Thứ Tư, 15 tháng 10, 2014

Cái Dũng của Thánh Nhân Chương 5 Ảnh Hưởng Của Hoàn Cảnh





Thu Giang Nguyễn Duy Cần



A. Ảnh Hưởng Của Hoàn Cảnh

Bản tánh loài người, ham bắt chước cái chi mình tôn kính. Những điều tra mục đích chung quanh ta là những tấm gương khuyến lệ, kích thích lòng hâm mộ, phấn khởi của ta. Khi còn nhỏ, ta đi xem hát, thấy Quan Công đánh cờ, Hoa Đà múa tên... tôi hết sức cảm phục cái thái độ điềm tĩnh của Quan Công, đến lập nguyện trong tâm, về sau không chịu rên khóc khi phải bị vấp ngã hay thương tổn... Lớn lên, chung quanh tôi, trong phòng văn, thường hay treo những hình ảnh các bậc anh hùng dũng sĩ, những kẻ biết xem thường những náo động vô ích, những tình cảm nhỏ nhen của bản ngã.
Tạo cho mình một hoàn cảnh, một không khí đầy sức mạnh thiêng liêng, giúp cho mình rất nhiều trong bước đường đầu tiên trên con đường siêu thoát. Bởi vậy, hãy tránh xa những bạn ác, những kẻ nhút nhát, rụt rè, những kẻ háo thắng, nóng nảy, hay nói, khoe khoang; trái lại, tìm mà làm bạn hay gần gũi với những kẻ điềm đạm, quả quyết, cử chỉ thuần hậu, ôn hoà. Lâu ngày, gần mực đen gần đ èn sáng. Nhất định xa lánh những bạn ác, có tính vụt chạc, lẳng lơ, náo động nhất thời, lao chao liến khỉ. Nếu hoàn cảnh bắt buộc phải sống chung hay gần gũi với người ấy thì hãy xem họ như cái gương xấu phải giữ mình.

B. Tiết Điệu Điều Hòa

Trong xã hội văn minh này, người ta thường gọi "thời giờ là tiền bạc", đó là một trong nhiều nguyên nhân làm cho ta mất cả sự điềm tĩnh.
Khéo tiên liệu một cách chu đáo những công việc làm hằng ngày của ta, định cho mỗi công việc một thời giờ riêng và thi hành theo đó một cách quả quyết không sai chạy, ấy là những cử chỉ đầu tiên phải lo nghĩ hơn hết, nếu ta muốn sống trong một tiết điệu điều hoà...
Được vậy ta trừ được ba nguyên nhân của sự náo động vô ích.

1. Trễ nải, làm cho ta phải hấp tấp, hối hả, vụt chạc.
2. Quên, làm cho ta hối hận, bức rứt.
3. Áy náy vì phải bận nghĩ về những điều sẽ làm sau này...

Khéo tổ chức thời giờ làm việc như thế, đem lại rất nhiều cái hay cho sự điềm tĩnh của ta. Thật vậy, kẻ náo động nhất thời rất ghét sự kềm thúc ấy. Họ tưởng làm vậy là bị nô lệ trong thời giờ. Trái lại, làm thế là mình làm chủ lấy nó vì mình không để nó bắt chẹt mình được chút nào cả; mình không vì nó phải bị hối hả, mất cả sự điềm tĩnh trong cử chỉ, trong tư tưởng... Khéo tổ chức thời giờ, giúp ta làm việc được thư thả, có tiết điệu, có quy tắc, không phải có sự nhọc nhằn.
Không phải bảo ta làm một cái biểu dùng thời giờ làm việc trong một năm hay một tháng. Nếu vì công việc của mình bắt buộc mà không thể nhất định trước được trong một tuần, thì cũng ít ra, phải làm một cái biểu cho mỗi ngày. Trước khi đi ngủ, hoặc sáng sớm, lúc mới thức dậy, phải tiên liệu cho một chương trình làm việc trong ngày... Làm như thế, không phải là công việc dễ dàng gì, bởi nó sẽ gặp rất nhiều trở ngại đủ mọi phương diện, trong và ngoài: tâm tính lười biếng, cẩu thả của mình là một, sự quyến rũ cầu cạnh của kẻ khác quấy rối mình là hai... Bởi vậy, ta phải thận trọng nhắc nhở lấy mình và đem hết ý chí mà thừa hành chương trình của mình đã lập sẵn đó.
Bạn hãy thí nghiệm trong một tháng, sẽ thấy đời bạn có tiết điệu điều hoà, tâm tánh bạn có chiều thư thả hơn xưa rất nhiều vậy.

. Lo-gic là Nghiên Cứu về Tranh Luận





Lo-gic là nghiên cứu về tranh luận. Với cách dùng theo nghĩa này, từ này không có

nghĩa là cãi nhau (như khi chúng ta “vướng mắc vào một vụ cãi lộn”) mà là một phần của

lập luận theo đó một hay nhiều mệnh đề được đưa ra để hỗ trợ cho các mệnh đề khác.

Mệnh đề được hỗ trợ là kết luận của tranh luận. Những lập luận được đưa ra để hỗ trợ kết

luận được gọi là tiền đề. Chúng ta có thể nói rằng “Có cái này (kết luận) bởi vì có cái kia

(tiền đề)” hoặc “Đây là cái này (tiền đề) vì thế có cái kia (kết luận)”. Tiền đề nói chung

được đưa ra trước bằng những từ ngữ như là bởi vì, do, từ khi, trên cơ sở này, tương tự,

giống như là. Mặt khác, kết luận thường được đưa ra bằng những từ như vì lý do đó, từ lúc

này, kết quả là, nó phải theo là, theo cách đó, vì vậy, chúng ta có thể suy ra rằng, và chúng

ta có thể kết luận rằng.

Vì thế, bước đầu tiên để tiến tới thông hiểu về tranh luận là học phân biệt tiền đề và

kết luận. Để làm điều này, hãy tìm những từ chỉ dẫn, như chúng đã được nêu ra, và liệt kê.

Trong những tranh luận mà những từ chỉ dẫn chỉ như thế bị thiếu, hãy cố gắng tìm kết luận

bằng cách xem đâu là chủ đề của tranh luận: điều mà tranh luận đang cố gắng thiết lập. Đó

sẽ là kết luận của nó; phần có lại là những ý nền tảng để hỗ trợ hoặc là tiền đề .

Phân biệt kết luận với tiền đề trong hai lập luận dưới đây khá đơn giản. Trong

trường hợp thứ nhất, một trong những mệnh đề của nó được đưa ra bằng từ “bởi vì” (nó

cho chúng ta biết cái gì theo sau là tiền đề và phần còn lại chắc chắn là kết luận của nó).

Trong trường hợp thứ hai, một trong những mệnh đề của nó được giới thiệu bởi từ “vì lý do

này” (nó cho chúng ta biết cái gì theo sau là một kết luận và phần còn lại đương nhiên là

tiền đề của nó):

a. Jones sẽ không học tập tốt trong khoá học này bởi vì anh ấy có ít thời gian để

tập trung vào công việc trường lớp và hầu như không tham gia vào lớp học nào.

b. Cô ta xung khắc với hầu hết mọi người trong văn phòng, vì lý do này mà

dường như cô ta sẽ không được nâng đỡ để phát triển. Nature and Scope of Logic Vũ Thắng dịch

4

Tuy nhiên, trong hai ví dụ dưới đây lại không có những từ chỉ dẫn bổ ích:

c. Chẳng có con cáo nào ở vùng này. Cả ngày, chúng tôi chẳng nhìn thấy con

nào.

d. Tất cả những người Đảng bảo thủ phản đối việc xây dựng nhà công cộng.

Thượng nghị sĩ Smith phản đối việc này, ông ta nhất định phải là một người Đảng

bảo thủ.

Để phân biệt tiền để với kết luận của nó trong những trường hợp loại này phải tự

đặt ra các câu hỏi như: cái gì đang được tranh cãi và người ta đang cố gắng thuyết phục

chúng ta cái gì? Hoặc trong trường hợp tình huống (c), điều được tranh cãi không phải là

“cả ngày chúng tôi không nhìn thấy con cáo nào” -- bởi vì người khác đã chắc chắn biết

điều này và chẳng qua là nhắc lại nó mà thôi -- nhưng quan trọng hơn là với sự thật đã biết

đó, chắc chắn là không có con cáo nào trong khu vực này. Đấy chính là kết luận của tranh

luận.

Tương tự như với ví dụ (d), điều được tranh luận không phải là “tất cả người Đảng

Bảo thủ phản đối việc xây dựng nhà công cộng” -- đối với tranh luận này, những giả thiết

là những mệnh đề về thực tế được chia xẻ -- và quan trọng là với những thực tế đó, Smith

là một người của Đảng Bảo thủ.

Việc tìm ra kết luận của một tranh luận không được chỉ dẫn rõ ràng như trên không

phải luôn luôn dễ dàng và chắc chắn. Sự giúp đỡ tốt nhất của chúng ta là chú tâm cẩn thận

vào nội dung và lối diễn đạt của tranh luận và chỉ dẫn của những lập luận.

• Một tranh luận là một phần của việc lập luận mà trong đấy một hay nhiều mệnh

đề được đưa ra để hỗ trợ cho các mệnh đề khác.

• Một mệnh đề được hỗ trợ được gọi là kết luận của tranh luận; những lập luận

được đưa ra để hỗ trỡ được gọi là các tiền đề.

• Những từ chỉ dẫn như là từ đó, bởi vì, vì thông thường đưa ra những tiền đề;

những từ do đó, vì vậy, và kết quả là nói chung là đưa ra những kết luận.

• Trong những tranh luận thiếu những từ chỉ dẫn như vậy, hãy cố gắng tìm ra kết

luận bằng cách xác định chính xác quan điểm mà tranh luận đang cố gắng thiết

lập. Đó sẽ là kết luận, phần còn lại chính là nền tảng hỗ trợ hay là các tiền đề.

Trích "Với Lý Luận Giỏi 
Giới Thiệu Những 
Ngụy Biện Thông Thường"
Morris S. Engel

CHO EM ĐƯỢC QUYỀN LÀM NGƯỜI


*Bùi Công Thuấn


Chúng ta đang sống ở thời điểm 37 năm chiến tranh đã qua đi, quá khứ đã khép lại, tương lai đang mở ra để những ước mơ đang biến thành hiện thực. Thế nhưng nỗi đau vẫn cón đó. Bàn thờ vẫn nghi ngút khói hương tưởng nhớ những người đã hy sinh. Không biết bao nhiêu nạn nhân đã bị mưa bom bão đạn vùi dập, bao nhiêu dân lành thây phơi máu đổ trong những cuộc thảm sát man rợ của kẻ thù. Người chết đãyên phận nhưng người sống hàng ngày hàng giờ vẫn phải chịu đựng nỗi đau không xoa dịu được, đã 4 thế hệ phải chịu đựng nỗi đau ấy.

Bộ Quốc Phòng Mỹ cho biết, từ năm 1961 đến năm 1971, quân đội Mỹ đã tiến hành 19.905 vụ, phun rải khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học, 61% trong đó là chất da cam, làm cho hơn 4,8 triệu người Việt Nam là nạn nhân của chất dioxin, hơn 5 vạn trẻ em sinh ra bị dị dạng, quái thai và tạo ra những biến đổi nội tại gây tác hại về mặt di truyền nhiều thế hệ. Hiện nay, tỷ lệ dị tật bẩm sinh, sinh quái thai đã phát triển gấp 3 lần so với thời gian trứơc. Đối diện với những em bé nạn nhân chất độc da cam, không ai trong chúng ta có thể cầm lòng được vì những bất hạnh mà các em phải chịu.
Nhà thơ Thu Yên nói gì với các em trong thẳm sâu lòng mình?
Em có nghe thấy không?
Tiếng chim hót líu lo chào bình minh buổi sớm
Em có thấy ngàn tia nắng lung linh
Khi mặt trời thức dậy
Và cả những đêm trăng huyền ảo
Ánh trăng nhẹ nhàng tràn qua kẽ lá
Qua giàn thiên lý mẹ em trồng
Em có cảm nhận được không
Hương thơm đang lan tỏa ?
Em vẫn ngồi lặng yên bất động
Chất độc DIOXIN
Đã biến em thành người không cảm nhận
Nếu em giống cha
Em đã là chàng trai đầy nghị lực
Nếu em giống mẹ
Em đã là cô gái đẹp nết na
Em không giống ai
Chất độc DIOXIN đã hủy hại hình hài
Em có tội gì đâu ?
Mỗi nét chữ tôi viết về em
Như cứa vào vết thương đang nhức nhối
Nhưng vì một ngày mai trên trái đất này
Sẽ không còn nỗi đau như em đang gánh chịu
Nỗi đau này có thức tỉnh lương tri ???
(THU YÊN-
“Vì một ngày mai trên trái đất này”)

Người thơ hỏi em những câu tưởng như vu vơ: Em có nghe tiếng chim hót líu lo buổi sớm / Em có nhìn thấy nghìn tia nắng đón bình minh / có nhìn thấy ánh trăng huyền ảo trong đêm và có cảm nhận được hương thơm đang lan tỏa trên giàn thiên lý mẹ trồng?...
Em không trả lời. “Em vẫn ngồi lặng yên bất động/Chất độc DIOXIN / Đã biến em thành người không cảm nhận”. Em không còn nghe được tiếng chim vui mỗi buổi sáng, em không còn nhìn thấy tia nắng rực rỡ sắc màu mỗi bình minh và không còn được ngắm ánh trăng dát vàn con đường em đi mỗi ngày. Em không còn cảm thấy mùi thơm giàn hoa thiên lý mẹ trồng. Em đã bị cướp mất mọi giác quan (thị giác, thính giác, khứu giác, cảm giác, tri giác), cũng đồng nghĩa bị tước đoạt mọi niềm vui, niềm hạnh phúc trong từng phút sống của đời người. Thế cũng có nghĩa là em đang
sống đấy nhưng giá trị sống địch thực của đời người là quyền được sống hạnh phúc em đã bị tước đoạt.
Tuyên ngôn Độc lập Mỹ khẳng định: ”Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tổ tiên người Mỹ đã nói như vậy, nhưng con cháu họ lại gây bao nhiêu tội ác trên đất nước này, bởi họ đã chà đạp dã man lên quyền con người của người Việt Nam. Em có tội gì đâu ? Một câu hỏi ngắn nhưng đủ nói lên tất cả tính phi nhân, phi nghĩa và tội ác của những kẻ đã phun chất độ da cam xuống đất nước này. Nếu em giống cha / Em đã là chàng trai đầy nghị lực / Nếu em giống mẹ / Em đã là cô gái đẹp nết na Em không giống ai / Chất độc DIOXIN đã hủy hại hình hài…
Những câu thơ bắt đầu bằng từ “nếu” bộc lộ một sự tiếc xót vô bờ, bởi không thể đảo ngược được cái điều kiện ấy. Tiếc xót bởi em không còn được sống, được nối tiếp những truyền thống tốt đẹp của dân tộc này, những vẻ đẹp mẹ cha trực tiếp truyền cho em, như một mạch sống bất tận, một bản lĩnh vững bền gìn giữ đất nước này. Nếu em giống cha / Em đã là chàng trai đầy nghị lực, là thánh Gióng, là Ngô Quyền, là Trần Quốc Toản, là Trần Hưng Đạo, là Nguyễn Trãi, là Quang Trung, là anh Giải Phóng Quân “sống hiên ngang bất khuất trên đời”(Tố Hữu) . Nếu em giống mẹ /Em đã là cô gái đẹp nết na, là con cháu Bà Trưng, Bà Triệu, là o du kích nhỏ, là “cô dân quân vai súng tay cày”(Tố Hữu), là “cô gái Sài gòn đi tải đạn”, là những thế hệ như Đặng Thùy Trâm. Em đã không còn được sống những năm tháng hào hùng, vinh quang của thế hệ mình, không được tắm mình trong dòng sông yêu thương của mẹ cha, của bạn bè quê hương mình. Dân tộc này mất đi một thế hệ những anh hùng, mà biết đâu trong các em không xuất hiện những anh tài làm cho đất nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

Cái giá của sự mất mát là không thể bù đắp được: Mỗi nét chữ tôi viết về em / Như cứa vào vết thương đang nhức nhối..Vâng, vết thương tâm không thể lành được, và dân tộc này vẫn không thôi nhức nhối trước những bất hạnh của những em bé nạn nhân chất độc da cam. Cuộc đấu tranh với nhà cầm quyền Mỹ về trách nhiệm của họ đối với nạn nhân do tội ác của họ đã gây ra đã thất bại. Lương tri nhân loại bị che lấp, tiếng nói công lý không thấu trời. Nhưng vì một ngày mai trên trái đất này / Sẽ không còn nỗi đau như em đang gánh chịu/ Nỗi đau này có thức tỉnh lương tri?Dù thế nào, chúng ta vẫn tiếp tục lên tiếng nói như người thơ, để thức tỉnh lương tri nhân lọai, và để may ra, làm dịu êm được chút nào những nỗi bất hạnh của các em.

Ở bài thơ này, Thu Yên đã khám phá những chiều kích rất sâu về nỗi bất hạnh của các em nạn nhân chất độc da cam. Phần đầu bài thơ là hình ảnh thiên nhiên đẹp, tươi sáng, sống động và ngập tràn hạnh phúc. Hình ảnh ấy tương phản với sự vô tri, vô giác của các em. Từ đó là lộ ra sự bất hạnh sâu thẳm của thân phận làm người, đó là, các em không được hưởng hạnh phúc mà lẽ ra em phải được hưởng, không được sống yêu thương trong bàn tay chăm sóc của mẹ. Hình ảnh giàn thiên lý mẹ trồng tỏa hương
thơm là hình ảnh tuyệt hay và xúc động. Bởi hương thơm là cái hồn thanh khiết của hoa, của sự vật, là hạnh phúc ngào ngạt của cuộc sống này. Hương thơm ấy do tay mẹ trồng, thế nên trong hương thơm ấy có tình mẹ, có công mẹ vun trồng, hay chính các em là hoa thơm tình yêu cha mẹ. Nếu “trên giàn thiên lý bóng xuân sang” của Hàn Mặc Tử (Mùa xuân chín) có sức làm hiện thân mùa xuân tuyệt diệu thì giàn thiên lý mẹ trồng đang tỏa hương cũng có sức gợi ra hình ảnh một gia đình Việt Nam, có giàn thiên lý trước nhà, bàn tay mẹ chăm sóc vun trồng. Gia đình ấy bình dị nhưng xiết bao hạnh phúc. Nhưng thật là bất hạnh cho một kiếp người, các em không được hưởng những thanh sắc của đời cũng chẳng cảm nhận được tình yêu thương ngọt ngào của cha mẹ. Phần giữa bài thơ, Thu Yên đặt nỗi bất hạnh của các em trong truyền thống của dân tộc và trong chiều kích của thời đại anh hùng:

Nếu em giống cha
Em đã là chàng trai đầy nghị lực
Nếu em giống mẹ
Em đã là cô gái đẹp nết na.

Soi chiếu nỗi bất hạnh của các em trong chiều kích này mới thấy được nỗi bất hạnh lớn lao của các em. Đó không chỉ của riêng các em mà của cả dân tộc , và của cả thời đại vẻ vang, thế hệ những chàng trai nghị lực, những cô gái nết na. Bởi mai sau, nhân loại sẽ ghi nhớ thế kỷ 20, nhất định người ta sẽ nhắc đến Việt Nam, một dân tộc có “những chàng trai chân đất / sống hiên ngang bất khuất trên đời”(Tố Hữu), nhắc đến trái tim Việt Nam, “là trái tim cũng là lẽ phải”. Các em đã không được sống, không được tham gia vào để làm nên thời đại kỳ tích ấy như cha mẹ các em. Phần cuối bài thơ, Thu Yên đặt nỗi đau của các em trước lương tri nhân loại, một chiều kích rất rộng trong không gian và thời gian.
Đã 50 năm lính Mỹ rải chất độc da cam ở VN, cũng đã 50 năm dân tộc này phải chịu những hậu quả thảm khốc về mội trường, về nhân sinh, mà hiện thân là các em. Khi nhân loại chưa trả lại tuổi thơ cho các em, trả lại quyến sống, quyền hạnh phúc cho các em, thì lương tri nhân lọai chưa thể yên ổn dù là một giờ. Bởi tội ác vẫn sờ sỡ ra đó, vẫn thách thức công lý, thách thức sự tồn vong của trái đất này, và vết thương do tội ác gây ra vẫn hành hạ từng giờ.
Đã 4 thế hệ con người VN phải chịu đựng, và không biết bao nhiêu thế hệ nữa, do di truyện, tiếp tục bị tước đoạt quyền được làm người. Bài thơ đọng lại ở tấm lòng tác giả dành cho các em. Đó là tấm lòng yêu thương có chiều sâu tư tưởng nhân văn. Em có tội gì đâu ? Mỗi nét chữ tôi viết về em Như cứa vào vết thương đang nhức nhối Giọng thơ nhẹ nhàng, như nâng niu trân trọng. Nâng niu trân trọng những gía trị quý giá của tuổi thơ, niềm hạnh phúc hồn nhiên mà lẽ ra các em được hưởng. Và có lẽ , nâng niu đểlàm nhẹ đi nỗi đau đang hành hạ các em. Bởi nếu không tinh tế, chỉ một chút tình cảm thương hại, tác giả có thể sẽ làm cho các em đau thêm, mặc cảm hơn, oán trách và xa lánh loài người hơn.
Tôi yêu những hình ảnh thiên nhiên rất đẹp mở đầu bài thơ, tôi ngưỡng mộ những chàng trai nghị lực và những cô gái nết na của dân tộc này. Tôi chia sẽ nỗi thao thức, và những trăn trở khôn nguôi của tác giả. Tôi nghĩ, tất cả chúng ta, cùng lên tiếng với tác giả để thức tỉnh lương tri nhân loại về những nỗi đau mà dân tộc ta vẫn đang phải chịu, dù tiếng súng chiến tranh đã tắt 37 năm qua. Xin chia sẻ với người thơ một tấm lòng trong vạn tấm lòng yêu thương.

Sự thật bên ngoài", "sự thật bên trong"


HOÀNG Hồng-Minh




Tôi cầm một chiếc đũa "thẳng", đem nhúng nó vào cốc nước: tôi thấy nó "bị bẻ quặt" đi.
Tôi yên tâm nói: chiếc đũa này "thẳng", khẳng định sự thông minh của mình.

***

Cái gì đã xảy ra?

Hình ảnh chiếc đũa bị bẻ quặt qua cốc nước thực tế đã thách thức sự hiểu biết của tôi, làm tự ái và đe dọa cái "biết rồi" của tôi. Tôi tìm cách đốt cháy, thủ tiêu sự thách thức này đi, để bảo tồn lòng kiêu hãnh vô thức của mình, để yên tâm mà sống. Tôi đã phát biểu ra được phần nào cái "sự thật bên ngoài" qua kinh nghiệm của riêng mình, chiếc đũa này "thẳng". Mặt khác, tôi đã cố gắng xóa sổ đi cái "sự thật bên trong" của tinh thần của mình, xóa sổ một vấn đề mà bản thân tôi chưa có giải pháp tường tận.

Thực ra, ngay cả ví như tôi đã có được "giải pháp tường tận" cho câu chuyện này đi chăng nữa, thì cái “sự thật bên trong” kia vẫn phải tồn tại. "Sự thật bên trong" ấy là, “tôi nhìn thấy chiếc đũa bị bẻ quặt trong cốc nước”. Tôi phải ghi nhận, phải phát biểu được tường minh sựt hật này, trước khi, cùng với, và ngay cả sau khi đã tìm cách lý giải nó.

***

Câu chuyện trên đây có vẻ như đáng để thủ tiêu đi, vì ai cũng "biết rồi". Nhưng nó chính là một đầu mối quan trọng về "sự thật bên trong" của tinh thần.

Cuộc sống của con người bị - được chìm nhúng trong một bể vữa hồ "tập tục trộn luận lý".

Anh chàng thanh niên lớn lên ở Pháp từ lúc hai tuổi mới đây khoe với tôi tấm thẻ căn cước mới được làm ở xứ Việt. Tấm thẻ ghi "nguyên quán" của anh chàng ở một làng quê hẻo lánh miền trung. "Sao anh biết nguyên quán này?" "Nguyên quán này được ghi trong giấy tờ cũ của bố tôi." "Bố anh đã có dịp về làng quê hẻo lánh ấy chưa?" "Dạ, chưa. Nhưng mà giấy tờ cũ của bố của bố tôi ghi làng quê ấy là nguyên quán ạ." "Thế nguyên quán của bố của ông nội anh có ở đấy không?” “Dạ, chịu ạ". “Bao nhiêu đời thì là nguyên quán ?” “Dạ, chịu ạ". "Thế nguyên quán của mẹ của bố anh có ở đấy không?” “Dạ, chịu ạ". "Thế nguyên quán của mẹ anh có ở đấy không?” “Dạ, chịu ạ"…“Thế ghi cái thông tin nửa chừng, không đầy đủ, và không chắc chắn ấy vào giấy căn cước để mà làm gì?” “Dạ, hỏi khó quá ạ.”… Nếu bỏ công đi tìm và vẽ lại con đường tổ tiên, vật chất và văn hóa, của anh chàng thanh niên này, cái làng nọ, nếu đúng, cũng sẽ chỉ là một ngọn suối nhỏ xíu, và chưa chắc đã là quan trọng nhất, dẫn đến anh ta, trong một số lớn hơn rất nhiều các ngọn suối khác. Nhưng như vậy đó, con người ta say sưa bấu bám vào tập tục luận lý hóa, khỏi phải suy nghĩ, đến mức coi điều đón hư một “chân lý tuyệt đối”, "quan trọng hết mực", để mà nhất nhất phải in ép điều đó vào tấm thẻ căn cước của anh chàng kia. Và người ta đã yên tâm đốt cháy bao nhiêu là các "sự thật bên trong" khác đi,một cách ngây ngô đường bệ, để được tự yên tâm là thông thái.

Món vữa hồ "tập tục trộn luận lý" vừa là một của nả, vừa là một thứ thuốc mê ngự trị con người. Yên tâm đến mức nghiện, con người và cộng đồng mất dần khả năng nhìn ra, nhìn lại, kiểm kê các “sự thật bên trong” khác nữa của mình. Hơn thế nữa, con người và cộng đồng có xu thế phủ nhận nhiều "sự thật bên trong" khác như một cơ chế dị ứng, nhất quyết phải đốt đi các "sự thật bên trong" đó nếu như chúng thuộc diện gây khó, gây phiền phức cho cái sự thật bên ngoài đã yên vị nằm ườn trên tấm tranh lụa phẳng phiu của tâm khảm mình.

***

Cuộc sống của mỗi người, của mỗi cộng đồng thường vẫn êm ả trên những đoạn đường đời… cho đến lúc gặp phải những ngã ba ngã bảy. Đấy là lúc người ta bị buộc phải tự vấn, tự kiểm, tự quyết, xem mình từ đâu đến, muốn đi về đâu, chọn con đường nào, thậm chí phải mở những con đường mới… hoặc, mặc kệ, đến đâu thì đến.

Đó là lúc mà các món vữa hồ "tập tục trộn luận lý" đã đóng cứng không đủ tính “vạn năng-tưởng như” cho người ta nữa. Phải rà lại, làm hiện hình tường minh lại những "chiếc đũa bị bẻ quặt", phải đối diện lại với tất cả những "sự thật bên trong" của mình, vượt qua sự lười trây và lòng sợ hãi món vữa hồ tập tục luận lý hóa đáng phải bị - được vượt qua. Để tìm ra những sự thật trong – ngoài lớn lao hơn, đầy đủ hơn, căn bản hơn, để vững đi tiếp được trên đường đời… Hoặc, mặc kệ, đến đâu thì đến.

***

Rốt cuộc, điều mà mỗi người, mỗi cộng đồng thờ phụng, mới là cái máy đẩy thực sự.
Tại sao lại cứ phải suy nghĩ phức tạp như thế này mà làm gì.

Quyền sống: những vấn đề pháp lý còn bỏ ngỏ


TS. Nguyễn Minh Tuấn




Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đề cập đến quyền sống (right to life) với tính chất là một quyền riêng biệt tại Điều 19: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Nhưng nội dung, phạm vi của quyền sống và trách nhiệm của nhà nước đến đâu trong việc bảo vệ quyền sống của con người đến nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh luận.

Bảo vệ quyền sống từ thời điểm nào?

Quyền sống qui định trong Hiến pháp đặt ra nghĩa vụ của Nhà nước phải bảo vệ sự sống của con người trong mọi trường hợp. Lời nói đầu của Công ước về quyền trẻ em năm 1989 nêu rõ “Trẻ em cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời.” Vậy “trước khi ra đời” tính từ khi nào? Hiện nay có ba luồng quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng quyền sống bắt đầu từ thời điểm quá trình thụ tinh thành công (không phân biệt tự nhiên hay nhân tạo). Quan điểm thứ hai cho rằng quyền sống bắt đầu khi đã hình thành phôi thai (embryo). Quan điểm thứ ba cho rằng quyền sống bắt đầu từ khi đứa trẻ sinh ra và còn sống. Sở dĩ có nhiều quan điểm như vậy vì vấn đề này liên quan đến bài toán pháp lý: có cho phép hay không việc nạo phá thai (abortion). Pháp luật nhiều nước qui định người mẹ không có quyền loại bỏ quyền sống của thai nhi, việc nạo phá thai là bất hợp pháp, trừ một số trường hợp đặc biệt liên quan đến việc bảo vệ tính mạng người mẹ. Ở Việt Nam, vấn đề này hiện đang có rất nhiều ý kiến tranh luận. Chúng tôi cho rằng nếu ủng hộ quyền sống, ủng hộ quan điểm cho rằng phôi thai cũng có quyền được sống, thì chắc chắn cần phải có những ràng buộc pháp lý chặt chẽ hơn để hạn chế việc nạo phá thai một cách tùy tiện như hiện nay ở Việt Nam.

Quyền được chết?

Có quan điểm cho rằng quyền sống không bao gồm quyền được chết. Nếu một cá nhân tự nguyện tước bỏ mạng sống của mình, nhà nước sẽ không can thiệp. Nghĩa vụ của nhà nước là bảo vệ quyền sống chứ không bảo vệ việc tự tước bỏ quyền sống. Nhưng vấn đề đặt ra là tự sát có nhiều loại. Trách nhiệm của nhà nước đến đâu trong trường hợp như: (1) cá nhân tự sát trước hoặc cùng thời điểm giết chết một hoặc nhiều người khác (tự sát giết người) hoặc tự sát nhằm tấn công các mục tiêu quân sự, chính trị (tự sát khủng bố); (2) khi thanh thiếu niên tự tử hàng loạt (tự sát tập thể); (3) tự sát để phản đối (tự thiêu, tuyệt thực); (4) tự sát để thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật; (5) tự sát để thoát khỏi bệnh hiểm nghèo…? Ở Việt Nam, những vấn đề pháp lý như thế cũng chưa được qui định thực sự rõ ràng trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật.

Về quyền được chết một cách nhẹ nhàng (hay còn gọi là quyền an tử - euthanasia), trên thế giới có nhiều nước đã hợp pháp hóa quyền này như Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, Thụy Sĩ và cũng nhiều nước hợp pháp hóa hành vi hỗ trợ an tử với những bệnh nan y như Đức, Albania, Colombia, Nhật bản, Đan Mạch, Thụy Điển, Vương quốc Anh, và một số bang của Mỹ. Ở Việt Nam, đây vẫn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi và chưa được qui định trong bất kỳ văn bản pháp lý quan trọng nào. Thiết nghĩ, trong dịp sửa đổi Bộ luật dân sự sắp tới vấn đề này cần được nghiên cứu, trao đổi kĩ lưỡng để tạo cơ hội cho nhiều người đang chịu sự đau đớn kéo dài do bệnh tật hoặc tai nạn có thêm sự lựa chọn.

Duy trì hay bỏ hình phạt tử hình?

Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị nêu rõ chỉ được phép áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất, căn cứ vào luật pháp hiện hành tại thời điểm tội phạm được thực hiện. Như vậy luật pháp quốc tế không cấm các quốc gia sử dụng hình phạt tử hình (death penalty), nhưng khuyến khích hạn chế và hướng tới bãi bỏ hình phạt này.

Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành qui định hình phạt tử hình với 22/272 tội danh. Phạm vi áp dụng hình phạt này theo luật Việt Nam còn khá rộng so với các qui định của pháp luật quốc tế. Chúng tôi cho rằng không nên duy trì hình phạt tử hình vì những lý do sau: (1) Các cơ quan tư pháp sẽ không có khả năng khắc phục sai lầm, nếu người bị tử hình bị kết án oan; (2) Duy trì hình phạt tử hình sẽ không tạo ra điều kiện để giáo dục hay cải tạo người phạm tội. Hình phạt tử hình hướng tới ý nghĩa “trả thù” hơn là mong muốn thực thi công lý và bảo vệ con người thực sự; (3) Áp dụng hình phạt tử hình sẽ hạn chế việc mở rộng tìm kiếm chứng cứ xác định sự thật đích thực của vụ việc; (4) Tử hình không chỉ là việc tước đoạt mạng sống của người phạm tội, mà còn gây tổn thương cho người thân của họ; (5) Những người trực tiếp thực hiện lệnh thi hành án tử hình bị stress và ám ảnh trong thời gian dài; (6) Tử hình cũng không làm giảm những bất ổn trong xã hội mà có thể còn là mầm mống tạo ra sự chống đối và bất ổn xã hội; (7) Bỏ tử hình là một xu hướng chung. Trên thế giới hiện nay đã có 99 nước bãi bỏ hình phạt tử hình.

Có thể “nhân danh” lợi ích công cộng để tước đoạt quyền sống của người vô tội?

Giả sử máy bay dân sự đang có nhiều hành khách lại được kẻ khủng bố sử dụng là công cụ tấn công vào các mục tiêu quân sự, chính trị hay kinh tế. Liệu chính quyền có thể bắn thẳng vào máy bay đó để tự vệ không?

Ở CHLB Đức, cũng đã từng có những ý kiến khác nhau về vấn đề này. Điều 14 Khoản 3 Luật an toàn hàng không CHLB Đức năm 2005 cho phép công quyền được tấn công vào máy bay được sử dụng làm công cụ khủng bố. Qui định này đã gây ra sự phản đối mạnh mẽ từ công chúng. Vào ngày 15/2/2006, Tòa án Hiến pháp liên bang đã tuyên bố rằng điều khoản này trong Luật an toàn hàng không là vi hiến, vì vi phạm Câu 1 Khoản 2 Điều 2 về quyền sống và Điều 1 Khoản 1 Luật cơ bản Đức về bảo vệ phẩm giá con người (BverfG, NJW 2006, 751 ff.). Phán quyết của Tòa án hiến pháp liên bang Đức được sự ủng hộ của nhân dân Đức và cộng đồng quốc tế vì đã vượt ra khỏi cách quan niệm thông thường công quyền có thể nhân danh “lợi ích công cộng” để tước đoạt mạng sống của những con người vô tội, và phán quyết này cũng chứng tỏ vấn đề quyền con người đã thực sự được tôn trọng. Ở Việt Nam, vấn đề này cũng nên được thảo luận, trao đổi kĩ trong các văn bản pháp luật cụ thể hóa quyền sống trong Hiến pháp.
***

Trong thời gian tới, ở Việt Nam cần tiếp tục cụ thể hóa vấn đề quyền sống trong các văn bản pháp luật cụ thể, sao cho những qui định đó tương thích hơn với các chuẩn mực quốc tế, thể hiện xu thế bảo vệ con người và những giá trị cao nhất của con người.
Quyền sống là quyền thiêng liêng, là đòi hỏi chính đáng của con người mà nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ. Quyền sống không giản đơn là bảo đảm sự tồn tại của con người, mà còn là đòi hỏi nhà nước phải chủ động bảo đảm cuộc sống an toàn và chất lượng cho con người. Tuy vậy, quyền sống không phải là quyền tuyệt đối (absolute right), một số trường hợp quyền này cũng có thể bị giới hạn, nhưng giới hạn nào cũng có những nguyên tắc, ràng buộc để không làm mất đi bản chất của quyền này. Trong thời gian tới, ở Việt Nam cần tiếp tục cụ thể hóa vấn đề quyền sống trong các văn bản pháp luật cụ thể, sao cho những qui định đó tương thích hơn với các chuẩn mực quốc tế, thể hiện xu thế bảo vệ con người và những giá trị cao nhất của con người.

Tác giả Pháp Patrick Modiano giành giải Nobel Văn học




Nhà văn Patrick Modiano

Tác giả người Pháp Patrick Modiano đã vượt qua tác giả người Nhật được nhiều người yêu thích Haruki Murakami và tác giả - nhà thơ - nhà viết kịch người Kenya Ngugi wa Thiong’o để giành giải Nobel Văn học 2014.

Nhà văn 69 tuổi Patrick Modiano đã được Viện Hàn lâm Nobel miêu tả là “Marchel Proust của thời chúng ta”.

Các tác phẩm của ông thường dội lại âm hưởng của nhau, trăn trở với các đề tài về ký ức, mất mát, nhận dạng của cá nhân, khát vọng. Cốt truyện của Modiano thường xoay quanh nhân vật chính là những người đàn ông trẻ trôi dạt giữa thế giới của những kẻ lừa đảo hạng sang ở Paris những năm 1960.

Nhưng cốt truyện trong các tác phẩm của Modiano không quan trọng bằng những cảm giác được gợi lên từ lối viết văn dễ tưởng lầm là đơn giản của ông. Ký ức bị xóa nhòa đóng vai trò quan trọng: người tường thuật trong truyện của Modiano thường cố gắng cắt nghĩa những sự kiện thời trẻ mà họ đã lãng quên một nửa, cố gắng nhìn lại quá khứ qua một tấm kính tối mịt.

Là một báu vật văn học của Pháp nhưng Patrick Modiano đến giờ, mới chỉ có một vài trong hơn 25 tiểu thuyết của ông được dịch ra tiếng Anh. Ở Việt Nam, độc giả biết đến Modiano qua các tác phẩm như “Những đại lộ ngoại vi”, “Quảng trường ngôi sao”, “Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối” hay “Phố những cửa hiệu u tối”, trong đó “Phố những cửa hiệu u tối” - tiểu thuyết thứ sáu của ông - đã giành giải Goncourt vào năm 1978. Các giải thưởng khác mà ông đã được trao bao gồm Grand prix du roman de l'Academie francaise (1972), Prix Mondial Cino Del Duca (2010), Austrian State Prize for European Literature (2012).

Tiểu thuyết gần đây nhất của ông là Pour que tu ne te perdes pas dans le quartier (2014).

Nobel Kinh tế cho nghiên cứu biện pháp chế ngự các công ty độc quyền







Jean Tirole, nhà kinh tế học chỉ biết vùi đầu vào công việc, không hề quan tâm tới danh vị, người từng nói “sự tiếp xúc quá gần gũi với chính trường sẽ làm chúng ta đánh mất cái thước đo khoa học đang sử dụng”, đã giành giải Nobel Kinh tế năm nay, đúng như lời tiên đoán cách đây bảy năm.


Ngày 13/10 tại Stockholm, Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển công bố: Giải Nobel Kinh tế học năm nay thuộc về Jean Tirole ở trường Đại học Toulouse 1 Capitole nước Pháp “vì những phân tích của ông về sức mạnh và quy luật thị trường”.

Giáo sư Staffan Normark, Thư ký thường trực Viện này, nhận xét: Jean Tirole đã có nhiều cống hiến quan trọng về nghiên cứu lý thuyết trong một số lĩnh vực, nhất là đã làm rõ cách hiểu biết và cách điều chỉnh các ngành bị thống trị bởi một số ít các công ty mạnh. Nói cách khác, ông đã phát minh ra “khoa học chế ngự thuần phục các công ty độc quyền”. Nhờ áp dụng lý thuyết của Tirole, Chính phủ có thể khích lệ các công ty độc quyền nâng cao năng suất đồng thời ngăn cản họ gây ra thiệt hại cho sự cạnh tranh và cho người tiêu dùng.

GS Tore Ellingsen, Chủ tịch Ủy ban Giải Nobel Kinh tế học, giải thích thành tựu nghiên cứu của Tirole như sau: có nhiều ngành bị thao túng bởi một số ít công ty hoặc một tập đoàn độc quyền. Trong tình trạng không được giám sát, quản lý, các thị trường thường nảy sinh những kết quả khiến người dân không mong muốn, như giá sản phẩm cao, năng suất thấp nhưng lại ngăn cản các công ty mới nhảy vào kinh doanh lĩnh vực đó. Từ giữa thập niên 80, Tirole đã bắt đầu nghiên cứu các bài học của những thị trường thất bại do bị một số ít công ty lớn thao túng. Các phân tích của ông đã giúp chính phủ có biện pháp xử lý vấn đề mua bán sáp nhập công ty và đối phó với nạn độc quyền.

Hãng thông tấn AFP cho biết: không phải ngẫu nhiên mà Jean Tirole giành giải Nobel kinh tế. Tuy rằng khi nhận tin được trao giải ông có nói “vô cùng ngạc nhiên và rất vui mừng”, nhưng bản tuyên bố của Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển nói rõ: Jean Tirole “là một trong những nhà kinh tế học có ảnh hưởng lớn nhất hiện nay”. Cho tới nay ông đã công bố khoảng 200 bài báo và xuất bản 10 cuốn sách viết về kinh tế, tài chính. Báo Le Monde (Pháp) tháng 9/2007 từng đăng một chuyên đề giới thiệu về nhà kinh tế học khiêm tốn này và cho rằng Tirole nhất định sẽ có ngày được tặng giải Nobel kinh tế.

Báo Le Figaro viết: Jean Tirole là một nhà nghiên cứu chỉ biết vùi đầu vào công việc, không hề quan tâm tới danh vị, ông luôn lo ngại cách đưa tin câu khách của giới nhà báo có thể làm người ta hiểu một cách đơn giản về các lý thuyết kinh tế học. Khác với những nhà kinh tế tham gia làm chính trị, Tirole từng nói “sự tiếp xúc quá gần gũi với chính trường sẽ làm chúng ta đánh mất cái thước đo khoa học đang sử dụng”.

Một bài trên báo Le Monde năm 2007 có nêu ra nghi vấn: Trên thực tế, một loạt chủ trương của Tirole thường được các nhà chính trị đề cập tới, như vấn đề thuế sa thải người lao động (firing taxes), hợp nhất hợp đồng làm việc ngắn ngày với hợp đồng làm việc dài ngày. Tirole trả lời: thông thường giới chính trị hay thực thi một cách không tự giác các chủ trương của những chủ nhân giải Nobel kinh tế đã qua đời – ở đây ông muốn ám chỉ John M. Keynes. Báo Le Monde còn nhấn mạnh: Tirole có cha là bác sĩ y khoa, mẹ là nhà giáo dạy văn, lẽ ra lớn lên trong hoàn cảnh gia đình như vậy, Tirole sẽ không hào hứng với môn kinh tế học. Nhưng khi học tập tại trường Đại học Bách khoa danh tiếng nhất nước Pháp, ông bỗng dưng rất thích sử dụng toán học để giải quyết các vấn đề phức tạp, từ đó ông chuyển sang học ngành kinh tế với ý định “muốn làm cho thế giới tốt đẹp hơn”.

Nhiều năm nay, giải Nobel kinh tế hầu như bị người Mỹ chiếm lĩnh. Maurice Allais là người Pháp gần đây nhất được trao giải năm 1988 do cống hiến về lý thuyết thị trường và sử dụng hữu hiệu các nguồn tài nguyên. Năm 1983 Gerard Debreau có hai quốc tịch Pháp-Mỹ cũng được trao giải này. Như vậy Jean Tirole là người Pháp thứ ba nhận giải Nobel Kinh tế.

Hôm 13/10, Phủ Tổng thống Pháp gửi lời chúc mừng Tirole trên tài khoản Twitter, ca ngợi ông lại là “một người Pháp nữa lên tới đỉnh vinh quang” tiếp sau Patrick Modiano giành giải Nobel Văn học năm nay.

Jean Marcel Tirole sinh năm 1953 tại thị trấn nhỏ Troyes (Pháp), năm 1976 tốt nghiệp Đại học Bách khoa (École Polytechnique, ở Paris), năm 1981 nhận học vị Tiến sĩ tại Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT, Mỹ). Năm 1991 tham gia sáng lập Học viện Công nghiệp Kinh tế Toulouse thuộc Trường Kinh tế Toulouse, Đại học Toulouse 1 Capitole (Pháp), và hiện là Giám đốc Khoa học của Học viện này. Năm 2007 Tirole từng được Ủy ban Nghiên cứu khoa học nhà nước Pháp tặng giải vàng.

Nguyễn Hải Hoành tổng hợp

Thứ Ba, 14 tháng 10, 2014

ISIS tổng tấn công thủ đô Bagdad của Irag




CẬP NHẬT TÌNH HÌNH IRAQ - MỸ KHẨN CẤP ĐƯA TRỰC THĂNG CHIẾN ĐẤU APACHE VÀO BAGDAD.

Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân, tướng Martin Dempsey vừa họp báo cách đây 3 giờ là ông đã ra lệnh KHẨN CẤP gửi nhiều trực thăng chiến đấu Apache vào chống giữ thủ đô Bagdad trong ngày hôm nay.

Tướng Martin Dempsey vừa trả lời một cuộc phỏng vấn trên đài ABC là ISIS đang tới gần phi trường Bagdad, chỉ có trực thăng chiến đấu Apache mới có thể đánh chặn bộ binh của ISIS được vì trực thăng có thể bay thấp và có tầm quan sát chi tiết hơn. Tướng Dempsey còn cho biết là ông không để tình trạng "nước tới chân mới nhảy" - Trực thăng được gửi tới nhanh chóng trước khi ISIS tấn công Bagdad.

Theo tin mới nhất thì ISIS đang chuẩn bị tổng tấn công vào Bagdad. Ba kẻ đánh bom tự sát đã tấn công một trung tâm của chính phủ hôm Chủ Nhật ở tỉnh Diyala, phía đông bắc thủ đô Baghdad, giết chết 60 người và làm bị thương hơn 120 người khác.


*Ghi chú thêm: Tướng Dempsey nói câu: "You're not going to wait until they're climbing over the wall," dịch sát nghĩa là "chúng ta sẽ không chờ chúng nó trèo qua tường", Thùy Trang dịch theo nghĩa của người VN là: " không để tình trạng "nước tới chân mới nhảy". Mong các bạn thông cảm vì dịch theo sát nghĩa của thành ngữ Mỹ thì sẽ khó hiểu.
________________________

ISIS TỔNG TẤN CÔNG VÀO THỦ ĐÔ BAGHDAD CỦA IRAQ

Các quan chức Iraq đã đưa ra một lời kêu gọi tuyệt vọng tối thứ bảy, yêu cầu Mỹ gửi Bộ Binh để giữ thủ đô Baghdad. Phiến quân ISIS đã tiến tới gần, chỉ cách Baghdad có 30 cây số.



Thông tin cho biết là ISIS và lực lượng Al-Sham đã tiến gần Abu Ghraib, một thị trấn thuộc vùng ngoại ô của thủ đô Baghdad. Một thống đốc địa phương ước lượng con số phiến quân kéo tới vùng nầy là khoảng 10.000 ISIS và họ đang sẵn sàng để tấn công thủ đô.

Lời cảnh báo đến từ Sabah Al-Karhout, Chủ tịch Hội đồng lâm thời của tỉnh Anbar, vùng sa mạc rộng lớn ở phía tây Baghdad đã bị ISIS đánh chiếm một phần lớn khu vực nầy.

Hai thành phố chính của tỉnh, Fallujah và Ramadi, là những tỉnh đã rơi hoàn toàn vào tay ISIS, hai tỉnh nầy là một bàn đạp tuyệt vời để kết hợp một cuộc tấn công toàn lực vào Baghdad, nơi đây đang có một nhóm khoảng 1.500 lính Mỹ đóng vai trò cố vấn cho quân đội Iraq.

Các quan chức chính phủ Iraq cho rằng, trong những tuần gần đây, sự chú ý của quốc tế đã tập trung về thị trấn của Syria Kobani trên biên giới Thổ Nhĩ Kỳ - nơi các chiến binh người Kurd vẫn đang chiến đấu để chặn bước tiến của ISIS, thì một thành phố lớn khác của Iraq là Ramadi đang bị ISIS tấn công.

Các lực lượng quân sự Iraq và Kurds đang nắm giữ phòng tuyến chống lại các đợt tấn công của ISIS vào Ramadi. Các quan chức Mỹ hôm qua cảnh báo rằng thành phố Ramadi đang ở một vị trí rất "mong manh".

Máy bay Mỹ đã yểm trợ không kích và thả thực phẩm cũng như đạn dược từ trên không xuống cho quân Iraq và Kurds đang cố chống đỡ để giữ Ramadi không bị thất thủ.
Nhiều nguồn tin suy đoán, cho rằng cuộc tấn công của ISIS vào thị trấn Kobani chỉ là một cái bẫy để ISIS tấn công vào các mặt trận khác, vì có chiếm được Kobani thì sẽ không giúp ích gì về sức mạnh quân sự của ISIS, mà mục tiêu chính của ISIS sẽ là BAGHDAD.

Theo Alastair Beach, Robert Tait, The Telegraph, AP, Reuters.

Phản biện xã hội



Tác giả: TS. Trần Đăng Tuấn
.


Hãy nhìn xung quanh, ta sẽ thấy đâu cũng có sự phản biện. Một cánh đồng lúa xanh êm đềm chứng minh có một vẻ đẹp khác ngoài vẻ đẹp của núi non hùng vĩ. Người chơi bonsai bậc thượng thừa giật mình trước một thế cây tự nhiên trong mé núi không ai để ý.


TS. Trần Đăng Tuấn
Phó Tổng Giám Đốc Đài truyền hình Việt Nam

Hãy quan sát cuộc sống tập thể: mỗi ngày làm việc, mỗi cuộc họp, thậm chí chỉ hai người tán gẫu với nhau là muôn lần cọ xát các ý kiến khác nhau, góc nhìn khác nhau. Bằng cách đó tập thể chọn lựa phương án tối ưu cho từng công việc lớn nhỏ. Hãy nhìn vào bản thân mình. Từ sáng đến chiều mỗi người luôn tự phản biện để rà soát, sửa đổi hình dung, suy nghĩ, quan niệm, phương pháp trước đó của bản thân, để rồi hoàn chỉnh cách nghĩ, cách làm cũ hoặc thay bằng cách mới.

Phản biện, tự phản biện là cách để cuộc sống diễn ra, cuộc sống đi lên. Nó là điều tự nhiên. Đó không phải là vấn đề muốn hay không muốn. Ở vị trí quyền lực, coi trọng phản biện, sẽ có được phản biện xã hội có tổ chức, giúp ích lớn cho ổn định và phát triển; ngược lại, tránh né phản biện xã hội, kết quả là nhận được phản biện xã hội tự phát – mảnh đất thuận lợi để hình thành tâm thế phản kháng xã hội.
Nhưng áp dụng điều tự nhiên ấy vào cuộc sống xã hội, vào quản lý xã hội lại là việc không đơn giản. Ít nhất có ba vật cản với phản biện xã hội.Vật cản thứ nhất là sự khó chịu thường tình với ai “trái ý”. Người ta vẫn hay ca ngợi “Người hay cãi” nói chung, và vẫn ác cảm với “Người hay cãi” cụ thể ở trong đơn vị của mình, dưới quyền mình.Vật cản thứ hai là ngại sẽ nảy sinh cái gì đó “bất ổn”, ảnh hưởng đến vị thế của cá nhân hay cơ quan quyền lực. Thực ra phản biện xã hội nghiêm túc, đúng đắn khác hẳn với phản bác, mặc dù nó có thể bao gồm phản bác trong những trường hợp đặc biệt, nhưng điểm quan trọng nhất: Phản biện nhằm rà soát, khẳng định, bổ sung, đề xuất giải pháp đúng để thực hiện các mục tiêu xã hội thống nhất. Lo lắng quá đáng chuyện phản biện xã hội dẫn đến phản kháng, gây mất ổn định, trong đa số các trường hợp xuất phát từ căn bệnh ích kỷ của người, của cấp đang có quyền lực. Mà căn bệnh ích kỷ ấy cũng lại… rất tự nhiên, rất khó tránh.



Vật cản chủ quan thứ ba là: Ngại việc. Ngại mất thời gian; ngại tốn tiền bạc (một cuộc trưng cầu dân ý dĩ nhiên là tốn kém, không thể làm tràn lan được). Ai đó ngầm nghĩ trong bụng “Rách việc! Trăm người trăm ý, chắc gì đã hơn một người quyết”. Những người đó không hiểu một điều là: thực hành dân chủ bao giờ cũng mất thời gian, mất công sức hơn là quyết định một chiều. Cái hay duy nhất của dân chủ là tránh được sự độc đoán, quan liêu. Mà độc đoán, quan liêu sớm muộn đem lại những khốc hại khôn lường.
Cách diễn đạt, khái niệm có thể khác, nhưng tinh thần và cội rễ của vấn đề đâu có khác với những yêu cầu Bác Hồ đã đòi hỏi rất sớm, khi chính quyền công nông của ta chỉ 1 – 2 tuổi đời – đó là phê bình, tự phê bình, tự chỉ trích để tiến bộ. Còn trước đó, Lênin đã kêu gọi công nhân dùng tổ chức công đoàn để đấu tranh với chính Nhà nước xô viết của mình, nhằm giữ cho nhà nước ấy khỏi mắc căn bệnh quan liêu. Vậy mà giờ đây còn có sự rụt rè khi đề cập đến phản biện xã hội, còn có sự né tránh với khái niệm xã hội dân sự (thiếu cái thứ hai này phản biện xã hội sẽ rất nghèo nàn), thì thật không nên.

Đã biết bao lần do có sự “rò rỉ” nào đó mà báo giới biết có một dự thảo chính sách, trong đó có những điều bất hợp lý, đang ở giai đoạn sắp thông qua. Dự thảo đó được mổ xẻ trên công luận. Cuối cùng, rất may là ở dạng ban đầu nó… không được thông qua nữa. Cũng có nhiều ví dụ khác, khi có những quyết định được đưa ra một cách rất bất ngờ (do quá trình chuẩn bị được giữ kín, không rò rỉ). Tiếc thay sự trôi chảy về hành chính lại không đem lại sự suôn sẻ lúc thực hiện. Bao nhiêu bất hợp lý nảy sinh, cuối cùng quyết định dẫu có hiệu lực hành chính vẫn chết yểu.Rõ ràng, đã đến lúc phản biện xã hội phải thành nguyên tắc trong quá trình chuẩn bị và thông qua các quyết định liên quan đến cuộc sống, quyền lợi của đông đảo mọi người. Người xưa nói “Một người lo bằng kho người làm”, ý nhấn mạnh đến vai trò, vị trí của người nắm quyền quản lý, lãnh đạo. Nhưng người xưa cũng nói “Ba ông thợ bằng một ông Gia Cát”, để khẳng định việc nghĩ, việc lo không phải đặc quyền của một số ít người.


————-
Nguồn Tuổi trẻ

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2014

THƠ BÌNH ĐỊA MỘC



01.- CÁI KHUÔNG GIÓ
Anh có vợ rồi, em đừng yêu nữa
Ồ mà không, nếu lỡ cũng chẳng sao
Bởi vợ anh như cánh cửa ra vào
Cứ đóng mở suốt ngày xoành xoạch

Còn người yêu, ví như khuông gió thoảng
Làm mát căn nhà nâng đỡ không gian
Gắn kế bên đôi cánh cửa ngang tàng
Thông qua đó bầu trời luôn rạng rỡ

Anh có vợ rồi, ngỡ gì mà ngỡ
Ồ nhưng không, cửa đóng sẽ mở ra
Mỗi khuông gió lặng lẽ trước hiên nhà
Đợi mai lên vỡ oà cùng nắng biếc

Anh chỉ sợ mỗi khi buồn thao thiết
Khuông gió à, thay thế cửa anh đi
Ồ mà không, như vậy chẳng ích gì
Cửa nếu đóng, anh trì tay khuông gió

Anh có vợ rồi, chẳng cần to nhỏ
Một gia đình vốn ước lệ nhân duyên
Hạnh phúc nôm na là bản phân quyền
Vợ ở dưới, chồng nằm trên non nỉ

Cửa khép lại, dại khôn lời thủ thỉ
Ồ mà không, đấy chuyện của đúng sai
Còn hành trang về đổ bến tương lai
Cái khuông gió, bờ vai em, trĩu nặng ...




02.- CÕI TẠM
Thọc bàn tay chiếc túi rỗng trăm năm
Mua gói mì tôm dùng dằng đắt rẽ
Nhưng vẫn sống suốt đời tôi, dâu bể
Chỉ hơi buồn và chống chếnh chút thôi

Giở mũ ra, hỏi tóc gió đâu rồi
Sao lại thế, trên đầu toàn sợi bạc
Bỗng giật mình loay hoay như trẻ lạc
Đây là đâu, phải cõi tạm không nào ?





03.- CHẠM

chạm li rượu đổ sạch trơn
mới hay mình đã run hơn mọi lần

chạm đôi đũa lệch tần ngần
thì ra mồi cũng hết dần đĩa tôi

chạm chân ai đối diện ngồi
định xin lỗi bạn, lại thôi, nhầm mà

chạm con mắt liếc ngang qua
giã vờ cúi xuống gắp ba sợi mì

chạm môi em cắn thầm thì
nghe sau lưng quạt chậm rì cánh quay

chạm vai tiếp thị loay hoay
rót bia như nước mắt cay xé chiều

chạm người khách bước liêu xiêu
hình như buồn quá uống nhiều rượu chăng

chạm kia bác bảo vệ rằng
kìa nơi thải thứ người ăn uống thừa

chạm hoá đơn tính tiền vừa
hai trăm ngàn chẵn xin thưa, rẽ à

chạm tay tiễn bạn về nhà
dắt xe khỏi quán tôi quà quạng tôi

đường đời vạn nẻo xa xôi
còn cơn bỉ cực chạm rồi thái lai ...

Sài Gòn, kỉ niệm lần họp mặt facebook Sài Gòn 19.5.2014


04.- ĐỢI YÊU

cỏ mềm đợi giọt sương đêm
nắng lên lá nõn nà thêm một ngày

giếng trong đợi mảnh trăng gầy
cau hai hàng cúi đầu say đắm nhìn

hoang đồng nứt nẻ chân chim
đợi cơn mưa đất lặng im thầm thào

dây tơ hồng quấn quanh rào
đợi duyên thắm lẳng lặng bào nhẵn trưa

yêu em tôi khắp nơi thưa
rằng xin đợi dẫu tuổi vừa năm mươi

tình già đôi lúc bập bươi
quờ tay đâu cũng đụng người năm xưa ...