PHẠM THỊ ANH NGA
Tiếp xúc với trường ca “Ngụ ngôn của người đãng trí” (1969) của Ngô Kha, bên cạnh sự khâm phục và ít nhiều đồng cảm, người đọc dễ dàng có cảm giác từng bước lạc vào một mê cung rối rắm, một thế giới lạ lùng tựa như mê hồn trận, đan xen giữa thực và mơ, hiện thực và ảo giác. Trường ca “Ngụ ngôn…” khá dài, gồm tất cả 788 câu thơ. Ngoại trừ sự phân chia thành tám trường đoạn, được đánh số La Mã (từ I đến VIII) nhưng không có nhan đề riêng, độc giả không tìm được ở đâu một dấu hiệu hay mốc cụ thể nào hầu có thể bấu víu vào mà giải mã: hầu hết các câu thơ đều không có dấu chấm câu, chữ đầu câu không viết hoa, câu từ nối kết với nhau như xâu chuỗi và những hình ảnh, câu chuyện dường như núm níu nhau một cách lạ lùng nhưng liền mạch.
Vận những đặc trưng của thơ siêu thực như đã được André Breton định nghĩa năm 1924 vào việc quan sát “Ngụ ngôn…”, có thể nhận ra trong suốt chiều dài của bản trường ca sự hiện diện ở nhiều chiều kích của thơ siêu thực, và điều này phần nào giúp chúng ta tìm được cho mình một mạch đọc tương thích với bản trường ca.
Chủ nghĩa siêu thực (Surréalisme) là một trường phái nghệ thuật cách tân phát triển ở Pháp vào giai đoạn giữa hai cuộc thế chiến của thế kỷ 20, mà nhà thơ André Breton là người đề xướng và giương ngọn cờ đầu. Nhà thơ Guillaume Apollinaire đặt tên cho trường phái mới đó là “siêu thực”, và chủ trương của nó thì được A.Breton nêu rõ trong “Tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực” (1924). Theo đó, lời nói, văn bản hay một hình thức thể hiện nào khác cũng đều phản ánh quá trình hoạt động thực sự của tư duy. Tư duy thế nào thì thể hiện ra thế ấy, mà lý trí không hề kiểm soát hay can thiệp, cũng như không có bất kỳ mối quan tâm nào về mặt mỹ quan hay đạo lý. Dấu hiệu để nhận biếtthơ siêu thực là lối viết tự động, những hình ảnh vụt lóe lên bất ngờ, từ ngữ va đập nhau một cách sáng tạo, những kết hợp ngôn từ quái lạ… Trào lưu nghệ thuật này tập hợp không chỉ những nhà thơ, mà cả các họa sĩ cùng thời. Trong các họa phẩm của họ, hiện thực và giấc mơ được đặt chồng lên nhau, đan xen lấy nhau với nhiều hình ảnh bất ngờ, đáng kinh ngạc về thực tại.
Xem xét “Ngụ ngôn…”, có thể thấy trường ca này thể hiện rất rõ nhiều đặc trưng của thơ siêu thực, tập trung vào hai mảng chính là sự khước từ thực tại và tính lô-gic, và sự hiện diện của những giấc mơ, của vô thức và trí tưởng tượng.
1. Sự khước từ thực tại và tính lô-gic
Trong “Ngụ ngôn…”, thực tại chỉ thi thoảng hiện ra và len, lẫn giữa muôn vàn những ngôn từ, câu cú, hình ảnh kỳ dị, những liên tưởng bí ẩn và xâu chuỗi lạ lùng khiến nó ít nhiều bị che lấp.
Từ “nét mặt hiền hòa bất động của em” là một chi tiết thuộc về thực tại, đến “tôi thấy nốt ruồi son chói lọi” dường như đã là một sự vượt thoát, để sau đó những hình ảnh tiếp theo lại hiện ra như trong giấc chiêm bao huyền ảo, thậm chí kỳ quặc:
trên nét mặt hiền hòa bất động của em
tôi thấy nốt ruồi son chói lọi
tiếng chim sành hót trong tiềm thức người say rượu
vỏ cây nứt một loài hoa vô sắc (c.79-82)
Những hành động, sự kiện tưởng như bình thường trong dòng tự sự cũng đã thoát ra khỏi khung cảnh thực tại và có vẻ phi lô-gic:
người say rượu cắm hoa immortel lên vết thương
và vết thương nẩy lộc
trong tấm áo cỏ khô mùa hạ
người say rượu đắp bùn lên trái tim (c.68-71)
Rất nhiều những hành động dị kỳ, những hình ảnh dị kỳ, đặc biệt là nhiều trường hợp ngôn từ và hình ảnh được kết hợp một cách bất ngờ, tạo nên hiệu ứng và sức hút bí ẩn:
người say rượu uống nhựa thông nằm chết tình cờ (c.85)
người say rượu uống hỏa châu
đội mũ triều thiên
người say rượu bước vào công viên dã tràng
mây hồng hoang mở ngõ
giữa khu rừng mộng mị của người thiếu nữ da đen (c.30-34)
Cách sử dụng ngôn từ bằng cách đặt cạnh nhau những từ ngữ tưởng chừng như rất “chỏi” nhau, không thể nào tương thích cũng là đặc trưng của thơ siêu thực. Bởi câu thơ không còn tuân thủ những lề luật cứng nhắc mà được chính mạch suy tư, cảm quan của nhà thơ vạch đường, gợi ra thành những xâu chuỗi ngôn từ, hình ảnh đầy ấn tượng (“tuyết đen”, “những dòng chữ chảy từng hàng não sống”, “khoảng vô hình nhìn tôi”…):
mùa hè có tuyết đen tuyệt đẹp (c.74)
tôi hay nói chuyện về những dòng chữ ngụ ngôn
những dòng chữ chảy từng hàng não sống
trên chiếc máy in hùng hồn của thác nước
những dòng chữ khai sinh (c.99-102)
tuổi thơ của tôi
chỉ là những đốt xương trắng (c.145-146)
tôi bẻ nhánh xương rồng quơ lên hư không
người con gái ho khúc khắc rất đau đớn
tôi chạy theo cánh sao cỏ mùa
người con gái biến đi mất
bây giờ chỉ còn sa mạc
và khoảng vô hình nhìn tôi vĩnh viễn (c.155-160)
Bản thân nhà thơ cũng phân thân thành hai, ba thực thể, nhân vật: không chỉ ở chỗ vừa là “tôi” vừa là “người đãng trí”, và vừa là “người say rượu” hay “đứa con trai”…, mà những nhân vật được tách chiết ra từ chính nhà thơ cũng tiếp xúc, đối thoại với nhau, tương tác với nhau như thể đang cùng tồn tại trong một thế giới huyền thoại nào đó:
Bây giờ tôi mang hoa đến dòng sông
đọc diễn văn truy tặng người đãng trí (c.1-2)
tôi và người say rượu hát bài ngụ ngôn (c.20)
tôi cầm tay người say rượu nói về trái đam mê (c.43)
người say rượu cầm tay đứa con trai
gọi tên ngày ra đời
đứa con trai giằng co với người say rượu
cả hai đi khỏi vùng ảnh hưởng của dòng sông (c.50-53)
tôi vụt chạy bỏ linh hồn ở đó
không có đứa con gái, đứa con trai, người say rượu
chỉ có quả gấc hồng hào rực ánh lửa chiến tranh (c.75-77)
Bản thân “tôi” cũng có thể là hai thực thể tách lìa:
tôi bỏ một mình tôi ở lại (c.110)
người con gái ho khúc khắc rất đau đớn
tôi chạy theo cánh sao cỏ mùa
người con gái biến đi mất
bây giờ chỉ còn sa mạc
và khoảng vô hình nhìn tôi vĩnh viễn (c.155-160)
Bản thân nhà thơ cũng phân thân thành hai, ba thực thể, nhân vật: không chỉ ở chỗ vừa là “tôi” vừa là “người đãng trí”, và vừa là “người say rượu” hay “đứa con trai”…, mà những nhân vật được tách chiết ra từ chính nhà thơ cũng tiếp xúc, đối thoại với nhau, tương tác với nhau như thể đang cùng tồn tại trong một thế giới huyền thoại nào đó:
Bây giờ tôi mang hoa đến dòng sông
đọc diễn văn truy tặng người đãng trí (c.1-2)
tôi và người say rượu hát bài ngụ ngôn (c.20)
tôi cầm tay người say rượu nói về trái đam mê (c.43)
người say rượu cầm tay đứa con trai
gọi tên ngày ra đời
đứa con trai giằng co với người say rượu
cả hai đi khỏi vùng ảnh hưởng của dòng sông (c.50-53)
tôi vụt chạy bỏ linh hồn ở đó
không có đứa con gái, đứa con trai, người say rượu
chỉ có quả gấc hồng hào rực ánh lửa chiến tranh (c.75-77)
Bản thân “tôi” cũng có thể là hai thực thể tách lìa:
tôi bỏ một mình tôi ở lại (c.110)
tôi đuổi bắt tôi
chập chờn cơn ác mộng (c.149-150)
Không - thời gian cũng không còn đơn thuần của thực tại mà được bóc tách thành không - thời gian của hiện thực và không - thời gian của ảo giác. Ở đó con người dịch chuyển qua lại dễ dàng giữa không - thời gian thực tại và không - thời gian huyền ảo:
cây đàn thủy tinh chở tôi qua dãy núi
đi thăm kỷ niệm (c.123-124)
tôi cỡi lạc đà qua rừng gió (c.126)
tôi biền biệt trôi đi
trong hoàng hà tĩnh vật (c.219-220)
Và cùng với hiện tại, trái với lẽ thường, còn có sự đồng hiện của tương lai và quá khứ, ở đó thực tại của hiện tại và thực tại của tương lai và của quá khứ hòa lẫn vào nhau như trong giấc chiêm bao hay trong trí tưởng tượng:
người say rượu hát bài trần tấu kẻ bán than
những tiếng trầm dấu tích thời đá cũ (c.40-41)
chiều đóng cổng giam cầm năm đứa con trai
trong khu vườn tiền sử (c.44-45)
dòng sông đen bắc cầu qua núi
với con voi ngà thời thượng cổ
hai chiếc sừng tráng lệ (c.242-244)
mạch đất quê hương giờ lạnh rồi
sao mắt mẹ còn mở
sách trên án thư cũng ngủ khuây
nhưng hồn mẹ vẫn thao thức
con đã đi bao năm
mẹ không rời ngưỡng cửa
và nay
gió cũng tang bồng
nhưng thi sĩ vẫn nằm yên trong nhà tù vĩnh cửu. (c.780-788)
2. Sự hiện diện của những giấc mơ, của vô thức và trí tưởng tượng
Câu thơ nối câu thơ, từ nối từ như tuôn chảy từ một mạch nguồn vô tận những ngôn từ, hình ảnh, từ ảo mộng đa chiều, đa sắc màu, đa hình tượng và lung linh huyền thoại, là cái bóng hắt trực tiếp từ thế giới vô thức của một kẻ mộng du hay người bị thôi miên. Và ở đó lý trí, tính lô-gic thông thường hoàn toàn vắng bóng:
nhà mọi người giờ nầy đã úp mái
chỉ có bầy gà hoang đẻ trứng vàng trên tàng cau (c.111-112)
ôi hỏa mù và trái sáng
cơn mưa hồng trên thịt da người
đêm đêm căn phần đóng ngõ
chỉ có khúc ai từ mọc trên cánh đồng quê (c.266-269)
con sư tử đá nửa khuya thức dậy khoác áo ngũ hành
đi thăm miền tĩnh vật (c.394-395)
người hành khất già nua
trên cằm mang một chùm sao Bắc đẩu (c.555-556)
nước mắt chỉ là vị cường toan
phòng thí nghiệm chiến tranh chứa đầy thức ăn
cho người yếm thế (c.620-622)
nếu bể không có những đứa con ngang tàng
như con sao biển đã đi qua nhiều đại lục
nếu bóng tối chẳng hiểu gì
tiểu sử về mái tóc em
thì quả đồng hồ
chỉ là một trái cam
dành cho người bệnh
thôi
em hãy châm lửa đâm mù mắt tôi
xin đừng căng dây đàn trái đất nầy (c.714-723)
tôi chỉ còn hồn tôi trong gió lốc cuồng si
với vần thơ hoang đường cưu mang nhục thể
như khúc hát độc huyền của kẻ câm
xin đừng trách tôi là người phù thủy (c.760-763)
tôi đi qua khu rừng không dấu tích
ba vành khăn tang lơ lửng ngó cành cây
dòng sông đen bắc cầu qua núi
với con voi ngà thời thượng cổ
hai chiếc sừng tráng lệ
và hai chiếc lưỡi lê
tôi bước xuống tầng cấp cuối cùng
cơn say đã thức dậy
không thấy nàng thơ khổ hạnh
chỉ có người con gái cài trâm lên đầu cho giấc mơ (c.240-249)
Không còn những rào cản của lề luật thi ca, những câu thơ trở nên tiếng nói bộc bạch của giấc mơ, trí tưởng tượng, của hoang tưởng, của giấc chiêm bao mộng mị mà chính nhà thơ cũng phần nào ý thức:
giữa khu rừng mộng mị của người thiếu nữ da đen (c.34)
người con gái mộng mị chiến tranh (c.57)
thời khắc dài như đường bay ác mộng (c.150)
tôi đuổi bắt tôi
chập chờn cơn ác mộng (c.149-150)
tôi ăn quả trứng vàng mộng mị (c.185)
giữa tuần trăng
cây sầu đông bỏ lại
cơn mộng du của người đãng trí dưới mưa rào (c.222-224)
Ở đó thực tại thi thoảng lại vụt lóe lên (“chiếc nhẫn hỏi không còn”, “chiếc nhẫn cưới bay mất”, “tôi không còn cuộc hôn nhân kỳ dị”):
cơn hạn hán dẫn tôi đi khỏi vùng cấm địa này
chiếc nhẫn hỏi không còn
người con gái móc mắt tôi ném xuống hồ thủy ngân (c.170-172)
con đà điểu cắp cánh tay người yêu tôi đi
chiếc nhẫn cưới bay mất
tôi không còn cuộc hôn nhân kỳ dị
người con gái đâm mù mắt tôi
bằng hai quả trứng vàng (c.180-184)
cuộc hôn phối đa đoan của đời mình (c.712)
… hay thấp thoáng mơ hồ nhưng đoán định được (“cánh tay người yêu tôi đã xây mộ phần”):
cuộc giang hồ có ngàn lần ái ân
nhưng con đà điểu đã che mất huyền thoại
cánh tay người yêu tôi đã xây mộ phần
con đà điểu đập cánh ăn năn
nỗi vô vọng hồi sinh trong gió (c.190-194)
3. Cái chết, nỗi ám ảnh khôn nguôi
Trong dòng tuôn chảy liền mạch của ngôn từ và ý tưởng, với những liên tưởng lạ lùng và bất ngờ đó, hình ảnh cái chết cứ khi ẩn khi hiện, trở tới trở lui và rải khắp trong suốt chiều dài của bản trường ca. Những từ “chết”, “cái chết”, “tử thần” và những ngôn từ liên quan xuất hiện tương đối dày trong bản trường ca lột tả được nỗi ám ảnh thường trực về cái chết, những âu lo sâu kín và liên tưởng mộng mị từ trong vô thức của nhà thơ.
Từ “chết” xuất hiện khá nhiều, phần lớn tập trung ở nửa sau bản trường ca:
người say rượu uống nhựa thông nằm chết tình cờ (c.85)
tấm bảng chỉ đường có hình con ngựa ô
mang tên em nằm chết trên bụi cỏ (c.236-237)
đứa con trai khoác áo chim hồng bay qua đỉnh núi
với cái chết từ bi như thạch cao (c.313-314)
tình yêu là xác chết (c.383)
bây giờ em chết đi (c.421)
tôi sẽ chết như mùa đông trút lá cây hờn tủi (c.431)
nhiều cô gái ẩn ức đã chết đi (c.488)
Trong mỹ từ của người đã chết
người đang chết
và những người sắp đi vào cõi chết (c.582-584)
tổ tiên ta chết đi làm phân bón (c.592)
tự sát bằng cô đơn nên chẳng bao giờ chết (c.600)
người lính bồng súng chào cái chết của một ngày (c.619)
kiểm điểm chuyện thần thoại của bể dâu
bao nhiêu trùng dương đã chết rồi (c.650-651)
cái chết lạc quan không được mọi người nhắc nhở (c.704)
Về những từ ngữ khác liên quan đến cái chết, nếu cụm từ “đoàn tử tù” được nhắc đi nhắc lại đến 14 lần trong trường đoạn VII (c.479-586 (*)), thì những từ ngữ còn lại (“truy tặng”, “chúc thư”, “tuẫn tiết”, “chiến tranh”, “tử thần”, mộ phần”, “tử thi”, “vành khăn tang”, “căn phần”…) đã xuất hiện từ những câu thơ đầu tiên và trải dài trong suốt bản trường ca:
Bây giờ tôi mang hoa đến dòng sông
đọc diễn văn truy tặng người đãng trí (c.1-2)
tôi đếm dấu chân nai trên bản chúc thư tình yêu (c.8)
tiếng dương cầm của hoa lài
tuẫn tiết (c.48-49)
người đàn bà ngồi trên công viên
tay cầm con sư tử đá
ra lệnh chiến tranh
cơn say đến giáp mặt tử thần (c.63-66)
người con gái lặng im nghe chúc thư (c.88)
cánh tay người yêu tôi đã xây mộ phần (c.192)
bầy quạ vàng là tử thi của hai người bạn (c.204)
tôi đi qua khu rừng không dấu tích
ba vành khăn tang lơ lửng ngó cành cây (c.240-241)
đêm đêm căn phần đóng ngõ
chỉ có khúc ai từ mọc trên cánh đồng quê (c.268-269)
cỏ còn xanh như ánh mắt tử thần
nhạc giáo đường trôi trên thi thể của hoàng hôn
của hư vô của niềm tuyệt vọng cháy sáng (c.290-291)
con muỗi mắt tuyệt mệnh trên cánh hoa phù dung (c.306)
tôi lớn lên để tiễn đưa bạn bè từ giã cuộc sống (c.310)
bốn bức tường tuyệt mệnh chôn vùi vết chân chim
khi trăng non rụng trên tấm hình hài rã mục
em ôm vành khăn tang
cúi đầu làm người con gái Việt Nam (c.316-319)
tên em trên tảng bia (c.341)
đêm đêm
tiếng chó tru linh hồn (c.371-372)
có ai gọi hồn trong tiếng hú khuya (c.379)
những nến trắng tiễn chân người chiến sĩ về hư vô (c.401)
nấm đất ải khô dành riêng cho bè bạn
nhỡ mai nầy từ giã cuộc đời
với bàn tay vôi đá… (c.405-407)
tiếng trống não nùng vang động bờ vĩnh cửu
mưa đá nhẹ nhàng rơi vào cõi vô biên (c.563-564)
nhạc giáo đường đưa vòng hoa tiễn chân (c.597)
trên con tàu của người tử tội (c.607)
hằng đêm thèm tự sát (c.610)
những con sông chảy qua cánh đồng mang thây người (c.612)
hai mươi bốn giờ đi qua những tử thi còn mở mắt
có những người lính âm thầm đưa chân dung mình đến huyệt (c.616)
than đá thao thức đọc kinh cầu nguyện
cho những người khuất mặt (c.639-640)
mắt hư vô lạc vào khu nghĩa địa
con chó sói sợ hãi linh hồn trên đọt cây (c.663-664)
trên cánh đồng không có hoa
không có người
chỉ có chim ác là đậu trên những đốt xương (c.674-676)
mặt trời thổ huyết giữa rạng đông
chiếc xe tang chở cánh sao ban mai vĩnh biệt (c.684-685)
ngày ngày mặt trời giết ta
bằng con dao tự sát của hoàng hôn (c.691-692)
tên mọi người đã ghi vào viên đạn
quê hương lầm than chỉ có chiến tranh (c.697-698)
làn nước bạc kia chỉ là con dao của người tự sát
đã bỏ quên (c.746-747)
v.v..
Và cứ thế, những u uẩn bên trong vô thức, những giấc mơ, ảo giác và những ám ảnh nối nhau hiển lộ trong bản trường ca của nhà thơ, một người đãng trí tự nguyện, có chủ ý, trước những bế tắc của vận nước và tình riêng mà chính mình chưa tìm ra lối thoát.
*
Với trường ca “Ngụ ngôn…”, đọc và thử giải mã nó trước nay vẫn là một thách đố cam go, một thử thách không dễ gì vượt nổi. Như trước một trận đồ bát quái, mỗi người tự vạch lối đi cho chính mình. Nếu đối với nhà thơ siêu thực, bài thơ là kết quả của một cách viết tự động, của sự tuôn trào liền mạch do tư duy trực tiếp sai khiến, điều khiển, thì với người đọc, lần tìm dấu vết những mạch ý tưởng đó là một quá trình nhẫn nại mày mò nhằm nhận diện, bóc tách, tập hợp… đầy gian nan và run rủi.
Vạch được một lối đi trong thế giới hỗn mang đó, dù một cách mơ hồ, cũng đã là bước đầu khám phá, thấu thị, dẫu có khi đó chỉ tuyền là ảo ảnh.
Nhưng ngay trong cuộc đời này, giữa thật và ảo, giữa thực và mơ, có phải bao giờ cũng có thể tách bạch, rạch ròi… Và có phải bao giờ cũng cần phải thế hay không.
P.T.A.N.
------------------------------------------
(*) Cụ thể là các câu thơ 479, 482, 501, 511, 518, 551, 560, 562, 565, 566, 575, 576, 585, 586.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét