Thứ Năm, 6 tháng 3, 2014

Viết tặng nỗi buồn riêng




LÂM THỊ MỸ DẠ



Em chết trong nỗi buồn
Chết như từng giọt sương
Rơi không thành tiếng

Trái tim em còn trẻ dại
Trắng trong
ai cất giùm em
Cái nhìn già nua
Bàn tay cằn cỗi

Trong xứ sở anh
em bị lạc
Xứ sở hiếm hoi niềm vui
Khô khắt đến nao lòng

Ai cất giùm em
nước mắt
Biết giấu nụ cười đi đâu
Khi phải cười

Em không còn là em
Ai đánh mất em?
Hay chính em đánh mất?
Nào phải chi mình xấu xa
Trái tim em trong trắng
Ai nhận ra?

Đến như anh – người bạn cùng đường
Vẫn bước ngoài đời em
Em lạc cả trong anh
Lạc không tìm ra lối

Nhiều khi muốn mình như chiếc bóng
Tan trong màu đêm
Để không ai nhận ra
Mình có mặt trong đời

Em chết trong nỗi buồn
Chết như từng giọt sương

Em chết trong nỗi buồn
Chết lặng thầm âm ỉ đớn đau
Trời cho em nụ cười thật tươi
Ai biết sau nụ cười
Giọt nước mắt về đâu?

Cội nguồn vang bóng





TRẦN HẠ THÁP

1.
Nguyên Biệt nhô đầu lên khỏi lèn đá thì sự cố xảy ra. Gã đang mang bầu nước lấy ở suối về. Một vệt màu sậm hình vòng cung bay ra như ánh chớp.








Vệt ấy bay ra từ tán cây cổ thụ dưới sườn núi, nơi hai thầy trò sẽ nghỉ lại qua đêm. Tiếng bật dây cung trên tay Nguyên Biệt vang lên, hệt như tiếng dội lên mặt trống căng, ngân mãi... Vệt màu sậm lịm tắt. Một cú rơi xuống mặt đất qua đám cành lá đang gãy răng rắc. Giữa gió chiều lồng lộng, tiếng gào lên the thé rợn người. Thoáng chốc, rừng lại lặng yên. Vẫn bạt ngàn một màu xanh thẫm...

Nguyên Biệt nghe có tiếng thở dài. Gã lẳng lặng nhảy xuống. Mũi Lang - Nha - tiễn bịt đầu nanh chó sói, cắm đúng giữa tam tinh. Con gấu khổng lồ quằn mình giãy chết. Gã cẩn thận rút mũi tên ra, cho lại vào bao. Đã nghĩ tới sự bất lợi khi Thiếu Chủ cho bầy chó tạm dưỡng sức ở nhà, gã phải tăng phần cảnh giác. Nguyên Biệt đã trở về đúng lúc.

Sau lưng gã là bóng người thư sinh đang đứng lặng. Con người ấy xuất thần nhìn mây trắng trôi qua... Con gấu với cú vồ hụt, phủ xuống đầu tưởng như chưa từng xảy ra. Nguyên Biệt không dám kh- inh động. Để mặc nó đấy, gã im lìm đợi chờ trong nghiêm cẩn. Giữa Hồng Lĩnh trập trùng là hai bóng người cô quạnh.

2.

Nguyên Biệt vốn người Tàu. Gã mang họ Chu, dòng dõi tôn thất nhà Minh đã suy tàn. Nội tổ gã là Chu Nguyên Bình bị Thanh triều truy sát, chạy xuống nương thân vùng đất Việt. Chu Nguyên Bình xuất thân đỗ tiến sĩ, văn võ đều thông. Khi đến đất Hồng Lĩnh, ông không còn ý tìm đi nơi nào nữa. Vượng khí miền địa linh nhân kiệt này quả đã chấn động tâm can con người ấy. Nguyên Bình khôn ngoan chọn lấy nghề săn bắn mưu sinh. Mục đích cốt tìm ra “long mạch” trong núi. Từ đó, nối tiếp nhau ba đời nhà họ Chu lang thang nơi thâm sơn cùng cốc, thuật địa lý để “tầm long, điểm huyệt”, với võ nghệ cao cường tự mình nương náu chôn rừng sâu. Cuối cùng, là nghề săn thú. Đó là ba quy luật tối hậu không thể tách rời. Cho đến gã, vẫn chưa hề gián đoạn. Ba quy luật để đi tìm một kiểu “đất đế vương”. Nhưng đất ấy ở nơi nào?

Hai thế hệ đã qua đi trong nghèo hèn và cô quạnh, ở giữa núi rừng Hồng Lĩnh, bây giờ là thế hệ thứ ba: Nguyên Biệt. Gã sống với nỗi dằn vặt của tổ tông. Với biết bao cơ cầu và mòn mỏi. Những bộ da thú hiếm dần đi. Từng đấu gạo được đánh đổi, nhiều khi bằng những vết thương chí mạng.

Ưu tư lớn dần cùng với con trai gã ra đời. Khi thằng bé lớn lên, nó hằn học nhìn cha khi nghe tới chuyện đi rừng. Nguyên Biệt không cầm lòng được nữa. Tai họa cũng từ đó sinh ra.

Gã tìm cách mạo danh một người đã khuất. Người ấy từng đi thi nhưng chưa đỗ. Lấy tên tuổi ấy, Nguyên Biệt tiếp tục nộp quyển vào ứng thí ở trường văn. Có người khai ra ba đời nhà Nguyên Biệt. Chúa Trịnh, lúc bấy giờ rất muốn cầu thân Thanh triều. Lập tức nắm ngay cơ hội tốt. Toàn gia Nguyên Biệt bị nhốt tù xa, đợi ngày chuyển giao qua biên giới. Run rủi đẩy đưa. Toàn gia gã qua một phen chết đi sống lại. Ơn sâu của họ Nguyễn ở Tiên Điền...

3.

Toản Quận công Nguyễn Khản, thời bấy giờ nổi danh uyên bác, tài hoa đệ nhất. Ông được Chúa Trịnh mến tài, cho gần gũi và không ngớt lời khen. Toản Quận công thường hay nhắc tới một danh tài còn trong tuổi thiếu niên. Ông đoan quyết - một mai - con người ấy sẽ lưu danh muôn thuở. Chúa không tin, cho triệu về kinh thử thách.

Hôm ấy, tù xa toàn gia Nguyên Biệt đang đợi lệnh ở cửa thanh, thì có một thiếu niên công tử tình cờ trong lúc nhàn du nhìn thấy cảnh ấy liền động lòng tìm tới bên hỏi chuyện. Lúc rõ ra cơ sự, thiếu niên công tử bùi ngùi nhìn lên trời than trách. Không ai hiểu người ấy tự nói với chính mình? Với phạm nhân? Hay chỉ để gởi vào... mây gió? Lời nói thật cao xa:

- Ôi, nghèo đến thế kia ư? Kẻ muốn khâu nên chiếc mão cánh chuồn bằng sợi chỉ văn chương. Này, ta hỏi. Có ngày nào không ăn thóc dân gian? Ruộng đồng bát ngát kia được ích lợi gì với sợi chỉ nhỏ nhen kia. Ngày nào cũng ăn thóc đấy ư? Sao lại tưởng văn chương đã xa khỏi bờ ruộng lúa... Văn chương nào đi xa nhất ư? Văn chương ấy sẽ trở về. Văn chương nào đích thực ư? Ắt văn chương ấy không bao giờ thôi đồng vọng tiếng nhân tâm. Có biết nơi “xuất khẩu thành thơ” kia - cửa miệng - cũng là nơi hạt thóc đi vào, để “nhập khẩu thành nhân”? Ôi thân và danh vị kỷ. Chúng có nghĩa lý gì trước mệnh vận của sinh linh?

Trong khi Nguyên Biệt cúi đầu trong cỗ tù xa, người kỳ lạ ấy đã bỏ đi vào lối cổng thành. Đây cũng là ngày Chúa Trịnh vui, quên cả việc thiết triều. Người mà Chúa cho đòi đã đến. Suốt ngày bàn hỏi chuyện cổ kim, Chúa càng kinh dị trước tài trí của thiếu niên mới lớn. Ngỡ ngàng hơn, khi nhà Chúa hỏi thân danh và nguyên quán, Toản Quận công mới thú thực:

- Khải bẩm Chúa công. Đây chính là gia đệ của thần. Nói trước, thì e là vị chỗ tư riêng chăng? Nay đã tường, xin Chúa công tha tội. Gia đệ đang là kẻ đọc sách ở Tiên Điền, húy Nguyễn Du, còn Tố Như là tên tự.

- Giỏi lắm. Quả là trang anh kiệt dưới trời Nam. Cần tưởng thưởng để làm gương ngoài thiên hạ. Ta vốn chuộng văn chương nên đặc ân, ban cho ngươi được một điều nguyện vọng. Nào, nói đi...

Thật bất ngờ. Cậu thiếu niên công tử ấy không nghĩ gì tới phúc lộc riêng mình. Rất thành khẩn, cậu chỉ cúi xin nhà Chúa tha mạng cho toàn gia Nguyên Biệt. Sửng sốt, Chúa cau mày hỏi gắt:

- Không biết là quốc gia đại sự ư? Tại sao ngươi làm thế?

- Khải bẩm Chúa công. Nguyên Biệt những tưởng lấy văn chương mưu việc tiến thân làm lẽ sống. Nhưng lỗi ấy, nào chỉ riêng ở một con người? Xưa nay tài thực học để tế thế an bang, phụng sự sơn hà... ắt khác xa tài chuyên thuộc lòng kinh điển. Lệ học ấy đã thành nếp sâu dày nên lẫn lộn người hiền, kẻ nịnh... Cho đến khi hữu sự, mới hay có người chỉ giỏi tung hô bằng cửa miệng. Với hạng ấy, quan trường nào khác gì chỗ ẩn thân để mưu lợi, tư tình. Khó trách Nguyên Biệt, vì Thi Thư, Phú Lục... gã cũng luyện qua... vẫn có thể phóng bút những câu đạo nghĩa sơn hà, mến dân trọng Chúa. Với văn chương nền nếp ấy, Nguyên Biệt chưa hề nên tội. Tội của gã ư? Là man khai danh phận mà nên.

Trộm nghĩ... liều chết xin tha cho Nguyên Biệt, thảo dân chẳng dám coi thường ân sủng của Chúa công. Vâng cũng là lẽ vì quốc gia đại sự mà ra. Vì sự nghiệp chân chính của văn chương nước nhà. Vì danh tiếng của Chúa công và quốc thể... Phạm nhân nước ta, xin để quốc pháp nước ta xét xử. Gã đã qua ba đời liên tục ngụ cư lập nghiệp, lại chưa từng trộm chó cắp mèo... tại sao gã không được những quyền như mọi kẻ dân đen? Kẻ thảo dân tuy bất tài, nhưng muốn dâng lên lời nói phải. Dẫu biết câu: “Khóa khẩu an thân”, cũng không muốn học theo quy tắc ấy của hạng nịnh thần. Xin... chiếu quốc pháp, hình phạt ta, để trị tội man khai kia. Còn... ngoại ra, chỗ vô tội của gã là mơ ước sự đổi đời bằng nghề nghiệp làm quan thì đội ơn trên... soi xét. Thử hỏi mấy ai trên đời được như Chu Văn An tiên sinh, như Nguyễn Trãi tiên sinh...? Đó là những bậc nhân sĩ “thoái quan” chứ không muốn “tấn quan”. Những kẻ “lợi dân” chứ không một chút “lợi quyền”. Kẻ thảo dân cạn lời. Kẻ thảo dân đáng chết...

Toản Quận công lạnh sống lưng. Chúa Trịnh xạm xanh nét mặt. Bàn tay Chúa giận run. Bỗng nhà Chúa... cười lớn. Bậc quyền uy ấy đổi giận làm vui thật bất ngờ:

- Ngươi to gan không ai bằng. Nhưng... có lý, có tình. Ta chấp nhận. Phàm minh chúa, ắt có tôi hiền. Phi tôi hiền không tìm đâu ra lời nói thẳng. Nói thẳng mà nâng cao quốc thể, chấn chỉnh giềng mối, ích nước lợi dân... Không nghe, không phải là minh chúa. Cái dũng của tướng tài ngoài chiến địa, thực ra xưa nay không thiếu. Cái dũng của học sĩ cầm bút ư? Ha... ha... Ngươi kh- iến ta bất bình, là chuyện nhỏ. Nhưng đổi lại, việc lớn được quang minh. Tôi hiền có cái dũng tâu bày. Lẽ nào bề trên không có cái dũng sửa sai sao?
Vì thế, Nguyên Biệt thoát chết toàn gia. Chỉ chiếu theo tội man khai danh phận, gã phải lưu đày biệt xứ năm năm... Hết hạn, quay về để có thể đường hoàng đi thi nhưng Nguyên Biệt không màng chuyện ấy nữa.

Tìm tới Tiên Điền, toàn gia gã quỳ lạy ơn cứu tử và nguyện suốt đời làm môn hạ ở nơi đây. Bị từ chối tất cả vẫn quỳ gối suốt đêm ngày trước cổng gia trang. Vợ con gã ôm lấy chân vị đại nhân đại đức năm xưa, khóc xin lần tái tạo... Thoát chết, nhưng có hơn gì những kẻ vô phương? Động lòng, người ấy thu nhận, nhưng răn đe: “Ta đã không mộng quan gia, sao các ngươi lại thiết tha đòi làm môn hạ? Đã môn hạ của ta tất có thưởng phạt rất nghiêm. Nếu phạm vào quốc pháp chính ta sẽ là người trừng trị không tha. Các ngươi chớ coi thường”.

Từ đó, sự song toàn gia Nguyên Biệt gắn liền với người cứu mạng năm xưa. Nay gã tự mình tôn người ấy lên hàng Thiếu Chủ - một cách gọi - để phân biệt với các trưởng huynh của người ấy trong nhà... Mấy năm sau sơn hà dần chuyển biến. Họ Nguyễn ở Tiên Điền, vốn trâm anh thế phiệt đã bao đời, cũng lâm cảnh điêu linh thất bát. Vị Thiếu Chủ bùi ngùi trước lẽ bể dâu dồn dập... Người thường tìm cách ngao du giữa núi đồi hoang dã. Nguyên Biệt hộ vệ bên mình, gã chưa từng sơ suất. Để tránh những thế lực nhòm ngó trong buổi loạn ly, Thiếu Chủ lấy cớ săn bắn. Người vẫn tự gọi mình là Hồng Sơn Liệp hộ. Cho đến chiều qua, một buổi chiều đầy sự cố khi Nguyên Biệt đi lấy nước trở về.

4.

Đêm mịt mù hơi núi. Ngọn lửa bốc cao, ấm áp. Người Thiếu Chủ dường như đang thả hồn theo tiếng rì rầm bất tận của núi rừng Hồng Lĩnh. Phía sau lưng là cái bóng của Nguyên Biệt. Đã độ tuổi trung niên, sức vóc gã như một tượng thần hộ pháp. Nguyên Biệt luôn lắng nghe động tĩnh chung quanh. Đêm nay, gã không cảm thấy yên lòng. Vì sự cố buổi chiều? Tất nhiên. Nhưng mặt khác, là câu hỏi đột ngột hiện về trong trí gã: “Dừng lại qua đêm ở đây ư? Lẽ nào... phải chăng? Thiếu Chủ đã bắt đầu lưu ý việc hệ trọng của ba đời nhà họ Chu”.

Đã khá lâu, Nguyên Biệt không còn săn bắn để mưu sinh. Niềm thống khoái nhìn xác thú quằn quại hầu như dần quên lãng. Có ai biết sự thực ngoài gã đâu? Người tự nhận là Hồng Sơn Liệp hộ kia chưa bắn giết bao giờ. Bên con người trẻ tuổi, ít nói ấy, Nguyên Biệt đã sớm chứng thực một quả tim đầy nhân hậu. Gã tự biết, nghiệp sát sinh ắt có cơ dừng lại. Thế mà chiều hôm qua... Tài thần xạ của gã vẫn còn nguyên chưa suy sức. Mơ hồ một niềm vui nhợt nhạt trong người. Bất giác, Nguyên Biệt rút một mũi Lang Nha tiễn ra nhìn ngắm. Vật bất ly thân mà gã ngỡ mới gặp lại, lâu ngày...!

- Hãy cố quên đi nghiệp sát nặng nề kia, Nguyên Biệt. Ta biết ngươi đang hài lòng về mũi Lang Nha tiễn ấy! Vì sao ngươi luôn luôn đầy sát khí trong lòng. Ngươi không cách gì buông bỏ nó?

Giật mình, Nguyên Biệt rõ đó là sự phiền lòng hơn là lời khen ngợi. Gã không chạnh lòng. Gã chỉ ngỡ ngàng vì có gì lạ lùng trong lời ấy?

Thực ra... Thực ra, chỉ là điều bó buộc lúc nguy nan. Thuộc hạ lẽ nào chưa nằm lòng lời bảo ban của Thiếu Chủ. Người đã từng dạy: “Nặng nề nhất là sát khí. Tánh linh dần mất đi để thay vào bằng thú tánh. Trí tuệ lu mờ dần và nghiệp chướng ở đời sau”. Nhưng con gấu khổng lồ kia... Nếu không...?

- Sát khí. Chính tánh linh ngươi lu mờ dần như một tấm gương luôn đặt ở nơi ngùn ngụt ấy. Trí tuệ ngươi là thứ trí tuệ bốc hơi... Ta làm sao nói cho ngươi hay rằng còn một thứ trí tuệ khác. Thứ trí tuệ của tấm gương trong sáng. Tấm gương ấy sẽ phản chiếu sự vật phong phú, chân thực hơn những gì mà loại trí tuệ bốc hơi chỉ lờ mờ, hư ảo... Ta gọi đó là trí tuệ của Chân Tâm.

- Vâng, thuộc hạ u mê chưa từng nghe gì về lẽ ấy. Thiếu Chủ, xin người chỉ giáo cho chỗ tai hại của mũi tên này...

- Thật oan uổng... Nghe ta nói đây. Còn hiểu hay không, đó là duyên và nghiệp của đời người. Vì sao ta dừng lại qua đêm ở đây ư? Đó là sự tự nhiên mà chân tâm phản chiếu. Khí lành đang tiềm ẩn ở nơi đây. Ta đã không lầm, khi thử dừng lại, lắng tai nghe tiếng vang vọng của đất trời. Cho đến khi ngươi bắt đầu rời xa ta, đi lấy nước... Rõ ràng có một thứ âm ba làm ngơ ngẩn cõi lòng. Kỳ lạ thật. Mỗi lần thế... Ta khắc hiểu, mình đang được đứng trên một vùng đầy linh khí của giang sơn. Con gấu khổng lồ ư? Ngươi lầm lẫn lớn vô cùng. Loài thú nào đã quen sống nơi đây, ấy là sản vật riêng của địa linh. Đã sản vật địa linh ắt chẳng phải tầm thường như những đồng loại khác... Vâng, khi thứ âm ba ấy vừa trỗi lên, cũng là lúc ta nhìn thấy con gấu từ trong bọng cây vươn mình ra nắng buổi chiều. “Đồng thanh tương ứng. Đồng khí tương cầu”, nó lim dim mắt nhìn ta, hiền lành như đang được vuốt ve. Thì ra, không chỉ mình ta, mà con vật sống quen miền địa linh cũng có thể lắng nghe âm ba hiền dịu ấy. Thế nào ư?

Làm sao để những người quen thấy máu như ngươi hiểu được thứ âm ba vang vọng giữa đất trời? Nó khiến mọi vọng niệm ô trọc, mọi tham tàn của sinh linh tan đi theo mây khói. Âm ba làm hận thù vắng bóng, đưa con người về yêu thương và lẽ thiện. “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Vâng, đó là âm ba gợi cảm đầu đời. Là vang vọng man mác, tuyệt đối êm đềm từ một thuở nằm nôi. Còn đối với dã thú, sinh linh ư? Là cảm giác nguyên thủy khi đang còn ngậm hờ vú mẹ. Trong không gian tuyệt vời, đồng cảm ấy, ta hỏi ngươi làm gì có máu xương và móng vuốt? Tất cả đã đổi khác đi - thật không ngờ, thật oan uổng - khi những bước chân mang sát khí của ngươi... hối hả trở về. Sự thấy biết của ngươi không sai, nhưng đó chỉ là thấy biết hao hụt - thậm chí trái ngược - với sự thấy biết một nửa đầu câu chuyện... Thấy biết qua giao cảm của lòng ta.

“Địa linh”. Nguyên Biệt giật thót người. Gã thật sự kinh hãi. Có loại âm ba ấy ư? Có phải Thiếu Chủ muốn nói tới một thứ âm ba gần giống âm ba từ lời ru của mẹ? Mẹ gã không phải người Tàu, mà là người Việt. Nhưng rồi Nguyên Biệt phân vân... “Địa linh sinh nhân kiệt”? Nhân kiệt ra đời để mưu bá đồ vương, lẽ nào... lẽ nào lại canh cánh bên lòng tiếng hát thuở nằm nôi?

-... Trong lúc ngươi vắng bóng, chỉ còn hai tánh linh đồng cảm tại nơi này. Tuyệt nhiên không một con thú nào. Kể cả con gấu lẩn khuất trên ngọn cây kia. Hoặc giả - ngay trong bản thân ta - kể cả phần “thú tính” đang lấp ló sau những tham vọng hạn hẹp một con người... Tất cả chỉ còn lại chân tâm.

- Đã đi rừng - thưa Thiếu Chủ - sát khí nào ắt cũng để phòng thân.

- Nguyên Biệt. Vì thế ám ảnh hiểm nguy, tâm lý đối phó đã trở nên cố hữu như vật bất ly thân. Nó là lý do tồn tại của kẻ chuyên sống giữa rú rừng... Sát khí của ngươi còn là sự tích lũy suốt ba đời hạ thủ sinh linh. Khi ngươi vội vã trở về, sát khí từ lâu bị kiềm chế, nay có cơ phát tán khắp không gian. Âm ba vang vọng giữa đất trời... im bặt! Như đứa bé đột ngột xa lìa bầu sữa mẹ. Khi ta chưa kịp hết sững sờ, thì ánh mắt gấu đã rực lên màu chết chóc. Không còn gì níu giữ nữa! Nó đã bị kéo về trong thế giới bản năng. Vệt màu sậm phủ xuống đầu ta... Sát khí đã khiến vùng địa linh ô nhiễm.

- Vâng, gió đã đổi chiều... Khi thuộc hạ trở về, thuộc hạ ở đầu gió. Con vật đã bắt hơi nhanh hơn hẳn.

- Thế đó. Mũi tên còn lại trong tay ngươi. Vĩnh viễn, ngươi sẽ không còn gì ngoài sát khí bản thân. Ngươi chẳng khi nào yên tĩnh. Vì, ngươi vốn đánh mất từ lâu những âm ba nguyên thủy đầu đời. Âm ba sớm nhất từ thuở mới lọt lòng, khi cõi người chưa biết gì tới thân - danh và mệnh - vận. Rồi phải lớn lên, xa lìa dần... không bất hạnh nào lớn hơn nữa. Tấn thảm kịch bất tận của sinh linh cũng bắt đầu từ những giờ phút xa lìa âm ba ấy. Vì thế, trước mắt ngươi chỉ là hai dòng khô cạn. Còn riêng ta, âm ba kia vẫn âm thầm vang vọng giữa chân tâm. Nó không cạn bao giờ! Chỉ thấy bằng mắt, ngươi không biết thấy trong lòng... Nguyên Biệt, sát khí chỉ cho ngươi toàn sỏi đá!

- Không khô ư? Nơi cái gò này đâu có nước bao quanh? Hai dòng suối... chết từ lâu. Thiếu Chủ cũng đã từng giẫm chân lên sỏi đá. Tại sao người...?

Nguyên Biệt ngừng nói. Gã không dám khinh động. Bây giờ là lúc Thiếu Chủ đang vô cùng hứng cảm. Người nhắm mắt ngưng thần, hai tay kính cẩn nâng lên một cổ vật. Cây Nguyệt cầm vừa được lấy ra từ túi gấm. Buông theo gió rừng đêm, bay bay chiếc tua ngù màu bạch tố. Người bạn lòng riêng ôm ấp lấy tri âm!

Nguyên Biệt nhẹ nhàng lui ra xa.

Vừa đủ gần ánh lửa để không làm mất nhã hứng chủ nhân, gã chỉ lan man về phần hệ trọng nhất trong khẩu truyền từ thân phụ. Khẩu truyền về một kiểu “đất đế vương”. Riêng với họ Chu nhà gã, thì đây không phải là chuyện hoang đường. Nó là học thuật chi li, là gian khổ và kiên trì của ba đời lưu lạc. Khẩu truyền gì?

5.

Phụ thân gã từng dạy rằng:

Đất Việt là chốn địa linh. Nơi ắt phải sinh nhiều nhân kiệt. Nội tổ con vì hai lẽ, phải chạy tìm đất ấy nương thân. Một, là nơi hiểm trở xa xôi. Hai, là biết đất ấy giàu có địa linh. Sự giàu có trên ngàn lần giàu có thông thường. Biết thế, vẫn không đủ sức đi khắp nơi nơi... Tình cờ đẩy đưa, nội tổ con dừng ở đất Hồng Lĩnh. Nhìn thấy vượng khí ngút trời, người khắc biết khí lành nơi đây đang bắt đầu phát tiết. Vốn khổ công để trùng hưng nhà Đại Minh của ta, nội tổ con muốn tìm ra một “kiểu đất đế vương”. Quả thật không lầm, người đã tìm ra đất quý. Đây là vùng “Bụng rồng” con đã biết, theo cách gọi riêng của nhà phong thủy. Thật kiểu đất lạ lùng cứ tưởng phần nào giống kiểu đất thời Gia Tĩnh, triều Đại Minh nhà ta từng phát tiết... Nhưng không, đi sâu vào núi sông của xứ Việt, mới hay thật như gấm thêu hoa, như rồng bay phụng múa. Kiểu đất Gia Tĩnh làm gì có đến chín mươi chín ngọn Hồng Sơn quần tụ? Làm gì có trăm, ngàn nước trời đến treo lên như dát bạc, trắng cả một góc trời riêng? Hy hữu thế gian. Giật mình, nội tổ con vui mừng khôn tả!

Nhưng cơ trời còn thử thách họ Chu ta. Ngặt nỗi, hai dòng suối vốn xưa nay bao bọc quanh chỗ “Bụng rồng”, không rõ vì sao chưa đủ nước. Hai dòng suối, sách ta gọi là hai dòng “Càn-Khôn-thủy”, nước linh làm “nguyên- khí-nuôi-rồng”. Nước ấy không còn! Trớ trêu thay, thế là hài cốt tiền nhân nhà họ Chu - phải chờ đợi - chưa thể an táng vào ngay được! Nếu cưỡng cầu, vội vã thì họa sát thân ắt tới cảnh Nguyên Biệt, hai đời họ Chu ta đã lần lữa nơi đây. Nay, ta sắp phải ra đi... Việc lớn, con khá ghi lòng. Một, không được rời xa đất Hồng Lĩnh. Hai, đợi đến khi hai dòng “Càn-Khôn-thủy” ấy chảy lại như xưa, lập tức an táng hài cốt tiền nhân ngay chỗ “Bụng rồng”. Chớ để quá trăm ngày. Ba, tìm đường về cố hương chờ vận lành, mệnh lớn...”.

6.

Kể từ khi người Thiếu Chủ năm xưa rời khỏi đất Tiên Điền, người buộc phải vâng theo chiếu mệnh Nguyễn triều vừa an định giang sơn, để cho viên thuộc hạ ấy, nay đã già, ở lại gia trang. Một chú tiểu đồng lếch thếch ôm theo cây Nguyệt Cầm cũ kỹ. Một chiếc song mã chở toàn thư bút. Một tên mã phu ra roi cho tới khi... kẻ nhìn lui không thấy bóng cố hương. Chú tiểu đồng mở to mắt cố nhìn chút khói lam chiều vướng vất...

Lão già chậm chạp quay về. Từ nay, lão biết một người sẽ phải lầm lũi chốn quan trường... Chân tuy bước, lòng không nguôi canh cánh nẻo về. Nước mắt lại ứa ra. Nguyên Biệt chạnh lòng vì ai, hay cho chính lão? Cũng từ đó núi rừng Hồng Lĩnh hoang vắng, mênh mông hơn bao giờ.

Nguyên Biệt thẫn thờ, trống rỗng. Sức lực mòn dần, lão vẫn có mặt ở “Bụng rồng” vào ngày rằm mỗi tháng. Mọi lần đi, lão lặng lẽ quay về. Lão đâm thù oán bất kỳ sỏi đá nào lăn lóc dưới chân. Nguyên Biệt thèm nghe... nước chảy! Lão hay tắm, cứ vọc nước hệt như đứa bé vui đùa. Mồm lão lải nhải: “Càn-Khôn-thủy... chảy đi... Càn- Khôn-thủy... Vận Tiềm-long đã dứt. Vận Phi-long ra đời”.

Cô đơn ngay trong mái ấm gia đình, Nguyên Biệt mang ấn tượng một người chồng hoang tưởng, một người cha khắc nghiệt dữ dằn. Lão bỏ mặc vợ con một mình lên ở “Bụng rồng”. Đây là nơi, năm nào hai thầy trò từng ở lại qua đêm, vẫn với hai dòng khô toàn sỏi đá. Có hay không thứ âm ba kỳ dị mà người Thiếu Chủ đoan quyết... Biết đâu? Nguyền rủa chán, lão quỳ lên sỏi đá... van nài!

Căn lều và gió núi. Ánh lửa qua đêm. Nhiều lần, lão thức giấc giữa khuya. Tuyệt nhiên không! Sao gọi là âm ba vang vọng giữa đất trời ấy... nhỉ? Thực ra, đây chỉ có tiếng tru rít hậm hực của bầy sói luôn lảng vảng quanh lều. Ở “Bụng rồng” chẳng biết đã bao lâu, ấn tượng tháng năm chẳng còn trong trí lão. Lắm lúc để giải khuây, lão nằm lăn ra đất tưởng tượng như... được nằm trong nấm mộ.

Vào một ngày mùa hạ oi nồng. Nắng rực rỡ trên núi rừng Hồng Lĩnh. Cho tới khi hoàng hôn buông xuống. Căn lều không có lấy ánh lửa lập lòe. Dễ chừng đã mấy hôm rồi... Đêm khuya, tiếng tru rít hậm hực của bầy sói mỗi lúc một gần hơn. Gần sáng, cuộc xâu xé của chúng mới chấm dứt trong lều. Kiệt sức vì sốt rừng, lão già nằm thoi thóp đã nhiều hôm. Bếp lửa tro tàn nguội lạnh. Bất lực, không lê nổi cánh tay, lão vẫn còn thấy chăm chăm từng cặp mắt hoang dã... Khi đã no mồi, bầy thú đã biến mất tăm hơi. Trời vừa hừng sáng đầu non.

Ngay gần trưa hôm đó, một cơn giông khủng khiếp chưa từng có, trời trút nước xuống núi rừng Hồng Lĩnh. Sấm chớp. Mưa phủ đại ngàn... Lũ đầu nguồn tích tụ, cuồn cuộn dâng trào. Nước phủ kín “Bụng rồng”. Gốc cổ thụ ấy chìm nửa thân trong dòng nước băng băng, cổ thụ vẫn vững vàng không đổ!

Mưa gió ngừng. Trời quang đãng trong veo. Mặt trời rực rỡ. Cảnh vật như vừa qua phép lạ... Nước đã được thiên nhiên chuyển dòng, khai thông. Bây giờ chảy thanh thản, ôm quanh “Bụng rồng” là hai nguồn suối lớn, trong veo. Sỏi đá ngày nào, chỉ còn lờ mờ qua đáy nước. Người đi rừng xa nhất, lên Trường Sơn bảo lại rằng, đếm được sáu dòng suối chính hợp nên. Chúng gom nước về cho dòng chảy trước cái gò có cây cổ thụ kia. Dòng chảy sau cái gò - có nhiều hơn - đếm được đến tám dòng suối chính, lần lượt hợp thành. Họ làm gì biết, đấy chính là hai dòng “Càn-Khôn-thủy” mà ba đời nhà họ Chu chờ đợi... Chỉ có điều kỳ diệu, là lúc vào sâu, ắt có kẻ lạc đường. Những người đi rừng khi ấy, cần căn cứ hai nguồn này, chưa bao giờ lầm lộn lối về. Họ có cách gọi riêng, bảo nhau là “nguồn Lục”, “nguồn Bát”.

Biến động “Bụng rồng” đã xóa sạch căn lều và mọi vết tích tang thương. Chỉ có gốc cổ thụ vẫn xòe tán khổng lồ. Vào những đêm trăng thanh gió mát, nước suối chảy dào dạt quanh gò. Mơ hồ tiếng sỏi chạm vào nhau lạ lùng như tiếng ngọc. Thứ âm ba của cội nguồn vang vọng...

7.

Đúng vào đêm đầy biến chuyển ở “Bụng rồng”... Cách xa Hồng Lĩnh đến mấy phương trời, có một người trung niên thức giấc giữa canh khuya. Vị Thiếu Chủ năm xưa, tóc giờ đây ngả màu. Con người ấy đang bắt gặp lại một mạch nguồn, từ lâu xa vắng. Đốt lên ngọn bạch lạp người ngồi trước án thư lặng lẽ.

Tới sáng, một nho sinh tuấn mạo - hao hao nét tiểu đồng ngày trước - rón rén bước vào với một đỉnh trầm hương nhỏ. Chủ nhân đang so lại dây đàn, cây Nguyệt Cầm vốn từ lâu phủ bụi góc thư phòng. Lui nhanh ra, nho sinh hiểu phải làm gì lúc ấy... Bên ngoài, tiếng ngựa xe dồn dập nẻo Kinh thành. Thật nhẹ nhàng, hai cánh cổng vừa chỉ mới mở ra lúc nãy, bây giờ đã từ từ khép lại. Bước vào qua sân, bỗng nho sinh sững sờ dừng lại lắng nghe... Một khúc Nguyệt Cầm vừa réo rắt bên hiên. Mắt nho sinh nhòe dần đi, hiện ra... bao nhiêu khói lam chiều và một nẻo làng quê...

Đến xế trưa hôm đó, trên án thư là tờ hoa tiên trải rộng. Người chủ nhân đang thả hồn theo những dòng thảo nôm tuôn chảy... Là một trường thiên lục bát. Trường thiên chỉ mới khởi đầu, người đã viết “Trăm năm...”.

T.H.T

Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014

Nhà ở tầng cao


Tôi ở trên tầng ngọn
Ngôi nhà những người không nhà
Tôi đứng trên đỉnh cao không có thật của mình
Cửa sổ phòng tôi ngang tầm mặt trời mọc

Ánh ngày đầu nguồn thay ca đêm
Vào phố tôi đi làm
Ngày ngày
lên cao
xuống thấp

Nơi tôi ở hướng nhìn lên
Ở giữa lưng chừng ngọn gió
Trên đầu mây trắng bay
Dưới đất cây xanh lay
Chỉ có căn phòng là đứng nguyên
khoảng trống

Và tôi đã sống như người mơ mộng
Treo cả cuộc đời lên đỉnh cao
Cái đỉnh cao mà tôi có thật
Là không có ai
ngồi đứng
trên đầu

Nguyễn Khắc Thạch

TRÒ CHUYỆN VỚI CÁI GHẾ





Fa - Xu - Ca



- Ghế này, có khỏe không?
- Anh là ai mà hỏi như là ngang hàng với tôi không bằng?
- Ơ hay, anh chỉ là cái ghế thôi chứ có gì mà cao ngạo thế?
- Thế anh không biết người ta chạy chọt, luồn cúi, hối lộ, tranh giành, cắn xé nhau, thậm chí đảo chính, lật đổ, nội chiến cũng chỉ vì tôi à?
- Nói thật nhé, anh cũng chỉ là thứ mà người ta gửi tạm cái bàn tọa thôi, chứ cao sang gì! Bức tranh làm nên giá trị cho cái khung. Nhân cách người ngồi trên ghế mới mang lại danh giá cho cái ghế, nghe chưa!
- Chú em đúng là đồ...lý thuyết suông! Chính anh mày đây mới là người mang lại danh giá cho kẻ ngồi!
- Làm gì có chuyện ngược đời thế?
- Anh hỏi chú mày nhé? Chú mày học hành tử tế, bằng cấp đàng hoàng, thông thạo ngoại ngữ, đạo đức sáng ngời, nói năng lưu loát, viết lách giỏi, tổ chức quản lý cừ...Túm lại là rất ổn. Đúng không?
- Ờ...thì đại loại là như thế. Thì sao?
- Nhưng anh hỏi chú mày, chú mày nói có ai nghe không?
- Ờ...thì...là...mà...
- Đấy. Chú mày thấy chưa? Nhưng nếu chú mày ngồi lên chỗ anh đây, tất nói sẽ có người nghe, đe sẽ ối kẻ sợ. Vậy thì cái gì làm nên giá trị, chú mày hay anh? Con người hay cái ghế?
- Anh nói thế nghĩa là kể cả dốt nát, tham lam, dối trá, nịnh bợ...hễ cứ ngồi được lên ghế là danh giá?
- Chứ sao! Cũng con người ấy nhưng hễ cứ tót lên ghế cao là bỗng nhiên “nghe anh nói bọn em sáng ra” ngay. Không danh giá thì là gì?
- Nhưng đó là cái danh hão, báu gì!
- Đúng, danh thì hão, nhưng quyền lực thì thật. Mà, có quyền thì làm được nhiều việc lắm.
- Đương nhiên rồi, thời nào thì cũng phải có quyền mới thực thi được chuyện này chuyện nọ. Nhưng tôi hỏi anh Ghế, các ông chủ của anh, những người đã phải chi phí rất nhiều để có anh, họ thường quay lại dùng anh vào việc gì là chủ yếu?
- Làm tiền. “Măn ny” ấy mà, để trước mắt là bù đắp chi phí, gọi là “thu hồi vốn”.
- Đồng ý với anh “trước mắt” là “thu hồi vốn”. Thế còn “sau mắt” là gi?
- Là tiền!
- Để làm gì nữa?
- Có thế mà cũng hỏi. Để “đóng” một cái ghế cao hơn!
- Tôi kinh sợ anh rồi đấy. Đúng là chỉ vì anh, mà người ta sẵn sàng chạy chọt, nịnh bợ, hối lộ, dối trá, tranh giành, cắn xé nhau...
- Chú mày nói đúng thực trạng của một “bộ phận không nhỏ” rồi đấy. Nhưng nếu không thế, theo chú mày thì sao?
- Còn sao nữa. Phải công khai minh bạch, thi thố khách quan, bầu cử đàng hoàng, ai có thực tâm, thực tài thì phải được trọng dụng.
- Có nghĩa là ghế phải đi tìm người, chứ người tài không đi tìm ghế?
- Đúng như thế! Người tài ai người ta quỵ lụy cái... vật bốn chân!
- Chú mày nói rất đúng, quá đúng, cha của đúng!
- Chứ sao!
- Chỉ có một điều nho nhỏ thôi, nói một câu cho vuông để chú mày buồn dần đi là vừa...
- Là điều gì vậy?
- Đó là cái đúng của những kẻ...không có ghế!

con sông không chảy


con sông trơ vơ nhiều bờ
hàn huyên kể lể
nói về tình yêu cô đơn
neo gãy, dựng buồm đi!

nói với triết học ngàn năm
chẳng hiểu nghĩa trí tri
cùng cách vật
cách súc sanh
cách người-ta-địa-ngục!

một nhát cắt
nghe trần gian đau nhức
sự thật hai bên
con mắt mở trừng
ngồi thở với đêm dài
vết độc ăn loang
đông lạnh giá
mùa xuân đâu
mùa xuân ở đâu
mà nghe bọ trùng ăn rỗi!

chẳng chờ đợi
chẳng mong cầu
mà vẫn nghe bơ ngơ bối rối
thịt da này
và cây lá cõi nhân sinh
có mặt giữa hư vô
khổ đế hiện nguyên hình
xuân tuổi trẻ
trù mật trái cây
bước vào bình nguyên
bản năng Hy Lạp
muốn vẽ một bức tranh
ngại chân không lấm mực
bèn thôi
máu cục máu hòn!

thế là ý tưởng liu điu
rời rã nhọc nhằn
xuân mỏi mệt
vẫn qua chữ qua trang
qua hư huyền cổ độ
gã lãng tử phong trần
vẫn lạc loài đâu đó
phiêu phất sông hồ
cười khóc vô duyên
thế lực ma vương
quậy phá đảo điên
vẫn hóa trang văn minh bác ái
cà-rốt bột mì
tờ kinh lá cải
bi bô nhân luân
hoa trái tình thương
chân lý tứa ra
tiêm nọc độc miên trường
từ Trung đông cổ xưa
đến thời nay
năm châu bốn biển
quỷ dữ và thánh thần
cùng đội chung vương miện
lưỡi gươm xanh
lưỡi gươm đỏ
lập lòa lấp lóa vũ cuồng chơi
hội ảo hóa hiện đại tân trang
nghi ngút chín phương trời
thổi ra điệu hát khúc ngâm
vọng suốt a-tăng-kỳ
ca từ hư dối
xuân cúi mặt
thập thò thập thò
từ giao thừa u tối
ngại lửa trần gian
ngại bụi
ngại con người
phù phiếm phồn hoa
phù phiếm danh xưng
vô cảm ngôn lời
đã hóa đá từ căn nguyên lý trí
vật vã
trở trăn
từ điêu tàn học lý
che hạt chẻ vi
chẻ vụn tế bào tim
đức Phật có trở lại hôm nay
cũng phải run sợ ngồi im
phải hóa huyễn tượng đài
hóa huyễn hình thức lễ nghi
cùng ba tòa thánh điển
chữ lá bối
phết ngọc trai
xác phơi lêu đêu sò hến
gõ enter tu học dễ dàng thôi
võ rỗng điểm thêu
hoa mỹ, đẹp rợn người
chưng bảng hiệu quảng cáo rẻ tiền
tiếp thị thị trường đông vui
như ngày xuân bướm ong du hí
thuyền cứu độ ngược xuôi
rộn ràng dâu bể
rều rác lều bều
bèo đốm nở hoa
ai cũng vì đời
ngược nước cỡi phong ba
chợ tía chợ vàng
kiếm ăn ngày trăm bữa!
ta đứng khóc bên này sông
giọt lệ cường toan rực lửa
thương lòng mình
bèn phát nguyện đại bi
đói câu thơ
đói chữ
đói vô vi
thiếu không khí
thiếu màu xanh
thiếu niềm xuân
cùng cọng mầm ý tưởng
thèm sáng tạo
thèm cô đơn
thèm không gian u tịch
tính bầy đàn đã mọc rễ tiền căn
hạo khí ở đâu
cho tùng trúc vươn cao
đón thanh khí
trăng xuân xưa tao ngộ
xuân của đất của trời
của tâm linh, chưa cũ!

nẩy từng chồi măng
chồi lá nõn nà hương
ta thèm máu đỏ về tim
thèm dị giản
thèm bình thường
nhưng hoảng hốt
vì câu chữ rơi
rơi
nó cứ rơi!

hư vô
không vọng tiếng!


Triều Tâm Ảnh

DŨNG CẢM



VĂN THU NGUYỆT







Nhà có mấy việc lặt vặt, cần một lao động phổ thông nên ta mướn một đứa con trai khoảng 18 tuổi, dân miền Trung vô sài Gòn ở trọ làm phụ hồ lang thang kiếm sống. Một bữa tình cờ nhìn tấm ảnh ta nghịch ngợm đứng ngay trên vạch biên giới Việt – Trung (mỗi chân đứng trên đất của một nước) nó liền cười, nói:

- Vậy nếu cô đi tới chỗ giáp ranh ba nước như biên giới như Việt – Lào - Trung thì cô đứng làm sao cho đủ?”

Ta tếu táo:

- Thì cô bò, hai chân đứng trên đất của hai nước kia, hai tay chống trên đất của nước mình.

Cháu bỗng dưng trợn mắt, vội vàng la:

- Đừng, cô đừng có đứng như vậy, đứng như vậy là nước mình nghèo chết, thua nước người ta đó! Mình mần được bao nhiêu, nước người ta lấy hết đó!

Ngạc nhiên, ta vội hỏi:

- Vì sao?

Cháu tỏ vẻ rất quan trọng, nghiêm trang kể:

- Hồi xưa, làng cháu và làng bên có chung một ngọn núi, ngọn núi có hình dáng một con voi, nhưng con voi đứng quay đít về phía làng bên và cái đầu thì ở làng cháu. Thế mà làng cháu bao đời làm ăn không khá, còn làng bên thì chẳng làm gì cũng cứ giàu. Thầy phong thủy nói tại vì con voi núi ấy ăn lộc làng cháu và ỉa hết về phía làng bên, nên mới vậy. Thế là làng cháu phải đem mìn đi phá tan cái đít con voi, từ đó làng cháu mới giàu lên như làng bên được. Thiệt đó! Mai mốt cô có đi tới chỗ kia, nhớ đừng có đứng bò kiểu đó mà thiệt hại cho nước mình đó nghen cô!

Cháu nói giọng hết sức hồn nhiên mà thể hiện sự lo lắng rất nhiệt tình. “Nước mình” – hai tiếng đó vô cùng thân thương phát ra từ một đứa con trai nhỏ, không được học hành, hiểu biết gì nhiều. “Nước mình” – cháu nói hai tiếng đó nghe âu yếm như khi nhắc tới ông bà cha mẹ, người thân của của mình khiến lòng ta bồi hồi xúc động! Thấy ta đứng ngây ra nhìn, cháu cười bẽn lẽn:

- Gì mà cô dòm con dữ vậy?

Ta nhẹ nhàng hỏi:

- Cháu học được tới lớp mấy?

- Lớp hai, cô!

- Có thuộc 5 điều bác Hồ dạy hông?

- Có, cô!

- Chịu điều nào nhất?

Cháu đứng suy nghĩ hồi lâu. Có lẽ là để nhẩm nhớ lại 5 điều bác Hồ dạy, có lẽ là để suy nghĩ coi mình thích điều nào nhất, vì hồi nào giờ đâu có quan tâm là mình thích điều nào, giờ được hỏi mới suy nghĩ.

- Điều nào cũng chịu, nhưng chắc con chịu nhất là “khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”.

- Sao cháu thích nhất điều đó?

- Vì điều đó là điều tốt. Cần lắm!

- Cô tưởng cháu thích nhất là điều “yêu tổ quốc, yêu đồng bào”?

- Hì… hì… Nước mình thì dĩ nhiên là mình phải thương rồi, còn “dũng cảm” là phải ngon lắm mới làm được đó cô!

Ta lặng thinh. Ta suy nghĩ về sự dũng cảm của mình và của bao người yêu nước mình hiện nay…

Hết ngày, ta trả tiền công cho cháu vì đã giúp ta những việc nhỏ. Còn bài học lớn mà cháu vô tình khơi gợi cho ta, ta phải trả bằng gì?

Ta nhớ: Năm nay cháu 18 tuổi, bắt đầu được làm một công dân của nước mình với đầy đủ bổn phận và trách nhiệm theo qui định của pháp luật. Cháu thích “khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”, và cháu hồn nhiên nói lên hai tiếng nước mình với giọng rất thân thương…

Khóc trên vai người tình


LÊ MAI DUNG
 
 





“Trong xấp tiền cầm trên tay
Nếu có một tờ rách
Ta sẽ luôn muốn tiêu cái tờ rách đó trước
để tất cả còn lại được lành lặn.
Đời cũng thế
cái gì rách, có thể bỏ đi thì bỏ đi
để những cái còn lại được lành lặn, tròn trịa”


Khi gặp em tôi đã là một người đàn ông từng trải.
Một gã từng trải không hề lơ ngơ trước một người đàn bà như em, người đàn bà khiến tính đàn ông trong tôi bùng nổ.
Nàng mặc chiếc áo len tím nhạt, chiếc váy xòe ôm lấy đôi bàn chân nhỏ nhắn đi dép xỏ ngón, những ngón chân tinh tế có màu móng tự nhiên không sơn phết khiến tôi xúc động đến nao lòng. Một người đàn bà đẹp ít để móng chân tự nhiên, họ dùng đủ thứ màu mè che phủ đi cái màu hồng nhạt chân thật, lấp liếm cái móng chân nhỏ nhắn bằng đủ các loại sơn; những có khi vẫn chưa đủ, họ còn vẽ lên đó như một dạng nghệ thuật Graffini trên một diện tích tính bằng cm2. Nàng nhợt nhạt, nhỏ nhắn và tinh tế trong cái lạnh se se. Chắc đôi vai ấy sẽ rất mỏng manh, ấy là tôi nghĩ thế, sau lần sợi len thô phủ ngoài vẫn cảm giác xương bả vai của nàng nhô lên, bàn tay có những sợi gân tia tía nhạt màu, bàn tay với những móng tay cắt ngắn sạch sẽ. Nàng ngồi trước tôi gần như đối diện hai cái bàn rất gần nhau, nàng ngồi một mình trong một góc nhỏ nhoi ở Thủy Tạ, nhạc khe khẽ rung trong không gian trắng, trăng khe khẽ rung trên mặt hồ lăn tăn sóng. Tôi chợt rùng mình; khung cảnh liêu trai trên mặt nước hồ rờn rợn, nàng có thể chỉ là một cô ma nữ xinh đẹp đi săn đàn ông trong một ngày rằm; lẽ nào tôi là một trong những gã đàn ông mà nàng chọn làm con mồi tình ái.
Nàng lắng nghe tiếng đàn Piano, bàn tay xoay xoay chiếc nhẫn trên ngón giữa, có thể nàng chưa có chồng ngón tay nàng nói lên điều đó. Nhưng cũng không hoàn toàn như vậy, ngón tay người đàn bà chẳng mấy khi trung thực, họ có thể chuyển cái nhẫn đi khắp các ngón tay nếu tất cả đều có thể nhét vừa một chiếc nhẫn. Một khi chiếc nhẫn không nói lên được điều gì thì khuôn mặt và trạng thái có thể nói lên đôi chút, tôi có thể ngồi và quan sát từ nàng mãi nếu như không có ai đó vô duyên kéo một chiếc ghế ồn ào ngay bên cạnh tôi.
- Chào em... một giọng đàn ông cực kì vô duyên.
Tôi thấy nàng nhướng mắt nhìn lướt qua mặt tôi đọng lại sau vai tôi như con bướm rung rinh trên một nhành hoa. Nàng cười rất tươi, hàm răng ngô non đều đặn trắng sữa, cánh môi run run khiến tôi thấy sự ghen tuông ngấm ngầm lộ ra. Nàng khẽ đưa ngón tay lên duyên dáng ngoắc ngoắc ai đó đằng sau tôi, sẽ rất mất lịch sự nếu tôi ngoái lại nhìn; tôi chẳng thể làm thế vì sĩ diện đàn ông nên dù rất rất muốn tôi vẫn cố gắng làm như không quan tâm gì đến toàn bộ những gì diễn ra xung quanh mình.
Một cái lưng đàn ông chắn trước mặt tôi.
Một cái lưng to bè ngang nhiên chặn tất cả mọi ánh nhìn của tôi về hướng nàng, tấm lưng như sở hữu người đàn bà đó, nó khẳng định chủ quyền đồng thời ngăn cấm tất cả những gã đàn ông manh nha tìm hiểu những gì thuộc về người đàn bà thuộc về nó. Tôi vốn không ưa những tấm lưng như vậy, nó độc quyền và mang tính sở hữu cao quá đối với người khác, những tấm lưng đàn ông uy quyền và vững chãi.
Đó là tất cả những gì tôi biết về người đàn ông của nàng.
Nàng dựa vào thành ghế, quay đầu nghiêng nghiêng như con chim nhỏ nhắn duyên dáng. Lần đầu tiên trong đời tôi có thể biết được những người đàn bà có sức hút mạnh mẽ khiến tất cả máu trong người tôi dồn xuống.
Đến tận khi chúng tôi trở thành tình nhân rồi thành vợ chồng nàng vẫn không hé răng nói về chủ nhân tấm lưng to bè và uy lực ấy. Nàng phủ một tấm mạng lên tất cả quá khứ của nàng và tôi cũng không cố làm nàng khó xử vì những câu hỏi đê tiện đang âm thầm trong lòng. Nhưng thực lòng tôi chưa bao giờ quên tấm lưng người đàn ông đã che mất khoảng khắc tôi nhìn nàng trong một giây lát của buổi tối hôm đó; nụ cười và cái ngoắc tay của nàng đủ để tôi hiểu là quá khứ của nàng và tấm lưng ấy không đơn giản chút nào.
Chúng tôi quen nhau không phải từ buổi tối đầu tiên tôi nhìn thấy nàng. Dĩ nhiên sau này tôi có nói về buổi tối hôm ấy, tôi biết tiếng sét ái tình có thể là rất ngớ ngẩn với một thằng đàn ông từng trải nhưng cũng không có nghĩa một thằng từng trải không thể có tiếng sét ái tình trong đời. Trong quá khứ của tôi những người đàn bà đều gợi nên cho tôi một cảm giác rất thèm khát, rất đàn ông tính và có thể nói cách khác là họ đều gợi tình theo một hình thức nào đó, tuy nhiên sự gợi tình và gắn bó nó lại không đi cùng nhau. Các cuộc tình cứ lướt qua tuổi trẻ một cách ồ ạt, tôi chưa kịp nhận ra mình ở thể loại nào trong những loại đàn ông thì đã quên mất đi câu hỏi ấy. Những người đàn bà của tôi cũng chưa kịp đau khổ thì chúng tôi đã vướng vào những mối quan hệ khác, các cuộc chia tay đều không bi lụy; chúng tôi đều là thanh niên của thế kỉ 21 chả có lí do gì khóc than cho những cuộc chia tay vô nghĩa trong khi đằng trước còn khối những cuộc chia tay khác còn đang chờ đợi.
Có nàng ở đó, con đường tình ái của tôi liền chấm dứt. Tôi có thể lũn cũn theo nàng, có thể chờ đợi và không thể nhẫn nại hơn được nữa để có những buổi hẹn với nàng, tôi không muốn phiêu lưu với bất cứ người đàn bà nào khác cho đến hết đời mình. Tôi không còn thấy quá khứ của mình là đáng tự hào, tôi có thể nhận thấy quá khứ của mình thật vô trách nhiệm và lãng phí biết bao nhiêu trước khi gặp nàng.
Nếu cuộc đời không nát đến thế, liệu tôi có thể biết được giá trị của nàng đối với mình hay không?
Em và người tình
Tôi gặp anh ấy khi ngồi đợi một người đàn ông khác, anh nhìn tôi như nhìn một cô bé thiếu người giám hộ, khuôn mặt anh có nét gì đó rất trẻ thơ có một chút háo hức và hăm hở mà tuổi trẻ của anh vẫn còn cho phép. Tôi cũng không thực chú ý đến anh, không thực lòng quan tâm đến người nào khác ngoài người đàn ông lúc này tôi đang chờ đợi. Nhưng vì cách anh nhìn khiến cho tôi thấy mình có một chút gì đó bí mật, quyến rũ và vẫn còn sức hút với đàn ông. Tôi cũng không còn ngây thơ, rất khó có thể tìm được một người đàn bà ba mươi tuổi vẫn còn thơ ngây như vẻ ngoài tỏ ra, nhưng dáng vẻ xanh xao của tôi vẫn đánh lừa được những người đàn ông từng trải.
Tôi tình cờ gặp lại, tình cờ ngồi cùng nhau trên một chuyến bay dài. Tình cờ có chung một điểm đến với anh và mọi thứ bắt đầu từ một sự cô đơn quá lứa của người đàn bà ngoài ba mươi khát khao một tình yêu bền vững. Tôi không muốn anh nói về quá khứ của anh, cũng không muốn quá khứ của mình lồ lộ ra trước những cặp mắt soi mói đến lạnh người của các cô gái vây quanh anh. Quá khứ của người đàn bà thuộc về người đàn ông đa tình sẽ là miếng mồi ngon cho các câu chuyện ngồi lê đôi mách. Gặp tôi anh vẫn có người tình, người tình của anh tôi chưa từng gặp, cũng không mong muốn gặp cô ta. Tôi không ghen, ai đó chẳng có một quá khứ rối bời. Những buổi hẹn hò của chúng tôi bị vẩn đục bởi ám ảnh của những người từ quá khứ. Tôi khó có thể nói với người khác là tôi đã rất may mắn khi gặp người đàn ông có thể yêu mình đến mức hy sinh tất cả chỉ để có được mình. Người tình của mình đâu phải là người đàn ông trinh trắng, anh ta cũng đã từng như một khu giải trí công cộng, nhiều khi chúng tôi đụng mặt người tình cũ của anh còn nhiều hơn cha mẹ mình. Cuộc sống biến thiên, thay đổi, tráo trở bao nhiêu trước khi chúng tôi tìm thấy nhau, và những nỗi day dứt quá khứ mang lại khiến hiện tại cũng đau đớn không khác gì so với tương lai về sau.
Anh nói là chúng tôi cần kết hôn, kết hôn ngoài sự ràng buộc về luật pháp nó cũng có ý nghĩa lớn lao về tinh thần. Tôi thì hoài nghi hôn nhân, hôn nhân có đáng để người ta hy sinh nhiều tự do đến thế? Thực ra đôi khi có đôi chút nhầm lẫn trước khi bước vào cuộc đời nhau, anh không biết và tôi cũng không biết chỉ đến khi nào sự sai lầm ấy gây nên hậu quả thì mọi thứ bỗng trở nên rõ ràng. Cuộc hôn nhân bắt đầu từ tình yêu sét đánh của chúng tôi vô cùng mĩ mãn, không ai được phép nói về quá khứ, không ai được lôi quá khứ của người kia ra dằn vặt đó là một trong những nguyên tắc đầu tiên mà chúng tôi đặt ra trong hôn nhân. Nhưng quá khứ là thứ không thể dùng lửa mà đốt, không thể cho vào mồm nhai rồi tiêu hóa nó đi như những món ăn thông thường. Quá khứ là dấu ấn, là một dấu vết lờ mờ trong đời một con người, chỉ cần khơi dậy thì nó sẽ rõ ràng không thể che giấu. Nó nằm trong kí ức tiềm thức mỗi con người, thậm chí quá khứ có thể còn được di truyền được mã hóa đâu đó trong bộ gene con người, làm sao có thể xóa bỏ quá khứ như xé bỏ một tờ giấy kết hôn. Cuộc hôn nhân mới không thể che giấu được kí ức cũ, mọi thứ chỉ được lấp lên bởi một lớp bụi mờ thời gian và sau đó thì bùng lên như một đám sương mù mờ ảo. Mỗi khi quá khứ vùng dậy tôi lại mơ hồ cảm nhận gương mặt một người đàn ông, mùi cơ thể của anh ta khiến tôi ngây ngất sốt; mọi thứ không thể nào chỉ là một cơn mơ vì cảm giác của tôi vẫn còn nguyên vẹn, không phải là cảm giác với chồng không phải là tình yêu dành cho chồng. Chỉ là một cảm giác mơ hồ ngây ngất, một gương mặt không rõ nét, một mùi hương cơ thể không định vị được là ai vẫn ám ảnh tôi trong suốt bao năm, khiến tôi yêu nhưng không yêu, quen nhưng không quen.
Trước khi gặp Nguyễn Nguyên chồng tôi bây giờ, anh đã từng và tôi cũng biết anh có biết chuyện tôi có một người đàn ông. Người đàn ông ấy ngồi cùng tôi trước mặt anh trong một quán café Thủy Tạ lãng đãng sương, nước mấp mé dưới gầm Thủy Tạ và có tiếng Piano. Nguyễn Nguyên không hỏi, tôi không nói nhưng đó là người đàn ông tôi từng yêu và chờ đợi suốt một thời con gái, hy sinh tất cả những điều mong ước tầm thường để chờ đợi một người đàn ông ở xa mình đến nửa vòng trái đất. Đêm đó chúng tôi chờ nhau, anh vẫn là người đàn ông hấp dẫn dù không đẹp nhưng tao nhã và thông minh. Tôi nghĩ đó là một kết thúc vô cùng tốt cho sự chờ đợi, mọi thứ tuyệt vời trong một đêm không thể quên. Đôi mắt đăm đắm của người đàn ông đối diện lúc đó chỉ làm tôi thêm thích thú, tôi thích được ngắm nghía vuốt ve bằng ánh mắt, nhưng anh ta chỉ là một gã đàn ông vô vị đối với tình yêu của tôi.
Tôi vẫn mặc chiếc áo len màu tím nhạt ưa thích, vẫn đi đôi xăng-đan xỏ ngón mà năm năm trước chúng tôi gặp nhau anh đã khen xinh. Tôi đã chờ cuộc hẹn này đến bao lâu, chờ đến héo hon trái tim người con gái, chờ suốt một người đàn ông từ khi mới hai mươi lăm tuổi cho đến tận ba mươi tuổi, quanh mắt đã có nếp nhăn, môi đã không còn căng mọng nhưng trái tim vẫn thế, vẫn muốn theo về một người đàn ông của năm năm trước.
Anh về phòng, người đàn ông đối diện cũng đi theo, tôi muốn một chút hơi thở sau năm năm chờ đợi nên về phòng riêng. Khách sạn là một khu liên hợp bao gồm những khu biệt thự riêng biệt, mỗi ngôi biệt thự là một ngôi nhà dành cho những cặp tình nhân nằm rải rác xen những đồi thông. Không khí đã loãng ra sau năm năm chờ đợi đậm đặc. Một chút hoang mang sau khi uống rượu, tôi vẫn ngây ngất theo bóng dáng anh về hướng bungalow nằm cạnh lối đi, căn nhà gỗ nằm cạnh một gốc cây ngọc lan, hương thơm dịu tỏa vào cái lạnh. Tôi cố gắng hà hơi cho tỉnh rượu rồi đánh thêm chút má hồng để trông tươi tắn hơn. Cơ thể sau năm năm chờ đợi cũng nhức nhối như tình yêu tôi dành cho người đàn ông của mình, cánh cửa chỉ khép hờ tiếng nói của anh lọt qua khe cửa, trái tim tôi ngừng lại.
“Anh nhớ hai mẹ con lắm, anh sẽ về ngay sau đại hội. Yêu em nhiều!”. Sau đó là những tiếng hôn gió như những tiếng búa dội vào lồng ngực tôi.
Chỉ một phút nữa thôi là tôi sẽ được nằm trọn trong vòng tay người mình yêu. Một tiếng dập máy khô khan. Tôi nghẹn ngào không nói thêm được nữa, bên cạnh chỉ cách một ban công nhỏ cửa phòng hé mở, mùi hương ngọc lan ngây ngất khó chịu, cơ thể nhức buốt bỗng nguội lạnh. Đau đớn và thất bại não nề, tình yêu như một cơn gió nóng bỗng bật lại táp vào tôi bỏng rát. Chờ đợi, tốt nhất không nên chờ đợi!
Tôi vẫn còn ngây ngất hơi men, cánh cửa phòng khép hờ của căn bungalow bên cạnh hắt một ánh đèn vàng nhạt, tiếng dương cầm nhẹ nhàng réo rắt từ trong vang ra. Tôi muốn đánh cuộc với cuộc đời một lần. Đằng sau cánh cửa đó nếu là đàn ông tôi sẽ mua anh ta, nếu là đàn bà tôi sẽ là bạn của cô ta. Tôi đẩy cửa, căn phòng vẫn mờ mờ ảo ảo, mọi thứ như sương mù. Tôi không biết người đàn ông đó là ai, tôi chỉ muốn biết được cơ thể một người xa lạ một người không cần sự chờ đợi và không cần biết đến tôi, nếu có thể dùng tiền mua được đàn ông, tôi sẽ quy đổi năm năm chờ đợi của tôi thành tiền dùng để mua hết những gã đàn ông phụ bạc và bắt họ phải chờ đợi.
Người đàn ông có mùi thơm rất lạ, một mùi mà tôi không mong là mình sẽ được hưởng qua một đêm ngắn ngủi xa lạ. Tôi nhắm mắt cảm nhận sự run rẩy của mình, sự đau đớn của tôi tràn qua anh ta. Khuôn mặt người đàn ông đó có lẽ rất đẹp, hơi thở anh ta thơm mùi rượu quế, sống mũi anh ta cọ trên cơ thể tôi thành những đường vạch thẳng tắp. Không cần chờ đợi, không cần tình yêu tôi có thể mua được sự khoái cảm cho lần gần gũi đầu tiên, sự nhức nhối của cơ thể và cái đau đớn lặng lẽ được trộn lẫn vào nhau đem lại sự giải phóng cho tôi.
Mọi thứ là ám ảnh, tôi rút tiền trong túi và đặt xuống gối, đặt một nụ hôn nhẹ nhàng lên người đàn ông đầu tiên và chấm dứt quá khứ tình yêu với một người đàn ông xa lạ. Tôi không còn chờ gì ở tương lai, không còn ám ảnh về người đàn ông trong quá khứ, căn hộ bên cạnh của người yêu cũ sau năm năm không gặp đã khóa ngoài, có lẽ anh ta đã bỏ đi sáng nay vì không gặp tôi đêm qua như mong đợi. Tôi cũng rời khỏi nơi đó, dứt bỏ toàn bộ quá khứ ở vùng mây mù phố núi cùng người tình một đêm xa lạ mua bằng tiền.
Chồng tôi là người đàn ông tuyệt vời, quá khứ của tôi anh cũng không lật lại, người đàn ông ngồi với tôi đêm đó anh cũng cố gắng không nhắc đến. Nhưng có lẽ nỗi khắc khoải khi thỉnh thoảng trong lòng tôi day dứt về người đàn ông tôi đã từng gặp, tôi vẫn nhớ khắc khoải về người đàn ông đó, nhớ đến đau lòng. Mỗi lần tôi rơi vào tình trạng trầm cảm đó, Nguyễn Nguyên dường như còn đau đớn hơn tôi, anh kìm hãm và dồn nén cơn ghen tuông và để cho tôi một khoảng trống mênh mông dành cho nỗi nhớ.
Sau năm năm, tôi và Nguyễn Nguyên vẫn không thoát khỏi bi kịch hôn nhân như mọi cuộc hôn nhân khác, vấn đề của chúng tôi không giải quyết được. Tôi liên tục rơi vào những cơn trầm mặc dài dặc thoát khỏi tình yêu của chồng, tôi yêu Nguyễn Nguyên theo kiểu con chó nhỏ yêu ông chủ tốt bụng; vẫn trung thành nhưng không hiểu nhau. Tôi muốn một lần quay lại nơi đó, gặp người đàn ông ấy, gặp sự ám ảnh không dứt nổi để quay về làm vợ Nguyễn Nguyên một cách trọn vẹn không mang theo nỗi hối hận mơ hồ. Nếu quá khứ không dứt bỏ, tôi sẽ phải ra đi. Sự khắc khoải năm năm sau không phải là sự chờ đợi mà là một nỗi ân hận mơ hồ, nếu đêm đầu tiên đã tuyệt vời đến thế, tôi đã bỏ lỡ điều gì cho năm năm vừa qua???
Tôi bỏ đi một mình, tôi muốn thoát ra khỏi tình yêu ngột ngạt mà Nguyễn Nguyên dành cho tôi, muốn đi tìm một chút không gian cho người đàn bà năm năm cũ. Căn phòng tôi thuê là căn phòng bên cạnh, vì phòng kia luôn có người đặt. Đáng lẽ ra cái đêm đó được xảy ra ngay tại căn phòng tôi đang ở nhưng định mệnh chỉ xoay nhẹ bằng một cái nhúc nhích tôi đã bắt đầu ở phòng bênh cạnh. Vẫn sương mù ấy, vẫn mùi hương hoa ngọc lan ấy và rượu, tôi đã nốc gần hết một chai rượu vang của xứ này, rượu ngọt trong cổ làm ấm cả cơ thể khiến tôi không thể nào tự chủ được. Không khác gì năm năm trước, vẫn tiếng nhạc đó, vẫn ánh đèn màu mờ mờ đó, tôi không đi xandan xỏ ngón, tôi đi chân trần sang căn hộ liền kề bên cạnh, chỉ cần leo qua ban công rồi đặt chân xuống và đẩy cửa vào.
Khung cảnh vẫn như cũ, nhưng căn phòng không có người.
Rượu ngấm vào mạch máu, mùi hương cũ không thay đổi, tôi vùi đầu vào trong gối cảm nhận thân quen đến vô cùng.
Trong bóng đêm, một vòng tay thật ấm, một nụ hôn thật nồng nàn, một giọng nói khàn khàn.
“Em đã trở về rồi!”
Tôi vùi đầu vào lồng ngực đó, mơ màng say trong men rượu.
“Vâng, em đã trở lại”
Cơ thể anh, cơ thể dường như quen lắm, ấm áp vô cùng. Mọi thứ triền miên, không có năm năm xa cách. Anh đi vào người tôi, lặng lẽ, âu yếm và dịu dàng. Những đợt nhớ cứ ào tới rồi lại trôi đi, dội vào lồng ngực tôi thấp thỏm. Đầu anh gục trên ngực tôi như con ngựa gục trên thảm cỏ xanh thơm mát. Bàn tay miết trên môi day dứt, nước mắt tôi chảy ra, mỗi lần anh chạm vào là mỗi lần tôi nức nở. Không phải vội vàng trốn chạy, không phải đau khổ để chia tay. Một đêm thật trọn vẹn, không cần trả tiền. Tôi ngủ vùi như chưa bao giờ được ngủ, sáng rọi vào mặt, đôi môi ai da diết trên mắt, tôi ôm lấy anh vẫn chưa mở mắt, chỉ sợ giấc mơ sẽ vụt biến mất. Có gì đó quen thuộc quá.
- Anh......!!!!
- Em.......!!!!
Tôi bỏ chạy, Nguyễn Nguyên, không thể nào là anh ấy!
- Em đừng chạy nữa, đừng bỏ chạy nữa em, anh chỉ không muốn mất em thôi.
Tiếng Nguyễn Nguyên với theo đằng sau rơi tõm trong không gian.
Tôi li hôn với Nguyễn Nguyên với lí do tôi phản bội chồng và yêu người đàn ông khác. Mọi thứ diễn ra rất nhanh chóng dù Nguyễn Nguyên nói với tôi là anh ấy vẫn giữ những đồng tiền tôi để lại trên gối. Anh vẫn cất vào trong cái ngăn tủ tài liệu trên cơ quan. Tôi không thể nói với Nguyễn Nguyên là tôi yêu người đàn ông kia biết bao nhiêu, bao năm sống với anh cộng lại không bằng hai đêm đi mua và vụng trộm với chính anh.
Tôi không gặp lại Nguyễn Nguyên.
Tôi đã phản bội chồng mình với chính anh ấy! Sự tự trọng của một người đàn bà khiến tôi không thể nào quay lại được với chồng mình. Tôi hiểu ra một điều với tình yêu thì không nên phản bội dù với bất cứ ai. Cho dù tôi phản bội chồng với hình bóng đàn ông khác trong chính con người chồng mình.

Vĩ Thanh
Nàng trốn khỏi tôi sau đêm đó, tôi biết nàng cần thời gian và tôi cũng cần thời gian. Nàng trốn chạy khỏi cái đêm thất bại với người đàn ông có tấm lưng oai vệ mà tôi ghen tuông ngấm ngầm để ám ảnh về chính tôi. Bao nhiêu năm sống với nàng tôi biết nàng khắc khoải, nhưng tôi không biết là nàng khắc khoải với người đàn ông đã vô tình đón nhận được món quà của thượng đế chỉ sau một giây phút thoáng qua.
Tôi đã theo nàng, đã vờ như chạm mặt nàng một cách vô tình nhưng hoàn toàn không phải thế. Khi thấy nàng trả tiền cho đêm tình yêu, tôi đã biết là tôi không thể có ai khác, chỉ duy nhất có một người con gái mà đêm đầu tiên trong đời mình nàng đã dùng tiền để hủy hoại. Tôi chỉ không muốn đào bới quá khứ của nàng, tôi chỉ muốn nàng được sống trong tình yêu và hưởng thụ.
Và tôi biết, năm năm sau rồi nàng sẽ quay trở về, tôi sẽ mãi chờ đợi nàng trong căn nhà gỗ trong khu nghỉ dưỡng đó...
Tình yêu, không thiếu được sự chờ đợi.

L.M.D


Nỗi nhớ sương đêm



Lê Thị Kim



Anh như một kẻ lang bạt không chốn rơi
Anh như người phiêu bạt trở về không nguồn cội
Anh bất cần đời
Ngang tàn ủ rũ

Làm sao anh biết được
Đêm mưa bay gió phủ buốt đường phố
Em lang thang
Lang thang trong hành trình mộng tưởng của chính mình
Cùng nỗi nhớ anh

Trong căn nhà tối đen như những tiếng dương cầm bỏ quên
Đôi khi em ngồi ngây như tượng gỗ
Mặc bóng tối vây phủ
Mặc cả tiếng rả rích từ chiếc vòi nước cũ
Trầm mình trong tiếng dặn lòng
Hãy quên
Hãy quên
Anh làm sao biết được
Em đôi khi như một đứa trẻ
Cợt đùa hờn dỗi
Tha thẩn trong những trò chơi của mình
Nói cười cùng con tem nhỏ
Cùng những bức họa xinh
Vẫn chợt ngỡ có anh
Khói thuốc vàng tay
Lặng lẽ ngồi nhìn
Hiền như sương sớm

Ơi, mùa đông giá rét
Như tiếng hú ngoài rừng xa buốt nhức
Anh làm sao biết được
Nỗi nhớ dẫn em qua đâu
Nỗi nhớ đưa em về đâu
Nỗi nhớ có tàn như ngọn bấc lụi dầu

Ơi anh – nỗi nhớ sương đêm của em
Ơi anh – đóa hoa đầu tiên trong ngày
Dẫu có mất đi với âm u tàn lạnh
Đóa hoa với nắng hồng, với heo may
Đóa hoa ấp ủ - Em
Cùng mùa xuân
Xin đừng tan vào hư không

Thứ Hai, 3 tháng 3, 2014

Thơ Mạc Mạc









Nhà thơ Mạc Mạc.Một bút danh lạ. Một giọng thơ lạ. Nhiều sắc thái.



EM

Em là người đàn bà không có số
Trong dãy hồng nhan tiệm cận tìm anh
Họ bên anh trục tung lẫn trục hoành
Em không số nên không tọa độ

Em là người đàn bà chưa học bài dừng - đỗ
Chạy xe không phanh chở chuyến độc hành
Lùi vào đâu cho non chiều nghiêng đổ
Tiến lên đâu cho già chỗ cuộc đời

Em là người đàn bà không ngừng chờ đợi
Hứng tiếng anh rơi trĩu một mùa chài
Đan cho mình áo tháng Giêng Hai
Ngóng Ba mươi em bận ngày hội mới

Nỗi nhớ anh, bông như len rút sợi
Đàn ông ơi vời vợi thổi muôn trùng
Con chim nào ca mãi khúc thủy chung?
Con bướm nào khóc kén tằm nông nổi?

Em là ai trong luân hồi lạc lối
Anh là ai trong gian dối thế trần
Ta là nhau trong nhĩ nhàu bể khổ
Trầm luân yêu nên trễ một mùa đời

Để rồi...

Em - người đàn bà đi lượm xuân rơi
Em - người đàn bà treo tình trước ngõ
Em - người đàn bà cố thắp mình cho tỏ
Kẻo gió Đông về thổi tắt những lắt lay




RƠI CHẬM
Lòng như tiếng mõ rơi
Ngắt một đĩa đầy hoa quất trắng
Chùa hiên Đông nắng
Mắt nắng
Những nắng là nắng

Ngày như già đi
Nỗi nhớ già đi
Không vẽ nổi nét mặt nhau
đêm hoa quất
đêm duy nhất
Những ngón tay đan một trời xuân sắc

Chiều qua ngồi khóc chiếc áo len
Gió mùa khóc những thang thuốc bắc
Ấm đất hờn cơn ngằn ngặt
Làm sao chữa Bài thơ này đang ốm ? (*)

Chạy ra cánh đồng
Trồng mình thành con bù nhìn rơm
Quà quà quạ quạ
Đuổi có hết những trêu ngươi của tạo hóa?

Ngày mai lại vấn tóc soi gương mặt nước phủ Tây Hồ
Vặn lại kim giờ
Chiếc đồng hồ đã chết ở luống cúc đỏ booc đô áo anh màu ca rô xanh tím

Thêm một trầm nhang cho đượm ngày bảng lảng
Ta khói hương để khỏi chơi vơi ( * *)
Hóa vàng đi em
Hóa vàng đi em
__________________
(*) Bài thơ này đang ốm - Tên một bài thơ của Nguyễn Bình Phương
(* *) Lời bài hát : Chiều phủ Tây Hồ


TÓC

Những cơn mưa phùn rơi trên cát
Những cơn khát
Những ngọn đồi rải rác chân mây
Tôi ngồi đây
Nghĩ mãi về những điều cũ kỹ
Cũ như gương mặt anh
Nếp nhăn chẳng vằn thêm thời gian
Lũ kiến bò đi bò lại

Ở hai đầu của thực tại
Tôi nghĩ về mấy điều vụn vặt mơ hồ
Ngày mai có mất nước không?
Ngày kia có cúp điện không?
Mấy con cá để trong tủ lạnh khi rã đông ngoài dự định thì sẽ ra sao nhỉ?
Như chúng ta đây
Cứ vùi những suy nghĩ về nhau
Đông cứng! Đông cứng!

Tôi chẳng biết một nỗi buồn thì đựng trong bao nhiêu từ vựng
Ngoài bờ ao lũ xoan đào rì rào theo gió cự nự nhau
Chửi tay làm thơ dở hơi đứng khóc loài hoa gọi mời muỗi dĩn
Sầu Đông! Sầu Đông! Nàng tím đến sầu cả mùa đông?

Những nỗi buồn rét mướt
Những tin yêu mong manh ủ dột
Nếu tóc không đủ dài thì người đàn bà trong bài hát của ông Phú Quang giấu đêm vào đâu?
Khi đó chắc phải làm một con sâu
Chui lại kén gặm đêm cho đến sáng

Hay là xem loạt phim ma cà rồng hết Hừng Đông rồi Chạng Vạng
Biết đâu có con ma nào hứng lên hiện ra ban ân cho một cái ngoạm cổ
Rồi thăng hoa
Miệng sẽ rên lên sung sướng : Em Bella đây! Bella của đời anh đây!
Không thể ai ngoài anh, đúng không Edward?

Ôi! Thế là viên mãn trọn kiếp!
Và người đàn bà chẳng cần nuôi tóc để giấu đêm làm gì!






NHỚ NỐT MỘT NGƯỜI DƯNG

Đêm dán vào trần nhà
Thạch thùng chắt lưỡi đếm kỷ niệm
12h 30
Ngày…nhớ…tháng…yêu…năm…20…kiếm tìm
Bông phấn mặt trời
dặm dặm kem nền cao su lốp xe Suzuki điểm trang mặt quốc lộ
Sa mạc anh lăn tròn theo vòng bánh em
Ảo ảnh cuộc tình thách đố mái tóc tuổi đôi mươi

Thành phố đỏ rực trời, không phải hoa phượng, mà bởi khuôn mặt người
Triển lãm hình cánh diều
Niềm tin của em cong chao đảo như thiếu gió

Tổng đài di động cồn cào:
“ Thuê bao quý khách vừa gọi hiện không liên lạc được, xin quý khách vui lòng gọi lại sau”
Những ngón tay mấp máy dãy cố định
031.3456789
031.345678
031.34567
031.3456
031.345
031.34
031.3
031.
031
03
0

Đêm luồn theo kẽ tay bưng giấu mặt
Phỉnh phờ hồn biển bờ gió gọi phía sau lưng

Này,
Hạ làm giỗ hàng trăm nghìn cánh Phượng
Ngày hôm nay nhớ nốt một người dưng






NGÀY KHÔNG GIỜ

Gặp nhau nơi cầu thang
Bông hoa sứ tần ngần vàng và trắng
Gặp nhau thầm lặng
Ánh mắt ta xanh ,chén trà trong đựng màu men Ánh Hồng, em thì thầm hỏi chiếc ấm sứ Hải Dương màu ngọc rạn, vỡ rồi phải không anh?

Gặp nhau loang loang
Gặp nhau thoang thoảng
Kim đồng hồ chỉ áo anh, màu ca rô xanh tím, những chiếc cúc đỏ booc đô khúc khích cười…

Thời gian tắt lịm
Nơi nào chân không? Nơi nào tập rỗng?
Nơi những búp măng đang lớn cùng bờ môi
Nơi sống mũi thẳng, hàng mi khép và vết râu mới cạo

Gió à
Gió ơi
Gió thổi những ngọn đồi
Gọi miết man tràn hoang mạc
Sấm sét là đây
Trời Đất rùng mình
mưa hoa…mưa hoa…

Ở đâu đó, giữa phố phố nhà nhà
Chiếc đồng hồ chạy mãi giờ ca rô xanh tím…

Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2014

BỆNH LỜ MỜ





Nếu nói chung chung “dân VN có bệnh lờ mờ” thì cũng oan, nhưng phần đông là thế.

Một chị tình cờ gặp bạn, mời “ngày mai em tới nhà chơi nghe”. Là chị đãi đợt hai, con trai cưới vợ, nói hôm đám cưới đã mời cô này rồi, nhưng vẫn mời nữa «vì gặp mà không mời cũng khó coi, chắc nó không tới đâu, mà tới thì thêm một người chớ nhiêu».

Nhiều lần hỏi thăm giờ, thiên hạ trả lời rất tỉnh bơ “G giờ kém”, phải hỏi kém bao nhiêu thì họ mới trả lời chính xác. Bởi vì kém 20 hay kém 5 phút thì cũng chưa phải là 5 giờ, là “kém”, thì đúng rồi chớ gì, có nói đã hoặc hơn 5 giờ đâu?

Ở tỉnh, thấy quảng cáo ca sĩ Thành phố ra hát “duy nhất tối ngày N”, không ghi giờ, phôn hỏi thì được trả lời 8 giờ tối bắt đầu. Đến, nhân viên bảo 9 giờ mới mở cửa, hiện đang quét dọn bày biện. 9 giờ, họ bảo 10 giờ mới bắt đầu hát. Ai bảo tin làm chi!

Quảng cáo hai đội thi đá bóng trên cát, không để giờ. Chiều ngày N hăm hở đi xem đã thấy lục đục dọn dẹp, bảo xong rồi. Hỏi không ghi giờ làm sao người ta biết, trả lời ban tổ chức và hai đội bóng biết chứ. A, hóa ra là cuộc thi “không cần khán giả”! Vậy chỉ cần nói nhỏ giữa nhau nghe, cần gì giăng bảng quảng cáo?

Năm ngoái lúc hùng hổ ra chỉ thị cấm xích lô, ba gác và xe ba bánh tự chế, nhiều nơi tới giờ xích lô và xe ba gác vẫn nghễu nghệnh, chỉ khổ cho dân nhà nông xe ba bánh tự chế bị dẹp tức khắc, bởi vì cán bộ làng xã mẫn cán tuân thủ áp dụng ngay mọi chỉ thị. Nhiều nhà nông bị hư lúa vì vừa gặt xong mà không có phương tiện nào để chở về nhà thì trời mưa. Tại trời chớ tại ai.

Chị bán đậu hủ mắt láo liên vẫy khách tới chỗ xa trạm canh mới dám ngừng lại bán, than sợ bị bắt lắm, bữa trước “thấy mấy ổng” vội vàng gánh chạy té đổ hết nồi đậu hủ, hũ đường, bể mấy cái chén, lại còn bị gãy ngón chân, đau quá nên phải nghỉ mấy bữa, bữa nay phải ráng chớ không bán thì lấy gì ăn. Chị này có con gái học năm thứ hai đại học, chủ nhật và thứ hai không có lớp thì gia đình có thêm một gánh nữa.

Ở quãng trường thấy một cô bày bàn ghế, nói bán nước mía, nhưng xe phải giấu chớ đẩy chạy không kịp, khi nào có khách mới mang nước mía ra. Chẳng biết ngày nào bị bắt nên bán mà cứ nơm nớp dợm chạy. Bàn ghế dọn không kịp nên nhiều khi bị bắt mất cả triệu. Hỏi vậy làm sao sống? – « Nàm ăn để sống phải niều, nàm để chơi bời mới cứ thoải mái cô ơi». Ôi triết lý Việt Nam!

Nhưng phải liều kiểu này thì tội dân quá, làm ăn lương thiện để sống chớ phải trộm cướp gì mà liều. Đáng lẽ phải nâng đỡ dân lao động đàng hoàng mà vốn liếng chỉ tùy thuộc vào cái họ gánh trên lưng, cái họ vác mỗi ngày. Sao nhà nước không có chế độ rõ ràng, cứ để dân buôn gánh bán bưng chơi trò cút bắt. Thật ra ở các quãng trường, bãi biển… thiên hạ đi dạo thường có nhu cầu ngồi tán dốc và nhâm nhi chút đỉnh, có lẽ nên cho phép phạm vi nào nhất định được buôn bán, đánh thuế đàng hoàng, bắt phải dọn dẹp vệ sinh nghiêm chỉnh. Thay vì cứ như đùa, người bán rình rập, qua mặt nhân viên công lực, mà nhân viên công lực là đại diện nhà nước (thực ra là thanh niên xung kích), cũng cứ như đuà, tùy hứng (?) chạy một vòng bắt được ai thì “cướp” đồ nghề của họ bỏ lên xe. Đúng là “cướp”, vì người bán dằng co giật lại mà thua. Thay vì làm đạo chích, dân lương thiện phải làm cái gì tùy theo khả năng mới có sống. Rượt bắt, họ phải chạy, ngoài những phiền toái kể trên, có khi họ bỏ lại đống rác bừa bãi lung tung.

Chắc chắn là ai cũng quý người lúc lắc trên vai đôi quang gánh mà nuôi con vào đại học hơn là các đại gia lúc lắc túi tiền cho con dùng “thuốc lắc” ở các tiệm nhảy đầm. Những điều trên ghi lại từ nhiều nơi, tức chính sách chung là cấm. Nhưng cấm “lờ mờ”, tùy tiện. Căn bệnh lờ mờ này ở cấp bậc càng cao càng nguy hiểm.



Xuân Sương