Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

TÂM LÝ CHỐNG CỘNG


Nguyễn Viết Đắc



Hiện nay vẫn tồn tại tâm lý chống nhà nước cộng sản VN dù sau năm nhà nước này đã lãnh đạo đất nước khá thành công. Ta có thể điểm qua vài tâm lý chống cộng như thế để đánh giá vấn đề và lý giải nhiều hiện tượng xảy ra một cách khó hiểu gần đây. Những đối tượng đưa ra câu trả lời trong đây có thể đang sống ở nước ngoài đã lâu, mới sang định cư, hoặc vẫn còn ở trong nước.
A. Tâm lý chống cộng B. Tâm lý không chống cộng

1. Hỏi: Xin cho biết tại sao ông/bà có tâm lý chống cộng ạ?



Đáp: Tôi là sĩ quan của quân lực VN cộng hòa, sau khi miền Nam bại trận, tôi bị bắt đi học tập cải tạo suốt 7 năm cực khổ vô cùng. Sau đó tôi sang Mỹ theo chương trình HO. Sự nhục nhã của việc chiến bại là nỗi đau khó quên của một người lính, nhất là sĩ quan cấp tá như tôi. Thêm nữa là sự đày ải lúc học tập cải tạo làm thành sự thù hận khó quên. Vì vậy tôi phải chống cộng và bảo các con cháu tôi phải chống cộng như là sự khẳng định giá trị của mình. Nếu không chống cộng thì tôi không còn là sĩ quan cấp tá ngày xưa nữa.



1. B phản hồi lại:. Thưa ông, lúc mà ông cực khổ thiếu thốn ở trong trại cải tạo thì ở bên ngoài nhiều người còn cực khổ hơn ông vì cả nước vừa đi qua cuộc chiến hoang tàn, kinh tế chưa khôi phục, Mỹ bao vây cấm vận triệt để. Từ một nước trong chiến tranh sống nhờ viện trợ Mỹ nên phồn vinh giả tạo, đến khi hòa bình tạo lập cuộc sống của mình với đôi bàn tay trắng thì làm sao tránh khỏi sự thiếu thốn cơ cực ban đầu.

Hơn nữa Nhà nước cộng sản đã không giết ông như nhiều trường hợp thắng trận trong lịch sử loài người, mà chỉ giam giữ để bảo đảm các ông không nổi loạn chống phá chế độ, đó cũng là sự độ lượng hiếm có. Nhờ vậy mà ông còn có ngày qua Mỹ để chống cộng như thế này.

Tâm lý thông thường thì kẻ thắng trận sẽ kiêu mạn, kẻ bại trận sẽ hận thù. Ông cũng có tâm lý rất bình thường như thế chứ không vượt lên được. Kẻ thắng trận đã độ lượng, đã kêu gọi hòa hợp, chỉ có những kẻ bại trận vẫn hận thù. Các ông lại tiếp tục thua trong mặt trận đạo đức nữa rồi.

Nếu xét về mặt chính nghĩa hay phi nghĩa thì chính quyền miền Nam do Thực dân Pháp để lại, do Mỹ chỉ đạo nuôi dưỡng, còn chính quyền miền Bắc thì là lực lượng giành độc lập cho VN, ghi một trang sử chói ngời cho dân tộc. Chế độ cộng sản của Hồ Chí Minh cũng chẳng phải là cộng sản của Nga hay Tàu, mà mang đậm tính dân tộc với đạo lý truyền thống Nho và Phật, rất đậm đà bản sắc dân tộc Á đông.

Ông chống cộng để được mọi người xem là sĩ quan cấp tá ngày xưa, để thỏa mãn những tự ái của cá nhân, chứ không phải vì lợi ích của VN. Động cơ chống cộng như vậy không chính đáng, rất ích kỷ. Xin ông hãy nghĩ lại, hãy vượt qua tự ái cá nhân để nghĩ đến hạnh phúc của 80 triệu dân Việt đang phấn đấu vươn lên từng ngày sánh vai với thế giới. Chúc ông khỏe mạnh, hạnh phúc.


2. Hỏi: Tại sao ông/bà có tâm lý chống cộng ạ?

Đáp: Tôi là người theo Thiên Chúa giáo, tin vào Chúa là Đấng toàn năng nhân từ. Đạo của chúng tôi có hệ thống lớn lao từ Roma tỏa ra khắp thế giới, thế mà cộng sản vô thần, không tin Chúa, xem thường linh mục, hạn chế quyền lợi của đạo giáo. Vì thế chúng tôi phải chống cộng.



2. B phản hồi lại:: Ông bà có nhớ là trước khi chiếm VN, Pháp phải truyền đạo để có được tín đồ Ki tô làm tay sai cho cuộc xâm lược của họ không? Nhiều anh hùng của dân tộc kháng chiến chống Pháp bị giáo dân chỉ điểm cho Pháp vào bắt tận chiến khu rồi bị hành hình thê thảm. Sự nô lệ của VN trong gần trăm năm là có sự tiếp tay của giáo dân Ki tô đấy.

Từ khi theo Ki tô, tín đồ không còn lòng yêu nước nữa mà chỉ yêu kính Chúa của người Do thái, chỉ vâng lời giáo hoàng ở Roma. Tín đồ cũng không còn nhớ sử Việt với nguồn gốc Rồng Tiên, mà chỉ nhớ nguồn gốc dân Do thái. Tín đồ không còn hướng về phụng sự tổ quốc nữa, mà chỉ lo phụng sự cho tập đoàn Ki tô toàn cầu. Đây là sự nhục nhã tột độ của dân tộc VN.

Ngoại bang truyền niềm tin thiên chúa cho mình không phải vì thương mình, mà thật ra chỉ là thực hiện tham vọng mở rộng đế quốc Ki tô ra khắp thế giới. Ki tô và chính trị Mỹ cũng là một. Ki tô mở rộng đến đâu là quyền lực của Mỹ mở rộng đến đó. Tín đồ Ki tô thật ra đang là lính của Mỹ mà thôi. Chúa Jesus vẫn u buồn cúi mặt trên thập giá, chỉ có Roma và Washington là đem Jesus ra lợi dụng cho tham vọng bá quyền của mình.

Bên Mỹ có một Đảng bí mật điều khiển cả 2 đảng Cộng Hòa và Dân chủ. Khẩu hiệu của Đảng này là: Đảng trước, Chúa sau (Party first, God second). Họ vô thần còn hơn cả Marx và Lenine nữa. Nhưng tín đồ của Kitô thì không biết gì, vẫn thờ Chúa, vâng lời cha, theo Mỹ, và chống cộng.

Hiện nay tại các nước Phương Tây, tín đồ Kitô bỏ đạo hàng loạt, nhà thờ vắng tanh, linh mục thất nghiệp, nhưng ngược lại tại VN thì tín đồ vẫn ngoan đạo chăm chỉ, và đang bị lôi kéo vào tâm lý chống cộng, chống lại một nhà nước bao năm qua đã hết sức mình dựng xây bảo vệ quê hương.

Những giáo điều trong thánh kinh bible có nhiều điểm cực kỳ vô lý, không thể chấp nhận được trong thế giới văn minh ngày nay, nhưng điều rất lạ là vẫn còn nhiều người tin theo mù quáng.

Khi Kitô cai trị VN dưới thời Ngô Đình DIệm thì chèn ép Phật giáo nghẹt thở đến nổi hòa thượng Thích Quảng Đức phải tự thiêu để phản đối. Bây giờ khi bị hạn chế sự tung hoành thì Ki tô đòi phải tự do tín ngưỡng nhân quyền. Các khẩu hiệu chính trị chỉ là phương tiện chứ không phải là lý tưởng gì đâu ạ.

3. Hỏi: Tại sao ông/bà có tâm lý chống cộng ạ?

Đáp: Tôi là lớp trẻ lớn lên từ Mỹ, không biết gì về cộng sản. Tôi thích mạo hiểm và được CIA tuyển dụng, đào tạo. Nhiệm vụ của tôi là phải về VN để kích động tâm lý chống cộng, tôi xâm nhập vào mọi tầng lớp quần chúng để điều nghiên, và xúi giục chống nhà nước sộng sản. Dĩ nhiên tôi phải trả tiền cho những người bản địa giúp việc cho tôi trong việc lôi kéo người chống cộng. Nếu có thời cơ thì chúng tôi tổ chức biểu tình để cho báo chí quốc tế lên dư luận. Nếu thành công trong mission này thì tôi sẽ được thăng chức, thưởng tiền, du lịch…



3. B phản hồi lại:: Vì anh là nhân viên tình báo nên anh phải vâng lệnh cấp trên, nhưng có khi nào anh cảm thương cho một dân tộc suốt bao nhiêu năm qua đã chiến đấu ngoan cường cho độc lập của tổ quốc, bây giờ phải cố gắng xây dựng đời sống văn minh no ấm, rồi cũng không được yên thân, phải chống trả lại các âm mưu chống phá bằng tình báo chính trị của các anh rất vất vả.

Người VN hiền lành không muốn gây sự với ai, nhưng cứ bị các lực lượng tình báo biệt kích của các anh thả người xuống đánh phá hết nơi này đến nơi khác. Tuần nào các canh cũng thả biệt kích xuống vùng biên giới để tấn công doanh trại, làng mạc, dân cư, và bộ đội phải lùng sục chống trả cực khổ. Hòa bình của VN vẫn còn phải trả giá bằng xương máu của chiến sĩ hằng ngày.

Rồi lực lượng tình báo chính trị của các anh cứ xâm nhập luồn vào các cộng đồng dân cư, doanh nghiệp, sinh viên, công nhân, nông dân… để xúi giục chống phá chế độ. Các anh làm cho VN không có ngày nào được yên ổn. Để giữ cho đất nước bình yên thế này là sự cực khổ mồ hôi nước mắt của biết nao con người. Mà chẳng riêng gì VN, các anh thả người đi khắp thế giới để khuấy phá sự bình yên của các quốc gia, muốn lật đổ chính quyền của người ta, muốn dựng lên một chính quyền tay sai của Mỹ. Quả báo mà các anh sẽ phải chịu là nước Mỹ sẽ bị căm ghét khắp thế giới, rồi sẽ bị tấn công ngay trong lòng nước Mỹ.

Nếu các anh yêu thương nước Mỹ của anh thì các anh hãy tạo phúc cho nước Mỹ bằng cách là giúp cho các nước khác ổn định bình yên, đừng chống phá nữa.

Hơn nữa, dòng máu của anh vẫn là dòng máu VN, dù bây giờ anh mang quốc tịch Mỹ. Vì thế, hãy yêu thương đất nước này, hãy tự hào anh có tổ tiên anh hùng đã từng đánh bại nhiều kẻ xâm lăng hung hãn nhất thế giới, hãy nhớ mình là con của Rồng, cháu của Tiên. Và hãy làm gì đó để giúp đỡ đất nước mình tiến lên cùng thế giới.


4. Hỏi: Tại sao ông/bà có tâm lý chống cộng ạ?
Đáp: Tại tui thấy mấy ông cán bộ hống hách, tham nhũng, ăn tiền của dân, nên tui ghét chế độ.

4. B phản hồi lại:: Đúng vậy, mỗi một cán bộ là đại diện cho cả một chế độ mà đi tham nhũng, hối lộ, hống hách sẽ khiến cho dân bất mãn vô cùng. Điều mà cán bộ không bao giờ ngờ được là mỗi cá nhân của họ khi đứng trước dân lại là đại diện cho cả một chế độ. Họ không ngờ như vậy nên đã cư xử tùy tiện theo cảm tính của mình mà không thấy trách nhiệm nặng nề của mình với tổ quốc.

Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, nước nào cũng nhức đầu vì nạn tham nhũng hoành hành chẳng khác gì VN. Lương nhà nước cấp thì hiếm khi nào đủ sống, nhu cầu lo cho vợ con thì rất nhiều, cộng thêm với đời sống bên ngoài tăng cao kích thích con người phải tìm kiếm tiện nghi để không thua kém ai. Đến khi có cơ hội ai đó đưa ra "Lời đề nghị khiếm nhã" hối lộ một số tiền lớn thì ít có cán bộ nào cầm lòng được. Mà kẻ xấu chủ trương dùng tiền để phá vỡ pháp luật là nhiều nhan nhản, nên lúc nào cũng có kẻ sẵn sàng hối lộ.

Đạo đức con người có giá trị giới hạn. Có người 50 triệu không mua được, nhưng sẽ gục ngã trước 60 triệu; có người 900 triệu không mua được, nhưng sẽ gục ngã trước 1 tỉ; có người 10 tỉ không mua được, nhưng sẽ gục ngã trước 11 tỉ… Một tên tư bản tình báo đã nói rằng cái gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng rất nhiều tiền. Chủ trương dùng tiền để hối lộ rồi đục thủng hệ thống chính trị quốc gia là một đe dọa lên chế độ từng ngày. Mỗi cán bộ nhận một đồng hối lộ là đập một búa vào sự tồn tại của chế độ.

Đó là phần của cán bộ, bây giờ tới phần của dân. Cái cảm giác khi ta thấy một cán bộ làm sai rồi ta oán trách cả chế độ là rất quá đáng, rất thiếu công bằng. Cả đất nước tiến lên từng ngày, bao nhiêu gia đình thoát dần nghèo đói, các đường dây điện len lỏi vào nhiều làng quê hẻo lánh, bao nhiêu đường sá bò dần tới những thôn xóm xa xôi, đời sống ai cũng khá lên hơn trước… tất cả điều đó nói lên sự cố gắng phi thường của Nhà nước VN trong bao nhiêu năm qua. Chưa bao giờ VN có diện mạo và sức sống như thế này trong suốt lịch sử của dân tộc. Vì vậy, hãy bỏ xuống lòng oán trách của mình để hợp tác với Nhà nước trong việc xây dựng và bảo vệ quê hương.

Còn những cán bộ nào phạm sai lầm thì ta tố cáo riêng cán bộ đó. Nếu cấp trên không xử thì ta lại tố lên cấp cao hơn nữa. Sự giám sát của nhân dân cũng là phương pháp giúp cán bộ đứng vững trước cám dỗ. Phần Lan được khen tặng là nước ít tham nhũng nhất cũng bởi vì họ lập ra cơ chế toàn dân giám sát công chức rất hiệu quả. Con người hiếm khi tự giữ mình cho tốt trong bóng tối được, vì vậy, sự giám sát minh bạch là phương pháp rất tốt để giúp con người tránh được lỗi lầm.

5. Hỏi: Tại sao ông/bà có tâm lý chống cộng ạ?

Đáp: Bởi vì cộng sản chủ trương một đảng, rất độc tài. Tôi muốn xã hội phải đa đảng đa nguyên để có sự cạnh tranh tự do hơn, giống như nhiều nước tiến bộ văn minh trên thế giới.

5. B phản hồi lại:: Chúng ta vừa nhầm lẫn giữa mục đích và phương tiện. Mục đích của quốc gia là làm sao cho dân giàu nước mạnh, đời sống ấm no hạnh phúc về vật chất, thăng tiến về tinh thần, không xảy ra chiến tranh, an ninh xã hội được đảm bảo, người dân có cơ hội được học hành, và được đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước…

Mục đích là như thế, nhưng phương tiện để đạt đến mục đích đó thì có thể khác nhau. Ngày xưa nơi chế độ quân chủ độc quyền, nhà vua nắm hết quyền hành và tài sản quốc gia, nhưng cũng có nhiều triều đại đem lại hạnh phúc cường thịnh cho đất nước, và cũng có những triều đại gây đau khổ cho dân chúng. Vì để đối phó với nạn độc tài của vua chúa nên nhân loại chuyển sang chế độ dân chủ đa đảng. Ta nên nhắc lại, dân chủ đa đảng là dùng để đối phó với sự độc tài của vua chúa, chứ không phải là chế độ ưu việt khi đất nước bị ngoại xâm phá hoại.

Khi đất nước bị ngoại xâm đe dọa, hoặc bằng quân sự, hoặc bằng tình báo, thì chế độ đa đảng bộc lộ vô số nhược điểm. Đa đảng cho ta cảm giác tự do, nhưng quyền lực của quốc gia bị phân tán và không đủ sức chống đỡ khi ngoại bang dùng thủ đoạn chống phá, nhất là ngày nay tình báo của đế quốc len lỏi vào các cấp cao nhất để thao túng chính quyền, phá hoại sự độc lập chính trị của đất nước. Trong chế độ đa đảng, các đảng lo cạnh tranh lá phiếu, giành nhau quyền lực, nên hệ thống an ninh quốc gia bị bỏ sót rất nhiều, và thế là tình báo giặc thoải mái luồn người vào nắm dần dần. Thái lan là một ví dụ sống động, các đảng lo giành nhau quyền lực, Hồi giáo cứ từ từ mua chuộc từng quan chức, mua chuộc các sư trụ trì các chùa, cho đến ngày công khai ra mặt chiếm giữ chính quyền, tạo điều kiện cho Hồi giáo miền Nam khủng bố đuổi dân Phật giáo đi.

Còn các nước đa đảng mà vẫn phát triển ổn định vì bí mật đằng sau đều có một đảng thống trị tuyệt đối. Các đảng phái khác cứ giả vờ tranh nhau ứng cử, nhưng thật sự là đằng sau có một quyền lực ngầm đạo diễn tất cả, nên đất nước rất ổn định. Đó là nguyên tắc, là quy luật, chỉ có quyền lực tập trung thì quốc gia mới ổn định. Nếu quyền lực quốc gia bị phân tán thì đất nước sẽ suy yếu ngay lập tức. Nhiều quốc gia đa đảng đều lộn xộn rối loạn mất ổn định chỉ vì họ chưa có một đảng bí mật thống trị hết tất cả các đảng kia.

Một đảng thống trị tuyệt đối thì cũng dễ xuất hiện sự thiên vị, lạm quyền, bè phái, bao che… Vì vậy, chế độ một đảng rất cần một lãnh tụ anh minh, sáng suốt, yêu nước, tổ chức sự giám sát của nhân dân lên hành vi của từng cán bộ.

Việt Nam ta chưa có một ngày được bình yên thật sự, các thế lực thù địch vẫn tổ chức đánh phá từng ngày. Chỉ cần ta lơi lõng một giây thì nền an ninh chủ quyền quốc gia bị đe dọa liền. Bây giờ mà ta chuyển sang đa đảng thì vài tháng sau là tất cả tan tành, đất nước sẽ bị băm nhỏ, chia để trị, và không còn cơ hội để xây dựng một nước VN hùng cường trên thế giới nữa.

Ngoại bang đưa những tôn giáo phi dân tộc truyền bá ồ ạt là dấu hiệu chúng chuẩn bị cho một cuộc xâm lăng lần nữa, giống như thực dân Pháp phải truyền Kitô trước khi đưa quân đội tới đánh ta là như thế. Chính Đảng CSVN này đã từng giành độc lập thống nhất cho VN, cũng chính Đảng này đang xây dựng đất nước tiến lên từng ngày, cũng chính Đảng này đang bảo vệ an ninh tổ quốc rất hiệu quả khiến cho nhiều nước phải ca ngợi VN có nền an ninh ổn định nhất khu vực. Thì ta không còn lựa chọn sai lầm nào khác nữa, chỉ còn phải ủng hộ Đảng này để cùng đưa đất nước tiến lên mà thôi.

6. Hỏi: Tại sao ông/bà có tâm lý chống cộng ạ?

Đáp: Bởi vì tôi đã từng sống nghèo khổ trong chế độ cộng sản, phải đi vượt biên, và trong chuyến đi vượt biên đó, con gái tôi bị hải tặc hãm hiếp, con trai tôi bị chúng vứt xuống biển. Gia đình tôi đau khổ tan nát. Tất cả bởi vì cộng sản mà ra nông nổi này, nên tôi căm thù cộng sản.

6. B phản hồi lại:: Lúc đất nước khó khăn nghèo khổ mà ông bà có vàng để chung cho chuyến vượt biên như thế là ông bà còn khá hơn nhiều người. Nhiều người lúc đó không có được một chỉ vàng lận lưng. Nhiều người đã rất nghèo khổ mà vẫn không đi vượt biên, vẫn ở lại phấn đấu và ngày nay được hưởng không khí vui vẻ phát triển này. Ông bà bây giờ định cư ở nước ngoài, đời sống cũng tạm ổn, hãy suy nghĩ độ lượng hơn là cứ trách móc chuyện cũ mãi như thế.

Việc đi vượt biên là do ông bà tự quyết định. Nỗi đau khổ của ông bà là do hải tặc gây ra. Hải tặc thì không thấy ở đâu nữa để ông bà nguyền rủa, cuối cùng ông bà dồn hết nỗi căm tức cho cộng sản. Ông bà có cảm thấy như vậy là không công bằng không ạ?

Trước khi đi vượt biên, ông bà cũng đã nghe kể rất nhiều về sự ác độc của hải tặc, nhưng ông bà vẫn quyết tâm ra đi, vẫn ép con mình phải đi cùng. Điều đó nghĩa là ông bà đã ngầm chấp nhận thảm kịch hải tặc rồi. Nhưng khi thảm kịch hải tặc xảy ra thì ông bà đổ tội cho cộng sản. Đúng ra ông bà mới là người đáng bị kết tội trước nhất. Nhưng thôi thì ta thông cảm cho nhau, trên đời này chẳng ai chịu kết tội mình cả, phải tìm một ai đó để kết tội, và ông bà đã chọn cộng sản chịu tội giùm ông bà. Thôi cũng được.

Tuy nhiên, luật Nhân quả sẽ khiến chúng ta đau khổ mãi khi chúng ta cứ kết tội người khác thiếu công bằng như thế. Ngày nào ta buông bỏ được ý niệm hận thù thì ta mới có thể sống thanh thản và chết nhẹ nhàng được. Chúc ông bà tìm ra được triết lý sống tốt đẹp hơn. Mong ông bà về thăm quê hương để nhìn thấy lại quê hương mình, cái gì vẫn như xưa, và cái gì khác xưa.

7. Hỏi: Tại sao ông/bà có tâm lý chống cộng ạ?

Đáp: Tôi chống cộng bởi vì người ta nói cộng sản không có nhân quyền dân chủ. Thế giới ngày nay phải cho con người dân chủ nhân quyền mới đúng là chế độ văn minh tiến bộ chứ. Phong trào đấu tranh cho dân chủ nhân quyền do Mỹ kêu gọi đang lan tràn khắp thế giới, nên tôi muốn góp sức mình vào công cuộc cao đẹp này.

7. B phản hồi lại:: Thế ông bà có biết là tại Mỹ, luật pháp ràng buộc con người chặt chẽ hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới không? Mỹ cho tự do những cái mà luân lý Á đông chống lại, ví dụ như cho sự dễ dãi giao tiếp nam nữ, cho phép con cái ngang tàng với cha mẹ, cho phép phổ biến các xuất phẩm kích dục… Còn ngoài ra mà đụng đến quyền lực của chính phủ thì không còn đường chạy. Mỹ dùng chiêu bài đấu tranh cho dân chủ nhân quyền để lôi kéo nhiều người tham gia lực lượng chính trị của Mỹ, nhằm chống lại nhà nước nào không chịu lệ thuộc Mỹ. Còn nếu vâng lời Mỹ rồi thì độc tài cỡ nào cũng OK. Trong lịch sử đã chứng tỏ nhiều nhà độc tài trên thế giới có ô dù của Mỹ nên lộng hành suốt nhiều năm làm cho dân chúng lầm than khổ sở mà chẳng bao giờ Mỹ phản đối một lời.

Còn những nước không chịu lệ thuộc Mỹ thì trước sau gì Mỹ cũng tìm cách lật đổ, bằng chiêu bài lôi kéo người đấu tranh cho dân chủ nhân quyền kiểu Mỹ. Nhiều chính khách của Mỹ đã tuyên bố công khai rằng quyền lợi của Mỹ là trên hết. Vậy mà nhiều người vẫn mê muội phục vụ cho Mỹ ngấm ngầm. Họ nhận sự chỉ đạo của tình báo Mỹ, nhưng vẫn nói là yêu nước. Họ phải hiểu là tất cả những việc họ làm đều là phục vụ cho quyền lợi của nước Mỹ mà thôi. Nếu đấu tranh xong rồi là dâng hai tay đất nước của mình cho Mỹ mà thôi.

Ta không cần dân chủ nhân quyền kiểu Mỹ. Ta có trí tuệ của ta, bản lĩnh của ta, truyền thống văn hóa của ta, và lợi ích của dân tộc ta. Ta có niềm tự hào của đất nước ta, có lịch sử oai hùng của cha ông ta, và không cần Mỹ dạy cho ta bài học chính trị kiểu Mỹ như thế. Biết đâu sau này thế giới lại ủng hộ mô hình chính trị của VN vì trong đó có sự chặt chẽ nề nếp, nhưng có tình tự dân tộc, có truyền thống Á Đông hợp lý.

Hơn nữa dân chủ là gì, không lẽ là ai cũng có quyền quyết định vận mệnh đất nước à? Trăm người nghìn ý thì ý của ai là đúng để lấy ra điều hành đất nước? Buộc phải có một quyền lực lãnh đạo tối cao để điều phối mọi ý kiến, đối chiếu, tổng hợp, so sánh mọi ý kiến và quyết định cuối cùng. Dân chủ chỉ là khái niệm tương đối mà thôi, không bao giờ là thực tế. Vẫn phải luôn luôn có quyền lực lãnh đạo tối cao nào đó để dẫn dắt đất nước.

Nhân quyền cũng vậy. Đâu phải ai muốn làm gì thì làm. Chỉ có người đạo đức mới không làm hại người khác. Chỉ có người trí tuệ mới không làm điều sai lầm. Người vi phạm đạo đức bị giam giữ thì không có quyền nhiều; người tâm thần thiểu trí thì cũng không có quyền nhiều.

Nếu ai hiểu nhân quyền là muốn làm gì thì làm thì thật là ít thực tế, kém trí tuệ. Ta phải hiểu quyền của một con người lệ thuộc vào đạo đức và trí tuệ của người đó, không phải là tự nhiên có sẵn đồng đều nơi tất cả mọi người.

Con người có quyền được sống, OK, nhưng có khi phải bị xử tử vì phạm tội nặng quá; con người có quyền được mưu cầu hạnh phúc, OK, nhưng có khi phải bị giữ lại ở bệnh viện tâm thần vì không mưu cầu hạnh phúc cho đúng, lại làm hại người khác; con người có quyền tự do ngôn luận, OK, nhưng đừng truyền bá điều tội lỗi, đừng nghe ai bí mật xúi giục rồi phát biểu bậy bạ làm hại cho sự ổn định của đất nước…

Những hạn chế về quyền con người tùy theo cá nhân phẩm chất của người đó, tùy theo hoàn cảnh của đất nước, tùy theo giai đoạn phát triển của xã hội, không phải giống hệt mọi nơi như nhau. Ta thấy kinh tế Mỹ giàu rồi tưởng Mỹ nói gì cũng đúng, đâu biết rằng những bất ổn trong đất nước Mỹ còn đầy dẫy ra đấy.


Còn rất nhiều tâm lý chống cộng mà chúng ta không nêu ra hết được, nhưng mỗi người nên tự tìm cho mình lời giải đáp hợp lý nhất để sống mà không hỗ thẹn với lương tâm, không nhục nhã với non sông đất nước.
Nguyễn Viết Đắc







Báo chí thời Ngô Đình Diệm







Vũ Bằng





nhà báo Vũ Bằng
- Ảnh: vi.wikipedia


[Trích từ “BỐN MƯƠI NĂM NÓI LÁO” - Cơ sở Xuất Bản Sống Mới – Sài Gòn – 1969 (Trang 204 – 263)]

 Những ai đã đọc “Miếng Ngon Hà Nội”, “Thương Nhớ Mười Hai”, “Bốn Mươi Năm Nói Láo”, “Miếng Lạ Miền Nam”, … thì sẽ không cần phải đọc lời giới thiệu một nhà văn, nhà báo đã được sự nể trọng của các bạn đồng nghề, đồng nghiệp danh tiếng như Nguyễn Tuân, Thượng Sĩ, Lãng Nhân, Phùng Tất Đắc, Vũ Trọng Phụng, … về tài hoa văn chương cũng như về tư cách làm người của Vũ Bằng từ những năm trước Đệ Nhị Thế Chiến.

Đặc biệt về tác phẩm “Bốn Mươi Năm Nói Láo”, kể từ ngày được xuất bản cách đây hơn 40 năm, đã được coi nhưmột hồi ký rất có giá trị văn học, sử học về một giai đoạn văn chương, báo chí Việt Nam của một nhà văn lớn, một nhà báo trung thực, yêu nước thương nòi. Khi được hỏi ý kiến về việc tuyển chọn tác phẩm để xuất bản một “Tuyển Tập Vũ Bằng”, nhà văn Tô Hoài đã phát biểu: “Những tác phẩm văn học nào tìm thấy, nên in cả, không phải chọn. Đơn giản vì Vũ Bằng là nhà văn lớn.”

Thời kỳ những năm 1960 dưới chế độ Ngô Đình Diệm là thời kỳ viết văn, làm báo năng động nhất của Vũ Bằng. Nghĩa là thời kỳ ông đi sâu, nhìn sát vào thực tế xã hội miền Nam để từ đó, sau nầy, với cái nhìn tinh tế và sâu sắc hiếm có, ông đã viết hồi ký nầy với tất cả tấm lòng đầy tính dân tộc. Những trích đoạn đưới đây sẽ đưa độc giả vào một giai đoạn lich sử cực kỳ sôi động mà may mắn thay chúng ta đã có được Vũ Bằng để làm một nhân chứng đích đáng để tin cậy. - (Tựa của Trích đoạn nầy là của GĐ)



TỪ “HOÀ BÌNH” ĐẾN “DÂN CHÚNG”

(Trang 205)

... Như thường lệ, vào dịp hai mươi ba Tết năm ấy, trong mục “Thiên hạ sự”, tôi có viết một bài tếu nói về việc đốt vàng mã và nhân dịp có kể lại câu hát cũ:


Ba mươi tết, tết lại ba mươi,
Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú khách,
Một tay cầm cái dù rách
Một tay xách cái chăn bông
Em đứng bờ sông
Em trông sang nước người:

“Hỡi chú chiệc ơi là chú chiệc ơi”
Một tay em cầm quan tiền,
Một tay em xách thằng bù nhìn
Quan tiền nặng thì quan tiền chìm
Bù nhìn nhẹ thì bù nhìn nổi,
Ới ai ơi, của nặng hơn người …


Ai ngờ chỉ có thế mà sanh ra to chuyện. Bộ Thông tin - hồi ấy do ông Trần Chánh Thành điều khiển – cho chữ “thằng Ngô” đó là nói sỏ ông Ngô Đình Diệm, nhờ Công An điều tra và làm lung tung lên một dạo, tưởng chừng như là sắp tận thế đến nơi.



Bây giờ, mỗi khi nói đến chế độ kiểm duyệt, tôi hay đem hai sự việc (“thằng Ngô” và “chó Nhựt”) trên kia ra so sánh và buồn cười không chịu được. Nhưng biết làm sao, ở một nước có tổng thống, có hiến pháp như mình, có bao nhiêu quốc gia thừa nhận, luật pháp không phải là trò đùa, chống đối lại chỉ là chơi với lửa. Hầu hết các báo đều hiền như con cừu. Gan lắm thì im lặng, không công kích, không nói bóng nói gió một câu đến chính quyền; còn lại bao nhiêu báo khác thì a dua, nịnh bợ không tiếc lời; hơn thế, lại còn tiếc là sao chữ Việt mình nghèo qúa, để cho mình không đủ chữ để mà nịnh cho thực đã … Vì thế, ta thấy có ông nhà báo xin đến ngâm thơ cho tổng thống nghe; có ông đề nghị lập tượng tổng thống ở chợ Bình Tây và có ông được tổng thống tiếp kiến về viết bài ca tụng tổng thống, ví tổng thống với mặt trời ở trong dinh Độc Lập.

Thực ra, các nhà báo ấy viết ra như thế, in lên như thế, nhưng ở thâm tâm thì một số lớn chửi thầm tổng thống, song cái việc phải nịnh thì cứ nịnh, nịnh bất cứ ai, miễn có lợi thì thôi, nếu dại dột mà đả kích Ngài thì chỉ có mà … ăn sắn. Nghĩa là nhà báo chống đối chẳng trước thì sau cũng bị lâm vào mấy cái thế sau đây: báo bị đóng cửa; chủ nhiệm, quản lý … bị đưa đi bí mật ban đêm; nếu không thế thì một ngày đẹp trời nào đó tự nhiên cũng bị ghép vào tội gá bạc, tống tiền, dỗ gái vị thành niên hay đi lừa đảo, đưa ra toà, gia sản bị tịch biên, có bao nhiêu vốn liếng đi tiêu hết.

Lúc ấy sau ba lần thắng Bình Xuyên và áp dụng biện pháp mạnh đối với các giáo phái, thắng lợi, Ngô Đình Diệm bắt đầu có lông có cánh, ra mặt chống Bảo Đại, không đi Pháp để trình với Quốc trưởng về các biến cố ở nước nhà, nhưng ở lì trong nước tập làm độc tài cỏ, đưa họ hàng lên nắm hết các chức vụ quan trọng. Ông Trần Văn Chương, thân phụ bà Ngô Đình Nhu, được đưa lên chức Quốc vụ khanh. Các cuộc tranh giành quyền thế, và cũng là những cuộc thanh toán, bắt đầu diễn ra trong dinh Độc Lập. Từ một nội trợ giặt áo, nấu cơm, tắm rửa cho con, bà Nhu thành một nhân vật của nhà Ngô và bà đã nhờ cái sếch-áp-pin (sex-appeal) thuyết phục các lãnh tụ quân sự và các cố vấn và ngoại giao Mỹ ở Sài Gòn. Nhưng đồng thời giúp ích cho họ Ngô Đình, bà không quên nghĩ đến cho gia đình bà trước: mẹ bà, bà Trần Văn Chương, lên như diều; ông Chương làm đại sứ ở Hoa Thịnh Đốn; Nguyễn Hữu Châu, em rể của bà, cũng có tiếng là người tình cũ, làm bộ trưởng tại phủ tổng thống, em ruột Trần Văn Chương là Trần Văn Đỗ được tôn lên làm ngoại trưởng; con trai của ông Chương là Trần Văn Khiêm làm giám đốc báo chí, rồi được bổ làm giám đốc Mật vụ. Việc thay đổi bộ máy cầm quyền từ 1954 đến 1956 nhắm mục đích dành quyền của bà Chương về cho bà Nhu. Nói một cách khác, ngay trong gia đình Trần Văn đã có sự tranh giành quyền thế, mà giữa họ Trần Văn và họ Ngô Đình lại cũng có sự tranh giành nữa; nhưng tựu trung Việt Nam lúc bấy giờ là một quốc gia cảnh sát do hai gia đình quan lại Trần Văn và Ngô Đình nắm hết quyền hành. Gia đình Trần Văn tương đối còn trung thành phần nào với tập tục cổ truyền của nhà vua Bảo Đại, chớ họ Ngô Đình thì trắng trợn ly khai với chế độ cũ và nuôi cái mộng lập một triều đại mới: triều đại Ngô Đình.

Cố nhiên muốn thực hiện mộng đó, phải tàn ác diệt trừ những cá nhân, đoàn thể chống đối, mà cá nhân và đoàn thể chống đối lúc ấy là những người gốc ở miền Bắc và miền Nam chỉ muốn nhà Ngô giữ lời đã hứa là tổ chức một cuộc bầu cử để họ có thể bầu người đại diện của họ lên lo việc nước. Theo những người có tiếng là chống đối này, ông Diệm là một lính nhảy dù do Mỹ thả từ trên trời xuống và không có rễ ở dưới đất. Đứng trước sự chỉ trích hỗn xược đó, ông Nhu và vợ đặt ở các văn phòng các đường phố một số mật báo viên , có nhiệm vụ báo cáo những phần tử chỉ trích chánh phủ; ngoài ra theo dõi hành động của các tờ báo khác, hồ thấy viết một câu nào xa xôi, xách mé bóng gió thì đóng cửa vĩnh viễn, còn ký giả nào bướng bỉnh, không quy phục thì chụp cái nón cối Cọng sản lên đầu, cho xuống hầm tối để không bao giờ lên được đất liền nữa, hoặc có lên được cũng mù loà, què quặt, bán thân bất toại.

Không khí làng báo lúc ấy thực đìu hiu, tẻ lạnh. Mỗi buổi sáng, người làm báo nhận được những cú điện thoại cho biết phải tránh những tin gì không được nói, những lời tuyên bố nào của ông Diệm, bà Nhu phải làm to; thậm chí lại có khi buộc phải đưa câu nói này của bà Nhu lên làm vơ-đét tám cột, diễn văn kia của ông Diệm năm cột và kèm theo thật nhiều tranh ảnh.



Tôi yên lặng ngồi viết sách cho nhà xuất bản “Phạm Văn Tươi”, “Thế Giới”, và nghe thấy từ dưới đường vọng lên những tiếng chuyển động khác thường: đó là tiếng oán than của những cuống họng bị bóp nghẹt lẫn với tiếng cười của trai gái đú đởn trong ánh đèn mầu, tiếng nguyền rủa não nề của dân chúng tắt thở vì chế độ tự do bị nhà Ngô bóp chẹt. Các giáo phái, các chánh đảng, các tầng lớp nhân dân nghĩ phải làm một cái gì, nếu không thì quá trễ, nhưng, thay vì đoàn kết để chống lại nhà Ngô thì họ lại chia rẽ, kình chống nhau. Các chánh đảng không thể thống nhứt trong một mặt trận chung, vì thế vợ chồng ông Nhu càng đắc thế và càng áp dụng hữu hiệu nhiều chiến thuật “chia để trị”.



Báo chí cúi đầu theo răm rắp, suy tôn Ngô tổng thống. Vào chiếu bóng, rạp hát, phải chào cờ và đứng nghiêm nghe nhạc trổi bài “Toàn dân Việt Nam biết ơn Ngô tổng thống – Ngô tổng thống, Ngô tổng thống … muôn năm” cho đến khi lá cờ vàng sọc đỏ mờ dần cùng với cái hình ông lùn mập, mới có quyền ngồi xuống để xem “đượi” Âu Châu nhảytuýt. Báo câm như hến. Không có một ký giả nào dám lên tiếng phản đối anh em nhà Ngô, dù là phản đối xa xôi.

Phải đợi mãi đến năm 1960, cơn sốt mới bùng lên : đại tá Nguyễn Chánh Thi, trung tá Vương Văn Đông , cùng một số sỹ quan đem quân vây dinh Độc Lập và đòi Ngô Đình Diệm rút lui. Ngô Đình Diệm trao quyền cho những tướng lãnh để lập chính phủ khác, nhưng sau nhờ các sư đòan 7 ở Biên Hoà và sư đòan 21 ở Mỹ Tho về ứng cứu kịp thời, Ngô Đình Diệm thóat chết: Đại tá Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông rời khỏi Việt Nam, Ngô Đình Diệm lại phệnh phà phệnh phạo tuyên bố hỗn xược không chê được, và cố nhiên Quốc Hội lại ngỏ lời trung thành, các đoàn thể lại biểu tình ủng hộ và lũ cầy cáo hèn nhát đi với cách mạng lại quay về thần phục nhà Ngô.

Lúc ấy, tôi đang làm “Dân Chúng”. Tôi còn nhớ bầu không khí nẩy lửa đó, ai cũng hăng say muốn thấy Ngô Đình Diệm và công ty, bị chết đâm chết chém.. Cứ đăng hết những tin tức đảo chánh lúc đó, không thêm bớt, thì độc giả cũng đã khóai tỉ lắm rổi , khỏi cần bình luận; nhưng đa số nhân viên “Dân Chúng” dè dặt không dám đăng thật rõ, có ý muốn “trông và chờ”, một phần vì sợ cho tính mạng tờ báo sau này nếu cuộc đảo chánh không thành và mặt khác thì anh em không dám quyết định một thái độ dứt khoát vì lẽ khi ấy giám đốc tờ “Dân Chúng” là ông Mạc Kinh Trần Thế Xương, lại không có mặt ở Việt Nam. Tô Văn và Cát Hữu thấy Phi Vân tỏ ra sợ sệt, chửi ầm cả lên, nhưng rút lại báo “Dân Chúng” tương đối lúc ấy “hiền lành” và mỗi khi có tin gì bất lợi cho Ngô Đình Diệm thì viết một giọng hoài nghi, đánh dấu hỏi, chớ không dám quả quyết như mấy tờ báo khác.



Bây giờ, nói đến chuyện hiệp thương, hoà hội là thưòng, nhưng có ai đã sống sát với thời cuộc lúc đó đều thấy rằng đưa vấn đề ấy ra làm tám cột, kéo dài hàng tháng phải là “trì” lắm. Nhất là đối với Ngô Đình Diệm là một thứ ngưòi có thành kiến, lỳ lợm, thì sự việc ấy lại càng đáng kể lắm, vì Diệm không thích cái gì thì không muốn cho ai nói tới. Trái lại, dân chúng chán ngấy chế độ tự do dân chủ ngụy tạo của Diệm, lại muốn hiêp thương hai miền Nam Bắc, nên loạt bài của “Dân Chúng” ra đời thì độc giả tìm đọc “không chịu được”, nhất là họ lại không biết – vì chánh quyền giấu kín lắm - bức thư của Phạm Văn Đồng gửi cho Ngô Đình Diệm, nên cho rằng việc báo “Dân Chúng” đề cập đến vấn đề hiệp thương Nam Bắc là một hành động can đảm và sáng suốt. Thế là báo “Dân Chúng” một phát hồi lại như thường. Lúc ấy đi lại chặt chẽ với nhau có Trần Tế Xương, Bùi Anh Tuần và tôi, các bạn bè ở ngoài phần nhiều không giao thiệp công khai, môt phần vì sợ mật vụ của Ngô Đình Diệm theo dõi và chơi vố gì xấu chăng.



Nhưng báo hay cũng như người đẹp: Không để cho người ta thấy bạc đầu. Sau vụ đảo chánh 1960, Ngô Đình Diệm không chết, nhưng lại chết tờ báo tương đối e dè nhất, cân nhắc nhất, khi tường thuật các biến cố xảy ra. Tôi và mấy người bạn đang ngồi ở trên lầu vừa đánh phé, vừa ôn lại mấy ngày sôi nổi vừa qua, thì hàng chục xe ô tô nhà binh và Cảnh Sát đến khám xét nhà báo, đập phá máy in, tung hê các ô chữ ra đường, rồi lấy giấy tờ, máy chữ, bút máy, bình mực, búp bê, nón mốt săng, áo mưa … lấy hết, đem đi. Nhà báo thì khóa ba khóa, niêm phong cẩn thận, sau khi để cho các người ở trong toà báo vừa kịp khoác cái sơ mi, đi ra ngoài. Một vài tờ báo khác cũng lâm vào trường hợp như chúng tôi lúc đó. Anh em “Dân Chúng” tản mác mỗi người mỗi ngả. Cố nhiên là trong bọn có một vài người vì vấn đề cơm áo, vợ con, ngầm đi với bọn mật vụ còm để xin tha tội “treo cổ” – vì ở đâu cũng có bích chương viết tay đòi treo cổ người này, bắn chết người kia – nhưng đa số thì lì lợm, ăn xong ngồi đánh phé và loan báo cho nhau biết bọn chánh khách, quân nhân nào đã xé hàng rào cách mạng, chạy vào dinh Độc Lập, bọn nào đã làm hư cuộc đảo chánh và đã khóc lóc như trẻ con lúc bị trói ở trường bay Tân Sơn Nhứt và không quên theo dõi hành động của Nhu Diệm cùng bề tôi nhắm củng cố địa vị, uy tín, đồng thời sẽ đối phó với những người tham gia cuộc đảo chánh ra sao.



SAU KHI ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM THOÁT CHẾT LẦN THỨ NHẤT

(Trang 218)



Saigon, sau ngày đảo chánh hụt 1-11-60, lần lần trở lại bộ mặt bình thường. Những báo đăng những tin bất lợi cho ông Ngô Đình Diệm trong cuộc đảo chánh lo sốt vó. Lúc ấy, những người có công với các ông Diệm và Nhu giả thử muốn phá nhà báo nào, cho ký giả nào đi mò tôm cũng cứ được đi, nhưng họ đã khôn khéo không nghĩ tới việc đối phó mà chỉ lo củng cố địa vị cho ông Diệm. Nhất cử, nhất động lúc ấy là thận trọng. Ngoài mấy tờ báo đóng cửa, chính phủ không cho ra thêm một tờ báo nào hết, trừ ba người có thể chắc chắn là không phản bội, hơn thế lại có công lao không ít thì nhiều với họ Ngô hay bác sĩ Trần Kim Tuyến: ông Huỳnh Thành Vị được phép xuất bản tờ “Đồng Nai”, Ngô Quân tờ “Saigon Mai” và Trung tá Châu (Giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lý) tờ “Tiếng Dân”.

… thật ra báo cũng chẳng có gì đọc được, nếu không đề cao luật gia đình của bà Nhu thì lại đăng tin chiến sự: hành quân Bình Tây tại U Minh Hạ, hành quân ở Củ Chi, hành quân Lam Sơn II, hành quân ở Cao Lãnh, hành quân ở Mỹ An … Một đống hành quân, giết không còn một mống Việt Cộng – ông Ngô Đình Diệm tuyên bố Việt Cộng chết hết rồi – hay tường thuật bốn năm cột báo bà Nhu đi thăm Phụ nữ Liên đới, vì phong trào này vừa được thừa nhận là một hội công ích do sắc lệnh 84/NV; ông Nhu đi thăm Sihanouk vì có tin Sihanouk tuyên bố thừa nhận Trung Cộng, cả về phương diện pháp lý; hoặc Liên Đoàn Công Chức Cách Mạng Quốc Gia kịch liệt lên án những người thân Pháp, yêu cầu chánh phủ chấm dứt nhiệm vụ của công chức điều khiển từ Chủ sự, nếu không từ bỏ quốc tịch Pháp.

Ối chao ngán quá, ngán đến nỗi không buồn xem hình nữa, không buồn đọc bài nữa, dù là những bài tối quan trọng như bài tường thuật lễ cửu tuần khánh thọ bà mẹ ông Ngô Đình Diệm ở Huế có nhiều đại diện các đoàn thể và rất đông cao cấp trong chánh quyền về chúc mừng “thái từ”, mà bộ Nội vụ lại tổ chức một lễ tạ ơn tại Vương Cung Thánh Đường.



Tự sĩ trước những cảm nghĩ lông bông như thế, các anh em và tôi quyết định làm tờ “Tiếng Dân” của Trung tá Châu thành một tờ báo “sạch” cũng như “bom nguyên tử sạch”, bom nguyên tử không có quá nhiều phóng xạ làm ô nhiễm bàu không khí của thế giới tự do. Sau này, nghĩ lại thì qủa lúc đó tôi khùng, vì cái “tri” và cái “hành” của tôi ngay lúc gặp Trần Thiện Phúc, đại diện gián tiếp của Trung tá Châu, đã mâu thuẫn với nhau rồi. Định làm một tờ báo sạch mà cư xử không sạch tí nào: tôi đặt điều kiện báo phải đưa cho anh em toà soạn một tháng lương để ngồi suy nghĩ về cách làm ăn; nhưng cái đó không quan hệ lắm bằng mâu thuẫn dưới đây: làm một tờ báo cho Trung tá Châu ủng hộ Ngô Đình Diệm mà lại nói chuyện “sạch” thì có khác gì nói chuyện “giây thừng ở trong nhà có người thắt cổ?...”

Tờ “Tiếng Dân” gặp sự bê bối ngay từ lúc ra số 1, vì mỗi phe có một số người của riêng mình, mà cũng ngay từ lúc mới quãng cáo, ở Huế, đã có con cháu của cụ Huỳnh Thúc Kháng bắn tin là không thể đem bôi nhọ tên một tờ baó đã có hồi lừng danh ở Huế. Nói như vậy, tức là tờ “Tiếng Dân” đã mang tiếng là báo của nhà Ngô ít nhiều rồi; vì thế chúng tôi phải hết sức tìm cách né tránh, viết lách thế nào để cho thiên hạ đỡ chửi là quân liếm gót. Dù biết rằng báo này có hai mục tiêu, một là suy tôn Ngô Đình Diệm, thần thánh hoá ông ta (vì ông ta đã mất uy tín rất nhiều sau cuộc đảo chánh 1960) và hai là đối phó với những liên danh chống đối ông trong cuộc tranh cử Tổng Thống nhiệm kỳ I I vào đầu năm 1961, chúng tôi cố ý làm ra mặt dớ dẩn, toàn bàn về vấn đề nông thôn và đăng những tin tức cố tránh đụng chạm đến Nhu và Diệm, không đả kích những người đảo chánh Diệm mà cũng chẳng hề đụng chạm đến những liên danh II và III mà ngay từ tháng giêng 1961, chúng tôi đã biết có ai, tuy là các liên danh ấy chưa tiết lộ ra bên ngoài. Đó là liên danh Nguyễn Đình Quát - Nguyễn Thành Phương và liên danh Hồ Nhựt Tân - Nguyễn Thế Truyền, ấy là không kể nhiều liên danh khác hoặc trù trừ không quyết định ra vì biết sẽ bị gian lận, mất công vô ích, hoặc bị Nhu Diệm cho người đến mua chuộc, tống ít tiền lẻ để đừng ra ứng cử làm gì cho quẩn chân.

Lúc ấy, Mỹ còn nuôi hy vọng ăn đứt Việt Nam, dù cách gì đi nữa thì Diệm cũng vẫn ngồi vững ở ghế Tổng Thống như thường; ai cũng biết như vậy, kể cả Nguyễn Đình Quát; nhưng đã chót cưỡi lên lưng cọp rồi, Quát cứ phải liều, dù phải trả mắc tiền: Quát chưởi Diệm đã sướng miệng và kể từ lúc bấy giờ về trước, có lẽ không có ai dámkhi quân chửi Diệm đau như thế, và hơn nữa lại công khai dám công bố ở rạp Thống Nhất một ý kiến mà cũng từ trước cho tới lúc đó không ai dám hé môi nói ra lời: ông hứa nếu đắc cử sẽ điều đình ngưng bắn, tái lập hoà bình ở Việt Nam! Tất cả những tin tức liên quan đến cuộc vận động bầu cử Tổng Thống, chúng tôi cho vào một mục ở cuối trang nhất, không lấy gì làm long trọng…Phần chính của báo là đề cao Phật Giáo ngay giữa lúc Công Giáo đang lên hương, bọn Nhu Diệm làm chúa tể, Đức cha Nguyễn Văn Bình làm lễ nhậm chức Tổng giám mục ở Saigon mà Ngô Đình Cẩn thì bắt đầu ngấm ngầm chơi tăng ni, phật tử ở Huế. Chúng tôi đánh một trận hoả mù làm cho không ai hiểu đường lối của báo ra sao, nhắm mục đích là nếu có một số đọc giả cố định rồi thì quay về làm tin tức và chú tâm mổ xẻ, cưú xét các vấn đề thời sự, nhưng không thể được. Riêng tôi thấy rằng làm báo ở dưới một chính thể độc tài độc đóan, thì dù muốn xoay sở thế nào, bịp bợm thế nào cũng vẫn không thể thoát khỏi được ra ngoài quỹ đạo cuả chế độ và cuối cùng đọc giả cũng biết ai ngay, ai gian. Báo nào mới ra đời cũng la thét ghê gớm lắm: nào dám nói, dám làm, dám chửi; nào phục vụ nhân dân, đứng hẳn về phiá đối lập, đòi công bằng xã hội, tranh đấu cho đồng bào có cơm no áo ấm; nào quét sạch thối tha, nhơ bẩn, dám làm, dám chết…nhưng rút cục trong một chính thể độc tài, nô lệ, dân chủ ngụy tạo như chính thể nhà Ngô, chẳng có một tờ báo nào thoát được ra ngoài quỹ đạo của chế độ Ngô Đình Diệm.

Sau cuộc đảo chánh hụt Ngô Đình Diệm, đa số dân chúng đều tỏ ý tịếc rẻ sao trung tá Đông không giết phắt Diệm đi lại cứ hội đàm vớ vẩn với Diệm làm gì, bàn tính chuyện chia đôi Saigon làm gì để cho ông ta lật lại được thế cờ, trở lạisống phây phây, ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ II. Do đó người dân lúc ấy theo sát thời cuộc để xem Mỹ đối phó ra sao, phe cách mạng còn làm gì nữa không, và Ngô Đình Diệm sẽ gẫy hay là cứ sống nhăn như thế mãi. Người ta lại càng tò mò muốn biết Ngô Đình Diệm, sau vụ sống sót này, có thay đổi thái độ đi không.

Ngay từ cuối năm Tý, đã có tin Diệm cải tổ chánh phủ. Thường thường nghe thấy tin cải tổ, người dân không để ý, vì họ cho là nội các nào cũng “hầm bà làng” giống như nhau, nhưng đặc biệt lần này họ chú ý nghe ngóng xem Diệm cải tổ ra sao, vì họ tin rằng cuộc đảo chánh vừa qua ít ra cũng mở mắt cho Diệm và Diệm cũng đỡ độc tài như trước. Báo “Saigon Mai” đã nắm lấy cơ hội đưa ra những tin sốt dẻo lượm lặt được ở các nơi “có thẩm quyền” : một số chính khách, nhân sĩ nhóm họp để bàn việc lập Nghị Hội Đại Đoàn Kết toàn dân chống Cộng, có bác sĩ Phan Huy Quát, bác sĩ Lý Trung Dung, Đặng Văn Sung v.v…bà Ngô Đình Nhu đi các tỉnh cổ võ cho phong trào Phụ Nữ Liên Đới và Phụ Nữ Bán Quân Sự; các chính khách hầu hạ dưới trướng Diệm đang bí mật liên minh các đảng phái để đúc lại thành một đảng chánh quyền do ông Ngô Đình Nhu điều khiển.



ĐÀN ÁP PHẬT GIÁO: BÁO GIỚI KHÔNG HO HE MỘT TIẾNG

(Trang 238)



Hai năm 1962 và 1963 là hai năm xui xẻo nhất của Ngô Đình Diệm. Dinh Độc Lập bị hai phi cơ Việt Nam ném bom và bắn phá làm hư phía tay trái, gây tổn thất nặng cho tư thất của cố vấn Ngô Đình Nhu, và phòng giấy của bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần. Trong khi bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ vẫn gia công tuyên bố tình hình Việt Nam vẫn vững; trong khi nhà Ngô làm ra bộ phớt tỉnh và tiếp tục đàn áp các nhà ái quốc tiến bộ, thì kinh tế trong nước bắt đầu suy sụp: gạo tăng giá, thịt heo khan tăng từ 30 lên 50 đồng một ký mỡ, từ 60 lên 90 đồng một ký nạc, dân chúng bắt đầu thấy reo neo; nhưng toàn dân, không phân biệt giai cấp, phải góp tiền để tái thiết dinh Độc lập. Số Kiến Thiết từ 1.600.000 in tăng lên 3 triệu.

Báo chí không lúc nào ngưng suy tôn Ngô tổng thống. Mọi việc đều trơn tru, êm đẹp.Nếu không có Ngô tổng thống thì toàn dân chết không còn một mống. Muôn năm, muôn năm. Hơn 300 căn nhà cháy ở Xóm Chiếu; 100 nóc nhà khác bị kéo sập; không ngày nào không bắt được những tên châm lửa đốt nhà. Một ngàn rưởi căn nhà cháy rụi ở đường Trần Quốc Toản; 30 nhà khác ra tro ở đường Trương Minh Giảng; lại ba vụ khác nữa gây thiệt hại không nhỏ ở Khánh Hội; đó là nhờ ơn đức của Ngô Đình Diệm nữa. Muôn năm, muôn năm. Nhưng báo chí bắt đầu tăng cường muôn năm, muôn năm Ngô Đình Diệm dữ dội nhất từ lúc cảnh sát hạ cờ Phật Giáo ở Huế nhân ngày Phật Đản, các lực lượng an ninh giải tán các cuộc tụ họp của Phật Giáo ở Huế cũng như ở Saigon.

Một phái đoàn gồm sáu thượng toạ và đại đức yết kiến Ngô Đình Diệm đưa ra năm nguyện vọng: bãi bỏ lịnh cấm treo cờ Phật Giáo; cho Phật Giáo hưởng chế độ ngang hàng với các hội truyền giáo Thiên Chúa; chấm dứt khủng bố và bắt bớ phật tử; để Tăng ni và Phật tử tự do truyền đạo và hành đạo; bồi thường cho các gia đình nạn nhân và trừng trị những nhân viên có lỗi làm đổ máu.

Cuộc tranh chấp bắt đầu găng từ đó. Nay, Phật tử biểu tình ờ Huế. Có xô xát. Một số lớn bị thương. Mai, Phật tử biểu tình ở Saigon. Hơi cay xịt ra tứ tung làm cho dân chúng sưng cả mắt. Mốt, ruồng bắt các chùa chiền, cảnh sát cho biết là bắt được nhiều lựu đạn và súng ống. Thế rồi, trước một số đông tăng ni, tại ngã tư đường Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng, Thượng Toạ Thích Quảng Đức tự thiêu bằng dầu xăng. Cả thế giới rung động. Có nhiều người khóc. Lòng căm thù oán trách Ngô Đình Diệm bay cao thấu trời. Việt Nam Cộng Hòa, như nhà có tang, một mặt phải lo chống Cộng, một mặt phải đối phó với cao trào Phật Giáo mỗi ngày một găng hơn: Ngô Đình Diệm gửi thông điệp kêu gọi dân chúng bình tĩnh. Paulus Hiếu – cũng nhận là họ Ngô - thề bán sống bán chết không tuyên bố điều gì vu khống hay công kích Phật Giáo; Nguyễn Ngọc Thơ mời Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết tới họp với Ủy Ban liên bộ, nhưng tất cả đều vô ích.

Tăng ni biểu tình trước nhà đại sứ Hoa Kỳ. Phật tử, đại đức thi đua tự thiêu ở khắp nơi. Sự công phẫn tràn lan khắp nước. Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ bù đầu – tuy đầu sói - về việc lập ủy ban hỗn hợp để thi hành thông cáo chung. Bà Ngô Đình Nhu chửi bố là Trần Văn Chương, vì đại sứ Chương đã trách bà “thiếu lễ độ” đối với Phật Giáo. Lịnh giới ghiêm được ban hành. Các chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Kỳ Viên Tự bị khám xét .Máu Phật tử đổ khắp nơi. Hội Đồng Chính Phủ họp lúc gần sáng. Saigon và Gia Định cũng thi hành lịnh giới nghiêm, cấm đi lại ban đêm từ 9giờ đến 5 giờ sáng. Nhà họ Ngô khát máu tiếp tục thi hành chính sách cường hào ác bá, giết kỳ hết những người phản đối họ. Trong khi đó thì có tin Việt Cộng sắp tràn ngập thủ đô, Ngô Đình Diệm đặt thiếu tướng Tôn Thất Đính làm tổng trấn Saigon – Gia Định và giao cho quân đội bảo vệ an ninh, trật tự, Phật tử nào biểu tình , trí thức nào chống đối cho phơ tuốt. May cho bố bà Nhu là Trần Văn Chương không bị phơ, mà chỉ bị dứt nhiệm vụ đại sứ thôi.

Trong suốt một thời gian kéo dài từ tháng 5 năm 1963 cho đến tháng 11 cùng năm đó, tràn đầy máu lửa và nước mắt, tàn sát Phật tử không khác gì phát xít Đức tàn sát người Do Thái trong thế chiến thứ nhì, không có một tờ báo chánh thức nào dám ho he một lời can ngăn - chớ đừng nói cảnh cáo hay đả kích – Ngô Đình Diệm và gia đình ông ta. Được lịnh của cố vấn Ngô Đình Nhu, Tổng giám đốc Thông Tin mỗi ngày ra một chỉ thị cho các báo. Báo nào báo nấy theo răm rắp, nhưng cũng chưa yên; đến lúc đưa kiểm duyệt, lại thay đổi ý kiến, có tin cấm lại cho ra, có tin không nói đến, tới giờ cuối cùng lại cấm. Báo nào báo nấy cứ điên lên, không biết phải làm ăn ra thế nào.

Lúc ấy, tôi là tổng thư ký của nhựt báo “Báo Mới” do Huỳnh Tấn Phẩm đứng ra làm, mà măng xét thì của Văn Giang. Lúc chưa ra, báo này nhắm làm việc về ấp chiến lược, mở một mục đặc biệt về ấp, vì Nhu cho đó là quốc sách, bao nhiêu tiền đổ dồn cả về việc xây dựng ấp. Tiền tái thiết dinh Độc Lập thu được 19 triệu, thì bỏ vào ấp chiến lược 10 triệu, quỹ chống Cộng thu được 30 triệu, đem dùng hết cả vào việc ấp. Dù đã được chỉ thị riêng rồi, “Báo Mới” cũng bị xoá lện xoá xuống vì những tin Phật Giáo, nói xấu chính phủ không được mà nói tốt cũng không được nữa. Rút cục, người làm báo phải tự hỏi không biết nhà Ngô muốn gì, muốn sống hay muốn tự tử.

Lập ra ủy ban liên bộ, ủy ban liên phái, ra thông cáo chung, cấm đăng ;

Thượng toạ Thích Thiện Minh gửi thư cho Ngô Đình Diệm vì thông cáo chung chưa được thi hành, cấm đăng;

nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam uống thuốc ngủ tư tử để phản đối chính sách độc tài, đàn áp Phật Giáo của Ngô Đình Diệm, cấm đăng;

tăng ni và Phật tử biểu tình ở trước nhà đại sứ Hoa Kỳ, trước chùa Giác Minh, bị đánh đập tàn nhẫn, bị bắn, bị giết, bị giam, lại có nơi bị xe tăng nghiền nát ra, cấm đăng;

ni cô Diệu Quang, đại đức Thích Tiêu Diêu, Thích Quảng Hương, Thích Thanh Tuệ và hàng trăm đaị đức, ni cô khác tự thiêu hoặc bị đâm, chém, bắt cóc mang đi mất xác,cấm đăng.

Về sau, thông bạch của nhà chùa gửi đến báo (đăng trả tiền) mời Phật tử đến chùa lễ Phật, kiểm duyệt cũng bắt phải bỏ;

Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu xuống tóc, bỏ;

phái đoàn tăng ni và báo giới tới thăm Hoà Thượng Thích Tịnh Khiết, bỏ;sinh viên, học sinh biểu tình ở chợ Bến Thành, Quách Thị Trang bị bắn nát đầu, 1300 nguời bị trói giật cánh khuỷu, đưa xuống trại huấn luyện Quang Trung, bỏ luôn.

Có tin ở ngoài phố Ngô Đình Nhu muốn điên, chích nha phiến trắng cả ngày đêm trong khi vợ gia công gia sức hiệu triệu Phụ Nữ Bán Quân Sự khoá III và lên án những vụ tranh đấu về tôn giáo: báo chí tuyệt đối không được nói tới, kể gì những tin mà dân chúng ai cũng nói tới như: ảnh Ngô Đình Diệm bị tháo gỡ ở vài nơi công sở và thay bằng ảnh cố vấn Tổng lãnh tụ Thanh Niên Cộng Hoà: Nhu sắp đảo chính, lên cầm quyền để thi hành một chánh sách độc tài đanh thép hơn; bà Nhu tới La Mã bị nhiều người đón đường phản đối, qua Ba Lê bị ném trứng thối vào đầu, qua Hoa Kỳ diễn thuyết phủ nhận sự đàn áp Phật Giáo, không được Tổng thống Kennedy tiếp kiến. Trần Văn Chương công kích chính sách Ngô Đình Diệm; Diệm Nhu tung tin sẽ phá toà đại sứ Mỹ, ám sát nhân viên ngoại giao Mỹ và cả đại sứ Cabot Lodge.

Tất cả những tin tức liên quan đến vấn đề tàn sát Phật tử, đàn áp Phật Giáo, kể cảnhững mánh lới bỉ ổi mà vợ chồng Nhu đưa ra để “mua” phái đoàn điều tra về vụ Phật Giáo do Liên Hiệp Quốc cử sang (chụp hình các thành viên của phái đoàn L.H.Q. đang mua dâm trong những ngày làm việc ở Sài Gòn - LND), nhà báo có thể đem ra viết mười năm không hết, khả dĩ làm cho thế giới biết suy nghĩ phải khóc ròng trước những khổ aỉ đắng cay của dân tộc Việt Nam, nhưng rút cục không có một tờ báo chính thức nào dám viết, vì Nhu, Diệm và tất cả các tay sai của họ lúc nào cũng sẵn sàng cho nhà báo phản đối xuống hầm kín hay bắn một phát vào đầu, cán xe hơi, bịt mắt đem đi rồi đâm hàng trăm nhát, chất thành một đống, cho xuống bè thả ra sông. Nhưng…

Xã hội ta lúc đó y như thể nước đại dương: bên trên thì êm ả, nhưng sóng ngầm bủa giăng ở dưới. Trong khi dân chúng rên siết trong máu lửa và nước mắt: trong khi bọn Nhu Diệm giết hết, đốt hết những cái gì liên quan đến Phật Giáo; trong khi bọn tay sai của Nhu Diệm thưà nước đục thả câu, ăn cướp công khai cả vật chất lẫn tinh thần người dân, thì chính ở bên trong các báo chính thức xuất bản, và cả ở ngoài làng báo, một số lớn bọn người “nói láo ăn tiền” vẫn bí mật hoạt động chống Nhu Diệm và kết hợp các từng lớp nhân dân để chờ một ngày quyết định. Mà khí giới của họ vẫn là ngòi bút! Ngòi bút cùn, nhưng có tác động vô song là động viên được tinh thần bất khuất của người Việt Nam đúng giờ, đúng khắc thì vươn lên, không sợ chết, không sợ gian khổ, không sợ võ khí tối tân và khoa học nhất.

Hoà mình với Phật tử, sinh viên, học sinh, các người “nói láo ăn tiền” đó không uốnguýt ky nhưng uống nước lạnh, không ở nhà lầu nhưng chiu vào những ổ chuột, không ăn đồ ăn Pháp nhưng ăn cơm nguội, muối mè và nhiều khi nhịn đói để làm báo lậu,những truyền đơn, những cuốn sách bỏ túi để phát đi trong quảng đại quần chúng, hô hào dân chúng nổi lên chống độc tài , áp bức, tranh thủ tự do, dân chủ thực sự. Ông lái buôn no đủ , ông bộ trưởng, giám đốc thừa tiêu, ông tích trữ đầu cơ, có mèo chó, vợ con phè phỡn, một hôm, tư nhiên thấy người làm bưu điện gửi tới một bao thư: giở ra coi thì là báo lậu. Có khi báo lậu, truyền đơn, sách bỏ túi, chui qua kẽ cửa vào trong nhà cô nữ sinh; có khi ông công chức đến sở vừa mở hộc bàn ra để lấy sổ sách ra làm việc thì đã thấy lù lù một tập, lại cũng có khi nhận hàng ở máy bay về, mở hộp ra thì đã có một đống truyền đơn báo lậu. Mật vụ Dương Văn Hiếu, quả đã trải một thời gian điêu đứng, bắt “phiến loạn” không thể nào xuể: chưa xong bọn này đã đến bọn kia thoá mạ và kêu gọi lật Ngô Đình Diệm để mau chấm dứt Phật nạn và chận đứng cuộc tàn sát dã man, vô đạo.

Tôi không biết có bao nhiêu báo lậu, truyền đơn, sách bỏ túi tung ra thời ấy, nhưng tôi nhớ trong số đó có mấy tờ viết vô cùng thống thiết: đó là tờ “Vạc Dầu”, tờ “Nhị Thập Bát Tú”, tờ “Tin Tức Phật Giáo”, còn sách thì phổ biến rộng rãi nhất là loại “Những Vấn Đề Cấp Thiết” xuất bản “vào giờ giới nghiêm”. Vì nghề nghiệp, tôi được biết một vài người bạn trẻ đứng ra làm những tờ báo đó. Phần nhiều những báo ấy viết bài ở một chỗ, thâu thập để sửa chữa ở một chỗ, chia nhau đánh máy ở nhiều chỗ khác nhau rồi quay ronéo ở những chỗ thay đổi luôn luôn, không bọn nào biết bọn nào. Cố nhiên làm báo như thế thì không hòng có một xu dính túi, nhiều khi lại phải bỏ tiền của mình ra là khác; nhưng các ký giả, sinh viên, học sinh, Phật tử làm việc say sưa, mê mệt, làm việc như điên, người thường trông thấy phát ớn lên, vì không hiểu tại sao con người lại có thể có sức sống tuyệt vời đến thế.



NGÔ ĐÌNH DIỆM BỊ GIẾT, MUÔN NĂM NGÔ ĐÌNH DIỆM

(Trang 247)

Hiện giờ, chưa ai biết rõ là phe quân nhân cách mạng nổi lên đảo chánh Ngô Đình Diệm lần thứ ba có nghiên cứu về tâm lý của người dân trước khi tiến đánh dinh Độc lập hay không, nhưng có một điều chắc chắn là tình thế lúc đó đã chín mùì và dân chúng đã thấy cách gì cũng phải hạ ngay Ngô Đình Diệm. Phe cách mạng được dân chúng ủng hộ và làm hậu thuẫn nên đã thành công rực rỡ; nhưng sửa soạn được tâm lý quần chúng như thế, muốn nói gì thì nói, muốn bài bác thế nào thì bài bác, ai cũng phải nhận rằng báo chí đã tiền phong trong công việc chuẩn bị cách mạng, triệt hạ Ngô gia để mở đầu cho một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên tự do, dân chủ - dù lúc đầu chỉ là một thứ tự do, dân chủ đi tập tà tập tễnh.

Như trên kia đã nói, báo lậu không ngớt kêu gọi dân chúng nổi lên chống Diệm. Cuối năm 1963, lúc nào xe thiết giáp cũng nằm ụ trước dinh Độc Lập và Gia Long, đề phòng các cuộc biểu tình. Ngô Đình Diệm, vừa tiễn Đô đốc Harry D. Felt, tổng tư lệnh tại Thái Bình Dương, được một lát, chưa kịp ăn cơm, thì tiếng súng nổ ran ở nhiều nơi trong Đô Thành. Quân đội rầm rộ chiếm đóng Tổng Nha Cảnh Sát, đài Phát thanh, nha Truyền Tin, bộ Nội Vụ… Các lực lượng tấn công gồm một đội pháo binh 105, tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến, các đội khác chuyển từ Biên Hoà, Thủ Đức, Long An, Bình Dương. Sẩm tối hôm ấy, quân cách mạng tấn công mạnh vào thành Cộng Hoà: nhiều sinh viên Phật Tử được phóng thích. Lệnh giới nghiêm được ban hành trên toàn quốc. Hôm sau, dinh Gia Long bị chiếm; có tin Nhu Diệm tự tử, nhưng thực ra thì họ trốn về nhà thờ Cha Tam ở Chợ lớn và buổi trưa hôm ấy, có tin Nhu Diệm đã bị hạ sát thê thảm trong chiếc xe bít bùng từ nhà thờ Cha Tam về Saigon.




Dân chúng vui mừng kéo nhau đập tượng hai mẹ con Ngô Đình Nhu


Người ta muốn biết ai đã giết Diệm Nhu, nhưng không ai biết đích xác; dù sao Diệm Nhu chết đi thì đại đa số dân chúng cũng mừng. Có người tế con heo; có người lập bàn thờ cảm tạ trời đất; còn thì hầu hết nhà nào cũng làm tiệc, rủ bè bạn, thân thích đến để nhậu nhẹt cho “phỉ chí tang bồng”.

Một vài tờ báo nổi tiếng trung thành với Nhu Diệm, hay làm tay sai cho “con khỉ đột” Lê Quang Tung, chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt, tự động đóng cửa; chủ nhiệm, quản lý, chủ bút, trốn luôn; còn đa số bị bịt mắt, bưng miệng lâu ngày, bây giờ tha hồ nói hươu, nói vượn, chạy theo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và chánh phủ lâm thời, và đá những “cú hậu” rất hăng vào hai cái xác chết thối ra là xác Nhu và Diệm.

Bộ trưởng Thông Tin lúc ấy, Thiếu tướng Trần Tử Oai, bị các hồ sơ đè nặng chĩu cả đầu cả cổ, không biết phải đối xử với các báo thân Diệm và chống Diệm ra sao, đành phải vừa làm việc vừa nghe ngóng. Trong khi ấy thì báo được phép xuất bản như nấm; những tờ bị Nhu Diệm đóng cửa cũng tục bản; nhiều ông không hề biết báo chí ra gì, thấy làm báo “hay hay”, cũng gửi đơn xin phép ra một tờ chơi cho hả, thành thử chưa bao giờ ở đây người ta lại thấy sự cạnh tranh gay gắt đến thế, mà nghề ký giả lại được mua chuộc và chiêu đãi đến như thế.
...



Trụ sở Báo chí gia nô của chế độ Ngô Đình Diệm
bị dân chúng thủ đô đập phá, và các tàn tích bị quẳng đầy đường phố


(Trang 253) Không thoát được công lệ lúc đó để làm cho báo chạy, báo “Dân Chúng” cũng có những bài to tổ bố chửi chế độ Ngô gia và đánh đập ra rít bọn mật vụ của chế độ cũ như Dương Văn Hiếu, Lê Quang Tung, Cao Xuân Vỹ, … Một phần các tài liệu dùng để viết rút tỉa ở cuốn “Nhật ký” của Ngô Đình Lệ Thủy (con gái đầu lòng của ông bà Ngô Đình Nhu), đã lượm được trong lúc đánh phá dinh Độc Lập, trong đó có nhiều sự việc mà người ngoài không biết, đại khái vụ vợ chồng Ngô Đình Nhu lên nghỉ ở Ban Mê Thuộc bàn về việc làm “săng ta” Mỹ; vụ mụ Nhu cáo đau bụng, bắt con gái đi dự tiệc “làm quen” với đại sứ Nolting; vụ “mua chuộc” phái đoàn điều tra về Phật Giáo do Liên Hiệp Quốc cử sang liên quan tới Phụ Nữ Liên Đới và Phụ Nữ Bán Quân Sự ra sao; vụ Ngô Đình Lệ Thủy thi tú tài trong đó có sự xếp đặt, bợ đỡ của các giám khảo như thế nào … Tất cả những tài liệu đó, do chính tay Ngô Đình Lệ Thủy ghi lại trong một cuốn nhật ký dầy, “Dân Chúng” đem ra khai thác. Đến vụ Ngô Đình Lệ Thủy thi tú tài, chúng tôi kêu đích danh một người vẫn tự nhận là quốc gia chính cống (có khi lại tự nhận là đệ tứ) làm giáo sư đại học, đặt thành vấn đề chất vấn, thì viên giáo sư ấy không trả lời, …



(Trang 263) … nhiều người tuyên bố liên hiệp với MTGPMN (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) là tự sát, không bao giờ nhìn nhận Mặt trận là một tổ chức hợp pháp, nhưng rồi cũng mật đàm với Mặt trận; thiếu tướng Kỳ thề không bao giờ ngồi chung một bàn với Cộng sản nhưng rồi cũng cùng họp bàn tròn ở hội nghị Ba Lê; bất cứ ai nói chuyện hoà bình cũng bị kể như là thân cộng và cần bắt nhốt hoặc đưa sang bên kia vĩ tuyến, nhưng rồi, theo tờ báo chính thức của Công-giáo ở La-Mã đầu năm 1968, tờ Observatore Romano, Toà thánh dự định gửi một phái đoàn qua Hà-nội vận động hoà bình, trong khi Dean Rusk tuyên bố sẵn sàng nói chuyện hoà bình với Bắc Việt, nếu Cộng sản ngưng tấn công thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.



Trích từ sách “BỐN MƯƠI NĂM ‘NÓI LÁO’ ” của VŨ BẰNG

Cơ sở Xuất Bản Sống Mới – Sài Gòn – 1969 (Trang 204 – 263)

Bắt đầu viết tháng Giêng năm 1967. Sửa lại, viết thêm năm 1968-1969 và xong vào ngày Phật Đản 2513 tức 30 tháng 5 dương lịch 1969.

Thế Hệ Bánh Mì Kẹp





Yên Hà


Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ 
Một đôi người u uất nỗi trơ vơ. 
Ðời kiêu bạc không dung hồn giản dị 
Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.

(trích "Phương Xa" - Vũ Hoàng Chương)


Tôi ra đời giữa hai cuộc chiến, giữa một trăm năm đô-hộ giặc Tây và hai mươi năm nội-chiến từng ngày. Sau đó, tôi được đi du-học và tôi đã sống “vô tư lự” bên trời Âu sung-túc trong khi khói lửa vẫn ngập trời nơi quê nhà.

Giờ đây, bom đạn đã ngừng tiếng nhưng một lần nữa, gia-đình tôi đã phải cuốn gói rời bỏ quê-hương và mấy triệu người Việt-Nam bỗng nhiên phải sống tản mác trên toàn thế-giới như những cây bị bật rễ, ở những chốn dung-thân như Mỹ, Gia-Nã-Đại, Pháp, Úc…

Phần mất mát vần còn đó, nguyên vẹn, ít ra đối với bố mẹ chúng tôi và chúng tôi, thế-hệ đầu của những người di-dân. Một thế-hệ “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi”, lơ lửng giữa không-gian quê hương, chơi vơi giữa thời-gian thế-hệ, lạc lõng trong tâm-tư văn hoá. Một thế-hệ “bánh mì kẹp”.

Kẹp giữa hai quê-hương

Những người di-dân này, ngày hôm nay mang sổ thông-hành Mỹ, Pháp, Úc… nhưng vẫn chỉ là Mỹ (Pháp, Úc…) giấy, phần đông tiếng Mỹ (Pháp, Úc…) vẫn còn ba-xí ba-tú, miệng vẫn hôi mùi nước mắm chứ không hôi hamburger hay camembert, vẫn không có bạn bè Mỹ (Pháp, Úc…) mà chỉ sống quanh-quẩn với nhau, tụ-tập nơi những thương-xá, chợ búa Á-Đông, hay rủ nhau “party”, ăn uống, karaoke với nhau.

Những người Mỹ (Pháp, Úc…) gốc Việt này đã đi tìm một nơi nương-tựa để sống “tạm-bợ” nơi xứ người mà trong thâm-tâm còn cố tưởng-tượng như mình đang sống ở quê nhà, và lúc nào có dịp, có phương-tiện là lại vù về Việt-Nam, một số để “hưởng-thụ”, nhưng phần lớn vẫn vì nhớ nhà.

Tôi không nhớ ai đã có nói: “Ma patrie, c’est là où je suis heureux”
(Quê-hương tôi là nơi chốn nào tôi sống hạnh-phúc)

Tôi muốn tin ông lắm, tôi cũng muốn tự an-ủi mình lắm, nhưng tiếng gọi của cội-nguồn réo rắt lắm, ông ơi. Tôi cứ ngỡ quê-hương là nơi chôn nhau, cắt rốn, là nguồn, là cội, là gốc, là rễ cơ mà ?

Ở hải-ngoại, đương-nhiên chúng tôi được tự-do, phần đông được ăn sung, mặc sướng, đủ tiền mua nhà, chăm lo cho con cái ăn học, đi shopping hay du-ngoạn đây đó… Đời sống này, nhiều đồng-bào ta nơi quê nhà mong mỏi có được, và tôi thừa hiểu chúng tôi « hạnh phúc » hơn rất nhiều người lắm. Tôi không dám than thân, trách phận hay phân-bì với ai cả, chẳng qua nơi đây, tôi chỉ nói lên tâm-sự u-uẩn những người tha-hương chúng tôi mà thôi.

Nhất là trong trường-hợp tôi, hiện đang mang hai quốc-tịch Pháp và Mỹ, sống bên Mỹ nhưng tim vẫn còn « vọng Nam », tâm vẫn còn hướng về Pháp, đôi khi vẫn nhớ về khung trời Bỉ Quốc. Những nơi tôi đã sống, làm sao tôi có thể xóa quên được ?

Quê-hương như người mẹ đã bụng đau, dạ chửa cho tôi ra đời, nuôi-nấng, dậy-dỗ tôi nên người, và quê-hương thứ hai, thứ ba là những bà mẹ đã mở rộng vòng tay, đón-nhận tôi khi tôi không còn chỗ đứng dưới ánh mặt trời.

Ơn-nghĩa này, chúng tôi không quên (từ ngày sang Mỹ, năm 1975, bố mẹ tôi năm nào cũng gửi chút quà giáng-sinh cho gia-đình ông sĩ-quan Mỹ đã giúp nhà tôi sang Mỹ, và sau khi bố tôi mất, mẹ tôi vẫn tiếp-tục gửi, mặc dù người ân-nhân này đã mấy lần đề-nghị nên thôi gửi quà).

Tôi cảm quí những bà « mẹ nuôi » lắm, tôi lại càng xót-thương Mẹ Việt-Nam, quê-hương đau-khổ. Ôi, quê-hương tôi đâu ? Mỹ, Pháp, Úc… ? Hay vẫn là Việt-Nam muôn thuở ?

Kẹp giữa hai nền Văn-hoá

Ngày hôm nay, tôi đã lục-tuần nhưng tôi đã chỉ được sống ở quê nhà có mười tám năm. (Tôi đã mất mát quá nhiều rồi.)

Bao nhiêu năm tháng sống bên Pháp, bên Bỉ, đã rèn đúc tôi với một lối suy-luận, một cách ăn nói, một cách cư-xử xã-giao, một nền văn-hoá mà tôi hãnh-diện mang bên cạnh văn-hoá của mình. Qua bao năm tháng đó, tiếng Pháp đã dần-dà trở thành tiếng tôi thông-dụng nhất, ngay cả để diễn-tả những tâm-trạng sâu-thẳm nhất của mình.

Tuy nhiên, bao nhiêu năm tháng đó chỉ có thể thấm vào cái vỏ bên ngoài, chỉ có thể thay đổi hình-dạng và cử-chỉ của tôi, chỉ có thể tạo nơi tôi những sở-thích ăn mặc, đi đứng, nói chuyện, chỉ có thể tạc lên cái “Tôi” bên ngoài.

Tất cả những năm tháng đó không hề thay đổi nước da hay sắc tóc tôi (tóc tôi chỉ có thể bạc trắng với thời-gian), không hề lay-chuyển âm-điệu tiếng mẹ đẻ của tôi, không hề làm suy-sút kho-tàng văn-hoá tổ-tiên tôi hay nền giáo-dục bố mẹ tôi.

Nước Pháp đã ban thêm cho tôi một nền văn-hoá, nhưng không hề thay-thế nền văn-hoá của tôi.

Nhưng có lẽ đó cũng là nỗi khổ-tâm của tôi, nỗi khổ-tâm của những người di-dân trong thế-hệ đầu? Cây cối làm sao sống thiếu gốc rễ? Con người ta làm sao sống thiếu cội nguồn? Làm sao tôi có thể vui sướng bên ngoài khi bên trong trống vắng?


Tôi có thể thích pot-au-feu hay bouillabaisse nhưng bao giờ tôi cũng vẫn thèm một tô phở đặc-biệt, tái-nạm-gầu-gân-sách-sụn.

Tôi có thể mê một chai Saint Emilion hay một chai Volnay nhưng tôi vẫn nhớ hương-vị mấy chai la-ve “33” của “Brasseries et Glacières d’Indochine” (BGI).

Tôi có thể viết tiếng Pháp giỏi hơn người Pháp trung-bình, nhưng tim tôi bao giờ cũng rung-động khi tôi được đánh dấu hỏi, dấu ngã.

Tôi có thể thích xem phim “action” Mỹ hay nghe Claude Barzotti hát nhưng tôi vẫn thích xem phim bộ… Đại-Hàn (Việt-Nam tôi làm gì có phim hay?), nhưng tôi vẫn thấy thấm-thía hơn khi tôi nghe nhạc Việt, tôi vẫn truyền-cảm hơn khi hát tiếng Việt. Tôi có thể ngoảnh lại nhìn một cô đầm tóc vàng, mắt xanh nhưng tôi chỉ có thể hạnh-phúc với người đàn bà gọi tôi bằng “Mình ơi!”.

Chỉ vì đó là văn-hoá dân-tộc nằm trong máu, trong xương-tủy tôi, vì đó là giáo-dục bố mẹ, ông bà tôi đã truyền lại cho tôi, vì đó là vết-tích của mấy ngàn năm lịch-sử.
Chỉ vì tôi là người Việt-Nam.

Kẹp giữa hai nền văn-hoá. Kẹp giữa hai thế-hệ

Bố mẹ chúng tôi và chúng tôi cùng một làn sóng di-cư (cho dù trong số chúng tôi có những người đã đi trước) nhưng hai điều khổ-tâm cũng có điều khác-biệt.

Quả thật vậy, chúng tôi vẫn cùng một nền văn-hoá với bố mẹ, cùng một nền giáo-dục do cha ông truyền lại. Bố mẹ chúng tôi vẫn được sống với chúng tôi như lúc còn ở Việt-Nam, với nền-tảng Phật-Lão-Khổng, cùng một nhân-sinh quan, cùng một đạo làm người. Chúng tôi vẫn nói tiếng Việt với bố mẹ, tiếp-tục yêu thương, kính-nể bố mẹ, để tiếp-tục lưu-truyền phong-tục, tập quán. Trong khi chúng tôi giờ bắt-buộc phải chấp-nhận văn-hoá con cháu chúng tôi như một văn-hoá ít nhiều là ngoại-Việt.

Vì sự lưu-truyền đó sẽ gián-đoạn từ đây. Con cái chúng tôi đã bắt-đầu nói một thứ tiếng khác và những điều chúng tôi cố-gắng răn-dậy con cái khó lọt qua được màng-lưới thế-giới bên ngoài.

Tôi đã được chứng-kiến một cảnh-tượng mà tôi không bao giờ quên được. Hôm đó, một người bạn có tổ-chức một buổi tiệc họp mặt với hơn sáu mươi bạn hữu để ăn uống, hát hò, nhẩy đầm.

Về khuya, chúng tôi tạm ngưng chương-trình để ăn một bát cháo gà cho ấm bụng và lấy sức chơi tiếp. Lúc đó, đứa con trai chủ nhà từ trên lầu đi xuống với mấy đứa bạn, bật máy truyền-hình lên và nằm xem, ngay giữa sàn nhẩy. Chúng tôi đã bị “chiếm đất” và đợi một lúc, không thấy tình-hình biến-chuyển, quan-khách lần-lượt xin kiếu-từ.
Tôi á-khẩu. Làm sao tôi có thể tưởng-tượng được cảnh này, với nền giáo-dục của tôi? Hôm đó, tôi đã chợt hiểu nền “độc-tài” của con trẻ trong cái quốc-gia tự-do nhất thế-giới này. Nhưng điều tôi phân-vân nhất là trong tình-trạng đó, hai vị chủ nhà, nghĩa là bố mẹ cậu trai trẻ đó, không hề lên tiếng can-thiệp, hầu như làm ngơ, không nhìn thấy điều gì cả.

Trong khi tôi, đầu đã bạc phơ mà mỗi lần sang thăm nhà, Mẹ bảo tôi cạo râu hay đi cắt tóc là tôi vui vẻ làm ngay, chỉ để vâng lời Mẹ, để cho Mẹ vui. Ngược lại, bên Mỹ này, con gái mới mười lăm tuổi đã đánh mắt, thoa son đi học, bố mẹ nói gì được khi trong trường, bạn bè chung quanh đều như vậy, vả lại có thầy bà nào cấm cản đâu? Bên này, con cháu đi xâm mình (tattoo) hay đục vòng sắt vào môi, vào mắt (piercing) thì bố mẹ nào, ông bà nào ngăn cản được?

Nhà chúng tôi lúc trước không giầu có gì nên không bao giờ dám phí-phạm bất cứ gì, ăn cơm phải vét sạch từng hạt, trong khi con trẻ bên này lấy cho đầy đĩa nhưng không ngần-ngại đổ tuốt nửa đĩa thức ăn khi chúng cảm thấy no.

Tôi đã tận mắt thấy những bố mẹ phải khóc tức-tưởi khi bị lũ con xúm vào “mắng”. Ngày nay, bố mẹ nào dám đánh con mà không sợ chúng nó gọi “911”?

“Trời làm một trận lăng-nhăng, ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông”.

Ngày nay, thế-giới đảo lộn và chúng tôi đi lộn đầu, để con cái trèo đầu, trèo cổ thôi. Lúc trước còn ở bên Pháp, tôi vẫn cố gắng mỗi năm lấy máy bay sang thăm bố mẹ, và giờ đây sống bên Mỹ, tôi vẫn đi thăm Mẹ (vì không cùng tiểu bang) và ngoài ra, còn phải đi Pháp thăm con.

Hoá ra, chúng tôi ở trên thì lo cho bố mẹ, ở dưới thì lo cho con cái (ở bất cứ tuổi nào); ở trên thì bị bố mẹ mắng, ở dưới thì bị con trách !?! Kẹp giữa hai thế-hệ.

Xung-đột cả thế-hệ lẫn văn-hoá

Nói như vậy không phải để trách mắng con cái. Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó không nói được tiếng mẹ đẻ? Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó sinh sống tại hải-ngoại? Đâu phải do lỗi chúng nó nếu chúng nó hoà mình với môi-trường bên ngoài nhiều hơn là với môi-trường gia-đình (nhất là trong cái tuổi thành-niên này)?

Tôi đã có nghe những đứa trẻ nói với bố mẹ: “Bố mẹ đừng trông mong chúng con trở thành người Việt. Văn-hoá của bố mẹ không phải là văn-hoá của chúng con. Chúng con là người Mỹ!” Phũ-phàng thay, đau lòng thay, nhưng chúng nó làm sao hiểu được văn-hoá chúng ta khi chúng nó sống trong một thế-giới mà nền-tảng là “tự-do” và “đồng đô-la”? Làm sao chúng nó có thể nghe lời bố mẹ trong khi sự-thật bên ngoài hầu như khác hẳn?

Có lẽ chính chúng nó có lý. Bổn-phận cha mẹ là giúp con cái thành công cuộc đời chúng nó chứ không phải cuộc đời cha mẹ, giúp chúng nó thành-công ngoài đời, trong môi-trường chúng nó đang sống chứ không phải môi-trường bố mẹ chúng đã sống. Sống ở đâu mà không theo văn-hoá nơi đó thì chỉ có thất bại, mà đâu có cha mẹ nào muốn con mình thất-bại khi ra đời, cho nên đành ngậm cay, nuốt đắng mà thôi.

Đây không phải chỉ là vấn-đề xung-đột thế-hệ (thời-điểm nào chả có vấn-đề này, cho dù không “gây cấn” như vậy), mà còn rắc-rối thêm vấn-đề xung-đột văn-hoá nữa. Làm sao bố mẹ và con cái có thể hiểu nhau và chấp-nhận nhau khi đôi bên không cùng một nền-tảng, cùng những đặc-quan, cùng một nhân-sinh-quan?

Nỗi buồn u-uẩn

Dĩ nhiên tôi không dám vơ đũa cả nắm, không dám nói gia-đình Việt-Nam bên hải-ngoại nào cũng như trên, nhưng có lẽ phần đông là như thế (?) Nói lên vài điểm cho dễ hiểu, nhưng vấn-đề không giản-dị như vậy và tôi không có khả-năng phân-tích nhiều hơn.

Dù sao đi nữa, đây cũng chỉ là nỗi buồn u-uẩn, ám ảnh tôi từ bao lâu nay, trong mối liên-hệ với tâm-hồn, với văn-hoá, với gốc rễ của mình. Tôi không tức-giận, không chua chát. Tôi chỉ cảm thấy buồn, tôi không luyến-tiếc quá-khứ, chỉ là tôi cảm thấy buồn.
Vướng mắc giữa hai quê-hương, giữa hai nền văn-hoá, giữa hai thế-hệ, chúng tôi là một thế-hệ "bánh mì kẹp” (đôi khi còn là “bánh bao” nữa). Ngoảnh nhìn lại chỉ còn kỷ-niệm, nhìn về đàng trước thì tương-lai đã bít kín.

Nhưng thôi, đã biết là mình vướng mắc, là mình “chấp ngã” (như lời Phật dậy) thì chỉ còn có nước “phá chấp”, nghĩa là “buông”, là chấp-nhận. Vả lại, cha mẹ chúng tôi không có vấn-đề này, con cháu chúng tôi không có vấn-đề này, chỉ có chúng tôi mới có vấn-đề này. Ngày nào cái thế-hệ chúng tôi đi hết rồi thì vấn-đề này sẽ không còn ai bàn đến nữa.

Chúng tôi chỉ là một giai-đoạn chuyển-tiếp, một thế-hệ bị mất mát, bị hy-sinh để dân-tộc di-dân chúng tôi có thể lật qua một trang sử mới. Để đời sau, con cháu chúng tôi có hy-vọng thành-công trên đất người, đi tiếp con đường mà chúng tôi đã không đi hết.

Được như vậy, chúng tôi cũng sẽ mãn-nguyện lắm rồi.
Xin cảm-ơn Trời Phật, xin cảm-ơn phúc-đức ông bà.

Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014

Thị Phi



Câu chuyện thứ nhất: 

Trong một buổi nhàn hạ, vua Đường Thái Tông hỏi chuyện vị quan cận thần là Hứa Kính Tôn rằng:
– Trẫm thấy khanh phẩm cách cũng không phải là phường sơ bạc. Sao lại có nhiều tiếng thị phi chê ghét như thế?
Hứa Kính Tôn trả lời:
– Tâu bệ hạ. Mưa mùa Xuân tầm tã như dầu, người nông phu mừng cho ruộng đất được thấm nhuần, kẻ bộ hành lại ghét vì đường đi trơn trợt. Trăng mùa thu sáng vằng vặc như gương treo trên bầu trời đêm, hàng thi nhân vui mừng gặp dịp thưởng du ngâm vịnh, nhưng bọn đạo chích lại ghét vì ánh trăng quá sáng tỏ. Trời đất kia vốn vô tư không thiên vị, mà cơn nắng mưa thời tiết vẫn bị thế gian trách hận ghét thương. Còn hạ thần đâu phải một người vẹn toàn thì làm sao tránh khỏi tiếng chê bai chỉ trích.

Cho nên ngu thần trộm nghĩ, đối với tiếng thị phi trong thế gian nên bình tâm suy xét, đừng nên vội tin nghe. Vua tin nghe lời thị phi thì quan thần bị hại. Cha mẹ tin nghe lời thị phi thì con cái bị ruồng bỏ. Vợ chồng tin nghe lời thị phi thì gia đình ly tán. Tiếng thị phi của thế gian nọc độc còn hơn rắn rết, bén hơn gươm đao, giết người không thấy máu.

Câu chuyện thứ hai:

Một lần, Phật đi giáo hóa ở vùng có nhiều người tu theo Bà La Môn giáo. Các tu sĩ Bà La Môn thấy đệ tử của mình đi theo Phật nhiều quá, nên ra đón đường Phật mà mắng chửi. Phật vẫn đi thong thả, họ đi theo sau không tiếc lời rủa xả. Thấy Phật thản nhiên làm thinh, họ tức giận, chặn Phật lại hỏi:
– Ngài có điếc không?
– Ta không điếc.
– Ngài không điếc sao không nghe tôi chửi?
– Này tín đồ Bà La Môn, nếu nhà ông có đám tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng họ không nhận thì quà đấy về tay ai?
– Quà ấy về tôi chứ ai.
– Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì thôi.

Nỗi nhớ mùa Đông





Lời bài hát “Nỗi nhớ mùa đông” cũng da diết,trầm mặc.Giữa chiều cuối thu nắng nhạt, thẫn thờ chắp lại từng mảnh vụn thời gian của một thời chưa quá cũ. Một thời tình nhân hanh hao nắng thu, một thời đơn độc trong cái se lạnh của gió mùa đông bắc.Ru lòng mình hoang hoải để nghe mùa đông đã về, để cảm nhận ngỡ ngàng nét đẹp se lòng cô độc.




Trong những khoảnh khắc giao mùa, có lẽ xao xuyến nhất là cơn gió đông đón chiếc lá vàng cuối cùng của mùa thu để thả xuống mặt hồ sương ảo.Những cơn gió khẽ lay động, từng con sóng nước trên những mặt hồ đang buồn ảm đạm.Sao hôm nay phố vắng đến lạ lùng, mỗi bước chân ta bỗng dưng chậm lại... Có phải mùa đông đang về trên từng góc phố? Có phải mùa đông đang sang với những đổi thay của đất trời, với những tiếng chạm khẽ làm rung động mỗi con tim?

Mùa đông, bầu trời như thấp xuống. Mây ở đâu kéo về che kín cả khoảng trời xanh. Cả mùa đông, bầu trời toàn mây là mây. Hiếm lắm mới có những ngày trời xanh, nắng ấm. Mây có màu xám tro. Cả bầu trời bao la một màu mây xám khiến cho vạn vật cũng có màu xám như mây. Hôm nay, cả ngày mưa không có ánh nắng mặt trời, không khí trầm buồn bao phủ khắp nơi nơi và ai cũng cảm thấy se se lạnh. Lòng tự nhủ: thế là mùa đông đã về.

Mùa đông về gõ cửa, những cơn gió như tà áo thướt tha khẽ gieo mình vào khoảng không vô tận. Con phố nhỏ nằm im lìm, núp bóng dưới những cây bàng già cỗi…

Mùa đông có gió heo may, giá rét. Những cơn gió mùa đông bắc thổi về làm cho trời đất đã xám rồi lại càng xám hơn. Cây trụi lá, cành nhánh khẳng khiu trơ trọi giữa trời. Màu xanh hầu như biến mất. Màu vàng cũng không. Màu xám lên ngôi. Nhìn toàn cảnh đâu đâu cũng thấy gam màu lạnh - gam màu chủ đạo của mùa đông. Đến nước da con người cũng xạm lại. Cái se lạnh, rét mướt, không gian trầm lắng cùng với màu xam xám của mùa đông khiến cho nhu cầu sưởi ấm lòng nhau, tựa vào nhau cần có hơn bao giờ hết.

Mùa này, tôi nhớ nhiều những gốc rạ khô mục trên những con đường nứt nẻ ở quê. Ngày đó tôi còn nhỏ, chân cũng nứt nẻ như cánh đồng khô, cũng dầm sương gió, cũng ngô khoai sắn...cho nên nhớ. Nỗi nhớ nhiều, ăn sâu đến và nhiều nhất về những người chỉ biết có ruộng đồng, cúi mặt trên các luống cày, những người làm ra hạt gạo nuôi sống nhân loại mà cuộc sống lại chất đầy những lo toan, may rủi.

Mùa đông, thương nhất là những người không có nhà phải nằm ngủ ở vỉa hè hay các gầm cầu, hoặc có nhà nhưng bị dột nát và vách tưởng thủng nhiều chổ. Chịu làm sao thấu những cơn gió lùa lạnh thấu xương, những giọt mưa rớt xuống nền nhà, đồ đạc và thấm ướt cả người?

Tôi cảm giác mùa đông về qua từng cơn gió se lạnh, qua tiếng mưa rơi nặng hạt ngoài hiên, qua mùi bánh rán và ngô nướng thơm lừng lan tỏa… Dù mùa đông có giỏi che giấu đến đâu, tôi vẫn có thể cảm nhận được bước chân của nó đang dần xâm chiếm tất cả mọi ngóc ngách của cuộc sống.

Bất chợt, trên tivi báo tin gió mùa Đông Bắc đang tràn về. Trong đầu tôi cứ thấp thoáng hình ảnh những em bé miền núi gầy gò, nhỏ bé với tấm áo mong manh, đôi chân trần trong sương gió…

Mùa đông lạnh cho ta hiểu sâu sắc hơn giá trị của lòng người chan hòa trao nhau tình thân ái trong sự hòa hợp nhân loại.Mùa đông lạnh cho ta thêm trân trọng những con người đang đứng ra quyên góp từng bộ quần áo cũ, đôi dép cũ, đồ dùng học tập cũ ở thành phố để mang lên trao tận tay cho đồng bào khó khăn ở vùng cao.

Cảm ơn mùa đông. Cảm ơn những tấm lòng người mang đầy hơi ấm hồng reo lửa cho bập bùng, sáng mãi, đẹp mãi. Lòng mình như thầm nhắc: hãy yêu thương chính bản thân mình và tất cả mọi người, mọi vật để cho mùa đông không lạnh, để cho tiếng lòng ngân mãi nhịp yêu thương trọn vẹn trong lòng ta, cho đời mãi đẹp thênh thang ngân vang như trong câu hát. Tôi chợt nhớ đến bài hát viết về mùa đông rất hay và nổi tiếng của nhạc sỹ Phú Quang với tên gọi“Nỗi nhớ mùa đông”:

“Dường như ai đi ngang cửa

Gió mùa đông bắc se lòng

Chút lá thu vàng đã rụng

Chiều nay cũng bỏ ta đi”

Lời bài hát “Nỗi nhớ mùa đông” cũng da diết, trầm mặc. Giữa chiều cuối thu nắng nhạt, thẫn thờ chắp lại từng mảnh vụn thời gian của một thời chưa quá cũ. Một thời tình nhân hanh hao nắng thu, một thời đơn độc trong cái se lạnh của gió mùa đông bắc. Ru lòng mình hoang hoải để nghe mùa đông đã về, để cảm nhận ngỡ ngàng nét đẹp se lòng cô độc.

Trong ngổn ngang ký ức, một nỗi nhớ được se sẽ gọi tên. Nhớ một bàn tay đã ủ ấm bàn tay lúc gió chuyển mùa. Nhớ chiếc lá cuối cùng níu mong được ở lại với cây. Nhớ những dòng sông tuổi thơ chạy dọc hai bên cánh đồng lộng gió mùa đông bắc, lạnh đến tái tê lòng. Nhớ ánh mắt trìu mến, nụ cười hiền và giọng nói ấm áp của ai đó đến nao lòng... Để rồi ao ước sẽ mãi có một mùa đông ấm áp mà không đảo lộn thói quen sinh hoạt ngàn đời. Vẫn ao ước rồi mai đây, chúng ta sẽ chế ngự được những đợt gió lạnh từ phía Bắc, chế ngự được những áp thấp, áp cao trên Biển Đông, để nhân dân Việt Nam đều được đón những mùa đông thật ấm áp...


Vũ Thị Minh Huyền






Vài ý kiến về - Tranh Luận Một Cách Nghiêm Túc



Vanessa Nguyen


Người tranh luận nghiêm túc trước khi phát biểu hay đề xuất ý kiến, đưa ra lời bình phẩm của mình, cần phải xem xét tất cả các trường hợp khả dĩ, phải cân nhắc những quan điểm và những cách giải thích khác nhau, phải đánh giá ảnh hưởng của sự chủ quan và cảm tính, phải tập trung vào việc tìm sự thật hơn là muốn mình đúng, phải sẵn sàng chấp nhận những quan điểm không được nhiều người ưa chuộng, và phải ý thức được định kiến và chủ quan của chính mình.

Khi tranh luận phải nhất quán là chỉ xoay quanh chủ đề bàn luận, luận điểm bàn luận chứ không đi lạc đề. Không công kích vào cá nhân và nhân thân của người tham gia tranh luận.

Những sự đóng góp vào công cuộc đấu tranh cho tự do, thì hãy biết hy sinh một phần của cái cảm tính cá nhân để hầu mở rộng dân chủ tính, lắng nghe tôn trọng và lý luận, giải lý trong cái lý lẽ và dẫn chứng hầu xoá tan đi sự ngộ nhận trong lòng dư luận.

Công kích cá nhân (ad hominem). Đây là một loại ngụy biện phổ biến nhất, thấp kém nhất, nguy hiểm nhất, nhưng có “công hiệu” nhất, vì nó tấn công vào cá nhân của người tranh luận, và tìm cách trốn tránh luận điểm của cá nhân đó. Hình thức ngụy biện này thường xuất hiện dưới dạng: Ông A phát biểu về một vấn đề; ông B tấn công vào cá nhân ông A, và làm cho người ta nghi ngờ luận điểm của ông A. Tuy nhiên, có thể không có mối liên hệ nào giữa cá nhân và luận điểm của ông A.
Có hai hình thức thuộc loại ngụy biện này. Thứ nhất là dưới hình thức sỉ nhục, hay chửi rủa. Khi bất đồng ý kiến, người ngụy biện chỉ việc công kích vào cá nhân của người phát biểu.

Đây là một ngụy biện, bởi vì sự thật của phát biểu không tùy thuộc vào cá nhân của người phát biểu, mà là logic của lời phát biểu. Cũng nằm trong loại ngụy biện này là thói dùng một đặc điểm của một vật thể nào đó để ứng dụng cho một cá nhân hay một vật thể khác.

Người chính trị thì hãy dùng LOGIC Arguments chứ không chơi chụp mũ / đạo đức giả= chĩ có kẻ đuối lý mới dùng THOÁ MẠ/ CHỌC GHẸO/ CHỤP MŨ/ ĐẠO ĐỨC GIẢ đễ tránh né VẤN ĐỀ.

PS/   Kiểu ngụy biện này các bạn dễ dàng nhận ra đối với lũ chống cộng cực đoan các nhà dân chủ giả cầy....Khi gặp phải những đối tượng ngụy biện này cách tốt nhất là bạn chấm dứt tranh luận hoặc bạn sự dụng ngay chính cách của chúng đặc biệt là với lũ chó làng mạng. Hi hi...

Chúa Phục Sinh



Thơ song ngữ: Chúa Phục Sinh



Những câu chuyện bình thường của một gã đàn ông!



Featured Image: Quibe


Câu chuyện thứ nhất…

Họ hôn nhau say đắm. Gã bế chị lên, đặt chị ngã lưng vào… cái bàn ăn. Chị cười ha hả như kẻ đang say. Họ tiếp tục chìm trong cái lạc thú của ái tình. Dừng lại một tí, chị nhìn gã tinh nghịch, miệng nở nụ cười ẩn ý, chị bắt đầu cởi chiếc áo phông ra. Gã đưa tay cản, nghịch ngợm nhìn lại chị: “Anh muốn tự tay xé nó!” “Oh!… Thiệt à?… Á!… Haha!” Chị cười ngất ngay, sung sướng. Ôi! Chị muốn ôm chặt gã đàn ông này đến suốt cuộc đời mình!

Nhưng… Cái áo chết tiệt này làm bằng cái quái quỷ gì thế này? Gã đã dùng hết sức, mím môi thật chặt. Nhưng cái áo bướng bỉnh vẫn không chịu tước ra cho dù một sợi chỉ! “Hey! Anh có cần một chiếc kéo nào không?” Chị nửa đùa, nửa thật, nhỏm đầu lên hỏi. “Không! Anh tự lo được!” Gã tiếp tục đánh vật, mồ hôi trên trán như muốn túa ra. Nằm tơ hơ trên bàn chẳng khác nào một con cá mắc cạn, để mặc cho gã xoay đầu này, chuyển hướng nọ, chị nhăn mặt, thở dài, chặc lưỡi tự hỏi, lũ đàn ông này, sao thật cứng đầu thế nhỉ!

Ừ! Gã đúng thật cứng đầu! Cứng đầu y như cái lần ấy ấy. Cái lần mà gã đã ôm chị vào lòng, và chị đã rút ra một bì thư. “Em biết anh đang trong giai đoạn khó khăn! Em nghĩ cái này có thể giúp được anh một tí!” Gã quấn tay vào những cọng tóc lòa xòa của chị, hôn lên trán chị, mỉm cười: “Anh đã không thể lo cho em! Anh làm sao có thể nhận tiền của em được?” Chị dựa vào gã đàn ông ấy và cảm thấy thật sự ấm áp.


Đúng thật là gã đàn ông kỳ quái, bướng bỉnh!
Câu chuyện thứ hai…

Họ cưới nhau. Họ có một đứa con. Nhưng gã lại không có một công ăn việc làm tốt cho lắm. Gã quyết định để chị và con ở lại. Một mình gã sẽ đi làm ăn ở phương xa, mong sao có thể lo cho gia đình một tương lai đủ đầy. Một thân một mình nuôi con, công việc thì sa sút, chị thấy đau lòng khi không thể cho con được một bữa ăn chu đáo. Bà chủ nhà thấy tình cảnh của chị, bèn gợi ý một công việc “khá nhẹ nhàng mà lương rất cao”. Thật ra thì công việc này không như cái công việc kia kia đâu! Chỉ là, chị sẽ mặc một chiếc áo ngủ gợi cảm, chị sẽ nhảy nhót lung tung trong nhà, chị sẽ vừa làm việc nhà, vừa uốn éo trước camera. Tất nhiên là chị sẽ để cho lũ đàn ông lắm tiền ngắm. Sau nhiều lần đắn đo, chị quyết định nhắm mắt đưa chân, liều một phen. Chị đồng ý!

Nhiều chuyện xảy đã ra sau đó, nhưng, cuối cùng thì gã cũng phải biết. Tôi không nhớ rõ lắm lúc đó gã đã hành xử như thế nào. Nhưng, sau đó, họ vẫn rất hạnh phúc. Tôi cũng chẳng nhớ gã lúc ấy có khóc lóc nước mắt, nước mũi tèm lem hay không, cũng chẳng nhớ gã có đau khổ tột cùng vì bị “bội phản” hay không. Tôi cũng chả biết gã có lên các trang mạng xã hội dành cho người trẻ, một điều “gấu chó”, hai điều “chó gấu” hay không. Nhưng tôi nghĩ, gã sẽ chẳng bao giờ làm những việc ấy. Gã chỉ biết tự trách mình mà thôi! Gã là gã đàn ông vô dụng, một thời nghiện ngập, một thời tù tội, dù cho lý do nào cũng chẳng đã học hành đến nơi, đến chốn, chẳng thể kiếm được một công việc tử tế lo cho vợ, cho con!

Ôi! Một gã đàn ông ngớ ngẩn!
Câu chuyện thứ ba…
Họ nói chuyện trước sân. Chị lững thững bước vào nhà. Gã đứng lên bước đi theo chị. Chị chợt nhớ một thứ gì đó và quay đầu lại với gã. Một chiếc xe thắng cái kétttt trước ngõ nhà chị. Một khẩu súng được giơ ra. Không kịp suy nghĩ, thay vì nhảy vào chỗ khuất, gã vội vàng đẩy chị ngã vào trong. Ngay trong cái khoảnh khắc ấy, cái khoảnh khắc khi viên đạn vụt ra khỏi nòng và cắm vào ngực hắn, cả cuộc đời hiện ra như một cuốn album.

Thật ra, thì đó là một cuộc đời cũng chẳng có gì đặc biệt! Những gã đàn ông bình thường! Đi gặp và tán tỉnh những người phụ nữ bình thường. Hôn họ, cưới họ và có con với họ. Những gã đàn ông đã không ngại thức khuya dậy sớm, kiếm tiền lo một đám cưới trong mơ cho người phụ nữ mình yêu. Những gã đàn ông, sẵn sàng làm việc 20 tiếng một ngày chỉ để thỏa mãn nụ cười trên môi vợ (Tôi thì vẫn nghĩ đấy là một lời nói phét, nịnh đầm). Những gã đàn ông không ngại người phụ nữ của mình “bay từ hết người đàn ông này đến người đàn ông khác, chỉ để kiếm một người thật sự chung thủy” (Gothe). Những gã đàn ông sẵn sàng là chỗ dựa cho những cái bứt rứt có phần hơi ngớ ngẫn của các cô. Những gã đàn ông thâm trầm, vững chãi như một người cha, nhưng yêu cô say đắm như một người tình.

Những gã đàn ông bình thường!

Nhỏ bạn im lặng, ngồi lắng nghe hết câu chuyện của tôi. Nhỏ đẩy gọng kính lên, thở dài, và nhìn lại tôi, bằng nữa con mắt trêu chọc: “Những loại đàn ông ấy chết hết rồi nhóc ạ! Nó chỉ có trên phim thôi cậu bé! Những gã đàn ông ngày nay mua cho bồ một ly sinh tố sẽ nhớ là đã mua cho bồ một ly sinh tố!” Ừ! Thì đó vốn dĩ là một gã đàn ông chỉ có trên một bộ phim truyền hình thôi mà! “Hồi đó, mày khóc lóc như một con thất tình ấy!” Nhỏ bỉu môi, lắc lắc cái đầu nói tiếp “Ê?!” Tôi nhăn mặt, cảm thấy một sự xấu hổ không thể nào kìm nén được. Ừ! Có lẽ, hình như, chưa có ai dạy ai, để trở thành một người đàn ông bình thường? Đàn ông ngày nay rất thời trang, rất hợp mode và rất cơ bắp. Họ sành sỏi về nhiều lĩnh vực công nghệ! Họ thông tuệ bao nhiêu kinh sách! Họ có thể an bang, trị quốc chỉ với một bàn phím và một con chuột! Nhưng họ liệu đã thật sự che chở, cho những con người, những con người mà họ thật sự yêu thương?

Những gã đàn ông bình thường ấy? Ngoài kia? Đã chết hết rồi ư? Tôi không nghĩ vậy! Tôi thật sự cũng rất muốn cứng đầu, bướng bỉnh và bình thường như thế! Sài Gòn mùa này, nhiều mưa, nhỉ?



Diều Hâu Đuôi Đỏ

Độ Hán giang của Lý Tần





THU TỨ





Người ở xa về thấy người quê không dám hỏi, mà người quê nếu có nhận ra người ở xa về có khi cũng không dám vẫy, chào. Chào, rồi nhỡ bị hỏi, rồi mình phải kể tin xấu cho người ta nghe, thôi, ngại lắm. Ai bao năm mới về “Lĩnh nội”, qua “Hán giang” xong cứ cắm cúi thẳng cửa nhà nhé, khắc biết.

Nguyên văn

Độ Hán giang

Lĩnh ngoại âm thư tuyệt
Kinh đông phục lập xuân
Cận hương tình cánh khiếp
Bất cảm vấn lai nhân.

Dịch nghĩa

Qua sông Hán

Ở đất ngoài Ngũ Lĩnh xa xôi, không nhận được tin nhà
Đông qua, xuân lại đến
Về gần tới quê, lòng rất sợ hãi
Không dám hỏi thăm người qua lại (vì e tin chẳng lành).

Dịch ra thơ Đường luật

Trần Trọng Kim:

Lĩnh ngoại thư từ vắng,
Qua đông lại lập xuân.
Gần làng lòng sợ hãi,
Không dám hỏi lai nhân.

Lê Nguyễn Lưu:

Ngũ Lĩnh tin nhà vắng,
Đông tàn lại đến xuân.
Gần quê lòng những ngại,
Không dám hỏi người thân.

Dịch ra thơ lục bát

Thu Tứ:

Xuân nay mới được trở về,
Xa non cách núi tin quê biết gì.
Gần làng bay cả hồn đi,
Người qua muốn hỏi, ngại nghi những điều...





Thứ Hai, 15 tháng 12, 2014

Trường hợp Võ Phiến và Thu Tử


Võ Phiến hoặc Tràng Thiên là bút danh của Ðoàn Thế Nhơn (1925) - nhà văn ở miền nam trước năm 1975, hiện định cư ở Mỹ. Văn nghiệp của Võ Phiến khá phức tạp mà nổi lên là xu hướng "chống cộng" cho nên được chính quyền Sài Gòn trước đây và một số người ca ngợi (!). Vừa qua, vì "được biết một tổ chức phi chính quyền trong nước đang có kế hoạch tích cực phổ biến những tác phẩm Võ Phiến chứa nội dung chính trị sai lầm", nên từ Mỹ, tác giả Thu Tứ (bút danh của Ðoàn Thế Phúc - một người con của Võ Phiến) đã viết bài Trường hợp Võ Phiến nhằm phản bác kế hoạch nêu trên.



Dù viết về quan điểm chính trị - xã hội trong tác phẩm của cha mình, nhưng tác giả Thu Tứ đã có cách tiếp cận khách quan, để đưa ra một số lý giải, kết luận. Ðược sự đồng ý của tác giả, trong hai số báo ra ngày 7-10 và 10-10, Báo Nhân Dân trích đăng bài viết để bạn đọc tham khảo, qua đó nhận diện một người viết văn với nội dung chính trị sai lầm trong văn nghiệp của mình, đã đi ngược lại sự nghiệp chân chính của dân tộc như thế nào (Có thể đọc các tác phẩm của tác giả Thu Tứ tại website cá nhân gocnhin.net)...

Chẳng ai muốn chỉ ra cái sai của người đẻ ra mình! Chúng tôi làm việc này vì vừa được biết một tổ chức phi chính quyền trong nước đang có kế hoạch tích cực phổ biến những tác phẩm của nhà văn Võ Phiến chứa nội dung chính trị sai lầm. E rằng việc làm của họ có thể khiến một số người đọc hoang mang, ảnh hưởng tới đoàn kết dân tộc, chúng tôi quyết định tự mình phản bác nội dung này. Chúng tôi cảm thấy có một chút trách nhiệm về việc làm nêu trên của tổ chức phi chính quyền kia. Số là, trong hai năm qua, NXB Thời đại và Công ty Nhã Nam ở Hà Nội có in lại hai tác phẩm của nhà văn Võ Phiến là Quê hương tôi và Tạp văn. Cả hai tác phẩm này đều do chúng tôi chọn lựa và biên tập, theo sự ủy quyền từ lâu của thân phụ. Chúng tôi cố gắng chọn những tác phẩm giá trị nhất, không chứa hoặc chứa rất ít nội dung chính trị. Nếu có nội dung chính trị, khi biên tập chúng tôi loại bỏ hết. Mục đích của việc chọn và bỏ như thế là đưa những thành tựu văn học đỉnh điểm của văn nghiệp Võ Phiến đến với người đọc mà không gây hại cho nước. Chúng tôi đã tưởng mình thế là chu đáo với nhà, với nước! Hóa ra, việc hai tác phẩm Quê hương tôi và Tạp văn được người đọc trong nước đón nhận khá tốt lại chính là cái nền rất tiện lợi cho tổ chức kia toan đặt lên đấy thứ nội dung hoàn toàn bất ổn trong tác phẩm của Võ Phiến! Chuyện đang xảy ra còn làm chúng tôi sốt ruột về tương lai. Sẽ hết nhóm nọ đến phe kia những lúc nào đó đem vận dụng văn nghiệp Võ Phiến một cách có hại cho đất nước. Phải làm cho thật rõ về cái phần nội dung chính trị sai lầm trong văn nghiệp ấy ngay từ bây giờ.

Chúng tôi còn một lý do nữa khiến việc lên tiếng càng không thể tránh được. Do quan hệ đặc biệt và do ở gần nhà văn Võ Phiến trong không biết bao nhiêu năm, chúng tôi được nghe tận tai những phát biểu của ông về tình hình đất nước mà chắc chắn chưa ai từng nghe. Ngoài ra, do yêu thích văn học, chúng tôi đã đọc rất kỹ tất cả tác phẩm của Võ Phiến. Hơn nữa, chúng tôi còn đọc để soát lại trước khi đưa in phần lớn tác phẩm của Võ Phiến tái bản hoặc xuất bản ở nước ngoài. Kết quả của không biết bao nhiêu lượt nghe những lời phát biểu thoải mái và đọc rất kỹ tác phẩm là: không ai có thể biết lập trường chính trị và cách nhìn lịch sử của nhà văn Võ Phiến rõ bằng chúng tôi. Cái biết ấy trong tình hình lập trường bất ổn và cách nhìn cũng bất ổn đang được một số người tìm cách tái phổ biến, nó trở thành một sức nặng bắt chúng tôi phải bất chấp quan hệ tối thân thiết mà lên tiếng chỉ sai.

Trước khi về thăm quê hương lần đầu năm 1991, chúng tôi đã tuyệt đối tin những nghĩ ngợi của thân phụ mình về chuyện đất nước thời chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ. Chúng tôi về nước rất nhiều lần, mỗi lần rất lâu, thăm thân rất ít, coi như toàn bộ thời gian ở trong nước dành cho việc đi tham quan, chủ yếu tại miền bắc. Chúng tôi không ở khách sạn sang trọng, không đi "tua", mà ở những nhà khách rẻ tiền, đi xe khách, xe ôm, xích-lô, có lần mua xe đạp đạp dạo quanh vùng ngoại ô Hà Nội thường xuyên đến nỗi có người ngồi chợ tưởng nhầm là dân buôn! Với lối đi tham quan như vừa nêu, chúng tôi trở nên rất đỗi hoang mang! Chúng tôi thấy người Việt Nam ngoài bắc vui vẻ, bình thản, vừa giữ được phần lớn nền nếp cũ, lại vừa có thêm cái phong cách "cách mạng", mọi người bình đẳng, cũng rất hay. Bấy giờ miền bắc cũng như cả nước, đang có một số hiện tượng xã hội tiêu cực do kinh tế trì trệ kéo dài, vật chất rất thiếu thốn, nhưng nhìn chung người tuy nghèo mà văn hóa tinh thần rất đáng hãnh diện. Ðâu là cái ảnh hưởng cực xấu của chủ nghĩa cộng sản đối với văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam mà mình đã đọc thấy trong tác phẩm của người đẻ ra mình?! Than ôi, hóa ra chỉ là kết quả của những kinh nghiệm rất giới hạn cả về không gian lẫn thời gian cộng với những câu chuyện kể của một ít bạn bè người miền trung cùng hoàn cảnh, một số đồng nghiệp người bắc di cư, vài cán bộ cộng sản "hồi chánh", thêm vài tác phẩm "nhân văn giai phẩm", tất cả được một trí tưởng tượng hết sức phong phú và một tâm lý đặc biệt bi quan suy diễn nên!

Ngoài cái biết trực tiếp như vừa nêu, nhờ thói quen hay đọc sách báo mà chúng tôi biết thêm được vô số chuyện lạ đối với mình. Từ văn hóa, chúng tôi tìm hiểu sang lịch sử, mới biết đến, hay biết rõ nhiều chuyện đất nước rất to, như Tuyên ngôn Ðộc lập, Hà Nội kháng chiến 60 ngày đêm, chiến dịch Biên giới, chiến dịch Ðiện Biên Phủ, mà cho đến lúc ấy hoặc chưa nghe bao giờ hoặc chỉ nghe hết sức loáng thoáng với lời bình phẩm hạ giá kèm theo. Những "voi" sự kiện theo nhau lù lù bước ra từ quá khứ khiến chúng tôi hết sức bỡ ngỡ! Vì đã bị "tuyên truyền" rất kỹ, cũng phải đến hơn 10 năm sau lần về nước đầu tiên, sau khi nghĩ đi nghĩ lại không biết bao nhiêu lần, chúng tôi mới thấy được thật rõ ràng lịch sử dân tộc trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến 1975 thật ra là như thế nào...

Nhà văn Võ Phiến viết nhiều thể loại. Lập trường chống cộng của ông được đưa ra rải rác khắp nơi trong nhiều loại tác phẩm khác nhau, khi là hẳn một bài tạp luận hay tạp bút, khi là lời nhân vật trong truyện ngắn hay truyện dài, khi là những đoạn trong một tác phẩm phê bình hay nhận định văn học, v.v. Lập trường chống cộng của nhà văn Võ Phiến liên hệ đến ba vấn đề: giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, chọn lựa ý thức hệ.

Về giải phóng dân tộc, nhà văn Võ Phiến khẳng định không có nhu cầu! Ông cho rằng sớm muộn Pháp cũng trả độc lập cho ta, viện dẫn những chuyện xảy ra trên thế giới. Ðúng là đế quốc Anh đã tự giải tán trong hòa bình. Nhưng Pháp không phải là Anh. Pháp cương quyết tiếp tục giữ thuộc địa và cướp lại những thuộc địa tạm mất trong Thế chiến thứ hai. Song song với hành động tái xâm lược ở Việt Nam, tháng 8-1945 quân đội Pháp thảm sát hàng chục nghìn người dân nổi dậy ở thành phố Xê-ríp, An-giê-ri (Sérif - Algérie), và từ tháng 3-1947 đến tháng 12-1948 đàn áp kháng chiến ở Ma-đa-ga-xca (Madagascar), giết có thể đến hơn 100.000 người! Ngay cả sau khi thua to ở Ðiện Biên Phủ, phải chấp nhận rút khỏi Việt Nam, Pháp vẫn cố giữ Algérie để rất nhiều máu phải đổ nữa rồi mới chịu thôi làm đế quốc... Nhà văn Võ Phiến nhắc đến việc những miền đất ở châu Phi được Pháp trả lại độc lập dễ dàng: thì chính những nơi ấy đã may mắn được hưởng thành quả rực rỡ của kháng chiến Việt Nam và kháng chiến Algérie đấy chứ! Mà thực ra cũng không phải may mắn: ai cũng biết những "nước" Phi châu mới kia chỉ có cái vỏ độc lập chứ ruột thì vẫn nằm trong tay Pháp. Từ ngày "độc lập" năm 1960, các nước ấy đã bị Pháp ngang nhiên can thiệp quân sự hơn 30 lần! Vai trò áp đảo của Pháp trong vùng rõ ràng tới nỗi từ lâu đã sinh ra cái từ Francafrique: Phi nhưng mà "Phi Pháp"! Dân tộc Việt Nam với ít nhất hai mươi mấy thế kỷ văn hiến, dân tộc Việt Nam mà chính toàn quyền Ðông Dương Pôn Ðu-me (Paul Doumer) đã nhận xét là nhất ở Ðông - Nam Á, phải qua đến Nhật mới gặp được trình độ tương đương (dẫn theo Phạm Cao Dương, Lịch sử dân tộc Việt Nam, NXB Truyền thống Việt, California 1987), dân tộc ấy lại ngồi chờ giặc thua to ở nơi khác, ban phát cho một thứ gọi là độc lập hay sao?! Sau Thế chiến thứ hai, không phải đế quốc nào cũng chọn buông thuộc địa. Chính dân tộc Việt Nam Anh hùng đã dẫn đầu những dân tộc bị trị trong việc bắt thực dân Pháp phải buông thuộc địa... Lý luận "không cần kháng chiến" hoàn toàn không có giá trị. Gốc của nó là ở ý muốn bào chữa cho những người không tham gia kháng chiến và cái ý muốn phủ nhận công lao to lớn của Ðảng Cộng sản Việt Nam và ở một tâm lý tự ti về văn hóa dân tộc mà chúng tôi sẽ trình bày sau.

Về thống nhất đất nước, nhà văn Võ Phiến đặt chống cộng lên trên thống nhất đất nước. Sau khi thua ở Ðiện Biên Phủ, đế quốc Pháp phải chấp nhận rời khỏi nước ta. Cuộc kháng chiến lâu dài, anh dũng do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã thành công! Nhưng một số người Việt Nam - những người không tham gia kháng chiến hoặc theo giặc đàn áp kháng chiến (!) - không chịu để toàn dân đi bầu tự chọn chính quyền mà dựa vào thế lực siêu cường Mỹ dựng lên một "nước" trên một nửa nước! Tổ tiên ta bao nhiêu công phu, xương máu, qua bao nhiêu đời mới mở được chừng này đất, để bây giờ đất chia hai sao? Dân tộc Việt Nam mấy nghìn năm trải qua bao lượt thử thách vẫn là một để bây giờ thôi là một sao? Hễ có cơ hội, phải cố hết sức thống nhất đất nước. Cơ hội đã có: từ năm 1960, chính quyền Ngô Ðình Diệm bắt đầu lung lay, khởi đầu do một số đảng phái bất mãn về chính sách, sau đó do đông đảo Phật tử đấu tranh chống thiên vị tôn giáo. Năm 1963, chính quyền Ngô Ðình Diệm bị lật đổ. Tiếp theo là đảo chính liên miên. Nhân tình hình thuận lợi, quân kháng chiến miền nam và quân đội miền bắc tiến công mạnh mẽ. Ðâu muốn chết đến người Mỹ, nhưng thấy "tiền đồn Việt Nam Cộng hòa" quá nguy ngập, Mỹ đành gấp rút cho hơn nửa triệu lính đổ bộ. Chính quyền Sài Gòn trở nên tạm ổn định, khoản tiền viện trợ lớn lại gây ra nạn quan chức tham nhũng hết sức trầm trọng. Tổn thất sinh mạng binh lính Mỹ, ảnh hưởng tai hại đến kinh tế Mỹ, sự kiên cường của kháng chiến ở miền nam và quân dân miền bắc, cùng với sự bất lực của chính quyền Sài Gòn, khiến nội bộ Mỹ trở nên chia rẽ trầm trọng, dẫn đến quyết định rút hết quân. Chỉ hai năm sau khi lính Mỹ rút, nước Việt Nam thống nhất. Tổn thất hơn 210.000 lính chết và bị thương, thả xuống gấp 3,5 lần lượng chất nổ đã thả trong Thế chiến thứ hai (!), tiêu tốn gần một nghìn tỷ USD (tính theo giá USD năm 2011), mà siêu cường Mỹ rút cuộc vẫn thất bại trong ý đồ chia hai nước ta... Mỹ thảm bại, chắc chắn có một phần do đã ủng hộ một chính quyền không được lòng dân. Bất chấp cơ hội thống nhất đất nước đã tới, nhà văn Võ Phiến vẫn tiếp tục ủng hộ sự tồn tại của chính quyền Sài Gòn. Ðó là một lập trường đi ngược lại với lý tưởng dân tộc.

Về chọn lựa ý thức hệ, nhà văn Võ Phiến tuyệt đối bác bỏ chọn lựa chủ nghĩa cộng sản. Chọn lựa một chủ nghĩa, phải trên cơ sở nhu cầu đất nước và phải căn cứ vào kết quả cụ thể.

Xét nhu cầu, thời Pháp thuộc có nhu cầu hết sức lớn là đánh đuổi giặc Pháp. Ðến cuối thập niên thứ nhất thế kỷ 20, nỗ lực cứu nước của các nhà Nho đã coi như hoàn toàn thất bại. Công cuộc giành lại độc lập đòi hỏi một đường hướng mới. Ðúng lúc ấy bên Tây phương nảy ra một thứ chủ nghĩa nhiệt liệt bênh vực người bị áp bức, với những phương cách rất cụ thể để tổ chức họ thành lực lượng đấu tranh lợi hại. Quốc gia tiên phong ứng dụng chủ nghĩa ấy là Liên Xô, một cường quốc. Ở Việt Nam đang có vô số người bị áp bức, nếu chọn chủ nghĩa cộng sản thì trước mắt có phương tiện để tổ chức họ thành đoàn thể chặt chẽ, thêm về lâu dài có thể có được nguồn ngoại viện cần thiết cho kháng chiến: tại sao lại không? Thời Pháp thuộc còn có nhu cầu khác cũng rất quan trọng là cải cách xã hội để san bằng những chênh lệch quá độ nảy sinh như một kết quả của tình trạng đất nước bị ngoại nhân cai trị lâu ngày. Tuy ở nước ta không có vấn đề giai cấp như một kết quả của cấu trúc xã hội truyền thống, trong thời Pháp thuộc đã xảy ra chênh lệch giàu nghèo quá độ, vì lúc bấy giờ, quan lại điển hình không còn là cha mẹ dân, không lo cho dân nữa, mà vừa ngay ngáy lo phục vụ giặc cho thật kỹ, vừa ngày đêm "tận tụy" bóc lột dân! Dưới quan, bọn hào lý cũng bận bịu "hai lo": một phục vụ quan, hai bóc lột dân! Và vì trên quan dưới hào đều không vì dân, cho nên các địa chủ cũng tha hồ bóc lột! Chủ nghĩa cộng sản có vẻ là một phương tiện tốt để thực hiện việc cải cách này, tại sao lại không chọn?

Xét kết quả, đối với hai đại sự là giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, chủ nghĩa cộng sản rõ ràng là chọn lựa đúng. Nhờ đông đảo nhân dân đoàn kết chặt chẽ với tinh thần hy sinh cao độ và nhờ có ngoại viện cần thiết, mà cả hai đại sự đã thành công tốt đẹp. Ðối với việc cải cách xã hội, tuy trong một thời gian đã xảy ra sai lầm khiến một số người bị xử oan, nhưng mục đích san bằng bất công đã đạt được. Nhân đây cũng nên nói về ý nghĩa của việc "sửa sai". Nó chính là một thí dụ về khả năng Việt hóa món nhập ngoại của dân tộc Việt Nam... Tiếc một phần do hoàn cảnh chiến tranh, trong cải cách ruộng đất việc xem xét lại đã không được tiến hành kịp thời. Nhìn chung, ở miền bắc văn hóa dân tộc đã làm mềm hẳn chủ nghĩa cộng sản, với kết quả là một xã hội về cơ bản vừa giữ được những giá trị truyền thống tốt đẹp, vừa có một cái không khí bình đẳng hơn trước cũng tốt đẹp. Nghĩa là, ít nhất trong khung thời gian liên hệ, việc chọn chủ nghĩa cộng sản không có gì sai...

Trong khi những người cộng sản Việt Nam lập hết công giải phóng dân tộc đến công thống nhất đất nước, cùng lúc dần dần cải cách ý thức hệ cộng sản cho hợp với văn hóa truyền thống và điều kiện xứ sở, thì nhà văn Võ Phiến hững hờ với giải phóng, thờ ơ với thống nhất, đem toàn lực tiến công cái bản gốc của ý thức hệ ấy! Ông bảo chủ nghĩa cộng sản là xấu. Trông vào kết quả trên nhiều mặt, rõ ràng nó chẳng xấu cho đất nước, quê hương một chút nào!

Ngoài lập trường chống cộng, tác phẩm của Võ Phiến còn chứa một cái nhìn về lịch sử dân tộc trong thế kỷ 20. Ở đây có lẽ nên nhắc ngay đến cái khuynh hướng phân tích tâm lý nhân vật "chẻ sợi tóc làm tư". Thật ra không chỉ khi viết truyện mà cả trong đời sống ông cũng thế, cũng thích chẻ cái mình nhìn ra cho thật nhỏ. Và ông đặc biệt ưa chú mục vào những cái xấu, bất thường (tuy bản thân không hề xấu hoặc bất thường). Mỗi người chỉ có đúng một cách nhìn. Tất nhiên nhà văn Võ Phiến đã nhìn lịch sử dân tộc bằng cách vừa nói. Kết quả là, đọc ông gần như toàn gặp những người dân không biết yêu nước là gì (thỉnh thoảng có gặp thì nhân vật yêu nước hiếm hoi ấy lộ vẻ lạc lõng rõ rệt); không thấy thực dân khai thác tài nguyên bóc lột lao động đâu cả, chỉ thấy cán bộ cộng sản hủ hóa; không thấy giặc Pháp tàn bạo với người Việt Nam đâu cả, chỉ thấy có dân bị đấu tố oan; không thấy đông đảo nhân dân nô nức ủng hộ chiến sĩ, hàng hàng lớp lớp chiến sĩ hăng say đánh giặc ngoại xâm, lập chiến công oai hùng đâu cả, chỉ thấy nhiều người bị làm khổ và nhiều kẻ liều chết ngớ ngẩn! Không có những việc tốt mà nhà nước cộng sản đã làm cho dân nghèo nào hết, chỉ có những xáo trộn xã hội hoàn toàn vô ích!... Dân tộc Việt Nam đâu phải như vậy. Sự thật về cuộc cai trị của thực dân Pháp, về cuộc kháng chiến của Việt Nam, về những việc làm của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đâu phải như vậy. Sở dĩ nhà văn Võ Phiến thấy vậy, bởi ông đã chăm chú nhìn những thành phần thiểu số, những chuyện lẻ tẻ, nhất thời...

Cách nhìn là quan trọng nhất. Nhưng nhìn đâu cũng có đóng góp vào cái thấy của người nhìn. Có thể đặt vấn đề, hay là quê hương nhỏ của nhà văn Võ Phiến là huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Ðịnh nó đã "ngoại lệ" khiến ông đâm ra dễ nghĩ lệch về chuyện đất nước? Quả thật, ở Phù Mỹ thời Pháp thuộc gần như không thấy bóng giặc Pháp mà chênh lệch giàu nghèo cũng không đáng kể. Nhưng ngay ở Phù Mỹ, chắc chắn cũng đã có rất nhiều người yêu nước, chẳng qua nhà văn không chú ý đến họ. Hơn nữa, chỉ nhìn tình hình Phù Mỹ mà thôi khó thấy được đại cục nước Việt Nam, thì thiết tưởng một người lên tiếng về đại cục như nhà văn Võ Phiến có trách nhiệm phải nhìn cho thật rộng, nhìn khắp cả nước, chứ đâu được nhận định về toàn quốc trên cơ sở tình hình ở chỉ địa phương mình! Cuối cùng, về "cách nhìn Võ Phiến", có lẽ cũng nên nêu lên rằng lẽ tự nhiên nó dẫn tới tâm lý bi quan, là một nét nổi tiếng của văn chương Võ Phiến. Bi quan trong văn thì không sao cả. Nhưng trong cuộc đấu tranh để sinh tồn của cả một dân tộc, thì hết sức tai hại.

... Viết văn chống cộng thì lắm cây bút từ miền bắc di cư vào chịu khó viết. Nhưng tác phẩm của họ thường là lớn lời mà thiếu chi tiết cụ thể, rỗng lý luận. Tác phẩm chống cộng của nhà văn Võ Phiến ngược lại: lời nhỏ kể lể tỉ mỉ, đay nghiến, với lý luận (sai) kèm theo. Chính quyền Sài Gòn để ý và đánh giá cao lối viết ấy. Năm 1960, truyện vừa Mưa đêm cuối năm của nhà văn Võ Phiến được giải thưởng "Văn học toàn quốc". Như Nhất Linh nhận xét trong Viết và đọc tiểu thuyết, lời văn trong tác phẩm giật giải văn chương ấy hãy còn thô vụng. Nó được chọn rõ ràng vì nội dung chính trị phù hợp với nhu cầu tuyên truyền của những người đang cai trị miền nam.

Sau Mưa đêm cuối năm, được chính quyền Sài Gòn khuyến khích, được "đồng chí" tán thưởng, ông tiếp tục cho ra đời những tác phẩm có nội dung tương tự, viết chống cộng mỗi lúc một thêm "tinh vi". Thật ra tác phẩm của Võ Phiến trở nên "vi" (tỉ mỉ) hơn nữa, chứ không phải "tinh" (thấy đúng bản chất) hơn chút nào, vì nhìn cục bộ thì không thể thấy toàn thể. Cái tiếng "chống giỏi" của nhà văn nhanh chóng lan rộng trong cái tiểu xã hội phức tạp của những người chống cộng mà có lẽ đại đa số không thật sự chia sẻ nội dung cụ thể của tác phẩm Võ Phiến, chưa nói nhiều người hình như không hề cầm tới sách! Nhà văn Mai Thảo có lần đọc, thấy "nhiều sắc thái địa phương". Nhà văn Vũ Khắc Khoan cũng thử đọc, rồi phàn nàn về những nhân vật "tù lù mù". Chi tiết khó "chia", mà lý luận hẳn họ càng thấy khó "sẻ", vì vốn dĩ chính bản thân họ có hay lý luận rắc rối gì đâu. Ðại khái, mỗi người chống cộng vì một số lý do riêng, rồi hễ cứ nghe ai "chống giỏi" là rủ nhau hoan hô, không cần biết người kia cụ thể chống thế nào!

Cái lối được trầm trồ mà không được đọc rồi cũng xảy ra cho nhà văn Võ Phiến ở ngoài bắc. Một số người "Nhân văn giai phẩm" nghe tiếng chống cộng của ông, sinh ngay cảm tình, tuy hầu hết những người ấy chắc chắn chưa bao giờ đọc được một chữ văn của Võ Phiến! Thật ra giữa họ và nhà văn Võ Phiến có chỗ khác nhau rất căn bản: họ đều đồng lòng kháng chiến đánh đuổi giặc Pháp, lấy việc ấy làm quan trọng hơn cả, trong khi nhà văn Võ Phiến thì không. Nông nỗi của họ xảy ra là do họ nghĩ giải phóng dân tộc xong rồi, Ðảng không nên lãnh đạo văn hóa nữa, mà nên để "trăm hoa đua nở". Nhưng việc nước đã xong đâu! Còn phải thống nhất đất nước. Với sự can thiệp của siêu cường Mỹ, công việc sẽ vô cùng khó khăn. Cần phải duy trì ý chí chính trị và tinh thần kỷ luật ở mức cao nhất. Tự do văn hóa sẽ ảnh hưởng xấu đến nỗ lực duy trì này, do đó Ðảng không thể chấp nhận được. Nhìn cách khác, tình hình đất nước bấy giờ chưa thích hợp với một cải cách chủ nghĩa lớn như vậy.

Vào cái khoảng thời gian Liên Xô vừa sụp đổ, cái tiếng chống cộng của nhà văn Võ Phiến còn khiến một số nhà văn Việt Nam ở trong nước tìm cách bắt liên lạc với ông, hẳn vì họ nghĩ Nhà nước Cộng sản Việt Nam cũng sắp sụp đổ! Có người nhân dịp đi công tác qua Mỹ, đã tỏ tình thân ái bằng cách tặng nhà văn Võ Phiến một chiếc đồng hồ đeo tay dùng lâu năm. Người ấy từng tự nói nhờ Ðảng mà tôi mới được thế này. Ấy thế mà khi tưởng Ðảng sắp đổ, ông vội vã đi ôm chầm lấy kẻ thù của Ðảng! Ngán cho "nhân tình thế thái". Thân phụ chúng tôi có kể rằng, qua trò chuyện, thấy nhà văn kia dường như chưa hề đọc một tác phẩm nào của mình!...

Văn nghiệp Võ Phiến vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực. Tiêu cực, đáng bỏ đi, là phần chính trị, bởi đó là cái bi kịch của một người Việt Nam sống giữa thời kỳ lịch sử dân tộc cực kỳ khó khăn mà trước không tha thiết với độc lập, sau không tha thiết với thống nhất, khăng khăng đặt chuyện chống chủ nghĩa cộng sản lên trên tất cả... Sai lầm chính trị đã đưa tác phẩm của Võ Phiến ra khỏi lòng dân tộc. Ðất nước đã độc lập, thống nhất lâu rồi. Nay đến lúc, nhân danh bảo tồn những giá trị văn hóa Việt Nam, đưa tác phẩm của Võ Phiến trở về, sau khi lọc bỏ nội dung chính trị. Nhà nước Việt Nam đã sáng suốt khi quyết định cho tái bản sách của Võ Phiến trong nước. Ðáng tiếc, một số người đang lợi dụng tình hình quốc tế mà âm mưu tái phổ biến cả những nội dung chính trị sai lầm. Việc tái phổ biến này vừa có thể gây mất đoàn kết, hại cho dân, cho nước, vừa xúc phạm sự thật lịch sử.

THU TỨ (Tháng 8-2014)

-------------------

(*) Xem Báo Nhân Dân từ số ra ngày 7-10-2014.THU TỨ