Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

HÃY ĐƯA EM ĐI




Anh hãy đưa em ra bờ sông, nhìn con thuyền trôi dạt mà cứ ngỡ mình đang bay trên con nước chở nặng phù sa, như tấm lòng em chất chứa ưu phiền chỉ mong trút bỏ.

Anh hãy đưa em ra biển, nhìn sóng triều lên đập vào bờ đá tung bọt không ngừng, để tưởng nhớ tình mình phải chịu bao nhiêu bão tố vẫn chưa tới bến yêu thương sau trăm lần mớm thử.

Anh hãy đưa em lên vùng cao nguyên đầy nắng, để ngắm nhìn rừng hoa trắng nở rộ khi xuân về. Và để hớp uống từng giọt sương mù phủ vây khi chiều xuống trên cánh đồng thung lũng. Nơi đã có những trận ác chiến kinh hồn và những cơn mưa ào ạt cuốn trôi bao mái nhà bao vết máu, để tưởng thương những người đã khuất chưa một lần may mắn biết hương vị tình yêu.

Anh hãy đưa em tới ngọn đồi phủ đầy hoa anh đào, để nhìn những cặp tình nhân đang dắt tay nhau đón nhận từng cánh hoa đỏ hồng rơi rụng trên vai trên tóc. Em sẽ nhìn từng khuôn mặt rạng rỡ để thấu nghiệm thế nào là màu nhiệm của tình yêu.

Anh hãy đưa em đến vùng sa mạc khô cằn, nơi có những đụn cát mênh mông chồng chất lên nhau như nhiều ngọn núi để em thấy mình bé nhỏ. Đêm đến em sẽ ngước mắt nhìn trời tìm những vì sao. Em sẽ tìm ngôi sao bổn mạng để gặng hỏi tại vì đâu mà duyên số em bẽ bàng cuộc đời em cay nghiệt, sống bấy nhiêu tuổi đời mà chưa biết được hạnh phúc yêu thương.

Anh hãy đưa em về quê hương về miền phù sa châu thổ để em chắp cánh lên cao như đàn cò trắng bay lượn hữu tình. Và hãy đưa em đến một hải đảo xa vắng bóng người để em chôn vùi kỷ niệm đớn đau trong lòng biển cả và dâng hồn mình cho sóng nước. Em sẽ sống những ngày cuối cùng với hoa cỏ chim muông. Hương hồn em sẽ dâng cho muôn vàn tinh tú, hóa kiếp thành những hạt bụi để hòa nhập vào vũ trụ của em và anh.

Anh, hãy nhớ nghe anh. Hãy đưa em đi…Hãy đưa em đến…



Lê Miên Khương


Thơ Apollinaire



Sables mouvants

Démons et merveilles
Vents et marées
Au loin déjà la mer s'est retirée



Démons et merveilles
Vents et marées
Et toi
Comme une algue doucement carressée par le vent
Dans les sables du lit tu remues en rêvant



Démons et merveilles
Vents et marées
Au loin déjà la mer s'est retirée
Mais dans tes yeux entrouverts
Deux petites vagues sont restées



Démons et merveilles
Vents et marées
Deux petites vagues pour me noyer.

G. Apollinaire



Cát dưới chân


Quỉ dữ và thánh thần
Gió lên, thủy triều xuống
Xa kia, biển lùi dần

Quỉ dữ và thánh thần
Gió lên, thủy triều xuống
Còn em
như cọng rong
gió vuốt ve
em ngủ
một giấc mê,
cựa mình trên nệm cát

Quỉ dữ và thánh thần
Gió lên, thủy triều xuống
Xa kia, biển lùi dần
Nhưng trong đôi mắt em hé mở
hai con sóng nhỏ
không đi vẫn ở

Quỉ dữ và thánh thần
Gió lên, thủy triều xuống
hai con sóng còn đó,
để dìm anh,
chết đuối một đời.



Nam Dao chuyển ngữ 





Thằng “chúa chổm”





Từ Sâm


Công ty tôi có thằng bạn tên Phú, nó cùng phòng với tôi, ra trường cùng khóa nhưng khác nghành. Sở dĩ tôi hay gọi nó là Phú “chổm” vì khi nào cũng kêu nợ. Vợ chồng hắn và vợ chồng tôi khá thân thiết. Chả là, cách đây hai chục năm cơ quan bên vợ tôi phân cho căn buồng chừng mười lăm mét vuông, vừa ờ vừa nuôi heo, còn vợ chồng hắn ở hành lang của công ty, đặt vừa cái giường mét hai. Hai nhà cách nhau chừng năm phân vách liếp, xin tí nước mắm chỉ thò tay qua cửa sổ là xong. Khi đi công tác, tôi chỉ thò tay qua lỗ thủng mà bắt tay tạm biệt, tiết kiệm thời gian và công sức cho cả hai bên.

Mấy năm chắt bóp nuôi gà, vợ tôi có dăm ba phân gọi là của để dành. Hăm chín tết, khi làm vài ly “rượu có chấm chút thuốc rầy cho mau say”, nó dắt tôi ra bãi cát Bình Tân, nơi khỏi trả tiền nước vệ sinh và hưởng cái thú ỉa đồng cách Nha Trang chừng dăm cây số. Nó chỉ tay về phía bắc, “tao định ẵm chỗ này”, tôi hỏi “bao nhiêu mét vuông”, “mấy trăm mét cũng vô tư”, nó trả lời. Một lúc phân vân nó bảo tôi “cho tao mượn năm phân nhé, tao có năm phân rồi, hết một chỉ cả thảy”, “mua đất thì tao ủng hộ liền, giúp nhau lúc khó khăn mới là bạn”. Tay chém gió quyết đoán nhưng tôi cũng hơi bị lo, sợ vợ không đồng ý thì quyết định của mình mất hiệu lực. Vợ hắn điều chỉnh âm lượng thế nào mà vợ tôi mau mắn rút nhẫn ra khỏi ngón tay phân gà (vì đang lấy trứng) tròng vào ngón tay vợ nó đen thui (vừa đi cân heo về chưa kịp rửa).

Hắn sở hữu bãi sa mạc chừng năm trăm mét vuông đầy xương rồng và mảnh bom. Hắn đào giếng, nuôi heo, nuôi gà, trồng rau. Vợ hắn là nhà nông chính hiệu, quần xắn tận bẹn, cặp đùi ăn nắng màu da bò. Rửa chuồng xong, phăm phăm đạp xe chở mùn cưa, có người nhắc mới dừng xe xỏa quần, không thì thôi. Ai cười mặc kệ, kiếm cái ăn đã, đẹp mà đói cũng vứt. Trời thương vợ chồng hắn chăm chỉ, heo không bệnh, gà không dịch, vườn đầy trái. Chưa đầy năm, vợ hắn tròng ngón tay vợ tôi chiếc nhẫn, “xong nợ khỏe người”, rồi thở thượt một cái.

Tôi nhắc lại câu “giúp nhau lúc khó khăn mới là bạn”, “tao cũng nghĩ như mày”, nó lấy tay chém gió giống tôi.

Mấy năm sau, gía đất lên nhanh hơn gía đậu, hắn thành người giàu có. Anh ruột nó từ quê vào. Tôi được nhờ chở đi vòng thành phố, khi chuyện len tới thằng Phú, tôi thán phục “thằng Phú nhìn xa trông rộng, đất thành vàng cả rồi, mấy chục cây không chừng, ngoài mình có ai giàu rứa không”. “Nghe vợ chồng chú than nợ mua đất chưa trả hết. Định mượn chú ít tiền về mua con heo giống nhưng chú cũng ngặt nên tui chơi vài ba ngày rồi về. May là hôm vào đi nhờ xe người trong làng”, anh xuống giọng trầm buồn.

Tôi mở miệng đính chính nhưng kịp sờ tốp vì chuyện nhà người ta không nên chen vào.

Thỉnh thoảng, tôi hay ghé nhà nó kiếm trái cà chua ăn sống chấm mắm ớt. Vợ nó sau khi quản lý và xuất chuồng mấy chục con heo thịt, có tiền tươi, chia tay nghề nông, vào công ty thuốc lá, chúng tôi gọi đùa là “công ty nhang khói”. Vợ hắn khoe “em mua chiếc xe cup 89 đi làm, giá hai cây tư, mời anh tới nhà rửa xe”. Tôi đến chúc mừng. Tay nâng ly bia “lên cơn”, Phú nói trong đám tiệc “mua thì mua mà nợ cứ nợ”. Mọi người ai cũng tin nhưng tôi thì không. Chiếc xe là kết quả hắn cắt xéo miếng đất cho vuông vắn, hàng rào dời có vết cọc, tôi lạ gì.

Tôi mở miệng đính chính nhưng kịp sờ tốp vì chuyện nhà người ta không nên chen vào.

Làm cả đời không bằng trời thương. Hắn chuyển qua công ty vận tải viễn dương. Chuyên đánh quả hàng chợ, đi Singapore một lời ba, đi Nhật một lời bảy. Người hút thuốc ngày càng nhiều thì “công ty nhang khói” càng nở ra, càng phát đạt, vợ hắn lĩnh lương mua một lần mấy chỉ. Chưa qua hai lần “chúc mừng năm mới”, hắn ẵm về con Rim gần tám cây vàng. Rửa xe, hắn nâng cấp chiêu đãi lên nhà hàng. Nâng ly bia Hê ni ken, hắn tuyên bố “mua thì mua nợ cứ nợ”. Mọi người phục lăn “thằng này giỏi, dám nợ mới sắm được của”.

Nó có thằng bạn thân cùng học cấp ba, nghe nói củ khoai sống ăn cắp cũng chia đôi. Bạn nó là giáo viên đại học ngành chài lưới, muốn vay nó vài chỉ mua chiếc cối 79, là xe bãi rác từ Nhật tha về (ai đời thầy thiếu ăn gầy như que củi đạp xe ngược gió hơn chục cây số đến nhà hắn mà miệng vẫn mỉm cười thì thật là yêu nghề). Nhưng nghe nó nói mua xe nợ, thầy tiu nghỉu ra về, chiếc xe đạp bó lốp như băng cánh tay bị thương, dắt bộ hơn trăm mét thầy mới lên yên.

Tôi định mở miệng đính chính với thầy nhưng kịp sờ tốp vì chuyện nhà người ta không nên chen vào.

Tiền nhà giàu đẻ nhanh hơn gà đẻ trứng, dây chuyền chồng chéo trên cổ, nhẫn vàng nhẫn bạc chi chít ngón tay. Kinh doanh mở rộng, buôn có bạn, bán có phường, vợ nó bắt đầu làm ăn với dân buôn ngoài chợ.

Chưa đến kỳ thôi nôi con Rim, cả xóm ngạc nhiên thấy hắn cúng kiếng ngoài cổng từ tờ mờ sáng, vài hôm sau đá gạch ấm ầm đổ về. Nó xây nhà mới. Nhà biệt thự ba tầng to vật vã. Lại có dịp gặp nhau. Ngoài bạn bè nghèo kiết xác như tôi mừng phích Trung Quốc, nhiều người lạ mặt đến bằng xe hơi, khệ nệ bưng đồ.

Lần này hắn nâng ly bằng rượu tây và y sao bản chính “nhà có đó, nợ có đó, nhà to, nợ nặng”. Người bà con bên vợ ghé chơi định vay tiền mua chiếc xe đạp cũ cho con gái dạy thêm để phụ tiền trọ, nghe vậy, im lặng ra về như dơi bay.

Tôi định mở miệng đính chính nhưng kịp sờ tốp vì chuyện nhà người ta không nên chen vào.
Tết chưa giáp lai, thấy hắn ngồi trên con bốn bánh chạy lui chạy tới trước khu tập thể, nó bấm còi báo hiệu, nhóm bạn ăn theo xe mới ngồi kín chỗ. Hắn chạy ra Bãi Tiên, nơi cởi truồng miễn phí, cách Nha Trang mười mấy cây, gió mát từ trên mát xuống, từ ngoài mát vào. Hắn nhấn cho bõ ga, vừa nhấn vừa hát “chưa có bao giờ đẹp như hôm nay..., chưa có lúc nào ta uống mà say”.

Lần này nâng ly rượu có pha mật gấu, như băng thu sẵn phát ra từ miệng, nó dõng dạc “mua thì mua nợ cứ nợ”.

Tôi định mở miệng đính chính nhưng kịp sờ tốp vì chuyện nhà người ta không nên chen vào.
Báo ra ngày thứ năm trên trang nhất có đăng tin “vụ vỡ nợ mấy chục tỉ đồng”, trong đó có tên vợ thằng Phú.

Từ đó, thấy bạn bè là nó tránh mặt.



Nha trang thu 2011

Thế giới siêu thực trong “Ngụ ngôn của người đãng trí” của Ngô Kha



PHẠM THỊ ANH NGA


Tiếp xúc với trường ca “Ngụ ngôn của người đãng trí” (1969) của Ngô Kha, bên cạnh sự khâm phục và ít nhiều đồng cảm, người đọc dễ dàng có cảm giác từng bước lạc vào một mê cung rối rắm, một thế giới lạ lùng tựa như mê hồn trận, đan xen giữa thực và mơ, hiện thực và ảo giác. Trường ca “Ngụ ngôn…” khá dài, gồm tất cả 788 câu thơ. Ngoại trừ sự phân chia thành tám trường đoạn, được đánh số La Mã (từ I đến VIII) nhưng không có nhan đề riêng, độc giả không tìm được ở đâu một dấu hiệu hay mốc cụ thể nào hầu có thể bấu víu vào mà giải mã: hầu hết các câu thơ đều không có dấu chấm câu, chữ đầu câu không viết hoa, câu từ nối kết với nhau như xâu chuỗi và những hình ảnh, câu chuyện dường như núm níu nhau một cách lạ lùng nhưng liền mạch.

Vận những đặc trưng của thơ siêu thực như đã được André Breton định nghĩa năm 1924 vào việc quan sát “Ngụ ngôn…”, có thể nhận ra trong suốt chiều dài của bản trường ca sự hiện diện ở nhiều chiều kích của thơ siêu thực, và điều này phần nào giúp chúng ta tìm được cho mình một mạch đọc tương thích với bản trường ca.

Chủ nghĩa siêu thực (Surréalisme) là một trường phái nghệ thuật cách tân phát triển ở Pháp vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến của thế kỷ 20, mà nhà thơ André Breton là người đề xướng và giương ngọn cờ đầu. Nhà thơ Guillaume Apollinaire đặt tên cho trường phái mới đó là “siêu thực”, và chủ trương của nó thì được A.Breton nêu rõ trong “Tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực” (1924). Theo đó, lời nói, văn bản hay một hình thức thể hiện nào khác cũng đều phản ánh quá trình hoạt động thực sự của tư duy. Tư duy thế nào thì thể hiện ra thế ấy, mà lý trí không hề kiểm soát hay can thiệp, cũng như không có bất kỳ mối quan tâm nào về mặt mỹ quan hay đạo lý. Dấu hiệu để nhận biếtthơ siêu thực là lối viết tự động, những hình ảnh vụt lóe lên bất ngờ, từ ngữ va đập nhau một cách sáng tạo, những kết hợp ngôn từ quái lạ… Trào lưu nghệ thuật này tập hợp không chỉ những nhà thơ, mà cả các họa sĩ cùng thời. Trong các họa phẩm của họ, hiện thực và giấc mơ được đặt chồng lên nhau, đan xen lấy nhau với nhiều hình ảnh bất ngờ, đáng kinh ngạc về thực tại.

Xem xét “Ngụ ngôn…”, có thể thấy trường ca này thể hiện rất rõ nhiều đặc trưng của thơ siêu thực, tập trung vào hai mảng chính là sự khước từ thực tại và tính lô-gic, và sự hiện diện của những giấc mơ, của vô thức và trí tưởng tượng.

1. Sự khước từ thực tại và tính lô-gic

Trong “Ngụ ngôn…”, thực tại chỉ thi thoảng hiện ra và len, lẫn giữa muôn vàn những ngôn từ, câu cú, hình ảnh kỳ dị, những liên tưởng bí ẩn và xâu chuỗi lạ lùng khiến nó ít nhiều bị che lấp.

Từ “nét mặt hiền hòa bất động của em” là một chi tiết thuộc về thực tại, đến “tôi thấy nốt ruồi son chói lọi” dường như đã là một sự vượt thoát, để sau đó những hình ảnh tiếp theo lại hiện ra như trong giấc chiêm bao huyền ảo, thậm chí kỳ quặc:

trên nét mặt hiền hòa bất động của em
tôi thấy nốt ruồi son chói lọi
tiếng chim sành hót trong tiềm thức người say rượu
vỏ cây nứt một loài hoa vô sắc (c.79-82)

Những hành động, sự kiện tưởng như bình thường trong dòng tự sự cũng đã thoát ra khỏi khung cảnh thực tại và có vẻ phi lô-gic:

người say rượu cắm hoa immortel lên vết thương
và vết thương nẩy lộc
trong tấm áo cỏ khô mùa hạ
người say rượu đắp bùn lên trái tim (c.68-71)

Rất nhiều những hành động dị kỳ, những hình ảnh dị kỳ, đặc biệt là nhiều trường hợp ngôn từ và hình ảnh được kết hợp một cách bất ngờ, tạo nên hiệu ứng và sức hút bí ẩn:

người say rượu uống nhựa thông nằm chết tình cờ (c.85)
người say rượu uống hỏa châu
đội mũ triều thiên
người say rượu bước vào công viên dã tràng
mây hồng hoang mở ngõ

giữa khu rừng mộng mị của người thiếu nữ da đen (c.30-34)
Cách sử dụng ngôn từ bằng cách đặt cạnh nhau những từ ngữ tưởng chừng như rất “chỏi” nhau, không thể nào tương thích cũng là đặc trưng của thơ siêu thực. Bởi câu thơ không còn tuân thủ những lề luật cứng nhắc mà được chính mạch suy tư, cảm quan của nhà thơ vạch đường, gợi ra thành những xâu chuỗi ngôn từ, hình ảnh đầy ấn tượng (“tuyết đen”, “những dòng chữ chảy từng hàng não sống”, “khoảng vô hình nhìn tôi”…):

mùa hè có tuyết đen tuyệt đẹp (c.74)

tôi hay nói chuyện về những dòng chữ ngụ ngôn
những dòng chữ chảy từng hàng não sống
trên chiếc máy in hùng hồn của thác nước
những dòng chữ khai sinh (c.99-102)

tuổi thơ của tôi
chỉ là những đốt xương trắng (c.145-146)

tôi bẻ nhánh xương rồng quơ lên hư không
người con gái ho khúc khắc rất đau đớn
tôi chạy theo cánh sao cỏ mùa
người con gái biến đi mất
bây giờ chỉ còn sa mạc
và khoảng vô hình nhìn tôi vĩnh viễn (c.155-160)

Bản thân nhà thơ cũng phân thân thành hai, ba thực thể, nhân vật: không chỉ ở chỗ vừa là “tôi” vừa là “người đãng trí”, và vừa là “người say rượu” hay “đứa con trai”…, mà những nhân vật được tách chiết ra từ chính nhà thơ cũng tiếp xúc, đối thoại với nhau, tương tác với nhau như thể đang cùng tồn tại trong một thế giới huyền thoại nào đó:

Bây giờ tôi mang hoa đến dòng sông
đọc diễn văn truy tặng người đãng trí (c.1-2)

tôi và người say rượu hát bài ngụ ngôn (c.20)

tôi cầm tay người say rượu nói về trái đam mê (c.43)
người say rượu cầm tay đứa con trai
gọi tên ngày ra đời
đứa con trai giằng co với người say rượu
cả hai đi khỏi vùng ảnh hưởng của dòng sông (c.50-53)

tôi vụt chạy bỏ linh hồn ở đó
không có đứa con gái, đứa con trai, người say rượu
chỉ có quả gấc hồng hào rực ánh lửa chiến tranh (c.75-77)

Bản thân “tôi” cũng có thể là hai thực thể tách lìa:

tôi bỏ một mình tôi ở lại (c.110
)

tôi đuổi bắt tôi
chập chờn cơn ác mộng (c.149-150)


Không - thời gian cũng không còn đơn thuần của thực tại mà được bóc tách thành không - thời gian của hiện thực và không - thời gian của ảo giác. Ở đó con người dịch chuyển qua lại dễ dàng giữa không - thời gian thực tại và không - thời gian huyền ảo:

cây đàn thủy tinh chở tôi qua dãy núi
đi thăm kỷ niệm (c.123-124)

tôi cỡi lạc đà qua rừng gió (c.126)

tôi biền biệt trôi đi
trong hoàng hà tĩnh vật (c.219-220)

Và cùng với hiện tại, trái với lẽ thường, còn có sự đồng hiện của tương lai và quá khứ, ở đó thực tại của hiện tại và thực tại của tương lai và của quá khứ hòa lẫn vào nhau như trong giấc chiêm bao hay trong trí tưởng tượng:

người say rượu hát bài trần tấu kẻ bán than
những tiếng trầm dấu tích thời đá cũ (c.40-41)

chiều đóng cổng giam cầm năm đứa con trai
trong khu vườn tiền sử (c.44-45)

dòng sông đen bắc cầu qua núi
với con voi ngà thời thượng cổ
hai chiếc sừng tráng lệ (c.242-244)

mạch đất quê hương giờ lạnh rồi
sao mắt mẹ còn mở
sách trên án thư cũng ngủ khuây
nhưng hồn mẹ vẫn thao thức
con đã đi bao năm
mẹ không rời ngưỡng cửa
và nay
gió cũng tang bồng
nhưng thi sĩ vẫn nằm yên trong nhà tù vĩnh cửu. (c.780-788)

2. Sự hiện diện của những giấc mơ, của vô thức và trí tưởng tượng

Câu thơ nối câu thơ, từ nối từ như tuôn chảy từ một mạch nguồn vô tận những ngôn từ, hình ảnh, từ ảo mộng đa chiều, đa sắc màu, đa hình tượng và lung linh huyền thoại, là cái bóng hắt trực tiếp từ thế giới vô thức của một kẻ mộng du hay người bị thôi miên. Và ở đó lý trí, tính lô-gic thông thường hoàn toàn vắng bóng:

nhà mọi người giờ nầy đã úp mái
chỉ có bầy gà hoang đẻ trứng vàng trên tàng cau (c.111-112)

ôi hỏa mù và trái sáng
cơn mưa hồng trên thịt da người
đêm đêm căn phần đóng ngõ
chỉ có khúc ai từ mọc trên cánh đồng quê (c.266-269)

con sư tử đá nửa khuya thức dậy khoác áo ngũ hành
đi thăm miền tĩnh vật (c.394-395)

người hành khất già nua
trên cằm mang một chùm sao Bắc đẩu (c.555-556)

nước mắt chỉ là vị cường toan
phòng thí nghiệm chiến tranh chứa đầy thức ăn
cho người yếm thế (c.620-622)

nếu bể không có những đứa con ngang tàng

như con sao biển đã đi qua nhiều đại lục
nếu bóng tối chẳng hiểu gì
tiểu sử về mái tóc em
thì quả đồng hồ
chỉ là một trái cam
dành cho người bệnh
thôi
em hãy châm lửa đâm mù mắt tôi
xin đừng căng dây đàn trái đất nầy (c.714-723)

tôi chỉ còn hồn tôi trong gió lốc cuồng si
với vần thơ hoang đường cưu mang nhục thể
như khúc hát độc huyền của kẻ câm
xin đừng trách tôi là người phù thủy (c.760-763)


tôi đi qua khu rừng không dấu tích
ba vành khăn tang lơ lửng ngó cành cây
dòng sông đen bắc cầu qua núi
với con voi ngà thời thượng cổ
hai chiếc sừng tráng lệ
và hai chiếc lưỡi lê
tôi bước xuống tầng cấp cuối cùng
cơn say đã thức dậy
không thấy nàng thơ khổ hạnh
chỉ có người con gái cài trâm lên đầu cho giấc mơ (c.240-249)


Không còn những rào cản của lề luật thi ca, những câu thơ trở nên tiếng nói bộc bạch của giấc mơ, trí tưởng tượng, của hoang tưởng, của giấc chiêm bao mộng mị mà chính nhà thơ cũng phần nào ý thức:

giữa khu rừng mộng mị của người thiếu nữ da đen (c.34)

người con gái mộng mị chiến tranh (c.57)

thời khắc dài như đường bay ác mộng (c.150)

tôi đuổi bắt tôi
chập chờn cơn ác mộng (c.149-150)

tôi ăn quả trứng vàng mộng mị (c.185)

giữa tuần trăng
cây sầu đông bỏ lại
cơn mộng du của người đãng trí dưới mưa rào (c.222-224)


Ở đó thực tại thi thoảng lại vụt lóe lên (“chiếc nhẫn hỏi không còn”, “chiếc nhẫn cưới bay mất”, “tôi không còn cuộc hôn nhân kỳ dị”):

cơn hạn hán dẫn tôi đi khỏi vùng cấm địa này
chiếc nhẫn hỏi không còn
người con gái móc mắt tôi ném xuống hồ thủy ngân (c.170-172)

con đà điểu cắp cánh tay người yêu tôi đi
chiếc nhẫn cưới bay mất
tôi không còn cuộc hôn nhân kỳ dị
người con gái đâm mù mắt tôi
bằng hai quả trứng vàng (c.180-184)


cuộc hôn phối đa đoan của đời mình (c.712)

… hay thấp thoáng mơ hồ nhưng đoán định được (“cánh tay người yêu tôi đã xây mộ phần”):

cuộc giang hồ có ngàn lần ái ân
nhưng con đà điểu đã che mất huyền thoại
cánh tay người yêu tôi đã xây mộ phần
con đà điểu đập cánh ăn năn
nỗi vô vọng hồi sinh trong gió (c.190-194)

3. Cái chết, nỗi ám ảnh khôn nguôi

Trong dòng tuôn chảy liền mạch của ngôn từ và ý tưởng, với những liên tưởng lạ lùng và bất ngờ đó, hình ảnh cái chết cứ khi ẩn khi hiện, trở tới trở lui và rải khắp trong suốt chiều dài của bản trường ca. Những từ “chết”, “cái chết”, “tử thần” và những ngôn từ liên quan xuất hiện tương đối dày trong bản trường ca lột tả được nỗi ám ảnh thường trực về cái chết, những âu lo sâu kín và liên tưởng mộng mị từ trong vô thức của nhà thơ.

Từ “chết” xuất hiện khá nhiều, phần lớn tập trung ở nửa sau bản trường ca:

người say rượu uống nhựa thông nằm chết tình cờ (c.85)
tấm bảng chỉ đường có hình con ngựa ô
mang tên em nằm chết trên bụi cỏ (c.236-237)

đứa con trai khoác áo chim hồng bay qua đỉnh núi
với cái chết từ bi như thạch cao (c.313-314)

tình yêu là xác chết (c.383)

bây giờ em chết đi (c.421)

tôi sẽ chết như mùa đông trút lá cây hờn tủi (c.431)

nhiều cô gái ẩn ức đã chết đi (c.488)

Trong mỹ từ của người đã chết
người đang chết
và những người sắp đi vào cõi chết (c.582-584)

tổ tiên ta chết đi làm phân bón (c.592)

tự sát bằng cô đơn nên chẳng bao giờ chết (c.600)
người lính bồng súng chào cái chết của một ngày (c.619)
kiểm điểm chuyện thần thoại của bể dâu
bao nhiêu trùng dương đã chết rồi (c.650-651)

cái chết lạc quan không được mọi người nhắc nhở (c.704)

Về những từ ngữ khác liên quan đến cái chết, nếu cụm từ “đoàn tử tù” được nhắc đi nhắc lại đến 14 lần trong trường đoạn VII (c.479-586 (*)), thì những từ ngữ còn lại (“truy tặng”, “chúc thư”, “tuẫn tiết”, “chiến tranh”, “tử thần”, mộ phần”, “tử thi”, “vành khăn tang”, “căn phần”…) đã xuất hiện từ những câu thơ đầu tiên và trải dài trong suốt bản trường ca:

Bây giờ tôi mang hoa đến dòng sông
đọc diễn văn truy tặng người đãng trí (c.1-2)

tôi đếm dấu chân nai trên bản chúc thư tình yêu (c.8)

tiếng dương cầm của hoa lài
tuẫn tiết (c.48-49)

người đàn bà ngồi trên công viên
tay cầm con sư tử đá
ra lệnh chiến tranh
cơn say đến giáp mặt tử thần (c.63-66)

người con gái lặng im nghe chúc thư (c.88)

cánh tay người yêu tôi đã xây mộ phần (c.192)

bầy quạ vàng là tử thi của hai người bạn (c.204)

tôi đi qua khu rừng không dấu tích
ba vành khăn tang lơ lửng ngó cành cây (c.240-241)

đêm đêm căn phần đóng ngõ
chỉ có khúc ai từ mọc trên cánh đồng quê (c.268-269)

cỏ còn xanh như ánh mắt tử thần
nhạc giáo đường trôi trên thi thể của hoàng hôn
của hư vô của niềm tuyệt vọng cháy sáng (c.290-291)


con muỗi mắt tuyệt mệnh trên cánh hoa phù dung (c.306)

tôi lớn lên để tiễn đưa bạn bè từ giã cuộc sống (c.310)
bốn bức tường tuyệt mệnh chôn vùi vết chân chim
khi trăng non rụng trên tấm hình hài rã mục

em ôm vành khăn tang
cúi đầu làm người con gái Việt Nam (c.316-319)

tên em trên tảng bia (c.341)
đêm đêm
tiếng chó tru linh hồn (c.371-372)

có ai gọi hồn trong tiếng hú khuya (c.379)
những nến trắng tiễn chân người chiến sĩ về hư vô (c.401)
nấm đất ải khô dành riêng cho bè bạn
nhỡ mai nầy từ giã cuộc đời
với bàn tay vôi đá… (c.405-407)

tiếng trống não nùng vang động bờ vĩnh cửu
mưa đá nhẹ nhàng rơi vào cõi vô biên (c.563-564)


nhạc giáo đường đưa vòng hoa tiễn chân (c.597)

trên con tàu của người tử tội (c.607)

hằng đêm thèm tự sát (c.610)

những con sông chảy qua cánh đồng mang thây người (c.612)
hai mươi bốn giờ đi qua những tử thi còn mở mắt
có những người lính âm thầm đưa chân dung mình đến huyệt (c.616)


than đá thao thức đọc kinh cầu nguyện
cho những người khuất mặt (c.639-640)

mắt hư vô lạc vào khu nghĩa địa
con chó sói sợ hãi linh hồn trên đọt cây (c.663-664)

trên cánh đồng không có hoa
không có người
chỉ có chim ác là đậu trên những đốt xương (c.674-676)

mặt trời thổ huyết giữa rạng đông
chiếc xe tang chở cánh sao ban mai vĩnh biệt (c.684-685)

ngày ngày mặt trời giết ta
bằng con dao tự sát của hoàng hôn (c.691-692)

tên mọi người đã ghi vào viên đạn
quê hương lầm than chỉ có chiến tranh (c.697-698)

làn nước bạc kia chỉ là con dao của người tự sát
đã bỏ quên (c.746-747)

v.v..

Và cứ thế, những u uẩn bên trong vô thức, những giấc mơ, ảo giác và những ám ảnh nối nhau hiển lộ trong bản trường ca của nhà thơ, một người đãng trí tự nguyện, có chủ ý, trước những bế tắc của vận nước và tình riêng mà chính mình chưa tìm ra lối thoát.



*

Với trường ca “Ngụ ngôn…”, đọc và thử giải mã nó trước nay vẫn là một thách đố cam go, một thử thách không dễ gì vượt nổi. Như trước một trận đồ bát quái, mỗi người tự vạch lối đi cho chính mình. Nếu đối với nhà thơ siêu thực, bài thơ là kết quả của một cách viết tự động, của sự tuôn trào liền mạch do tư duy trực tiếp sai khiến, điều khiển, thì với người đọc, lần tìm dấu vết những mạch ý tưởng đó là một quá trình nhẫn nại mày mò nhằm nhận diện, bóc tách, tập hợp… đầy gian nan và run rủi.

Vạch được một lối đi trong thế giới hỗn mang đó, dù một cách mơ hồ, cũng đã là bước đầu khám phá, thấu thị, dẫu có khi đó chỉ tuyền là ảo ảnh.

Nhưng ngay trong cuộc đời này, giữa thật và ảo, giữa thực và mơ, có phải bao giờ cũng có thể tách bạch, rạch ròi… Và có phải bao giờ cũng cần phải thế hay không.



P.T.A.N.

------------------------------------------

(*) Cụ thể là các câu thơ 479, 482, 501, 511, 518, 551, 560, 562, 565, 566, 575, 576, 585, 586.

Nỗi buồn trong đêm Đông tịch liêu



Một đêm ưu tư ta lại tìm đến những cảnh vật ngoài kia
Cơn gió ngoài hiên lại làm lòng ta man mác nỗi buồn...



Ta chường người dậy cùng thức với đêm tối, ánh sáng phố u ngoan kia lại lòe lên trong mờ ảo. Ta lại cặm cụi ngồi thơ thẩn. Những cảm xúc trong đầu cứ mờ mờ - ảo ảo, đã nhiều lần ta cũng thế. Nhưng sao, lần này nó khác quá... nó kèm theo tiếng nhịp đập của con tim, tiếng máy quạt thổi vù vù lạnh đến thoắt người vì... ta mới từ phòng tắm bước ra. Nhưng ta vẫn cố cầm cự không muốn tắt, cho đến khi chai lì cái lạnh mới thôi! Cảm xúc trong đầu ta lại cứ thế, hoảng loạn và hoạt động như một cổ máy sắp bị hư hỏng. Ta lại cảm thấy mình trơ trụi quá, nghĩ và suy... toàn những câu chuyện buồn! Không đổi lấy một niềm vui nào cho riêng bản thân, cứ như... ta là người đau đớn và đầy sự chông chênh nhất vậy. Tuyệt vọng không một lối thoát - mà cũng gần như vậy rồi, còn gì?

Phải chăng? Ta đã sống vì nỗi buồn không thể thiếu nữa rồi, ta lại nhớ - lại trông - lại mong những điều không bao giờ đến, rồi ta lại buồn... ta suy tư với vẻ sầu thảm - chỉ mình ta biết thôi. Ta cố gắng, hướng mắt ra nhìn ngoài kia, phố đêm u buồn cùng tiếng rên rĩ trong con tim của ta, lại thoi thúc nhiều sự cô liêu.



Ta gửi gì đây cho gió ngoài kia, để ru lòng ta được nhẹ nhõm trong đêm đông se lạnh kèm theo sự cô đơn. Ta lại thế nữa rồi, lại trở về với cái không gian ảm đạm - giữa phố đêm "tịch liêu", gió kia... lại thổi mạnh rét buốt, cuống trôi đi hạt bụi li ti ngoài kia. Nhưng nỗi buồn của ta, vẫn còn đó. Không bay bỗng giữa thinh không nữa, cũng không luốn cuốn chạy theo gió... đơn giản là vì ta muốn ngồi suy tư cho chính ta lúc này

Ta cảm thấy rằng, mọi thứ lại càng trở nên hoảng loạn, càng xa vời. Và... nhiều rối bời, một phút lại thêm một chút ồn ào... cứ mỗi phút, con tim ta lại cồn cào những hổn độn kia. Ta như người đang chết trong một đống hoang tàn của tâm hồn rũ rượi. Nhưng... ta vẫn không giữ được sự "thinh lặng" dù cho có chết đi, tiếng ồn vẫn dai dẵng mãi cùng với biết bao nỗi đau khó tả?



Ta cố gắng đứng trước gương, im lặng và cố nhìn mình thật lâu qua đó - cái bản sao vừa thật vừa ảo... để rồi, ta cảm thấy một điều rằng - ta đã khác, ta thay đổi quá nhiều với cái ta của lúc trước! Mỗi sự việc trôi qua, ta lại thêm một vết hằn trên mi, lần này nhiều sự việc đến hơn nữa. Thì... ta chỉ có thêm một chút những vết hằn hơn trước, chắc... sẽ không sao đâu? Chỉ có thể... ta không nhận ra mình một chút thôi! Thân xác ta cũng từ đó, lại hoang tàn một cách nhanh chống hòa lẫn với biết bao cảm giác thiếu hụt kia - một cảm giác rai rứt đến bấn loạn.

Tiếng âm thanh của từng mảnh vỡ rơi xuống - lại lần nữa ta không kiểm soát được mình mà đập vỡ mọi thứ xung quanh, trong đó... có chiếc gương ta đang soi! Bởi lẽ, ta không muốn nhìn thấy ta ngay lúc này nữa - khuôn mặt lạnh tanh với sự nhơ nhếch kèm theo đó là tiếng rên rĩ của đôi mi bắt đầu đẫm lệ...



Thân xác bắt đầu rã rời, ta nằm xuống. Cố gắng nhắm đôi mi lại cho lệ kia đừng rơi, để mọi hoạt động của nghĩ suy được dừng lại. Ta lại thở vội trong giây phút choáng ngộp của con tim, ta đang cố gắng hòa mình vào dòng suy nghĩ một cách cân bằng và tương xứng, vì... ta sợ rằng nó lại lỗi nhịp với con tim mục nát của ta, chỉ cần... mọi thứ vỡ òa thì nó có thể giết chết tâm hồn "buồn" này bất kì lúc nào ta chẳng hay? Ta biết được rằng... ta đang rất sợ, không phải sợ cái chết của tâm hồn...

Mà là... ta sợ, ta yếu đuối trước chính bản thân ta ngay lúc này! Ta không dám gào thét lên, vì nó chứng minh ta một lần nữa rơi vào cảm giác tuyệt vọng của ít phút trước, cũng là vì ta sợ những gì đã diễn ra... điều làm ta sợ nhất là mọi thứ sẽ vỡ òa rồi đôi mi kia lại từ từ buông vị mặn chát, kèm theo đó là sự chua cay của nỗi buồn sâu thẫm. Thôi... ta không ưu tư nữa, ta cố gắng tìm đến giấc ngủ say, để được giải thoát cái đêm đông tịch liêu này!

Vì... ta sợ lắm khi thức dậy mọi người nhìn vào khuôn mặt nhệch nhạt này, lại biết rằng đêm qua ta đã rơi vào cảm giác buồn - tuyệt vọng và không chợp mắt được... điều quan trọng nữa là ta sợ mọi người bảo rằng, ta "yếu đuối" trong cái xã hội bộn bề những biển khổ.

Đắng

Buồn đêm đông



Vũ Hoàng Chương



Mây bay mờ thấp lối đông sang
Hồn lạnh tương tư nẻo gió vàng
Hương cúc mong manh tà áo lụa
Tình thu dài mãi chút dư vang
Hoa gầy lây lứt níu cành xương
Cánh nhỏ đêm qua rụng ngập đường
Gối chiếc nằm nghe sầu bốn mặt
Đều đều mưa nhịp ý thê lương
Rượu cũ Hoàng Hoa vị đắng rồi
Men tàn thêm gợi nhớ xa xôi
Hương say nhạt với màu thu úa
Chén lẻ sầu dâng lạnh thấm môi
Buồng vắng ơ hờ chăn chiếu đơn
Phên thưa lọt gió buốt từng cơn
Ngoài xa bàng bạc lên sương khói
Tuyết phủ chiêm bao mộng chập chờn

Thứ Sáu, 22 tháng 11, 2013

BẦY CÁO BẠC

Lời giới thiệu:

Truyện ngắn sau đây, “Boys And Girls”, được in lần đầu trên báo The Montrealer, năm 1968, sau đó in lại cùng năm trong Dance Of The Happy Shades, tuyển tập đầu tay của Alice Munro, được giải thưởng Governor General. Truyện viết về một nông trại ở Canada trong những năm trước và sau đệ nhị Thế chiến và một đứa bé gái lớn lên trong xã hội hãy còn nhiều phân biệt nam nữ. Qua giọng kể của nhân vật ngôi thứ nhất, chúng ta thấy hình ảnh của đời sống thôn quê, vai trò khác nhau của phụ nữ và đàn ông thời ấy, người đàn bà suốt ngày lo việc trong nhà, trong khi đàn ông làm lụng bên ngoài. Đây là một trong những truyện ngắn đặc tả các vấn đề phụ nữ mà Alice Munro quan tâm, tuy nhiên khuynh hướng này không ràng buộc ngòi bút của bà thám hiểm sâu hơn những khía cạnh thú vị của đời sống: nông trại, súc vật, mùa màng, sự khó khăn chật vật của người nông dân, cuộc đấu tranh của họ, thiên nhiên khắc nghiệt và nên thơ, tính nhân từ, chất hài hước và quyền tự do.
Rememberance Day 2013









Cha tôi làm chủ một trại nuôi cáo. Những con cáo bạc được nuôi trong chuồng rào kín; vào mùa thu và chớm đông, khi lông chúng đẹp nhất, cha tôi giết cáo và lột da và đem bán cho công ty Hudson’s Bay hoặc Montreal Fur Traders. Các công ty này tặng lại chúng tôi những tấm lịch truyền kỳ hiệp sĩ, treo lên cánh cửa bếp, cả hai phía. Trên nền của bầu trời xanh lạnh lẽo, rừng thông đen và những dòng sông phía Bắc hung hiểm, các nhà thám hiểm đội mũ lông chim cắm cờ Anh hay cờ Pháp lên vùng đất mới; những thổ dân hoang dã cúi gập người trên lối đi mang vác thuyền bè.

Vài tuần trước lễ Giáng Sinh, cha tôi làm việc buổi tối dưới tầng hầm. Hầm được quét dọn sơn trắng, chiếu sáng bằng ngọn đèn trăm watts đặt trên bàn làm việc. Thằng Laird em trai tôi và tôi ngồi trên bậc thang cao nhất nhìn xuống. Cha tôi lột bộ da cáo, lộn từ trong ra ngoài, bày da thịt trần truồng, trông bầy cáo thật bé nhỏ, hèn mọn, giống như chuột, khi không còn bộ lông kiêu kỳ sang trọng nữa. Những cơ thể trần trụi, trơn láng được nhét vào một cái túi, đem chôn ở gò cao. Có lần Henry Bailey, người làm công, ném mạnh cái túi ấy vào người tôi, đùa: “Quà Giáng Sinh đây!” Nhưng mẹ tôi không thích trò đùa ấy. Thật ra bà không hề thích toàn bộ công việc làm da thú — tức là giết cáo, lột da, chuẩn bị bộ lông. Bà ước gì việc ấy không xảy ra trong ngôi nhà này. Mùi chồn cáo khắp nơi. Sau khi bộ da căng ra đã được lật từ trong ra ngoài trên tấm phản, cha tôi cạo nó thật khéo léo, gỡ những chùm huyết quản lấm tấm các hạt máu đông li ti, những miếng mỡ lùng nhùng, mùi máu, mùi động vật, thứ mùi nguyên thủy mãnh liệt của loài cáo, tất cả những thứ ấy bay ngập không gian, thấm từng phần ngôi nhà. Tuy vậy tôi tự an ủi rằng chúng chỉ theo mùa, cũng giống như mùi cam, mùi lá thông.

Henry Bailey bị bệnh viêm phế quản mãn tính. Anh ta ho và ho liên tục cho đến khi khuôn mặt nhỏ hẹp đỏ ửng, và cặp mắt xanh lơ tinh quái của anh ràn rụa nước mắt; anh liền nhấc cái nắp đậy vung lên và, đứng lùi vài bước cẩn thận, nhổ thật mạnh một bãi đờm — hsss — ngay vào tâm ngọn lửa. Chúng tôi ngưỡng mộ anh ta về cái trò này và về khả năng làm cho bụng dạ kêu rồn rột, và tiếng cười kỳ quặc, đầy âm thanh ùng ục, rống rít, tạo ra bởi toàn thể bộ máy hô hấp hư hỏng của mình. Đôi khi khó biết Henry cười chuyện gì, nhưng lúc nào cũng có thể là về chúng tôi.

Khi hai chúng tôi phải lên giường ngủ, vẫn còn ngửi được mùi cáo và nghe vẳng tiếng cười của Henry, nhưng tất cả những điều này, gợi nhớ đến một thế giới ấm áp, an toàn, sáng long lanh ở nhà dưới, dường như hoàn toàn bé lại và biến mất, trôi đi chập chờn trên không gian lạnh lẽo nhàm chán của gác trên. Đêm đông đầy sợ hãi, không phải chúng tôi sợ bầu trời bên ngoài ngôi nhà, mặc dù vào thời tiết ấy khi những đụn tuyết uốn cong lại vòng quanh nhà như những con cá voi ngủ vùi, gió thổi miên man hung hãn suốt đêm, từ những cánh đồng bị vùi lấp, từ những đầm lầy băng giá, với dàn hợp xướng nhức nhối của gió dọa dẫm và than khóc. Chúng tôi sợ hãi bên trong này đây, chính căn phòng ngủ. Vào thời đó tầng nhà trên chưa làm xong. Ống khói bằng gạch bám dọc lên gờ tường. Ở ngay giữa sàn nhà một lỗ vuông với rào gỗ chắn bao quanh; đó là lối cầu thang mở lên. Phía sau cầu thang là những vật không ai dùng nữa, một cuộn vải bạt của lính, dựng góc nhà, một cái nôi trẻ con, một cái giỏ đầy rêu bám, ống sứ và chậu sứ với những đường nứt bên trong, một bức tranh của trận đánh Balaclava, trông thật rầu rĩ. Tôi từng bảo đứa em trai, khi nó vừa đủ lớn để hiểu những chuyện như thế, rằng bầy dơi và những bộ xương người đã từng sống ở đây; khi một gã tù nhân trốn thoát trại tù, cách đó hai mươi dặm đường, tôi hình dung hắn đã chui qua cửa sổ và nằm ẩn núp đâu đó phía sau tấm bạt kia. Nhưng chúng tôi có những quy luật riêng để giữ an toàn. Khi đèn sáng, mọi thứ an toàn nếu bạn không bước ra khỏi khu vực của tấm thảm mòn vẹt được xem là phòng ngủ; khi đèn tắt, chẳng còn một nơi nào an toàn nữa, trừ những chiếc giường. Tôi phải quỳ ở cuối chân giường để tắt đèn, vươn người ra thật xa để chạm tới sợi dây điện. Trong bóng đêm hai chúng tôi nằm im trên giường, tựa những tấm bè bé bỏng của sự sống, và nhìn đăm đăm lên ánh sáng vàng vọt yếu ớt hắt tới từ cầu thang, và chúng tôi cất lời hát. Laird hát bài “Jingle Bells”, bài ấy lúc nào nó cũng hát được dù vào dịp Giáng Sinh hay không, và tôi thì hát bài “Danny Boy”. Tôi yêu giọng hát của mình, yếu đuối run rẩy như lời nguyện từ từ dâng lên trong bóng tối. Chúng tôi chăm chú nhìn hình ảnh giá băng của những khuôn cửa sổ, trắng và ảm đạm. Khi tôi hát đến câu Khi con chết, chắc rằng con sẽ chết — một cơn run rẩy không phải bởi những tấm chăn lạnh lẽo mà bởi niềm xúc động vui thú lạ lùng khiến tôi gần im bặt. Con sẽ quỳ xuống và gọi “Ave” trên mọi loài — Ave nghĩa là gì? Ngày nào tôi cũng quên không tìm hiểu.

Laird hát xong liền ngủ thẳng cẳng. Tôi nghe được tiếng thở kéo dài, sảng khoái, phì phò của nó. Giờ đây còn lại một mình, tôi có khoảng thời gian hoàn toàn riêng tư, có lẽ đẹp nhất trong ngày, tôi nằm cuộn người trong chăn, lâng lâng nghĩ đến những câu chuyện mà tôi tự kể cho mình, bồi hồi bổi hổi, từ đêm này sang đêm khác. Những câu chuyện về bản thân tôi, khi tôi đã lớn hơn chút nữa; chúng xảy ra trong một thế giới, có thể nhận ra là của tôi, nhưng lại là một thế giới đầy cơ hội của lòng dũng cảm, gan dạ, tính hy sinh cao thượng, mà trong thế giới thực này chúng không từng xảy ra. Tôi cứu nhiều người ra khỏi một tòa nhà bị bom đánh sập (tôi khổ sở khi biết rằng cuộc chiến tranh thực sự đã đi quá xa kể từ thời lễ mừng Jubilee). Tôi bắn hạ hai con chó sói bị bệnh dại, chúng xông vào sân trường học (các thầy giáo sợ hãi chui ra sau lưng tôi). Tôi cưỡi một con ngựa tuyệt đẹp hùng dũng đi xuống đường phố của ngày lễ mừng, cảm nhận khoái trá sự biết ơn của người dân thành phố đối với các nhân vật anh hùng (ở vùng này chưa có ai cưỡi ngựa, ngoại trừ Vua Billy trong ngày diễu hành Orangemen's Day). Lúc nào cũng có chi tiết cưỡi ngựa và bắn súng trong truyện của tôi mặc dù thật ra tôi chỉ ngồi lên ngựa có hai lần — cưỡi lưng trần vì không có yên cương — và trong lần thứ hai, tôi bị tuột xuống, lăn vòng, rơi bịch xuống chân ngựa; con vật này liền điềm tĩnh nhẹ nhàng nhảy vọt qua người tôi.Tôi cũng học cách bắn súng, nhưng chưa từng bắn trúng thứ gì ngay cả cái hộp thiếc đặt trên cọc hàng rào.

Khi còn trên dương thế, bầy cáo bạc cư ngụ trong một cõi riêng mà cha tôi tạo lập cho chúng. Thế giới ấy bao bọc bởi hàng rào cao, tựa như thành thị thời trung cổ, với cổng trước khóa chặt lại đêm đêm. Dọc theo những đường phố của thành thị này có nhiều dãy trại vững chắc, mỗi trại một cánh cửa vừa để lọt một người đi qua, một đường băng bằng gỗ giữa những hàng rào dây thép, cho bầy cáo chạy lên chạy xuống, và một cái chuồng — đôi khi trông giống như tủ áo quần với các lỗ thông hơi, nơi bọn cáo ngủ qua mùa đông, sinh con đẻ cái. Có những dĩa thức ăn và nước uống dọc hàng rào dây thép, được máng lên theo cách chúng có thể được đổ đi và lau chùi từ bên ngoài. Những dĩa này được chế từ những bình thiếc cũ, còn những đường băng từ những mẫu gỗ vụn. Mọi thứ nhỏ nhắn gọn gàng, được sắp xếp tài tình; cha tôi là một người có đầu óc sáng tạo, cuốn truyện mà ông ưa thích nhất là cuốn Robinson Crusoe. Ông gắn một cái trống thiếc lên xe cút kít để khuân nước tới các chuồng trại. Đó là nhiệm vụ của tôi vào mùa hè, khi bầy cáo cần nước hai ngày một lần. Từ chín giờ đến mười giờ sáng, và một lần nữa sau buổi ăn tối, tôi đổ đầy nước vào cái trống thiếc trên xe cút kít, lăn qua sân đến khu chuồng, dừng lại ở đó, múc nước vào thùng tưới, đi dọc các con đường. Thằng Laird cũng tới giúp, với thùng đựng nước nhỏ màu kem và xanh lá cây của nó, nhưng đổ nước quá đầy, cái thùng va lóc cóc lên cẳng chân làm nước tràn ra ướt giày. Tôi có một cái thùng tưới nước thật sự, của cha tôi, mặc dù tôi chỉ khiêng được ba phần tư.

Những con cáo có tên riêng, in hẳn hoi trên tấm bảng thiếc treo trước cửa chuồng. Khi mới sinh, chúng chưa có tên, nhưng nếu sống qua mùa lột da đầu tiên và được bổ sung vào bầy cáo trong chuồng, chúng sẽ được đặt tên. Những con cha tôi đặt tên như Prince, Bob, Wally và Betty. Những tên do tôi đặt như Star hay Turk, Maureen hay Diana. Laird đặt tên Maud theo tên của cô bé giúp việc cho chúng tôi khi nó còn nhỏ, Harold theo tên một thằng bạn trong trường, và tên Mexico, nhưng không giải thích tại sao.

Việc đặt tên cho bầy cáo không biến chúng thành gia súc được cưng nuôi trong nhà hay một thứ gì tương tự. Không một ai khác ngoài cha tôi bước vào trong các chuồng trại, mà ông cũng đã hai lần bị chúng cắn nhiễm độc máu. Khi tôi mang nước đến, những con cáo đi lảng vảng lên xuống trong chuồng, rất ít sủa — chúng chờ đến khuya, lúc tập hợp lại thành một dàn hợp xướng điên cuồng — nhưng chăm chăm nhìn tôi, cặp mắt chúng cháy bỏng, vàng rực, trong vắt, trên những khuôn mặt nhọn hoắt và hung ác. Bầy cáo thật đẹp với những cẳng chân thon nhẹ, những cái đuôi trĩu nặng quý phái, bộ lông óng ánh bạc giữa nền đen trên lưng— vì vậy chúng có tên là cáo bạc — nhưng đặc biệt là ở khuôn mặt, khắc từng nét sắc sảo đẹp tuyệt với nỗi thù hận rõ ràng, và ở đôi mắt vàng ánh.

Bên cạnh việc khiêng nước tôi cũng giúp cha tôi khi ông cắt cỏ ở khu vực nuôi cừu và hoa tiền xạ hương mọc giữa những chuồng cáo. Ông dùng lưỡi hái để cắt cỏ và tôi cào chúng thành từng đống. Xong, cha tôi dùng cào hai răng hất ngược cỏ mới cắt lên chuồng trại, lợp mái, để bầy cáo được mát mẻ và che bộ lông của chúng khỏi bị nâu sạm vì nắng. Cha tôi không hay trò chuyện với tôi trừ khi liên quan tới công việc cùng làm. Cha tôi khác mẹ tôi, mỗi khi bà hài lòng, thường kể cho tôi nghe mọi chuyện — tên con chó bà nuôi lúc còn bé, tên những cậu con trai bà cặp bồ khi lớn lên, dáng vẻ những bộ áo đầm bà mặc — bây giờ nhớ lại mẹ tôi không thể hình dung chúng đã được may cắt ra sao. Những ý nghĩ và câu chuyện của cha tôi bao giờ cũng có vẻ riêng tư, và tôi ngượng không dám hỏi lại ông câu nào. Dù sao tôi đã làm việc hăng hái dưới sự chỉ bảo của ông, và với cảm giác tự hào. Một lần nọ có người thương gia bán thức ăn tới nông trại, trong khi trò chuyện, cha tôi bảo, “Này, muốn ông gặp anh chàng làm công mới thuê của tôi đây.” Tôi quay mặt đi, cào cỏ thật mạnh, mặt đỏ lên vì sung sướng.

“Lầm chết được,” người thương gia nói. “Thế mà tôi cứ tưởng đó là một cô bé chứ.”

Khi cỏ cắt xong, trời vừa ngả sang thời tiết cuối năm. Tôi bước đi trên những gốc rạ trong hoàng hôn nhạt nhòa, nhận ra bầu trời đỏ rực hẳn lên, và những nỗi im lặng đang tới gần, của mùa thu. Khi tôi lăn cái thùng ra khỏi trại và khóa cánh cổng lại, trời tối hẳn. Một buổi chiều muộn tôi nhìn thấy mẹ tôi và cha tôi đứng trò chuyện trên mỏm đất vẫn gọi là hiên trại, trước chuồng cáo. Cha tôi vừa bước ra từ nhà xẻ thịt; tạp-dề còn mang trên người cứng lại vì máu khô, và một tảng thịt tươi mới cắt lăn trong tay ông.

Thật kỳ quái khi thấy mẹ tôi đứng ở khu chuồng trại. Bà chẳng mấy khi ra khỏi nhà trừ lúc cần làm việc gì — như treo quần áo lên dây phơi hay đào khoai tây trong vườn. Mẹ tôi đứng trông ra đằng xa với những bắp chân trần nung núc thịt, không có ánh mặt trời, chiếc tạp-dề vẫn còn mang và ướt nhàu từ bụng xuống vì chén bát rửa sau bữa ăn tối. Tóc mẹ tôi cuộn lên bằng chiếc khăn tay nhỏ, một vài lọn tóc lòng thòng rơi xuống. Mẹ tôi có thể cột tóc kiểu như thế ngay từ buổi sáng, bảo rằng bà chẳng có thì giờ để cột cho ngay ngắn, và rồi cứ để thế suốt ngày. Nói vậy thật ra cũng đúng; vì bà chẳng có thì giờ. Vào mùa này, phía sau nhà chất đầy những rổ đào, nho, lê, mang từ ngoài phố về, và củ hành và cà chua và dưa chuột trồng trong vườn, tất cả chờ xay thành nước trái cây, các loại mứt, đồ gia vị, dưa chua ngâm và nước tương ớt. Trong bếp, lửa lò cháy rực suốt ngày, chai lọ kêu lanh canh lách cách giữa làn nước sôi, đôi khi một túi đựng phó-mát treo lủng lẳng trên gậy gác giữa hai thành ghế. Những túi nho xanh và đen chờ làm nước giải khát. Tôi được sai việc vặt, ngồi ở bàn để lột vỏ đào ngâm trong nước nóng hoặc xắt củ hành, mắt tôi cay nhức, nước mắt trào ra. Khi vừa xong, tôi lập tức chạy ra khỏi nhà, tránh khỏi phải nghe điếc tai về những việc bà sắp giao cho tôi làm tiếp. Tôi căm ghét căn bếp nóng hầm hập và tối tăm vào mùa hè, những màn cửa xanh lá cây và những tấm giấy dán tường, cái bàn với khăn trải bàn cũ kỹ, những tấm gương soi mặt đến mòn vẹt và những vải bạt lùng nhùng. Mẹ tôi quá mệt mỏi và bận rộn để còn thì giờ trò chuyện với tôi, bà chẳng có tâm trí đâu kể cho tôi nghe về những buổi khiêu vũ trong ngày lễ mãn trường; mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt, mẹ tôi lúc nào cũng vừa thở vừa đếm, chỉ tay vào các thẩu, các lọ, các ly tách, chén bát đựng đường. Dường như đối với tôi, công việc nột trợ trong nhà là bất tận, buồn rầu, đắng cay sầu muộn; công việc ngoài kia, dưới sự giám sát của cha tôi, trông có vẻ quan trọng hơn nhiều.

Tôi lăn cái thùng lên chuồng cáo, giữ nó ở đó, và tôi nghe mẹ tôi bảo, “Chờ cho đến khi thằng Laird lớn hơn chút nữa, anh sẽ có người giúp việc thật sự.” Cha tôi nói gì không nghe rõ. Tôi hài lòng nhìn thấy cách cha tôi đứng lắng nghe, như thể cha tôi nghe một nhà buôn hay một người lạ trò chuyện, lịch sự, nhưng rõ ràng là muốn tiếp tục công việc của mình thôi. Tôi có cảm giác rằng mẹ tôi chẳng có việc gì làm ở đây cả và tôi muốn cha tôi cũng cảm nhận như thế. Mẹ tôi muốn nói gì về thằng em trai tôi? Nó chẳng giúp gì đựợc ai cả. Bây giờ nó chạy đâu mất rồi. Đánh đu cho đến mệt lả người trên ghế xích đu, chạy lòng vòng hay là tìm bắt những con sâu bướm. Thằng Laird chẳng bao giờ làm hết công việc gì cho đến phút cuối cùng.

“Và lúc ấy em có thể sai bảo con bé nhiều hơn cho công việc trong nhà.” Tôi nghe mẹ tôi bảo thế. Mẹ tôi có lối hạ giọng thì thầm với vẻ hối hận khi nói về tôi khiến tôi lúc nào cũng cảm thấy bực bội. “Em chỉ mới quay đi, nó đã biến mất. Hình như chẳng có một đứa con gái nào trong nhà này cả.”

Tôi đi ra ngồi xuống trên túi thức ăn đặt ở một góc, chẳng muốn chường mặt ra khi cuộc trò chuyện tiếp diễn. Tôi có cảm giác mẹ tôi không phải là người đáng tin cậy. Mẹ tôi tử tế hơn cha tôi và thường ngây thơ dễ bị gạt, nhưng tôi không thể dựa vào bà, và những nguyên nhân của lời nói hay hành động của bà khá khó hiểu. Mẹ tôi yêu tôi, và bà có thể thức thâu đêm để may những chiếc áo đầm kiểu cọ khó khăn mà tôi muốn, để mặc trong ngày tựu trường, nhưng mẹ tôi lúc nào cũng là kẻ thù của tôi. Bà biết cách tìm ra tôi một cách dễ dàng dù tôi trốn ở đâu, và bắt tôi ở trong nhà suốt ngày, mặc dù biết tôi không thích điều ấy (chính vì biết tôi không thích) và ngăn trở tôi làm việc với cha. Dường như đối với tôi, mẹ tôi làm thế chẳng qua vì ghét bỏ và vì muốn chứng tỏ quyền lực. Nhưng tôi không nhìn thấy mẹ cô độc hay ghen tuông. Chẳng có người lớn nào như thế cả; vì họ quá may mắn. Tôi ngồi và đá gót chân một cách rầu rĩ lên túi thức ăn, làm bụi bay mù mịt, không ló mặt ra trước khi mẹ tôi đi khỏi.

Dù thế nào tôi không tin cha tôi chú ý lắm những điều mẹ tôi nói. Ai có thể tưởng tượng thằng Laird làm thay công việc của tôi — nó mà còn nhớ việc khóa cổng, việc lau rửa các dĩa thức ăn với một cái lá ở đầu gậy, hay lăn thùng nước, mà không bị lật nhào đè lên người? Việc ấy chứng tỏ mẹ tôi chẳng biết tí gì về công việc thật sự ở đây.

Tôi quên không kể những con cáo được nuôi bằng thứ gì. Chiếc tạp-dề đầy vết máu của cha tôi đã nhắc tôi. Bầy cáo bạc được nuôi bằng thịt ngựa. Vào thời ấy hầu hết những chủ nông trại đều có ngựa, và khi một chú ngựa già quá không làm việc được nữa, hoặc gãy một cẳng hay quỵ xuống và không đứng lên được, như đôi khi chúng vẫn thế, ông chủ liền gọi cha tôi, và ông và Henry liền lái xe tải tới các nông trại. Thường họ bắn chết và xẻ thịt ngựa ngay ở đó, trả cho người chủ từ năm đến mười hai đồng. Nếu sẵn có nhiều thịt rồi, họ sẽ mang con ngựa về, vẫn còn sống, giữ nó vài ba ngày hay một vài tuần trong chuồng ngựa, cho đến khi cần thịt cho bầy cáo. Sau chiến tranh, nhà nông bắt đầu mua các máy kéo nông nghiệp và dần dần thải ngựa ra không dùng nữa, vì vậy thỉnh thoảng chúng tôi lại mua đuợc một chú ngựa hãy còn khỏe mạnh, nhưng người ta không cần dùng đến nó nữa. Vào mùa đông chúng tôi giữ chúng trong các tàu ngựa cho đến mùa xuân, bởi vì sẵn cỏ cho chúng ăn và nếu tuyết rơi nhiều — các máy xúc tuyết không phải lúc nào cũng ủi sạch đường sá — cũng khá thuận tiện khi vào thành phố với một con ngựa và một cái xe nhỏ do nó kéo.

Vào mùa đông khi tôi mười một tuổi, chúng tôi có hai con ngựa trong chuồng. Không ai biết trước đó tên chúng gì, nên chúng tôi đặt là Mack và Flora. Mack là một con ngựa làm lụng đồng áng đã già, lông đen bồ hóng, tính dửng dưng. Flora là một con ngựa cái, màu đỏ nâu, loại ngựa dùng kéo xe. Chúng tôi dẫn chúng ra khỏi chuồng với cái xe kéo nhỏ. Mack chậm chạp và dễ điều khiển. Flora thì hung hăng, chuyển hướng khi gặp đầu xe và gặp những con ngựa khác, nhưng chúng tôi rất thích tốc độ của nó, lối phi bước nhổng cao, dáng vẻ gan dạ đầy phóng túng. Những ngày thứ Bảy chúng tôi xuống tàu ngựa và khi vừa mở cửa chuồng ra, trước một thứ bóng tối ấm áp của mùi gia súc, Flora lập tức ngẩng đầu lên, tròn mắt, hí vang, vọt ra khỏi chỗ như chạm thần kinh. Bước vào khoang của nó không mấy an toàn; Flora có thể co chân đá bất ngờ.

Mùa đông ấy tôi bắt đầu nghe nhiều chuyện hơn về việc mà mẹ tôi đã nói hôm đứng trước cửa trại. Tôi không cảm thấy an toàn nữa. Dường như trong tâm trí mọi người, có một luồng suy nghĩ ngấm ngầm, không dễ gì gạt qua một bên, về chủ đề này. Hai chữ con gái đối với tôi vốn có vẻ vô tội và nhẹ nhõm, cũng giống như chữ trẻ con; bây giờ thì trở nên một chữ không còn như thế nữa. Con gái hay thiếu nữ khác với kiểu cách mà tôi đang có; đó là một thứ mà tôi phải cố gắng vươn tới. Đó là một định nghĩa, lúc nào cũng được nói đến với sự nhấn mạnh kèm lời chê trách và thất vọng. Cũng có chuyện đùa giỡn về tôi. Khi Laird và tôi đánh nhau, lần đầu tiên tôi dùng tất cả sức mạnh của mình chống lại nó; mặc dù thế nó vẫn chụp được tay tôi một lúc khiến tôi đau đớn. Henry nhìn thấy cảnh ấy, cười phá lên và bảo, “Ô, thằng Laird một ngày kia sẽ cho mày biết tay!” Laird ngày càng lớn lên thật. Nhưng tôi cũng ngày càng lớn hơn.

Bà ngoại tôi tới thăm ở lại vài tuần và tôi loáng thoáng nghe bà nói. “Con gái không đóng sập cửa cái ầm như thế.” “Con gái ngồi thì phải khép chân lại chứ.” Các nhận xét còn tệ hơn, khi tôi thắc mắc chuyện này chuyện nọ, "Con gái biết chuyện đó để làm gì?” Tôi vẫn tiếp tục đóng sập cửa và ngồi xoạc chân rất khó coi, tự nghĩ nhờ thế mà tôi có tự do.

Khi mùa xuân tới, những chú ngựa được dẫn ra sân trại. Mack đứng dựa vào vách chuồng khẽ cọ cổ và mông, nhưng Flora chạy lon ton nước kiệu, lùi lại phía hàng rào, gõ móng lộp cộp leng keng lên các giá đỡ. Những đụn tuyết thu nhỏ lại mau chóng, lộ ra mặt đất cứng, xám và nâu, những chỗ lồi lõm quen thuộc, phẳng phiu và trơ trọi sau khi cảnh vật thơ mộng biến ảo của mùa đông biến mất. Có một cảm giác cởi mở, dễ chịu, tươi rói lan tỏa không gian. Chúng tôi mang thêm lớp cao-su bọc ngoài giày; bàn chân bỗng nhẹ hẫng kỳ lạ. Một ngày thứ Bảy chúng tôi tới tàu ngựa, thấy những cánh cửa đều bật mở, chào đón không khí trong lành và ánh sáng mặt trời tưng bừng. Henry đang ở đó, đi loanh quanh ngắm các cuốn lịch sưu tập chất đống đằng sau chiếc bàn nhỏ ở một góc của tàu ngựa, nơi mẹ tôi có lẽ chưa hề thấy.

“Tụi bây tới chào tạm biệt con Mack phải không?” Henry hỏi. “Đây này, bây cho con ngựa ăn một ít lúa mạch.” Anh ta đổ một ít yến mạch lên hai bàn tay khum lại của Laird và thằng bé tiến tới gần cho Mack ăn. Bộ răng của con ngựa xấu lắm rồi. Nó nhai chậm chạp, kiên nhẫn đưa qua đưa lại những hạt yến mạch trong miệng mình, cố tìm một chút mầm răng của cái răng hàm còn sót lại để nhai. “Tội nghiệp con Mack,” Henry nói một cách rầu rĩ. “Khi một chú ngựa già răng rụng hết, đời cũng tàn theo. Thế gian là vậy.”

“Anh sẽ bắn con ngựa hôm nay phải không?” Tôi hỏi. Mack và Flora đã ở trong tàu ngựa khá lâu khiến tôi quên mất một ngày kia chúng phải chết.

Henry không trả lời. Thay vào đó anh ta bắt đầu hát một bài ca với giọng cao, run rẩy, bắt chước kiểu sầu bi, ôi, hết việc làm rồi, Ned đáng thương ôi, chú sẽ đi xa như gã da đen về già. Cái lưỡi của Mack dày đen sẫm hoạt động cần cù trên bàn tay của thằng Laird. Tôi bước ra ngoài chuồng trước khi bài hát kết thúc và ngồi bệt xuống trước bậc hiên của trại.

Tôi chưa bao giờ thấy người ta bắn một con ngựa, nhưng tôi biết nơi xảy ra điều ấy. Mùa hè năm ngoái Laird và tôi đã đạp lên một cái ruột ngựa dài lòng thòng trước khi chúng được đem chôn. Thoạt đầu chúng tôi tưởng đó là một con rắn đen lớn, nằm cuộn mình trong nắng. Mấy thứ ấy thường nằm trên cánh đồng bao quanh khu trại. Tôi nghĩ là nếu chúng tôi đi vào chuồng, và tìm một cái lỗ hở lớn hay đường nứt để nhìn, hai chúng tôi sẽ có thể nhìn thấy quang cảnh giết ngựa. Đó không phải là việc tôi định làm; tuy nhiên nếu một chuyện gì thật sự xảy ra, tốt nhất là bạn nên nhìn thấy nó, và hiểu biết về chuyện đó.

Cha tôi từ nhà đi xuống, súng trong tay.

“Con làm gì ở đây?” ông hỏi.

“Không làm gì.”

“Đi lên nhà chơi lòng vòng ở đó.” Cha tôi cũng bắt Laird ra khỏi chuồng ngựa. Tôi nói với nó, “Mày có muốn xem cảnh bắn con Mack không?” Và không chờ câu trả lời, tôi kéo nó tới cánh cửa trước của trại, mở cổng một cách thận trọng, lọt vào trong. “Im lặng đừng để họ nghe, hiểu chưa?” tôi bảo. Chúng tôi nghe tiếng Henry và cha tôi trò chuyện với nhau trong tàu ngựa, và tiếng chân rì rào nặng nề của con Mack được kéo ra khỏi ngăn buồng của nó.

Ở trong gian nhà trống trời tối và lạnh. Những tia nắng mặt trời mỏng mảnh bắt chéo nhau lọt qua khe hở. Đống cỏ thấp. Sườn đồi thoai thoải, những chỗ lồi lõm trượt dưới chân chúng tôi. Khoảng bốn bộ ở phía trên đầu có một cái xà nhà chạy vòng quanh bốn bức tường. Hai chúng tôi đu người lên từ một góc, tôi đẩy thằng Laird lên nấc nữa và rướn người lên theo. Xà nhà không lớn lắm; chúng tôi phải trườn rón rén, bám tay vào vách. Có nhiều khe nhỏ, tôi tìm thấy một cái khá lớn có thể nhìn rõ cảnh vật, một góc sân chuồng, cánh cổng, một phần cánh đồng ngoài kia. Laird không tìm thấy lỗ hở nào, nó bắt đầu càm ràm.

Tôi chỉ cho nó một cái khe lớn giữa hai tấm ván. “Im lặng chờ. Nếu họ nghe tiếng mày, sẽ có chuyện rắc rối đó.”

Cha tôi bước vào, súng trên tay. Henry cầm dây buộc cổ ngựa dẫn Mack đi theo. Anh ta thả cái dây xuống và lấy thuốc lá và giấy quấn ra; anh ta cuộn những điếu thuốc lá cho cha tôi và cho mình. Trong khi đó con Mack đánh hơi vòng vòng ngửi những đống cỏ già, chết dọc hàng rào. Cha tôi mở cánh cổng ra và họ dẫn con Mack ra ngoài. Henry đi trước dẫn Mack đi theo qua hết con đường đến một bãi trống và hai người đàn ông trò chuyện với nhau, chúng tôi không nghe được. Con Mack lại đi tìm những nhánh cỏ tươi cho vào miệng nhưng chẳng thấy. Cha tôi bước thẳng ra xa, dừng lại ở một khoảng cách xem ra thích hợp hơn cả. Henry bước khỏi con ngựa, nhưng tiến về một hướng khác, trong khi tay vẫn hờ hững cầm lấy cái dây buộc ngựa. Cha tôi đưa súng trường lên ngắm, Mack ngẩng nhìn dường như vừa nhận ra một điều gì, và cha tôi bắn hạ nó. Con ngựa không ngã xuống ngay mà lắc lư, lảo đảo rồi mới quỵ xuống, trước tiên nằm nghiêng bên hông; rồi lăn một vòng, và lạ lùng thay đưa cả bốn chân lên, đá trong không trong một vài giây. Nhìn thấy cảnh ấy Henry cười phá ra như thể Mack đang làm trò vui cho hắn ta. Thằng Laird, thở dài rầu rĩ khi súng nổ, nói to, “Nó chưa chết.” Và dường như với tôi điều nhận xét đó cũng đúng. Nhưng bốn chân con ngựa đã dừng lại, nó lăn thêm một vòng nữa qua một bên, những bắp thịt giật rung lên rồi lặn chìm xuống. Hai người đàn ông bước tới nhìn con ngựa theo kiểu một thứ công việc; họ cúi xuống xem xét cái trán của nó nơi viên đạn ghim vào, và giờ đây tôi có thể nhìn thấy máu ngựa trào ra trên mặt cỏ nâu nâu.

“Bây giờ thì họ lột da và xẻ thịt nó,” tôi nói. “Thôi chúng ta đi.” Hai chân tôi run nhè nhẹ, tôi nhảy một cách khoan khoái xuống đám cỏ khô. “Bây giờ mày đã thấy người ta bắn một con ngựa thế nào rồi,” tôi nói kiểu chúc mừng, làm như mình đã từng thấy chuyện ấy nhiều lần trước đó. “Bây giờ chúng ta đi coi thử có con mèo nào đẻ trong đám cỏ hay không.” Laird nhảy ùm xuống, nó trở nên con nít và biết vâng lời như trước. Bỗng nhiên tôi nhớ lại, khi em trai tôi còn nhỏ, tôi đã dẫn nó tới khu chuồng ngựa, xúi nó leo cái thang lên tận xà nhà cao ngất. Hôm ấy cũng vào mùa xuân khi những đống cỏ khô hãy còn thấp. Tôi làm thế vì cảm thấy hào hứng, một nỗi ao ước muốn thấy một điều gì đó xảy ra để kể lại cho người khác. Nó mặc cái áo khoác kẻ sọc trắng và nâu cồng kềnh, sửa lại từ áo của tôi. Nó leo lên bậc thang xa nhất, đúng như tôi bảo nó, và ngồi xuống trên xà nhà cao vút, trong khi đống cỏ dưới chân nằm quá xa một bên, sàn nhà và máy móc cũ một bên, thế rồi tôi chạy vụt đi la lớn lên với cha tôi, “Thằng Laird trèo lên xà nhà!” Cha tôi liền chạy tới, mẹ tôi chạy theo, cha tôi trèo lên cái thang, nhỏ nhẹ bảo nó và đưa thằng Laird xuống trong tay mình, trong khi mẹ tôi dựa người vào chân thang, bắt đầu khóc nức nở. Họ bảo tôi, “Sao con không coi chừng em?” Nhưng không hề ai biết được sự thật. Em trai tôi còn quá nhỏ để hiểu và kể lại. Nhưng kể từ đó mỗi khi tôi nhìn thấy chiếc áo khoác kẻ sọc trắng và nâu treo ở phòng mắc quần áo, hoặc nằm dưới đáy cái túi đựng áo quần, là nơi mọi thứ đều được nhét vào, tôi lại cảm thấy nằng nặng trong ngực, một nỗi buồn của cảm giác tội lỗi lởn vởn váng vất trong tôi.

Tôi nhìn thằng Laird, bây giờ nó chẳng thể nhớ lại chuyện cũ, và tôi không thích cái nhìn của nó trên khuôn mặt gầy, tái của mùa đông. Vẻ mặt của nó chẳng ra vẻ sợ hãi hay băn khoăn gì cả, nhưng xa vắng, tập trung. “Nghe đây,” tôi nói, với giọng thân mật và sáng sủa bất ngờ, “Mày sẽ không đi kể lại cho ai cả, hiểu chưa.”

“Em không,” nó nói một cách lơ đãng.

“Hứa đi.”

“Em hứa,” nó nói. Tôi cầm chặt bàn tay nó đặt ở phía sau lưng để biết chắc là nó không bắt chéo ngón tay. Dù thế nữa nó vẫn có thể nằm thấy ác mộng; và chuyện bí mật sẽ lộ ra. Tôi quyết định sẽ canh chừng đừng để những ý tưởng liên quan đến việc xảy ra mà nó chứng kiến xuất hiện trong đầu óc nó — một thứ đầu óc có vẻ chẳng hề chứa được bao nhiêu trong cùng một thời gian. Tôi có một ít tiền để dành và chiều hôm đó chúng tôi đến rạp Jubilee xem cuốn phim, với tài tử Judy Canova, thật hay, chúng tôi cười phá lên từng chập, sau bữa đó tôi nghĩ mọi thứ êm xuôi.

Hai tuần sau tôi biết họ sắp bắn Flora. Tôi biết từ đêm trước, khi nghe mẹ tôi hỏi là cỏ khô trong chuồng có đủ không và cha tôi trả lời, “Chà, sau ngày mai, chỉ có mấy con bò thôi, có thể đem chúng ra ăn cỏ tươi trong tuần tới.” Như thế tôi biết đến lượt Flora sáng mai. Lần này tôi không tính chuyện đi coi vụ giết ngựa, đó là việc chỉ nên thấy một lần thôi, từ hôm ấy tôi cũng không nghĩ nhiều đến nó, nhưng đôi khi đang bận rộn ở trường, hay đang đứng một mình trước tấm gương cầm lược chải tóc và tự hỏi liệu mình có trở thành một thiếu nữ xinh đẹp hay không khi lớn lên, toàn bộ khung cảnh hôm ấy lại chiếu sáng ngời ngời trong tâm trí: tôi nhìn thấy phương cách dễ dàng thực tế khi cha tôi nâng súng lên, nghe thấy tiếng cười rộ của Henry khi con ngựa già đạp vô vọng bốn chân lên trời. Tôi chẳng có cảm giác ghê sợ hay phản đối, như một đứa trẻ thành thị có thể có; tôi đã quá quen thuộc với cái chết của súc vật như đó là sự cần thiết của đời sống con người. Tuy vậy tôi vẫn cảm thấy một nỗi xấu hổ nghẹn ngào, một cảm giác cảnh thức đề phòng mới, gần như sự trì hoãn, như sự chựng lại, trong thái độ của tôi đối với cha tôi và với công việc của ông.

Một ngày đẹp trời, chúng tôi đi dọc khu chuồng trại nhặt nhạnh những cành cây rơi xuống đất sau cơn bão mùa đông trước. Đó là việc bọn trẻ chúng tôi được sai khiến, và chúng tôi cũng muốn lấy những cành cây để dựng chơi lều da thú. Tôi nghe tiếng con Flora hí vang, rồi tiếng cha tôi và tiếng Henry la lớn, và hai đứa tôi chạy xuống sân trại xem chuyện gì xảy ra.

Cửa tàu ngựa mở rộng. Henry vừa dẫn Flora ra khỏi chuồng và nó chạy mất. Nó chạy lòng vòng quanh trại từ đầu này đến đầu kia. Hai chúng tôi leo vội qua hàng rào. Thật hào hứng nhìn thấy con ngựa chạy, hí vang, nhấc bổng hai chân trước, nhảy dựng lên bằng hai chân sau, điệu bộ đầy vẻ đe dọa như một con ngựa trong phim cao bồi Viễn Tây, một con ngựa chăn thả trên thảo nguyên, mặc dù nó chỉ là loại ngựa kéo xe, lông đỏ nâu. Cha tôi và Henry chạy đuổi theo cố chụp lấy cái dây buộc cổ ngựa treo toòng teng. Họ cố dẫn nó vào một góc chuồng, và sắp thành công, nhưng đột nhiên nó chạy vụt qua giữa hai người, mắt mở lớn, biến mất sau vách chuồng. Chúng tôi nghe tiếng dãy rào dậu va lách cách khi con ngựa nhảy vọt qua, và Henry la lớn, “Nó nhảy ra đồng rồi!”

Nghĩa là con Flora đang chạy trên cánh đồng hình chữ L bao bọc quanh nhà chúng tôi. Nếu nó phi vào vùng trung tâm, hướng về con đường chính, thì cửa cánh cổng đang mở sẵn; một chiếc xe tải mới chạy vào sáng nay. Cha tôi la to lên với tôi, vì tôi đang đứng phía bên kia hàng rào gần đường chính dẫn vào trại nhất, “Chạy lẹ lên đóng cổng lại!”

Tôi chạy rất nhanh. Tôi vượt qua khu vườn, qua tàn cây đeo xích đu tôi ngồi đong đưa mỗi ngày, nhảy qua một chiếc hào, lao vào đường chính. Cánh cổng đang mở rộng. Con Flora chưa tới nơi, tôi chưa thấy bóng nó xuất hiện trên đường; chắc nó chạy về phía đầu kia của nông trại. Cánh cổng nặng quá. Tôi hì hục nhấc nó lên trên nền đá sỏi, mang vòng qua mặt đường. Tôi đã khiêng được cánh cổng nửa vòng khi nhác thấy Flora phi nước đại về phía mình. Vừa đủ thời gian cột chuỗi xích lại. Laird chạy bước thấp bước cao qua cái hào tới phụ tôi.

Thay vì đóng sập cánh cổng, tôi mở toang nó ra. Tôi không hề cân nhắc một quyết định nào cả trong chuyện này, đó chỉ là hành động tôi đã làm. Con Flora không chậm bước lại; nó phi nước đại vọt qua tôi, và thằng Laird nhảy lên nhảy xuống, miệng la lớn “Ê ê đóng lại, đóng cổng lại!” sau khi chuyện đó rõ ràng đã quá trễ. Cha tôi và Henry xuất hiện phía cánh đồng chậm một lát vì vậy họ không thể nhìn thấy việc tôi làm. Họ chỉ thấy con ngựa phóng ra đường phố. Họ tưởng tôi không đủ thì giờ đóng cổng.

Chẳng mất thời gian hỏi han chuyện đó, họ trở lại khu chuồng, lấy súng và dao, dồn tất cả lên xe tải; quay đầu xe, vọt qua cánh đồng về phía chúng tôi. Thằng Laird kêu lớn, “Cho con lên, cho con lên với!” Và Henry dừng xe cho nó lên. Tôi đóng cổng lại sau khi họ đi rồi.

Tôi nghĩ Laird sẽ thóc mách lại. Tôi tự hỏi việc gì sẽ xảy ra với tôi. Tôi chưa bao giờ bất tuân lệnh cha tôi trước đây, và tôi không hiểu tại sao mình làm thế. Flora không thể chạy đi đâu được. Họ sẽ bắt nó lại bỏ vào xe tải. Hoặc nếu không bắt được sáng nay thì một người nào đó sẽ trông thấy và gọi điện thoại cho chúng tôi chiều nay hoặc ngày mai. Không có vùng núi rừng hoang dã nào cho con Flora chạy tới, đâu cũng toàn nông trại. Hơn thế, cha tôi đã trả tiền mua ngựa, chúng tôi cần thịt cho bầy cáo, và chúng tôi cần bầy cáo cho việc mưu sinh. Tất cả những điều tôi vừa làm chẳng qua chỉ chất thêm gánh nặng lên vai cha tôi, vốn đã nặng gánh công việc quá rồi. Và khi cha tôi biết được sự thật ông sẽ không còn tin ở tôi nữa; ông sẽ nhận ra tôi không hoàn toàn đứng về phía ông. Tôi đã đứng về phía Flora, và điều đó làm tôi trở nên vô tích sự đối với mọi người, hay cả đối với ngựa. Nhưng đồng thời, tôi không hối hận về việc đã làm; khi con Flora chạy như tên bắn về phía mình và khi tôi đẩy cánh cổng mở ra, đó là tất cả những gì tôi có thể làm được trên đời.

Tôi trở về nhà, mẹ hỏi, “Chuyện gì huyên náo thế con?” Tôi nói con ngựa đã vọt qua hàng rào và chạy mất. “Tội nghiệp cha bây,” bà nói, “Bây giờ ông ấy phải chạy đôn chạy đáo khắp nơi để tìm nó. Vậy chẳng nên bày biện ăn uống bữa ăn làm chi trước một giờ.” Bà lật cái bàn ủi áo quần ra. Tôi định kể cho mẹ nghe nhưng rồi lại nghĩ tốt nhất là đừng, đi lên lầu, ngồi trên giường mình.

Sau đó tôi cố bày biện lại căn phòng thật đẹp, mở rộng chiếc giường với những tấm màn che, sửa một chiếc bàn trang điểm với những đồ còn lại của tấm vải riềm làm váy. Tôi cố làm một cái gì để chặn ngang giữa giường của tôi và của Laird, ngăn riêng khu vực của tôi lại. Khi mặt trời lên những tấm màn cửa trông như những tấm giẻ bụi bặm. Chúng tôi không còn hát nữa khi trời sập tối. Một đêm nọ tôi vừa cất tiếng thì Laird bảo “Nghe thật ngớ ngẩn”. Tôi tiếp tục nhưng tối hôm sau tôi không hát nữa. Cũng không cần phải làm thế, chúng tôi đã lớn, không còn sợ hãi. Chúng tôi biết chỉ là mấy thứ bàn ghế cũ ngoài kia thôi, chỉ là sự nhầm lẫn và những đồ tạp nhạp cũ kỹ. Chúng tôi không còn phải tuân theo các luật lệ nữa. Tôi thức khuya sau khi thằng em trai đã ngủ và thuật chuyện cho chính mình nghe nhưng những câu chuyện này cũng có vẻ khác, những chữ thêm thắt vào có vẻ thần bí ngày càng nhiếu. Câu chuyện của tôi có thể bắt đầu theo lối cũ, với cảnh nguy hiểm kỳ dị. Một đám cháy hay những con thú hoang, thế rồi một lát sau tôi có thể trở thành người cứu rỗi thiên hạ; rồi mọi chuyện đảo ngược lại, và thay vào đó, một người nào đó sẽ ra tay cứu tôi. Đó có thể là một thằng bé trong lớp học, hay là thầy Campbell, thầy giáo của chúng tôi, người hay thọc lét bọn con gái dưới nách. Vào khoảng thời gian ấy những câu chuyện của tôi tràn ngập các chi tiết về vẻ ngoài của mình — mái tóc tôi dài bao nhiêu, và tôi mặc loại áo đầm nào; cho đến khi tôi nghĩ xong những chi tiết này trong truyện thì nỗi nhiệt tình ban sơ của toàn bộ câu chuyện không còn nữa.

Muộn hơn một giờ, chiếc xe tải trở về. Tấm vải dầu căng ra trên mái xe, nghĩa là có thịt thú ở trong đó. Mẹ tôi phải hâm nóng bữa ăn tối lần nữa. Henry và cha tôi thay áo quần đầy vết máu bằng những đồ làm việc hàng ngày, và họ rửa tay, rửa cổ và mặt ở trong cái bồn, khoát nước rửa mặt lên tóc và chải đầu. Laird đưa cánh tay lên khoe với mọi người một vết máu. “Chúng tôi đã bắn hạ con Flora,” nó nói “Và cắt nó làm năm mươi mảnh thịt.”

“Nhưng mẹ không muốn nghe mấy chuyện này,” mẹ tôi bảo. “Và đừng tới bàn ăn với những thứ dơ dáy như thế.”

Cha tôi bắt thằng Laird phải đi rửa các vết máu cho sạch.

Chúng tôi ngồi xuống bàn và cha tôi trò chuyện một cách vui vẻ và Henry đính cái kẹo cao-su ở đầu nĩa, theo cách anh vẫn làm; khi anh ta lấy miếng kẹo cao-su ra bao giờ chúng tôi cũng thán phục. Chúng tôi bắt đầu bữa tối, chuyền những cái bát đựng rau cải bốc khói, đun quá chín. Laird ngước nhìn tôi qua mặt bàn ăn, nói một cách rành mạch, vẻ kiêu hãnh, “Đó là lỗi của chị ấy, khiến con ngựa Flora chạy mất.”

“Cái gì?” cha tôi hỏi.

“Chị ấy có thể đóng cổng lại nhưng đã không làm vậy. Chị ấy còn mở toang ra để con Flora chạy sổng mất.”

“Có đúng vậy không?” cha tôi bảo.

Mọi người ngồi quanh bàn quay lại nhìn tôi. Tôi khẽ gật đầu, và trệu trạo nuốt thức ăn xuống. Thật là ngượng, nước mắt tôi bỗng trào ra.

Cha tôi chửi thề cộc lốc một tiếng rồi bảo, “Mày làm thế để làm gì chứ?”

Tôi không trả lời. Tôi hạ cái nĩa xuống, chờ bị cha đuổi đi, không ngẩng đầu lên.

Nhưng điều đó không xảy ra. Trong lúc lâu không một ai nói gì, cho đến khi Laird đưa ra nhận xét tỉnh bơ, “Chị ấy đang khóc.”

“Thôi bỏ đi,” cha tôi bảo. Ông nói một cách nhẫn nhịn, thậm chí hơi hài hước, những lời nói góp phần giải tỏa và tha thứ cho tôi. “Nó chỉ là một đứa bé gái thôi,” ông bảo.

Tôi không phản đối, ngay từ trong thâm tâm. Có lẽ đúng thế thật.



Bản dịch của Nguyễn Đức Tùng
------------
Dịch từ nguyên tác “Boys And Girls”, trong Alice Munro, Dance Of The Happy Shades (Toronto and New York: McGraw-Hill Ryerson Limited, 1968).

Hiện thể trong ý tưởng

Khaly Chàm


con mắt đỏ sẫm màu gạch nung
ngàn năm qua khoét sâu vào vách thời gian
ánh sáng lẩn khuất trong tận cùng gốc rễ vô hình

làm sao cho những vết cắt bóng tối được nối liền
trống rỗng hình hài tôi
sẽ mất hút theo tiếng gọi tiền kiếp

chúng ta bên bờ vực im lặng
ngôn từ nhiễm độc lô nhô khối u ác tính
âm thanh cụt lưỡi trôi lềnh bềnh ngang đường chân trời

mẹ già hoá khói chui qua lỗ thủng mái quê
sần sùi những ngón tay em che không kín mặt
bàn chân đàn bà trần trụi nứt nẻ
đội nước lên núi níu giữ vầng mây

không tìm thấy một cõi tầng nào
khi linh hồn muốn vượt thoát
sự khai mở những con đường
quay vòng từ khởi điểm nhảy múa
trong mắt những ngọn đèn thắp sáng
quá khứ tĩnh tại trầm uất màu gạch nung

Tôi và con người tôi

Bản dịch Hoàng Ngọc Biên



ANNA SWIRSZCZYNSKA
(1909-1984)

Có những lúc
tôi thực sự cảm thấy rõ hơn bao giờ
rằng tôi đang có bên mình
chính con người của tôi.
Điều này an ủi và làm tôi yên lòng,
nó làm tôi phấn khởi,
đúng y như cái thân thể ba chiều của tôi
phấn khởi nhờ chính cái bóng có thật của mình

Có những lúc
tôi thực sự cảm thấy rõ hơn bao giờ
rằng tôi đang có bên mình
chính con người của tôi.

Tôi dừng lại
ở một góc phố để quẹo trái
và tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra
nếu con người của chính tôi bước qua phải.

Cho đến giờ này điều ấy chưa xảy ra
nhưng câu hỏi vẫn không lắng xuống.

Người đàn bà từ thế giới bên kia

Lưu Lê Man ( Tên thật: Nguyễn Thị Nguyệt.
Sinh năm 1989, tại Phan Rang-Tháp Chàm, Ninh Thuận.
Hiện sống tại Saigon.)

Bốn giờ sáng
Đó là giờ để xé một tờ lịch
Và đón nhận sự cay đắng của mặt trời.

Thế nhưng ta biết nàng sẽ thức dậy
Vồn vập, vội vàng, một cái gì đó, phá tung cửa
Làm ta nghĩ tới thảm hoạ.

Phải mất bao nhiêu lâu ta mới có thể
Mở cánh cửa này và nhìn sự sống ùa vào
Tiếng thở của một người đàn bà trong cơn cuồng nhiệt

Ta đã chờ đợi, quá lâu
dù biết sẽ không có điều gì khác.
Thế nhưng ta lắng nghe, từ sau lưng cánh cửa
âm thanh của nàng.

Và nàng đến ngưỡng cửa của ta
Chân bước hoảng loạn
Ngón tay nàng bấu lên mọi bức tường, những tiếng kêu rất nhỏ
Tên ta
Và ánh mắt van nài.

Nhưng ta biết điều này không thật
Hai tiếng trước có thể là nàng, hai tiếng này thì không
Có một cái bảng trước nhà.
Nó kêu gào sự bố thí
Rằng sẽ đóng lúc 5 giờ, không có ai ở đó, bây giờ
Ngay cả tôi.

Nàng là một ai khác, một sức sống bị phá huỷ bên trong
Một sức sống đã bị ngăn cách lại, với giấc ngủ của mình.