Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2014

Trang tử - Nam Hoa Kinh- Tổng bình



Về quan niệm Đạo và Đức thì Trang tử và Lão tử đồng với nhau. Nhưng về quan niệm hạnh phúc, thì Trang tử giản minh một cách rõ ràng khúc chiết hơn trong thiên Tiêu Diêu Du này.

Trang tử cho rằng tất cả muôn vật, vật nào cũng có cái Đức của nó, do cái Đạo nơi mình mà phát huy ra. Chữ Đức ở đây không có cái nghĩa thông thường về luân lý như phái Nho gia đã dùng, mà nó dùng để ám chỉ cái Tánh tự nhiên của mỗi vật, tức là chỗ mà Lão tử gọi là" kiến Tố" và Nhà Phật gọi là " kiến Tánh"." Tánh tự nhiên" đây, tức là chỗ mà Quách Tượng bảo " bất đắc bất nhiên"(không vậy không được), nghĩa là cái" bất đắc dĩ" của mọi sự mọi vật… như lửa không thể không nóng, giá không thể không lạnh. Cái động tác của Đức rất tự nhiên, không cố cưỡng, nên gọi nó là " Vô vi".

Nếu biết thuận theo tánh tự nhiên ấy mà sống, thì hạnh phúc có ngay liền trước mắt, không cần cầu cạnh đâu khác ngoài mình.
Tiêu- diêu, là "tự do tự tại", là " tự do sống theo cái sống tự nhiên của mình" mà không phải mô phỏng theo ai khác, đèo bòng tham muốn cái ngoài Tánh Phận của mình. Tiêu Diêu Du, là rong chơi vui thích theo ý mình, vì đã biết" thích kỷ tự an", chứ không như người đời " xá ký thích nhơn"[ii], điều mà Trang tử rất cực lực phản đối ở thiên Đại- Tông- Sư[iii].

Như vậy, ta thấy rằng, cái Tự Do mà Trang tử đề xướng là một thứ tự do tuyệt đối, không lệ thuộc vào một điều kiện nào ngoài cái Bản Tánh của mình cả. Sống theo mình là Tự Do, là Hạnh phúc; sống theo kẻ khác, là Nô lệ, là Đau khổ.

I. Lớn và Nhỏ không thường:

Nghĩa là cái Lớn cái Nhỏ không phải là điều tuyệt đối, bất biến, mà thực ra, là một lẽ tương đối: lớn hơn cái nhỏ, nhỏ hơn cái lớn. Lớn và Nhỏ đều là những lẽ vô thường.
Như cá Côn, vốn là một thứ cá nhỏ mà Trang tử cho nó là một giống cá lớn không biết mấy nghìn dặm; chim Bằng, vốn là chim Phụng, cũng đâu phải là một vật cực đại, thế mà Trang tử lại cho nó là một vật cực đại, có cái lưng lớn không biết mấy nghìn dặm, còn cánh của nó thì như vầng mây che khuất một phương trời. Đó là chỗ dụng ý đặc biệt của Trang tử dùng một bút pháp cực kỳ huyễn tướng, biến hóa bất thường để chỉ rõ sự vô thường của cái Lớn và cái Nhỏ. Đó là chỗ mà ở thiên Thu- Thủy nói:" lấy chỗ bất tề mà xem, thì sẽ thấy vật nào cũng lớn cả(đối với vật nhỏ hơn nó) và vật nào cũng nhỏ cả(đối với vật lớn hơn nó); biết Trời Đất như một hột thóc, biết mảy lông là hòn núi." Như vậy, thì Nhỏ sao lại thường chẳng Lớn, mà lớn sao lại thường chẳng nhỏ được. Nhận thấy cái chỗ nhỏ của mình, mà ham muốn đèo bòng mãi cái phận ngoài mình, sao bằng nhận thấy chỗ lớn của mình và cho nó là đủ để mà" thích kỷ tự an"? biết rõ được lẽ ấy, thì sẽ bỏ được cái lòng tham- dục của sự phân biệt trong ngoài, bỏ được cái lòng tham muốn những gì ngoài mình và không tùng mình nữa[iv].

II. Lớn, thì hợp với chỗ lớn, nên không thấy mình là lớn;
Nhỏ, thì hợp với chỗ Nhỏ, nên không thấy mình là nhỏ.


Tức như chim Bằng, một con vật rất lớn, tất phải dời sang biển Nam, bay lên cao chín muôn dặm và bay trọn sáu tháng trường không nghỉ… Trang tử đã nói:: Nước không sâu thì không sức chở thuyền lớn, đổ một chung nước xuống cái hố nhỏ, lấy một cộng cỏ mà làm thuyền thả lên thì thuyền tự nổi, nếu lại lấy cái chung nước ấy mà thả lên làm thuyền, thì thuyền ấy phải mắc cạn. Là tại sao? Tại nước không sâu, mà thuyền thì lớn. Lớp gió không dày, thì không sức chở nổi cánh lớn của chim Bằng."


Quách tử Huyền luận về điểm nầy có nói:" Nếu không phải là minh hải thì không đủ chỗ cho thân con cá Côn day trở, nếu không có chín muôn dặm cao thì sao đủ chở cái cánh to tướng của chim Bằng. Há phải đó vì hiếu kỳ mà vẽ cho ra chuyện thêm đâu! Hễ vật lớn, phải sanh ra nơi chỗ lớn, và chỗ lớn tất nhiên cũng sanh ra nơi chỗ lớn, và chỗ lớn tất nhiên cũng sanh ra vật lớn đó. Lý cố tự nhiên, đâu phải cần lo cho nó không được như vậy!" ông lại nói: "Cánh lớn nên khó cử động trong chỗ hẹp, cho nên phải vượt trên chín muôn dặm cao, mới có đủ chỗ mà cử động. Đã có cánh ấy mà lại quyết ở dưới thấp, hay bay lên vài chục thước cao như con chim cưu, có được không? Đó đều là chỗ" bất đắc bất nhiên"(không vậy không đặng), chứ đâu phải vui sướng gì mà làm ra như thế đâu!"
Vậy, lớn thì thuận theo chỗ lớn, không tự xem là lớn mà sinh kiêu; nhỏ thì thuận theo chỗ nhỏ, không tự xem là nhỏ mà đèo bòng ham muốn, như " con chim cưu… bay vụt lên du cây phương, dù bay không tới thì rơi xuống đất" đâu cần phải ham muốn cái rộng lớn của chim Bằng. Nghĩa thật rõ ràng!


Quách- Tử- Huyền nói: "Nếu biết đủ với tánh phận của mình, thì tuy mình lớn như chim Bằng, cũng không tự cho là lớn mà cho mình quý hơn chim nhỏ kia, mà con chim nhỏ kia cũng không cho mình là nhỏ mà ham muốn bay đến Ao Trời(thiên- trì) làm gì. Nên chỉ nói đến cái Vinh của chim Bằng, hay nói đến cái thèm muốn của con chim nhỏ(để kịp với chim Bằng) đều là nói thừa cả. Lớn, Nhỏ, tuy khác nhau, nhưng tâm trạng tiêu- du(nghĩa là tự do) vẫn một.
Tóm lại, chim Bằng ở thiên trì, thì chính cũng như chim cưu ở cây du, cây phương…" đâu vừa với đó". Chim bằng, không tự xem mình là lớn, chim cưu không tự xem mình là nhỏ, nên lớn không kiêu với nhỏ, nhỏ không đèo bòng ham muốn cái lớn. Tham dục nhờ đó, tự nhiên không còn nữa. Tham dục mà không còn có nữa, thì hạnh phúc có ngay liền đó, vì hạnh phúc là sống được cái sống của mình, sống toại sinh trong cái tự tánh của mình vậy.


III. Thọ và Yếu:


Điều mong ước lớn nhất của người đời, là được sống lâu. Cho nên mới cho cái sống bảy tám trăm năm của Bành Tổ là thọ, mà ao ước, thèm thuồng! Là tại sao? Là tại cái số kiếp của con người, chỉ trăm năm là hạn, nên mới đèo bòng ham muốn sống được như Bành Tổ và cho đó là thọ. Giả sử mà ai ai cũng đều sống được như Bành Tổ, thì cái khoảng bảy trăm năm lại sẽ không còn đủ cho là thọ nữa. 


Như ta đã thấy, lòng ham muốn con người sở dĩ có, là khi nào không biết an theo số phận của mình mà đem tâm đeo đuổi theo số phận của những vật ngoài mình và khác mình.

Thật vậy, vì không ai sống đến được cái tuổi của Bành Tổ, nên mới cho cái sống ấy là thọ mà thèm muốn. Bành Tổ, trái lại, nếu cũng bắt chước như ta mà không biết an với Tánh Phận của mình là sống bảy trăm năm, lại đèo bòng muốn sống được cái sống của cây minh linh thì tất cũng cho cái hạn bảy trăm năm của mình không đủ cho là thọ, mà sống được như cây minh linh mới là thọ. Cây minh linh, nếu lại bắt chước Bành Tổ, không tự xem mình là thọ, lại đèo bòng ham muốn sống theo cái sống của cây đại xuân; cây đại xuân lại muốn sống được như cái sống của Trời Đất…thì ra vật nào cũng không thọ cả, mà vật nào cũng đều yểu cả! Cho nên nói rằng, nếu cứ tham muốn sống ngoài cái tánh phần của mình, thì cái sống của Bành Tổ đối với cây đại xuân, không khác nào" cái sống của đứa trẻ chết trong nôi" vậy.

Nếu lấy cái sống trăm năm là hạn của ta làm mực thước, thì con ve sầu mùa xuân sanh, mùa hạ chết, tai nấm mai sớm nở tối tàn… đều là vật yểu cả! Cái sống một mùa của con ve sầu, và cái sống có một buổi của tai nấm mai, đối với ta tuy chỉ là cái sống trong khoảng khắc rất ngắn ngủi, mà đối với nó, vẫn cũng là một kiếp sống, như một kiếp sống trăm năm của ta vậy. Đối với con người, được sống trăm năm là thọ; thì đối với tai nấm mai, sống được một buổi cũng là thọ, mà đối với con ve sầu, sống được một mùa, đều là thọ cả: chúng nó được sống đến cái mức cùng của kiếp sống của chúng. 

Còn như cây đại xuân sống một xuân là tám nghìn năm, một thu là tám nghìn năm, giá như nó chỉ sống được có bốn mùa, nghĩa là ba muôn hai nghìn năm, thì đối với ta, sao không cho đó là thọ được, nhưng đối với cái kiếp sống của nó thì nó chỉ sống được có một tuổi mà thôi, nghĩa là chỉ sống được có bốn mùa; sống được tám nghìn năm, phải chăng đối với ta, là rất thọ, nhưng đối với chính cây đại xuân, thì nó chỉ sống được có một mùa mà thôi, sống rất yểu vậy!

Thế thì căn cứ vào sự dài ngắn của thời gian không thể được xem là thọ hay yểu. Chẳng qua như vật lớn ở chỗ lớn, vật nhỏ ở chỗ nhỏ. Vậy, thọ, yểu cũng như lớn, nhỏ chỉ là một danh từ đối đãi, tự nó không có nghĩa gì là thật cả, thật một cách tuyệt đối. Không nhìn ra ngoài, mà chỉ nhìn vào trong, nghĩa là mỗi vật, nếu biết "các an kỳ phận", "thích kỷ tự an", thì vấn đề lớn nhỏ, thọ yểu sẽ không còn thành vấn đề làm cho lòng mình thắc mắc nữa.

IV. Huyền nghĩa của Tiêu- Diêu:

Mỗi vật, nếu đều biết tự đủ với cái tánh phận của mình, thì dù ở trong xã hội, phải ở vào địa vị nào, cũng không tự xem là không đủ, để đèo bòng tham muốn cái Tánh Phận ngoài mình. Như " kẻ có tài trí đủ để làm nổi một tước quan, hạnh hơn cả một làng, thì đức sẽ không khác nào một vị vua được lòng tin của cả nước, nếu biết tự xem mình như đấng làm vua kia vậy." Tuy phận giống nhau, nếu mỗi người đều tròn với cái phận của mình. Chí và Hành của hai bên, bất quá như vật lớn nhỏ, thọ yểu mà thôi.


Kẻ biết nhận thấy đức của mình ngang với bậc Vua chúa như chức quan nhỏ kia, tuy là kẻ sáng suốt " thích kỷ tự an", hơn người đời một bực, nhưng chỗ " lập đức" chưa vững. Là vì hãy còn thấy có công.


Vinh tử nước Tống, " đời khen cũng không khích lệ, đời chê cũng không ngăn đón được", tức là người vượt lên trên dư luận, không còn nô lệ đến thị phi bên ngoài nữa, thế mà chỗ lập đức của ông cũng chưa được vững. Là vì tuy đã biết thản nhiên đối với dư luận, nhưng còn để cho đời biết được mà khen với chê. Đó là hạng người còn để lại " danh". ấy là hạng người như vua Nghiêu, và Hứa Do.
Trên hai hạng đó, lại còn một hạng nữa, là hạng người như Liệt tử, hạng" cỡi gió mà đi, đi một cách êm ái nhẹ nhàng". ở đây Trang tử muốn ám chỉ những bậc tu đạo đã đạt đến trạng thái huyền hóa trong những lúc thiền tọa hay tĩnh tọa. Trong những lúc ấy, họ đã đạt đến trạng thái" tiêu diêu" vì đã huyền đồng cùng với cái sống thiêng liêng của họ, tức là Đạo. Nhưng, chỉ có một lúc thôi, nên mới nói" tuy phải đi, nhưng còn phải có chỗ chờ". Liệt- tử tuy" cỡi gió mà bay, thong thả tự do", nhưng còn phải đợi có gió mới bay được, như chim Bằng đợi có gió trốt nổi lên, mới" nương theo đó mà bay lên chín muôn dặm cao". Kẻ như Liệt tử, được huyền đồng cùng Đạo, tuy tiêu diêu được, mà cũng phải đợi lúc huyền hóa mới được tiêu diêu. Tự do(tiêu diêu) mà còn đợi lúc huyền hóa mới tiêu diêu thì chưa phải thật là người đã đạt đến cõi tiêu diêu tuyệt đối(tự do tuyệt đối). Là vì họ không phải luôn luôn" không còn thấy có mình"(vô kỷ) nữa. Chỉ có bực" chí nhơn vô kỷ, thần nhơn vô công, thánh nhơn vô danh" mới thật là kẻ đã đạt đến cái trạng thái huyền đồng một cách vĩnh viễn mà không còn phải chờ đợi một điều kiện gì khác.

Làm cách nào để đạt đến trạng thái huyền hóa? Phải biết " thuận theo cái chánh của Trời Đất, nương theo cái biến của lục khí mà lại qua trong cõi vô cùng."

Nghĩa là gì thế? Trời Đất là nói về Âm Dương. Âm Dương cọ sát nhau, tranh đấu nhau, nhưng khi được cái Chánh của nó, tức là Đạo, thì nó sẽ được điều hòa. Đạo, tức là cái Chánh của Trời Đất, đứng trên Âm Dương, và bao giờ cũng có cái phận sự điều chỉnh lại những gì thái quá do sự tranh chấp của cặp mâu thuẫn ấy gây nên, và không cho cái nào lẫn cái nào cả. Thuận theo cái Chánh của Trời Đất được rồi, thì tha hồ" nương theo cái biến của lục khí" nghĩa là biết " dĩ bất biến"(Đạo) để mà " ứng vạn biến" trong cuộc" vạn hóa" của Trời Đất. Cái Chánh(Đạo) ấy nơi ta, nhà Phật gọi là tánh, Lão tử gọi là Tố và ở đây gọi là Tánh Tự nhiên.

Quách Tượng giải nghĩa câu nấy nói:" Trời Đất lấy vạn vật làm cái thế, còn vạn vật lấy cái tự nhiên(tức là Đạo) làm cái chánh. Không làm mà vẫn được tự nhiên, mới gọi là Tự Nhiên. Tức như chim Bằng, bay cao là sở năng của nó; chim cưu, bay thấp là sở năng của nó; tai nấm mai, sống trong một buổi mai, là sở năng của nó; cây đại xuân, sống dài dằng dặc, là sở năng của nó. Bấy nhiêu cái đó, đều là " sở năng" của tự nhiên, không phải" sở năng" của sự làm của mình; không làm mà tự nhiên được cái sở năng ấy, đó gọi là Chánh. Bởi vậy, " thuận theo cái Chánh của Trời Đất", tức là thuận theo cái Tánh tự nhiên(Đạo) của vạn vật, thì đâu phải cần chờ đợi cái gì nữa mà huyền hóa với tạo vật. Được như thế, mới gọi là người chí đức, tức là người đã được tiêu diêu trong sự huyền đồng của Đây và Đó. Nếu còn nhờ (cái gì ở ngoài) nữa, rồi sau mới được tiêu diêu, tức như Liệt tử tuy" cỡi gió mà đi một cách êm ái dịu dàng" nhưng còn phải đợi có gió mới bay đi được, thì Đức chưa hoàn toàn. Huống chi là chim Bằng. Duy, cùng với vạn vật hỗn hợp làm một rồi, và nương theo cuộc đại biến của Trời Đất mà rong chơi trong cõi vô cùng thì mới gọi được là bậc" thường thông" hay là " đại thông".

Lời chú giải trên đây của Quách Tượng, thật rõ ràng hết sức. Bậc chí nhân là kẻ đã huyền đồng cùng tạo vật rồi, cho nên bản ngã không còn nữa. ở thiên Tề- Vật- Luận, Trang tử mượn lời của Tử- Kỳ để nói lên chân lý ấy:" Ta đã mất bản ngã rồi!" Bản ngã mà không còn thì Thiên- Tánh hiện ra[v], có khác nào Mặt trời (Thiên Tánh hay Đạo) bị mây(Bản ngã) che mờ: hễ mây tan đi thì tự nhiên Mặt trời hiện ra sáng tỏ. Khi Thiên Tánh hiện ra là vì Bản ngã đã mất, nên gọi là "chi nhơn vô kỷ", đó là được chỗ "đại thuận", hay là "được cái Chánh của tánh mạng".

"Thuận theo cái Chánh của Trời Đất", tức là " thuận theo cái Tánh tự nhiên của mình"[vi]. Quan trọng nhất, là gìn giữ cái tánh ấy, đừng để nó lu mờ vì tư dục, đừng để cho hoàn cảnh huyễn hoặc, thay đổi… Một cái cây, từ lúc đâm mộng, nẩy chồi, trổ lá, đơm bông… những cuộc biến động tuy nhiều, nhưng cái Sống của cây vẫn luôn luôn có một, và toàn mãn từ đầu chí cuối.

Bậc chí nhân vì đã thực hiện được trạng thái " vô kỷ" nên " thuận với Tánh tự nhiên của mình" và dù lưu chuyển theo cuộc biến động bất tận của Trời Đất, vẫn không làm mất Bản- tánh duy nhất của mình.[vii]

Bởi vậy, nơi mình, thì lo mà thực hiện sự huyền đồng cùng tạo vật, không phân trong và ngoài, ta và người nữa, không thấy lớn nhỏ, thọ yểu; còn nơi vật, thì biết để cho vạn vật, vật nào cũng được " an theo chỗ đã an bài của chúng" nên không ép buộc ai phải theo mình, nghĩa là lấy mình mà đánh giá sự phải quấy của người. Đó gọi là " chi nhơn vô kỷ".

V. Hữu dụng và vô dụng:

Trời Đất sinh vạn vật, để cho mỗi vật sống cái sống của nó, chứ không phải sinh ra để cho người dùng nó. Dùng được thì dùng, không dùng được thì bỏ. Gọi là hữu dụng hay vô dụng là sai. Thực ra, tự nó, không có vật gì gọi là hữu dụng hay vô dụng cả.
Như mão Chương- phủ, người nước Tống thì đại dụng, mà người nước Việt không dùng, bởi nó không đáp với nhu cầu. Hữu dụng hay vô dụng là việc không thường cũng như lớn nhỏ vậy." Một trái dưa to, nặng năm thạch" mà "bổ nó ra để làm cái bầu" thì lại hỏng cả, không dùng gì được nữa(vô dụng); trái lại, nếu để nó như vậy mà làm phao, đeo lội qua sông, thì nó là hữu dụng.


Ta thấy rằng nếu biết dùng, thì không có vật gì là không vô dụng, như cũng thời món thuốc" bất quy thủ" mà kẻ thì được phong hầu, còn người thì suốt đời chỉ làm cái nghề quay tơ. Đó là Trang tử trả lời cho Hụê- tử (cùng những ai chê cái học của ông là vô dụng) rằng: nếu biết dùng thì không có cái học nào là vô dụng cả: "là vì lòng của phu tử còn hẹp hòi chưa thông đạt"!

Vật nào cũng có cái Tánh tự nhiên của nó, không vật nào giống vật nào cả. Bởi vậy, ta phải biết chịu chỗ khác biệt nhau đó, nghĩa là phải biết nhìn nhận sự " bất bình đẳng tự nhiên" của sự vật mà đừng đem tư tâm mong bình đẳng nhất loại tất cả làm một. Biết nhận sự " bất bình đẳng tự nhiên" giữa vạn vật, tức phải biết kính trọng chỗ riêng biệt của mỗi vật, nghĩa là cái tánh tự nhiên của mỗi vật mà không xen vào làm trở ngại sự phát triển tự nhiên của nó hay sửa đổi uốn nắn nó theo một công thức giả tạo nào khác. Không xen vào làm trở ngại hay làm hư hoại tánh tự nhiên của mỗi vật, là để cho mỗi vật được sống " tiêu diêu" (tự do) theo cái sống của nó, tự do phát triển theo cái tánh tự nhiên của nó.

Tóm lại, tiêu diêu là tự do. Tự do là sống được theo tánh tự nhiên, tức là theo bản tánh của mình. Một hành động được gọi là hành động tự do, khi nào trong hành động ấy, ta biểu lộ được cái Người thâm sâu, thành thực của ta, theo ta, chứ không phải theo kẻ khác, theo một giáo lý hay một mẫu người lý tưởng nào ngoài ta. Và nếu mỗi vật, vật nào cũng được sống theo mình, thì sẽ không còn lớn, nhỏ, quý, tiện nữa, mà thảy đều tiêu diêu như nhau cả. Tiêu diêu như nhau cả, đó là bình đẳng tuyệt đối, mà bình đẳng tuyệt đối là nhờ có tự do tuyệt đối. Thiên Tề- Vật- Luận sẽ bàn về cái Bình đẳng tuyệt đối ấy.

THU- GIANG
NGUYỄN- DUY- CẨN
dịch và bình chú
---------------------------------
Lão tử nói:" kiến Tố, bão Phác"; Phật gia bảo:" kiến tánh, thành Phật".
[ii] Xá kỷ thích nhơn: là bỏ mình mà theo người.
[iii] Đại- Tông- Sư:" Hành danh thất kỷ, phi sĩ dã vong thân bất chân, phi dịch nhơn dã. Nhược hồ Bất- Giai, Vụ Quang, Bá Di, Thúc tề, Cơ tử, Tử du, Kỷ thu, Thân đố địch, thị dịch nhơn chi dịch, thích nhơn chi thích, nhi bất tự thích kỳ thích giả dã. Làm theo danh, mà bỏ mất cái của mình, không phải là kẻ dĩ; làm cho mất mạng mình, không rõ chân lý, đó chẳng phải là kẻ sai khiến được người. Như Hồ Bất Giai, Vụ Quang, Bá Di, Thúc Tề, Cơ Tử, Tử Dư, Kỷ Tha, Thân Đố Địch, là hạng làm cái làm của kẻ khác, theo cái phải của kẻ khác mà không biết theo cái phải của mình.
[iv] Nếu so sánh với câu nói nầy của hiền giả Epiclète(Hy Lạp):" Phàm sự vật, có cái thuộc ta, có cái không thuộc ta. Thuộc ta là những sự phán đoán, những khuynh hướng, những dục vọng, những ưu- ghét của ta, tóm lại là mọi tác dụng của linh- tính ta; không thuộc ta, là thân thể ta, của cải, danh vọng, tước phận, nói tóm lại là mọi sự không còn phải là tác dụng của linh- tính ta.
" Cái thuộc ta thời bản tánh nó tự do, không gì ngăn trở, không gì trái nghịch lại được; cái không thuộc ta thời không được chắc chắn, không được tự do, thường bị ngăn trở, là cái ở ngoài ta mà thôi.
Vậy, ta phải nhớ rằng cái gì vốn nó không được tự do mà cho là tự do, cái gì của người ngoài, vật ngoài mà cho là của mình, thời sẽ phải phiền lòng, sẽ phải buồn bực, sẽ phải bối rối, sẽ đem lòng oán trời, trách người, nhưng nếu cái gì thật của ta mới coi của ta, cái gì của người, coi là của người, thời không ai ép uổng mình được nữa, không ai ngăn cấm mình được nữa, không phải oán ai, không phải trách ai, không phải miễn cưỡng làm việc gì, không ai hại mình, không có kẻ thù, vì không phải chịu sự gì thiệt hại."(bản dịch của Phạm Quỳnh, 1929).
[v] đừng lẫn lộn thiên tánh với tánh tình của bản ngã, như những tánh nóng, tánh keo kiệt, tánh thích xa hoa, tánh ham vui, thích buồn của con người. Đó là chỗ mà Lão tử gọi " thượng đức bất đắc, thị dĩ hữu đắc…"(chương 38 Đạo Đức Kinh).
[vi] Các chánh giả, đắc ư hữu sanh chi sơ bảo hợp giả, toán ư đi sanh chi hậu(Dịch- Kinh). " Các chánh", là nhận được từ khi mới sanh; "bảo hợp", là giữ được trọn vẹn sau khi đã sanh. Cái mà ta gọi là Chánh đó, tức là chỗ mà Lão tử gọi" tử nhi bất vong".
[vii] " Bản tánh duy nhất" ấy, Pháp- ngữ gọi là " unisité individuelle" hoặc là " personne humaine". Đồng một nghĩa với câu nầy trong Dịch- Kinh:" Tri tiến thoái tồn vong nhi bất thất kỳ chánh, kỳ duy thánh nhơn hồ?" (biết tiến, biết thối, biết giữ cho còn, biết làm cho mất, mà không làm mất cái Chánh của mình, chỉ có bậc thánh nhơn mà thôi ư?). chữ chánh đây, tức là Tánh Tự nhiên mà ta đã thọ lãnh của Trời Đất.

TIÊU- DIÊU- DU ( Nam Hoa Kinh)- Trang Tử



DỊCH NGHĨA:

TIÊU- DIÊU- DU

A. Tại biển Bắc có con cá Côn, lớn không biết mấy nghìn dặm. Cá này hóa ra chim Bằng: lưng của chim Bằng lớn cũng không biết mấy nghìn dặm. Vỗ cánh mà bay, cánh nó sè ra như mây che rợp một phương trời. Biển động, Bằng bèn bay sang biển Nam: biển Nam là Ao- Trời.

Tề Hải, sách chép các việc kỳ quái nói: chim Bằng, lúc bay qua biển Nam, cánh đập làm cho sóng nước nổi lên ba nghìn dặm dài; nó nương theo gió trốt mà cất lên chín muôn dặm cao, và bay luôn sáu tháng mới nghỉ.

Cái mà ta thấy trên không kia có phải là bầy" ngựa rừng" chăng, hay là bụi trần? Hay là cái hơi thở của muôn vật nổi lên? Còn màu trời xanh xanh kia có phải là màu thật của nó không, hay chỉ là màu của vô cùng thăm thẳm? Thì cái thấy của con chim Bằng bay trên mây xanh dòm xuống dưới đây cũng chỉ như thế mà thôi.

Vả lại, nước không sâu thì không sức chở thuyền lớn. đổ một chung nước nhỏ vô một cái hủng nhỏ trong nhà, lấy một cọng cỏ thả lên làm thuyền, thì thuyền tự nổi; nếu lại lấy cái chung ấy làm thuyền mà thả lên, thì thuyền phải trịt. Là tại sao? trị nước không sâu mà thuyền thì lớn. Cũng như lớp gió không dầy thì không đủ sức chở nổi cánh lớn của chim Bằng. Bởi vậy chim Bằng khi bay lên chín muôn dặm cao là cỡi lên lớp gió ở dưới nó. Chừng ấy, lưng vác trời xanh, không gì ngăn trở, nó bay thẳng qua Nam.

***

Một con ve và một con chim cưu nhỏ thấy vậy, cười nói:" Ta quyết bay vụt lên cây du, cây phương. Như bay không tới mà có rơi xuống đất thì thôi, chứ không sao! Bay cao chín muôn dặm, sang qua Nam mà làm gì? Ta thích bay đến mấy cánh đồng gần đây, ăn ba miếng no bụng, rồi về. Nếu ta đến chỗ xa trăm dặm, thì ta có lương thực mỗi ngày. Còn nếu ta đến chỗ xa nghìn dặm, thì ta có ba tháng lương thực."

***

Hai con vật ấy, mà biết gì?

Kẻ tiểu trí sao kịp người đại trí. Kẻ tuổi nhỏ sao kịp người tuổi lớn.

Sao mà biết được thế? nấm mai biết gì được hồi sóc, ve sầu biết sao được xuân, thu! Đó đều là hạng tuổi nhỏ cả. Phương Nam nước Sở có cây minh- linh, sống một xuân là năm trăm năm ; một thu là năm trăm năm. Thượng cổ có cây đại- xuân sống một xuân là tám nghìn năm, một thu là tám nghìn năm.(đó là hạng tuổi lớn). Lâu nay từng nghe danh sống lâu của Bành tổ. Hễ nói đến sống lâu, thì người đời thường đem đó mà so sánh, như thế không đáng buồn sao?

B. Thang chi vấn Cấc dã thị dĩ. Cùng phát chi bắc, hữu minh hải giả, thiên trì dã. Hữu ngư yên, kỳ quảng sổ thiên lý, vị hữu tri kỳ tu giả, kỳ danh vi Côn. Hữu điểu yên, kỳ danh vi Bằng, bối nhược Thái Sơn, dực nhược thùy thiên chi vân, đoàn phù diêu dương giác nhi thượng giả cửu vạn lý, tuyệt vân khí, phụ thanh thiên, nhiên hậu đồ Nam thả thích Nam minh dã. Xích yển[ii] tiếu chi viết: Bỉ thả hề thích dã. Ngã đằng dược nhi thượng bất quá sổ nhẫn chi hạ, ngao tường bồng hao chi gian, thử diệc phi chi chí dã. Nhi bỉ thả hề thích dã. Thử tiểu đại chi biện[iii] dã.

DỊCH NGHĨA:

B. Lời ông Thang hỏi ông Cấc, cũng thế. Miền Bắc hoang lạnh có cái biển gọi là Minh- hải, tức là Ao Trời. Có con cá lớn tới mấy nghìn dặm, chưa ai biết nó dài đến bao nhiêu, tên là Côn. Có con chim, tên là Bằng, lưng như núi Thái, cánh tợ vừng mây che một phương trời. Chim nầy theo gió trốt cuộn như sừng dê mà lên chín muôn dặm cao, tuyệt bóng mây- mù, đội trời xanh biếc, bấy giờ nó mới bay về biển Nam. Một con chim ở hồ nhỏ cười nói: đó bay chi cao xa lắm vậy? Ta bay nhảy bất quá vài chục thước cao, ngao du trong đám cỏ bồng cỏ hao. Bay đến thế cũng là đúng mực lắm rồi. Còn đó bay chi cao xa lắm vậy?

Đó là chỗ phân biệt giữa lớn và nhỏ.

C. Cố phù trí hiệu nhất quan, hạnh tỉ nhất hương, đức hợp nhất quân năng trưng[iv] nhất quốc giả, kỳ tự thị dã, diệc nhược thử hĩ. Nhi Tống Vinh tử du nhiên tiếu chi, nhi bất gia khuyến, cử thế nhi phi chi, nhi bất gia thư, định hồ nội ngoại chi phận[v], biện hồ vinh nhục chi cảnh[vi], tư dĩ hĩ. Bỉ kỳ ư thế, vị sát sát nhiên dã, tuy nhiên du hữu vị thọ[vii] dã.

Phù Liệt tử[viii] ngự phong nhi hành lãnh nhiên[ix] thiện dã, tuần hữu ngũ nhật nhi hậu phản. Bỉ ư trí phúc[x] giả, vị sát sát nhiên dã. Thử tuy miễn hò hành du hữu sở đãi giả dã[xi].

Nhược phù thừa thiên địa chi chánh nhi ngự lục khí chi biến[xii], dĩ du vô cùng giả, bỉ thả ô hồ đãi tai. Cố viết: chí nhơn vô kỷ, thần nhơn vô công, thánh nhơn vô danh[xiii].

DỊCH NGHĨA:

C. Cho nên, kẻ có tài trí đủ làm nổi một tước quan, hanh hơn cả một làng, (thì) đức (sẽ) không khác nào một vị vua được lòng tin của cả nước, (nếu biết) tự xem như đấng làm vua kia vậy.

Nhưng Vinh- tử nước Tống lại còn cười chê đó. Vả, đời có khen cũng không khích lệ, mà đời có chê cũng không ngăn đón được: họ đã định rõ cái phận của trong ngoài, phân biệt cái cảnh của vinh nhục rồi đấy. Trong đời, hạng người như thế cũng dễ thường thấy có. Tuy vậy, đức của họ cũng chưa được vững.

Liệt- tử cưỡi gió mà đi, đi một cách êm ái nhẹ nhàng, đi trọn mười lăm hôm mới về. Đó sống trong chỗ chí phúc và người như ông dễ thường thấy có. Tuy khỏi phải đi, nhưng còn chỗ phải chờ.

Đến như thuận theo cái chánh của Trời Đất, nương theo cái biến của lục khí mà dong chơi trong cõi vô cùng: thì đó đâu còn phải chờ đợi cái gì nữa. Cho nên nói rằng: bậc chí nhơn không thấy có mình, bậc thần nhơn không nhớ đến công mình, bậc thánh nhơn không nghĩ đến tên mình.

D. Nghiêu nhượng thiên hạ ư Hứa Do, viết: Nhật Nguyệt xuất hĩ, nhi tước hỏa[xiv] bất tức, kỳ ư quang dã bất diệc nan hồ? Thời vũ giáng hĩ nhi du tẩm quán, kỳ ư trạch dã bất diệc lao hồ? Phu tử lập nhi thiên hạ trị, nhi ngã du thi[xv] chi, ngô tự thị khuyết nhiên. Thỉnh trí thiên hạ.

Hứa Do viết: Tử trị thiên hạ, thiên hạ ký dĩ trị dã, nhi ngã du đại[xvi] tử, ngô tương vi danh hồ? Danh giả, thật chi tân dã. Ngô tương vi tân hồ? Tiêu liêu[xvii] sào ư thâm lâm, bất quá nhất chi. Yển thử[xviii] ẩm hà, bất quá mãn phúc. Quy hưu hồ quân. Dư vô sở dụng thiên hạ vi. Bào nhơn tuy bất trị bào, thi chúc bất việt tôn trở nhi đại chi hĩ.

DỊCH NGHĨA:

D.Vua Nghiêu muốn nhường thiên hạ cho Hứa- Do, nói: Mặt trời mặt trăng đã mọc, mà không dụt đuốc, nhìn bóng đuốc há chẳng khó coi lắm sao? Mưa mùa đã đổ xuống, mà còn đi tưới nước, thế là chẳng lao công vô ích hay sao? Nay nếu phu tử lên ngôi, thiên hạ ắt được trị. Tôi còn ngồi làm thần tượng chi nữa. Tôi tự thấy rất kém. Vậy, xin mời ngài lên trị thiên hạ.

Hứa Do nói: Ngài trị thiên hạ, thì thiên hạ được trị. Tôi còn thế Ngài làm chi, tôi cầu danh hay sao? Danh là khách của Thật. Tôi muốn làm khách sao? Chim tiêu liêu đậu ở rừng sâu, chẳng qua một nhánh là vừa. Chuột đồng xuống nước sông dài, chẳng qua đầy bụng là đủ. Xin trả lại cho ngài đó. Thiên hạ ấy, tôi không dùng làm gì cả. Người đầu bếp dù không xong việc bếp, người chủ tế cũng không vượt phận mà thế cho đó được.

E. Kiên Ngô vấn ư Liên Thúc viết: Ngô văn ngôn ư Tiếp Dư đại nhi vô đương[xix], vãng nhi bất phản. Ngô kinh bố[xx] kỳ ngôn, du Hà Hán nhi vô cực dã, đại hữu kính thính[xxi] bất cận nhơn tình yên. Liên Thúc viết:" kỳ ngôn vị hà tai". Viết: Diễu Cô Xạ chi sơn, hữu thần nhơn cư yên, cơ phu nhược băng tuyết, náo ước[xxii] nhược xử nữ[xxiii] bất thực ngũ cốc, hấp phong ẩm lộ, thừa vân khí, ngự phi long nhi du hồ, tứ hải chi ngoại, kỳ thần ngưng, sử vật bất tì lệ, nhi niên cốc thục. Ngô dĩ thị cuồng nhi bất tín dã.

Liên Thúc viết: Nhiên. Cổ giả vô dĩ hồ văn chương chi quan, lung giả vô dĩ dữ hồ chung cổ chi thinh. Khởi duy hình hài hữu lung manh tai, phù tri diệc hữu chi, thị kỳ ngôn dã, du thời nhữ[xxiv] dã. Chi nhơn dã, chi đức dã, tương bang bạc vạn vật dĩ vi nhất, thế ky hồ loạn, thục tệ tệ yên dĩ thiên hạ vi sự. Chi nhơn dã, vật mạc chi thương. đại tẩm khể thiên nhi bất nịch. đại hạn, kim thạch lưu, thổ sơn tiêu, nhi bất nhiệt. thị, kỳ trấn cấu tỉ khương[xxv] tương du đào chú Nghiêu Thuấn giả dã. Thục khẳng dĩ vật vi sự!

Tống nhơn tư chương phủ nhi thích chư Việt. Việt nhơn đoạn phát văn thân, vô sở dụng chi. Nghiêu tự thiên hạ chi dân, bình hải nội chi chánh, vãng kiến tứ tử Diễu Cô Tạ chi sơn phần thủy chi dương, yểu nhiên[xxvi] táng kỳ thiên hạ yên."

DỊCH NGHĨA:

E. Kiến Ngô nói với Liên- Thúc: Tôi nghe Tiếp Dư nói chuyện lớn lác không tưởng, có lối đi mà không có lối về… khiến tôi kinh sợ, ông nói như sông Hà sông Hán không cùng tận, rất là xa xôi, không cận với nhân- tình…Liên Thúc hỏi:" Nối những gì?"- " Nói rằng trên núi Diễu- Cô Tạ có thần nhơn ở, da thịt như băng tuyết, dáng điệu mềm yếu như người con gái chưa chồng. Không ăn năm loài thóc, chỉ hớp gió, uống sương, nương theo hơi mây, cỡi rồng mà bay ngao du ngoài bốn biển. Ngưng thần lại thì có thể làm cho vạn vật không đau ốm hư hoại, lúa thóc lại được mùa. Tôi cho đó là lời nói cuồng, nên không tin."

Liên Thúc nói:" Phải! Kẻ đui lấy gì để xem thấy được cái đẹp của văn- hoa: kẻ điếc lấy gì để nghe được tiếng chuông tiếng trống. Há chỉ có hình hài mới có đui điếc đâu… trí cũng có đui điếc. Theo lời nói ấy thì ngươi nay cũng thế. Kể như người ấy, đức ấy cùng vạn vật hỗ chụy đi làm cái việc của thiên hạ. Người ấy không vật nào hại đặng. Nước cả đụng trời mà không làm họ chết chìm được, nắng cả chảy mềm sắt đá, cháy núi thiêu đất cũng không làm cho họ chết nóng được. Đồ bụi bặm. Cặn bã của thần nhơn ấy cũng đúc thành được hạng người của Nghiêu Thuấn. Ai đâu lại khứng đi làm công việc cho ngoại vật!

Người nước Tống buôn mũ Chương phủ, sang nước Việt. Người nước Việt thì cắt tóc ngắn và xăm mình, không dùng mũ ấy làm gì. Nghiêu trị trăm họ trong thiên hạ, bình trị được trong nước, bèn sang qua núi Diễu- Cô Tạ để ra mắt bốn Thầy. Họ có cái vẻ sâu xa làm sao mà Nghiêu Thuấn quên mất thiên hạ của mình.

G. Huệ- tử vị Trang tử viết: Ngụy vương di ngã đại hố chi chủng, ngã thọ chi thành, nhi thật ngũ thạch. dĩ thạnh thủy tương, kỳ kiên bất năng tự cử dã. Phẫu chi dĩ vi biều, tắc hồ lạc vô sở dung. Phi bất hiêu nhiên đại dã. Ngô vi kỳ vô dụng nhi phẫu chi. Trang tử viết: Phu tử cố chuyết ư dụng đại hĩ. Tống nhơn hữu thiện vi bất quy thủ[xxvii] chi dược giả, thế thế dĩ bình tích khoáng vi sự. Khách văn chi, thỉnh mãi kỳ phương bách kim. Tụ tộc nhi mưu viết: ngã thế thế vi bình tích khoáng bất quá sổ kim, kim nhất triêu nhi chúc kỹ bách kim, thỉnh dữ chi."
Khách đắc chi, dĩ thuyết Ngô vương. Việt hữu nạn, Ngô vương sử chi tướng… Đông dữ Việt nhơn thủy chiến, đại bại Việt nhơn, liệt địa nhi phong chí.

Năng bất quy thủ nhất dã. Hoặc dĩ phong, hoặc bất nhiên ư bình tích khoáng, tắc sở dung chi dị dã. Kim tử hữu ngũ thạch chi hồ, hà bất lự dĩ vi đại tôn nhi phù hồ lạc vô sở dung. Tắc phu tử du hữu bồng[xxviii] chi tâm dã phù.

G. Huệ- tử gọi Trang tử, nói: Ngụy vương tặng tôi một giống dưa to. Tôi trồng nó có trái nặng đến năm thạch. Dùng nó đựng nước, nó nặng, không cất nhắc được. Bổ nó ra làm cái bầu, thì lại không còn dùng được chỗ nào. Đâu phải nó không to lớn, nhưng vì cho nó là vô dụng nên tôi đập bỏ nó.

Trang tử nói: Thế là phu tử vụng về chỗ đại dụng nó. Nước Tống có người khéo chế được môn thuốc chữa răn nứt da tay, đời đời chuyên làm nghề ươm tơ. Có người hay biết, đến xin mua phương thuốc đó một trăm lượng vàng. Anh ta bèn nhóm thân- tộc bàn rằng:" Nhà ta đời đời làm nghề ươm tơ, lợi không hơn số vàng đó. Nay một mai mà được trăm vàng, xin để cho bán."

Người khách được phương thuốc, đem thuyết vua Ngô. Nước Việt có nạn, vua Ngô sai anh làm tướng. Nhằm mùa đông, thủy chiến với người Việt, người Việt đại bại. Vua Ngô bèn cắt đất mà phong thưởng anh ta.

Cũng thời cùng một phương thuốc trị răn nứt da tay mà một người được thưởng phong, một người không ta khỏi cái nghề ươm tơ: đó là tại chỗ biết dùng mà khác nhau vậy.

Nay phu tử có trái dưa nặng đến năm thạch, sao không tính dùng nó làm trái nổi thả qua sông qua hồ, mà lo chi hồ vỡ bầu tan, không có chỗ dùng? Thì ra vì cái lòng của phu tử hẹp hòi chưa thông đạt đó.

H. Huệ tử vị Trang tử viết: Ngô hữu đại thọ, nhơn vị chi Vu. Kỳ đại bổn ủng thũng[xxix] nhi bất trúng thằng mặc. Kỳ tiểu chi quyện khúc, nhi bất trúng quy củ. Lâph chi đồ, tượng giả bất cố. Kim tử chi ngôn đại nhi vô dụng, chúng sở đồng khử dã.

Trang tử viết: Tử độc bất kiến lỳ tinh[xxx] hồ, ti thân nhi phục, dĩ hậu ngao giả, đông tây điệu lương, bất tị cao hạ, trúng ư cơ tịch, tử ư võng vổ. Kim phù thai ngưu, kỳ đại nhược thuỷ thiên chi vân, thử năng vi đại hĩ, nhi bất năng chấp thử. Kim tử hữu đại thọ, hoạn kỳ vô dụng. Hà bất thọ chi ư vô hà hữu chi hương[xxxi], quảng mạc[xxxii] chi dã, bàng hoàng hỗ vô vi kỳ trắc, tiêu diêu hồ tẩm ngọa[xxxiii] kỳ hạ, bất yểu cản phủ, vật vô hại giả. Vô sở khả dụng, an sở khốn khổ tai!

I. Huệ- tử gọi Trang tử, nói:" Tôi có côi cây to, người ta gọi nó là cây Vu. Gốc nó lồi lõm không đúng dây mực. Nhánh nhóc nó thì cong queo không đúng quy củ. đem trồng nó ở đường cái, người thợ mộc cũng không thèm nhìn. Nay lời nói của ông to lớn mà vô dụng, nên người người đều không thèm nghe."

Trang tử nói:" Ông riêng chẳng thấy con mèo rừng đó sao? Con người mình đứng núp, rình vật đi rong, nhảy tây nhảy đông, không hiềm cao thấp, kẹt trong dò bẫy, chết nơi lưới rập. Đến như con thai- ngưu, lớn như vầng mây che một phương trời, kể ra cũng là to thật, nhưng cũng không bắt được chuột. Nay ông có cây to, lại sợ nó vô dụng. Sao không đem nó trồng nơi tịch mịch, giữa cánh đồng rộng bao la. Khách ngao du không làm gì, ngồi nghỉ dưới gốc nó, khách tiêu diêu nằm ngũ dưới bóng nó. Nó sẽ không chết yểu vì búa rìu, cũng không sợ vật nào làm hại. Không có chỗ nào có thể dùng được, thì khốn khổ từ đâu mà đến được?"

________________

Phù diêu dương giác: gió trốt lớn, xoáy tròn như hình cái sừng dê rừng.

[ii] Xích yển: Xích, là cái hồ nhỏ; yển, là loại chim sẻ.

[iii] Biện: ở đây là sự phân biệt. Quách Tượng chú đoạn nầy, cho rằng không có lớn nhỏ, vì nếu" mỗi vật đều biết yên với cái Tánh của Trời phú cho mình, thì sao có buồn lo vì chỗ không đồng nhau." Đó là ông giảng sai với bản ý của Trang- tử.

Xem kỹ văn mạch của chương nầy, ta thấy rằng chỗ mà Trang- tử bảo" con ve và con chim cưu nhỏ không làm sao hiểu được cái hành động của chim Bằng", thì cũng như ở thiên Thu Thủy ông bảo" con ếch nằm đáy giếng làm gì thấy được cái rộng lớn của bể Đông".

Một đoạn văn sau trong thiên nầy, chỗ mà Kiên- Ngô kể chuyện của Tiếp- Dư bảo rằng" đại nhi vô- đương", chỗ mà Huệ- tử chê lời nói của Trang- tử " đại nhi vô dụng", tức cũng là chỗ mà Lão tử trong Đạo- Đức- Kinh bảo" hạ sĩ văn Đạo, đại tiếu chi" vậy.

Huống chi trước đây ông cũng đã nói: tiểu trí bất cập đại trí ; tiểu niên bất cập đại niên, triêu khuẩn bất tri hối sóc ; huệ cô bất tri xuân thu, thì thật là chủ ý của ông rõ ràng hết sức. Cho nên, lời chú của Quách Tượng, thật là một sự sai lầm to tát vậy, vì đã giảng nghịch lại với ý chánh của họ Trang. Câu nói nầy của Lão tử rất cần để cho ta tự nhắc nhở lấy khi cầm bút bình giảng tư tưởng trong Nam- Hoa- Kinh:" càng muốn làm cho thật sáng, lại càng làm cho ra tồi!" Vì vậy, ít bình giảng chừng nào càng tốt, mà đừng bình giảng gì cả, càng hay! đọc Trang- tử cần nhất là đọc ngay Trang- tử mà đừng đi qua các nhà bình giảng trước, hoặc nếu đi qua các nhà bình giảng trước, hãy quên phứt họ đi, để đi ngay vào chánh văn của Trang- tử.

[iv] Nhi đọc là Năng: cổ tự hai chữ này dùng lẫn nhau.

Trưng: là tin cậy được, được tín nhiệm.

[v] Nội Ngoại chi phận: đây là chỉ về cái Ta bên trong, và ngoại vật bên ngoài.

[vi] Vinh của ta, nhục của người: Vinh cho ta, tức là nhục cho người.

[vii] Thọ, là đứng vững: chỗ gọi là" chí đức cũng chưa được vững". đây là muốn nói rằng: người như Vinh tử chưa đủ cho ta ngưỡng mộ vậy.

[viii] Liệt- tử: người nước Trịnh, tên là Ngự- Khấu.

[ix] Lãnh- nhiên: nhẹ nhàng êm ái

[x] Phúc: tức là không có gì trở ngại cả. trí phúc, là muốn nói rằng Liệt- tử cỡi gió mà tuyệt không có vật nào trở ngại sự họat động của ông cả, ông tha hồ tới lui thong thả.

[xi] Câu này" thử tuy miễn hồ hành, du hữu sở đãi giả dã" cùng với câu trên" tuy nhiên du hữu vị thọ dã" đều cùng một dụng ý: chưa phải là đáng ngưỡng mộ, là đã đến mức hoàn toàn.

[xii] Lục khí: là khí Âm, khí Dương, Gió, Mưa, Tối, Sáng(Âm, Dương, Phong, Vũ, Hồi, Minh). Biện phải đọc là Biến. Xưa hai chữ này dùng lẫn nhau. Chữ" Chánh" đây, là của Âm, Dương(Thiên- Địa; Càn- khôn) đứng chỉ huy cái biến của lục khí…(nắm giềng mối của tất cả hiện tượng trong Trời Đất).

[xiii] Vô kỷ, vô công, vô danh: Thôi- tuyền cho rằng" Vô công, vô danh" là " không lập công, không lập danh". Giảng giải như thế, không ổn nếu không nói là sai. Nhân thế mới có người hiểu theo đó và cho rằng cái học của Trang- tử là cái học yếm thế, hay xuất thế.

Nếu hiểu câu" vô công" là " không lập công", thì câu" vô kỷ" cũng phải có nghĩa là " không lập mình" hay sao và như thế nghĩa nó là gì? khí văn phải nhất quán, và câu nầy phải hiểu là" không có mình", " không có công", " không có danh", nghĩa là không nghĩ đến mình. Bậc được Đạo, không còn có thấy mình nữa(tức là cái tiểu ngã của mình); không còn thấy có mình nữa, thì làm sao còn nghĩ đến công mình, và danh mình.

Lão tử cũng có nói" công toại nhân thoái", " vi như bất thị", " công thành phất cư"…(nên việc, lui thân, làm mà không cậy công, thành công rồi không ở lại…tức là không nghĩ đến sự lưu danh).

Như vậy, không thể gọi Lão học là cái học yếm thế hay xuất thế… vì" không lập công", " không lập danh".

Nên biết rõ rằng chủ trương cứu cánh của hai học thuyết ấy là cái học" huyền đồng vật ngã", không còn thấy có Trong có Ngoài, có Ta có Người nữa. Cho nên không thể hỏi người đắc Đạo là người xuất thế hay yếm thế, là vì đối với họ người với ta là một, Ngoại và nội là một, xã hội và cá nhân là một. Cũng như cá và nước là một, không thể không có nước mà cá sống. Cho nên sở dĩ con người phải lo cho xã hội là vì không có xã hội, cá nhân không sao phát triển được cái sống của mình. Lo cho xã hội không phải là phận sự mà là lẽ tất nhiên phải lo, không lo không đặng, hai lẽ ấy chằng chịt dính líu với nhau, không sao rời nhau được. Cho nên có thể hiểu rằng: nói là lo cho đời, mà chính là lo cho mình; hoặc trái lại, nói là lo cho mình, mà chính là lo cho đời đó.

Cho nên, nói rằng cái học của Lão Trang là cái học yếm thế, tức là chưa hiểu rõ cái chủ trương" huyền- đồng vật ngã" của các ông- vậy chớ phản- đối chế độ hiện hành của thời đại, phản đối Nho Mặc, phản đối cái Đạo hữu- vi đã làm thống khổ nhân dân…không phải đó là một cách tiêu cực lo khang- kiện- hóa xã hội là gì?

Vấn đề nhập thế xuất thế ở đây đã được đặt ra. Và dĩ nhiên, tương đối mà nói thì Lão cũng như Trang đều chủ trương sự thực hiện cái Đạo nơi mình trước hết, trước khi nghĩ đến việc ra lo giúp đời. Sự thực hiện bản thân là một vấn đề cần có sự cô lập và tĩnh tâm, cho nên dĩ nhiên là phải thiên về đời sống cá nhân nhiều hơn. " Tự giác nhi giác tha" của Nhà Phật, cũng như" dĩ tu nhân vi bồn" của Nho gia, phải nặng về sự yên tĩnh và lo về đời sống bản thân trước vấn đề xã hội.

Giáo sư A.W. Watts, trong quyển The Way of Zen lại cho rằng:" Đạo giáo là công việc của những người lớn tuổi, đặc biệt là những kẻ đã từ bỏ cái đời hoạt động xã hội. Sự từ bỏ đời sống họat động xã hội ấy chứng tỏ rằng họ đã có đi đến được một sự giải thoát nội tâm rồi đối với những lề lối suy tư cùng hành động giả tạo của xã hội bên ngoài. Đạo giáo, vì vậy là một sự đeo đuổi theo một thứ hiểu biết tự nhiên, chứ không còn thuộc về cái hiểu biết ước lệ giả tạo theo xã hội nữa, cái thông hiểu trực tiếp với lẽ sống thật, mà không phải trải qua sự trung gian của một ý tượng tinh thần theo nét gạch và tượng trưng."

[xiv] Tước hỏa: cây đuốc, một đóm lửa nhỏ.

[xv] Thi: là làm chủ. Lại cũng có nghĩa là tượng thần, là người có chức nhiệm nhưng không làm gì cả.

ở đây ta có thể hiểu là hư- vị, một địa vị tượng trưng như một pho tượng thần vậy thôi.

[xvi] Đại: thay thế.

[xvii] Tiêu liêu: chim nhỏ.

[xviii] Yển thử: chuột đồng.

[xix] Đại nhi vô- đương: lớn mà không đúng với thực tế. Đại ngôn, tức là lời nói khoác.

[xx] Kinh- bố: Bố nghĩa là sợ; kinh- bố là kinh sợ.

[xxi] Kính- thính: chữ đình ở đây, phải đọc là thính, có nghĩa là xa xôi, diệu vợi.

[xxii] Náo- ước: diện mạo đẹp đẽ, lại cũng có nghĩa là vẻ người yểu điệu, mềm mại, dịu dàng.

Chữ náo cũng viết là xước.

[xxiii] Xử tử: đọc là xử nữ(tức là người con gái chưa chồng).

[xxiv] đọc là nhữ(thay vì nữ).

[xxv] Tỉ- khương: bã lúa, trầu. Tức là cặn bã.

[xxvi] Yểu- nhiên: phong thái sâu xa.

[xxvii] Bất quy thủ: không làm răn nứt da tay.

[xxviii] Bồng: Bồng chi tâm là cái lòng hẹp hòi chưa thông đạt.

[xxix] ủng thủng: lồi lõm, gồ ghề, gút mắt.

[xxx] Ly tinh: tức là một thứ mèo rừng.

[xxxi] Vô hà hữu chi hương: tức là chỗ tịch mịch.

[xxxii] Quảng mạc: rộng lớn

[xxxiii] Tẩm ngọa: nằm ngủ.

“Tỉnh dậy trong mưa”


 Mai Văn Phấn




1.

Mở cửa trong ngày mù trời
Mưa bụi ùa vào ẩm ướt

Khơi lửa lò
Cho khô nhanh áo khăn
Nhung nhớ

Nuốt ngụm môi em
Đầu trần ngó qua cửa sổ
Con bồ câu đậu xuống mái hiên
Mưa giăng mắc bộ lông ánh tím

Ở đâu bây giờ cũng có gió xuân
Bức tường vôi vân vi máu chạy

Chẳng cần vỗ cánh
Chẳng cần bay đi
Con bồ câu và anh
Chồi lên thành lộc biếc.

2.

Chăn ấm không sao ngủ được
Tưởng tượng em đến mở trần nhà
Thả lọn tóc cuộn anh thật chặt
Nhấc bổng lên lơ lửng trong đêm

Quay theo gió
Chốc lại chạm anh vào mặt hồ giá lạnh
Đất ải tơi
Vạt cỏ đầm sương

Buông anh xuống!
Em buông anh xuống!

Khoảnh khắc ấy anh thành hạt giống
Bật phôi rễ và trổ lá mầm

Để trái chín, rượu ngon được cất
Và trứng chim được ủ ấm qua đêm
Anh giữ mãi tưởng tượng này đến sáng.

3.

Buông anh như gieo hạt

Tỉnh dậy cỏ cây láng ướt bầu trời
Mưa quần tụ mái nhà gõ nhịp
Mặt đất mềm hơi thở lan nhanh

Em luống cuống kéo chăn che ngực
Ngỡ ai qua đây xếp lại căn phòng

Giấc mơ ấy vẫn còn dang dở
Chợt rộ lên từng đợt lá non

Vùi vào nhau hạt mầm bé nhỏ
Rơi trong nụ hôn tinh sương.

4.

Trái đất bắt đầu vòng quay khác
Nhanh hơn

Mặt trời về với bóng tối
Hoa trái, dấu chân
Những ngôi nhà kín cửa

Đàn ong thợ bay về
Không còn chiếc tổ và con ong chúa
Hương đất lạ hạt mưa

Con ngựa trời say tốc độ
Lảo đảo bám chặt nhành cây
Đại bàng xoải cánh đỉnh núi
Biển dồn nghẹn thở cửa sông

Hôn em thật lâu ghi dấu
Nơi đây. Giờ này
Đám mây kia xuống thấp
Buổi uyên nguyên trái đất quay về.

5.

Tổ chim đất đỏ au
Cuộn cây rừng
Suối chảy
Đan bằng tầm nhìn

Em sinh anh thành một, hai, ba…
Phân thân muôn vàn
Riêng anh
Riêng anh nữa

Một, hai, ba… hôn em
Lòng tổ chim đầy nắng
Ngầy ngậy mùi củ rừng
Tràn hương hoa rừng

Cho dù ở đâu
Đan vào nhau thành tổ.

6.

Ta gần nhau thêm
Trước khi ban mai trong suốt kéo lên

Bóng cây chợt tỉnh hoa xoè
Con nhện nước làm tổ trong rơm rạ mục
Rễ cỏ hương bài
Lòng đất quặn sâu

Nước chảy
Cứ chảy
Giữ đôi ta lại

Mỗi nụ hôn mở thêm cánh cửa
Níu chặt tay nhau
Bám chặt tay nhau
Không thất lạc

Bỡ ngỡ cùng cơn mưa nặng hạt
Nhận ra đôi tay bé thơ
Bàn chân chập chững
Đi lên đất

Hình như ngày đã muộn
Vẫn dìu nhau đi xem ban mai.

7.

Ảnh chụp em bước lên bờ đá ven biển
Anh tình cờ nhìn bức tranh khác
Hình dung em một chấm nhỏ trên đồng
Vẽ bằng giọt màu phất nhẹ

Triền cát mịn
Lối lên bờ là cánh đồng
Tóc em gió cuốn nơi tàng cây yên lặng

Ước sao lúc này đàn chim bay qua không sợ hãi
Sà xuống nhặt những hạt thóc

Anh sẽ tha cho lũ chuột đồng đói khát chui từ ổ đất
Tha cho cơn giông làm bông lúa rụng hạt
Tha cho cả nắng rát bỏng
Nắng hây hây, nắng xế
Làm cánh đồng lúa chín rộ lên.

8.

Sóng Bạch Đằng trùm lấp
Phù sa trên vai anh

Đóng chiếc cọc sâu cột cánh diều
Tạ ơn cha mẹ

Lặng yên rễ sú, rễ bần xoắn bện
Lau lác, mặt trời bờ nước lao xao

Ấp mình trong cỏ
Vùi vào em bàn tay tí hon

Con cá lớn bị quăng lên mặt đất.

9.

Anh cúi xuống nhặt vật bất kỳ, viên sỏi, cọng rơm khô, sợi tóc ai rớt xuống… Nỗi nhớ nhắc anh, áo quần em mang, giày dép bong ra, một phần da thịt.
Chạm vào anh biết viên sỏi rất mềm, cọng rơm khô trĩu nặng, sợi tóc thở nhẹ.
Anh cầm rất lâu.
Gieo xuống đất. Tung lên trời và hứng một hạt mưa.

10.

Dang tay vươn thở
Sải mình
Mở cùng nước

Cơ thể anh
Cánh cửa nhỏ bé

Gập mình dịu mát
Thả lỏng
Sắp đặt lại xương cốt
Dòng nước cuốn từng tế bào chết

Nằm xuống cỏ hít sâu
Nén trời cao
Tiếng chim thổi bung gió lộng

Là mầm cây, bàn tay gieo cấy
Là mồi câu, đăng lưới, rong rêu…

Dập dồn sóng
Đổ lên boong tàu tưởng tượng.

11.

Đầu lưỡi chạm kem bơ
Hình bông hoa
Chân mây ai vẽ

Anh cắn vội
Và ăn ngập ngừng
Muốn em biết anh đang ở đây

Miếng bánh cắn dở ở đây
Đàn vịt lội
Mùa ong đi hút mật

Bánh qua lò bột mịn bông tơi
Đặt bên cạnh trà thơm, dao sắc.

12.

Nhớ em khi anh đọc sách. Khung cảnh hình dung từ trang sách đang chuyển động trong ánh nhũ bạc. Một nhân vật trong truyện vừa rửa tay bằng ánh trăng lấp lóa. Mùi trăng quyện thịt da chảy xuống rãnh đất sâu, chốc lại ngoi lên một bông lau phơ phất. Văn bản tiếp cảnh sương mù trong bản nhỏ. Thiếu nữ chân trần gùi gạo vào rừng. Vạt rừng đầy trăng sáng. Một người nằm ngủ, mơ có quả bứa vàng xếp thành ngai dưới trăng chờ anh ta thức dậy… Ánh sáng không có trong văn bản, anh tưởng tượng thêm hình ảnh dưới trăng. Những chuyện đầy trăng.

13.

Từ hốc đen tra hạt
Đọt mầm bật dậy
Chim bay

Ngọn rễ non biết được
Đất ôm trời đã lâu

Căng tràn nhựa mật
Vỏ hạt vừa buông
Thả ngắt xanh về tít tắp

Ngày lên thăm thẳm
Lá mầm che mặt đất sum suê.

14.

Nhụy hồng tươi
Cánh trắng tinh khôi
Mở bầu trời hơi thở

Thở cỏ xanh
Đá tai mèo, miệng vực
Tiếng vượn thở thịt da hoang dã

Hương thơm cùng sắc hoa mê dụ
Chạm vào anh rồi tan ra
Tan ra

Đôi môi anh làm mỏ chim ong (*) hút nhụy
Đập cánh liên hồi bay tại chỗ.
_______________
(*) Chim ong có cặp mỏ dài, khi bay thường dừng một chỗ để hút mật hoa.

15.

Xương cốt mùa đông
Da thịt mùa xuân
Hoa loa kèn mở cánh trắng muốt

Thoang thoảng hương
Tràn khắp gian phòng

Anh vươn về lọ hoa
Xoay tất cả đài hoa sang hướng khác

Cuống hoa tựa vào anh biếc xanh

Chờ từng giọt cafe
Màu trắng tinh khôi thổi trên đầu như bão.

16.

Mùa cây đậu quả
Ôm gió nặng nề

Anh là dưỡng chất
Cho cây đỡ mệt

Áp vào thân
Nghe chim hót
Xương cây máu chảy
Thụ phấn nhụy hoa

Nhú quả xanh
Nuốt nước miếng có vị chát

Gió cuộn anh vào cây
Cho trái chín.

17.

Bông hoa khổng lồ
Ôm anh ngủ

Cuống hoa tới đỉnh trời
Không thấy gốc cây

Suốt giấc mơ hoa không héo
Gần sáng cánh như co lại
Thành nụ

Anh biết mình đã trọn kiếp mơ
Một kiếp yêu tỉnh lại

Chạy về cuối làn hương
Gặp con đường

Chạm một bông hoa bé tí
Mọi cuống hoa trên mặt đất rung lên.

18.

Hạt mưa chạm mặt anh khỏa nhẹ.

Tiếng mưa dâng bầy thủy sinh, vây cá lượn lờ. Con tôm cong mình búng giật trong cơ thể anh nghẹn sóng.

Đừng mưa lây rây, mưa nhỏ giọt, mà xối xả lòng suối, lòng hồ, lòng đá mềm giãn nở. Cánh tay trần vực dậy thân cây. Những nụ mầm ướt.

Mưa chạm vào da vào lưỡi, gợi đường cong và eo lưng mưa.

Tiếng sấm nổ vào thời khắc anh hình dung con cá lớn quẫy khỏi cơ thể. Ngoi lên. Ung dung bơi đi trong mưa.

19.

Anh nhìn vòm phượng vỹ gặp mặt nước tóc bồng sương sớm
Miệng cười sóng động

Em thường quên đi bên cạnh có hồ
Hơi nước dâng cho em nói cười, trang điểm

Bất chợt trên đường em thấy mát
Đi đâu hồ cũng theo em
Ai tưới nước lên từng phần cơ thể
Sóng cuốn em đi, dìm tận đáy sâu

Em mở cửa nhìn xuống con đường tấp nập xe cộ
Qua chậu ngải hương có đoạn dây điện nhà bên thõng xuống

Gần em mặt hồ trải rộng
Thành đôi mắt nhìn anh.

20.

Đâu biết bao nhiêu bông hoa trong bình
Tôi cúi xuống đài sen

Nhớ mình đã ngồi xuống ghế
Cầm cốc nước
Tựa vào mép bàn

Hương sen đưa tôi lên đỉnh núi
Mặt đất, mây bay vội
Không bước chân, tiếng động thú rừng

Nhớ mình là viên đạn, cái gai
Mũi tên sắc nhọn ướp sen trên đá

Lúc này sao còn liên tưởng tới mũi tên, viên đạn, cái gai?

Hương hoa thanh khiết phủ đá núi
Phủ lên cỏ cây thiếu đất cỗi cằn
Con thằn lằn bạo dạn
Trong khoảng không thưa vắng bóng người

Ngước lên cao để hương sen không đưa tôi đi xa nữa
Kìa một… hai… cánh hoa vừa rụng
Chạm vào mặt đất như có tiếng kêu.

21.

Bức ảnh mịn màng thơm
Bởi nắng mai
Hoa sen bên cạnh

Từng cánh hoa trắng muốt
Giăng kín khoảng không

Theo làn hương
Anh len qua mắt em
Nữ trang, khăn áo

Mở ngăn tủ tìm cuốn sách
Chọn màu giấy mực
Đợi ngấm trà
Pha thêm nước sôi

Bận nhiều công việc
Chợt nở thêm mấy bông hoa
Bên khung ảnh không có cánh cửa.

22.

Xối đi
Ngấm xuống
Trong đất khô gốc cây đang hấp hối

Sợi rễ tua tủa - thiếu máu - chới với
Ở đâu la đà, mướt xanh?
Ở đâu quang hợp?

Chạm vào nước
Chùm rễ cất cánh

Thân ứ căng dòng nhựa lên ngọn
Nứt vỡ vỏ cây
Mặt đất, khoảng không

Gió ở đâu?
Chim chóc đâu?

Ai lay mạnh gốc cây một lúc

Chỉ cần nghĩ thế
Nước mát lan đi khắp cơ thể anh.

23.

Nấp trong anh
Nghe anh lặng im, cười nói
Chân lồng vào đôi chân
Tay em cho anh cử động

Giữa mùa hè
Nắng từ mặt sóng dồn dập
Hắt lên lấp lóa, lấp lóa
Em nâng tay anh lên che mặt

Đàn cá phơi vảy bạc
Cắt những đường nước thẳng tắp
Chia mặt biển thành nhiều phần

Anh thót ngực trước cảnh đẹp
Vừa hiện ra
Đã tan trong sóng xanh

Sao em nằm trong ngực
Không mách giùm anh điều gì.

24.

Cắn trái táo, em bảo
Trong ấy là biển
Dòng hải lưu ngọt thơm

Biển chín trên cành
Lòng biển
Đất sâu cội rễ

Cửa biển lồng môi em anh
Ăn bờ xâm thực
Dừng lại nơi ta đứng
Người người đang yêu

Ngoài biển nước ngọt
Lạch nguồn
Cơn mưa vẫn ngọt

Em bảo dẫu bằng trái táo
Nếu gian dối biển sẽ dìm anh chết.

25.

Thân cây đứng
Giữ bầu trời quả chín.

26.

… mưa rơi xuyên thấu…

Ngọn sóng câm nín
Đá núi sừng sững
Rễ cây bất động xiên ngang
Trứng chim nằm trong lòng mẹ
Con thạch sùng bất động
Chuông ngừng kêu
Mây cuộn đỉnh tháp
Vỉa hè thoáng chốc đứng im

… mưa rơi xuyên thấu…

Sóng lao xuống vực
Chuông đổ liên hồi
Đàn chim vỗ cánh
Con thạch sùng lên đường
Cùng vỉa hè, đám mây, cây lá…

27.

Kéo mặt đất lên
Thấy nhiều mặt đất ta chưa đặt chân

Cùng em nhìn muôn mặt cắt khuất lấp
Biết mình đã đổi thay và mãi ngây thơ
Ngày mai đang yêu
Trái tim rộn rã thuở ban đầu

Trong hơi thở gấp anh biết
Tay mang hạt giống
Gieo… Gieo…
Ta gieo…

Vô tình hạt rụng trên đường
Trỗi dậy bạt ngàn cây lá

Kéo mặt đất lên cho hơi mát, tiếng chim
Dồn vào nơi thanh vắng
Ánh ngày reo trong đất sâu

Anh đang mở muôn cánh cửa vào mọi đồ vật
Vào khoảng không khác, những thế giới khác.

Xã hội này, ngược đời ghê










Lắm lúc tôi tự hỏi, ai cũng hướng về cái đẹp, ai cũng biết đâu là đúng, đâu là sai, có thể không phải tuyệt đối nhưng phần lớn là vậy, nhưng sao xã hội này lại có lắm chuyện ngược đời như vậy.

Thật lạ khi ai cũng biết vượt đèn đỏ là không tốt, cho cả mình, cả người khác, nhưng sao người ta vẫn vượt?

Thật lạ khi cảnh sát là người thi hành luật pháp, chấn chỉnh xã hội để hướng về một đất nước văn minh, trật tự, ngăn nắp hơn. Nhưng sao họ vẫn ngửa tay ra nhận những đồng tiền hối lộ, chưa bàn đến đúng sai, nhưng rõ ràng họ là những người chấp pháp lại đi phạm pháp, dù họ biết đúng sai, thật ngược đời.

Thật lạ khi biết hút thuốc là xấu, sao cả nước kêu gọi chống thuốc lá, thuốc lá có hại cho sức khỏe, nhưng lại có những thầy cô phì phèo điếu thuốc trước mặt học sinh, trong khi họ là những người dạy về tri thức, về những điều đúng sai.

Thật lạ khi 18 tuổi mới được phép đi xe máy, mà sao bạn tôi có ba làm cảnh sát giao thông lại ngày ngày chở mẹ đi ngay từ khi vào lớp 10 thế kia?

Thật lạ khi đi ngang qua khu quân đội, có một bạn nữ mặc áo chiến sĩ nhân dân, lái một chiếc xe tay ga chạy từ trong ra và chẳng thèm đội mũ bảo hiểm.

Thật lạ khi biết không nên, nhưng bố mẹ vẫn dùng những từ ngữ chửi thề trước mặt con cháu mình, để rồi những đứa trẻ coi đó như là một chuyện hiển nhiên.

Thật lạ khi ai cũng biết gia đình là quan trọng nhất, nhưng một vài người vẫn hiếm khi chủ động gọi điện về nhà hỏi thăm, để đến khi cha mẹ xảy ra chuyện thì lại khóc lóc ăn năn.

Thật lạ khi ai cũng biết cha mẹ quan trọng hơn, nhưng một vài người lại dành nhiều yêu thương, giấy bút, tâm trí hơn cho những thần tượng ở đâu đó.

Thật lạ khi người ta biết mình chưa giàu, nhưng họ vẫn ăn chơi, vẫn nhậu nhẹt mỗi khi đi làm về.

Thật lạ khi chưa làm ra tiền, mà một vài người lại xài nhiều tiền hơn những người đang cố gắng lao động mỗi ngày.

Thật lạ khi con người ta tạo ra công nghệ, để rồi họ bị công nghệ làm chủ và rồi đổ hết thất bại của mình cho game, cho mạng xã hội, cho laptop, cho smartphone trong khi chính họ là người lựa chọn sa đà vào đó.

Thật lạ khi còn nhỏ, ai cũng muốn sớm trưởng thành, lớn lên rồi thì ngược lại.

Thật lạ khi biết vứt rác bừa bãi là chuyện không hay, nhưng người ta vẫn cứ làm mỗi ngày.

Thật lạ khi con người ta trước mặt thì yêu thương, sau lưng lại nói xấu nhau với những người khác.

Thật lạ khi ai cũng biết mình đang mang mặt nạ, nhưng ít ai dám gỡ chính cái mặt nạ mà mình mang cả.

Thật lạ khi một mối quan hệ kéo dài hằng trăm ngày, tính bằng đơn vị năm lại dễ dàng bị hủy hoại bởi một vài câu nói, hay một vài phút nóng giận.

Thật lạ khi người ta biết phun thuốc, chế biến đồ ăn không hợp vệ sinh, mua những nguyên liệu không rõ xuất sứ, nguồn gốc rất không tốt cho sức khỏe của người khác nhưng họ vẫn làm nó mỗi ngày.

Thật lạ khi người ta biết mỗi ngày dành ra vài mươi phút tập thể dục nhẹ nhàng sẽ khiến ta khỏe mạnh hơn, minh mẫn hơn, nhưng lại không nhiều người làm điều đó.

Thật lạ khi người ta biết không nên thức khuya, không nên ăn quá nhiều, không nên bỏ bữa ăn nào trong ngày cả, nhưng họ vẫn làm điều đó mỗi ngày.

Thật lạ khi biết quay cóp là xấu, nhưng người ta vẫn làm nó khi có thể.

Thật lạ khi ai cũng biết thành công không nhất thiết phải kiếm được thật nhiều tiền, nhưng họ lại dùng tiền để định nghĩa thành công.

Thật lạ khi học sinh, sinh viên biết ba mẹ phải trả không ít tiền cho họ đi học trung học, học thêm, học đại học, nhưng họ vẫn trốn học mỗi khi họ muốn…

Thật là lạ mà…
Bạn còn thấy có gì lạ trong xã hội ngược đời này nữa không?



Black Eagle

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014

THÓI QUEN "VĂN CHƯƠNG" TRONG NỀN SÁNG TẠO THƠ VĂN TIẾNG VIỆT



Văn chương! Không biết ai là kẻ đầu tiên áp đặt hai chữ văn chương vào văn học Việt Nam.

Với ảnh hưởng Trung Hoa lâu dài trong quá khứ người ta có thể suy đoán có lẽ ngày xưa các cụ vì sính chữ Tàu nên kéo danh từ này về nước làm khuôn mẫu cho những sáng tác thơ vịnh. Nói như thế cũng chưa hoàn toàn chuẩn. Vì một sự du nhập văn hóa nào nếu không được ưa chuộng hoặc không thích hợp với bản sắc của môi trường mới, chưa chắc đã tồn tại và bắt rễ mọc cây vào mảnh đất này.

Theo định nghĩa chiết tự Hán Nôm: Văn là vẻ đẹp. Chương là vẻ sáng. Văn chương có nghĩa là vẻ đẹp đẽ sáng sủa của một sáng tác. Ðịnh nghĩa này có vẻ thiên về hình thức hơn về nội dung của một sáng tác thơ văn.

Có phải điều này đã trở thành châm ngôn tối thượng đi vào văn học Việt Nam. Nhấn mạnh mặt "văn chương". Chú ý hình thức, cách trình bày, điệu nghệ của một đoạn văn, nhịp tiết tấu của những vần thơ, đã trở thành một tiêu chuẩn căn bản để định giá những sáng tác thơ truyện tiếng Việt hay ho từ xưa đến nay.

Nhìn lại văn học tiếng Việt ba tác phẩm cổ nổi tiếng là Ðoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều và Chinh Phụ Ngâm của Ðoàn Thị Ðiểm. Ðây là những tác phẩm được xem như là gia bảo của nền văn học Việt Nam từ trước đến nay.

Tác phẩm được nâng niu hàng đầu là Ðoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du. Trước tiên xét về mặt nội dung suy tưởng. Ðoạn Trường Tân Thanh được biết đến với đề tài Tài Mệnh Tương Ðố "Chữ tài liền với chữ tai một vần". Thúy Kiều nhân vật chính của truyện là một cô gái tài sắc đã gặp truân chuyên trắc trở cuộc đời đến mười lăm năm. Ðây là tác phẩm có nội dung suy tưởng của một đề tài cao. Nhưng ý chính của tác phẩm, tài sắc của con người đi cặp kè với hoạn nạn, "càng cao giá ngọc càng dày gian nan" của Nguyễn Du không phải là một suy tưởng phổ quát cho con người ở bất cứ đâu thời đại nào hoặc bất cứ hoàn cảnh nào. Lịch sử nhân loại cho thấy nhiều gương danh nhân thế giới có những cuộc đời huy hoàng thành công vượt bực nhờ tài năng và nhan sắc của họ. Chứ không phải hễ ai tài sắc cũng đều gặp một cuộc đời khốn nạn như cuộc đời nàng Thúy Kiều nhà mình.

Truyện Kiều vẫn được truyền tụng trong dân gian vì những câu thơ Nôm bất hủ của Nguyễn Du. Nghệ thuật tả cảnh "Dập dìu tài tử giai nhân. Ngựa xe như nước, áo quần như nêm", tả tình "Tình trong như đã mặt ngoài còn e”, tả người “khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang". Nghệ thuật mô tả của Nguyễn Du siêu đẳng. Nhờ nghệ thuật mô tả của ông mà những nhân vật song mãi với người đọc. Thơ văn tiếng Việt được yêu chiều “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng nước ta còn ..." (Phạm Quỳnh, trong 327). Truyện Kiều còn đạt được mức độ tài hoa nhất của thi ca Việt Nam. Cơ hồ đến nay những câu thơ mấy trăm năm đã qua của Nguyễn Du vẫn còn là những câu lục bát tinh hoa nhất của thi ca Việt Nam vẫn được nhiều người thuộc nhất, vẫn được dùng làm gương do sáng tác trong giới cầm bút nhất.

Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều và Chinh Phụ Ngâm của Ðặng Trần Côn là hai câu truyện tâm sự ta thán của những người đàn bà bất hạnh. Cung Oán Ngâm Khúc là khúc ngâm của một người cung nữ đẹp bị quân vương hất hủi.

Chinh Phụ Ngâm là tiếng than của một người đàn bà có chồng đánh giặc xa. Xét về nội dung suy tưởng cả hơi tác phẩm đều đặt thân phận con người trong triết lý Phật giáo. Ðời là bể khổ: "Nghĩ thân phù thế mà đau. Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê" (CONK). Hệ lụy duyên kiếp: Trong cửa này đã đành phận thiếp. Ngoài mây kia há kiếp chàng vay" (CPN).

Tuy đụng chạm vấn đề của triết lý đạo Phật, nhưng cả hai tác phẩm không đưa ra những suy tưởng mở rộng nào, mà suy tưởng trong các tác phẩm này có tính cách định đề khép kín. Ðặt con người trong một định đề đã được triết lý Phật giáo đóng khung: thân phận con người là thế đấy, duyên may phận rủi. Và giờ đây chỉ có nước kêu than mà thốt. Một người thì than oán cay cú (CONK). Một người thì tỉ tê tâm sự' (CPN). Xét về mặt nội dung, cả hai tác phẩm nêu trên không có được những bước suy tưởng phóng tới chính gốc của một tác phẩm sáng tạo, một nét tất yếu toát ra từ những tác phẩm lớn. Ðiều này chính là vì cái định đề đóng khung "định mệnh đã an bài" mà Ðặng Trên Côn và Nguyện Gia Thiều đã ném vào tác phẩm như cái sườn để dựng truyện. Người đọc không tìm được những tranh chấp siêu hình hoặc tranh chấp nhân sinh đến từ những suy tưởng mà chỉ thấy cát thông điệp của triết lý Phật Giáo được diễn giải ra qua những nhân vật, hoặc bàng bạc trong những cách tả cảnh tình tài tình của một người viết hay.

Nhưng Chinh Phụ Ngâm đến tay Ðoàn Thị Ðiểm diễn Nôm đã trở thành sáng rực rỡ trong vòm trời văn học Việt Nam. Với thể thơ song thất lục báu bát Ðoàn Thị Ðiểm đã biến tác phẩm của Ðặng Trần Côn thành một áng thơ Nôm bất hủ. Cùng với Cung Oán Ngâm Khúc, bản thơ Nôm Chinh Phụ Ngâm của Ðoàn Thi Ðiểm được tất cả mọi người viết sách biên khảo văn học Việt Nam hết lời ca ngợi về mặt nghệ thuật chữ nghĩa và mô tả. Nhà biên khảo Dương Quảng Hàm viết trong Việt Nam Văn Học Sứ Yếu về Cung Oán Ngâm Khúc như sau: "Lời văn thì rõ là của một bậc túc nho uẩn sư đặt câu thì gọt giũa, cao kỳ; diễn ý thì dùng nhiều chữ bóng bẩy và nhiều điển cổ . Văn Nôm trong muốn ấy thật đã tới một trình độ rất cao". (Dương Quảng Hàm trang 218).

Qua khỏi ba tác phẩm kể trên, những sáng tác tiếp theo được dùng làm khuôn vàng thước ngọc trong văn học Việt Nam là những sáng tác của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát, Tú Xương Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Ðình Chiểu ... của thế kỷ mười chín. Trong thời kỳ văn học cực thịnh của tiếng Nôm hay tiếng Nam này, ngoài Nguyễn Ðình Chiểu với chuyện Lục Vân Tiên có tuồng tích chủ đề đâu ra đó, chuyện Kim Thạch Kỳ Duyên của Bùi Hữu Nghĩa là một vở tuồng đạo đức. Và Nguyễn Công Trứ với triết lý sống qua những bài thơ phú của ông. Những sáng tác của những tác giả còn lại kể trên phần lớn đều được ngưỡng mộ vì đấy cũng là những sáng tác thơ Nôm bất hủ. Hồ Xuân Hương được ưu ái tặng cho tước hiệu Bà Chúa Thơ Nôm. Cao Bá Quát được truyền tụng: "Văn thư Siêu quát vô tiền Hán". Trong tập Khảo Luận về Nguyễn Khuyến của Doãn Quốc Sĩ và Việt Tử, Nguyễn Khuyến được các nhà biên khảo này đề nghị như sau: "Bất lực trước thực tại Nguyễn Khuyến lui về ở ẩn. Ngoài bốn cảnh cổ điền cầm, kỳ, thi, tửu, cụ còn tìm quên lãng trong cái mênh mông hiền dịu của thiên nhiên." (Doãn Quốc Sỹ, trang 97).

"Bất lực trước thực tại", có lẽ cũng là trường hợp xảy ra cho Cao Bá Quát, Tú Xương ... Những nhà thơ "lớn" này vì bất lực việc triều đình hoặc thế sự đảo điên đã về nhà làm thơ. Và kết quả nền văn học Việt Nam có được những áng 'văn chương" bất hủ. Ông nào tự trào cũng số một. Cao Bá Quát coi đời bằng vung. Tú Xương tả cảnh ăn chơi tận tình. Nếu dùng những tiêu chuẩn nghiêm chỉnh của thế giới để phê bình giá trị nội dung sáng tác của những tác phẩm này, người ta sẽ không tìm thấy ở đây những giá trị phổ quát, nhân sinh, thâm sâu lồng lộng trời biển nào. Mà phần lớn là những bài thơ bất đắc chí, chỉ nhìn thấy ở đời sống những mặt tiêu cực.

Nhưng những sáng tác của họ đã được không biết bao nhiêu bậc trí thức và tác giả Việt Nam tuyên dương tán tụng đây là những kiệt tác văn chương của Việt Nam.

Thơ của Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát đã từng được Bộ Giáo Dục Miền Nam trước năm 1975 mang vào giảng dạy bậc trung học. Ðiều này chứng tỏ Bộ Giáo Dục đồng ý rằng hễ “lời thơ ý đẹp và sáng" là đáng được dùng làm tiêu chuẩn học hỏi cho bậc hậu sinh. Mặc cho giá trị nội dung tiêu cực đến đâu.

Qua đến triều đại Tự Lực Văn Ðoàn thể văn xuôi mới phổ thông ra đời. Những nhà văn nổi tiếng của nhóm này là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Ðạo, Thạch Lam ... Nhất Lỉnh nổi tiếng với những tác phẩm Ðôi Bạn, Ðoạn Tuyệt, Giòng Sông Thanh Thủy, Xóm Cầu Mới. Khái Hưng với Hồn Bướm Mơ Tiên, Nửa Chừng Xuân, Trống Mái. Thạch Lam với Sợi Tóc, Hà Nội 36 Phố Phường, Gió Ðầu Mùa ....

Mặc dầu đây là một văn đoàn với những định kiến trói buộc về tôn chỉ mục đích như "theo chủ nghĩa bình dân", “làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa". (Phạm Thế Ngũ, Tôn Chỉ và đường lối sáng tác của Văn Ðoàn, trang 437). Mà theo Phạm Thế Ngũ suy diễn ra là "Diễn tả tự do cá nhân để chống lại luân lý gia đình chuyên chế" (Phạm Thế Ngũ, trang 438). Tự Lực Văn Ðoàn có công trong việc đưa vào tiếng Việt lối viết truyện mới, thoát ra ảnh hưởng của lối viết truyện theo thể văn vần đã chế ngự văn học Việt Nam mấy ngàn năm trước đây. Với những chủ trương đã định sẵn như vậy, người đọc sẽ tìm thấy những chủ định đóng trọn vai trò giao phó của những nhân vật trong các tác phẩm của những tác giả nhóm này. Nhân vật Loan, Thân, Dũng trong Ðoạn Tuyệt, Nhà Mẹ Lê trong Xóm Cầu Mới, hoặc Vọi trong Trống Mái là điển hình. Những nhân vật trong những tác phẩm có chủ đề thường bị rơi vào tình trạng là phải sống, phải suy nghĩ phải đóng những vai trò theo ý định chủ quan của tác giả. Họ không còn một trời một cõi riêng của mình nữa. Sơ hở này thường ít tìm thấy ở những tác phẩm tớn quốc tế. Nếu không muốn nói là những tác phẩm thuộc vào hàng quốc tế này thường được ca ngợi là có những nhân vật có đời sống riêng của nhân vật. Tác giả thành công trong việc biến mất khỏi sân khấu tác phẩm, và hoàn toàn để cho những nhân vật của họ sống tung hê theo câu chuyện. Những tay viết chuyện nhà nghề lừng danh quốc tế vẫn thường được khen ngợi về điểm này.

Thật ra việc tác giả ôm ấp những chu thuyết hoặc chủ đề trước khi dựng truyện, và chủ mưu xây dựng nhân vật hoặc câu chuyện xoay quanh một chủ đề nào đó, xảy ra rất thường. Jean-Paul Sartre chẳng hạn, ông ta là một triết gia trước khi tả một nhà văn. Tuy nhiên mức độ dày mỏng của tư tưởng cộng với tài năng viết văn của tác giả, để khi ra đến quốc tế, được soi rọi như soi rọi trước ống kính hiển vi và được công nhận là một kiệt tác. Thì không phải là chuyện dễ ăn. Mức độ suy tưởng của Sartre về thân phận con người qua anh chàng Roquentin trong La Nausée chắc chắn là sâu sắc, dày. và phổ quát nếu so với mức độ suy tưởng của Nhất Linh về Nhà Mẹ Lê.

Trong mười tôn chỉ của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn đăng trên báo Phong Hóa số 87 ra ngày 2-3-1 933, điều khoản thứ tư có ghi: "Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam." (Phạm Thế Ngũ, Tôn Chỉ và đường lối sáng tác của Văn Ðoàn, trang 437). Có lẽ đây là một chủ trương thành công nhất của nhóm vãn bút này. Lời văn của Tự Lực Văn Ðoàn trong sáng giản dị điều này ai cũng nhìn nhận. Vừa có chủ ý chọn lựa những câu chuyện "bình dân", vừa xứ dụng tiếng Việt giản dị dễ hiểu, những tác phẩm của Tự Lực Văn Ðoàn đã được chào đón nồng nhiệt ngay lúc vừa ra đời năm 1932. Những đoạn văn tả cảnh, tả tình, tả người của Thạch Lam, Nhất Linh, Khái Hưng thật đặc sắc làm nổi bật được tinh hoa của tiếng Việt. Lời văn trong sáng lưu loát chính là yếu tố đã tạo ra một bầu khí nhẹ nhàng bàng bạc trong hầu hết những tác phẩm của họ. Nghệ thuật viết văn của các tác giả này cùng với những tài năng thơ văn tiếng Việt khác ở nửa đầu thế kỷ hai mươi như Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính,Hồ Dzếnh; đã để lại một dư âm văn học, vẫn thường được độc giả gọi là thơ văn "lãng mạn nhẹ nhàng" của thời "tiền chiến".

Nhất Linh xuất bản Viết Và Ðọc Tiểu Thuyết, Thạch Lam xuất bản Theo Giòng để bàn về kỹ thuật viết tiểu thuyết. Trong thời kỳ phôi thai của thể văn xuôi thời ấy, hai tác phẩm này đều bàn về những kỹ thuật viết tiểu thuyết cho những người muốn đi vào thể văn mới mẻ này. Cả hai đều nhận mạnh những tiêu chuẩn như viết cho đúng sự thực, mô tả tâm lý nhân vật cho tế nhị phải tạo sự rung động ở độc giả, nhà văn là kẻ có trách nhiệm với xã hội ... Những tiêu chuẩn trên phần lớn đều là những tiêu chuẩn muôn thuở trong lĩnh vực viết truyện. Tuy nhiên trên thực tế viết được một tác phẩm hoàn toàn, có tầm vóc của một tác phẩm lớn thiết tưởng không phải là một chuyện thuộc phạm vi nặng phần kỹ thuật. Bởi kỹ thuật là điều có thể học hỏi được. Mà đằng sau những tác phẩm lớn là lồng lộng những suy tưởng cao viễn lẫn bản lĩnh viết lách, cộng với một chút thiên tài và định mệnh!

Ðể thấy rằng có những tác phẩm của Tự Lực Văn Ðoàn xuất sắc về mặt "văn chương", mô tả chi ly tinh tế tâm lý nhân vật, kể chuyện duyên dáng, xứ dụng ngôn ngữ khéo léo, cốt chuyện mạch lạc, "rằng hay thì thực là hay" nhưng gập những trang sách này lại, người đọc vẫn thấy thiếu vắng những luồng gió mưa bão đến độ xô dạt tâm hồn hoặc những suy tưởng đến làm lùng bủng trí tuệ như khi đọc xong những tác phẩm lớn quốc tế.

Ngoài bút nhóm Tự Lực Văn Ðoàn, một số nhà văn khác cũng rất thành công trọng địa hạt viết tiểu thuyết ở thời kỳ này như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng ... Một số lớn tác phẩm của các nhà văn này là những câu chuyện xã hội.. Cốt chuyện lôi cuốn, kể chuyện dí dỏm như Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng, hoặc cốt chuyện tài tình, kể chuyện mạch lạc như Lá Ngọc Cành Vàng của Nguyễn Công Hoan, đều là những tác phẩm "kể chuyện" hay. Ðấy là những bức tranh xã hội hết sức sống động. Phần lớn những tác phẩm xã hội nói trên khai thác sự bất công xã hội. Và một lỗi lầm dễ bất gặp ở những tác phẩm này là thành kiến. Thành kiến đối với giai cấp phong kiến, cai trị. Ðó là lý do tại sao đảng Cộng Sản khai thác những tác phẩm có giai cấp rõ rệt như Truyện Kiều, chuyện của Vũ Trọng Phụng, của Nguyên Hồng, của Nam Cao .v..v... Vì họ lợi dụng được những tác phẩm này để áp dụng vào việc phát huy chế độ. Một số người đọc đứng về phía kẻ bị áp bức sẽ thấy hả hê, thỏa mãn được tâm lý bị đàn áp. Nhưng đứng ở một phương diện khách quan hơn, những tác phẩm đầy thành kiến kiểu này không đủ tiêu chuẩn nhân bản mở rộng một tiêu chuẩn cốt lõi khác của những tác phẩm lớn.

Phải gọi nền sáng tác dưới chế độ Cộng Sản là một nền sáng tác bất hạnh. Bởi vì dưới chế độ này, ngòi bút của tác giả có sách được xuất bản đều phải phục vụ "giai cấp", phục vụ "Hội Nhà Văn", phục vụ "Đảng". Và người Cộng Sản thì thường thường rất khắc nghiệt và tàn nhẫn với những người bị họ cai trị. Cho nên những tác phẩm được Hà Nội xuất bản dù văn vẻ trau chuốt đến đâu, dù yêu quê hương yêu đồng loại yêu Bác yêu Đảng đến đâu cũng đều chỉ có những giá trị phục vụ chính trị.

Trong khi đó nền văn học miền Nam được tự do hơn. Nếu dùng tiêu chuẩn của số lượng tiêu thụ cao, được độc giả mến mộ, hoặc được đồng nghiệp ca ngợi thì tạm gọi đây là một giai đoạn trên đà phát triển. Và những tác phẩm miền Nam trong giai đoạn này cũng mang những màu sắc riêng của chúng.

Nhưng nếu dùng tiêu chuẩn gắt gao của một người đọc sách nghề thì có thể nói ít tác phẩm nào của giại đoạn này đạt đủ tiêu chuẩn quốc tế. Một tác phẩm có thể được đón nhận nồng nhiệt trong tiếng mẹ đẻ nhưng khi ra đến người quốc tế, thì phải hội đủ những rung động và suy tư để bất cứ người nước nào cũng có thể tiếp nhận được. Những tác phẩm chỉ nói được giá trị thời thế, giá trị địa phương, hoặc chỉ phản ảnh những rung động hạn hẹp và suy tư be bé của tác giả thì khi ra đến quốc tế đụng phải những tay đọc sách tinh đời, chỉ cần liếc qua một trang sách là có thể đọc được trình độ của tác giả, viết cái chi đây, suy tư đến đâu, kiến thức cỡ nào, có chút giá trị nào dưới những câu chuyện này không, có chính gốc sáng tác không hay lại bắt chước ai. Ôi thôi, tiêu chuẩn của những tay đọc sách đã từng ngốn hết bao nhiêu bồ chữ của thiên hạ như thế nào bạn có thể tưởng tượng được, dầu sách bạn dịch ra tiếng nước họ và đem dâng trước mặt cho họ đọc.

Nhìn lại một cách tổng quát những sáng tác truyện của văn học Việt Nam từ trước đến nay, phần lớn thành công về lối "chuyện – kể chuyện", hơn là đạt thành tích về “truyện – lộng truyện”. Trong văn học thế giới nếu có những tác phẩm của Kafka, Beckett, Conrad ... Viết vài chục trang giấy “lộng truyện” khô như nùi giẻ rách mà chứa đựng những suy tưởng xuyên thủng tư tưởng thế giới. Thì cũng còn vô số những tác phẩm thuộc loại “kể chuyện" cự phách, như chuyện của Chekhov, Somerset Maugham, lsaac Singer .

Nhiều tác phẩm "văn chương" Việt Nam khi được dịch ra ngoại ngữ, người đọc thế giới không thấy hay ở nơi đâu. Lý do bởi các tác phẩm mà người Việt khen hay là nhờ “văn chương” trội bật. Dịch ra ngoại ngữ, phần “văn chương” bay biến mất. Vì cái hay của “văn chương” thì không thể thông dịch. Nên đã xảy ra hiện tượng “Mười voi không được bát nước xáo” “Beaucoup de bruit pour rien” với các tác phẩm Tiếng Việt lâu nay được dịch ra ngoại ngữ. "Where's the beef?"! "Xác" thì nông. “Văn chương” thì không thể dịch. They all are chìm nghỉm theo tiếng của người nước ngoài, rất thảm thiết.

Mở một cái ngoặc rất vĩ đại nơi đây. “Người Thế Giới” chính là một thế giới lâu nay bị chế ngự bởi giống đực. Từ đực Trắng Jewish cho đến đực Tàu 西安. Các tiêu chuẩn của những người đàn ông chế ngự thế giới lâu nay, không có gì bảo đảm là hay là đúng muôn thuở là phổ quát muôn đời. Các giá trị của thế giới ấy dù có là Nobel Prize hay the Man Asian Literary Prize hay Pulitzer Prize hay Man Booker International Prize hay Man Booker Prize, thì vẫn là những giá trị do những người đàn ông đực bấy lâu nay đề xướng và áp đảo thế giới. Các giá trị ấy vẫn-có-thể-và-nên-bị-xét-đoán-lại bất cứ lúc nào. Đóng ngoặc.

Thật là những vấn đề liên hệ đến nhiều yếu tố văn hóa cần nghiên cứu kỹ lưỡng. Có rất nhiều yếu tố nội tại lẫn ngoại tại đã như một tấm màn bao trùm lấy văn chương Việt từ bao nhiêu ngàn năm nay. Một kết luận về vấn đề này không thể đơn giản và có tình cách áp đảo như dùng tiêu chuẩn của nền văn hóa khác để thẩm định nền văn học Việt Nam. Hoặc dùng tiêu chuẩn quê nhà nhưng lại thiếu kiến thức và trí thức có tính quốc tế để đủ sức lượng định các giá trị chung và riêng. Có lẽ vì thể văn xuôi mới thật sự bộc phát mạnh ở Việt Nam từ đầu thế kỷ hai mươi đến nay, nên ngành viết truyện phải trải qua những giai đoạn mò mẫm để tìm kiếm bản sắc của mình chăng?

Trên đây chỉ là vài nhận xét tổng quát chủ quan, với những dẫn chứng tượng trưng. Những nhận xét này cũng không có nghĩa là phủ nhận mặt "văn chương" của một sáng tác. Bởi vì văn cách tự nó đã chứa đựng những giá trị và nghệ thuật của một tác phẩm.



Tham khảo:

Doãn Quốc Sỹ, Việt Tử, Khảo Luận Về Nguyễn Khuyến, Hồng Hà Xuất Bản. Bản in lại tại Cali Hoa Kỳ, không in lại gốc và năm xuất bản.

Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sứ Yếu, Sống Mũi, Fort Smith Arkansas, 1979

Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sứ Giản ước Tân Biên, Tập 111 Dai Nam Co. California, 1987.

Phạm Quỳnh, Phạm Quỳnh, 1892-1992 Tuyển Tập và Di Cảo An Tiêm, Paris. 1992.

___________

Nguyên bản “Thói Quen “Văn Chương” Trong Văn Học Việt Nam” trong tập Khởi Đi Từ Ngây Thơ Để Đến Gần Sự Thật, Lũy Tre Xanh xuất bản, California, 1995. Được đưa lên gio-o.com 2014 sửa tựa thành Thói Quen “Văn Chương” Trong Nền Sáng Tạo Tiếng Việt với vài bổ túc và sửa lỗi.


Lê Thị Huệ


một tỷ hai trăm lẻ chín triệu con đường đi tìm chìa khóa





Nhà sư Nhất hạnh đi tìm Phật tâm trời Đông cách tân Phật pháp trời Tây

 đúng hay sai, thời gian chưa trả lời

Thi sĩ Bùi Giáng viết rằng, Nhất Hạnh tâm hồn bị vây khốn bởi Tây Phương (1)

đúng hay sai, thời gian chưa trả lời

Chúng ta cũng có thể hiểu, Bùi Giáng tâm hồn bị Đông Phương vây khốn

đúng hay sai thời gian chưa trả lời.

Nhà sư sạch tóc phân biệt người có tóc loay hoay nhập triều thùy thủ

thi sĩ tóc dài phân biệt người nghiêm trọng tóc ngắn lanh quanh kiến tích

trâu và rồng con nào dễ tìm hơn

đúng hay sai thời gian chưa trả lời

Con vật này dưới đất gọi là trùn

vào biển gọi thuồng luồng

bay lên gọi là rồng

chưa hề có ai thấy rồng thật.

Hơn 1500 năm trước Trương Tăng Dao họa long điểm tinh

không có tưởng ra có

có rồi vẽ mắt rồng bay

lập họa Siêu Nhiên

mãi 1920 mới có Siêu Thực.

Đúng hay sai thời gian chưa trả lời.

Có kẻ nuôi cá, tập cá từ nước lên bờ

đi như thú vật bốn chân

ngày ngày dẫn đi dạo

người người ngợi khen

Charles Darwin chứng minh tiến hóa.

Một hôm, cá lở vận rơi xuống sông

chết đuối.

Đúng hay sai thời gian chưa trả lời.

Ánh sáng đuốc thâm u làm đêm tăng kỳ tích đầy huyền hoặc

ánh đèn điện làm đêm sáng choang thấy rõ đường đi

ánh sáng nào cho tim niềm sung sướng

tự hào hơn

đúng hay sai thời gian chưa trả lời.

Trái đất có một tỷ hai trăm lẻ chín triệu con đường lớn nhỏ

đường nào cũng có người đi

người đi nào cũng cần ánh sáng

dù kẻ mù, vẫn cần đèn lồng. (2)

Mặt trời mọc phương Đông lặn phương Tây. Thật ra chúng ta xoay quanh mặt trời.

Mặt trăng mọc phương Tây lặn phương Đông. Thật ra mặt trăng xoay quanh chúng ta.

Trời và trăng soi sáng chân bước

đường đi hướng Đông đi mãi không tới Đông quay về gặp hướng Tây

đường về hướng Tây đi mãi không tới Tây quay lại gặp hướng Đông.

Đông và Tây khác nhau như máu tuần hoàn tẩy chất dơ mang khí thở vào trí tuệ.

Đông và Tây khác nhau như mắt thấy tai nghe đem tâm tình sung mãn hương thơm.

Nhất hạnh đi hướng Tây đi mãi gặp Bùi Giáng.

Bùi Giáng đi hướng Đông đi mãi gặp Nhất hạnh.

Đông và Tây khác nhau câu hỏi giống nhau câu trả lời:

Mỗi câu hỏi mang tới câu hỏi khác câu hỏi khác câu hỏi khác

mỗi câu trả lời như mở cánh cửa để thấy cửa khác đóng cửa khác đóng cửa khác đóng

cánh cửa cuối cùng bị khoá chặt không có chìa khóa

hỏi chìa khoá trả lời bất khả tư nghị hoặc đây là bí tích

trả lời chính là ổ khóa.





Không ai tìm thấy chìa khóa

không mở được cánh cửa cuối cùng

không biết gì phía sau

không thể đi trở về

thôi thì sáng tác hồi sau tái ngộ.

sáng tác cần phải có thưởng ngoạn

thưởng ngoạn lại yêu thích dâm dục tiền tài danh vọng giả dố

thôi thì dọa sợ cho xong.

Con nít bị dọa ma

thiếu nhi bị dọa hỏa ngục điện ngục nấu dầu cưa xương cắt lưỡi

lớn lên bị dọa ác lai ác báo gieo gió gặt bão

không ai nói gieo bão gặt được thứ gì

về già bị dọa bệnh tật chết chóc ân oán đời sau

suốt cả một đời bị dọa bởi Phật Chúa Muhammad Khổng Tử cha thầy quan quyền pháp luật trường học thầy cô ăn cướp ăn trộm giết người da trắng da đen da đỏ Mỹ Nga Tàu....v..v..

không phút nào ngơi nghỉ

làm sao không buồn khổ lo âu

làm sao không hoang tưởng hạnh phúc

làm sao không sợ cái bóng thiên thu?

Kẻ sống bị dọa có tội

kẻ chết bị dọa không được lên trời không được đầu thai

kẻ chưa sinh bị dọa tội tổ tông chờ sẵn

điều luật cha làm con chịu nay ở trần gian đã bỏ đã quên.

Nào phải Đông hay Tây vây khốn tâm hồn,chính sợ hãi vây tâm hồn khốn nạn.

Không ai tìm thấy chìa khóa nhưng mấy ai biết rằng không hề có chìa khóa?
sống là có chết là không, chìa khóa để làm gì?



Câu hỏi này sẽ mang tới câu hỏi khác câu hỏi khác câu hỏi khác..........
Thời gian chưa trả lời.



GHI:

(1): Không phải nguyên văn, chỉ là ý.
(2) Câu chuyện người mù đi đường cầm đèn, không phải cho ông mà cho người khác thấy.



Ngu Yên

Người




Bỗng nhiên cả hai muốn khóc
Giữa câu chuyện cuộc đời
Nước mắt đàn ông lặng lẽ ngược trôi
Nước mắt đàn bà mỉm cười mặn
làn môi

Không hẹn gặp mà bỗng thành gặp gỡ
Giữa điên đảo nổi trôi
Giữa trắng đen hay dở ngược xuôi
Xa xôi quá là hai số phận
Bỗng về đây hội tụ kiếp người



Giữa danh lợi mất còn thua được
Lênh đênh thế và cô đơn thế
Tựa vào đâu để hành trình không mỏi mệt
Trên ghế quyền lực
Hỡi người dịu hiền trầm mặc cô liêu

Giữa hoang mang nhân thế tình yêu
Gánh cả hai trên đôi vai mảnh dẻ
Giông bão qua rồi đời người hát khẽ
Hạnh phúc như con xúc xắc xúc xẻ
rủi may

Cho dù thế thì ta vẫn sống
Thẳng ngay một kiếp con người
Cho dù thế thì ta vẫn sống
Chia lòng nhân với mọi phận đời

Cho dù thế thì ta vẫn sống
Yêu đóa hoa nở giữa tinh khôi
Cho dù thế thì ta vẫn sống
Thẳm sâu trong tâm một chữ
Người

Có phải không- người ơi…


KimDung/Kỳ Duyên

Ra ngõ gặp nhà thơ



Tôi có một ông bạn rất thân. Thế nhưng từ ngày cả hai đứa về hưu, chúng tôi chưa một lần gặp lại, bởi lẽ ông ấy ở mãi quận Tây Hồ còn tôi ở tít tận khu đô thị Linh Đàm thuộc quận Hoàng Mai. Khoảng cách giữa hai nhà chúng tôi phải tới 15 km. Bỗng nhiên hôm vừa rồi ông gọi điện nói rằng sẽ đến thăm tôi. Tôi vừa mừng vừa cảm động. Mừng vì đã lâu rồi bạn bè mới gặp lại nhau.

Cảm động vì bầu trời Hà Nội từ tết âm lịch đến giờ ngày nào cũng u ám, ẩm thấp , đường xá bẩn thỉu , ấy thế mà ông vẫn không ngại . Tôi thật thà dặn bạn : “Ông cứ gọi taxi mà đi , mình sẽ trả tiền xe cho ông” . Ông bạn tôi chẳng những không tự ái mà còn khen : “Ông vẫn ga lăng như ngày nào” .

Tôi gọi điện đến nhà hàng Hương Rừng trong khu đô thị Linh Đàm đặt trước một phòng VIP và hẹn 11 giờ chúng tôi sẽ có mặt .




Khoảng 9 giờ đã có tiếng chuông bính boong . Tôi ra mở cửa . Trước mặt tôi là ông bạn thân đã ở vào cái tuổi “xưa nay hiếm” nhưng còn rất phong độ và lịch lãm : quần áo là thẳng tắp , giầy đen bóng lộn , kính trắng gọng vàng , đầu đội chiếc mũ phớt Nga mà ông đã mua từ hồi chúng tôi cùng học ở Viện Hàn lâm khoa học xã hội Liên Xô (AOH)
Tôi pha ấm trà Thái Nguyên mời bạn rồi nói luôn kế hoạch : Từ giờ đến 10 giờ 50 chúng mình đàm đạo ; 11 giờ ăn trưa , trong khi ăn tiếp tục nói chuyện ; 13 giờ mình gọi taxi cho ông về .
Vừa uống xong chén trà nóng , ông bạn đã thở ngắn , than dài :
– Về hưu rồi mà cũng chẳng được yên thân
– Sao thế ?
- Tất cả chỉ vì THƠ . Không hiểu sao từ ngày về hưu bà vợ mình lại sinh ra đổ đốn , suốt ngày làm thơ . Nào thơ có hay gì cho cam , toàn thơ “con cóc” . Khu dân cư mình có cả một câu lạc bộ thơ . Thành viên của cái câu lạc bộ ấy toàn là những ông bà về hưu hâm đến tỉ độ .



Nhà mình rộng rãi , bà vợ mình lại có tính bốc đồng ; hễ có ai khen thơ của bà ấy hay là sướng tít mắt lên . Thế là bà ấy được bọn họ “nịnh” , bầu làm chủ nhiệm câu lạc bộ và chọn nhà mình làm địa điểm sinh hoạt . Thời chiến tranh ra ngõ gặp anh hùng , bây giờ thì RA NGÕ GẶP “NHÀ THƠ” . Ớn quá!! Ngừng một lát , ông nói tiếp : Hôm 8/3 vừa rồi bà ấy triệu tập các “nhà thơ” của câu lạc bộ đến nhà mình sinh hoạt và chiêu đãi rất thịnh soạn .

Chỉ khổ con bé ô sin phải đi chợ từ sớm mua đủ thứ nào là thịt bò , thịt gà , bánh phở , rau thơm…Chương trình sinh hoạt của các “nhà thơ” hôm ấy là mỗi người phải đọc một bài thơ mới sáng tác , nếu đúng chủ đề 8/3 thì càng tốt . Họ “kính mời” bà vợ mình (chủ nhiệm câu lạc bộ) đọc thơ trước . Bà ấy đọc bài thơ mới sáng tác có tên là “Tình em” .




Thơ không ra thơ , thẩn không ra thẩn mà các thành viên cũng vỗ tay rào rào . Người tiếp theo là một ông có chất giọng đặc sệt xứ Nghệ . Ông ta xin đọc một cụm bài thơ ngắn vừa mới sáng tác theo đúng chủ đề 8/3 . Ông ta hắng giọng rồi đọc bài thơ đầu tiên
 

Hôm nay mùng tám tháng ba
Rủ nhau xem chị em ta đánh cầu
Lông bay vùn vụt trên đầu
Ngó qua thì tiếc , nhìn lâu thì thèm

Tiếng vỗ tay lại nổi lên rào rào . Bà vợ mình với tư cách là chủ nhiệm câu lạc bộ trịch thượng khen : “chuẩn không cần chỉnh” . Cứ thế , cứ thế hết ông này đến bà kia thi nhau đọc các “tuyệt phẩm” của mình . Toàn thơ con cóc . Ngay từ đầu mình đã phải sơ tán lên phòng làm việc ở tầng hai , đóng chặt cửa lại , nhưng các “nhà thơ” vẫn cứ oang oang , người thì đọc , kẻ thì ngâm , nghe mà muốn ói…Phải đến 13 giờ các vị ấy mới tan cuộc.

Các “nhà thơ” chơi hết sạch cả hai chai rượu Chivas 18 mà thằng con rể mình nó đi Xingapo về biếu . Tức điên người nhưng chả lẽ lại cãi nhau với bà ấy . Mà có cãi nhau thì mình thua là cái chắc . Thôi thì “tránh voi chẳng xấu mặt nào”



Kể đến đây , ông bạn dặn tôi : Khi nào ông đến nhà mình thì phải gọi điện trước . Nếu bà ấy có nhà thì mình hẹn ông tới nhà hàng nào đó rồi vừa nhâm nhi vừa nói chuyện . Để bà ấy gặp ông thì dứt không ra đâu . Bà ấy sẽ đọc thơ cho ông nghe cả ngày . Tính ông lại cả nể , hay khen người khác . Ông mà khen thơ của bà ấy thì “thôi rồi Lượm ơi !”

*
* *

Tôi rất tâm đắc với câu nói của ông bạn : RA NGÕ GẶP “NHÀ THƠ” , cho nên buổi chiều hôm đó tôi lục lại tất cả các tập thơ mà người ta tặng trong thời gian gần đây . Có tất cả hơn 10 quyển . Tác giả đủ loại . Nhà thơ xịn , là hội viên Hội nhà văn khoảng ba , bốn người . Còn lại là những “nhà thơ nghiệp dư” đã về hưu mà tôi từng quen biết . Họ đều đề tặng rất trân trọng . Thí dụ : “Kính tặng anh Tiến Hải” , “Kính tặng đồng chí Tiến Hải” , “Thân tặng anh Tiến Hải” .

Mấy ông bạn đồng môn thời học phổ thông hay đại học thì đề tặng thân mật hơn . “Thân quý tặng Tiến Hải” , “Tặng Tiến Hải” hoặc “Tiến Hải ơi , tặng mày đọc cho vui”…Có điều rất lạ , tất cả các tập thơ đó đều do những nhà xuất bản danh tiếng xuất bản như : “Nhà xuất bản Văn học” , “Nhà xuất bản Hội nhà văn” , “Nhà xuất bản Phụ nữ” , “Nhà xuất bản Thanh niên” , “Nhà xuất bản Thông tấn” . Sách được in trang trọng , giấy tốt , trình bày rất đẹp và ở bìa bốn thường có ảnh của tác giả kèm theo vài dòng trích ngang về tiểu sử .



Thú thật , vì câu nói của ông bạn mà lần này tôi mới có dịp đọc kỹ những tập thơ đó . Đúng là có nhiều bài không phải là thơ . Tôi xin trích nguyên văn một số câu ở một số bài trong một số tác phẩm của một số tác giả nhưng vì tế nhị nên không ghi rõ xuất xứ . Thí dụ :
Chúng tôi đến nhà anh một buổi chiều
Thắp hương kính cẩn viếng cha anh
Anh chắp tay rì rầm khấn vái
“Kính lạy cha !
Đây là vợ chồng bạn con thân thiết
Chúng con sống với nhau có trước có sau
Xin cha phù hộ độ trì cho cô chú ấy được hạnh phúc dài lâu
Và phù hộ cho tình bạn của chúng con suốt đời chung thủy
….
Hoặc :
Bố mẹ đi làm
Bà cháu ở nhà
Tìm đủ cách chơi
Để mà dỗ bé
Nào là đi chợ
Mua sắm các thứ
Bà bán cho tôi
Thứ này thứ nọ
….
Hoặc :
Hai đứa chúng ta cùng chung họ
Lại chung đèn sách một mái trường
Cuối đời còn gánh chung một việc
Làm báo cho ba đời Thủ tướng
….
Nhiều lắm , nhưng chỉ xin trích mấy câu ở mấy bài thế thôi để bạn đọc còn cảm thấy thòm thèm

*
* *

Mỗi nhà thơ chỉ cần có vài ba bài thơ để đời là quá đủ . Thí dụ , nói đến Hoàng Cầm , người ta nghĩ ngay tới bài “Bên kia sông đuống” ; nói đến Hữu Loan , người ta nghĩ ngay tới bài “Màu tím hoa sim” ; nói đến Quang Dũng , người ta nghĩ ngay tới bài “Tây tiến” ; nói đến Nguyễn Bính , người ta nghĩ ngay tới bài “Cô hái mơ”…Nói cho thật khách quan và công bằng thì nhiều nhà thơ xịn vẫn có những bài thơ dở . Vì sợ động chạm , tôi không tiện trích dẫn , xin bạn đọc thông cảm .

Lại phải nói thêm . Có những người không phải là nhà thơ , nhưng vẫn có một số bài thơ hay . Chi bộ tôi có một ông tên là Hoàng Thái Sơn . Nghề nghiệp của ông là kỹ sư địa chất , không liên quan gì đến thơ ca . Ấy thế mà vừa rồi ông cho ra mắt tập thơ ĐÊM TÌNH YÊU , nxb Hội nhà văn . Tập thơ dày 236 trang gồm 171 bài , khổ sách 13x19cm .

Ông sang tận nhà tôi chơi và tặng tập thơ này với lời đề tặng rất trân trọng : “Kính tặng đồng chí Tiến Hải” . Ông khiêm tốn nói : “Tôi không phải là nhà thơ nhưng vì rất yêu thơ nên mới có tập thơ này . Mong đồng chí Hải xem và cho ý kiến nhận xét nhé” . Tôi đã đọc hết cả 171 bài thơ trong tập thơ ĐÊM TÌNH YÊU của ông . Tất nhiên khả năng thẩm định thơ của tôi thua xa chị Kim Dung – Kỳ Duyên nhưng cũng đủ trình độ để nhận biết bài thơ nào là hay , bài thơ nào là dở .

Trong tập thơ ĐÊM TÌNH YÊU của ông Hoàng Thái Sơn có một số bài thơ khá hay .Tôi xin trích nguyên văn một số bài ngắn để chị Kim Dung – Kỳ Duyên tham khảo và bạn đọc thưởng thức :

CHIỀU HÔM
Chiều ơi !sao lặng thế chiều
Cho tôi đôi cánh sáo diều để bay
Bầu trời man mác hương say
Gió du khẽ lá , đám mây mơ màng
Dòng sông nước chảy dịu dàng
Con đò ai đã sang ngang mất rồi
Chiều hôm quyến rũ hồn tôi
Hoàng hôn buông bóng khép đôi mắt buồn

EM ĐẾN BÊN ANH
Em đến , hoa sim lại nở đầy
Mắt trong như ngọc tím thơ ngây
Mây trôi nhè nhẹ ru hồn gió
Nắng phủ tình thơ lên vòm cây

HOA HỒNG VÀNG
Hoa hồng vàng lung linh trong nắng
Sắc màu vương giả ánh kiêu sa
Hương thơm quyến rũ hồn tao khách
Sâu nặng tình yêu trong kiếp hoa

*
* *

Mấy năm nay với sự ra đời của hàng nghìn câu lạc bộ thơ của các cụ về hưu trong toàn quốc và việc xuất bản quá dễ dãi của các nhà xuất bản (miễn là tác giả có tiền) làm cho nhiều người lo ngại về chất lượng của nền văn học nước nhà . Nhiều người rất dị ứng với thơ của các cụ về hưu . Nhưng theo tôi , điều đó không có gì đáng ngại , bởi vì văn học có khả năng sàng lọc và tự đào thải rất lớn .

Một tác phẩm nào đó ra đời nó có thể sống mãi hoặc chết yểu ngay trong lòng bạn đọc . Không phải là nhà thơ nhưng vẫn có những bài thơ sống mãi . Là nhà thơ đích thực nhưng vẫn có những bài thơ chết yểu . Chuyện đó quá đỗi bình thường ./.

Tiến Hải

( Theo Blog Kim Dung? Kỳ Duyên)

Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2014

Người Láng Giềng Xinh Đẹp



Rabindranath Tagore 
Hoàng Cường dịch



 Tình cảm tôi đối với người góa phụ trẻ cạnh nhà chỉ là những tình cảm tôn thờ. Ít nhất, đó là điều tôi kể với bạn bè và tự nhủ thầm với mình. Ngay Nabin, người bạn thân nhất của tôi, cũng không hay biết tí gì về tâm trạng thực của tôi. Và tôi cảm thấy phần nào tự hào là đã giữ được sự đắm say của mình trong sáng bằng cách giấu nó ở chỗ sâu kín nhất trong tim. Nàng như một bông hoa xêphali đẫm sương, vừa chớm nở đã bị gãy rụng xuống đất. Quá tươi tắn và thiêng liêng đối với chiếc giường cưới trải hoa, chỗ của nàng là ở trên trời. Nhưng sự đắm say giống như con suối trên núi, không chịu bị giam hãm ở nơi phát sinh mà phải tìm một lối thoát. Vì lẽ đó, tôi đã tìm cách thể hiện những cảm xúc của mình bằng những bài thơ, song ngòi bút miễn cưỡng của tôi không chịu viết ra những điều báng bổ đối với thần tượng của tôi. Một chuyện kỳ lạ là đúng vào thời gian đó, anh bạn Nabin của tôi lại mắc bệnh sính làm thơ. Nó đột ngột đến với anh như một trận động đất. Đây là cơn bệnh đầu tiên của anh chàng tội nghiệp, nên anh không chuẩn bị tí gì về cả vần lẫn điệu. Anh không cưỡng lại nổi vì đã bị nó mê hoặc khác nào một người đàn ông góa mê cô vợ kế. Vì vậy Nabin đến nhờ tôi giúp. Chủ đề các bài thơ của anh thật cũ, cũ lắm, cũ mà vẫn luôn luôn mới: tất cả các bài thơ của anh đều nói về người yêu. Tôi vỗ lưng anh, đùa hỏi: " Thế nào, anh bạn, nàng là ai?" . Nabin cười trả lời: " à điều đó thì mình chưa tìm ra" Thú thực, tôi rất khoái được giúp bạn. Như con gà ấp trứng con vịt, tôi đem hết niềm say đắm nồng nàn bị kìm hãm của mình trút sang những lời thổ lộ của Nabin. Tôi thêm thắt và nhuận sắc cho các văn phẩm thô kệch của anh nhiều đến nỗi phần của tôi chiếm gần hết các bài thơ đó. Nabin thường ngạc nhiên thốt lên:
- Đúng là điều mình muốn nói mà không diễn đạt nổi. Không hiểu làm thế nào mà cậu nắm bắt được những tình cảm tinh tế này? Với giọng nhà thơ, tôi đáp: - Chúng sinh ra từ trí tưởng tượng của mình. Như cậu biết, sự thật thì lặng lẽ chỉ có trí tưởng tượng mới hùng hồn. Thực tế đè nén dòng tình cảm như một tảng đá, còn trí tưởng tượng tự mở ra cho nó một con đường. Và anh chàng Nabin tội nghiệp ấp úng: " Đúng thế, đúng thế, mình hiểu" , rồi nghĩ ngợi một lát, lại lẩm bẩm: " Đúng thế, đúng thế, cậu nói đúng!" . Như tôi đã nói, ở mối tình của tôi có một cái gì cung kính, tế nhị khiến tôi không dám diễn đạt nó thành lời. Nhưng, lấy Nabin làm cái màn che, không còn gì cản trở ngòi bút thao thao bất tuyệt của tôi nữa và những tình cảm thực sự nồng nàn, trào ra thành những bài thơ viết hộ người khác. Những lúc minh mẫn, Nabin bảo: - Nhưng đây là những bài thơ của cậu đấy chứ! Để mình đăng nó dưới tên cậu. - Bậy nào - tôi trả lời - bạn thân mến, những bài thơ này là của cậu đấy. Mình chỉ chấm sửa đôi chút chỗ này chỗ kia thôi. Dần dần Nabin tin là như vậy. Tôi không chối cãi là với tâm trạng của nhà thiên văn khi quan sát bầu trời cao, thỉnh thoảng tôi có hướng con mắt về phía cửa sổ nhà bên cạnh. Và cũng đúng là thỉnh thoảng những cái nhìn vụng trộm của tôi đã chộp được một hình ảnh thoáng qua. Nhưng chỉ cần thoáng qua trong giây lát hình ảnh cao quý của nguồn khích lệ ấy, ngay tức khắc tất cả những gì xáo động và vẩn đục trong tình cảm tôi trở thành êm ả thanh khiết. Song một hôm tôi giật mình sửng sốt. Liệu tôi có thể tin được ở mắt mình không? Hôm đó là một buổi chiều hè nóng nực, khi trời có vẻ sắp bão, mây kéo đen kịt một góc trời phía tây bắc. Giữa khung cảnh ngập trong một thứ ánh sáng kỳ lạ và đáng sợ ấy, cô láng giềng xinh đẹp của tôi đang ngước mắt nhìn lên khoảng không gian trống rỗng. Và tôi phát hiện ra trong ánh mắt xa xăm của đôi mắt đen láy ấy có một niềm khao khát vô vọng! Phải chăng, may ra, vẫn còn một quả núi lửa sôi động nào đó trong mặt trăng êm ả rực rỡ kia của tôi? Hỡi ơi, cái ánh mắt khát khao không bến bờ kia, nó đang tung bay qua các đám mây như một con chim hăm hở, chắc chắn muốn tìm, không phải thiên đường, mà là tổ ấm trong một trái tim người. Nhìn thấy khát vọng khôn tả của ánh mắt ấy, tôi khó kiềm chế được lòng mình. Tôi không còn bằng lòng với việc sửa những bài thơ thô thiển nữa. Toàn bộ con người tôi ao ước được giải bày bằng một hành động cao quý. Sau cùng, tôi nghĩ sẽ dốc hết tâm trí làm cho việc tái giá của các góa phụ được hoan nghênh và trở thành phổ biến ở nước mình. Tôi sẵn sàng không những diễn thuyết và viết báo về vấn đề này mà còn bỏ tiền của ra cho sự nghiệp ấy. Nabin bắt đầu tranh cãi với tôi: ở góa suốt đời có một ý nghĩa thanh khiết và êm đềm dịu dàng vô hạn, một vẻ đẹp thanh bình như ở những nơi yên ngủ của những người đã khuất, lung linh dưới ánh trăng bàng bạc của ngày mười một kiêng khem 1. Riêng cái khả năng tái hôn chẳng làm tiêu tan cái vẻ đẹp thần tiên của nó sao?
Bây giờ kiểu nghĩ ủy mị ấy làm cho tôi tức giận liền. Thời buổi đói kém nếu có kẻ nào no thừa nói đến đồ ăn thức uống với một vẻ khinh khỉnh và khuyên nhủ người sắp chết đói hãy làm nguôi cơn đói bằng hương thơm và tiếng chim hót, thì ta nghĩ về hắn thế nào? Tôi bực bội nói: - Này Nabin, đối với người nghệ sĩ, cảnh hoang tàn có thể là đẹp đấy, nhưng người ta xây nhà không phải chỉ để cho các nghệ sĩ ngắm mà là để ở. Vì vậy phải tu sửa những ngôi nhà ấy cho tốt, cho dù vì thế mà các nghệ sĩ hậm hực. Đối với cậu, đứng xa mà lý tưởng hóa cuộc sống góa bụa thì rất dễ, nhưng cậu phải nhớ rằng, trong cảnh sống góa bụa kia có một trái tim nhạy cảm, đập dồn vì đau khổ và khao khát. Ban đầu, tôi tưởng làm thay đổi được cách nghĩ của Nabin chắc khó, vì vậy có lẽ tôi đã nói hăng hơn mức cần thiết, nhưng sau bài diễn văn ngắn ngủi tôi có phần ngạc nhiên khi thấy Nabin buông một tiếng thở dài trầm ngâm rồi hoàn toàn nhất trí. Phần kết bài diễn văn có sức thuyết phục hơn mà tôi định nói tiếp hóa ra không cần thiết nữa. Khoảng một tuần sau, Nabin đến gặp tôi, bảo rằng, nếu được tôi giúp thì anh sẵn sàng mở đầu bằng cách chính anh sẽ lấy một góa phụ làm vợ. Tôi mừng quá, vồn vập ôm hôn anh, hứa là anh cần cho việc ấy bao nhiêu tiền, tôi sẽ giúp hết. Sau đó, Nabin kể với tôi câu chuyện của anh. Tôi được biết, người mà Nabin đem lòng thương mến không phải là một con người tưởng tượng. Té ra cả Nabin nữa trước đây cũng đã có thời say mê một góa phụ từ xa nhưng không thổ lộ với ai tình cảm của mình. Sau đấy, tờ báo thường đăng những bài thơ của Nabin, hay nói đúng hơn là những bài thơ của tôi, đã tới tay người đẹp. Và những bài thơ ấy không phải không có tác dụng. Như Nabin cẩn thận giải thích, không phải anh đã chủ tâm tiến hành chuyện yêu đương theo cách ấy. Thực ra, - anh nói, - anh hoàn toàn không biết là người góa phụ kia đọc được chữ. Nabin thường gửi qua bưu điện tờ báo đăng thơ của anh đến anh trai người góa phụ mà không đề tên người gửi. Đó chỉ là một trò ngông cuồng, một sự nhân nhượng đối với mối tình say mê tuyệt vọng của anh. Đó chỉ là những bông hoa cúng đặt trên bàn thờ, Trời Phật có biết hay không, có nhận đồ tế hay không, chuyện ấy không phải là việc của người đi lễ. Và Nabin đặc biệt muốn tôi hiểu rằng, khi anh dựa vào cớ này cớ khác tìm cách làm quen với anh trai người góa phụ, anh không có ý định dứt khoát. Ta thường đặc biệt chú ý đến cả những ai gần gũi với người ta yêu. Tiếp theo là một câu chuyện dài kể lại hai người đã làm quen với nhau như thế nào khi người anh trai kia ốm. Sự có mặt của chính nhà thơ cố nhiên mở ra nhiều dịp bàn luận về các bài thơ, và những buổi bàn luận ấy không nhất thiết bó hẹp ở chủ đề đã làm nẩy sinh ra việc bàn luận. Sau lần thua tôi trong cuộc tranh luận mới đây, Nabin đánh bạo cầu hôn người góa phụ. Ban đầu, anh không được nàng ưng thuận, nhưng khi anh triệt để sử dụng những lý lẽ hùng hồn của tôi, cộng thêm một hai giọt nước mắt của anh, thì người đẹp đã đầu hàng không điều kiện. Bây giờ, người giám hộ nàng cần một ít tiền để thu xếp công việc. - Đây, cậu cầm lấy - tôi nói. - Nhưng, cậu biết đấy, - Nabin nói tiếp - phải mất mấy tháng nữa cha mình mới đủ nguôi giận để tiếp tục trợ cấp cho mình. Trong thời gian ấy, chúng mình biết lấy gì mà sống?
Tôi lẳng lặng viết cho anh bạn tờ ngân phiếu đủ số tiền cần thiết, rồi bảo: - Nào bây giờ cậu nói cho mình biết nàng là ai đi. Cậu chớ coi mình có thể là tình địch của cậu, vì mình xin thề là sẽ không làm thơ tặng nàng, và dù cho có làm thì cũng không gửi cho anh trai nàng, mà cho cậu! - Sao cậu lại nói thế, - Nabin nói - Mình giấu tên nàng không phải vì sợ cậu trở thành tình địch! Thực tế là nàng bị xáo động rất mạnh khi quyết định bước đi bất thường này, và yêu cầu mình chớ kể việc này với bạn bè. Nhưng nay không cần thiết nữa, vì mọi chuyện đã được thu xếp xong xuôi. Nàng ở số mười chín, ngay cạnh nhà cậu đó thôi. Nếu tim tôi là một cái nồi hơi bằng sắt thì có lẽ nó đã nổ tung rồi. Tôi chỉ hỏi: - Vậy nàng không phản đối gì chuyện tái hôn à? - Hiện nay thì không, - Nabin trả lời với một nụ cười. - Có phải chỉ riêng những bài thơ đã gây ra sự thay đổi thần kỳ này không? - Đúng thế, cậu biết đấy, các bài thơ của mình cũng không đến nỗi tồi, có phải không? - Nabin nói. Tôi nguyền rủa thầm trong bụng. Nhưng tôi nguyền rủa ai mới được cơ chứ? Rủa Nabin à? Hay rủa chính tôi? Rủa Trời à? Tôi rủa tất cả. 

(Rút trong tập " Mây và mặt trời" , NXB Văn học 1986) -------------------------------- 
1 ở Ấn Độ, ngày thứ 11 của tuần trăng được coi là ngày nhịn ăn và ăn năn hối lỗi.