì thế, nghĩa gốc Hán-Việt của nó dễ bị những người không để ý lãng quên, và dùng sai thành sát nhập – một chữ vô nghĩa, do chữ sát này có một nét nghĩa khiến chúng ta bị lẫn lộn.
Sát đang nói ở đây là một từ Hán-Việt có nghĩa là chà, cọ, xoa vào nhau (ví dụ: ma sát = mài cọ). Sát được Nôm hóa thành xát, và dùng trong các từ ghép Nôm như cọ xát, xây xát, xát muối.
Chính nét nghĩa cọ vào nhau này khiến sát phát triển nghĩa thành “ở rất gần nhau” (ví dụ: sát sườn, sát rạt, đôi khi biến âm thành sít). Những người dùng chữ sai “sát nhập” có thể đã hiểu theo ý là “những cái ở gần nhau đem nhập vào nhau”.
*
Các bạn xem thêm về các từ khác ở FB Cùng học tiếng Việt nhé
IM LẶNG : một nghệ thuật sống
Im lặng là vàng. Có thực sự vậy không? Có những khi cần phải nói, thậm chí là nói nhiều, để khả dĩ mang lại lợi ích cho người khác, để giải hoà, để hoà hợp và cảm thông, hoặc để bảo vệ chân lý.
Tuy nhiên, có đôi khi lại cần im lặng, lúc đó sự im lặng có giá trị hơn nhiều. Và lúc này chính sự im lặng lại “nói” nhiều hơn. Đó là đặc ngữ của sự im lặng, một loại văn hoá kỳ diệu, nhưng không dễ thực hiện.
Nói hoặc im lặng đều phải đúng nơi, đúng lúc, đúng người, và chỉ sử dụng khi thực sự cần thiết. Lời nói có thể là lưỡi gươm, mà gươm chưa dùng thì cứ để trong bao. Im lặng là diệu kế nếu lời nói vô ích, nếu không thì có thể phản tác dụng.
Thật chí lý câu nói của T. Man: “Người khôn ngoan mang tất cả tài sản vào trong đầu”. Đó chính là giá trị của sự im lặng. Nhưng
khi nào nên im lặng?
1. Khi người khác buồn phiền, đau khổ
Tuy nhiên, có đôi khi lại cần im lặng, lúc đó sự im lặng có giá trị hơn nhiều. Và lúc này chính sự im lặng lại “nói” nhiều hơn. Đó là đặc ngữ của sự im lặng, một loại văn hoá kỳ diệu, nhưng không dễ thực hiện.
Nói hoặc im lặng đều phải đúng nơi, đúng lúc, đúng người, và chỉ sử dụng khi thực sự cần thiết. Lời nói có thể là lưỡi gươm, mà gươm chưa dùng thì cứ để trong bao. Im lặng là diệu kế nếu lời nói vô ích, nếu không thì có thể phản tác dụng.
Thật chí lý câu nói của T. Man: “Người khôn ngoan mang tất cả tài sản vào trong đầu”. Đó chính là giá trị của sự im lặng. Nhưng
khi nào nên im lặng?
1. Khi người khác buồn phiền, đau khổ
Biết vui với người vui, buồn với người buồn. Đó là động thái của người có giáo dưỡng, tri thức, biết điều, biết cư xử và thấu cảm. Không gì vô duyên hơn khi người khác khóc mà mình lại cười – hoặc ngược lại. Sự “lệch pha” đó khả dĩ khiến chúng ta trở nên lố bịch, hợm hĩnh và kiêu ngạo.
2. Khi người khác suy tư, lao động trí óc
Sự im lặng là “vương quốc” của hoạt động trí óc. Nhờ đó mà có những kiệt tác, sự cao thượng, sự hiểu biết, sự trưởng thành, sự hồi tâm… Văn hào W. Goethe xác định: “Tài năng được nuôi dưỡng trong cô tịch, còn chí khí được tạo bởi những cơn sóng dữ của giông tố cuộc đời”. Thấy người khác trầm tư mặc tưởng, đừng phá “khoảng riêng” của họ. Sự im lặng lúc đó thực sự cần thiết và có ý nghĩa.
3. Khi người khác không hiểu mình
Khi chưa được hiểu, chúng ta cần cởi mở và hoà đồng để người khác có thể hiểu mình hơn – dù không thể hiểu hết. Nhưng nếu bạn cảm thấy người ta thực sự không thể hiểu hoặc không muốn hiểu thì tốt nhất là im lặng. Nếu không, những gì bạn nói có thể gây “dị ứng” hoặc hiềm thù.
4. Khi người khác nói về vấn đề mình không am hiểu
Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe. Người khôn ngoan chỉ nói những điều mình biết rõ và hoàn toàn im lặng đối với những gì mình không biết hoặc mơ hồ. Đừng ảo tưởng mình là “bách khoa tự điển”. Nhà bác học A. Edison nói: “Điều chúng ta biết chỉ là một giọt nước, điều chúng ta không biết là cả đại dương”. Còn hiền triết Socrates thừa nhận: “Tôi không biết gì cả, đó là điều tôi biết rõ nhất”. Chỉ là người bình thường, chúng ta càng cần khiêm nhường mà biết im lặng.
5. Khi người khác khoe khoang, lý sự
Thùng rỗng kêu to. Càng hiểu biết người ta càng ít nói, thâm trầm và cảm thông. Trong 4 phép toán, phép trừ là… “dễ” nhất, nhưng lại đầy ý nghĩa. Chỉ vì ngu dốt nên mới độc đoán, khắt
khe hoặc cố chấp. Khoe khoang và lý sự là “đặc điểm” của đầu óc nông cạn, thiển cận. Dốt thì hay nói chữ để cố che lấp khiếm khuyết của mình.
6. Khi người khác không cần mình góp ý kiến
Đừng bao giờ “xía” vào chuyện của người khác hoặc tò mò chuyện của họ. Vả lại, nói nhiều thì sai nhiều. Nói thiên lệch thì mất lẽ chính, nói huênh hoang rồi đến chỗ đuối, nói xiên xẹo rồi đến chỗ sai trái, nói giấu giếm sẽ đến chỗ cùng.
Cibbon nói: “Đàm luận khiến người ta hiểu biết, nhưng im lặng là trường học của sự khôn ngoan”. Im lặng còn là yêu thương, tha thứ, và là cuộc sống.
Tuân Tử dạy: “Im lặng, lắng nghe, ghi nhớ, hành động và khôn ngoan là 5 cung bậc khác nhau của trí tuệ”. Có thể coi đây là ngũ-cung-sống của cuộc đời. Tóm lại, im lặng là một nghệ thuật kỳ diệu và là cách thể hiện văn hoá cao cấp.
Nói ra được thì tốt nhưng có khi im lặng lại tốt hơn. Ta nên học lắng nghe để hiểu, dừng lại để thương. Nhưng khó đấy, bài học này chỉ dành tặng cho những ai đã biết buông bỏ ngạo mạn, biết đời sống là vô thường bất chợt.
Vừa rồi trò chuyện với người bạn, anh ta nói: trong cuộc sống, rất ít người chịu học lắng nghe và im lặng. Bởi vì họ không muốn thua kém, không muốn khiêm cung để nghe rõ những gì người khác nói. Thậm chí, họ giành nói như để tận dụng hết thời gian gặp nhau, sợ thiệt thòi khi ra về mà đối phương chưa rõ hết câu chuyện. Thì vậy, cuộc sống là muôn màu!
Ngày xưa, ngay chính ta cũng ham nói, vào cuôc họp cứ uyên thuyên bất tận, ra café với bạn thì lắm nỗi niềm… Lúc nào cũng muốn nói ra, muốn trút xuống, có khi quá cao trào bi đát, khóc thương. Nghĩ lại, ngày xưa ta ích kỷ thật, chỉ muốn nói cho thỏa. Thậm chí, hay gân cổ cãi lại mỗi khi có vấn đề gì đó về quan điểm. Người sai rồi, ta đúng! Rồi… ta đã được gì trong “đúng – sai” đó?
Thật vậy, nhu cầu chia sẻ ai cũng có. Nhưng để làm người hứng chịu và biết lắng nghe, đếm được mấy người? Cảm xúc con người vô cùng phức tạp, tuổi càng cao, trái tim càng thu nhỏ, dù đã được bao bọc rất kỹ nhưng chỉ cần một lời nói vu vơ cũng có thể như mũi nhọn xé nát lòng người. Thành ra, người lớn chỉ nghĩ mà không cần nói, còn người trẻ thì cứ nói mà không cần nghĩ!
Người ta càng về già càng thấy cô đơn, hay hoài niệm về thời son trẻ rồi bới tìm, rồi thở dài… Có lẽ, họ tiếc nuối điều gì của ngày đã qua. Người trẻ thì nôn nao mong cho ngày mau tới, sẽ vứt bỏ nếu không thích, cần gì người khác hiểu. Và dĩ nhiên không bao giờ chịu im lặng!
Ta ví cuộc đời như trò chơi xếp chữ. Ai cũng được phát cho 1000 miếng, ai cũng có thời gian hoàn thành giống nhau. Chỉ có điều là con người ít khi kiên nhẫn chịu xếp cho mình đến mảnh cuối cùng để tận hưởng vẻ đẹp thực sự nằm bên trong đâu đó.
Đa phần người ta than thở hoặc nóng nảy và cố gắng chắp vá, chồng chéo tất cả vào nhau, rối tung, mệt mỏi, chán nản, trách đời bất công, sao ông trời khó khăn với người này, dễ dãi với người kia?
Chỉ có những ai đi đến cuối cùng của sự tận tụy mới nhận ra bức tranh cuộc sống thật đẹp, thật xứng đáng. Và có khi để hoàn thành nó, người ta đã âm thầm đi tìm, luôn kiên nhẫn và im lặng. Người ta phải nhẹ nhàng tìm kiếm, kể cả chẳng may ghép vài lần mà không đúng.
Thì đã sao? Ta có 1.000 cơ hội kia mà. Lần này chưa được, lần sau sẽ được, chỉ cần bạn đủ niềm tin. Vì tin sẽ thấy, tìm sẽ gặp. Nếu ta tin chắc chắn mình sẽ hạnh phúc thì đã có hạnh phúc rồi đấy.
Hạnh phúc ngay giây phút này đây, yên bình và thanh thản. Không một chút quấy rầy, không chết chóc hay chiến tranh. Đẹp quá phải không? Nếu có nhiều hạnh phúc hơn thế, hãy mang chia sớt nhé nhưng nhớ lặng thầm. Khẽ thôi, họ sẽ biết cảm nhận. Yên tâm…!!!
Vụ cá chết: Nhận định rùng mình của 3 nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài
Trong lúc chờ kết luận của cơ quan chức năng, chúng tôi đưa ra những bằng chứng sau để dự đoán khả năng hai trường hợp có thể xảy ra.
Để khẳng định một cách chính xác, các phương pháp phân tích hóa chất thường dùng trong các phòng thí nghiệm hóa học, phân tích chất lượng nước... có thể xác định chính xác hóa chất gây cá chết .
Thí dụ dùng phương pháp Atomic Absorption Spectroscopy (AAS) có thể tìm ra những kim loại nặng hấp thụ trong cá chết hoặc Gas Chromatography Mass Spectroscopy (GC-MS) xác định hàm lượng vết các chất hữu cơ.
Những thí nghiệm này không quá phức tạp chỉ cần trình độ cử nhân hóa học là làm được.
Tuy nhiên không hiểu lý do vì sao cho đến giờ chưa có một báo cáo nào công bố cụ thể các chỉ số cho toàn dân biết để phòng tránh.
Trong lúc chờ kết luận của cơ quan chức năng, chúng tôi đưa ra những bằng chứng sau để có thể đưa ra nguyên nhân cá chết do nhiễm độc kim loại nặng.
Trường hợp 1: Nhiểm độc kim loại nặng (KLN)
Chất có khả năng giết hàng loạt cá biển trên một diện rộng như thế phải là chất kịch độc như KLN và kể cả chất phóng xạ.
Theo thiết kế của khu công nghiệp, cổng xả thải được đặt ở vị trí 1,5 km ngoài khơi, nơi được cho là có khả năng làm loãng mọi hóa chất một cách nhanh chóng do dung lượng lớn của nước biển.
Tuy nhiên, đối với các KLN như chì thì một lượng rất nhỏ chỉ cần 1 g trong 1,000,000 litter nước cũng đủ chết người (Nồng độ IDLH (Immediately Detrimental to Life and Health) từ Environmental Protection Agency (EPA -Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ) và 1 g trong 10 triệu litter nước đủ nguy hại đến cá).
KLN khối lượng riêng nặng nên khi bị phát tán sẽ dần chìm xuống dưới nên mới gây chết rất nhiều cá ở tầng đáy.
Như các thông tin báo chí đăng có thể thấy cá sống ở lớp nước sâu bị ảnh hưởng nhiều hơn cá sống ở lớp nước mặt.
Điều đó có thể là dấu hiệu cho thấy do các hợp chất chứa KLN chìm xuống dưới làm chết các loại cá và sinh vật dưới đáy biển.
Kết luận kiểm tra của Sở NN&PTNT Thừa Thiên - Huế cho biết, nguyên nhân cá chết hàng loạt là do pH nước thay đổi đột ngột, chất lượng phú dưỡng (PO43-) tăng cao đột ngột.
Câu hỏi đặt ra “PO4 từ đâu ra và tại sao pH nước tăng đột ngột?”
So sánh đá ở khu vực Vũng Áng và đá phosphorite
Nước thải từ Formosa
Đá ở khu vực Vũng Áng rất giống loại đá phosphorite: có lỗ nhỏ và màu ngả vàng.
Ta có thể thấy nước thải của Formosa có màu vàng, rất giống với màu đặc trưng của nước thải khi khai thác phosphorite.
Cấu trúc của đá phosphorite điển hình thường có chứa gốc iôn kim loại nặng và PO43-
(Một số ít ion bạc trong cấu trúc này có thể được thay thế bởi các loại kim loại nặng khác nhau). Khi khai thác đá phosphorite sẽ giải thoát một lượng lớn PO4, ion Ag cũng như một số kim loại nặng vào nước thải.
Phosphoric acid là một acid yếu do đó với lượng lớn PO4 3- ion, theo nguyên tắc chuyển dịch cân bằng Le Chatelie, chiều phản ứng sẽ bị đẩy ngược để tạo nhiều OH ion hơn và do đó nâng cao độ pH của nước.
Theo nghiên cứu của Salamon, chỉ cần 0.1 ppb (part per billions) lượng ion bạc là đủ giết cá. 0.1 ppb tương đương với 1 g cho 10 triệu litter nước (hệ số biến đổi: 1 ppb = 1 g/1 triệu L).
Trường hợp 2: Nhiễm độc bởi cyanide
Trong kỹ thuật khai thác mỏ kim loại, NaCN thường dùng để chiết xuất vàng và các kim loại quí hiếm.
Thí dụ trong trường hợp chiết xuất vàng từ quặng, NaCN giúp biến vàng thành chất có thể tan trong nước theo phản ứng sau và đồng thời sản xuất NaOH, một bazơ mạnh theo phương trình sau:
4 Au + 8 NaCN + O2 + 2 H2O → 4 Na[Au(CN)2] + 4 NaOH
NaCN là một loại muối rất dễ tan trong nước. Do đó nếu không kết hợp với kim loại thì ion cyanua sẽ xuất hiện ở dạng ion trong nước thải.
Vì phản ứng hóa học thải ra NaOH do đó nồng độ pH của nước sẽ tăng phù hợp với báo cáo của Sở NN&PTNT Thừa Thiên - Huế.
Ion Cyanua (CN-) tan trong nước là một chất cực kỳ độc. Nó làm hệ thống hô hấp của động vật mất chức năng tiêu thụ oxy. Nồng độ IDLH của CN là 25 g/ 1 triệu L.
Tuy không độc bằng KLN nhưng với lượng lớn cyanua cũng có thể gây cá biển chết hàng loạt.
Khu vực miền Trung được biết có nhiều mỏ vàng. Do đó khả năng chất thải có từ việc khai thác vàng và kim loại quí hiếm cũng không phải là thấp
(Xem hình 2- so sánh nước thải của Formosa và nước thải từ quá trình khai thác vàng)
Tác hại có thể dự đoán trên diện rộng của sự việc ở Vũng Áng
Khi cống thải được đặt ở 1,5 km xa bờ biển thì cột nước thải có thể dài vài chục đến cả trăm mét.
Dòng hải lưu nơi đó đủ mạnh để phát tán chất độc trong diện rộng từ vài trăm đến ngàn km dễ dàng và nhanh chóng. Thực tế cho thấy tác hại đã lan ra trên 250 km bờ biển.
Cột nước thải và sơ đồ vùng biển nhiễm độc
Theo lí thuyết, những chất này nếu là KLN thì tác hại của nó có thể là khôn lường và rất khó ước đoán. Các loại hải sản ở khu vực nhiễm độc đều có thể bị nhiễm nặng.
Lượng độc tố có thể ngấm sâu xuống mạch nước ngầm và gây hại lâu dài.
Tình trạng ở Vũng Áng có tầm nguy hại đến sức khỏe và mưu sinh của dân chúng trên diện rộng do dòng hải lưu và phân phối hải sản tiêu thụ trên cả nước chứ không chỉ giới hạn ở Vũng Áng.
Lịch sử thế giới đã ghi nhận rất nhiều trường hợp thương tâm về việc nhiễm KLN từ môi trường và cuộc đấu tranh pháp lí không hề dễ dàng.
Một vài ví dụ đau thương được ghi nhận về nhiễm độc KLN:
Nạn nhân bị nhiễm bệnh Minamata
Bệnh Minamata là đại thảm họa môi trường của Nhật-như cái giá phải trả cho việc quá nôn nóng phát triển kinh tế mà bỏ qua việc bảo vệ môi trường.
Từ năm 1932-1968, công ty Chisso (Nhật) sử dụng thủy ngân hữu cơ là chất xúc tác để sản xuất acetaldehyde, axit acetic và các chất dẻo.
Methyl thủy ngân là chất kịch độc, độc đến nỗi chỉ vài giọt rơi vào da có thể dẫn đến tử vong ngay lập tức.
Trong quá trình sản xuất, methyl thủy ngân được sinh ra và đổ thẳng xuống vịnh Minamata mà không qua bất kì một sự xử lý nào.
Thủy ngân phát tán trong môi trường nước, bám vào phù du và lắng xuống bùn. Cá hấp thụ oxy trong nước qua mang cá, tích lũy thủy ngân trong cơ thể.
Khi ăn phải những con cá bị nhiễm độc đó dần dần, người ăn sẽ tích lũy lượng thủy ngân đáng kể trong cơ thể.
Khi đi vào trong cơ thể người, thủy ngân tấn công thẳng vào hệ thần kinh trung ương, hệ nội tiết, và các cơ.
Thủy ngân làm con người trở nên loạn trí, các khớp xương bị co rút, dẫn đến biến dạng cơ thể.
Người mẹ nhiễm thủy ngân sẽ đẻ con ra quái thai, dị dạng hoặc bị nhiễm bệnh Minamata bẩm sinh. Hậu quả là hơn 17 000 người dân phải gánh chịu căn bệnh này suốt hơn 60 năm.
Tác hại của việc khai thác KLN cho môi trường có thể biểu hiện trực quan hơn ở chung quanh khu vực nhà máy khai thác KLN ở Baotou, Trung Quốc năm 2012 súc vật bị chết do nhiễm khí độc.
Ngay cả cây ăn trái cũng èo uột và trái có mùi hôi thối.
Nếu là NaCN thì sao?
Tuy tính độc hại lâu dài của cyanua không tàn khốc như KLN, chất độc này có thể phá hủy hệ thần kinh và bộ phận hô hấp, thay đổi hồng cầu.
Người bị nhiễm độc rất khó thở và dễ bị chảy máu mũi. Những triệu chứng này không phù hợp lắm với triệu chứng tìm thấy ở những người bị ngộ độc do ăn cá nhiễm độc báo chí đã đưa thời gian gần đây.
Không ăn cá chết thôi chứ hải sản sống thì ăn không sao? Tắm biển cũng không sao?
Đây là một nhận định sai lầm trầm trọng. Khi cá chết có nghĩa nồng độ chất độc đã vượt ngưỡng. Nhưng cá còn sống không có nghĩa là không có bị ngấm chất độc.
Tuy trường hợp cá chết do NaCN thì ít nguy hại hơn nhưng nếu là KLN thì hệ quả lớn hơn nhiều.
Xin nhắc lại tất cả hải sản từ vùng ô nhiễm có xác suất hấp thụ độc tố rất cao đặc biệt là những loại sinh vật sống sát đáy.
Những độc tố này tồn dư, tích luỹ qua chuỗi thức ăn. Do cơ thể con người không có khả năng thải KLN hiệu quả, nó sẽ tích lũy dần dần và gây tác hại lâu dài như nói trên.
Đã có nghiên cứu chỉ ra lượng nhiễm độc thuỷ ngân vào cơ thể người từ việc ăn cá lên đến 95%.
Ngay cả lí do lần này không liên quan đến KLN thì việc chất độc tồn dư ở những con cá chưa đủ liều lượng giết chêt cá là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Nếu những chất độc này đã gây ngộ độc cho một số người ở Quảng Bình (Bố Trạch), Hà Tĩnh (Kì Anh), thì có thể thấy rõ tác hại của nó.
Người ngộ độc KLN qua đường tiêu hóa thường có triệu chứng bụng quặng đau, buồn nôn, tiêu chảy, nhức đầu và kiệt sức.
Bên cạnh đó, như chúng tôi đã đưa ra trước đó bên cạnh sự nhiễm độc do hô hấp và qua đường thức ăn thì chất độc có thể đi vào cơ thể qua da (niêm mạc).
Do vậy, trong thời gian này hạn chế việc tắm biển, thậm chí các bạn tham gia điều tra nên có bảo hộ khi lặn sâu vào vùng nhiễm độc.
Không đưa ra lời cảnh báo để tránh việc chặn đi đường sống của hàng triệu dân nghèo?
Cũng có một vài ý kiến cho rằng, khi chưa có bằng chứng cụ thể chúng ta không đưa ra nhận định để tránh làm mất đi nguồn sống của người dân hay làm nhân dân hoang mang.
Theo chúng tôi đây là một nhận định hết sức sai lầm. Khoa học ngoài việc tìm ra bằng chứng còn có chức năng dự báo để đề phòng trường hợp xấu nhất.
Chúng ta đề phòng trường hợp xấu nhất nhưng mong đợi vào tình huống khả quan nhất.
Nếu chúng ta không cảnh báo kịp thời, hậu quả sẽ lan nhanh, sâu và rộng hơn cho cộng đồng đến mức độ không còn khả năng kiểm soát được.
Như ví dụ trên: vụ nhiễm độc Minamata cũng được phát hiện nhờ vào lời cảnh báo của viện trưởng Hosokawa của bệnh viện Kumamoto khi nghi ngờ nhiêm độc thủy ngân hữu cơ của các bệnh nhân.
Tại thời điểm đó, sự việc như này chưa hề có tiền lệ trước đó.
Chúng ta đi sau nên học những bài học của người đi trước để tránh sai lầm. Hơn nữa việc chúng ta được cảnh báo là để chúng ta biết và đề phòng chứ không hề vì thế mà sợ hãi.
Những phát ngôn thiếu trách nhiệm
Thời gian gần đây nhiều cơ quan chức năng nhà nước đưa ra kết luận “nguyên nhân cá biển chết hàng loạt là do độc tố”.
Về điều này, một người dân không có hiểu biết về khoa học cũng có thể kết luận được, đặc biệt là những nạn nhân trúng độc phải cấp cứu do ăn đồ biển ở khu có cá chết.
Có ba nguyên nhân cá biển chết hàng loạt:
1) báo hiệu sắp có thiên tai từ động đất hay núi lửa ở thềm lục địa (điều này xưa nay chưa bao giờ xảy ra ở Việt Nam),
2) có sự thay đổi lớn về số lượng vi sinh vật trong vùng nước (hiện tượng nước nở hoa, hay dịch bệnh);
3) chất kịch độc do con người thải ra trong nước biển. Kết luận của cơ quan chức năng chỉ khẳng định rằng chúng ta sẽ không có thiên tai.
Điều 90 triệu dân Việt cần biết từ cơ quan chức năng là xác định cá chết và người dân bị ngộ độc là do hóa chất gì để cộng đồng khoa học có thể hổ trợ tìm phương án giải quyết.
Lãnh đạo Formosa nói 300 tấn hóa chất nhập về sử dụng để tẩy rửa một số đường ống không gây hại và với khu công nghiệp thì chỉ “bé như hạt gạo”.
Kết luận của lãnh đạo Formosa rất mập mờ và khó hiểu, gây phẫn nộ cho rất nhiều người dân Việt Nam. Xin phép được hỏi hóa chất tẩy rửa đường ống đó có tên hóa học là gì?
Nếu lãnh đạo Formosa không trả lời được thì xin cho biết tên thương mại là gì? Chi cục Hải Quan Hà Tĩnh có thể cho dân biết thông tin cụ thể về 300 tấn hóa chất này không?
Mới đây lãnh đạo Formosa còn tuyên bố để phát triển kinh tế việc chết vài con cá biển là chuyện nhỏ và là cái giá phải đánh đổi.
Chỉ tiếc là việc chết cá biển không phải là chuyện “bé như hạt gạo” mà nó có thể là cảnh báo cho một tai họa đổ xuống các thế hệ tiếp theo của Việt Nam.
Kết luận
Có thể coi sự việc nghiêm trọng này là thảm họa khôn lường và lâu dài.
Với sự nguy hiểm của chất độc chúng tôi cho rằng cần có một nghiên cứu toàn diện với sự hỗ trợ của cộng đồng khoa học quốc tế như World Health Organization (WHO) và nên khẩn cấp trong thời gian này.
Chính phủ cần yêu cầu Formosa dừng ngay việc xả nước thải ra biển cho đến khi có kết quả điều tra chính thức.
Các cơ quan luật pháp cũng như các luật sư cần thu thập thông tin đầy đủ để có thể bắt buộc thủ phạm bồi thường thiệt hại cho dân về sức khỏe cũng như thiệt hại kinh tế.
Người dân ở vùng bị nhiễm, cần phải xét nghiệm mẫu nước sinh hoạt và sản xuất nơi mình đang sống. Chúng tôi đã có bài viết hướng dẫn cách lấy mẫu và gửi đi xét nghiệm để có kết quả chính xác.
Nếu các bạn cần tư vấn thêm về cách xử lý nước hoặc trao đổi về các kết quả nhận được có thể gửi email cho chúng tôi.
Nếu có điều kiện hãy dùng máy lọc để lọc nước trước khi dùng kể cả đó là nguồn nước sinh hoạt.
Đồng thời chúng ta cũng nhanh chóng phổ biến đến người dân, để nhân dân an tâm, có biện pháp đề phòng và cũng cần đề phòng các lực lượng mê tín dị đoan lợi dụng hiện tượng này để tung tin đồn nhảm và trục lợi.
Hơn lúc nào hết người dân cần tự mình trang bị những kiến thức cần thiết để bảo vệ cho chính bản thân và gia đình.
ThS Trần Thị Thanh Thoả - Thiều Mai Lâm - GS.TS Trương Nguyện Thành
Nguồn dẫn: Tạp chí Khoa học Việt Nam (Vietnam Journal of Science)
__________________
* ThS. Trần Thị Thanh Thoả (Khoa Sinh học, Trường Đại học Thủ đô Tôkyo, Nhật Bản)
Thiều Mai Lâm (Viện Khoa học Cao phân tử, Đại học Kỹ thuật Virginia, Mỹ)
GS.TS. Trương Nguyện Thành (Khoa Hóa Học, Đại Học Utah, Mỹ)
Theo: Cafebiz/Trí Thức Trẻ/Soha News
Sự bất an của chữ
Hai mươi năm trước cái chinh phục tuyệt đối độc giả tuổi 18-20 là những truyện ngắn lãng mạn về tình yêu, những trang viết nhẹ nhàng và thấm thía về cái đẹp của những mối quan hệ nhẹ nhàng, nhiều độc giả còn giữ những mảnh báo cắt lại, đăng tản văn tôi viết về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông, mùa mưa, mùa gió, mùa thi, mùa Giáng Sinh.
Bây giờ tôi đàn bà hơn và đời hơn, tôi đánh mất phần lớn những độc giả thích những cái đẹp êm đềm óng ả mà tôi đã cần cù lượm họ suốt hơn chục năm viết truyện ngắn, chịu khó chinh phục các giải thưởng văn học, dự trại sáng tác viết văn, náu mình trong những tổ nhóm sáng tác.
Cái làm đàn bà gục ngã lại là đám đông và thị phi, là một câu nói bâng quơ, là một lời trêu ghẹo, một cái nhìn ác cảm, bị gọi là gái ế, chồng chê mất trinh v.v… – Ảnh: Thinkstock
Giờ đây mỗi mùa báo Tết, các thư ký tòa soạn lại nhớn nhác hỏi Trang Hạ có cái truyện ngắn nào không? Tôi thường mỉm cười và nói, tôi đã không hề viết văn từ biết bao năm nay rồi! Giờ tôi viết một thứ chỉ mang vỏ bọc văn chương mà thôi, còn cốt lõi hoàn toàn không dính chút gì tới văn chương cả. Tôi đâm ra sợ những người viết văn chỉ lăm lăm viết văn. Có biết vì sao không?
Suốt mười năm trời từ 1993-2003 tôi vẫn nghĩ rằng mình viết cho cả xã hội đọc. Cứ ai có tiền mua sách báo là đều có quyền được đọc hết, đều thành độc giả hết. Tôi có trách nhiệm phải viết văn, hư cấu, thêm cảm xúc, thành một món ăn đặt tên là truyện ngắn Trang Hạ. Tất nhiên tôi có một số giải thưởng văn học cho món truyện ngắn Trang Hạ.
Năm 2005 có một nhân vật báo chí của tôi quay lại xin tôi một lời khuyên. Đó là một người phụ nữ cụt tay, không bằng cấp, nghèo, thất nghiệp, người nhà quê, xấu, ế chồng. Chị ta nói chị ta không tìm được chỗ của mình trong xã hội. Người lành lặn còn thất nghiệp nữa là chị, ở quê người ta đàm tiếu về cánh tay cụt của chị, không ai muốn lấy chị, chị muốn bị người khác lợi dụng cũng chẳng ai thèm lợi dụng, đi ra giếng giặt quần áo bị hàng xóm nói móc vài câu, chị ấy nghẹn ngào ôm chậu quần áo về và khóc, muốn chết vì bế tắc và không có tương lai. Chị nói, chị được nhận mấy chục triệu tiền bồi thường mất cánh tay, chẳng đủ tiền trả viện phí, mà còn bị làng xóm nói đổng là, bán trinh được có mấy triệu đồng, đằng này mất có một tay được hẳn vài chục triệu sao mà sướng thế!
Tôi nói, một là chị phải ra ngay Hà Nội, bán đồng nát hay làm thuê bưng phở, đứng máy photocopy cũng được, còn hơn ở lại quê nghèo không tương lai. Chị ra đây ôn thi một năm rồi thi đại học tại chức, đã không có sức khỏe thì càng phải có tri thức. Chịu nghèo khổ vài năm mà có tương lai sáng sủa của mình còn hơn ở mãi quê cả đời sẽ cúi gằm mặt giữa những thị phi. Tôi cũng nghèo nhưng có cho chị ít tiền đóng học phí thời gian đó. Nhưng trước khi chào bố mẹ ra Hà Nội, chị phải làm cho tôi một việc: Chị sang nhà hàng xóm, bảo họ rằng, có người chỉ cần thấy tí tiền là đào được cả mồ mả ông bà tổ tiên lên, phá chùa trộm chuông, nữa là ao ước mất một cánh tay!
Tất nhiên chị kia chẳng đủ bạo mồm nanh nọc mà sang trả đũa hàng xóm, nhưng chị lên Hà Nội chịu khó luyện thi rồi vào học đại học tại chức, trong thời gian học đại học, chị rất may mắn xin được công việc vào một tổ chức phi chính phủ. Lương cực kỳ thấp nhưng cũng tạm đủ ăn học, và tất nhiên hơn làm đồng trồng vườn ở quê. Vài năm sau, chị lấy một anh cùng quê nhưng cũng đang đi làm nhà nước. Sống được với sự lương thiện.
Tôi bị ám ảnh bởi câu chuyện này suốt vài năm ròng. Hóa ra đàn bà có thể mạnh mẽ đối diện và vượt qua nghèo, khổ, cực, xấu xí, vất vả, hoàn cảnh, bi kịch, nhưng cái làm đàn bà gục ngã lại là đám đông và thị phi, là một câu nói bâng quơ, là một lời trêu ghẹo, một cái nhìn ác cảm, bị gọi là gái ế, chồng chê mất trinh v.v… Tôi thích quan sát buồn vui sướng khổ của cuộc đời. Và vào tuổi ba mươi ba, tôi kết thúc hoàn toàn việc viết văn hư cấu, truyện ngắn, chỉ để dành thời gian viết về đời sống và đàn bà. Tôi tin rất nhiều người đàn bà đọc Trang Hạ xong đã tìm được lý lẽ để đối mặt với khó khăn, lý lẽ ấy là: Bởi vì bạn là phụ nữ, bạn không nên bị đánh gục bởi những thứ không xứng đáng, bạn sinh ra không phải là để cho kẻ khác chà đạp! Chẳng còn ai trao giải thưởng văn học cho Trang Hạ nữa. Vì đơn giản là tôi không còn viết văn đã lâu rồi, tôi chỉ còn viết về con người, càng viết thật càng tốt. Mà viết thật, không thể nào tránh được sự trần trụi.
Nhưng tôi tin rằng, sứ mệnh của người viết văn hoàn toàn không phải là để làm cho những tâm hồn rách nát trở nên yên tâm với sự rách nát của mình!
Trang Hạ
EM ĐỪNG BAO GIỜ BUỒN
ERNEST HEMINGWAY
Đừng bao giờ buồn nếu hiện thực vô cùng lạnh lẽ
Đừng đắng cay nếu không thấy chỗ đứng của mình.
Cuộc đời thực giống suối rì rầm chảy
và đôi khi đời mệt nhọc như muốn ngưng.
Nếu không thấy mục đích của mình, đừng tự dày vò,
thời gian sẽ hình thành mục đích, cái giờ chỉ là ý nghĩ.
Em hỏi, mình sống để làm gì, nhưng chẳng ai đáp lại,
vì mỗi ngày sống là một cuộc vật lộn, đến nhắm mắt mới thôi.
Nếu bị dối lừa, em cảm thấy trên đầu ngọn sóng ụp
nghĩ mà xem, bao nhiêu người, ước số phận như em.
Hãy nghĩ đến điều tốt đẹp, cái xấu hãy quên,
tự bằng lòng những gì mình có, đời em nhẹ nhõm.
Nếu chưa thấy Mặt Trời, gắng mở to đôi mắt,
giữa khó khăn sẽ tìm thấy niềm vui.
Hãy sống trong hiện tại, đừng quên điều bất diệt:
tương lai chỉ trong lành nếu hành động trong lành.
Nguyễn Hồng Nhung dịch theo bản tiếng Hungary
( Budapest. 2016. március 7.)
Đừng bao giờ buồn nếu hiện thực vô cùng lạnh lẽ
Đừng đắng cay nếu không thấy chỗ đứng của mình.
Cuộc đời thực giống suối rì rầm chảy
và đôi khi đời mệt nhọc như muốn ngưng.
Nếu không thấy mục đích của mình, đừng tự dày vò,
thời gian sẽ hình thành mục đích, cái giờ chỉ là ý nghĩ.
Em hỏi, mình sống để làm gì, nhưng chẳng ai đáp lại,
vì mỗi ngày sống là một cuộc vật lộn, đến nhắm mắt mới thôi.
Nếu bị dối lừa, em cảm thấy trên đầu ngọn sóng ụp
nghĩ mà xem, bao nhiêu người, ước số phận như em.
Hãy nghĩ đến điều tốt đẹp, cái xấu hãy quên,
tự bằng lòng những gì mình có, đời em nhẹ nhõm.
Nếu chưa thấy Mặt Trời, gắng mở to đôi mắt,
giữa khó khăn sẽ tìm thấy niềm vui.
Hãy sống trong hiện tại, đừng quên điều bất diệt:
tương lai chỉ trong lành nếu hành động trong lành.
Nguyễn Hồng Nhung dịch theo bản tiếng Hungary
( Budapest. 2016. március 7.)
Đéo
Phan Huy Đường
Ai nghĩ gì về ta, ta rất quan tâm và chẳng quan tâm tí nào.
Ta đẹp trai, học giỏi, con nhà giàu hay xấu xí, học zốt, nghèo nàn : ta chưa hề quan tâm.
Chưa ai yêu ta trên những tiêu chuẩn ấy. May thật.
Ta nghĩ sai hay đúng về những vấn đề cơ bản nhất trong kiếp người : ta rất quan tâm. Và không dễ dãi.
Ta dễ thương hay đáng ghét, vì đủ thứ lý do, cơ bản là phong cách ứng xử trong quan hệ xã giao với người đời : ta quan tâm nửa vời :
- Nếu ta cũng chỉ muốn có với người ấy một quan hệ xã giao đặc thù thôi, ta rất quan tâm, bỏ thời giờ tìm hiểu nét văn hoá đặc thù của người ấy. Tây Ta rất khác nhau. Ở Ta thôi, có nhiều tiểu môi trường zăng hoá. Thí dụ, những môi trường tư sản - tiểu tư sản Hà Nội trước 1954 và sau 1954, ở Bắc, Nam, và Mỹ, ta thuộc nó, e tutti quanti. Tuy có mặt ta không thích, ta dễ dàng thích ứng.
- Nếu, với ai khác, ta thèm có một quan hệ vượt quan hệ xã giao trên, thế nào ta cũng phải có ứng xử vượt nó, qua phong cách hay ngôn từ. Chỉ thế ta mới biết được quan hệ của ta với người ấy có thể thoát khỏi vành văn hoá đặc thù của người ấy tới mức nào.
Nhiều nghiệm sinh lý thú. Thí dụ.
Trước mặt người ấy, giữa đám đông đàng hoàng tử tế ở Paris, chứ không phải giữa đám nghệ sĩ vỉa hè, nhất là vỉa hè Hà Nội chính hiệu con nai, ta bỗng phát ra từ "đéo" về một chuyện hết sức tầm thường. Ta nghĩ, 90% người nghe thấy sẽ khinh ta, tránh mặt ta. Thực tế, không đến nỗi thế vì nhiều người quen biết ta từ lâu, biết ta có khả năng dùng từ không thay vì từ đéo, chỉ khi say mới văng tục : nó thế đó, khi nó say, nhưng nó không phải một thằng mất dạy, vô văn hoá. Đúng một nửa : giữa đám đông, ta chỉ dùng từ đéo khi ta tỉnh. Hè hè.
Sau khi người ấy đã nếm mùi "đéo" ấy trước mặt đám đông mà không tránh mặt ta, vẫn chấp nhận gặp ta, nói chuyện với ta, ta hiểu : người ấy đã vượt qua hàng rào văn hoá ở chính mình để coi ta như một người đáng quen biết, đáng gặp lại, đáng nói chuyện. Ta thèm người ấy làm bạn ta, toàn diện.
2016-03-12
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)