Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

Tiên đoán Dân Chủ cho Việt Nam ?








Ng. Tiên Tri


Theo nghĩa của nó, dân chủ là người dân được tự do làm chủ lấy mình, không bị lệ thuộc vào vua quan, lãnh chúa, hay hoàng đế.

Nhưng muốn tự do làm chủ lấy mình người dân phải có một trình độ hiểu biết và suy luận đứng đắn thế nào là tự do dân chủ, không lạm dụng tự do, tôn trọng tự do của người khác, và không quá ngây thơ để bị kẻ khác lợi dụng dân chủ nhiễu loạn và thống trị.

Dân chủ là khi sống chung trong một cộng đồng, thôn xã hay đô thị, người dân cùng nhau trực tiếp quyết định sự lãnh đạo và điều hành của cộng đồng. Khi cộng đồng quá rộng lớn, thì sự tham dự của người dân thường phải qua một hay nhiều tầng đại diện. Quan niệm 'dân chủ' chỉ được phát hiện gần đây thôi, chỉ nói đến tự do dân chủ mà không nói đến bình đẳng và đoàn kết chung sống thân thiện; - Cách Mạng Pháp 1789 chú trọng vào tự do, bình đẳng và tình huynh đệ thân thiện (liberty, egality, fraternity).

Việt Nam ngày xưa cũng có chế độ xã thôn tự trị, xem ra cũng có vẻ dân chủ, người dân trong làng xã được chọn xã trưởng và ban quản trị, nhưng thực ra dân chủ nầy cũng không vượt khỏi lũy tre xanh của xóm làng, và dân cũng không thoát khỏi cảnh phe đảng cường hào ác bá, cấu kết với quan trên mua quyền bán chức. Nho giáo và Phật giáo nền tảng luân lý đem lại an ninh xã hội trong tinh thần tuân phục, an thân thụ động.

Thời cổ xưa của đô thị La mã (Ý) hay Athens (Hy Lạp), cũng có chế độ Cộng Hòa, nhưng thực sự quyền hạn đều tập trung vào tay trưởng tộc các bộ lạc hay các giòng họ lớn; vì sống chung, họ phải đoàn kết để có sức mạnh chống kẻ thù bên ngoài, họ phải nhân nhượng lẫn nhau, nên đã tạo ra các cuộc hội họp và bầu cử người lãnh đạo để quyết định các vấn đề liên quan đến vận mạng của cộng đồng, đô thị.

Sau khi khám phá được Mỹ Châu, dân chúng Tây Âu, vì lý do như kinh tế, chính trị hay tôn giáo, đã vượt biển Ðại Tây dương tràn vào miền đất mới nầy lập nghiệp. Số người di cư nầy rất đông, họ thuộc nhiều quốc gia, nhiều dân tộc, tôn giáo khác nhau, không có một nhóm người nào có đủ sức mạnh để độc quyền thống trị. Họ đành phải thoả hiệp với nhau bầu cử người điều hành lãnh đạo cộng đồng, nhất là về tôn giáo thì họ phải chấp nhận mọi người trong cộng đồng phải được tự do theo đạo của mình. Nhờ vào tinh thần dân chủ và tự do tín ngưỡng sơ khởi nầy, dân di cư cùng sát cánh chống lại các bộ lạc da đỏ để dành đất. Sau khi tuyên bố độc lập năm 1776, họ phải đánh nhau 8 năm với mẫu quốc Anh, mãi đến năm 1787 mới có một Hiến Chương dân chủ cho nước Mỹ.

Nhưng sau đó lịch sử nước Mỹ đã ghi nhiều trường hợp không dân chủ như tàn sát người dân Mỹ da đỏ nguyên thủy và nô lệ hoá người Mỹ da đen. Sau nhiều năm chiến tranh tương tàn để xóa bỏ chế độ nô lệ, mà mãi đến năm 1965 mới có Luật 'Voting Right' để bảo đảm quyền bỏ phiếu của người da màu. Tính ra đến gần 200 năm dân chủ mới được thực hiện!

Sau trên 200 năm và 27 lần tu chính, Hiến Chương nầy đã trở thành nền tảng cho nền dân chủ hiện đại của Mỹ, mà nhiều người hăng say với nền tự do dân chủ thường cổ võ áp đặt nền dân chủ nầy vào các nước vừa mở mang thiếu thốn về giáo dục, kỷ thuật, kinh tế v. v...

Ngày nay tại Mỹ, dân chủ được thực hiện như thế nào? Trên lý thuyết thì mỗi 2 năm đều có cuộc bầu cử để dân chúng tự do lựa chọn người đại diện cho mình tại các cơ quan lập pháp, hành pháp và các thẩm phán điạ phương. Nhưng thực tế thì muốn ra ứng cử vào chức vụ công thì phải có nhiều tiền để quảng cáo, và người thắng cử thường là người có nhiều tiền và phương tiện thông tin tràn lấp đối thủ, kể cả thông tin gian trá và thủ đoạn bới móc thường làm cử tri lầm lẫn.

Do đó dân chủ chỉ có cho tư bản: những người có nhiều tiền, chủ các công ty, thường chủ động trong các cuộc bầu cử, thuận theo quyền lợi của công ty thì họ giúp, chống thì phá không cho đắc cử.

Với cuộc Cách Mạng 1789, dân Pháp đã lật đổ chế độ quân chủ thần quyền, đẩy giới quý tộc và tu sĩ ra khỏi chốn công quyền, cùng phát huy tư tưởng dân chủ ra khắp các nước láng giềng. Nhưng sau đó vì chiến tranh, bị các nước quân chủ liên kết đánh bại, nền quân chủ thần quyền được tái lập; nên đến mãi gần 100 năm sau nước Pháp mới thực hiện trở lại nền dân chủ.

Dù Pháp và Mỹ là nước dân chủ tự do nhưng các nước nầy ngăn cấm người dân bản xứ, dân thuộc địa, người nô lệ, người không có tài sản, người không đóng thuế và nhất là không cho phụ nữ được bầu cử, không cho người dưới 25 tuổi bỏ phiếu. Tại các thuộc địa như VN họ vẫn giữ chế độ vua quan quân chủ chuyên chế để trị dân bản xứ.

Phụ nữ chỉ được bỏ phiếu tại Pháp vào năm 1918, tại Mỹ năm 1920 và tại Anh vào khoảng năm 1928. Thanh niên Mỹ dưới tuổi 25, dù phải nhập ngũ lúc 18 tuổi, gởi đi đánh nhau tại Âu Châu và Việt Nam, nhưng họ không được quyền bầu cử, cho mãi đến năm 1971 thì mới được quyền này.

Tại sao có chuyện phụ nữ, người trẻ tuổi, dân thuộc địa, dân nô lệ, người nghèo, tại các nước mệnh danh là tự do dân chủ lại không có quyền bầu cử, mà mãi đến gần đây họ mới có được quyền nầy?

Lý do có thể rất dản dị, thành phần nầy vì tình trạng xã hội của họ vào lúc xưa không cho họ cơ hội học hỏi để có khả năng hiểu biết và suy nghĩ đứng đắn mà xử dụng lá phiếu bầu cử. Mãi đến sau nầy nhờ mực sống xã hội cải thiện nên phụ nữ và thanh niên dưới 25 tuổi mới có cơ hội học hỏi, trau dồi khả năng, đóng góp vào chiến tranh v. v. . , vì vậy họ mới được quyền bầu cử.

Trên đây chỉ nhận xét qua hai nền dân chủ có ảnh hưởng vào nền chính trị VN là Pháp và Mỹ. Các nước nầy từ khởi đầu nền dân chủ cũng phải trải qua hằng hai trăm năm mới tạm được như hiện tại.

Nhìn vào lịch sử Việt Nam, sau ngàn năm dưới sự đô hộ của Tàu và ngàn năm ở trong sự cai trị của vua quan, thì chế độ phong kiến đã có ấn tượng sâu xa vào tinh thần và văn hóa người dân. Cai trị không cần luật pháp minh bạch mà bằng đặc quyền quân chủ, nhà vua làm chủ tất cả đất đai, tài sản cùng tính mạng người dân sống trong vùng đô hộ. Người dân chỉ đóng vai thụ động, tuân hành, không được huấn luyện về trí tuệ. Vì muốn bảo trì đời sống của mình và gia đình, người dân phải vâng lệnh và hùa bợ người trên, khi có quyền thì theo lệ lại đàn áp kẻ dưới. Tư cách con người do đó trở thành ích kỷ, ỷ lại và hèn kém tham sống sợ chết. Thiếu tinh thần tự chủ, tự trọng, nên thấy giặc đến chưa đánh đã hàng. Dân nghèo khổ được giặc tuyển dụng làm bọn đánh thuê, khi giặc chiếm được nước thì thành công thần của triều đình lệ thuộc.

Người Pháp đến chiếm nước ta để đô hộ khai thác tài nguyên và nhân lực cùng biến người dân ta ra hàng tôi tớ. Thay vì phổ biến, giáo dục dân bản xứ về dân chủ mà họ thường rêu rao là khai hoá; nhưng tiếc thay Pháp vẫn duy trì bọn vua quan bù nhìn dùng chế độ quân chủ thần quyền để cai trị và khai thác, biến tinh thần và trí óc người dân Việt thành thụ động như đầy tớ chỉ biết tuân phục chủ, hở ra là ăn cắp, hành hạ người dưới, có tí quyền hành thì tham nhũng, hối lộ. Người Pháp chỉ phổ biến Tự do Tứ đổ tường là cờ bạc, rượu chè, đĩ điếm, thuốc phiện.

Sau năm 1945, thì đảng phái tranh dành quyền, người thì theo Tây trở lại đô hộ, kẻ đi theo kháng chiến chống Pháp. Sau Hiệp định Geneve 1954, đất nước chia đôi, miền Nam cũng thoát khỏi sự đô hộ của Pháp, nhưng lại rơi vào tròng bảo trợ của Mỹ để thực hiện tự do dân chủ, nhưng thực ra để thành tiền đồn chống Cộng bảo vệ thế giới tự do, trước hết là để bảo vệ an ninh cho Hoa Kỳ.

Chính quyền Ðệ Nhất CH thiết lập trên một chế độ độc quyền, quan liêu gia truyền, gia đình trị; bầu cử gian lận, đàn áp tôn giáo, bợ người trên áp bức kẻ dưới, giống như thời quân chủ thần quyền. Chế độ chỉ sống được dưới lá bùa bảo vệ của Mỹ quốc.

Sau đảo chánh 1963 khi chế độ được buông lơi, thì hết đảo chánh nầy đến đảo chánh nọ, ai cũng muốn làm Tổng Thống; người Thượng Tây Nguyên cũng muốn có Tổng Thống riêng của họ, các làng tôn giáo thành ra khu tự trị, người lãnh tụ tôn giáo tại khu lại có luôn quyền hành chánh, tài chánh và tư pháp; rồi cũng lại bầu cử gian lận, độc diễn.

Ngày 30 tháng 4, 1975 đã phải đến, rồi đến các phong trào tranh đấu tại hải ngoại, người nào ra tổ chức hội hè cũng muốn làm chủ tịch hay ban lãnh đạo mới được, rồi chửi bới đánh đấm lẫn nhau. Tổ chức nào cũng đòi hỏi dân chủ và tự do ngôn luận cho Việt Nam, nhưng họ lại ngăn không cho người khác được phát biểu ý kiến khác ngoài ý kiến của họ, họ còn dùng cả bạo lực ngăn cản đồng hương không được thưởng thức chương trình ca nhạc không do bọn họ trình diễn.

Nếu có dân chủ thực sự ở Việt Nam, hay Hoa Kỳ đem quân tái chiếm Việt Nam để đem tự do dân chủ đến cho người Việt như đã làm ở Iraq thì kết quả sẽ ra sao?

- Như tự do dân chủ đã đến với nhân dân Nga Sô, hậu quả là Liên Bang Sô Viết biến mất, chia thành mươi nước khác nhau, nhưng không biết tại các nước nhỏ nầy có tự do dân chủ thực sự hay không?

- Nước Yougoslavia cũng thế, tự do dân chủ đã đưa đến chia ba xẻ năm, chiến tranh tương tàn khốc liệt đến nỗi LHQ phải can thiệp mới tạm yên.

- Với Việt Nam thì ra sao? Tiên đoán?

Người nghèo đói, dốt nát không đủ trí tuệ để chọn người đại diện mình bằng cách tự do bầu cử, dễ bị mua chuộc bởi những hứa hẹn hão huyền hay bằng tiền bạc, hoặc có mặc cảm sợ hãi thế lực. Dốt nát nên tinh thần mê tín dị đoan, lười biếng mà lại mơ tưởng đời thiên đường, nên thường bị bọn buôn thần bán thánh lợi dụng cho tư lợi.

Ðem dân chủ đến với các nước có số dân trình độ thấp kém, không hiểu gì về dân chủ, không biết kính trọng tự do dân chủ của người khác, nhất là còn ảnh hưởng của đời làm tôi tớ ngoại bang, thiếu tinh thần tự trọng, tự tồn, tự túc mà lại quen thói vụng trộm thì kết quả sẽ ra sao?

Cùng với tự do dân chủ, công ty tư bản ngoại quốc sẽ nhảy vào, dùng tiền bạc và vật chất để ủng hộ ứng cử viên nào ủng hộ chánh sách khai thác kinh tế tài chánh của công ty, kể cả giúp tuyền truyền xuyên tạc, hối lộ, bạo hành, lập băng đảng, tổ chức biểu tình chống đối.

Cùng với tự do dân chủ giới tư bản sẽ nhảy vào trợ lực để thành lập các nước độc lập tự trị tại các khu người Thượng Tây Nguyên, khu người Thái miền Bắc, khu người Hoa tại Chợ Lớn, Long Xuyên, khu tôn giáo tại Bùi Chu Phát Diệm, Vĩnh Long, Châu Ðốc, Tây Ninh, Hố Nai. Có thể VN sẽ biến ra thành vài chục nước nhỏ tự trị thụt lùi vào cảnh thập nhị xứ quân của hơn ngàn năm về trước.

Sau đó tại các nước nhỏ nầy, tư bản sẽ bỏ tiền ra xây đựng các khu giải trí, tự do rượu chè, cờ bạc, đĩ điếm, ma túy để cho dân các vùng lân cận đến vui chơi giải trí mà không bị ràng buộc cấm đoán của pháp luật. Bao nhiêu tiền dành dụm, tiền tham nhũng, tiền trộm cắp lường gạt sẽ đổ vào các khu giải trí nầy đem nhuận lợi cho nền tư bản, còn nhà nước VN sẽ không được gì tuy công dân của mình đem tiền vào đó.

Ta đã thấy khu thuộc địa giải trí Macao, Hồng Kông trước kia đã làm kiệt quệ nước Tàu, - khu giải trí Las Vegas đã thâu được một số lợi tức khổng lồ, tuy nhiên Las Vegas không là một nước tự trị nên phải đóng thuế cho Liên Bang, tiền thâu được vẫn làm lợi cho nước Mỹ.

Tại sao với tự do dân chủ đất nước lại bị chia xẻ? Rất dàn dị: Tinh thần quân chủ thần quyền, phong kiến, tinh thần tôi tớ của kẻ bị đô hộ mấy ngàn năm qua vẫn còn tồn tại, di truyền trong đầu óc người dân, người nào cũng muốn dành quyền lãnh đạo, người nào cũng muốn làm Tổng thống, Tổng trưởng; không dành được quyền tại các nước lớn thì đòi chia cắt rồi làm Tổng thống tại nước nhỏ vậy. Làm chức vụ cao thì tha hồ thao túng tham nhũng, đó là thông lệ tại các nước nghèo đói thiếu trí thức, hậu quả của những đời nô lệ ngoại bang.

Trên đây chỉ là ý kiến tổng quát của tác giả, không bàn về nhiều ngoại lệ, nhất là các ngoại lệ đã đưa đến một nước VN độc lập và thống nhất cho đến ngày nay. Xin cáo lỗi và tri ân quý vị đã giúp đỡ, hy sinh cho đất nước và dân tộc.

Ng. Tiên Tri.
USA 


Câu chuyện “vô luân” về cái chết “dại”







Mục Đồng


Trong trang nhà điện tử damau.org (Tạp Chí Da Màu- Văn Chương Không Biên Giới), ngày 5.10.2009 có đăng truyện “Đường Ra Khỏi Basra” của tác giả Nguyễn Thị Thảo An.


Đọc xong, Mục Đồng tôi cảm thấy xót thương cho nhân vật chính trong truyện là Trung sĩ Nguyễn Khắc Bình . Tôi vẫn mong nhân vật nầy là nhân vật hư cấu của tác giả. Nhưng xem kỹ ở đầu truyện, tác giả ghi rõ:

“ Kính tặng Sgt. Nguyễn Khắc Bình & gia đình“
một cách trân trọng. Hơn nữa, ở cuối bài, tác giả còn ghi chú:

“Ghi chú của tác giả: Tang lễ Sgt. Nguyễn Khắc Bình được tổ chức trọng thể với sự hiện diện của các đại diện đơn vị, đoàn thể địa phương, các cơ quan truyền thông và thứ trưởng Bộ Quốc Phòng (trên truyền hình ABC, BCS… ) Để tri ân sự hy sinh của Sgt. Nguyễn Khắc Bình, Bộ Quốc Phòng đã hoàn thành tâm nguyện NKB, bảo trợ nguyên cả gia đình anh sang Mỹ. Tôi viết truyện này với sự thành kính và xúc động trước tấm gương và tinh thần hy sinh của người lính Việt Nam chiến đấu dưới lá cờ Mỹ."

thì rõ ràng Nguyễn Khắc Bình là nhân vật có thật. Và tác giả viết ra truyện nầy là vì tác giả “thành kính và xúc động trước tấm gương và tinh thần hy sinh của người lính Việt Nam chiến đấu dưới lá cờ Mỹ”.

Về bố cục, các chi tiết và văn phong của tác giả thì phải nói là tác giả viết hay, có công phu sưu tầm các chi tiết về Hồi giáo, vể bối cảnh chính trị của Iraq,...Ở đây, tôi không có ý kiến gì về các chi tiết ấy, cũng như việc tác giả biện hộ cho việc người Mỹ đem quân đánh Iraq, lật đổ và giết ông Saddam Hussein, và phê phán Hồi giáo. Tôi chỉ nói việc nhân vật Nguyễn Khắc Bình, một người Việt Nam qua Mỹ du học với mục đích là để được ở lại Mỹ để bảo lãnh toàn bộ gia đình qua Mỹ:

“Mẹ tôi nói, đặt chân lên đất Mỹ tức là đặt chân lên tới thiên đàng. Cha nói, hãy bám trụ, đừng trở về cái địa ngục này”.

“Để được ở lại nước Mỹ, vào quốc tịch, và sau này kéo hết gia đình sang, đó là mục tiêu tối thượng, và cũng là niềm mơ ước của cả gia đình” (Đường ra khỏi Bastra)

Nhưng làm sao ở lại Mỹ? "điều đó thật không dễ” (bđd). Kết hôn giả? Không đủ tiền! Kết hôn thật? Tìm không ra người chăng? nên mới nghĩ ra cách “đầu quân làm lính Mỹ”.

“Tôi bất kể tuổi tác, nhan sắc, trong đầu vẽ ra một cuộc tình chớp nhoáng, mà cái nào cũng kết thúc bằng một buổi lễ tuyên thệ tại sở Di Trú ...

Cha mẹ tôi đã phải cầm cố nhà cửa, tài sản duy nhất để lo chuyện du học rồi, đánh chết tôi cũng không dám nghĩ tới tạo một gánh nặng nữa cho gia đình. Một thằng bạn khác bảo, đăng lính đi, phục vụ trong quân ngũ một thời gian vừa được quy chế vào quốc tịch, vừa được học bổng học đại học, nhất cử lưỡng tiện. Chiến tranh Iraq mới bắt đầu, nhu cầu cần lính đang cao. Và tôi, quyết định ngay, mở một con đường máu, vào quân đội để thoát hiểm”

“Từ dân Việt để trở thành công dân Mỹ cũng giống như đi đầu thai kiếp khác, tôi cần phải “vượt vũ môn” như một con cá chép thật “ (bđd)

Khi anh chưa là công dân Mỹ (chưa có quốc tịch Mỹ), chỉ là một du học sinh, người nước ngoài mà đăng ký đi lính Mỹ, thì tôi không biết chính phủ Mỹ, quân đội Mỹ có chấp thuận không ?

Sau khi anh vào lính Mỹ, mẹ anh ở Việt Nam lo sợ, khóc, nhưng cha anh tỏ ra mừng và viết thư chỉ vẽ cho anh kinh nghiệm về vũ khí và chiến trận, dù cha anh chỉ là người binh nhì của Việt Nam Công Hòa bị bắt tại trận ngày 30 thãng năm 1975 và bi đi học tập.

“Còn cha, tuy là lính trơn nhưng lúc xe tăng T.54 tiến vào Dinh Độc Lập, cha cùng đồng đội còn đang lập chốt làm tuyến phòng thủ ở phía Tây Sài Gòn. Cha bị bắt ngay mặt trận vào giờ thứ 25 nên tù lâu là chuyện thường. Trong thư cha viết, “Cha tôn trọng quyết định của con. Phải nhớ rằng, một ngày làm lính, cả đời là lính. Người lính không sử dụng quân đội như một phương tiện… Khi con có mục tiêu thì phải chiếm cho bằng được.” Kể từ đó, cha không viết về những chuyện đã rồi, thư cha toàn là những trang liệt kê về những ưu điểm của đủ thứ vũ khí các loại, và cách đối phó những tình thế nguy hiểm. Không nói ra, nhưng tôi hiểu cha muốn truyền hết nội lực, tâm huyết cho tôi, không giữ lại một chút gì” (bđd)

Tôi cũng không biết một binh nhì bị bắt ngoài mặt trân vào ngày 30/4/1975 có bị đi học tập lâu không như tác giả viết.

Vì anh tình nguyện vào làm lính Mỹ nên sau khi được huấn luyện thành Trung sĩ (Sergeant), anh bị đưa qua Iraq. Ở đó, anh đã chiến đấu “anh dũng” :

“Tôi xoay nòng súng bắn như điên vào những lùm bụi gần cửa hang. Không thể để chúng bắn tỉa máy bay vì họ đang bay rất thấp

Khi trận công phá kết thúc, tôi đi xuống dưới coi. Xác địch ngổn ngang, không biết tên nào do tôi bắn chết “

Và về sau anh bị chết sau khi bắn vào một xe chở bom tự sát của một người Iraq.

Như vậy đúng là anh đã “đầu thai kiếp khác”, “đã vượt vũ môn” đúng như anh mong muốn:

“Từ dân Việt để trở thành công dân Mỹ cũng giống như đi đầu thai kiếp khác, tôi cần phải “vượt vũ môn” như một con cá chép thật “. (bđd)

Ai cũng có thể thấy trước cái chết của anh khi anh tình nguyện vào lính Mỹ và được “vinh dự” là “chiến sĩ Việt Nam chiến đấu dưới lá cờ Mỹ” tại Iraq như tác giả Nguyễn Thị Thảo An vinh danh anh, chỉ có anh, gia đình anh và tác giả Nguyễn Thị Thảo An là không biết. Ai cũng có thể thấy trước cái chung cuộc bi thảm của anh, chỉ đơn giản là vì anh đã giết người ta, thì có lúc người ta sẽ giết anh:

“Tôi xoay nòng súng bắn như điên vào những lùm bụi gần cửa hang. Không thể để chúng bắn tỉa máy bay vì họ đang bay rất thấp

Khi trận công phá kết thúc, tôi đi xuống dưới coi. Xác địch ngổn ngang, không biết tên nào do tôi bắn chết “ (bđd)

Sau đó, chính phủ Mỹ đền ơn anh vì anh đã chết thay cho một người Mỹ chính cống, bằng cách cho toàn bộ gia đình anh đi “qua thiên đường Mỹ” như chính anh và gia đình anh mong muốn.

Cái bi thảm của cha mẹ, anh chị em của anh là ở chỗ được “đến thiên đường Mỹ” nhờ xác chết của anh! Như vậy, họ sống, ăn, uống, thở nơi cái thiên đường này chính là đang sống ăn, uống, thở vào cái xác chết của anh. Ai dám khẳng định là họ sẽ họ sống thanh thản sung sướng nơi thiên đường nầy? Đạo lý nào cho phép cha mẹ dùng xác chết của con để sống sung sướng ? Mà chắc gì đã sống đầy đủ được khi cha anh chỉ là người binh nhì vào năm 1975, tức không có trình độ chuyên môn gì, không có trình độ văn hóa, mà nay đã già rồi, thì làm nghề gì để sống nơi thiên đường nầy !

Có biết bao du học sinh Việt Nam (và cả thế giới) đến học tại Mỹ, mà họ đâu có cần kết hôn giả, kết hôn thật, hay phải đi lính Mỹ mới được ở lại Mỹ ? Chỉ với tài năng, biết` bao nhiêu người nước ngoài đã được Mỹ mời ở lại làm việc sau khi tốt nghiệp Đại học. Một điển hình là Giáo sư Trinh Xuân Thuận du hoc Mỹ năm 1966, vào thời chiến tranh Việt Nam vô cùng ác liêt, có cả nửa triệu lính Mỹ ở chiến trường Việt Nam (so với trên một trăm ngàn tai Iraq hiện nay), mà người sinh viên Trịnh Xuân Thuận đâu có cần đăng làm lính Mỹ, vẫn được Mỹ mời làm Giáo sư Đại hoc mấy chục năm nay, và vừa qua, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã quyết định trao tặng Giải thưởng Kalinga 2009 .

Chính vì vậy mà tôi xót thương cho anh mà cũng rất chê anh là đã chọn cái chết “dại” và đã tạo ra “mặc cảm vô luân” cho cha mẹ và anh chị của anh là dùng cái chết của anh như một phương tiện để đến “thiên đường Mỹ”. Ấy thế mà theo tác giả Nguyễn Thị Thảo An thì cha anh rất ngon lành khi khuyên anh :

”Người lính không sử dụng quân đội như một phương tiện… Khi con có mục tiêu thì phải chiếm cho bằng được“.

Có gì mâu thuẩn trong lời khuyên nầy không ?

Cái chết bi thảm của anh Nguyễn Khắc Bình là do chính anh lựa chọn “con đường đến thiên đàng”. Cách lựa chọn nầy có tương tự như cách lựa chọn của cha vào ngày 30/4/75 không ? Khi mà những cấp chỉ huy cao cấp nhất của quân lục VNCH đã bỏ chạy ra biển hoặc buông súng và cả triệu binh lính khác đã đầu hàng thì cha anh là một binh nhì, một lính trơn, lại vâng theo “lời quyết tử của cấp chỉ huy đã bỏ chạy” mà đóng chốt lập phòng tuyến chống quân Cộng sản:

“Còn cha, tuy là lính trơn nhưng lúc xe tăng T.54 tiến vào Dinh Độc Lập, cha cùng đồng đội còn đang lập chốt làm tuyến phòng thủ ở phía Tây Sài Gòn. Cha bị bắt ngay mặt trận vào giờ thứ 25 nên tù lâu là chuyện thường”

Đây chính là cái tâm lực mà cha anh đã truyền cho anh, cho nên cái chết của anh do sự lựa chọn của anh, nhưng cũng một phần do cha anh vì cha anh hun đúc anh qua tâm lực trên đây của ông để anh trở thành người “anh hùng” trong chiến trường Iraq:

“Không nói ra, nhưng tôi hiểu cha muốn truyền hết nội lực, tâm huyết cho tôi, không giữ lại một chút gì” (bđd)

Cái chết của anh là một nỗi ám ảnh khó nguôi cho cha mẹ, anh chị em của anh, mà có lẽ chính những người nầy không muốn nhiều người biết đến, để họ âm thầm chịu đựng và mong thời gian làm nguôi đi. Nhưng tác giả Nguyễn Thị Thảo An lại viết ra cho mọi người biết dưới hình thức vinh danh cái chết của anh. Vậy sự vinh danh nầy là thật sự vinh danh hay là một sự gì đây ?

Với tác giả Nguyễn Thị Thảo An, tôi chỉ căn cứ vào truyện của tác giả để nói thôi.

Nếu tác giả không ghi lời kính tặng và đặc biệt không ghi chú:

“Tang lễ Sgt. Nguyễn Khắc Bình được tổ chức trọng thể với sự hiện diện của các đại diện đơn vị, đoàn thể địa phương, các cơ quan truyền thông và thứ trưởng Bộ Quốc Phòng (trên truyền hình ABC, BCS… ) Để tri ân sự hy sinh của Sgt. Nguyễn Khắc Bình, Bộ Quốc Phòng đã hoàn thành tâm nguyện NKB, bảo trợ nguyên cả gia đình anh sang Mỹ. Tôi viết truyện này với sự thành kính và xúc động trước tấm gương và tinh thần hy sinh của người lính Việt Nam chiến đấu dưới lá cờ Mỹ”

thì người đọc sẽ cho là tác giả chỉ mô tả một bi kịch có thật đã xảy ra, và tùy người đọc muốn nghĩ thế nào về cách lưạ chọn của nhân vật Nguyễn Khắc Bình thì nghĩ. Nhưng tác giả đã ghi chú như trên thì tác giả đã thật sự “vinh danh” cái chết của anh Nguyễn Khắc Bình!. Tuy nhiên câu vinh danh:

” Tôi viết truyện này với sự thành kính và xúc động trước tấm gương và tinh thần hy sinh của người lính Việt Nam chiến đấu dưới lá cờ Mỹ”

chứa nhiều cái ‘không ổn” .

Tác giả viết “người lính Việt Nam” đã ổn chưa ? Theo tôi hiểu, người lính Việt Nam là người lính của quân đội Việt Nam như của VNCH hay của QĐNDVN của nhà nước Việt Nam hiện nay, chứ anh Nguyễn Khắc Bình tình nguyên làm lính Mỹ, đang ở trong quân đội Mỹ thì anh là lính Mỹ, chứ không phải lính Việt Nam. Tiếp đến, nếu đã là “lính Việt Nam” sao lại “chiến đấu dưới lá cờ Mỹ” ? Câu nầy có khác gì nói “người lính Việt Nam là quân đánh giặc thuê cho Mỹ” Vậy câu nầy có xúc phạm danh dự của “người lính Việt Nam” không ? Có xúc phạm danh dự của tất cả cựu quân nhân của VNCH không ? Có xúc phạm danh dự của người Việt Nam không ?

Nên biết rằng tất cả những quân đội của những nước đồng minh của Mỹ đế chiến đấu tại Việt Nam trong thời chiến tranh Việt Nam cũng như hiện nay tại Iraq, Afghanistan đều chiến đấu dưới lá cờ của nước họ, chứ không ai vỗ ngực tự hào “chiến đấu dưới lá cờ Mỹ” như “tấm gương hy sinh của người lính Việt Nam chiến đấu dưới lá cờ Mỹ” của tác giả Nguyễn Thị Thảo An .

Thế chưa đủ, tác giả lại “anh hùng hóa” cái chết của anh Nguyễn Khắc Bình bằng câu:

“… Trả súng đạn này. Ôi, sạch nợ sông núi rồi”

Ô hay thật, “nợ núi sông” nào nơi đây ? Anh đi lính Mỹ, anh chết như một người lính Mỹ tại đất nước Iraq thì có liên can gì đến “núi sông” Việt Nam đâu ?, như ý của bài hát “Một mai giã từ vũ khí”. Nếu mai nầy anh Nguyễn Khắc Bình có được nhà nước Mỹ phong anh hùng thì đó là anh hùng của dân Mỹ, chứ dân Việt Nam không thể “cầm nhầm” cái danh hiệu anh hùng nầy được!

Làm sao lý giải được động cơ đã khiến cho tác giả Nguyễn Thị Thảo An viết ra câu chuyện bi hài nầy ? Có phải chăng là do đầu óc chống Cộng sản Việt Nam một cách mù quáng, đã thâm nhập thành phản xạ có điều kiện vào tâm tư của tác giả Nguyễn Thị Thảo An, khiến tác giả nầy đã lợi dụng cái chết đáng thương nhưng“dại” của anh Nguyễn Khắc Bình mà “địa ngục hóa cuộc sống ở Việt Nam” và“thiên đường hóa của sống ở Mỹ”:

”Mẹ tôi nói, đặt chân lên đất Mỹ tức là đặt chân lên tới thiên đàng. Cha nói, hãy bám trụ, đừng trở về cái địa ngục này” (bđd)

và “vinh danh”, “cổ xúy” cho câu chuyên “vô luân” và cái chết “dại” của anh Nguyễn Khắc Bình, mà hậu quả có thể nói là chẳng vinh danh gì cả mà là khoét sâu nỗi đau của gia đình anh, và đồng thời xúc phạm đến người Viêt Nam ?.



Mục Đồng

Trực giác





Người ta không thể chung đụng lâu với phường hội của những nhà lý luận về đạo đức học mà không phải nghe đến những khả năng về sự tán dương hoặc mắng mỏ về “trực giác đạo đức” của chúng ta. Nguyên nhân của cách cư xử thứ hai là có nghĩa rằng phạm trù “trực giác” đã luôn luôn mang theo hương vị của sự thiếu nghiêm chỉnh trong các luận bàn về triết học và khoa học. Luôn luôn bị ghét bỏ bởi sự xuất hiện của nó trong lối diễn đạt thông tục như “trực giác phụ nữ” (nghĩa là “đồng bóng”), hoặc có khi đối nghịch trực tiếp với “lý lẽ”, hiện nay từ trực giác có vẻ như ma quỷ hóa tất cả những gì ngọt ngào giả tạo và phi lý ở bên ngoài hàng rào trường đại học. Chỉ có môt ngoại lệ đáng giật mình cho lề luật này được tìm thấy ở những nhà toán học, các vị đã nói về trực giác của mình không một chút hổ thẹn nhỏ nhoi- tựa như các vị khách du lịch đến những nơi chốn đẹp đẽ ở những nước đang phát triển từng đôi lúc nghe được họ thảo luận về nỗi bất hạnh của bộ ruột già vào những bữa ăn sáng. Nhưng, như chúng ta biết, các nhà toán học thực sự đã du lịch đến những nơi chốn kỳ diệu. Chúng ta cũng nên nhận biết rằng nhiều người trong họ thú nhận đã trở nên các nhà triết gia theo phái Platon, mà không hề cảm thấy nhu cầu rõ rệt gì cần phải tham vấn một nhà triết gia giỏi để đuổi tà ma.

Bất chấp các tì vết, “trực giác” là một phạm trù không thể thiếu bởi vì trực giác bao hàm các cấu thành căn bản nhất khả năng hiểu biết của chúng ta. Điều này dù đúng trong lãnh vực luân lý đạo đức và cũng không kém hơn trong lãnh vực khoa học. Khi chúng ta không thể chẻ nhỏ một sự việc ra hơn nữa, trực giác ngự trị ngay trong khoảng cách nhỏ bé không thể thu hẹp hơn được nữa. Do đó, sự đối nghịch truyền thống giữa lý trí và trực giác là điều giả tạo: lý trí chính là bản thân của trực giác đến tận cốt lõi, như bất cứ một phán đoán nào rằng một tiền đề nào đấy là “hợp lý” hay “logic" đều lệ thuộc vào trực giác để tìm chân đứng của mình. Người ta thường nghe các nhà khoa học và các triết gia thừa nhận rằng một điều gì đó hoặc một việc nào khác là một “thực tại thô thiển” – có nghĩa là thú nhận rằng sự thể ấy không hề giảm thiểu. Câu hỏi vì sao các hiện tượng tự nhiên có những nguyên nhân, có thể nói rằng, không phải là câu hỏi mà các khoa học gia cảm được cái cám dỗ tối thiểu để mà suy tưởng. Chỉ đúng là như thế. Đòi hỏi một lý giải cho một sự kiện quá căn bản cũng như hỏi rằng làm sao chúng ta biết được hai với hai bằng bốn. Các khoa học gia đã phỏng định trước giá trị của những sự thô thiển ấy- thực ra, họ cần phải như thế.

Tôi tin rằng, vấn đề rất rõ ràng: chúng ta không thể nào ra khỏi bóng đêm mà không chịu bắt đầu một bước đầu tiên. Và lý trí, nếu có thể hiểu biết được một điều gì, không biết bằng cách nào, sẽ hiểu được cái lý đương nhiên này. Do đó, sự trông cậy vào hiểu biết trực giác không nên làm bối rối các nhà đạo đức học hơn là nó đã từng gây bối rối cho các nhà vật lý học. Tất cả chúng ta đều bị dồn chung vào những cái bẫy sập giống nhau.

Cũng đúng là hiểu biết trực giác của chúng ta từng cho thấy đã có sai lầm. Thực ra, rất nhiều phán quyết của lý trí dường như không hề đúng ngay tự khởi điểm. Khi hỏi rằng một tờ báo sẽ có bề dầy bao nhiêu nếu như mình có thể xếp gấp lại một trăm lần chồng lên nhau, hầu hết chúng ta sẽ nghĩ đến một cái gì có bề dầy như một viên gạch. Tuy nhiên, một phép toán nhỏ sẽ cho thấy rằng, cục giấy báo xếp lại đó sẽ có bề dầy bằng bằng cả vũ trụ mà chúng ta từng được biết. Nếu chúng ta từng học hỏi được điều gì trong hai ngàn năm qua, đó chính là sự hiểu biết của một con người về những gì hợp lý vốn đôi khi vẫn cần đến sự giúp đỡ để tìm được chân đứng của nó.

Hoặc hãy thử nghĩ về những hình thái không thể tin được của trực giác vốn có thể tóm tắt trong câu “Trông giống như đúc” - vốn đã nhường bỏ các ma thuật của cảm tính và những lăng mạ hiển nhiên khác cho lý trí. Có hợp lý không khi nhiều người Tàu tin rằng cao hổ cốt tăng cường nam tính ? Hoàn toàn là không. Thế nhưng nó có thể trở nên hợp lý được không ? Thực tế là nó đã trở nên sự hợp lý. Chúng ta chỉ cần đối diện với một nghiên cứu tử tế sẽ cho thấy một tương quan đáng kể giữa xương hổ và mãnh lực của con người. Một người hiểu biết có cần đến sự tương quan so sánh ấy không ? Trông có vẻ như anh ta không cần đến. Nhưng nếu có cần đến, thì lý trí sẽ phải nhường bước trước một tình hình thực tế, là người Tàu đã hủy diệt một khối lượng khổng lồ một sinh loài mà không vì một nguyên nhân tử tế nào cả.

Tuy nhiên hãy lưu ý rằng tính cách duy nhất mà từ đó chúng ta có thể chỉ trích cái nội dung thuộc trực giác của lối suy nghĩ mê hoặc là bằng cách trông cậy vào nội dung trực giác ban đầu của suy nghĩ lý trí. “Nghiên cứu tử tế” ? “tương quan so sánh” ? Vì sao những tiêu chuẩn này lại chinh phục được mình ? Chẳng phải “hiển nhiên” rằng nếu một ai không loại bỏ đi các nguyên nhân khác vốn tăng cường các tiềm năng như - hiệu quả trấn an giả tạo, ảo tưởng, các nhân tố môi trường, các khác biệt về sức khỏe giữa các đối tượng v.v…- ắt có người sẽ thất bại khi cô lập các thay đổi của ảnh hưởng xương hổ trên cơ thể con người ? Đúng, thật hiển nhiên như hạt bụi trong mắt mình vậy. Tại sao hiển nhiên ? Lại một lần nữa chúng ta chạm phải bức tường đá. Như Wittgenstein từng phát biểu “Con bài của chúng ta đã bị lật rồi”.

Cái thực tại là mình phải dựa vào một số hiểu biết trực giác để trả lời những câu hỏi về luân lý tối thiểu đã không mang lại một điều gì mong manh, mơ hồ, hay bất định của văn hóa về chân lý đạo đức. Như trong các lãnh vực khác, sẽ có các bất đồng trí thức về các câu hỏi liên quan đến sự đúng sai, nhưng các bất đồng trí thức có giới hạn của nó. Con người tin rằng địa cầu là một mặt phẳng không phải là những nhà địa lý bất đồng chính kiến; những người chối rằng Holocaust chưa hề từng xảy ra không phải là những sử gia bất đồng chính kiến, người tin rằng Thiên chúa tạo nên vũ trụ vào năm 4004 trước thời công nguyên không phải là những nhà vũ trụ họcbất đồng ý kiến và chúng ta sẽ nhìn thấy rằng những người thực hành những giết chóc như “giết người vì danh dự” không phải là những nhà đạo đức bất đồng về luân lý. Thực tế của những tư tưởng tốt lành được tôn trọng tự khởi đầu không khiến cho các tư tưởng tồi được tôn trọng hơn một chút nào.


Trích Tận cùng của Ðức tin
Sam Harris
Lê Quốc Tuấn dịch

Thái Hà náo nhiệt giao duyên tân cổ



Thái Hà náo nhiệt tưng bừng
Bởi anh Chí Đậu đang phừng phừng say
Phát động,nhốn nháo phen này
Thánh giá lại được rước ngay về trời
Chỉ thương cho đức thánh lời
Sa tan lợi dụng tơi bời nhiều phen
Mảnh đất là hồn nước thiêng
Mang về La Mã cho riêng chúa mình
Chúa trên thánh gía bực mình
Nếu tau xuống được ,đoạn tình chúng bay
Chẳng qua đinh đóng dính tay
Miệng không mở được lâu ngày hóa câm
Cho nên tau phải khóc thầm
Bởi con chiên chúa ,thờ nhầm Sa tan
Khi xưa gót Pháp ai làm
Dính liền đô hộ Việt nam một thời
Quê hương tang tóc ngút trời
Một trăm năm ấy ai người dễ quên ?
Ngày nay vẫn một nhịp kèn
Kích động quậy phá vì trên chúa trời
Nếu tau ,nói được tiếng người
Phải đi tố cáo những lời Sa tăng
Lợi dụng chúa ,để nhố nhăng
Thần thánh buôn bán ,hoại băng đạo người !
Có ai thương lấy giùm tôi
Tháo đinh ,tôi xuống dậy tôi ,tiếng người ?


Lê Đức Duy

Thiên Đường Dậy Sóng Hoài Nghi







Lê Dọn Bàn
dịch từ "Problems with Heaven (1997)" của Michael Martin





Lời người dịch

Ai ai cũng muốn lên thiên đường, nhưng chẳng ai muốn chết cả [1]

Câu hát đó đập vào tôi ngay lần nghe đầu tiên, cách nay đã rất lâu, nên đến giờ đã quên mất cả tên người hát, và cũng quên cả các phần sau. Một nghịch lý của các tôn giáo phương Tây: Chết và Thiên đường. Phải chết xong đã, mới thấy cánh cửa vào đất Hứa. Thế nên Thiên đường vẫn là một hoài nghi – vì chưa chết nên không thể biết thực hư, nhưng chết rồi, thực hư không thể nói, mà cho cùng, với người chết, biết còn chăng chuyện thực hư. Vậy nên, thiên đường chỉ là để cho người sống bàn bạc, mơ tưởng, và nhất là rao giảng.

Nếu chỉ là giấc mộng đêm của con người như phương Đông nhìn lên trăng, mơ chốn Thiên thai, hay Bồng lai, tiên cảnh, có sáo trúc êm, có dáng hằng tuyệt mỹ, ...nó vô hại, nên thơ, đẹp đẽ, và lại còn đầy hứng cảm nghệ thuật.

Nhưng lớn mạnh hơn mộng đêm, đến những khát khao bản năng của tranh sống ngày, là mộng ngày; ở trong không gian của những hữu hạn nên thèm ước cái không gian khác chứa đầy vô hạn, nghèo khó nên ước giàu sang, xấu xa nên ước đẹp đẽ, khổ đau nên ước hạnh phúc,… mộng ngày là khát khao bản năng nên thường chỉ tìm đến số, đến lượng để thỏa mãn đói khát, bỏ quên hay coi nhẹ giá trị phẩm chất. Thế nên chúng ta nghe kể thiên đường có vô tận những cái này, vô hạn những thứ kia, vô cùng những điều nọ. Mọi thứ đều đong bằng “bao nhiêu là…”. Con người khát quá, thèm quá, muốn quá, tự nhiên đấy thôi. Nhưng những ước ao tự nhiên và thơ ngây đó của con người đã bị những phù thuỷ tôn giáo vẽ vời thành một Thiên đường dẫn dụ. Và bức tranh mới vụng về làm sao, đầu đuôi bất nhất. (Đọc bài này của Michael Martin) Tựa những lời hứa dỗ dành con trẻ, nay thế này, mai thế khác, sau cùng có ai ngắm kỹ lại, với chút suy nghĩ thấy ngay bức tranh Thiên đường rách bươm, vá víu, chắp nối, có rất nhiều lúc vội vàng nên điều hứa sau đã trái nghịch với lời hứa hấp tấp trước. Thiên đường có lẽ chẳng có thể ví được với một bức tranh, tôi có rộng rãi quá chăng? Ở chính phương Tây này, người ta chẳng vẫn gọi nó trần trụi là một cái bánh vẽ trên trời đó sao. Là bánh thì không, nhưng có là tranh đi nữa, nhưng chấp vá, nên có bao giờ thoả được dẫu một chút mộng chân thực con người.

Nhưng vì không thoả, chỉ ôm, thật chặt, nên giấc mộng Thiên đường là một giấc mộng chết người, giáng không biết bao nhiêu tại hoạ cho những kẻ sống ở trần gian.

Chỉ ở Việt Nam, tôi biết – giấc mộng hão ấy khởi mạnh đi từ hội mang tên “hội thừa sai Paris”, trăm phương nghìn kế bền bỉ muốn đem nó sang quê hương chúng ta. Những người truyền thì chân thực quá đỗi nên cuồng tín vô cùng, những người nhận thì khờ dại, khốn khó đáng thương, nên dốc sạch lòng đóng xuống niềm tin, vốn vừa được nâng lên thành một đức hạnh - đức tin, nên bất chấp cả cái chết – vì nếu cái chết biến họ thành thánh [2]- có nghĩa đã ôm chặt một thông hành lên thiên đường, cái chết nào có nghĩa gì với cánh cửa Thiên đường hứa hẹn sắp mở? Bức tranh vá víu ấy đã đủ dán kín, mù mắt để họ chỉ thấy giữa tối đen - chập chờn như thực, những thiên thần nghe kể trong Phúc âm - vẫy cánh chào đón. Hẳn nhiên, còn ai xứng hơn họ nữa? Những người đã “được chọn” và đã có dấu đóng chứng nhận vượt qua thử thách – dấu máu trên thân, dấu cháy của sắt nung đỏ ấn cháy da thịt trên trán.

Và bắt đầu như thế, giấc mộng thiên đường đẩy quê hương chúng ta – vào một thời kỳ không giống thời kỳ nào có trước đó của lịch sử dân tộc: Vũ đài chính trị dậy bão, các triều đại xụp đổ nhanh chóng. Thuở ấy, người phương Tây vào Việt Nam không chỉ thương nhân, giáo sĩ, mà cả gián điệp, quân đội trong ngoài. Khi Gia Long vào Phú xuân, đất nước về một mối, nhưng chưa bao giờ nông dân nổi loạn nhiều như vậy. Hỗn loạn, cùng quẫn và đói khổ, và những kẻ đợi dịp săn mồi đã lâu - với giấc mộng Thiên đường, nên sắt cháy, máu đổ, và lửa đốt, là những bước khởi đầu. Đến khi Văn thân dựng cờ “bình tây sát tả” là gươm vung đã trong vô vọng. Bàng hoàng, sững sờ, trước Nam, sau Bắc, chúng ta mất nước!

Cũng không quên nhắc lại, một giấc mơ thiên đường khác, bản chất là một mô phỏng của thiên đường “linh thiêng” này – thiên đường trần gian [3]– nhưng may mắn là nó đã không thọ, chẳng sống dài lâu, tuy bùng lên rất mạnh, nhưng tàn mau.

Thế nên đã hơn trăm năm qua, hết ngoại xâm, thuộc đia, đến chiến tranh, ly tán,...vẫn chưa nguôi. Lần đó, dân tộc ngã quị, đến nay đứng lên, vẫn như chưa vững chãi.

Và còn giấc mộng Thiên đường trên kia, ở sau cái chết.
Nó chưa chết ở quê hương chúng ta.

Mặc dù ở phương Tây, người ta đã dần từ bỏ, tôi kết thúc với một bài hát khác, quen thuộc hơn:


Tưởng tượng không có thiên đường – Dễ thôi, bạn thử đi,
Dưới chúng ta không hoả ngục – trên chúng ta chỉ trời xanh. [4]

Nhân đọc bài viết này của M. Martin

Lê Dọn Bàn







Thiên đường dậy sóng hoài nghi





Dẫn nhập

Tin có Thiên Đường là phần thiết yếu của các tôn giáo độc thần lớn như đạo Do Thái, đạo Kitô, và đạo Islam. Các nhà thần học nổi tiếng đã viết về nó và các người hữu thần bình thường hy vọng đến chốn ấy sau khi chết. Đáng tiếc, những người có quan điểm vô thần đã không nói gì nhiều về Thiên đường mặc dầu một vài bài viết của họ có nhắc nhở gián tiếp [5]. Thế nhưng, khái niệm về Thiên đường không rõ ràng và không phải là không có vấn đề. Như tôi sẽ trình bày trong những trang sau đây – có những vấn đề nghiêm trọng với khái niệm Thiên đường. Thứ nhất, khái niệm Thiên đường thiếu chặt chẽ, không đồng nhất. Thứ nhì, Không chắc những người theo quan điểm hữu thần có thể xóa được các mâu thuẫn giữa tính chất tuyệt vời của Thiên đường với những phản biện khuôn mẫu bảo vệ Luận chứng về Tà Ác [6] như luận thuyết Bảo vệ Tự do Ý chí [7] Thứ ba, Thiên đường không công bằng và, như thế, nó mâu thuẫn với lòng tốt của Gót [8]

Lý thuyết truyền thống

Lý thuyết truyền thống về Thiên đường có thể khai triển thành những thuật ngữ trong các luận thuyết sau đây [9][9]:

1. Luận thuyết thưởng công (The reward thesis): Mục đích của Thiên đường là để thưởng công cho những người có đời sống và hành vi xứng đáng ở trần gian.

2. Luận thuyết vĩnh cửu (The permanence thesis): Một khi đã ở thiên đường, người ta không rời.

3. Luận thuyết bất phổ quát (The anti-universalism thesis): Có những người sẽ không lên Thiên đường.

4. Luận thuyết ngoại tại cá nhân hiện hữu (The individual external existence thesis: Thiên đường là chốn có ý thức cá nhân.

Tất cả những lý thuyết này, trên nguyên tắc có thể bị chính những người hữu thần đặt vấn nạn và, trong thực tế, đã từng có dăm ba. Lấy thí dụ, một vài người Kitô đã phủ nhận (1) và đã chủ trương Thiên đường là phần thưởng của lòng Gót yêu thương và hoàn toàn không dựa trên công trạng. Có những người Kitô khác đã phủ nhận (3) và đã cãi ngược lại rằng rốt cùng mọi người đều được cứu rỗi và tất cả đều lên thiên đường. Tôi không biết có ai phủ nhận luận đề (2), nhưng chắc chắn có thể giữ luận điểm là một người sau khi lên Thiên đường cũng có thể tạo hành sai trái ở chốn ấy và bị giáng truất, thí dụ xuống Hell (hoả ngục) [10]. Cuối cùng, mặc dù hiếm khi có chuyện phủ nhận (4) trong những tín đồ theo truyền thống hữu thần Tây Âu, nhưng trong những tín đồ các tôn giáo phương Đông [11] và chủ nghĩa phiếm thần, họ cãi rằng Thiên đường gồm có một sự hợp nhất với Gót, qua đó ý thức cá nhân mất đi - là phổ thông.

Lý thuyết về Thiên đường tôi đã lược kê có ít nhất ba biến thái. Trong biến thái phổ thông nhất, linh hồn vô hình, phi vật chất của một người – không phải thân xác – lên Thiên đường chóng vánh sau khi chết. Trong dạng biến thái này, thiên đường được xem như “một chỗ”, nhưng không nằm trong thời gian và không gian.Trong biến thái thứ nhì, xác của người chết lại “sống dậy” chóng vánh sau khi chết, nhưng trong biến dạng ở vài không gian khác – một không gian hoàn toàn cắt đứt với không gian loài người hiện giờ đang sống – và được thưởng công ở đấy [12]. Trong biến thái thứ ba – nhiều học giả tin đây là quan điểm nguyên thuỷ của đạo Kitô – Thiên đường hiện giờ chưa có, nhưng sẽ có trong tương lai với lần Chúa xuống thế thứ nhì (the Second Coming). Lúc ấy, xác chết sẽ “cải tử hoàn sanh” trong dạng sửa đổi và được thưởng công ngay trong không gian chúng ta đang sống đây.

Sự mạch lạc của Thiên đường

Cả ba dạng biến thái của lý thuyết về thiên đường, về mặt nhận thức đều có những vấn đề về khái niệm rất trầm trọng, tác động trên nhận thức về chúng. Lấy dạng nói về linh hồn phi vật chất xét thử. Cứ tưởng tượng dù thô thiển sơ sài đến đâu cũng đã khó - về một thân xác nằm ngoài không gian và thời gian, nó ra làm sao? Rồi linh hồn đó di chuyển từ chỗ này sang chỗ kia ra sao? Linh hồn nhận ra linh hồn khác thế nào? Linh hồn không xác làm gì suốt ngày dài, vì đã giả định là linh hồn không cần ngủ? Khó khăn thành không sao vượt qua được nữa khi gộp nó với ý tưởng thiên đường nằm ngoài không gian và thời gian. Tất cả các khái niệm ý thức chúng ta có – lấy thí dụ - suy nghĩ, sẵn lòng, thèm khát – đều là khái niệm có tính thời gian, chúng cần thì giờ để tạo động và xảy ra ở một thời điểm nào đó. Suy nghĩ và ước muốn phi thời gian là không khái niệm được. Vậy nhưng, trong dạng biến thái này, các linh hồn suy nghĩ và ước muốn phi thời gian tính.

Hai dạng biến thái có xác sống dậy, có lẽ lúc đầu có ít vấn đề hơn dạng hồn không xác, nhưng chúng có những vấn đề của chúng về mặt nhận thức. Có hai vấn đề về nhận thức với ý niệm khi người ta chết, thân thể họ được cải tử hoàn sinh ngay (dù có biến dạng) ở một không gian khác – một không gian hoàn toàn tách biệt với không gian chúng ta, thành ra theo nguyên tắc, không sao có thể từ nơi chúng ta di chuyển đến đó được. Thật khó có nghĩa lý một không gian như thế. Mặt khác, làm sao có thể có hai không gian về vật lý tách biệt nhau? Không gian với nguyên tắc là cắt đứt hết mọi du hành không gian? Mặt khác, nếu không gian có xác dựng dậy, không là không gian vật lý, vậy nó là thứ không gian gì vậy? Thứ nhì, tại sao giả định xác ở không gian khác này là xác của người chết trong không gian chúng ta, hơn là một “bản sao” của người này? Giả định, ông X chết và xác này – chúng ta hãy gọi xác này là B1- đem chôn. Lại cũng giả thử một xác B2 khác dựng dậy ở một không gian khác. Có nền tảng nào để tin rằng B2 là ông X chứ không phải chỉ là một bản sao của ông X? Thế nhưng, chỉ trừ khi nào chúng ta có lý do vững chãi để tin B2 là xác (của ông X) chứ không chỉ là bản sao của ông X, trong biến thái này chúng ta không có được lý do nào để tin thiên đường là phần thưởng cho đời sống trần gian của chúng ta.

Xét dạng biến thái thiên đường hiện giờ chưa có, nhưng sẽ có trong tương lai, khi xác người trong dạng sửa đổi được dựng dậy, nhưng ở cùng không gian như chúng ta biết đây. Ở đây chúng ta không có những vấn đề liên quan đến thuyết thiên đường dạng biến thái thứ hai: thiên đường ở trong không gian vật lý của chúng ta, và chỉ có một xác cho mỗi người chết. Nhưng vẫn còn có những vấn đề. Xác chôn đã thối rữa và các nguyên tử của chúng có thể đã phân tán. Thực vậy, có những nguyên tử trong đám này, tính cho cùng, đã thành ra trong thân xác của những người bây giờ đang sống. Và nếu xác chết hoả táng, cũng đúng như thế. Nhìn những vấn đề như vậy, các nhà triết gia hữu thẫn, chẳng hạn như Peter Van Inwagen [13] đã cãi, dẫu đến một Gót toàn năng cũng không thế dựng dậy một xác thân đã hoàn toàn tan rã. Nhưng xác con người quả thật bị tan rã, và đây là vấn đề.

Van Inwagen đã đề nghị một giải pháp cho vấn đề này thật quái đản đến nỗi, phải như không vì vị thế của ông trong học giới, ý tưởng đó không đáng được nhận xét nghiêm chỉnh [14]. Ông đã đề nghị rằng, dù trái nghịch với những gì chúng ta thấy, thân xác con người không phân rã! Mà đúng ra, Gót bảo quản thân xác (thực) của chúng ta – có lẽ là ngay lúc chết – và đưa thay vào đó là một “bản sao” – bản sao này mới là thân xác chúng ta thấy – hoặc tan rã, hoặc hỏa táng [15] Không may cho ông, đề nghị này lại đưa ra một vài vấn đề liên hệ với dạng biến thái thứ hai. Tại sao phải nên giả định xác tan rữa hay xác hoả thiêu là các bản sao mà không chính các xác được bảo quản mới là bản sao? Thêm nữa, các xác bảo quản ở đâu? Nếu nói rằng chúng được giữ ở một tinh cầu nào xa lắm, hay một không gian khác với của chúng ta, vấn đề khởi lên ngay. Khả năng sau (không gian) đưa ra vấn đề giống dạng biến thái thứ hai. Đề nghị trước (tinh cầu), mở ngỏ khả năng trong tương lai có chứng nghiệm thực nghiệm, cách ấy, thám hiểm không gian có thể, trên nguyên tắc, tìm tinh cầu nơi Gót giữ xác người. [16]

Độc lập với những sự quái đản trong bản chất và những điều ngụ ý đầy vấn đề, còn vài điều hoang mang về những đề nghị của Van Inwagen. Tại sao Gót lại phải đi lòng vòng đến xa xôi như thế với chuyện xem ra là người ta mất đi vào hư không hoàn toàn? Van Inwagen đề nghị rằng nếu thân thể đã không tan rã, hoặc biến mất bí ẩn sau khi chết, điều này chắc sẽ là bằng chứng có một uy quyền siêu nhiên. Tác giả này nói mặc dầu Gót muốn chúng ta tin vào Gót, Ông đã không làm hết tất cả những gì Ông có thể làm được, để đưa ra cho chúng ta những bằng chứng không thể chối cãi. Van Inwagen kết luận bằng câu nói “có lẽ chẳng có gì là khó khăn để nghĩ ra những lý do tốt đẹp cho chính sách như thế (của Gót).” [17]

Có lẽ, quả thực có khó khăn hơn là Van Inwagen đã giả thử. Theodore Drange [18] đã đưa ra một luận chứng rất hùng hồn trình bày rằng – những luận chứng quen thuộc vẫn bào chữa chuyện Gót không đưa các bằng chứng mạnh mẽ ra cho chúng ta tin vào sự hiện hữu của Ông ta – các luận chứng như thế rất yếu. [19] Thí dụ, một người không thể biện hộ – nếu đưa ra bằng chứng hùng hồn sẽ gây trở ngại cho ý chí tự do của người ta, vì tự do chọn lựa thì ngang ngửa với có bằng chứng hùng hồn [20] Trong trường hợp nào đi nữa, nếu đã như có ai thấy xác người không thối rã, hay không mất đi sau khi chết, điều này khó mà có thể nói là bằng chứng không chối cãi được của phe hữu thần chủ trương có Gót, vì trạng thái của những chuyện như vậy tương đồng với nhiều cách giải thích của phái vô thần, thí dụ, một quỉ thần ma quái muốn làm chúng ta bẽ mặt!

Vấn đề về đặc tính siêu phàm kỳ diệu của Thiên đường

Một khía cạnh của thiên đường tôi vẫn chưa xem xét đến, tạo nên những khó khăn cho nỗ lực rất nổi tiếng nhằm giải quyết Vấn nạn về Tà Ác như lý thuyết “Bảo vệ qua Ý chí Tự do” (FWD - Free Will Defense). FWD thông thường được dùng để giải thích số lượng quá lớn những tà ác về diện đạo đức trong thế giới. Tuy vậy, nếu cư dân của thiên đường giả thiết là có ý chí tự do, nhưng sao thiên đường lại cũng giả thiết là sạch trơn, tuyệt không có tà ác về diện đạo đức? Sự hiện hữu của thiên đường ném tấm màn nghi ngờ lên FWD.

Mặc dù giới hữu thần tin các linh hồn phi thể hoặc các con người “sống lại, trong một vài diện nào đó, có khác nhau với những con người trần gian, họ phải tin những đối tượng này có tự do về chọn lựa. Chọn lựa như thế, theo giới hữu thần, là một yếu tính của bản chất con người. Hơn thế nữa, người ta có khuynh hướng nói, bằng vào định nghĩa, hiện hữu ở thiên đường thì tốt đẹp hơn của ở mặt đất. Tốt đẹp hơn như thế nào, trong chiều hướng chính xác nào, thì hoàn toàn mù mờ, nhưng sự tiến bộ chắc chắn phải bao gồm được giải phóng khỏi tất cả, hay ít nhất hầu hết khỏi những khó khăn và tà ác của hiện hữu trần gian. Sau hết, thiên đường giả định là một cực lạc. Nghĩa là nó không còn tử, bệnh, khổ và tàn hại của lão nữa. Giả thiết là sự giải thoát khỏi – hay ít nhất cũng giảm thiểu đến cùng – những xấu ác của hiện hữu trần gian trong đó có các xấu ác về diện đạo đức. Thiên đường khó mà gọi là cực lạc được nếu còn nghĩa là có giết người, tra tấn, hiếp dâm, độc ác, và những thứ tương tự, dẫu có với bất kỳ lượng nào cảm nhận được.

Câu hỏi đặt ra là tại sao thiên đường lại hoàn toàn không còn tà ác đạo đức. Một số trả lời có thể loại ngay. Giả thiết không phải người nào lên thiên đường cũng là thánh cả. Thực thế, ít nhất có trong một vài liệt kê – đến còn không xem tư cách đạo đức của một người có quan hệ với sự cứu rỗi. Thế nên, ít nhất trong một cách diễn giải của đạo Kitô, một người được cứu rỗi bằng lòng tin vào Jesus và không bằng hành động đạo hạnh. Thêm nữa, không rõ ràng là tư cách của mỗi người rồi có chuyển đổi ở thiên đường không. Dẫu người xấu xa không lên thiên đường, người ta có thể giả định là những người đã lên đấy có thể có hành động sai trái lúc ở trên ấy – họ có thể phạm các lỗi lầm đạo đức, sa ngã, bị cám dỗ mua chuộc, và nữa nữa,..Nhưng nếu trên thiên đường họ có ý chí tự do mà lại không làm gì sai trái, người ta phải tự hỏi - tại sao cuộc sống trần gian này lại không theo cũng đồng bộ như thế nhỉ?

Có thể đề nghị một giải thích về sự thiếu vắng tà ác trên thiên đường – là sự thay đổi về khả năng cơ thể, không phải trong cá tính nhân cách. Giả định các hiện hữu phi thể không có khả năng thân xác, thí dụ, để giết người, hiếp dâm và tra tấn. Hơn thế nữa, ngay nếu như những cư dân thiên đường có thân hình, thân thể họ có thể không là đối tượng của cùng những luật vật lý như thân thể trên mặt đất chúng ta. Tuy nhiên, những đề nghị này tạo một vấn đề mới. Vì nếu con người với ý chí tự do có thể hiện hữu trong một thể dạng (không thân hay có thân) như thế, với những kết quả là bớt xấu ác luân lý, nếu thế tại sao con người đã không được tạo với thể dạng này trong đời sống trần gian?

Nhắc lại rằng theo FWD, một thế giới có ý chí tự do là chốn tốt đẹp hơn chốn không có. Lý thuyết FWD đưa ra một giải thích tại sao có quá nhiều xấu ác luân lý: con người xử dụng ý chí tự do và tạo xấu ác. Gót không can thiệp vào những chọn lựa này – vì nếu làm thế sẽ là can thiệp vào ý chí tự do. Tuy nhiên, các triết gia như John Mackie [21] đã thuyết phục rằng có thể có một thế giới, nơi ấy con người tự do, nhưng ấy thế họ lại luôn luôn làm những gì hợp luân lý đạo đức. Bởi vì Gót đã có thể hiện thực được một thế giới như thế nhưng lại không làm, Mackie kết luận FWD thất bại. Phe hữu thần phản bác bằng cách chủ trương, dẫu có thể có một thế giới như thế, nhưng đến ngay Gót cũng không thực hiện được [22]. Thế nhưng, giả định của giới hữu thần về thiên đường đã thừa nhận Mackie có thể gần với cái đúng hơn là các phê phán đối lập. Nếu Gót đã có thể hiện thực một thế giới có ý chí tự do, trong ấy phần thiết yếu là thiên đường, thật khó khăn để thấy tại sao Gót đã không hiện thực một thế giới, với ý chí tự do, có thiên đường trong nó toàn thể.

Một lý do có thể đưa ra về – tại sao có rất ít, hay không có xấu xa về đạo đức trong thiên đường, nhưng có quá nhiều trên mặt đất – có liên hệ với một biện hộ danh tiếng khác đối với biện chứng về tà ác. Bảo vệ bằng Sự tạo lập Linh hồn (SMD - The Soul Making Defense), thuyết này chủ trương cái Xấu Ác là điều kiện cần thiết để tạo cá tính con người! Có lẽ lý do có Xấu Ác trong đời sống trần thế của chúng ta là để tạo ra các chướng ngại cho chúng ta vượt qua – chướng ngại cần thiết cho sự tạo lập linh hồn con người. Một khi linh hồn tạo trong đời này đã xong, không cần có thêm Xấu Ác nữa trên thiên đường, và như thế, Gót xếp đặt những điều để sao con người có ý chí tự do, nhưng không làm điều xấu trên thiên đường. Ít nhất có một vấn đề rất trầm trọng với sự trả miếng này, dù cách nào, Xấu ác không nhất thiết là cần thiết để tạo chướng ngại thử thách, vì còn có Xấu ác trong Tự nhiên. Khổ đau và những kết quả hủy hoại của bệnh tật, rồi sóng thần, bão tố và núi lửa động đất,… quá đủ để tạo chướng ngại. Thế nên, hệ luận là sự không cần thiết đến xấu ác để giải thích là hậu quả của tự do chọn lựa con người.

Tính chất bất công của Thiên đường

Theo quan điểm thông thường về thiên đường, có số người được gửi đến đấy như một sự thưởng công cho điều gì đó họ thực hiện ở đời sống trần gian. Trong một biến thái của quan điểm của phái bất phổ quát đã nhắc trước đây, thiên đường là quà tặng của Gót, hoàn toàn không dựa trên công trạng. Trường hợp nào đi nữa, sự kiện là có người lên thiên đường và có người không, xem không công bằng.

Về biến thái thiên đường là quà tặng, xem ra tuỳ tiện và bất công. Một người cha phát quà – không dựa trên công trạng – cho vài đứa con của ông mà lại không cho vài đứa khác – sẽ phải xem là không công bình và tuỳ tiện. Chắc chắn cũng có thể nói như thế về Gót nếu Ông làm tương tự giống thế. Nhưng cứ giả thử, chúng ta chấp nhận quan điểm lên thiên đường dựa vào công trạng xứng đáng. Nó vẫn xem ra không công bình. Giả thử thiên đường là phần thưởng cho lòng tin, lấy thí dụ, tin Jesus là vị Cứu thế. Hàng triệu người không vì lỗi tự họ, chưa từng nghe danh Jesus, hay ít nhất chưa có cơ hội biết Phúc âm. Không lòng tin của những người này - khó có thể là nền tảng trừng phạt, nghĩa là rút mất phần thường.

Thêm nữa, ngay cả nếu người ta có cơ hội nhưng thất bại không tin, tại sao họ lại phải bị trừng phạt. Nhiều người không tin; phủ nhận thông điệp Phúc âm, vì lý do đúng là có bằng chứng chỉ ra sự khó-có-thể của nhiều chủ thuyết của đạo Kitô: Chúa sống lại, Sinh nở nhưng còn trinh, và hiện thân của Chúa. [23] Ngay nếu như các chủ thuyết này đúng và không phải là khó-có-thể xảy ra theo hướng nhìn các chứng cớ, với người có óc duy lý chắc chắn chứng cớ ấy không lay chuyển được họ. Phải đi vượt quá những gì chứng cớ chỉ ra – nếu là không phản lại các chứng cớ - để chấp nhận Jesus là “con trai” của Gót. Xa hơn nữa, ngay cả khi các người không tin, họ có tính toán sai lầm về các chứng cớ và nó dẫu thực có đưa ra một nền tảng vững chắc để tin tưởng, nhiều người không tin đã thành thực tin là chứng cớ thiếu xót. Tại sao một Gót tốt lành lại giữ quà tặng thiên đường với những người chân thực không tin, họ có thể khiếm khuyết không có được đủ sáng xuốt, kiến thức, hoặc khả năng phân tích để thẩm giá đúng các chứng cớ?

Giả thử, phần thưởng thiên đường không dựa trên đức tin, nhưng trên hành xử đạo đức. Như thế này cũng vẫn bất công. Hàng triệu người đã không có cơ hội biết đến giảng dạy đạo đức của kinh Thánh. Họ không sống theo như tiêu chuẩn của kinh Thánh – không phải lỗi tự họ. Thêm nữa, ngay cả với những người có cơ hội biết kinh Thánh có thể tìm thấy thông điệp đạo đức của nó không thể chấp nhận được trên những nền tảng đạo đức. Gót, như diễn tả trong Cựu ước, thường ác độc và tuỳ tiện, và trong Tân ước, ngay cả Jesus đã chân dung như có một tư cách đạo đức khiếm khuyết [24]. Hơn thế nữa, ngay cả với những người chấp nhận kinh Thánh, câu hỏi là ứng xử nào là xứng đáng được được ban thưởng? Những gì kinh Thánh dạy về đạo đức là đối tượng nhiều cách diễn giải trái ngược nhau. Thế nhưng cho công bằng – làm sao Thiên đàng có thể là một phần thưởng vì tuân theo một tiêu chuẩn đạo đức đúng đắn của Phúc âm – mà nó lại không minh bạch diễn tả?

Mặt khác, phủ nhận thuyết bất phổ quát và bênh vực thuyết phổ quát cũng có những vấn đề của nó. Thiên đường để làm gì nếu cuối cùng rồi ai ai cũng lên hết trên đó? Thế cái gì là ý nghĩa của sự sống trần gian với những đau thương, thử thách và khổ ải của nó? Mặc dù trong trường hợp này (ai cũng lên thiên đường) có lẽ không còn phàn nàn là bất công, người ta có thể phàn nàn về sự vô nghĩa của cuộc sống trần gian [25]. Hiện hữu con người hiển nhiên trở thành phi lý và một bí ẩn sâu xa. Sau rốt, Tại sao chúng ta lại có một đời sống trần gian (như bước trung gian) làm gì nữa nhỉ? Tại sao không bắt đầu đời sống với ngay trạng thái thiên đường cho xong? Nếu phái hữu thần muốn tránh gánh nặng bất công, hay gánh nặng vô bổ phi nghĩa, họ phải nghiêm trọng xét lại lý thuyết của họ về thiên đường.

Kết luận

Sự nương dựa tin cậy của giới hữu thần vào khái niệm Thiên đường nêu lên nhiều vấn đề quan trọng. Trước hết, khái niệm con người hiện hữu trên thiên đường –có thân xác hay không thân xác – là khái niệm hoàn toàn không thể hiểu được. Thứ hai, vẫn còn là một bí mật – làm sao cư dân ở đấy có thể có ý chí tự do và lại giả định họ ít phạm sai trái về đạo đức. Thứ ba, sự hiện hữu của thiên đường như một vương quốc ở đó con người hiện hữu, nhưng lại tương đối không có các tà ác về đạo đức, làm yếu đi sự biện hộ truyền thống dùng ý chí tự do để bào chữa cho luận chứng về Tà ác. Cuối cùng, thuyết bất phổ quát là bất công trong khi thuyết phổ quát xem ra vô bổ.

Michael Martin

Lê Dọn Bàn tạm dịch- bản nháp thứ nhất



Tác giả : Michael Martin (1932 -), Ph.D. (Harvard) - Triết gia, học giả, giáo sư emeritus (hưu trí danh dự), dạy triết học và triết học tôn giáo tại Boston University.

Các chú thích trong bài của tác giả, như trong nguyên văn – bản Anh ngữ - xin đọc nguyên văn ở đây: Michael Martin - Problems with Heaven (1997)

Những chú thích khác của tôi - có phụ ghi là chú thích người dịch - (CTND) – như nhận lỗi, nếu có, về người dịch.


[1] Một bài hát bình dân, rất phổ thông tại Bắc Mỹ - Everybody Wants to Go to Heaven, but Nobody Wants to Die. (CTND)

[2] Cũng nên nhắc lại – Suốt hai nghìn năm lịch sử triết học, tôn giáo nước Tàu, chỉ có một mình Khổng khâu được tôn xưng là thánh. Cao đồ như Nhan Hồi, Tử Cống, hay hậu duệ như Mạnh tử (thình thoảng cũng may mắn được gọi là á thánh) , tất cả chỉ được các nhà nho cung kính gọi là thày, thày Nhan, thày Mạnh. Ngay cả Khổng Khâu cũng thường khi chỉ được gọi là thày – thày Khổng - vì bình sinh, học trò của ông cũng chỉ gọi ông là “thày’ (phu tử).

Từ “thánh” trong văn hoá phương Đông, cao quí và hiếm hoi như thế. Thế nên, trong trường hợp những người có kẻ không biết viết, biết đọc, mà được dạy cho nếu chết vì đạo thì thành “thánh” - thánh tử đạo – martyr - ắt hẳn phải có tác động tinh thần không nhỏ.

Đây là những chiến sĩ trước khi ra trận, biết chắc sẽ không trở lại, nhưng cũng không nghi ngờ gì về sự kiện mình sẽ được gắn huân chương cao quí nhất dưới này –kèm với phần thưởng cao quí nhất - ở trên kia.

Thế nên, không lấy làm lạ, dù đến tận 1988, John Paul II – từ Vatican – phải nhất định thêm 117 tên tuổi nữa vào danh sách “thánh”, họ vốn đã chết từ trăm năm trước trên đất nước VN, để nuôi sống niềm tin vào Thiên đường cho người đang sống mà thôi. (CTND)

[3] Xem Bertrand Rusell - The Practice and Theory of Bolshevism – ông so sánh chủ nghĩa Cộng sản (Marxism-Leninism) như một tôn giáo. Cũng xem thêm bài viết ngắn nhưng quan trọng của ông - Tôn giáo có thể chữa được các khó khăn của chúng ta không? Tôi dịch và giới thiệu – đế thấy ông so sánh Vatican và Kremlin.

Chỉ một cái nhìn vội - chúng ta thấy các cơ quan và tổ chức đi của hai bên đi song song – Vatican/ Kremlin, giáo hoàng/ bí thư thứ nhất, hội đồng các hồng y/ hội đồng trung ương đảng, tống giám mục,/xứ uỷ, giám mục/ tỉnh uỷ, … cuối cùng là các linh mục xã,/xã uỷ, khóm trưởng/trùm đạo,... Các tổ chức quần chúng: Thiếu nhi thánh thể/ thiếu nhi quàng khăn đỏ, đạo binh đức mẹ/đoàn phụ nữ,…tổ chức hành chính: xóm đạo, giáo xứ.Trong quân đội: chính uỷ, linh mục tuyên uý., cho đến cuối cùng mỗi đảng viên có thể coi như một tín đồ, một bên viện dẫn Thánh kinh, bên kia viện dẫn Marx và Engels.

Nên Russell kết luận : “(nếu) nhìn chủ nghĩa Cộng sản như một cái gì rất khác biệt với đạo Kitô. Điều này với tôi là một sai lầm hết sức sâu xa - Chính là những sự tương tự giống nhau giữa đạo Kitô và chủ thuyết Cộng sản làm chúng xung khắc đối kỵ với nhau.” (CTND).

[4] Imagine - John Lennon (the Beatles) : Imagine there's no Heaven - It's easy if you try - No hell below us- Above us only sky,… (CTND)

[5] Thí dụ, Phê bình của Antony Flew về những khái niệm khác nhau của bất tử - có liên hệ với những gì bàn ở đây. Xem Antony Flew, God, Freedom and Immorality, (Buffalo, NY: Prometheus Books, 1984).

[6] Argument from Evil : luận chứng đưa ra – vì sự xấu ác trần gian là thật, như thế nó mâu thuẫn với giả định có một Gót hay làm cho sự hiện hữu của Gót thành khó có thể có thể là đúng thật – Đây là luận chứng của giới vô thần - xưa nhất và mạnh nhất (CTND)

[7] Free Will Defense: Phản biện lại Luận chứng về Tà ác- Tà ác là hậu quả của Tự do về ý chí con người, nên không thể “đổ tội” cho Gót.

[8] Phiên âm từ God – thay vì dịch vì từ Thượng đế - thường dịch - không hoàn toàn đúng nguyên nghĩa của từ God. Xem thêm Russell - Có God hay không? (CTND)

[9] Cf. Jonathan L. Kanvig, "Heaven and Hell," in A Companion to the Philosophy of Religion, ed. Philip L. Quinn and Charles Taliaferro, (Oxford: Blackwell Publishers, 1997), pp. 562-68.

[10] Có thể đề nghị – Satan là một nhân vật trước kia sống ở Thiên đường, sau bị trục xuất vì có những hành vi bất xứng. Tuy nhiên, theo truyện kể truyền thống, Satan không có phần thưởng Thiên đường nhưng chỉ có giáng truất. Thêm nữa, Satan không phải là người, nhưng là thiên thần sa ngã, nên vị này có những khả năng siêu phàm.

[11] Thí dụ Ấn giáo, hữu thần – Tiểu ngã nhập vào Đại ngã (Brahman)

[12] Quan điểm này đã gắn với John Hick. Xem John Hick, "Theology and Verification," The Logic of God, ed. Malcolm L. Diamond and Thomas V. Litzenburg, Jr. (Indianapolis: The Bobbs-Merrill, Company, Inc., 1975), pp. 188 - 208.

[13] Peter van Inwagen (1942-) Giáo sư triết đại học Notre Dame (US). Ông nghiên cứu về Siêu hình, Triết lý luận lý, Triết ly thần học, và lý thuyết bảo vệ Kitô (Christian apologetics) - (CTND)

[14] Giải pháp của ông có thể xem như một biến thái thứ tư của lý thuyết Thiên đường, hoặc khác hơn, như một giải thích không chính thống của biến thái thứ ba.

[15] Peter Van Inwagen, "The Possibility of Resurrection," Philosophy of Religion, ed. Louis Pojman (Wadsworth Pub. 1994), pp. 389-92.

[16] Tuy nhiên, với vũ trụ quá bao la, thất bại đi tìm một tinh cầu như thế không nghiêng về phủ nhận hiện hữu của nó. Lý thuyết mà nói, giả thuyết “ Có một hành tinh nơi ấy Gót bảo trì các xác người đã chết từ địa cầu” là một mệnh đề phi hạn-chế về hiện hữu, và bằng chứng quan sát không chứng minh nó sai.

[17] Ibid., p. 392.

[18] Theodore Michael Drange (1934—) Triết gia về tôn giáo hoc, giáo sư đại học West Virginia University. Là người vô thần, ông có tác phẩm nổi tiếng Nonbelief and Evil: Two Arguments for the Nonexistence of God (1998) - (CTND)

[19] Xem Theodore Drange, "The Argument From Nonbelief," Religious Studies, 29, 1993, pp. 417-432, và "The Arguments From Evil and Nonbelief," 1996,

http://www.infidels.org/library/modern/theodore_drange/aeanb.html

[20] Tác giả muốn nói – nếu Gót đưa ra hai năm rõ mười bằng chứng là có Gót đâu đấy, người ta sẽ không còn dám có ý chí tự do nữa - nói theo triết học, sự hiển nhiên về sự hiện hữu của Gót tỉ lệ nghịch với ý chí tự do con người, vả lại phải “mập mờ ẩn hiện” như vậy để thử thách lòng tin con người, nếu không thì còn gì nữa mà phải dựng nên các tổ chức đông đảo, hùng hậu, đa dạng, khắp nơi,.. để rao giảng, hết chuyện! - (CTND)

[21] John Mackie (CTND)

[22] Xem thêm các bàn luận về những vấn đề này trong - Michael Martin, Atheism: A Philosophical Justification (Temple University Press, 1990), Chapter 15

[23] Xem Michael Martin, The Case Against Christianity (Temple University Press, 1991).

[24] Xem The Case Against Christianity, Chapter 6.

[25] Tôi viết "có lẽ" bởi vì câu hỏi về công bằng cũng còn có thể nêu lên với thuyết phổ quát nữa: Có công bằng không nếu tất cả mọi người đều được cứu rỗi, mặc dù có kẻ đã sống tàn ác không thể tưởng được, trong khi có những người khác lại sống hoàn toàn một đời thánh thiện tuyệt vời?

RẬN CHỦ HỘI THẢO.

Boong



Tại nhà thờ Thái Bò-Hà Nội ngày, tháng, năm. Đã tổ chức cuộc hội thảo về chủ đề: NHỤC ÍT HAY NHỤC NHIỀU? Thành phần gồm có ba nhóm Rận: Nhóm đại diện cho rận Chúa, nhóm rận nội và nhóm rận ngoại; Mỗi nhóm đại diện cho từng vùng khác nhau.

Nhóm thứ nhất ở vùng 2 quả đồi to đùng, nhóm thứ hai ở vùng có một rừng cây rậm rạp, rậm rạp đến nỗi ai vào thì khỏi tìm thấy đường ra, Nhóm thứ ba ở vùng có một cái hang sâu hoắm, nói thật có anh nào chót rơi vào thì khỏi phải tìm đường về với vợ nuôn…ba nhóm rận có một thói quen là cuối tuần bao giờ cũng hội họp, trà đá thuốc lá, kể chuyện hàn huyên, bô lô ba la . Hôm nay chúng lại hội thảo:

- Hôm qua (đại diện nhóm thứ nhất kể), chỗ tao chả hiểu sao, đồi núi rung chuyển, 2 quả đồi chỗ tao, bình thường cứng cáp trơ trơ là thế, thế quái nào mà tối qua cứ trồi lên, thụt xuống, vặn bên nọ, vẹo bên kia, nhóm tao bị trượt dốc mấy phát, tí chết, hết cả hồn!!

- Thế đã là gì (đại diện nhóm thứ hai tiếp), miẹ, trong rừng chỗ nhómtao đêm qua mới thảm, tao nghĩ chắc phải bão cấp 12, thôi thì cây cối cứ gọi là rạp cả xuống, vật bên này, vã bên kia, thỉnh thoảng, chúng tao thấy hàng chục cây như bị ai túm kéo lên ầm ầm, chỉ sợ bị nhổ cả gốc, tao tưởng hôm nay không ngồi được ở đây mà tán phét với bọn mày ấy chứ

- Tao mới nhục (đại diện nhóm thứ ba), đang đêm ngủ ngon, thế đếk nào có một con khủng long to tướng, đầu trọc lốc thò cổ vào, thấy chúng tao, nó chả chào hỏi gì cả, nhổ bãi nước bọt to tướng rồi biến thẳng.

Đại diện cho đám hội thảo rận Nguyễn Quang À tổng kết: NHỤC THÌ CÓ NHỤC-NHƯNG ĐÃ LÀ THÂN RẬN THÌ BIẾT RÚC Ở ĐÂU, CHÚNG TA ĐÀNH PHẢI CHẤP NHẬN VẬY XÔI!
Mọi nhóm rận đều cảm thấy hài lòng với câu kết luận đó VÀ CUỘC HỘI THẢO ĐÃ THÀNH CÔNG TỐT ĐẸP.

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

NHẬT KÍ TÌM HIỂU THỰC TRẠNG ĐỘC THÂN CỦA NHÂN VẬT LỊCH SỬ HỒ CHÍ MINH




Trần Xuân An



► Đánh giá một con người, căn cứ vào mức độ cống hiến của người ấy cho dân tộc và nhân loại, chứ không phải căn cứ vào sự bình thường hay không bình thường của bộ phận nào đó trong cơ thể. Người xưa thường nói "nhân bất thập toàn". Nhưng điểm tật về chức năng một bộ phận cơ thể của nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh và anh chị ruột của Người chỉ minh định thể trạng hiền nhân thuần khiết bẩm sinh của họ, như nhân dân Nam Đàn, Nghệ An ca ngợi: "Nam Đàn sinh Thánh". Hồ Chí Minh là thánh nhân cần thiết phải xuất hiện trong tình hình đấu tranh cận - hiện đại, đặc biệt là đấu tranh về tôn giáo, ý thức hệ, trước các thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ ngày càng tinh vi, thâm độc.

Bài viết này góp phần vào việc phê bình trong tinh thần dân chủ đối với cuốn "Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh" và phê phán tiểu thuyết "Đỉnh cao chói lọi" của nhà văn sa-đích Dương Thu Hương.

► Trong bài viết, khi phân tích tư liệu sấm kí "Nam Đàn sinh Thánh", tôi có đề cập đến giai đoạn lịch sử từ khoảng cuối thế kỉ mười bảy (XVII) đến khoảng cuối thế kỉ mười chín (XIX). Trong quãng thời gian lịch sử này, công lao của các chúa Nguyễn và những thành tựu nội trị, phương cách đối phó trước thách đố do tình thế chung của vương triều Nguyễn vẫn được khẳng định, đề cao, mặc dù tôi không viết thành câu chữ (bởi đã viết nhiều lần ở những bài khác, sách khác). Nhưng cũng không phải công lao, thành tựu và phương cách đối phó cùng tư thế đứng trước thách đố của thời thế ấy không ở trong bối cảnh "Đàng Trong - Đàng Ngoài" tại nước ta, và càng không phải ở ngoài toàn cảnh thế giới trước hiểm họa "truyền đạo" đi đôi với "tìm đất" của thực dân Phương Tây, Âu Mỹ...




1.

Nhật kí ngày 12-01 HB9 (2009)
Cuộc sống độc thân trọn đời của nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh, từ mấy mươi năm trước, không một ai trên đất nước Việt Nam không biết. Cũng như vậy, nhiều người trên thế giới đã biết đến, như lâu nay chúng ta từng tiếp xúc với nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn. Và lòng ngưỡng mộ trong nước, ngoài nước về Hồ Chí Minh không vì thế mà suy giảm hay tăng lên. Nhưng trong thời gian gần đây, nhất là khi cuốn “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” tung ra trên mạng toàn cầu, kế đến là xuất hiện tiểu thuyết “Đỉnh cao chói lọi” của Dương Thu Hương với bản điện tử và bản in giấy, vấn đề trở nên ồn ào đáng lưu ý.

Tôi không muốn viết một điều gì về sử học, về người thật, việc thật, nếu không có đầy đủ tư liệu gốc, tư liệu khả tín trong tay. Những trang viết suy diễn, dựa vào những gì “nghe nói”, nghe kể”, chỉ tổ làm mất uy tín của người cầm bút mà thôi.

Trước đây, tôi đã từng đọc và suy ngẫm nhiều về một khổ thơ của Nguyễn Đình Thi, vốn được ông viết từ 1950, trước chiến thắng Điện Biên Phủ, và đã tái bản nhiều lần:

“Nơi đây sống một người tóc bạc

Người không con mà có triệu con

Nhân dân ta gọi Người là Bác

Cả đời Người là của nước non”

(“Quê hương Việt Bắc” - 1950)

Gần đây, tôi cũng tìm được trên một trang thông tin điện tử văn bản lá thư Hồ Chí Minh gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng, bộ trưởng Bộ Thương binh – Cựu binh (từ 1947 đến 1959). Xin lưu ý rằng, đây là lá thư gửi cho một bác sĩ y khoa, tín đồ Thiên Chúa giáo, nguyên giám đốc Nha Y tế Bắc Bộ trước 1945 (lưu dung). Văn bản này chắc vẫn còn đươc lưu trữ; và hiện nay, hẳn rất thuận lợi để giám định khoa học thực nghiệm lá thư ấy (bản thủ bút). Nó là một văn bản thuộc loại tư liệu gốc, có giá trị khả tín cao nhất, chỉ sau những hồ sơ theo dõi sức khỏe của Hồ Chí Minh. Nhưng rất đáng tiếc là tôi chỉ được biết qua bản sao nguyên văn (1) hoặc lời dẫn như sau:

“Cuộc đời Bác còn có gì đặc biệt? Trong thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng, Bác đã tự nhận là người không có gia đình và không có con nhưng “gia đình tôi là Việt Nam, con cái tôi là các thanh niên Việt Nam”” (1).

Những thông tin đó không có gì mới. Như đã nói, toàn dân và thế giới đều biết. Vấn đề là từ chỗ chúng ta hoàn toàn tin tưởng, nay bỗng thấy nên kiểm tra lại sự tin tưởng của chúng ta, trước những cuốn sách chứa đựng những điều trái ngược, mặc dù chúng cũng cũ mèm nhưng gây nhiều chấn động bởi phương tiện truyền thông hiện đại.

Tôi lại tiếp tục tìm kiếm, và tìm thấy những bài sấm kí quá quen thuộc, đã khắc vào trí nhớ tôi từ gần 30 năm trước, hồi tôi còn dạy học ở một vùng rừng khai hoang. Chúng thuộc loại tư liệu dân gian, sấm kí (không thuộc loại sử liệu có giá trị khả tín cao) rất phổ biến ở Nghệ An và trên toàn quốc:

“Đụn Sơn phân giái (:giới)

Bò Đái thất thanh

Thủy đáo Lam Thành

Nam Đàn sinh (:sanh) Thánh”


(dịch nghĩa:

Núi Đụn nứt hai [: chia ranh giới]

Bò Đái mất tiếng

Nước lụt đến Lam Thành

Nam Đàn sinh ra thánh nhân).

Thử tìm hiểu lại bài sấm kí này, trước hết, về hiện tượng thiên nhiên được miêu tả.

Theo báo điện tử Vĩnh Phúc (bài của Mai Hiên): “Núi Đụn chính là núi Hùng Sơn ở phía tây huyện Nam Đàn. Năm 722, Mai Thúc Loan (tức là vua Mai Hắc Đế) xây dựng kho quân lương ở trên núi để chống giặc Đường nên gọi là Núi Đụn. Khe Bò Đái (tên gọi trong dân gian) chảy từ vách đá dựng đứng ở Rú Kia (còn gọi là Cơ Sơn), nước chảy ồ ồ và tung bọt trắng xóa. Trong một trận động đất, núi Đụn bị phân đôi, khe Bò Đái cũng bị rạn nứt, nước chảy nhưng bị thẩm thấu lan toả nhiều vào lòng đất đá nên không phát ra tiếng ồ ồ như trước” (2).





Xem bản đồ và thông tin ở cuối bài


Bây giờ, chúng ta thử ngẫm nghĩ các từ ngữ, hình ảnh.

“Phân giái” còn có dị âm là phân giới và ở một dị bản là phân giải. Chữ giớicó âm khác là giái, giái hợp vần với chữ đái ở câu dưới hơn. Còn “phân giải”, nghĩa đen là tách ra, tan rã, nhưng trong Hán văn cũng như trong tiếng Việt đều dùng với nghĩa là phân trần, giải thích, hòa giải; riêng trong ngành hóa học, dùng với nghĩa phân tích, hóa phân (3). “Thất thanh” (trong tiếng Việt) còn có nghĩa là tiếng kêu thảng thốt, kinh ngạc, đến mức kêu không thành tiếng, như trước một trận động đất dữ dội chẳng hạn.

Lam Thành là tên khác của núi Hùng Sơn. Nhiều dị bản không có câu thứ 3 này, nhưng theo tôi, câu thứ 3 này vừa hợp với thể thơ (4 câu), vừa miêu tả thêm về lưu lượng và dung lượng của nguồn nước lũ lụt phi thường.

Hình ảnh thơ nổi bật và tạo ngay ấn tượng cho người đọc là các biểu tượng âm dương (sông núi); dùng hình tượng núi non, suối khe để miêu tả sinh thực khí (linh vật linga, yoni; nõn [nõ], nường) của trời đất.

Địa danh “Bò Đái” (chữ Nôm) lại là cách so sánh ngầm (ẩn dụ) có tính cụ tượng, trực quan sinh động. Trong ngữ cảnh này, người đọc nhận ra hình tượng Bò thần Nandin [Nandi], biểu tượng của thần Hủy diệt và Sáng tạo Shiva (Isana): quyền lực và sinh nở, trong tôn giáo Bà La Môn (tiền thân của tôn giáo Hindu [Ấn Độ giáo]).

Cả cụm hình tượng ở 3 câu 1, 2 và 3 vừa thể hiện sự thiêng liêng (thánh hóa) vừa cho người đọc cảm nhận trần tục (thậm chí vật hóa), để đi đến câu kết (câu 4), thể hiện hiện tượng siêu phàm: “Nam Đàn sinh Thánh” — thánh nhân thường được hiểu là thuần khiết tuyệt đối (không vợ không chồng). Đây là một cách tôn vinh theo phong cách sấm kí, ngôn ngữ dân dã.

Nếu không chấp nhận cách giải mã nghệ thuật này, sẽ không hiểu vì sao lại sử dụng địa danh “Bò Đái” trong khi nó có tên khác trang nhã hơn: Vũ Nguyên; và cả câu 2 có thể là: “Nguồn Vũ” thất thanh hay Vũ bộc thất thanh.

Thử đọc cả câu 1, câu 2 theo cách đó:

“Hùng Sơn [Hùng Lĩnh?] phân cốc,

Vũ bộc thất thanh”

(Núi Hùng chia hang,

Thác Vũ mất tiếng).

“Bò Đái” rõ ràng có chức năng nghê thuật là một nhãn từ (nhãn tự: chữ mắt)! Xin nhớ là “Đại Nam nhất thống chí” đã ghi rõ là suối Vũ Nguyên còn có tên thường gọi là khe Bò Đái, và nguyên văn trong sách: “Ngạn ngữ có câu: “Bò Đái thất thanh’” (4). Đó là một câu không phải thuộc loại đã bị thay đổi, sửa chữa.

Ngoài ra, việc không dùng địa danh Hùng Sơn (hay Hùng Lĩnh?) mà dùng địa danh núi Đụn (đụn thóc, gạo…: quân lương thời Mai Hắc Đế [gốc Chăm?]), trong ngữ cảnh nhất định này, còn gợi cho người đọc ý niệm ước muốn phồn thực, với nghĩa cụ thể là thực phẩm dồi dào (không chỉ sinh con đẻ cháu đông đúc mà còn no ấm).

Thánh nhân (thuần khiết) ra đời từ ước vọng ấm no, hạnh phúc, sum vầy. Phải là bậc thánh nhân (thuần khiết) như thế mới cứu được đất nước, lo được cho nhân dân như ước vọng ấy. Phải chăng đó là ý tưởng xuyên suốt và bao trùm bài tứ tuyệt tứ ngôn sấm kí dân dã trên (vốn xuất hiện vài ba trăm năm trước đây)?

Là con người, cho dù là Phật, Chúa, Tiên, Thánh, tất cả đều được sinh ra từ sinh thực khí (linga [nõn / nõ] - yoni [nường], riêng yoni [nường] bao gồm cả hai bầu sữa của người mẹ). Vì vậy, khi thánh thiêng hóa, vật thiêng hóa sinh thực khí, đồng nhất hóa sinh thực khí với núi non, sông suối quê hương, là đã tôn vinh, tôn vinh trong niềm ước vọng, về một Thánh nhân sẽ ra đời, cứu dân, cứu nước hay tế độ chúng sinh.

Điểm cuối, xin minh định rằng, nguyên văn bài sấm kí dân dã trên đúng y như thế. Chính vì sững sờ bởi địa danh “Bò Đái”, được dùng như nhãn từ, nên tôi thử đưa ra một cách giải mã dựa trên tín ngưỡng tôn thờ sinh thực khí thánh thiêng hóa của người Chăm (theo đạo Bà La Môn [Hindu, Ấn Độ]) và ở nhiều vùng khác tại Bắc Bộ, Trung Bộ nước ta (hiện vẫn còn tín ngưỡng nõn nường thánh thiêng hóa hoặc đang ảnh hưởng như một nếp văn hóa vô thức). Đây chỉ là một cách giải mã thử nghiệm, nếu có gì sơ suất, xin niệm tình lượng thứ.

Tôi thấy mình nên ngừng lại, nhưng rồi không thể không tìm hiểu thêm.

Cũng từ báo điện tử Vĩnh Phúc: “Theo thuyết phong thuỷ trong dân gian ở vùng Nam Đàn vẫn truyền tụng câu: “Bạch tượng uyển hồ, Hồ trung nhất huyệt, nhất đại đế vương” (nghĩa là ở trên con voi trắng trong xứ Ao Hồ có một huyệt đạo, phát làm vua một đời)” (2).

Liệu tác giả Mai Hiên viết và chép đã đúng chưa? Tôi giở sách để tra cứu.

Theo “Đại Nam nhất thống chí” (tập 2, sđd.), ở Nghệ An có một gò đất gọi là Gò Hồ. Phải chăng Uyển Hồ chính là Gò Hồ này? Uyển, theo chữ Hán, là khu vườn hoặc là nơi có cây cối xanh tốt; “Uyển Hồ” là địa danh theo kết cấu tiếng Việt, như Thành Vinh, Thành Hà Nội, Thành Huế? Vì không có bản chữ Hán trên tay để mở từ điển tra lại mặt chữ, tôi nghĩ, chắc hẳn không phải “uyển”, mà là “uyên”: vực sâu; Uyên Hồ (kết cấu theo Hán ngữ): xứ Hồ có vực sâu (vì bài báo vừa dẫn đã đưa ra câu dịch nghĩa, trong đó có địa danh là Ao Hồ)? Nhưng chắc chắn hơn, “bạch tượng uyển hồ” (con voi trắng – hồ nước ở khu đất tươi tốt) chỉ là tên gọi một dạng thế đất tốt để làm huyệt mộ, theo thuật địa lí - phong thủy?

Nhưng điều cần chú ý hơn là câu cuối: “Nhất đại đế vương”. Theo ngữ nghĩa, câu nói theo thuyết phong thủy này không nhằm nói đến chế độ dân chủ. Chế độ dân chủ không theo lệ phong kiến cha truyền, con nối. Chắc hẳn câu sấm chỉ nói đến vị thánh thuần khiết (không vợ con) của Nam Đàn: Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Quay lại với bài sấm, như bài báo “Lời sấm đất Nam Đàn” trên Trang thông tin huyện Nam Đàn, Nghệ An (5), câu thứ 4 của bài sấm vừa được đề cập ở phần trên là “Song Ngư thủy biển (:thiển)”, về sau được các nhà nho cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX sửa lại là “Nam Đàn sinh Thánh”.

Theo đó, chúng ta có thể thấy rằng, cả bài sấm đã được phân tích ở trên và câu nói theo thuyết phong thủy vừa bàn đến, đều nhắm đến Nguyễn Ái Quốc (chủ tịch Hồ Chí Minh về sau). Ngay Phan Bội Châu cũng nghĩ như vậy.

Thực ra, tôi không bao giờ mê tín vào loại sấm kí, phong thủy ở góc độ huyền bí. Nếu thuật phong thủy vẫn còn có giá trị là ở phương diện thẩm mĩ, nó có thể giúp ta chọn được cuộc đất đẹp, thì sấm kí còn có giá trị chăng là ở chỗ phán đoán được xu thế thời đại, gồm xu thế chính trị, kinh tế, quân sự, mà thường một người ưu thời mẫn thế có thể tổng hợp thông tin, đưa ra lời ước đoán khá chính xác (tuyệt nhiên không có chút nào huyền bí trong đó). Trong trường hợp bài sấm cũng như câu nói theo thuyết phong thủy trên, chúng ta còn rút ra được một lượng thông tin là sự ghi nhận thực tại nhãn tiền chứa đựng trong chúng nữa. Nói giản đơn hơn, người ta thấy Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thuần khiết (không vợ không con) nên người ta sửa chữa sấm kí, câu nói theo thuyết phong thủy lại cho phù hợp. Thế thôi. Ngoài ra, cũng có người dựa vào sự đồng âm Hán – Việt, cho rằng sau khi ông Nguyễn Sinh Khiêm cải táng di cốt mẹ là bà Hoàng Thị Loan ở xứ Gò Hồ này, nên Nguyễn Ái Quốc (già Thu) lấy họ Hồ; còn tên ghép Chí Minh là để nhớ ơn Hầu Chí Minh, khi bị giam tù tại Trung Quốc (1942-1943); nhưng có thể đây chỉ là sự suy diễn hoặc ngẫu nhiên, tuy hợp lí hơn giả thuyết nguyên gốc họ Hồ làng Quỳnh Đôi trong tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng.

Ở đề mục này, tôi muốn khai thác bài sấm kí và câu nói theo thuyết phong thủy trên về phương diện ghi nhận sự thật về Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh theo cách sửa chữa câu chữ cho phù hợp như vừa trình bày.

Rốt lại, với tư liệu thuộc loại cần tra cứu kĩ, vốn có trong trí nhớ và trên mạng toàn cầu, đáng tin cậy nhất vẫn là hai tư liệu dưới đây:

1) Tư liệu gốc: Thư Hồ Chí Minh gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng (1). Cần tìm ra bản gốc ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam và tiến hành giám định thực nghiệm văn bản này.

2) Tư liệu thứ cấp: Khổ thơ Nguyễn Đình Thi, viết năm 1950, đã xuất bản và tái bản nhiều lần.

Tìm hiểu (không thể nói là nghiên cứu) với những tư liệu như vậy, thật không yên tâm chút nào. Thế mà có người dám viết bừa đến mấy trăm trang sách, không viện dẫn được một nguồn tư liệu nào! Thật đáng sợ.



Nhật kí ngày 10-02 HB9 (2009):

Sau Tết Nguyên đán vừa rồi, nhân đọc một mẩu tin về Lễ hội Vua đen Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan), tôi lại giở sách để suy ngẫm thêm và suy ngẫm trên cơ sở tư liệu chứ không phải suy diễn kiểu bá vơ như Dương Thu Hương hay ghi chép sơ khởi những “nghe nói”, “nghe kể” của GS. Nguyễn Đăng Mạnh.

“Đại Việt sử kí toàn thư” ghi:

“Nhâm tuất, [722], (Đường, Huyền Tông, Long Cơ, Khai Nguyên năm thứ 10). [...] Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là 30 vạn” (6).

“Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn ghi nhận:

“Đền Mai Hắc đế: ở địa phận xã Hương Lãm, huyện Nam Đường. Thần họ Mai, tên Thúc Loan, mặt sắt, mình đen, hình dáng hùng vĩ, nhiều người tin tưởng vui theo. Bấy giờ nước ta thuộc nhà Đường, khoảng niên hiệu Khai Nguyên, Quang Sở Khách làm đô hộ An Nam, chính lệnh tham bạo, dân không chịu nổi, nhiều người phải trốn vào rừng làm việc trộm cướp. Thúc Loan bèn dấy quân ở Hoan Châu, những người trộm cướp ở các quận đều hàng phục, bèn liên kết với các nước Lâm Ấp và Chân Lạp, số quân có đến 30 vạn, chiếm cứ Giao Châu mà xưng đế, đóng ở thành Vạn Yên (Sa Nam). Nhà Đường sai nội thị là Dương Tư Húc đem quân sang đánh, vua bèn rút quân đến đóng ở núi Hùng Sơn. Khi mất, táng ở phía nam núi đất, người địa phương lập đền thờ” (7).

Một lần nữa, tôi thử tìm kiếm trên mạng toàn cầu qua Google:

Đây rồi, báo điện tử Sài Gòn Giải Phóng: Người đọc Lương Thị Thu Cúc (Bình Định) đặt câu hỏi (trích): “Tại sao có các địa danh nôm na như: khe Bò Đái?”.

Nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa trả lời: “Một trong những đặc điểm của các địa danh do người bình dân đặt là tính nguyên sơ, dân dã.

[…]

Còn Bò Đái là tên khe núi tại huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, được ghi nhận trong Sổ tay địa danh Việt Nam của Đinh Xuân Vịnh (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Bò Đái là một địa danh thuần Việt nhưng gốc Tày, Nùng, nguyên dạng là Bó Đảy. Bó: nguồn nước, Đảy: nứa tép. Bó Đảy là nguồn nước có nhiều cây nứa tép (Hoàng Văn Ma, Địa danh vùng Tày Nùng trong Những vấn đề ngôn ngữ học, Viện Ngôn ngữ học xuất bản, 2002, tr.202-213).

Như vậy, vì Bó Đảy gần âm với Bò Đái, người Kinh đã dùng từ tổ có sẵn trong tiếng Việt để phiên âm” (8).

Tôi không đồng ý với nội dung trả lời này.

Địa danh phần lớn đều có dấu vết văn hóa, gồm cả văn hóa vô thức. Cũng cần lưu ý là có nhiều nền văn hóa, nguồn văn hóa đan xen, chồng lớp lên nhau (Việt cổ – Tày Nùng – Chăm – Kh’Mer…). Cơ sở cổ sử thời Vua đen Mai Hắc Đế cho thấy là vùng đất Nam Đàn (Nghệ An) có sự giao lưu văn hóa giữa Việt cổ và Lâm Ấp (Chăm-pa), Chân Lạp (Kh’Mer).

Dẫu sao, sự ổn định lâu đời của địa danh Bò Đái, không những trên cửa miệng người dân mà cả trong sử sách, cũng là sự lựa chọn của người Việt địa phương.

Phải chăng sự lựa chọn này cũng do văn hóa vô thức (nõn nường, linga - yoni, Shiva – Bò thần Nandin) chi phối? Hoặc giả, nguyên do trực tiếp chỉ là ấn tượng trực quan sinh động của khe nước chảy mạnh từ vách núi, trông như con bò đang đứng đái mà thôi, chứ chẳng phải có nguồn gốc địa danh Tày Nùng gì cả.

Vấn đề là ngữ nghĩa của địa danh thuần Việt Bò Đái và hình tượng so sánh con bò đang đứng đái, trong một bài sấm kí nghiêm túc, nói về sự đản sanh của một vị thánh. Thật sự không ai dám đùa bỡn với sự đản sanh đó. Đành rằng có một số địa danh có thể được đặt ra với sự tinh nghịch dân dã, nhưng khi đưa vào bài sấm kí nghiêm túc mà không dùng tên chữ “Vũ Nguyên” (Nguồn Vũ), lại dùng “Bò Đái”, hẳn có một dụng ý nhất định.

Nội dung cả bài sấm kí 4 câu là nói đến sự rung chuyển long trời lở đất của thế cuộc, là cơn trở dạ dữ dội của non sông đất nước Nam Đàn và của nguyên khí âm - dương vũ trụ khi sinh nở ra vị thánh nhân. Toàn cảnh gợi đến Shiva (hiện thân là Bò thần Nandin), vị thần Hủy Diệt và Sáng Tạo.



Nhưng hiện tượng long trời lở đất, cơn trở dạ của non sông đất nước Nam Đàn và của nguyên khí âm – dương vũ trụ ấy đã diễn ra từ vài ba trăm năm trước ngày Nguyễn Sinh Cung (Hồ Chí Minh) được sinh ra đời vào năm 1890. Cuốn“Nghệ An ký” của Hoàng giáp Bùi Dương Lịch, người Hà Tĩnh, viết vào cuối thế kỷ 18 (5), sách “Đại Nam nhất thống chí” (4) và bài báo “Lời sấm đất Nam Đàn” trên Trang thông tin huyện Nam Đàn, Nghệ An (5) cho chúng ta biết điều đó. Nguyên văn từ bài báo: “Cách ngày nay khoảng trên dưới 300 năm, núi bỗng nhiên nứt ra làm đôi, vết nứt dài đến mấy trăm mét và sâu đến dăm, bảy chục mét” và “khe Bò Đái mất tiếng đã từ lâu, cách ngày nay ít nhất cũng trên 200 năm”. Bài báo “Lời sấm đất Nam Đàn”cho biết thêm: “Còn 2 câu sau “Thủy đáo Lam Thành, Song Ngư thủy thiển” thì cũng đã rõ. Vào thời Tự Đức, nước lũ sông Lam đã cuốn mất làng Triều Khẩu thuộc huyện Hưng Nguyên và nước sông Lam đã chảy đến chân núi Lam Thành (rú Thành), còn 2 đảo Ngư là hòn Son và hòn Mực ở Cửa Hội thì nước ở đây ngày một cạn dần, bãi bồi nổi lên trước ngày một lớn và rộng ra” (9).



Theo đó, người đọc chúng ta nhận thấy từ thời điểm hiện tượng long trời lở đất, cơn trở dạ của non sông đất nước và của nguyên khí âm – dương vũ trụ ấy đã diễn ra cho đến khi Nguyễn Sinh Cung chào đời cũng khoảng 200 năm (lúc núi Đụn nứt đôi), khoảng 100 năm (lúc khe Bò Đái tắt tiếng), khoảng 50 năm (trận bão lụt khủng khiếp). Đây là thời gian sấm kí, huyền thoại nhưng cũng là thời gian lịch sử. Nếu lấy 1890 trừ đi 200 hoặc 100 hoặc 50, chúng ta sẽ áng chừng được thời điểm diễn ra hiện tượng long trời lở đất của thế cuộc, cơn trở dạ của non sông đất nước, nguyên khí vũ trụ khởi đầu từ cuối thế kỉ mười bảy (XVII), cuối thế kỉ mười tám (XVIII) và giữa thế kỉ mười chín (XIX)…



Đó là các thời đoạn nào trong lịch sử nước ta và thế giới? Ở nước ta, ấy là thời đoạn diễn ra Trịnh – Nguyễn phân tranh và phong trào Tây Sơn, đồng thời cũng là quãng lịch sử Thiên Chúa giáo và thực dân Pháp thực sự can dự vào diễn biến cùng những biến cố trên đất nước, đặc biệt là sự phân liệt “lương – giáo”, mầm mống của vết thương Bến Hải chia cắt Tổ quốc về sau... Trên thế giới, phải chăng đó là thời đoạn chủ nghĩa thực dân Phương Tây đã và đang tiến hành “truyền đạo” kết hợp với “tìm đất” như nhận định của Trần Trọng Kim, tác giả “Việt Nam sử lược”.

Thời gian cưu mang, trở dạ rồi sinh nở ra một thánh nhân, theo sấm kí – huyền thoại – lịch sử là thế đó.

Bây giờ, chúng ta quay lại với hình tượng Shiva (hiện thân là Bò thần Nandin), vị thần Hủy Diệt và Sáng Tạo.

Vấn đề khốc liệt từ cách giải mã này là đưa đến sự mâu thuẫn văn hóa trong tiếp nhận của người đọc. Có biết bao nhiêu phong tục, tập quán, nếu người thuộc nền văn hóa X, không thể hiểu nổi văn hóa Z; và ngược lại. Nhưng nếu chúng ta thấy được linga - yoni, nõn - nường vốn là biểu tượng nguyên sơ, hồn nhiên tối cổ đã được biểu trưng hóa thành âm - dương (Kinh Dịch) rồi trừu tượng hóa thành quy luật mâu thuẫn - thống nhất (biện chứng pháp), sẽ hóa giải được sự xung khắc khốc liệt vừa nói, và tìm ra mẫu số chung của nhân loại. Mẫu số chung của nhân loại còn thể hiện ở tín ngưỡng vật tổ (totem): Bò thần (Ấn), Chó ngao (Anh), Gà trống (Pháp), Chim Lạc, Rồng - Tiên (Việt - Kinh)…

Nếu với nhãn quan văn hóa khác, chúng ta còn thấy trong thiền học cũng có những công án có cách diễn đạt phá chấp khốc liệt như vậy, chẳng hạn, khi được hỏi “Phật tính” là gì, câu trả lời là “càn thỉ quyết” (que cứt khô) (10).

Tuy vậy, tôi vẫn trích dẫn câu trả lời của nhà nghiên cứu Lê Trung Hoa trên báo điện tử SGGP. (30/08/2006) để tham khảo thêm, dè chừng sự giải mã khiên cưỡng bài sấm kí có địa danh ấy.

Nhân đây, cũng xin nói thêm ít dòng về “Nam Đàn sinh (sanh) Thánh”. Dẫu sao, bài sấm kí này cũng mang phong cách dân gian, xuất hiện và định hình trong bối cảnh tư tưởng tôn giáo, tín ngưỡng chiếm ưu thế.

Hồ Chí Minh (Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc) lại là một lãnh tụ cộng sản, cho dù là một lãnh tụ cộng sản Việt Nam, Châu Á, vốn xuất thân từ một gia đình Nho học (”kính quỷ thần nhi viễn chi”: tôn kính quỷ thần nhưng nên xa lánh quỷ thần). Là người cộng sản, Hồ Chí Minh dĩ nhiên phê phán “chủ nghĩa khổ hạnh kiểu thầy tu” (cụm từ như một thuật ngữ), mà đề cao lối sống bình thường, có vợ có chồng nhưng mẫu mực. Là người xuất thân từ gia đình nhà nho, chắc hẳn đối với Hồ Chí Minh việc có con nối dõi tông đường là không thể xem nhẹ (“bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”: tội bất hiếu có ba loại, mà không có con nối dõi là tội lớn nhất) (11). Truyền thống lịch sử Việt Nam cũng không có minh chủ, lãnh tụ nào không vợ con (ngoại trừ Phạm Sư Ôn, một tu sĩ Phật giáo thời cuối Trần, đầu Hồ). Nhiều lãnh tụ cộng sản khác cũng vào sinh ra tử nhưng đều lập gia đình riêng, mặc dù có thể thời gian sống với vợ con không nhiều. Chính Hồ Chí Minh cũng tự nhận khuyết điểm của mình là không lấy vợ (và khuyết điểm thứ hai là nghiện thuốc lá), có nghĩa là Hồ Chí Minh không bao giờ đề cao lối sống trọn đời độc thân. Khi xem việc không lấy vợ là khuyết điểm thứ nhất của đời mình, Hồ Chí Minh tự biết bản thân Người, riêng về khía cạnh này, không phải là điển hình lí tưởng (hình tượng chuẩn mẫu) theo nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa và Nho giáo.

Từ những chứng cứ đó, chúng ta nên hiểu thánh nhân ở bài sấm kí trên làthánh nhân bẩm sinh.

Cuối cùng, tôi tự tạm thời kết luận với một sự yên tâm đáng kể:

ANH HÙNG DÂN TỘC HỒ CHÍ MINHCÓ MỘT ĐỜI SỐNG RIÊNG TƯ GIẢN DỊ VỚI THỂ TRẠNG HIỀN NHÂN THUẦN KHIẾTBẨM SINH,KHÔNG THỂ NGHI NGỜ.

Đó là điều tôi muốn thể hiện ở những trang nhật kí này. Dẫu sao, đây chưa phải là một bài nghiên cứu như những bài thuộc thể loại này, tôi từng viết.



Trần Xuân An

15: — 16:31, 10-02 HB9



(Có sửa chữa một ít chữ, bổ sung vài dòng và viết thêm đoạn cuối, : 8:20 — 9:19& 15:40, 11-02 HB9; 8:10, 12-02 HB9; 8:46, 13-02 HB9 )

Viết nhân ngày Lễ hội Vua đen Mai Hắc Đế tại Nam Đàn, Nghệ An năm nay, Rằm tháng Giêng, Kỉ sửu HB9.

SÁU (06) CỨ LIỆU CHÍNH CỦA BÀI VIẾT NÀY:

1. "Tôi không có gia đình, cũng không có con cái"

2. "Người không con mà có triệu con"

3. "Nam Đàn sinh Thánh"

4. "Nhất đại đế vương"

5. Hồ Chí Minh thừa nhận việc không có vợ con là khuyết điểm thứ nhất của cuộc đời Người. Nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa và Nho giáo không đề cao "chủ nghĩa độc thân", "chủ nghĩa khổ hạnh kiểu thầy tu".

6. Anh chị ruột của Bác Hồ (bà Nguyễn Thị Thanh, ông Nguyễn Sinh Khiêm) cũng không có chồng, có vợ và con cháu ruột. Đó là sự thật tuyệt đối đến mức 100%.

TRONG ĐÓ, BỐN (04) CỨ LIỆU 1, 2, 5 & 6 LÀ CĂN BẢN



Chú thích:

(1) Nguyên văn lá thư được viết với ngôn từ ngoại giao, tôn giáo vận (gọi bác sĩ Vũ Đình Tụng bằng “ngài”…). Tôi nhấn mạnh câu cần lưu ý:

"Gửi bác sĩ Vũ Ðình Tụng,

Thưa ngài,

Tôi được báo cáo rằng: Con giai ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ Quốc.

Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.

Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ Quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam.

Họ là con thảo của Ðức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ Quốc. Những thanh niên đó là anh hùng dân tộc. Ðồng bào và Tổ Quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ.

Ngài đã đem món của quý báu nhất là con của mình, sẵn sàng hiến cho Tổ Quốc. Từ đây chắc ngài sẽ thêm ra sức giúp việc kháng chiến để bảo vệ nước nhà thì linh hồn cháu ở trên trời cũng bằng lòng và sung sướng.

Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn ngài, và gửi ngài lời chào thân ái và quyết thắng.

Tháng 1 năm 1947

Hồ Chí Minh

Nguồn: http://hodovietnam.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=474&Itemid=30
& các nguồn khác: Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Lãnh đạo – net, Tuổi Trẻ online…

http://fpe.hnue.edu.vn/index.php?Showpost=1190

http://lanhdao.net/vn/hautruong/chinhkhachvn/120707/index.aspx

(2) Nguồn: tác giả Mai Hiên, bài “Lịch sử và huyền thoại mộ bà Hoàng Thị Loan”, báo Vĩnh Phúc, 07:41:13, 15/05/2008.

http : // baovinhphuc . com . vn / front-end / index. Php ?type= ARTICLE & fuseaction = DISPLAY_ SINGLE_ ARTICLE & article_ id= 6790& website_id =1&channe l_id= 401 & parent_ channel _id= 412 & hide_ channel =0

Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, tập 2, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr. 156 và 158 xác định: núi Hùng Lĩnh chính là nơi có vệ Vạn An, còn dấu vết lũy cũ của Mai Hắc Đế và miếu thờ ông, và rào Gang (Găng?) được ghi là sông Cương; nên chắc chắn Hùng Lĩnh chính là núi Đụn. Cũng sách này, ghi rõ núi Hùng Sơn chính là núi Lam Thành hay còn có tên khác là núi Đồng Trụ, núi Tuyên Nghĩa, núi Nghĩa Liệt.

Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, tập 2, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr.157:

“Núi Đại Huệ: ở cách huyện Nam Đường [Nam Đàn – TXA. chua thêm] 54 dặm về phía đông, hình núi như quả chuông úp, trên đỉnh có động Thăng Thiên, trong động có chùa Đại Tuệ, bên tả có suối, bên hữu có giếng, sườn núi cây chè xanh tốt, hồ Nộn và sông Lam bao quanh, thuyền ghe xuôi ngược trong khoảng sáng sớm mù chiều, thật là một danh thắng trong tỉnh Nghệ An”.

Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, tập 2, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr.165-166:

“Gò Hồ: ở cách huyện Nam Đường [Nam Đàn – TXA. chua thêm] 56 dặm về phía đông, phía tây liền với các núi Kim Bồn và Xuân Lâm, phía nam liền với các núi Hùng Lĩnh [núi Đụn – TXA. chua thêm] và Vân Đồn, ngoài núi thì sông Lam làm hào tự nhiên; phía bắc liền với các núi Thanh Thủy, ngoài núi khe suối quanh co. Tấn quốc nhà Lê là Nguyễn Cảnh Hoan đóng quân ở đây để chống cự với tướng Mạc là Nguyễn Quyện, dấu vết lũy cũ vẫn còn.

Lưu ý 2 câu in đậm: "Núi Đại Huệ: ở cách huyện Nam Đường [Nam Đàn – TXA. chua thêm] 54 dặm về phía đông..." và “Gò Hồ: ở cách huyện Nam Đường [Nam Đàn – TXA. chua thêm] 56 dặm về phía đông...". Như vậy, Núi Đại Huệ và Gò Hồ rất gần nhau (cách nhau 02 dặm ta, tức là 425 m x 02 = 850 m, chưa tới một cây số ngàn [01 km]) hoặc cùng thuộc một vùng. Liệu núi Đại Huệ và Gò Hồ đều thuộc xứ Ao Hồ chăng?

(3) Đào Duy Anh, “Từ điển Hán - Việt”, Nxb. KHXH. tái bản, 2001, tr. 105.

(4) Quốc sử quán triều Nguyễn, ĐNNTC., tập 2, bản dịch Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr. 171: “Suối Vũ Nguyên: tuc gọi là khe Bò Đái, đổ xuống từ ngọn Cơ Sơn trong dãy núi Thiên Nhận [Nhẫn – TXA. chua thêm] thuộc huyện Thanh Chương, ở đây vách đá cheo leo hàng vài ba mươi trượng, rồi chảy vào sông Lam; dưới suối có vực; tiếng nước xối xuống nghe như tiếng sấm; ít lâu nay đất cát bồi lấp, vực thành bãi phẳng, không nghe tiếng suối nữa. Ngạn ngữ có câu:’Bò Đái thất thanh’ là thế”.

(5) Không thấy đề tên tác giả bài báo (Google search):

http://www.Namdan.gov.vn/Chiti%E1%BA%Bfttint%E1%BB%A9c/tabid/10852/ArticleId/406/tid/10841/Default.aspx

(6) Trích nguyên văn từ “Đại Việt sử kí toàn thư”, bản in nội các quan bản (1697), bản dịch (3 tập), tập 1, Nxb. Văn hoá – Thông tin, 2003., tr. 269 (NK. [ngoại kỉ], q. [quyển] V, [tờ] 4b.

(7) Trích nguyên văn: Quốc sử quán triều Nguyễn, “Đại Nam nhất thống chí”, tập 2, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 188 – 189.

(8) Nguồn: Sài Gòn Giải Phóng: Cập nhật ngày 30/08/2006 lúc 11:20′ (GMT+7).

http://www.sggp.org.vn/bandocdatcauhoi/2006/8/59058/

(9) Về câu sấm thứ 3, tham khảo thêm vào triều Thiệu Trị (chứ không phải triều Tự Đức): “Đại Nam thực lục”, kỉ III (Thiệu Trị), ghi nhận vào năm 1842: “Nghệ An có bão lớn (bão nổi từ canh 2 đêm, đến sáng rõ mới dứt). Nước biển dâng lên quá mức thường 13 - 14 thước [ta]. Có 40.753 hộ nhà cửa bị đổ nát, 696 chiếc thuyền buôn và thuyền đánh cá bị chìm đắm, 5.240 người dân bị chết bẹp hoặc chết đuối. Đặc biệt những dân ven biển ở các hạt Đông Thành, An Thành và Chân Lộc càng bị hại nhiều hơn (hạt An Thành có thôn hơn 300 người, chỉ còn sống hơn 10 người) (ĐNTL., kỉ III, tập sáu, bản dịch Viện Sử học, Nxb. Giáo Dục tái bản, 2007, tr. 397). Năm 1842 cũng là thời điểm thực dân Pháp bắt đầu gây hấn để thực hiện ý định xâm lược nước ta, mặc dù đến 1847 chúng mới nổ súng gây hấn, rồi 1858 mới thực sự đổ quân viễn chinh, tiến hành xâm lược.



(10) Vô vị chân nhân: càn thỉ quyết = Chân-nhân-không-ngôi-thứ (bổn lai diện mục, Phật tính) là que hay cọc còn dính phân khô. Đây là lời của thiền sư Lâm Tế, một trong các vị tổ của Thiền tông. Xem: Daisetz Teitaro Suzuki, "Thiền luận", Trúc Thiên dịch, 3 quyền, quyển thượng, Nxb. TP.HCM., 1992, tr. 24.



Đây chỉ là một cách nói trong các công án thiền, lúc thiền sư gợi ý, truy vấn cho các thiền sinh giác ngộ, theo tôn chỉ "trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật". Nếu ở bên ngoài văn cảnh và khung cảnh ấy, chắc hẳn là cách nói loạn ngôn, báng bổ. Nói chung, mỗi hình tượng, ngôn từ đều phải được hiểu trong một không-thời-gian và ngữ cảnh thuộc một văn bản cụ thể.



Trong tập thơ “Nhật ký trong tù”, Hồ Chí Minh cũng đã có lần gây “sốc” cho người đọc bằng thủ pháp nghệ thuật dung tục hóa: dung tục hóa khát vọng tự do, một giá trị thiêng liêng, cao quý nhất, để làm nổi rõ một mặt khác của tự do, ấy là tính cụ thể, bình thường, thậm chí là tầm thường, dơ bẩn nhưng vô cùng cần thiết: “đi đồng” (đi tiêu). Qua đó, Hồ Chí Minh cũng không tự thần thánh hóa mình:


Một hữu tự do, chân thống khổ

Xuất cung dã bị nhân chế tài

Khai lung chi thời đỗ bất thống

Đỗ thống chi thời lung bất khai

(Hạn chế)

Đau khổ chi bằng mất tự do

Đến buồn đi ỉa cũng không cho

Cửa tù khi mở không đau bụng

Đau bụng lại không mở cửa tù.

(Bị hạn chế -- Nam Trân dịch)

(11) Anh chị ruột của Bác Hồ (bà Nguyễn Thị Thanh, ông Nguyễn Sinh Khiêm) cũng không có chồng, có vợ và con cháu ruột. Đó là sự thật tuyệt đối đến mức 100%. Theo suy luận của tôi, chắc hẳn hai người này cũng là thánh nhân thuần khiết bẩm sinh. Đây là một chứng cứ bổ trợ để chứng minh cho thể trạng thánh nhân thuần khiết bẩm sinh của Bác Hồ. Ở đây, tôi cũng chỉ nhấn mạnh đến yếu tố gien thể chất, không đề cập đến tác nhân môi trường xã hội trong việc hình thành tính cách, tư tưởng.

TXA.







Phụ đính

MỘT ÍT THÔNG TIN ĐỂ XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ ĐỊA LÍ
CỦA NÚI ĐỤN, KHE BÒ ĐÁI & NÚI LAM THÀNH

(ĐỐI CHIẾU VỚI 3 BẢN ĐỒ)



“… Núi Đụn nằm trong phạm vi 2 xã Đông Liệt (nay là xã Nam Thái) và Khả Lãm (nay là xã Nam Thượng), ở phía tây – bắc huyện, cạnh đường quốc lộ 46 Vinh – Đô lương, cách huyện lỵ Nam Đàn khoảng 3 km. Núi cao khoảng 300m, sườn núi dốc thoai thoải, cây cối xưa kia nhiều, nay không còn mấy. Núi có rào Gang vòng ở phía Bắc và sông Lam vòng ở phía Nam…”.

“… Khe Bò Đái, còn gọi là khe Ồ Ồ, hay suối Võ Nguyên chảy từ vách đá dựng đứng ở rú Kia (Cơ Sơn) ở làng Chi Cơ (kẻ Kia) thuộc xã Võ Nguyên xuống trên một chiều dài vài chục trượng, rộng trên vài chục thước ta, nước chảy từ trên núi dốc xuống đất, tung tóe trắng xóa, trông giống con bò cái đang đái, tiếng khe chảy ồ ồ, ngoài mươi dặm còn nghe thấy. Ngày nay khe Bò Đái vẫn còn chảy, nhưng tiếng không còn vang vọng ra xa nữa; tiếng vang vọng mất đi từ khi núi Đụn nứt đôi, hình thành một cái vực thẳm ở giữa…”.

(“Lời sấm đất Nam Đàn”, Trang thông tin huyện Nam Đàn, Nghệ An)





Bản đồ huyện Nam Đàn, Nghệ An

Bấm vào đây: Núi Đụn & Khe Bò Đái (xã Nam Thái và xã Nam Thượng)

Ao Hồ:

Nguồn ảnh: Tuổi Trẻ trực tuyến

“… Trở về với Nam Đàn yêu thương, theo núi Đụn, dòng Lam, ta sẽ về với Nam Thượng, đây là một xã còn nhiều khó khăn vất vả của huyện Nam Đàn. Trước kia xã chia làm hai thôn, đó là thôn Chi Cơ có tên Nôm là Kẻ Kia thuộc xã Võ Nguyên (nay là HTX. Đại Đồng) với 340 hộ, 1800 khẩu và thôn Khả Lãmthuộc xã Hương Lãm, tổng Xuân Liễu (nay là HTX. Hùng Sơn) với số hộ là 145, 750 khẩu. Hai thôn ở ven bờ sông Lam, đối diện qua suối Vũ Nguyên, tục gọi là khe Bò Đái. Tuy đất không rộng, người không đông (cả xã có 535 hộ, 2600 nhân khẩu), mặc dù còn nhiều khó khăn song Nam Thượng luôn tự hào với truyền thống hiếu học, giàu nghĩa khí, trọng nghĩa nhân…”.

“… do dòng sông ngăn cách nên trường phải học ở hai phân hiệu Đại Đồng và Hùng Sơn…”.

(Đinh Xuân Khang
http://giaoan.violet.vn/uploads/resources/508/108448/preview. swf
Trích báo cáo truyền thống “Kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Trường PTCS.
Nam Thượng [9-1947 – 9-2007] và khánh thành trường cao tầng”)



Bản đồ huyện Hưng Nguyên, Nghệ An

Bấm vào đây: Núi Lam Thành (rú Thành) thuộc xã Hưng Lam và xã Hưng Phú

Nguồn ảnh: Du lịch đất Nghệ trực tuyến

Núi Lam Thành (còn gọi là núi Hùng Sơn, núi Nghĩa Liệt, Đồng Trụ Sơn) thuộc địa phận hai xã Hưng Phú và Hưng Lam (Hưng Nguyên, Nghệ An), nhân dân địa phương thường gọi rú Thành - là ngọn núi cao nằm sát bên bờ sông Lam. Trước đây trên núi có nhiều cây xanh, động thực vật sinh sống. Dưới chân núi là xóm làng trù phú, đồng ruộng màu mỡ. Tất cả hoà quyện vào nhau như một bức tranh thuỷ mặc.

(Linh Nga, “Di tích núi Lam Thành…”, Trang thông tin điện tử TP.Vinh, 22/11/2008

http://www.vinhcity.gov.vn/news/?url=detail&id=11267&language=1)



THAM KHẢO THÊM: XỨ AO HỒ [GÒ HỒ (?)]

"... Có một điều ngẫu nhiên đã diễn ra trong lịch sử là tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1942) khi hài cốt bà Hoàng Thị Loan được đưa lên cát táng trên núi Động Tranh thấp thuộc dãy núi Đại Huệ ở xã Hữu Biệt (nay là Nam Giang) huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, thì tháng 8 năm 1942, ông già Thu ở căn cứ cách mạng, tỉnh Cao Bằng lần đầu tiên lấy tên là Hồ Chí Minh rồi đi sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam và lực lượng của đồng minh. Và từ đó Hồ Chí Minh là biểu tượng vô cùng cao đẹp, là lãnh tụ tối cao và anh linh của dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất tổ quốc, xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, dân chủ, văn minh, cường thịnh...".

(Trần Minh Siêu, "Huyền thoại huyệt đạo bà Hoàng Thị Loan trên núi Động Tranh", (Chương II), Nhà xuất bản Nghệ An, 2003). Google search.

"... Tháng 8/1941, Nguyễn Sinh Khiêm thoát khỏi nhà tù đế quốc đã đi khắp các dãy núi thuộc hai huyện Nam Đàn, Hưng Nguyên tìm nơi cát táng mẹ. Cuối cùng ông quyết định chọn mỏm núi Động Tranh thấp là nơi hội tụ đủ các tiêu chí về linh địa làm huyệt đạo. Tháng 3/1942, ông dẫn hai người cháu thân tín lên sườn núi Động Tranh thấp đào 9 cái huyệt ở những nơi ông đã đánh dấu. Ông dặn là khi đào xuống gặp phải hòn đá lớn thì dừng lại. Một đêm khuya ông bí mật mang hài cốt mẹ từ vườn nhà làng Sen đếnĐộng Tranh thấp thắp hương khấn vái xin phép thổ thần xứ Ao Hồ rồi đặt hài cốt mẹ vào một cái huyệt và lấp lại. Sau đó ông tiếp tục lấp bằng phẳng số huyệt đã đào. Vì vậy mọi người, kể cả hai người cháu thân tín cũng không biết ông táng mẹ ở đâu...".

(Mai Hiên, bài đã dẫn, báo điện tử Vĩnh Phúc)



Vị trí huyện Nam Đàn: số 6, huyện Hưng Nguyên: số 7

Nguồn ảnh: Web Yeu-xu-nghe -- Google search

Lưu ý: Về địa danh và địa giới, qua nhiều thời kì, có ít nhiều thay đổi và không cố định. Dẫu sao những tư liệu về địa lí trên đây (chuẩn xác và chưa được chuẩn xác) cũng cho chúng ta một ý niệm tương đối để hình dung. BÀI VIẾT NÀY KHÔNG ĐI SÂU VÀO LĨNH VỰC ĐỊA LÍ.



TP.HCM., ngày 18 -- 25-02 HB9 ( 2009 )

--- Trần Xuân An.

25-02 HB9 ( 2009 )



------- Hết ------





Ngoài lề bài viết

(vì bài đã quá dài)

MỞ RỘNG THÊM Ở NGOÀI LỀ BÀI VIẾT (25 & 27-02 HB9 [ 2009 ]):

Lo ngại rằng, sẽ có một số độc giả bất bình, thậm chí phẫn nộ, do mâu thuẫn văn hóa trong tâm lí tiếp nhận, bởi tính chất khốc liệt trong việc giải mã nhãn từ “Bò Đái” (*), tôi bổ sung thêm một bài thơ của chính nhà thơ Hồ Chí Minh:

Trong tập thơ “Nhật ký trong tù”, Hồ Chí Minh cũng đã có lần gây “sốc” cho người đọc bằng thủ pháp nghệ thuật dung tục hóa: dung tục hóa khát vọng tự do, một giá trị thiêng liêng, cao quý nhất, để làm nổi rõ một mặt khác của tự do, ấy là tính cụ thể, bình thường, thậm chí là tầm thường, dơ bẩn nhưng vô cùng cần thiết: “đi đại tiện” (đi tiêu) ” 出 恭 ” (”đi rón rén”) [từ lệch nghĩa]. Qua đó, Hồ Chí Minh cũng không tự thần thánh hóa mình:
限 制
沒 有 自 由 真 痛 苦
出 恭 也 被 人 制 裁
開 籠 之 時 肚 不 痛
肚 痛 之 時 籠 不 開

(Tư liệu Hán – Nôm – Từ điển trực tuyến Việt – Hán – Nôm: NKTT., bài 116 http : // sager – pc . cs . nyu . edu / ~ huesoft / tulieu / ntnk . htm )

Hạn chế
Một hữu tự do, chân thống khổ
“Xuất cung” dã bị nhân chế tài
Khai lung chi thời đỗ bất thống
Đỗ thống chi thời lung bất khai


Bị giới hạn, ngăn cấm
Mất tự do vốn có, khổ đau thật sự
“Đi một cách cung kính” [:“đi rón rén”] mà cũng bị người ta ngăn cấm
Mở lồng [:lao tù], ấy lúc bụng không đau
Đau bụng, ấy khi lao tù không mở


(WebTgTXA. tạm dịch nghĩa)

Bị hạn chế
Đau khổ chi bằng mất tự do
Đến buồn đi ỉa cũng không cho
Cửa tù khi mở không đau bụng
Đau bụng lại không mở cửa tù.


(Nam Trân dịch vần)

Chắc chắn bản dịch của nhà thơ Nam Trân đã được chính tác giả Hồ Chí Minh đọc duyệt. Bản dịch này đã được đưa vào chương trình ngữ văn các trường phổ thông và đại học từ thuở sinh thời Bác Hồ đến nay.

Và không chỉ một lần, nhà thơ Hồ Chí Minh còn gây “sốc” ở một bài khác, khi Người sử dụng thủ pháp tả thực, tự nhiên chủ nghĩa kết hợp với biểu tượng hóa, có ý nghĩa khái quát cao: “Ngồi trên hố xí đợi ban mai” (“Xí khanh thượng toạ đãi triều [:triêu] lai” 廁 坑 上 坐 待 朝 來 “Ngồi trên hố xí đợi hừng đông đến” [bài 34: “Sơ đáo Thiên Bảo ngục”, nguồn bản chữ Hán: tlđd.; dịch vần: Nguyễn Huệ Chi]).

17:20, 25-02 HB9 & 26-02 HB9

(*) 27-02 HB9: Nhắc lại tổng thể hình tượng bài sấm kí: Nhãn từ chứa đựng ẩn dụ “Bò Đái” trong cụm hình tượng miêu tả những hiện tượng thiên nhiên dữ dội như động đất, núi Đụn nứt hai, suối thác Vũ Nguyên tắt tiếng, lũ lụt dâng lên đến rú Thành dẫn đến sự đản sanh thánh nhân trong bài sấm kí “Nam Đàn sanh Thánh”. Tổng thể cụm hình tượng khiến chúng ta không thể giải mã nếu không vận dụng hình tượng Thần Shiva (hiện thân là Bò thần Nandin). Đó là Vị Thần Hủy diệt và Sáng tạo, biểu tượng của Trời — Đất, nguyên khí vũ trụ âm [-] — dương [+]. Chính vị thần Shiva này đã đản sanh ra thánh nhân. Tôi không đồng nhất Thần Shiva với thánh nhân Hồ Chí Minh và anh chị ruột của Người.

Trong bài viết, tôi cũng đã xem những hiện tượng thiên nhiên dữ dội kể trên như các ẩn dụ về lịch sử.

Như vậy, bài sấm kí đã giải thích, tiên đoán về sự vận động, chuyển biến của địa lí và lịch sử bằng động lực siêu nhiên, thần bí và nhãn quan duy tâm, huyền học, tôn giáo Bà La Môn (tiền thân của Hindu).

Cố nhiên sấm kí không thuộc lĩnh vực nào khác ngoài huyền học!

Dẫu thế, trong bài viết, tôi cũng đã bày tỏ là không tin tưởng vào những yếu tố thần bí của sấm kí, mà chỉ thu nhặt lấy cái lõi ghi nhận hiện thực — lịch sử từ cuối thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX và Hồ Chí Minh (thánh nhân thuần khiết bẩm sinh) — chứa đựng trong chúng.

Bài sấm kí này cùng một câu theo thuyết phong thủy trong bài viết là hai tư liệu không căn bản, lại quá phức tạp, nhưng cũng khá cần thiết. Vì tính chất phức tạp của chúng, tôi phải phân tích, rút tỉa lượng thông tin, nên những câu chữ viết về chúng chiếm một tỉ lệ đáng kể. Do đó, nếu không lưu ý khi đọc (bảng liệt kê màu vàng), chúng ta sẽ dễ bị lệch trọng tâm chủ đề ▪



Trần Xuân An

Web chinh (main web):
http://tranxuanan.writer.googlepages.com
& Cac web khac (others):
http://www.tranxuanan-writer.blogspot.com
http://c.1asphost.com/TrXuanAn/web_index.htm
Email:
tranxuanan.writer@gmail.com
tranxuanan_vn@yahoo.com
Nha (house):
71B Pham Van Hai
Phuong 3, quan Tan Binh, TP.HCM.
Dien thoai (phone): (08) 3 8453955 & 0908 803 908