Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2015

"Trí thức phải biết thức tỉnh dân chúng"




TS Phạm Duy Nghĩa: 


 Với tư cách của một người từng đi du học tại một số trường đại học danh tiếng ở nước ngoài, và cũng là một chuyên gia hàng đầu về luật pháp, anh có thể nói gì một cách chung nhất về ý thức tuân thủ pháp luật của người Việt Nam ta?

TS Phạm Duy Nghĩa.

TS Phạm Duy Nghĩa: Theo tôi, một cách chung nhất thì người Việt Nam có khả năng chống lại pháp luật. Vì trong hơn nghìn năm Bắc thuộc, người Trung Quốc đã mang luật vào đất Giao Chỉ nhưng thứ luật cai trị đấy không thể ngấm tới làng xã của người Việt Nam. Và chúng ta cũng phải cám ơn cái tinh thần đó nên người Việt Nam mới trường tồn, mới bảo vệ được bản sắc Việt. Sau đó, thực dân Pháp trong 80 năm đô hộ cũng mang luật của họ vào, nhưng người Việt Nam cũng mang tinh thần kháng lại những yếu tố vị lai, ngoại lai đó…

Những năm của kế hoạch hóa tập trung thì cái gọi là mô hình nhà nước toàn trị với nhà nước làm thay dân cũng mang luật vào đây cũng bị cưỡng lại, thế nên mới phát sinh cái gọi là kế hoạch hóa không toàn diện lắm. Chính vì thế mô hình CNXH ở Việt Nam mềm mại hơn vì cách của mình làm không triệt để. Đặc tính không triệt để đó cũng thể hiện trong pháp luật. Tôi kết luận lại là, dân tộc Việt Nam nói chung là không có thói quen tuân thủ pháp luật.

Tôi thì lại nghĩ hơi khác. Tôi nghĩ cái anh gọi là thói quen không tuân thủ pháp luật là một kiểu pháp luật khác mà sở dĩ người ta tồn tại được không phải do những cái ta gọi là pháp luật mà do bản thân làng xã Việt Nam, cộng đồng Việt Nam, trong xã hội phong kiến Việt Nam có những điều luật riêng của mình. Vậy nếu người ta sống đúng với luật đó thì đâu phải nước ta là một nước không sống với pháp luật?


- Tôi không nói xã hội ta không có pháp luật mà tôi đang nói tới việc người dân chống lại tất cả những quy tắc mà người cai trị mang vào. Điều đó được kiểm định trong lịch sử. Còn cái mà anh gọi, đó là luật lệ, theo nghĩa rộng, tức là cứ một cộng đồng người là phải có quy tắc sống. Cộng đồng dù có man rợ đến thế nào cũng có những nguyên tắc sống. Những cái đó không gọi là luật mà là tục lệ, kiểu như quy ước hay quy phạm xã hội thì dân tộc nào cũng có. Đặc biệt là dân tộc Việt, thậm chí đến gần đây, doanh nhân cũng không cần biết luật kinh doanh, nhưng họ hành xử vẫn rất tốt. Điều này thì kể cả ở các xã hội như Nhật hay Hàn cũng vậy.
?
- Ý tôi muốn nói là luật pháp trước hết là luật của người cai trị áp đặt vào, còn nếu anh hiểu những quy tắc để điều hành một xã hội có trật tự thì Việt Nam là xứ sở từ xưa tới nay không có kiểu như thế. Mình là xứ sở nhân trị theo nghĩa đạo đức, truyền thống, tôn ti trật tự. Những cái đó không phải là luật, mà chỉ là những quy tắc, luật lệ con người đặt ra, nó bị cưỡng chế không phải bởi nhà nước. Ví dụ anh nào đó bị cả dòng tộc tẩy chay, bị cả làng tẩy chay thì những cái đó không gọi là luật, không mang tính cưỡng chế bởi nhà nước. Những cái đó người ta gọi là những thói quen, tục lệ, quy phạm xã hội (rất mạnh vì nó vấp phải sự chống đối của toàn xã hội). Nếu anh không tuân thủ thì họ tẩy chay. Ví dụ nếu anh là doanh nhân, anh không vào được dây kinh doanh nào mà anh đối xử kém, bị mất mặt có nghĩa là anh khó mà tồn tại được. Nhưng chúng ta không đi khái niệm quá xa như thế.

Theo anh, cách sống, lựa chọn nào tốt cho một xã hội mang đầy tính đặc thù như xã hội Việt Nam? Sống dựa trên những thói quen, những tiền lệ hay là sống theo những cái nghiêm ngắn, mạch lạc, mực thước của luật pháp nhà nước?

- Còn tùy. Có hai học phái lớn chi phối toàn bộ tư duy của người phương Đông. Đó là học phái nhân trị của những người theo Nho giáo với Khổng Tử là người đại diện và học phái của Hàn Phi Tử rất nổi tiếng. Ông ta nói, một xã hội phải được cai trị bằng pháp luật, luật pháp nghiêm minh làm cho xã hội có trật tự. Như vậy từ thời thượng cổ thì người ta có thể điều hành theo hai cách, dùng kỉ luật mềm như đạo đức, uy tín để tạo ra những quyền lực mềm mại hơn hoặc đi theo những kỉ cương hà khắc mà mình phải tuân theo. Thực tế, chế độ Trung Hoa cổ đại không theo một học phái nhất định mà là cộng trừ của hai cái, gọi là ngoại nho, nội pháp, tức là những nhà cai trị bên ngoài thì vẫn khuyến khích có rường cột dựa trên trung hiếu, tiết nghĩa, tam cương ngũ thường, đó là về mặt đạo lý. Về mặt cai trị, vẫn có những hình phạt rất rõ để răn đe, những giá trị nào mà anh vi phạm thì anh sẽ bị chính quyền can dự. Ví dụ như phạm tội bất hiếu hay bất trung thì cả thể chế sẽ tấn công. Nói cách khác, xã hội phương Đông như mình dung hòa nhân trị với pháp trị.

Anh đánh giá thế nào về hiệu quả sự dung hòa giữa dân trị và pháp trị trong nhà nước ta hiện nay? Trong phương thức quản lý xã hội đó, đâu là “gót chân Asin” có thể dẫn đến sự sai phạm, những rối loạn xã hội?


- Đi xa hơn và tìm hiểu sâu hơn, tôi không nghĩ điều tôi vừa nói không chỉ đúng với Trung Hoa cổ đại. Nếu mình đọc lịch sử của các nước châu Âu hay Mỹ thì luật pháp cũng chỉ là một phần tạo nên của kiến trúc thượng tầng. Xã hội còn được điều tiết bởi hiệp hội, cộng đồng, gia đình. Người ta cứ nói người phương Đông trọng gia đình nhưng nước Mỹ cũng thế. Anh hãy đến thăm nước Mỹ vào dịp Giáng sinh, anh sẽ thấy các gia đình tại Mỹ cũng rất trân trọng từng li từng tí truyền thống gia đình. Anh hãy sang Đức để xem con cháu họ chăm chút từng kỉ vật gia đình.

Ví dụ ông bố đã từng tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất hay chiến tranh thế giới thứ hai thì con cái rất tự hào, nó sẽ lưu giữ tất cả mọi quân trang, quân dụng. Đã làm giống người thì phải nhớ đến tổ tiên của mình, anh em, đồng bào, chiến hữu của mình. Trong xã hội đương đại, phải tìm cách tương tác giữa luật như là những quy phạm do nhà nước đặt ra và cưỡng chế thi hành, giữa lệ là những thói quen, tục lệ mà người ta tôn trọng và cả những quy phạm hoàn toàn không mang tính pháp luật như niềm tin, đức tin... Bên cạnh pháp lý còn có giáo lý của tôn giáo, niềm tin của tín ngưỡng, và cả những giá trị về mỹ học: người ta cho cái này là tốt, cái này là xấu. Về khía cạnh này cũng cần phải bàn thêm là ở người Việt Nam thì chủ nghĩa cá nhân hơi yếu thành ra người Việt Nam hay uốn theo dư luận, chịu sức ép của dư luận bảo thế là tốt hay xấu…





Điều đó có dẫn tới rối loạn nào cho xã hội hay ứng xử xã hội hay không? Như anh vừa nói, tính cá nhân của người Việt Nam hơi yếu, hoàn cảnh người Việt Nam ngày xưa sống luôn phải dựa vào thiên nhiên thành ra chúng ta sống cũng phải lựa theo hoàn cảnh xã hội. Theo anh có ảnh hưởng đến ứng xử của người Việt Nam?

- Anh có thể nhuộm tóc vàng, mặc quần bò áo thụng, nhảy hip-hop nhưng anh đã là người Việt thì anh vẫn có trong người những tiềm thức những giá trị anh tôn thờ, anh quý, anh yêu, anh ghét. Tóm lại, quan hệ tương tác giữa những luật lệ và các giá trị xã hội là một quan hệ vĩnh cửu, đấy là một ý. Còn nó có dẫn đến rối loạn gì không thì tôi có thể nghĩ, nếu luật pháp đưa vào mà vênh với truyền thống dân tộc thì có thể dẫn tới luật trên giấy và luật ngoài đời khác nhau. Nếu luật pháp tôn trọng những giá trị hiện hữu, nâng đỡ truyền thống thì nó sẽ lên một cái bổ trợ, dung hòa, làm cho xã hội tác động đến đâu, luật pháp tác động đến đâu, quy phạm xã hội tác động đến đấy, cái đó là những vectơ, những lực kéo. Nghĩa là nếu làm cho nó đồng chiều thì xã hội sẽ yên ổn, sẽ có nền văn hóa ổn định, nếu nó trái chiều thì nó sẽ triệt tiêu lẫn nhau, luật phá hoại văn hóa và ngược lại, văn hóa triệt phá luật.

Có ý kiến cho rằng công tác biên soạn luật của ta vừa qua do một số “trí thức Tây học” về thực hiện, thành ra có vẻ như bị mang tính sao chép, mô phỏng tư duy logic của phương Tây nhiều quá nên đôi khi nó vênh với truyền thống của chúng ta. Thực tế hiện nay luôn có độ vênh giữa luật và những điều lý giải thực tế. Anh đánh giá thế nào? Nó sai hay nó đúng và như thế nào?
- Nếu nói về văn hóa mà chúng ta hiện có thì nó có một độ gẫy nhất định với truyền thống. Anh không thấy người Việt Nam vào đình chùa miếu mạo không đọc được câu đối, anh không thấy trẻ con không đọc được gia phả của tổ tiên. Có vẻ như cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, người Việt Nam chứng kiến những khắc khoải, những mong muốn cải cách và những người chủ trương Tây học có vẻ như chỉ nhìn thấy sự sáng ngời của văn minh phương Tây mà không nhìn thấy cái gọi là sức mạnh tiềm ẩn trong lòng những nhân tố Việt, trong nền văn minh lúa nước. Ví dụ như việc chuyển ngữ sang quốc ngữ có thể thành công về mặt phổ cập biết chữ, nhưng cũng có tác hại lâu dài, làm cho văn hóa của tiền nhân và các thế hệ sau bị đứt. Điều đấy cũng có liên hệ với luật pháp. Chúng ta giảng dạy, nghiên cứu luật hiện nay không hề có dẫn chiếu nào với luật Hồng Đức hay luật Gia Long.


Có 2 bộ luật lớn của nước Việt, đó là bộ luật đời Lê, còn gọi là Quốc triều hình luật và bộ luật đời Nguyễn 1812, thì chúng ta hầu như bị đoạn tuyệt với những giá trị đó. Tôi lấy ví dụ mình cứ nói anh nào gây thiệt hại cho anh khác thì phải đền bù nguyên trạng, có nghĩa là nếu tôi chạm vào anh thì tôi đền cho anh, coi như không có chuyện gì xảy ra. Ngày xưa trong luật Hồng Đức không như vậy, nó có thể phạt 3 đến 4 lần tùy theo nếu anh cố ý gây ra thế. Nghĩa là không nguyên trạng được mà phải cho anh sợ, lần sau không có chí khí để tái phạm. Cũng như vậy đối với vi phạm sở hữu trí tuệ …v…v… Có những loại tội không thể phạt mà phải đánh công khai, những cái đó thì người Mã Lai, người Singapore vẫn còn duy trì. Ví dụ anh hỗn láo với bố mẹ thì phạt 50 nghìn, 100 nghìn không có giá trị gì cả, nhưng mang anh trước đình, đánh cho cả làng xem thì lúc ấy mới có giá trị,

Tội ngoại tình thì gọt đầu bôi vôi có giá trị răn dạy hơn là “đóng cửa bảo nhau”. Ý tôi muốn nói là có rất nhiều thứ của tiền nhân mà chúng ta đã không kế thừa, điều đó rất đáng tiếc...
- Cũng như vậy với 80 năm di sản pháp luật của người Pháp. Người Pháp ra đi mà không để lại dấu ấn đáng kể nào về luật pháp với chúng ta. Các vị có thể tìm đọc bài “60 năm gia tài của thực dân” sẽ thấy nó chua chát vì người Pháp ra đi không để lại giá trị đáng kể nào nào về thể chế và luật pháp.

Chính điều đó tạo sự khó khăn cho các nhà làm luật hiện nay?
- Sau đó 30 năm chúng ta theo kế hoạch hóa tập trung, có thể nói thời gian đầu chúng ta không tôn trọng luật pháp. Giải tán luôn Bộ Tư pháp. Chúng ta đã từng có một trường luật ở 33 Hàng Buồm nhưng rồi lại giải tán luôn. Năm 1946, Cụ Hồ có một sắc lệnh thành lập một Ban pháp lý tại các trường Đại học Việt Nam ở 19 Lê Thánh Tông. Sau đó khá lâu chúng ta đã lãng quên việc coi pháp luật thành những giá trị nên chúng ta giải tán Bộ Tư pháp. Cho đến tận ngày nay giới luật sư Việt Nam vẫn đang chiến đấu để có một vị trí xã hội quan trọng, còn thẩm phán vẫn chưa có uy, chưa có giá trị xã hội như cần có. Như vậy là chúng ta đã lãng quên pháp luật như một giá trị cần được thượng tôn, câu chuyện này mới bắt đầu quay trở lại khoảng hai thập niên gần đây. Xã hội cần có thời gian để quay trở lại những giá trị đã mất.

Theo anh, liệu tình trạng ấy có nằm trong những cái sơ xảy, thao tác quyết định hay nó nằm trong những hình mẫu sẵn của xã hội mà chúng ta đã lựa chọn từ nhiều năm về trước khi bắt đầu xây dựng xã hội mới?

- Có lẽ nó dài hơn cái anh hỏi. Có lẽ ở cuối thế kỷ XIX, người Việt Nam đã có những cuộc khủng hoảng những giá trị, khủng hoảng luôn những tầng lớp tinh hoa. Tôi hơi hoài nghi ai là tầng lớp tinh hoa ở Việt Nam ? Tầng lớp Tinh Hoa thời Lý-Trần là các nhà sư rất có uy tín. Ngay cả nhà vua cũng phải thỉnh giáo các cao tăng, thậm chí các nhà vua khi tìm thấy sự yên bình rồi thì cũng đi vào chùa. Chùa chiền là nơi tập hợp tinh hoa của thời đó. Đến thời Lê ta đã phá tan thế tam giáo đồng nguyên khi quá nhấn mạnh vào Nho giáo như công cụ và học thuyết cai trị. Phật giáo từ một tín ngưỡng của dân tộc trở thành nơi ẩn dật, nơi thôn quê.

Thậm chí đến những năm 80 của thế kỷ XX, Phật giáo về cơ bản trở thành hang cùng ngõ hẻm, ảnh hưởng của Phật giáo rất thấp và bây giờ tái sinh. Có nghĩa là đến thế kỷ XIX, khi Nho giáo suy tàn, những ông thầy nho không mang lại tư duy cải cách cho đất nước này và bị sụp đổ theo ý nghĩa đó. Và Nho giáo đã trở thành hủ nho, trở thành phản động theo nghĩa cản trở sự phát triển. Dân chúng nhìn vào các ông đồ nho như những ông gàn, những ông thượng tôn những giá trị lỗi thời. Có vẻ như Nho giáo đã bị lỗi thời vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Và Ngô Tất Tố, Trần Trọng Kim là những ông thầy đồ cuối cùng đã cố gắng làm cho hậu sinh hiểu Nho giáo không chỉ là hủ nho mà nó còn có những sức mạnh riêng của nó. Sau đó ở miền Nam những năm 60 của thế kỷ XX đã có những cố gắng tìm cách làm cho xã hội phát triển xong vẫn dựa trên những giá trị truyền thống Việt Nam nhưng hình mẫu chưa tìm ra.

Ngoài Bắc, Nho giáo bị coi là một thứ tàn dư của phong kiến, không được nghiên cứu và như thể đã phải lưu vong trong tiềm thức của người Việt, chứ không được phổ cập, nghiên cứu đàng hoàng. Mãi đến gần đây mới phổ biến lại những tác phẩm như “Nho giáo” của Trần Trọng Kim hay như cuốn sách phê phán Nho giáo của Ngô Tất Tố (Ngô Tất Tố không chỉ là nhà văn hiện thực phê phán mà ông còn là một nhà nho). Những công trình của 2 nhà nho này đã được sống lại.

Hiện nay ở Trung Quốc có một trào lưu gọi là “tân trang lại Nho giáo cho hợp thời”, ở Singapore thì việc đó đã diễn ra sớm hơn. Trong miền Nam, những năm 60 có những cố gắng đến những năm 70 thì đã tan tành… Sau đó, những học giả như Phan Ngọc hay Trần Ngọc Vương, những nhà nghiên cứu vắn hóa, đã tìm được những giá trị của Nho giáo và sức sống dai dẳng của Nho giáo. Ý tôi muốn nói, Việt Nam đã có một cái gì đó như khủng hoảng về niềm tin lớn trong hàng thế kỷ, còn mô hình Việt Nam tìm kiếm thì tôi chắc chắn phải tìm dựa trên những giá trị truyền thống của Việt Nam, tất cả những gì chống lại truyền thống đều khó.



TS Phạm Duy Nghĩa.


Việc pháp luật không được tôn trọng đúng mức của nó, vai trò của người thực thi pháp luật như thẩm phán, quan tòa không có được vị trí xứng đáng với họ. Đó là do hệ lụy của các thao tác, các quyết định nào đấy sơ xẩy trong cái xã hội ta đã chọn khi xã hội ấy không phải là luật pháp mà đôi khi vai trò tối thượng đó là sự diễn giải luật pháp của các lãnh đạo, nói 1 cách nhẹ nhàng là thế.

- Từ hơn hai thập niên trở lại đây, tức là kể từ khi từ Hiến pháp 1992 được thông qua và những lần sửa đổi sau này, chúng ta mới có những tranh luận về thượng tôn pháp luật. Trước đó chúng ta chưa đặt vấn đề này ra.


Có thể do ý thức cá nhân của người Việt Nam không cao, khi mọi việc đều do cấp cao lãnh đạo quyết định, thành ra khi xã hội cởi mở, chúng ta bắt đầu đẩy mạnh xã hội xây dựng theo luật pháp thì điều đó chưa ngấm vào người dân và có thể nói hiện tại dân ta đang sống rất thụ động trong việc tìm hiểu về dân quyền của mình, xác định vai trò, nghĩa vụ của mình trong việc xây dựng xã hội ấy và vẫn nghĩ rằng tất cả các việc ấy là của nhà nước, của ai đó từ trên xuống. Theo anh, có phải đó là một thực tế không? Và nếu có thực tế đó thì ta phải làm gì để gỡ bỏ thực tế đó?


- Quan có thể thay được nhưng không thay được dân, nhà nước mà chê dân thì không ổn vì những đồng thuế là do dân đóng lên. Dân lý, dân tâm rất dữ dội. Không một nhà cai trị nào chê dân được. Đó là cách đặt vấn đề rất sai vì anh phải sống với những người tạo nên quyền lực cho anh. Khởi nguồn của quyền lực là dân chúng, có người bị trị thì anh mới có quyền cai trị, kể cả nhà vua. Có vẻ như văn hóa Việt Nam chứa đựng những yếu tố không khuyến khích sự sáng tạo, sự phát triển mang tính phá cách, chưa hẳn khuyến khích một xã hội thực sự tự tôn pháp luật. Ví dụ, xã hội Việt Nam vẫn tồn tại tâm lí ghét người giàu như “xấu đều hơn tốt lỏi”, hay thói kỳ thị khi tự nhiên trong làng có một anh xây cổng nhà sáng trưng lên, hoặc một anh phát biểu mang tính cá nhân. Tức là không khuyến khích sự vuợt trội của cá nhân, không khuyến khích những ai nói công khai “tôi giỏi giang đây”... Do xã hội Việt Nam trọng tình nên dị ứng với chủ nghĩa cá nhân.
Liệu điều anh vừa nói có chứng minh rằng xã hội Việt Nam không cần pháp luật nếu cứ sống đúng như thế. Nếu thực sự như thế thì mọi cố gắng của chúng ta trong việc xây dựng nhà nước pháp trị sẽ khó dẫn đến kết quả tích cực, nếu tâm lý cố hữu của người Việt đúng theo cách anh nói như vậy?
- Đến mức ấy thì không. Nhưng kể từ khi dân Việt Nam mình theo Nguyễn Hoàng vào Nam, chúng ta có cần luật đâu, vẫn sống với luật đời Lê đấy thôi. Người Việt có thể dựa vào truyền thống vẫn tồn tại và phát triển tốt, chứ không đến mức lúc nào cũng cần những đạo luật mới. Hoặc chúng ta thử làm một cuộc điều tra, đạo luật mới có thể đem lại sự tự do đến đâu thì sẽ hiểu…

Theo anh, cách xây dựng luật của mình trước hết và hơn cả phải dựa vào những quy cách ứng xử, truyền thống… Nếu chỉ đơn thuần áp dụng các điều lệ, luật lệ hay ho mà phương Tây đúc kết rất khó để tạo một bộ luật thực sự có thể mang lại những sự tốt đẹp tới cho đời sống người Việt?

- Về câu chuyện này thì có thể tham khảo thời Minh Trị đã thuê các học giả của Đức biên soạn luật cho nước Nhật. Vấn đề lớn đặt ra là, liệu có thể vay mượn luật của phương Tây để điều chỉnh luật của phương Đông không? Câu trả lời là có thể. Người Nhật đã thành công, người Hàn về một phương diện nào đó đã thành công, Người Nhật bê nguyên luật của mình sang bên Hàn và người Hàn áp dụng nguyên si. Từ đó ta rút ra một vài nguyên lý, thấy những dân tộc đang phát triển như mình nếu thua kém văn minh phương Tây thì mình phải học tập họ. Rút kinh nghiệm xem cái gì cần học, cái gì không cần học…


Cái cần học, đó là tinh thần tôn trọng pháp luật, tôn trọng tự do cá nhân, tôn trọng sở hữu cá nhân, tôn trọng quyền tự định đoạt và sáng kiến của người dân, tôn trọng một xã hội coi pháp luật như một công cụ để chung sống hòa bình. Pháp luật không phải để cai trị, pháp luật là để cho nhà nước với người dân sống với nhau thoải mái, đến mức tôi không hiểu biết pháp luật, nhưng tôi vẫn sống tốt, vẫn tuân thủ pháp luật . Và đó là điều tuyệt vời! Luật của người Nhật được ban hành hoàn toàn theo mẫu của phương Tây, thế mà nó vẫn tồn tại đó thôi. Vậy mình phải vay.


Trong quá trình vay mượn đó, họ đi trước mình thì mình phải nghiên cứu cái gì giống mình, có thể trồng trên đất của mình còn cái gì mang vào trồng sẽ bị héo. Có một thuyết nghiên cứu gọi là “Cấy luật từ hải ngoại vào nước mình”. Khi cấy thì nó sẽ có những tác động tương hỗ và tác động phản nghịch. Phản nghịch là những yếu tố về tâm lý, văn hóa, địa chính trị..v..v.. Ví dụ có những đạo luật khi cấy vào nước ta sẽ teo đi…


Nếu thực sự muốn có sự thay đổi thì chúng ta phải thay đổi điều gì trong đạo luật của chúng ta? Ở mặt gốc rễ, cơ sở, nền móng nếu không tất cả đạo luật của ta chỉ để làm cảnh vì nó không động đến cái căn bản nhất của vấn đề là hệ thống hoàn chỉnh cái nọ bổ sung cái kia. Anh không thể xây một cái móng như thế mà lại đêm một cái nhà có kiến trúc khác tới được.

- Có cái tôi đồng ý với anh nhưng có cái không. Luật không cốt nhiều, chỉ cốt nghiêm theo nghĩa cái gì du nhập dươc mọi người đều tuân thủ thì luật đó mới lên làm (từ quan đến dân). Chứ nhiều luật mà dân chúng nhờn, rồi chi phí xã hội tạo ra để dân chúng tuân thủ luật rất khó và nó mất nghiêm đi. Tôi đồng ý, những gì mà vay vào đây cần phải thích ứng và cẩn trọng…


Làm sao để nâng cao ý thức dân quyền của từng cấp hội? Trí thức có thể làm gì?

- Tôi thấy người Nhật có một câu rất hay là “nước Nhật trở nên mạnh mẽ bởi nước Nhật có một giới quan chức có liêm sỉ, một giới doanh nhân có dũng khí và một giới trí thức có tiết khí”. Trí thức gồm hai chữ “trí” và “thức”. Trí thức là người hiểu biết và người dùng hiểu biết của mình để thức tỉnh dân chúng. Phần thứ nhất có vẻ người Việt Nam làm được, nhưng đôi khi dám nghĩ đã là một chuyện, dám nói là chuyện khó hơn và nói hết là chuyện khó hơn nữa.


Ở Việt Nam phải có một cơ chế làm cho những người trí thức dám mở miệng và điều này phải quy chuẩn thành điều luật. Hình như Cụ Hồ có định nghĩa dân chủ là làm cho dân chúng mở miệng ra. Khi nào dân mở miệng ra được? Khi đầu phải rõ, không phải lo sợ, không phải nhìn nghiêng nhìn ngửa thì miệng mới mở ra được. Muốn vậy phải từng bước để trí thức có trách nhiệm, thấy được sức mạnh của họ. Họ không bị trừng phạt bởi cách nghĩ khác, cách nhìn khác, cách phản biện...


Hồng Thanh Quang (thực hiện)
http://daidoanket.vn/cung-ban-luan/ts-pham-duy-nghia-tri-thuc-phai-biet-thuc-tinh-dan-chung/79609

Thứ Năm, 17 tháng 12, 2015

Từ Bài Thơ Của Ông Già Mất Rau




Lý Thái Xuân


Bản tin về một ông già mất rau viết Tối Hậu Thư cho Cô Láng Giềng đăng hôm nay (ngày 17 tháng 10, 2015) không chỉ là một chuyện lạ, chuyện vui, mà còn là một bài học lớn: bài học về văn hóa, tình láng giềng, nếp sống văn minh, và sau cùng là bài học yêu nước.

Yêu nước không chỉ có thể là một ông tướng cầm quân đánh giặc, không chỉ có thể là một chính khách lão luyện ngoại giao tài tình, tranh đấu trên bàn hội nghị quốc tế, cũng không chỉ có thể là một anh chiến sĩ dũng cảm ngoài trận địa, mà có thể là những nông dân, những ông lái đò, những nàng dệt lụa, những nông dân chất phác, hay những cô hàng chè tươi, khi gặp tình huống cũng có thể thi thố tài năng và tự ái dân tộc.

Hôm nay, bài thơ "mất rau" lá thư đơn giản của một lão nông dân, nhưng có trình độ giáo dục, và ứng xử nho nhã, thanh lịch nhắc chúng tôi những giai thoại ứng xử của tiền nhân đối với cường quốc. Có phải chăng ông có nếp sống văn minh hơn hẳn nhiều người khác, kể cả nhiều người trong giới học thức, quan chức hay khoa bảng.



Trước tiên, người viết không biết dịch ra tiếng Mandarin, nhưng ước ao được Bộ Văn Hóa /Giáo Dục/ hay Ngoại Giao gửi bài thơ này tặng chính quyền Trung Quốc. Có lẽ nên giữ nguyên văn, nguyên ý của bài thơ như thế. Ao ước này nếu được thực hiện sẽ là một niềm hạnh phúc của người dân đang sống trong giai đoạn bị người láng giềng khổng lồ hiếp đáp.

Chúng ta đã từng nghe những giai thoại rất hấp dẫn về những chuyện đi sứ hay đón sứ, từ các quan trạng thông minh (như Mạc Đỉnh Chi của ba đời nhà Trần, Lương Thế Vinh đời Vua Lê Thánh Tông, Giang Văn Minh đời Vua Lê Thần Tông,...) đến Trạng Quỳnh và Bà Điểm hóa thân thành những lão chèo đò và cô gái bán quán thâm nho khiến cho các sứ thần Trung Hoa phải bội phục.

Ngày nay, trước sự kiện các đảo ngoài Biển Đông của ta bị Trung Quốc lấn chiếm, bài thơ "Nên Sống Tử Tế" của lão mất rau không khác chi một lời nhắn chính trị, tầm cỡ quốc gia. Trong văn chương, cô gái "chửi mất gà" ngày xưa (xem phụ đính số 2) có cái duyên độc đáo của nó. Nhưng cao tay hơn, có lẽ là ông lão mất rau ngày nay. Xin xem bài đánh máy của trang http://soha.vn/ ở phần Phụ Đính.



Trung Quốc xây dựng trên bãi đá ngầm ở Trường Sa, vùng đang tranh chấp.

Thử đối chiếu với tình thế "mất đảo" của ta, bài thơ thật là thích đáng: Mất rau / mất đảo! Người viết xin được làm học trò của ông lão nông dân, và xin phép "thầy" nhại lại bài thơ "mất đảo, tối hậu thư":


Nên sống tử tế

Hỡi các anh chàng "nam tử Hán"
Hoàng, Trường Sa có chủ hẳn hoi!
Chứa bao công sức mồ hôi.
Phải đâu rơi giữa biển trời mà ghen.

Các anh nhìn cũng quen-quen.
Nỡ nào làm chuyện đê hèn khó coi?

Mỗi hòn đảo là bao bát mồ hôi
Của em lận đận đứng ngồi lom khom
Em cần câu cá biển Đông
Cạnh nhà để đủ nuôi dòng Lạc Long

Đảo kia tuy bé cỏn con
Anh làm như vậy liệu còn chữ "tâm"?
Có ăn có học mà nhầm
Bản tính trộm cướp ẩn trong tâm chàng:

Đem tàu xây cất dọc ngang
Người đi ăn trộm mà sang cái gì?

Anh ơi! Bỏ tính ấy đi
Sống cho trong sạch, hay gì "quẩn quanh"?
Tự hào với chị, với anh
Với con, với cháu của mình làm sao?

Thụ hưởng trên sự cướp giật của người láng giềng là một hành động vô liêm sỉ, hèn hạ đê tiện đừng để người đời phỉ nhổ nhé, tanh tưởi bẩn thỉu lắm đấy!

Chú em láng giềng cần cù ra biển đánh cá đây!

Một người nông dân trồng rau để sống. So với những kẻ lọc lừa để làm giàu: Ai sang, ai hèn? Ai văn minh, ai lạc hậu? Ai có phẩm giá và ai hạ lưu? Xem lại tư cách của chính mình, có bằng ông lão trồng rau hay chưa.


Tàu cá QNg 96011 cập đảo Lý Sơn sau khi bị nạn sáng 18-4.
Lực lượng biên phòng lên tàu cá xác minh sự việc



Lý Thái Xuân

Phụ Đính:

1- “Tối hậu thư” bằng thơ của “cụ già lọm khọm tưới rau” | 17/10/2015 20:31

Nguyên văn bài thơ của cụ già tưới rau:

Nên sống tử tế

Hỡi những nàng con quan thứ sử (*)
Luống rau này có chủ hẳn hoi
Chứa bao công sức mồ hôi
Phải đâu cỏ mọc giữa trời mà ghen
Các nàng nhìn cũng quen-quen
Lỡ nào làm chuyện đê hèn khó coi
Mỗi ngọn rau là bát mồ hôi
Cụ già lận đận đứng ngồi lom kh
Cụ mong có chút rau ngon
Cụ mong có chút rau ngon
Ăn để đỡ bị hao mòn lỗ chôn
Mớ rau tuy bé cỏn con
Nàng làm như vậy liệu còn chữ tâm
Có ăn có học mà nhầm
Tính ăn trộm vặt ẩn trong tâm nàng
Đem dao cắt vội cắt vàng
Người đi ăn trộm còn sang cái gì
Nàng ơi! Bỏ tính ấy đi
Sống cho trong sạch, hay gì quẩn quanh
Tự hào với chị, với anh
Với con, với cháu của mình hay sao?

Thụ hưởng trên mồ hôi công sức của người lao động là một hành động vô liêm sỉ, hèn hạ đê tiện đừng để người đời phỉ nhổ nhé, tanh tưởi bẩn thỉu lắm đấy!
Cụ già lọm khọm tưới rau đây!

_____________________
(*): là một chức quan trong thời kỳ cổ đại của lịch sử Trung Quốc và lịch sử Việt Nam, đứng đầu đơn vị hành chính "châu", huyện.







"Yêu đi cho đông đỡ lạnh!"

 Những chiều đông vươn mình đạp xe trong gió buốt, bàn tay bất giác lần tìm mông lung rồi tự nắm chặt. Bỗng chốc, thấy thèm được yêu thương, thèm được bảo bọc quá. Em kiêu hãnh, em mạnh mẽ, em tự do… Nhưng em cũng là con gái mà.


Mà chẳng hiểu tại sao mỗi độ đông về, người ta lại muốn yêu nhau, anh nhỉ ? Chắc tại bàn tay cóng muốn có một bàn tay khác nắm lấy. (ảnh minh họa: Đinh Văn Linh)
“Đông đến rồi kìa… mình hò hẹn đi anh
Người ta bảo chuyện hẹn hò tuyệt lắm
Nắm tay người yêu hình như là rất ấm
Chứ chẳng lạnh lùng như tay của người dưng”.


“Yêu đi cho đông đỡ lạnh!”, tụi bạn vẫn thường bảo em thế mỗi độ đông về. Mà tầm này đông đã về rồi được một dạo rồi đấy anh! Khi góc phố nhỏ buổi đêm ngào ngạt mùi hạt dẻ nướng. Khi dòng người vội vã ngoài kia như chật hơn vì những chiếc áo ấm to khụ. Khi những chiếc khăn len sặc sỡ đủ màu của con gái tụi em tô ruộm một góc sân trường. Khi đôi tay lạnh hơn, bàn chân ngại bước và lòng người bỗng sao yên ắng lạ… Ấy chính là lúc đông về. Đông về lặng lẽ… và rồi gieo vào lòng những khoảng trống lặng im như thế…

Mà chẳng hiểu tại sao mỗi độ đông về, người ta lại muốn yêu nhau, anh nhỉ ? Chắc tại bàn tay cóng muốn có một bàn tay khác nắm lấy. Hoặc… tại đôi vai run mong một bờ vai rộng hơn che chở cho. Đông – yêu rồi sẽ ấm hơn chăng? Hay đơn giản… Đông chỉ là cái cớ để người ta yêu nhau, vậy thôi!

Aaa… Em biết rồi! Đông lạnh lắm. Cái lạnh làm người ta thấy cô đơn hơn, yếu đuối hơn và đôi lúc còn là khờ khạo hơn nữa… Thế nên người ta tìm đến nhau, rồi yêu nhau như một phản xạ tự nhiên của con người hướng tìm về ánh lửa trong đêm tối. Mùa đông chẳng khác gì đêm tối cả. Nó mịt mờ rồi khiến người ta nhầm lẫn. Bởi cái nhiệt độ dưới mức trung bình ấy làm tê cứng nhiều thứ lắm. Đôi khi là làm tê cứng cả trái tim. Thế nên những rung động cũng không còn nhạy bén và chuẩn xác. Thế nên người ta cứ yêu nhau vậy thôi. Yêu nhau vì đông đến. Yêu chẳng nhất thiết cứ phải là vì yêu.

Cái mùa đông của đất trời kia còn có kì hẹn trước. Nhưng trái tim con gái tụi em có nhiều lắm những mùa đông bất chợt. Một thất bại trong cuộc sống, một nỗi tủi hờn chẳng biết tỏ cùng ai. Hay chút ít lòng kiêu hãnh bị người khác làm tổn thương… Thế là mùa đông trong lòng của mỗi cô gái sẽ đến. Thế là bắt đầu lần tìm trong bóng tối cái thứ người ta vẫn gọi là tình yêu. Tình yêu khi ấy chẳng khác gì một liều thuốc giảm đau cả, chỉ biết làm tê liệt cảm giác chứ chẳng chữa được bệnh gì.

Đông đến… người ta nô nức yêu. Yêu vì Đông đến.
Yêu chẳng nhất thiết cứ phải là vì yêu.

Anh này… Đông đến thật rồi… Những chiều đông vươn mình đạp xe trong gió buốt, bàn tay bất giác lần tìm mông lung rồi tự nắm chặt. Bỗng chốc, thấy thèm được yêu thương, thèm được bảo bọc quá. Em kiêu hãnh, em mạnh mẽ, em tự do… Nhưng em cũng là con gái mà. Đứng trước Đông lạnh lùng và u ám, bỗng thấy mình bé nhỏ và yếu lòng ghê gớm. Mà đâu chỉ riêng em, bao nhịp tim bối rối ngoài kia cũng tình cờ bắt gặp lòng mình trong những chiều đông như thế. Nhưng rồi thoáng chốc lại ngu ngơ hỏi thầm: là em yêu anh – chàng trai có bàn tay ấm hay chỉ là em yêu đôi bàn tay ấm ấy? là em cần anh – cần một nửa nơi em còn khuyết thiếu hay chỉ là ta cần nhau tạm bợ những ngày đông? là ta đã mang những giấc mơ yêu để gặp gỡ rồi dệt thành “duyên phận” hay chỉ là sự chắp ghép vụng về, vội vã của hai tâm hồn cô độc mượn hơi ấm nhau những ngày đông?



Đông tuyệt lắm! Tình yêu mùa đông cũng thế!
Và… người yêu mùa đông lại càng thế!

(ảnh minh họa: Đinh Văn Linh)
Em hoang hoải hoài nghi và rồi rụt rè không dám nghĩ. Em sợ phải thừa nhận bao điều em vẫn gọi là yêu thương bấy lâu chỉ là những nhầm lẫn, ngộ nhận trong cái nỗi niềm mong mỏi dở hơi “đông này có gấu”. Em sợ những tiếng yêu đương bao ngày em nói chỉ là phản xạ nhất thời của những nô nức “yêu cho vui” em bị cuốn vào từ phút nào chẳng hay. Em sợ cái gật đầu ngày ấy là vì một phút yếu lòng chứ chẳng phải do tim mình rung động. Em sợ… tình mình chẳng là yêu…

Nhưng anh ơi… nếu như thế thật thì hóa ra tình yêu vào mùa đông chẳng phải là tình yêu thực sự ư?

Hóa ra người ta không nên yêu nhau vào mùa đông sao?

Hóa ra mùa đông chẳng có ý nghĩa gì với tình yêu cả à?

Không phải đâu em… Đông nào có lỗi. Lỗi là ở con tim lầm nhịp của mỗi người đấy thôi. Đừng yêu nhau chỉ vì đông đến. Hãy để đông thành cái cớ cho ta gần nhau hơn.

Đông… là lúc ta trân trọng hơn những cái nắm tay thật chặt, những vòng ôm thật lâu, những nụ hôn thật sâu, những lời hỏi han thật ấm áp.

Đông… là lúc nhắc ta đừng chỉ mải miết sống một mình, giục ta mau mở lòng để đón nhận những yêu thương cho ngày đông ngập nắng.

Đông tuyệt lắm! Tình yêu mùa đông cũng thế! Và… người yêu mùa đông lại càng thế!

Người yêu tôi là một chàng trai có bàn tay ấm, bờ vai rộng và thường kiên nhẫn trả lời những suy tư ngớ ngẩn của tôi. Người yêu tôi có một cô người yêu hay hỏi han, thường thắc mắc và ngốc nghếch vô cùng. Người yêu tôi và người yêu của anh ấy đã yêu nhau trong một chiều đông lạnh buốt, mưa dầm dề chảy miết một miền xa… Cho tới bây giờ, cái cô gái ngốc nghếch ấy vẫn thường ngẩn ngơ tự hỏi: Đông – yêu rồi sẽ ấm hơn chăng? Hay đơn giản… Đông chỉ là cái cớ để người ta yêu nhau, vậy thôi! Cô ấy cứ hỏi như thế và chẳng khi nào tự mình trả lời được. Nhưng rồi anh sẽ giúp cô tìm ra lời giải trong những nụ hôn ngòn ngọt của riêng anh…

Thế nên – bạn đừng quá nôn nóng, cũng xin đừng dè dặt, hãy thử đặt tay lên nơi ngực trái, thử im lặng khi ai đó nói tiếng yêu thương, hãy thử một lần thôi tự nắm chặt tay, xoè rộng và chờ một bày tay khác đan vào…

Xin hãy một lần thử…
Yêu đi cho đông đỡ lạnh!!!

Khánh Linh
http://dantri.com.vn/nhip-song-tre/yeu-di-cho-dong-do-lanh-20151215142334905.htm

EM LO


Nồng Nàn Phố


Chưa gì em đã sợ ngày mai
Sợ mình già đi lưng còng, da nhăn và gương mặt quá ư xấu xí
Sợ tuổi chín chắn anh sâu sắc cả trong suy nghĩ
Không còn cho em làm trẻ con

Sợ mốt kia tình yêu không còn
Anh là chồng đủ sáng chiều cho tròn bổn phận
Em nhét mình bẵm chăm vào bữa cơm lệ ngấn
Anh buông đũa buông thìa vùng vằng... hai đứa hết hợp nhau

Cuộc sống vợ chồng đã bắt đầu đâu
Em đã dè chừng chia ly như vừa trải qua mấy kiếp
Nhưng trời ạ! Lỡ đâu chỉ vì chê em vụng về, mè nheo, bớt đẹp
Anh dám mạnh tay với tiếng giận hờn

Lo anh thấy phiền phức nào vợ nào con
Không trai trẻ như xưa muốn vẫy vùng ngoài khơi xa trùng điệp
Đàn ông ham thác ghềnh mà vì thương nên cột chặt chân mình với tôm với tép
Mẹ con em bé nhỏ vô cùng

Chưa gì em đã sợ anh mê người dưng
Phút xao lòng đánh đổi tình nghĩa vợ chồng anh chẳng tiếc
Thế nghĩa là cô ấy và em đều ôm trái nghiệt
Anh biết thế để đo lường cho bớt thua thiệt với người ta...

Sắp đến phút linh thiêng hai đứa về chung một nhà
Em lo đủ điều em hờn đủ chuyện
Tưởng tượng ra trăm điều nên lôi anh ra đay nghiến
... Em hư heng?

Chưa gì em đã thấy mình bớt hiền
Làm vợ mà... phải dữ dằn, điêu ngoa, sát thủ thêm một tí
Để lỡ đâu khi không khí gia đình trở nên vô vị
Em như bao mụ vợ khác trên đời... gào thét để thương anh!

Chưa gì em đã sợ mình chân thành
Mình ngọt ngào và yêu anh nhiều quá
Ngày chung một giường rồi anh nhớ cho vì sao em đã
Bỏ hết sự bình thường để lo nghĩ nhiều thế về anh!

Yêu là yêu đến ngọt lành
Là thương cùng tận để thành vợ ngoan



9 dạng dịch âm đạo thường gặp và ý nghĩa thật sự của chúng




Dịch âm đạo là chuyện tế nhị nên bạn chẳng muốn chia sẻ cùng ai, thậm chí cả với bác sỹ của mình, nhưng ý nghĩa thật sự của chúng có thể cho bạn biết nhiều điều về sức khỏe.

Tất nhiên có bất kỳ lo lắng gì liên quan đến sức khỏe thì bạn đều cần trao đổi với bác sỹ để có kết luận chính xác nhất và được chữa trị nếu cần, nhưng dưới đây là một số dạng dịch phổ biến nhất, nói để bạn tham khảo:

Dịch âm đạo trong…

Đây thường là dấu hiệu của sự rụng trứng, và thường sẽ đến với bạn đúng boong theo lịch hẹn. Đây là cách tự nhiên cho bạn biết đã đến lúc nên bận rộn lên, tích cực lên nếu muốn có bầu (hoặc hãy thận trọng hơn nếu bạn không muốn dính). Và dấu hiệu rụng trứng này, do vậy, cũng đi kèm với ham muốn tăng cao.

Dịch âm đạo dạng kem mịn…

Bạn đừng phiền, vì vào ngày trước hoặc khoảng tuần trước khi kỳ kinh đến, bạn có thể tiết dịch đặc hơn, mịn hơn. Chuyện này ở mỗi người khác nhau, nhưng nói chung là cũng không cần lo lắng.

Dịch âm đạo có lẫn máu…

Điều này có thể có nghĩa là bạn sắp vào "ngày ấy" rồi. Nhưng nếu bạn mới đang ở giữa chu kỳ thôi thì điều đó có thể báo hiệu điều gì đó nghiêm trọng hơn. Các nguyên nhân có thể là do một loại thuốc bạn đang dùng, do nhiễm trùng, bị polyp, mang thai ngoài tử cung… bởi vì những khả năng là rất rộng nên bạn cần đi khám thì mới chắc được.

Dịch âm đạo có màu trắng và lổn nhổn…

Đây thường là dấu hiệu của sự nhiễm nấm, và thường thì dịch âm đạo khi này đặc, trắng, gây ngứa ngáy cả bên trong lẫn bên ngoài. Cũng may là hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều dễ dàng chữa trị được bằng thuốc, và bạn có thể phòng ngừa bằng cách vệ sinh cẩn thận, tránh những sản phẩm chăm sóc nhiều mùi hương, thay ngay đồ bơi hoặc đồ tập đã ướt mồ hôi… Bạn cũng có thể cân nhắc chuyện ngủ nude để thật sự được thông thoáng.

Dịch âm đạo có màu vàng hoặc vàng xanh…

Đây là những dấu hiệu thường dẫn đến các bệnh như trichomonias hoặc bệnh lậu, đều là những bệnh lây truyền qua đường tình dục cần được chữa trị. (Nếu dịch của bạn có màu xanh và bọt bọt thì có thể là dấu hiệu của một tình trạng khác, nhưng vẫn cần được khám.) Ngoài ra, vi khuẩn chlamydia cũng có thể gây tiết dịch như vậy.

Dịch âm đạo có màu xanh xám và có bọt (và có mùi tanh)…

Có vẻ như bạn đã bị nhiễm khuẩn âm đạo, là tình trạng viêm nhiễm phổ biến khá khó chịu, thường gây ra do sự mất cân bằng các vi sinh vật trong âm đạo. Khi bị tình trạng này, bạn cần đi khám ngay, nhưng đừng quá lo vì có thể chữa khỏi được bằng các loại thuốc kháng sinh đơn giản. Trong thời gian này, bạn có thể cũng nên hạn chế việc sinh hoạt tình dục, và hãy dùng bao cao su vì đôi khi tinh trùng có thể góp phần khiến “cô bé” của bạn chao đảo.

Dịch âm đạo lỏng…
Bệnh mụn giộp có thể khiến dịch âm đạo loãng, hơi đục, đôi khi còn có lẫn máu. Tình trạng này chủ yếu gây ra nếu bạn bị đau ở bên trong, tuy nhiên, bệnh mụn giộp còn có nhiều triệu chứng khác nữa - bao gồm cả bị đau, nên nếu bạn bị thì sẽ kịp biết trước khi thấy dịch loãng dạng này.

Dịch âm đạo nhiều hơn bình thường…

Nguyên nhân phổ biến gây ra tình trạng này có thể do các loại thuốc tránh thai và vòng tránh thai IUD. Miễn là dịch tiết ra trắng hoặc trong, và không có mùi khó chịu thì bạn không phải lo lắng. Dạng dịch này cũng có thể là phản ứng dị ứng của cơ thể bạn, tuy không nguy hiểm nhưng bạn cũng cần chú ý để hạn chế tiếp xúc gây dị ứng thêm trong tương lai.

Dịch âm đạo ít hơn bình thường…

Bạn có thể đang bước vào một cột mốc thay đổi trong đời: tình trạng khô hạn này có thể là dấu hiệu của tiền mãn kinh hoặc mãn kinh. Ngoài chuyện ít đi thì dịch âm đạo cũng có thể loãng hơn, khiến bạn khó chịu. Thông thường thì giai đoạn tiền mãn kinh sẽ diễn ra khi bạn bước vào độ tuổi 40, nhưng cũng có thể sớm hơn, ở tuổi “băm” hoặc thậm chí là sớm hơn nữa.



(Ảnh: Internet)

“Không gian văn hóa” Nho giáo Việt Nam




Nho giáo ngày nay

Để đánh giá thân phận của Nho giáo trong xã hội Việt Nam từ lúc nó bắt đầu trở thành chính giáo (nghĩa là dưới triều đại Lê Thánh Tông), chúng ta theo Max Weber thử nhìn lịch sử tiến hoá của Nho giáo dưới ba khía cạnh:
1. Sự nghiệp văn học của nho sĩ Việt Nam từ Nguyễn Trãi đến thời cận kim.
2. Thân phận nhà nho nói chung trong xã hội Việt Nam thời cổ điển.
3. Nho giáo trong văn hoá dân tộc miền đồng bằng sông Hồng cho đến thời thuộc địa.

Văn học Nho giáo dưới cái nhìn xã hội học

Dù đất Giao Châu đã bị sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc từ thời Đông Hán, ảnh hưởng Nho giáo mới bắt rễ thật sự khi “Nam quốc sơn hà” đã giành lại được quyền tự chủ và đưa Nho giáo vào địa vị một trong ba chính giáo:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định mệnh tại Thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!

Tác giả bản “Tuyên ngôn Tự chủ” bằng thơ – tương truyền là của Lý Thường Kiệt (?) – đã cố ý sử dụng thuyết “thiên mệnh” của Nho giáo để cảnh cáo đối phương trước mọi hành động gây hấn. Đồng thời, nó cũng đề cao tinh thần “tứ hải huynh đệ” của Khổng Mạnh. Cuối cùng, nó phát biểu một cách súc tích thái độ “khoảng cách” và nguyên tắc “ngoại dương, nội âm” trong mối bang giao giữa hai nước “đồng văn”. Trên thực tế, các vua Lý – Trần đã chủ yếu dựa vào Phật, Pháp, Tăng (trong đó có những vị sư lỗi lạc như Khuông Việt, Pháp Thuận hay Vạn Hạnh) làm nền tảng cai dân, trị nước(1).
Trong suốt 5 thế kỷ, đời sống trí thức và văn học chịu ảnh hưởng nhiều Thiền học của Phật giáo được Ấn Độ và Trung Hoa truyền vào từ thế kỷ VII(2). Tuy nhiên, mặc dù Phật giáo giữ địa vị chính thống, đời sống văn hóa và tinh thần vẫn chấp nhận ba nguồn tôn giáo, Phật học thịnh hành đời Lý, Nho học cuối đời Trần(3). Dù sao theo Nguyễn Lang, các Đại sĩ phu đời Lý như Tô Hiến Thành hay Ngô Hoà Nghĩa đều thấm nhuần đạo lý Phật Nho tiếp thu từ các vị sư Vạn Hạnh, Đạo Hạnh, Viên Thông, Mãn Giác… Sự thống nhất các Tăng phái Tỳ Ni Đa Lưu, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường chung quanh vua Trần Thái Tông (tác giả Khoá Hư lục) và Tuệ Trung Thượng Sĩ đã tạo điều kiện phát triển Phật học chùa Trúc Lâm. Vua, triều đình và giai cấp quý tộc đã khám phá trong Thiền học lý tưởng nhân đạo, bao dung và ôn hoà để củng cố chính quyền, đoàn kết dân tộc và văn thơ thời Lý – Trần biểu hiện không khí an tại đó. Chỉ đến cuối đời Trần mới thấy xuất hiện những tác phẩm công kích tình trạng suy sụp của nhà chùa (Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh…).
Trong hoàn cảnh đó, ta hiểu tại sao chính quyền Hồ Quí Ly (1400-1407) đã bắt đầu lấy Tống nho làm phương tiện cai trị dù những biện pháp cải tổ táo bạo của triều đại ngắn ngủi chưa được thực hiện. Tiếp theo đó, chính sách đồng hoá của quan lại Minh triều lại càng có lợi cho ý thức hệ Trình Chu.
Đáng lý, Tống nho phải thất thế sau cuộc “bình Ngô” thắng lợi của người Việt. Tuy nhiên, thái độ bất khuất và dấn thân của Đại sĩ phu Việt Nam như Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Biểu, Đặng Dung… trước kẻ thù đã tạo điều kiện thành công cho cuộc trường kỳ kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi (một thủ lĩnh nông dân) và Nguyễn Trãi (nhà nho xuất thân từ giai cấp quý tộc). Cuối cùng, trong hoàn cảnh Việt Nam sau giặc, thực thi một chế độ quân chủ Nho giáo và xây dựng mô hình nhà nước quan chức dân sự xuất thân từ chế độ thi cử là một chính sách khéo léo, thời cơ: trước hết nó đề nghị một giải pháp hoà hoãn với Trung Quốc, sau đó dung hợp hai thành phần dân tộc (Kinh, Mường và các dân tộc thiểu số) đã đóng góp vào cuộc đấu tranh giải phóng.
Nguyễn Trãi và Lê Thánh Tông mỗi người mỗi cách, thực hiện từng bước và cương quyết chính quyền quân chủ Nho giáo và quan lại chính thống. Hai tài liệu văn học đánh dấu sự chuyển biến văn hoá và chính trị quan trọng ấy là Bình Ngô đại cáo và Minh Lương cẩm tú.
Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi với lời văn hùng hồn đã khai triển những lập luận đã trình bày trong bài thơ tuyên ngôn của Lý Thường Kiệt, theo đó bản chất của Nam quốc là một nước Nho giáo có lãnh thổ, chủ quyền, chính nghĩa và văn hiến. Trong cuộc kháng chiến chống Minh, Việt Nam đã thắng lợi vì hành sự đạo đức nhân nghĩa theo luân lý Khổng Mạnh, kể cả đối với quan lại quân đội chiếm đóng bị bắt hay đầu hàng. BàiBình Ngô đại cáo khẳng định rõ rệt thực chất Nho giáo của triều đại mới. Vài mươi năm sau, bài thơ Minh Lương cẩm tú của vua Lê Thánh Tông làm sau khi chiến thắng Chiêm Thành, cũng ca tụng nhà nước quan chủ Nho giáo Nam triều, xem nó đứng ngang hàng với bất cứ triều đình lớn nào ở phương Bắc. Trong bài thơ, nhà vua khuyến dụ quân thần không những phải chỉ biết trị an bên trong, thần phục bên ngoài, mà còn cải thiện đời sống người dân, (thay vua) lo việc nước trước thiên hạ, chỉ an nghỉ sau tất cả mọi người. Ông là người sáng tạo, cùng với bộ luật Hồng Đức, một nền văn học chính thống, hàn lâm (hội Tao Đàn) làm công cụ tuyên truyền cho chế độ quân chủ chuyên chính Nho giáo. Minh Lương cẩm tú đánh dấu sự xuất hiện của loại hình “nhà nho xuất thế” phục vụ cho Nhà nước và xã hội.
Theo Trần Ngọc Vương, họ đã tiếp nối và thay thế hệ “nhà nho ẩn dật” trong giai đoạn giao thời (chính quyền Hồ – Minh). Có thể xem loại hình “nhà nho ẩn dật” như “âm ảnh” (le reflet négatef), hình ảnh trái ngược (tiêu cực) của “nhà nho xuất thế”. Vì không may phải sống trong thời kỳ đen tối của lịch sử: mất nước, khủng hoảng chính trị, nhà nho chỉ còn lựa chọn giữa sự cộng tác nhục nhã với nguỵ quyền, nối giáo cho giặc hay “cố giữ đạo nhà” (Đồ Chiểu) bằng cách ẩn dật, tự tại. Trong văn học yêu nước thời Hồ – Minh (Nguyễn Biểu, Đặng Dung), thời Lê mạt (Nguyễn Bỉnh Khiêm) hay thời nhà Nguyễn (Nguyễn Du), thời Pháp thuộc (Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu) không thiếu những gương mặt đáng kính và đáng thương đó! Nó không khỏi làm ta nhớ đến hình ảnh Khuất Nguyên, Văn Thiên Tường của Trung Quốc mà không một nhà nho Việt Nam nào không nhắc đến lúc gặp phải thế sự điên đảo. Như vậy là ý thức hệ Tống Nho đã sản xuất hai nhân vật trí thức điển hình trong giai cấp sĩ phu: nhà Nho dấn thân “hành đạo trung nghĩa” theo Lê Thánh Tông, nhà Nho ẩn dật xa lánh cửa quyền, từ quan về quê, mượn văn chương, nghệ thuật nhàn hạ để ký thác tâm sự, uẩn ức.

Tóm lại, trong suốt hai thế kỷ XV và XVI, đời sống văn học Việt Nam đã đạt đến trình độ cao và kết hợp chính sách khuyến khích cổ vũ của triều đình và hưởng ứng đông đảo của sĩ tử các trường(4). Trong 4 thế kỷ, văn học Hán Nôm thời Lê vượt qua số lượng sản xuất suốt một nghìn năm trước(5).

Thống kê Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn (1726-1784)
Thời kỳ Tác gia Tựa sách
Lý đến Hậu Trần 69 tác gia (kc 11 nhà sư) 602 tựa sách
Lê – Trịnh 106 tác gia 1.789 tựa sách
TC 175 tác gia 2.391 tựa sách

Thống kê Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích (1744-1802)
Quyển triều Tác gia Số tựa sách
Q. Thượng Lý – Trần
C.1 Tiền Lê 12 70
Q. Trung
C.2 Lý- Trần 35 102
C.3 Lê 31 100
C.4 Lê 35 132
Q. Hạ C.5C.6 Lê 37Lê 17 9959
TC 167 562

Nguồn: TVG & nhiều tác giả, Sdd, quyển 1, tr.113.
Trần Ngọc Vương xem nền văn hoá thời Lê sơ như văn học chính thức, chỉ huy nhằm đề cao triều Hồng Đức dưới mọi hình thức, bằng mọi văn thể như ngâm vịnh, vịnh sử, tuỳ bút, truyền kỳ nổi tiếng như Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
Chính trong khí thế đề cao tinh thần dân tộc đó mà Phan Phu Tiên (Sử ký tục biên) và Ngô Sĩ Liên (Sử ký toàn thư) mới soạn thảo những bộ sử Việt Nam tiếp nối tác phẩm (đã mất) của Lê Văn Hưu. Cũng như 100 quyển của bộ sách Thiên Nam dư hạ tập của Thái Nhân Trung và Đỗ Nhuận giới thiệu bộ máy hành chính, xã hội đã được soạn thảo theo chỉ thị của vua Lê Thánh Tông.
Nếu hai thế kỷ XV và XVI phản ánh thời Lê thịnh thì hai thế kỷ XVII và XVIII sau đánh dấu một giai đoạn khủng hoảng triền miên của nhà nước và triều đình trước khi sụp đổ hoàn toàn (Mạc, Lê-Trịnh, Trịnh-Nguyễn, Tây Sơn). Trái với giai đoạn đầu, hai thế kỷ sau cho thấy sự gia tăng mạnh mẽ của khuynh hướng văn chương ẩn dật như Bùi Duy Tân đã nhận xét: “Lực lượng sáng tác thời này chủ yếu là ẩn sĩ, những người đã rút lui khỏi triều đường hoặc chưa từng ra làm quan, sống ẩn dật nơi thôn dã. Họ là những người tuy không còn mong thực hiện lý tưởng tu, tề, trị bình của kẻ sĩ nhưng giữ được tấm lòng trong sạch” (theo Trần Ngọc Vương ghi chú trong Văn học Việt Nam, sdd, tr. 142-143).
Đời sống văn học thời Lê mạt mang đủ chứng tích một xã hội và một chế độ khủng hoảng. Ý thức hệ Nho giáo phụ mẫu, lạc quan Vương Đạo thời Hồng Đức đã nhường bước cho thái độ hoài nghi và phê phán Tống Nho. Mang trách nhiệm trong các vụ thảm sát công thần tầm cỡ như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Nguyễn Trãi, các triều đại sau Lê Uy Mục đã gây hoang mang, thất vọng hay bất mãn trong hàng ngũ nho sĩ, khiến cho không ít rời bỏ quan trường, thoát ly trong tự tại.
Sự lũng đoạn của chính quyền trung ương, áp lực nặng nề của tướng lĩnh quân sự, hiện tượng mua quan bán chức làm mất uy tín của cấp bằng, học vị giải thích thái độ yếm thế, hướng về nội tâm, tự do cá nhân, thiên nhiên, xích gần lại dễ dàng với tư tưởng Trang, Lão, Phật. Nhân vật tiêu biểu nhất lúc đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1885). Tuy nhiên, trong thời loạn cũng xuất hiện những anh hùng của thời thế như Đào Duy Từ (1572-1634), Nguyễn Hữu Chỉnh và anh em Tây Sơn. Tuy nhiên, sự xuất hiện của anh hùng nông dân hay nhà nho cơ hội không có nghĩa là đánh dấu tàn lụi của Nho giáo như thái độ nhún nhường của vua Quang Trung Nguyễn Huệ trước Nguyễn Thiếp (La Sơn phu tử) đã chứng tỏ quan hệ còn khăng khít giữa chính quyền và giai cấp sĩ phu.
Sự xuất hiện của những gương mặt cải lương Nho giáo: các trí thức Kinh học và Thực học
Tiến hoá của tư tưởng Nho giáo Việt Nam cũng không phải là một dòng sông phẳng lặng. Trước nhà Hậu Lê (1553-1788), xu hướng Kinh học cũng lác đác có một vài nhà nho lỗi lạc như Chu Văn An, Hồ Quí Ly, Phùng Khắc Khoan… Họ rất gần gũi với truyền thống nội tại tu thân theo anh em Trình Di và Trình Hạo nhiều hơn tư tưởng siêu hình của Chu Đôn Di. Phải nhớ đến thế kỷ XVIII mới thấy vài nhà nho ta chú ý và nghiên cứu các bộ sách Kinh học và Thực học thời Minh – Thanh được xuất bản ở Trung Quốc dưới hình thức kinh tịch, thư tịch và so sánh văn học Hoa – Việt: Ngô Thì Nhậm so sánh kinh Xuân Thu với Tả Truyện, Phạm Nguyễn Du bình luận Luận Ngữ, Lê Quý Đôn tranh luận với các tác gia Trung Quốc thời Tống về Kinh Dịch và Kinh Thư(6). Tuy nhiên, mục đích chính trong Kinh học Việt Nam là làm sáng tỏ ý nghĩa chất chứa trong kinh điển Nho học hơn là khai triển, đào sâu những vấn đề triết học như các trường phái Kinh học và Thực học ở Trung Quốc (Cố Viêm Võ, Hoàng Tông Hi). Thực ra, nó chỉ giới hạn trong phạm vi giáo khoa, phục vụ nhu cầu thi cử làm phương tiện tiến thân cho sĩ tử mà thôi. Tinh lý giản yếu của Nguyễn Huy Oánh, Xuân Thu lược luận, Tứ Thư ước giải của Lê Quý Đôn, Tứ Thư Quân hành của Bùi Huy Bích năm trong viễn tưởng đó.
Bằng cách cho in dịch kinh sách ra chữ Nôm, Hồ Quí Ly đã tạo ra bước đầu tiên cho nền “Việt học” được phát triển dưới thời Lê-Trịnh với những tác phẩm của Ngô Thì Sĩ (Việt sử tiêu án), Lê Quý Đôn (Quần thư khảo biện, Đại Việt thông sử, Kiến văn tiểu luận…), Phan Huy Chú. Đặc biệt, Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn giới thiệu và bình luận sách cũ dọn đường cho Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú. Các tác gia Kinh họcđã ở đầu truyền thống nghiên cứu sử địa Việt Nam học thời Nguyễn với những Hoàng Việt thống nhất dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí, những tuỳ bút của Phạm Đình Hổ (Vũ trung tuỳ bút, Tang thương ngẫu lục). Theo gương Lê Thánh Tông, các vua nhà Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng sáng tác những tác phẩm có giá trị văn học và cho biên soạn các bộ sách lớn như Đại Nam thực lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam liệt truyện. Nó cũng thể hiện trong các sách Nam Sơn tùng thoại của Nguyễn Đức Đạt, Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức.
Trong một khoảng cách thời gian ngắn ngủi hơn, nhà Nguyễn cũng tái lập hành trình triều Lê, cố gắng phục hưng văn học thời Hồng Đức, uy tín của trường học, của quan lại mặc dù thái độ dè dặt của sĩ phu Hà Nội đối với tân triều như Phạm Quý Thích, Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông Phan… hay e dè, miễn cưỡng như Nguyễn Du. Bắt đầu nửa thế kỷ sau, khi quân đội Pháp bắt đầu xâm lấn, tầng lớp sĩ phu Nguyễn triều nhanh chóng phân hóa nội bộ. Một lần nữa, chế độ Bảo hộ gây rạn nứt trầm trọng giữa hai khuynh hướng: “dấn thân tùy thời” cộng tác với ngoại bang dưới chiêu bài thờ vua (Hoàng Cao Khải) hay “ẩn dật” (Đồ Chiểu).
Từ Nho học đến nho sĩ (thế kỷ XV-XX)
Ngay từ lúc ban đầu, triều đình nhà Lê khai trương chính sách “văn trị” giao phó guồng máy cai trị cho quan lại xuất thân nho học, sĩ tử đỗ đạt ở các trường thi, đặt ưu tiên dân sự trên quân sự. Những vụ án giết hại công thần như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xá, Nguyễn Trãi… ngoài việc tranh chấp trong hoàng tộc còn chủ ý đè bẹp mọi xu hướng công thần hay mầm mống chống đối của những kẻ đồng hành của Lê Lợi trong suốt 10 năm kháng chiến chống Minh. Phải biết phối hợp uy tín cá nhân của vua Lê Thánh Tông với yếu tố thời gian (một trong những triều đại lâu dài nhất) – điều kiện chính yếu của một Minh chủ phương Đông – nhà Lê mới hoàn thành quy chế quan lại dân sự và quân sự (quan bản vị), hợp lý hóa tổ chức cai trị nhà nước (đối với thời đó), hữu hiệu, cường thịnh, đặt nho sĩ vào hàng đầu trong một xã hội nông nghiệp. Với đạo luật Hồng Đức, nhà Lê thiết lập quan hệ hữu cơ giữa nhà nước quân chủ chuyên chính và giai cấp sĩ phu “bổng lộc” (prebende) – loại hình quan lại chuyên nghiệp – theo định nghĩa của Max Weber đánh dấu sự cáo chung của chế độ quân chủ phụ quyền (monarchie patrimoniale) thời Lý-Trần. Chế độ quan quyền cũng theo gương Đường-Tống hoàn chỉnh hệ thống giáo dục Nho giáo từ làng xã đến kinh đô (Quốc Tử Giám), đặt lệ thi cử ba năm một lần để tuyển chọn nhân tài (Hoàng triều quan chế, 1473), khích lệ tranh đua giữa các làng, các tỉnh “văn học”, các “hội văn”. Chính sách “mở rộng” trường học đã mang lại cho xã hội chính trị và đời sống văn hóa dân tộc một thời đại “văn hiến” chưa từng thấy trong lịch sử đất nước. Sĩ phu “hàn lâm” Việt Nam có lẽ bắt nguồn từ đó!
Nguyên tắc “tuyển lựa nhân tài” qua những kỳ thi cử rất khó khăn gian khổ. Cứ ba năm, chỉ 5 đến 10% thí sinh mới được vào con đường sĩ hoạn, đem hãnh diện cho làng xóm, gia tộc, phần đông lại pahir trở về quê làm nghề dạy, làm thuốc, viết lách, thư lại… giữa hai kỳ thi. Dù không được học hàm cao quý (tú tài, cử nhân, tiến sĩ), quy chế thí sính vẫn dành cho giai cấp trí thức nho học những đặc quyền không nhỏ trong xã hội (miễn lao dịch, miễn thuế má, miễn đi lính).
Nhiều sử gia trong và ngoài nước đã nghiên cứu đề tài này, nhất là từ lúc Việt Nam thuộc Pháp, khi đối phương và đối tượng là tầng lớp sĩ phu Nho giáo. Sau Pierre Pasquier (L’Annam d’autrefois, 1907) trước năm 1945, Paul Mus (Viet Nam-Sociologie d’une guerre, 1952), Philippe Langlet (L’Ancienne Historiographie d’Etat au Viet Nam, BEFEO, XIV, Paris, 1992), Philippe Papin (Viet Nam-Parcours d’une Nation, Paris, 1999), Emmanuel Poisson (sdd)… đã nghiên cứu khá cặn kẽ chế độ trường thi thời Nguyễn. Ngược lại, rất ít tài liệu cho phép đánh giá “sức nặng xã hội” quy mô của nó: số lượng, chương trình (curricula), cách chấm thi, quyết định, áp dụng chỉ thị của triều đình… ngoài một số ký ức gia đình để lại. Cũng không có nhiều tài liệu kinh tế giáo dục cho ta tìm hiểu hiện tượng lạm phát học hàm, thất nghiệp trí thức, nhất là dưới thời Lê mạt. Có lúc chức tiến sĩ nhiều đến nỗi những người không đỗ Hội hay Đình thi ít có hy vọng được bổ nhiệm làm quan chốn kinh đô và đành an phận nơi huyện, phủ… hẻo lánh!
Vì thiếu những dữ kiện chính xác nên dễ chấp nhận những huyền thoại về “nhà nước quan liêu” hay “chế độ quan lại thiên triều” (bureaucratie cessleste) lạm phát những quan chức ký sinh (?), ăn bám công quỹ, tham nhũng… Cái mà sử gia Hà Nội ngày xưa gọi là “phong kiến Nho giáo” thời Lê thịnh (1471) chỉ định một hệ thống quan trị trên dưới không hơn 5.370 quan chức trong đó có 2.755 người phục dịch chính quyền trung ương tại triều (399 quan dân sự, 857 quân sự, 446 lại thuộc), 2.615 ngoại quan các tỉnh (926 quan hành chính, 857 sĩ quan, 41 lại thuộc)(7).
Còn về nhân số học sinh cũng thời ấy, theo Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, trường thi dành cho “trấn” (vùng) Sơn Tây từ năm 1462 đến năm 1499 tụ họp từ 3.200 đến 5.000 thí sinh mỗi kỳ thi (3 năm). Tóm lại, chế độ thi cử và khả năng sản xuất quan lại của nhà trường đã phải tìm thăng bằng giữa cung và cầu trong quan hệ hành chính và giáo dục. Gần đây, vài tài liệu sử học về nhà trường Lê-Nguyễn cũng khám phá vài yếu tố làm lệch hướng nguyên tắc bình đẳng, “dân chủ” trong hệ thống thi cử ngày xưa: hiện diện của những “sĩ tộc” (cha truyền con nối), một loại hình “quý tộc nhà nước” (noblesse d’Etat theo Pierre Bourdieu), khoa hoạn tập trung vùng chung quanh Hà Nội như Hải Dương (Mộ Trạch), Hà Đông (Đông Ngạc), Hà Tây, Bắc Ninh thời Lê, Nam Định (Hành Thiện), Nghệ An, Hà Tĩnh, hay Quảng Nam thời Nguyễn. Nhiều “sĩ tộc” như họ Vũ (Mộ Trạch), họ Ngô (Tả Thanh Oai, Hà Tây), họ Nguyễn Huy ở Tường Lưu (Hà Tĩnh), họ Nguyễn ở Tiên Điền, họ Phan ở Thạch Hà…(8).
CHÚ THÍCH:
Xem Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Sài Gòn, Nxb Lá bối, 1973.
Xem Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam, trong BEFEO, tập XXXII, 1932.
Xem biểu liệt kê các tác giả và tác phẩm theo thứ tự thời gian trong Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Sài Gòn, Nxb Giáo Dục, 1968 (in làn thứ 10).
Dương Quang Hàm, Sdd, tr.253.
Xem Trần Văn Giáp và nhiều tác giả, Lược truyện các tác gia Việt Nam, q.I, tr.97-106.
Xem Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm. Nguồn tư liệu văn học sử học Việt Nam, 2 q., Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1984-1999.
Xem Đại cương lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Nxb Giáo dục, q.I, 1997, tr.321.
Xem bài của Phan Đại Doãn trong Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam (nhiều tác giả), Hà Nội, Nxb Sự thật, 1998.
Nguồn: http://anhbasam.wordpress.com/2011/10/14/415-“khong-gian-van-hoa”-nho-giao-viet-nam

Trung Quốc Trong Sấm Trạng Trình



Hoàng Hữu Phước, MIB

Có lẽ Sấm Trạng Trình là tác phẩm duy nhất thường được

– nhiều người Việt nhắc đến như một tiêu biểu đặc trưng Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong khi lẽ ra Cảm Hứng Thi, Khuê Tình, Hạ Cảnh, Vũ, và Ngụ Hứng mới là những kiệt tác đáng được đọc hơn; và

– nhiều Việt Kiều chống Cộng lạm dụng một cách mông muội để giải thích hùng hồn này nọ rồi chờ đợi mõi mòn đến bạc đầu từ kỷ này đến kỷ khác (mỗi kỷ bằng 12 năm) sự sụp đổ của Cộng sản Việt Nam dựa trên đoạn sấm:

…Long vĩ Xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ loạn đao binh
Mã đề Dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái bình …


thậm chí có kẻ còn sử dụng chiêu thức vừa ăn cướp vừa la làng để tự nhận mình là “anh hùng” có ngày được Phật Vương hô biến tiêu diệt Ma Vương (tức Cộng Sản) để “anh hùng” quay về Việt Nam vẻ vang vào cái năm Thân Dậu ấy, cứ như thể buôn lậu ma túy đã đời với trò lính kiểng lính ma rồi vứt bỏ vũ khí chạy tán loạn khỏi Việt Nam nhưng vì là “Cộng Hòa” nên đương nhiên tốt đẹp và Sấm Trạng Trình phán Phật Vương sẽ vì các “anh hùng” mà làm Việt Nam tự động sụp đổ chết như rạ để các “anh hùng” lũ lượt kéo về thống trị đất nước Việt Nam làm chỗ buôn lậu ma túy tiếp vậy.

Điều tôi nhận xét về Sấm Trạng Trình là:

– Đối Với Bản In: không rõ vì sao các bản in tôi tìm thấy được đều kỳ dị, đọc như mớ hổ lốn vừa nôm vừa na vừa Hán vừa ta trong suốt 485 dòng sấm, không thể tin đó là từ thần bút của Nguyễn Bỉnh Khiêm; hoặc nếu nguyên tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm thật sự tuyệt hảo về văn chương hàn lâm thi phú mà hiện không biết đang ở đâu, thì cái gọi là “bản dịch” cho tác phẩm mang tên Sấm Trạng Trình đã hàng trăm năm nay không là công trình nghiêm túc của người dịch có học thức.



– Đối Với Người Đọc: không rõ vì sao người Việt của rất nhiều thế hệ của rất nhiều thế kỷ đều chỉ quan tâm đến mỗi 4 dòng duy nhất của cả bài sấm nhiều trăm dòng nên có chung một ý nghĩ rằng những từ Hán Việt hiếm hoi trong bản dịch vừa nôm vừa na vừa Hán vừa ta là nói về các năm, như: năm Rồng (Long), năm Rắn (Xà), năm Ngựa (Mã), năm Dê (Dương), năm Khỉ (Thân), năm Gà (Dậu), v.v., để rồi bị hố liên tục, chờ tiếp chu kỳ một kỷ tức 12 năm tiếp theo, hy vọng cái “thái bình” mơ hồ nào đó sẽ đến.

Tôi cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không “huỵch toẹt” gì cả trong những lời tiên đoán hay sấm truyền của Ông. Thí dụ rõ nhất là đối với giai thoại về “Hoành Sơn Nhất Đái, Vạn Đại Dung Thân” tôi lại thấy nêu bật những ba điều gồm (a) câu cú cực chuẩn, văn vẻ, văn chương hàn lâm, đúng là lời của bậc tài hoa, chứ không hỗn độn loi choi như bản dịch Sấm, (b) ngụ ý xa vời để không phạm tội tiết lộ thiên cơ, và (c) không hề “bói” rằng triều đại nhà ấy chỉ cần vào ấy là tồn tại hàng vạn đời vì cái triều đại ấy đã thực hiện theo lời Trạng mà có tồn tại vạn đời đâu? Từ đó suy ra, Trạng nói về cái cao siêu hơn, chẳng hạn khẳng định rằng đất nước ta tồn tại muôn đời sau khi trãi rộng Nam Tiến vượt Hoành Sơn, nghĩa là Trạng “nhìn thấy” được sự mở mang bờ cõi về phương Nam của đất nước – với sự khai mào của cái người đã sai gia nhân tìm đến xin ý kiến của Trạng – chứ tầm cỡ như Trạng không thể bói sai, không làm kẻ vẽ đường cho một triều đại nào cả, nhất là khi lịch sử chứng minh số phận của cái triều đại ấy hoàn toàn không đúng như lời Trạng.

Ngoài ra, trên cơ sở của Hoành Sơn Nhất Đái, Vạn Đại Dung Thân, tôi tin tưởng tuyệt đối rằng với tài tiên tri thấu thị của một bậc kỳ tài, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ để lại mỗi bốn dòng thơ sấm truyền ngắn gọn tinh túy cho hậu thế chứ không bao giờ có cái tác phẩm kỳ quái diễn giải lung tung, câu cú hỗn độn, lăng nhăng lít nhít, phá niêm quậy luật, xằng bậy bậy xằng những mấy trăm câu như thế.

Dựa vào tất cả những nhận xét trên, tập trung vào duy chỉ bốn dòng sấm truyền đúng là từ tài ba của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tôi thấy kiểu diễn giải bám vào ý sơ đẳng (dịch từng chữ một) để nói Cuối Năm Rồng, Đầu Năm Rắn Có Chiến Tranh (Long Vĩ Xà Đầu Khởi Chiến Tranh) là không sâu sắc vì tầm cỡ của Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ cần dùng một trong hai, tức hoặc Long Vĩ, hoặc Xà Đầu, chứ không dùng cả hai, nếu thực sự ám chỉ năm Rồng hay năm Rắn, vì cuối năm rồng tức là…đầu năm rắn rồi, nếu dùng cả hai hóa ra “nhà thơ” bị bí từ ngữ nên phải dùng trùng lặp hay sao! Ngoài ra, hầu như ai cũng diễn sai rằng “Đầu Năm Ngựa, Cuối Năm Dê” khi nói về “Mã Đề, Dương Cước” vì Đề là Móng, thì sao lại nói cứ như thể chỉ có chân trước của ngựa là có đóng móng để cho đó là “đầu năm”; và “cước” là chân, cớ sao lại cho rằng dê chỉ có chân sau để nói đến chuyện “cuối năm”?

Do đó, đoạn

…Long vĩ Xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ loạn đao binh
Mã đề Dương cước anh hùng tận
Thân Dậu niên lai kiến thái bình …

cần được hiểu như sau:

Cái con quái thú đầu rắn đuôi rồng quậy phá
Khiến nơi nơi bất ổn vì phải dồn sức chống ngăn
Song, nếu ngựa mà xưng hùng xưng bá xuất chiêu đạp dê, sẽ bị dê đá bại
Dân ta cứ như chú gà nhỏ bé nhưng sẽ đường bệ gáy vang khi thấy rực sáng ánh dương


Diễn nghĩa thêm, có khi ta nghiệm được lời dặn sâu sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm như sau:

Hỡi con dân nước Việt, đừng sợ bất kỳ bọn siêu cường nào vỗ ngực xưng rồng (Thiên Tử) vì chúng chỉ giỏi hù dọa thôi do đuôi thì tuy giống rồng thật đấy, chứ bản mặt thì nhỏ xíu như mặt rắn nước; nếu chúng xưng hùng xưng bá tự cho mình đẹp đẽ như ngựa chiến lớn đùi to chân dài chà đạp chúng ta thì nước ta tuy nhỏ yếu như dê cũng sẽ tiêu diệt được chúng; và nước ta vẫn cứ thế: bản thân tuy như con gà nhỏ nhưng đẹp, đủ lông đủ cánh mà gáy vang vì muôn đời ánh sáng luôn chiếu rọi trên đất nước chúng ta”.

Do chỉ có Trung Quốc hay xưng mình là Thiên Tử, là rồng, nên đích thị là đối tượng được ám chỉ trong Sấm Trạng Trình. Như vậy, Trung Quốc đang là con quái vật mặt rắn bẹp lưỡi dài chẻ nhánh, có đuôi mọc gai giống đuôi rồng, chẳng khác gì hàng không mẫu hạm rĩ sét Varyag được phủ bằng lớp sơn cực đẹp chứa độc tố kẽm (còn sót lại sau sự thất bại sản xuất đồ chơi búp bê bán qua Mỹ) biến thành Thi Lang, chở vài chục chiến đấu cơ tàng hình Chengdu J-20 mà khoe là sẽ cho Raptor F-22 của Mỹ và Sukhoi PAK FA T-50 của Nga ngửi khói xịt phía sau để biết thế nào là lễ độ với mùi hôi Trung Quốc, được lái bởi bọn “giặc lái” hậu duệ bọn thảo khấu Lương Sơn Bạc chuyên gia bán bánh bao nhân thịt người (tức bọn cướp cạn lúc nào cũng tự xưng “anh hùng”), từ nhỏ được nuôi bằng sữa bột có pha melamine hiệu Sanlu. Nói tóm lại, cái con quái thú mình giun, đuôi rồng (long vĩ), đầu rắn (xà đầu) có tên Trung Quốc nếu tấn công Việt Nam (hình cong chữ S giống mình chú gà ngồi nghểnh cổ – tức là mình gà, còn gọi là thân gà, nếu toàn Hán Việt thành … Thân Dậu) sẽ bị Việt Nam đánh cho đại bại, hết kiếp xưng bá (bá chủ Biển Đông) xưng hùng (Anh Hùng…Xạ Điêu).

Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, nói: “Nếu chiến tranh xảy ra, không bên nào chiến thắng.” Đó là ngôn phong vị tướng lĩnh làm công tác đối ngoại lịch lãm nhún nhường trước báo giới.

Trạng Nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trình Tuyền Hầu nhà Mạc, để lại cho con dân anh dũng của nước Việt hào hùng một lời trấn an, đúng mực bậc tài hoa “thiên cơ bất khả lậu” gởi gắm trong câu sấm một khẳng định tuyệt vời: Nếu chiến tranh xảy ra, chỉ có Việt Nam chiến thắng. Đó là ngôn phong nhà giáo thiên tài nho nhã đối nội lịch lãm với hậu thế.

Công dân Hoàng Hữu Phước do tin rằng mình nghiệm ra và giải mã được lời trấn an của Trạng, nên trong đêm khuya thanh vắng ở Thủ Đô nghe tiếng gió rít mưa sa của cơn bão số 3, viết rằng: Mã đề dương cước anh hùng tận = Ngựa mà đạp Dê sẽ bị Dê đá trả khiến“anh hùng Lương Sơn Bạc”bị diệt vong = China Delenda Est = Sinās Delenda Est = Trung Quốc Phải Bị Tiêu Diệt! Đó là ngôn phong người học trò bình dân mon men văn luyện võ ôn, tập tành ráp nối dăm ba chữ Latinh và Hán Việt sơ đẳng khi nằm đối thoại với trần nhà.

Kính mong các tu sĩ chủng viện và các bậc túc nho rộng lòng chỉ giáo về vốn từ La Tinh và Hán Việt của hàn sĩ này. Xin đa tạ.

Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế

Ghi chú: bài trên được đăng lần đầu trên Emotino.com và Antichina.blog.com năm 2011

Những nghịch lý dân chủ




Không gì nguy hiểm cho người trí thức bằng tự giam mình trong những định kiến của một giai đoạn lịch sử. Vì đó chính là giết chết vai trò trí thức trong bản thân mình, bóp nghẹt mọi suy tư vượt trên những khuôn khổ thời thượng. Trên bình diện xã hội, thái độ ấy đưa đến khóa cửa chối từ những luồng gió mới, kềm hãm bánh xe lịch sử, ngăn cấm sự tiến hóa của xã hội một cách hài hòa trên con đường trí tuệ . Để rồi, sẽ chỉ còn những con đường đột biến, đầy khủng hoảng và tang thương …

Chúng ta đang sống trong một giai đoạn trong đó người ta hình dung Dân Chủ, đặc biệt là dân chủ nghị trường, như sự kết thúc của lịch sử (1), như chân trời không thể vượt qua của trí tuệ, như một cái gì đương nhiên. Như thể xã hội mang tính nhị nguyên. Hễ ra khỏi độc tài thì là dân chủ. Không còn gì khác ! Thực tế là xã hội con người không nhị nguyên. Mọi tương lai đều khả hữu. Marx (2), Popper (3), và ngay cả Sartre (4) trên những quan điểm khác nhau, đều đã nhìn ra điều ấy. Chúng ta cũng nhận thấy sự thật này một cách cụ thể từ năm 1989, lúc người ta tuyên dương sự chiến thắng vĩnh cửu của chính thể dân chủ đại diện và kinh tế thị trường (1). Từ thời điểm ấy, những xã hội thoát khỏi thế giới lưỡng cực đã dấn bước lên nhiều con đường khác nhau, trong đó dân chủ không phải bao giờ cũng là mối quan tâm chính yếu.

Thật ra, điều quan trọng nhất của suy nghĩ chính trị hiện nay không ngoài việc hướng đến giải đáp cho ba vấn nạn quan trọng nhất của thời đại chúng ta : nguy cơ khánh tận tài nguyên, nguy cơ chìm trong ô nhiễm, và hố sâu chênh lệch giàu nghèo (2). Nếu thật sự dân chủ nghị trường là điểm đến của mọi suy tư, thì nó có khả năng giải quyết những nguy cơ sống còn ấy hay không ? Lý thuyết dân chủ cần những thay đổi, những cập nhật nào ? Và bên ngoài chân trời ấy, có còn một bầu trời nào khác không ?

Trong bài này chúng ta sẽ tự hạn chế trong việc duyệt qua một số nghịch lý của dân chủ. Không phải để bài bác, nhưng từ sự nhận thức các mâu thuẫn, chắc chắn bạn đọc sẽ có được những cái nhìn mới. Rất có thể những quan niệm mới này sẽ vẫn ở trong phạm vi dân chủ, nhưng ở một trình độ khác hơn. Dù sao, cần giữ cho cánh cửa suy tư luôn rộng mở …

HAI MÂU THUẪN NỀN TẢNG GIỮA BẦU CỬ VÀ DÂN CHỦ

Nếu dân chủ là « người dân làm chủ », thì bầu cử chính là tước đoạt quyền làm chủ của người dân. Bầu cử mâu thuẫn với dân chủ. Trong phòng phiếu, khi để cho lá phiếu rơi khỏi tay, thì người dân mặc nhiên từ bỏ quyền làm chủ đất nước của mình, để đặt nó vào tay một người mà có khi mình chỉ được biết sơ sài qua vài màn trình diễn hay vài thông tin phiến diện được gạn lọc bởi những cơ sở truyền thông. Kết quả là quyền hành được chuyển nhượng cho một nhóm chính trị gia chuyên nghiệp, phân chia thành đảng phái để thay phiên nhau cai trị xã hội. Bầu cử, trong sự vận hành tốt đẹp nhất của nó, chỉ đưa đến một chính thể « thượng chủ » (oligarchie), với quyền hành luân chuyển trong tay một giới thượng lưu. Có lẽ vì thế mà Sartre đã cho rằng bầu cử là cạm bẫy dành cho bọn đần độn : « élection, piège à cons ! » (5) …

Mâu thuẫn nền tảng thứ hai giữa bầu cử và dân chủ đến từ một ngộ nhận phổ quát. Người ta nghĩ rằng khi mỗi cử tri phát biểu qua lá phiếu của mình thì đó là quyết định của « nhân dân », của dân tộc, của toàn xã hội, và cho đó là dân chủ. Điều này hoàn toàn là một ngộ nhận, vì lá phiếu chỉ phản ảnh sự chọn lựa của một cá nhân, và tổng hợp các lá phiếu chỉ cho biết quyết định của một tập hợp cá nhân. Một tập hợp cá nhân không phải là một dân tộc, không đồng nghĩa với « nhân dân », với xã hội. Xã hội, nhân dân, dân tộc, mang cá thể riêng biệt, khác hẳn với những cá nhân cộng lại. Chỉ cần nghĩ rằng : sự kín đáo của phòng phiếu chính là nơi mỗi cá nhân được dịp phản bội tập thể của mình …

MÂU THUẪN GIỮA DÂN CHỦ VÀ TIẾN BỘ

Như thế, mô hình dân chủ nghị trường, đặt căn bản trên bầu cử, tức trên bài toán cộng của những chọn lựa cá nhân, rốt cuộc chỉ đưa đến một chế độ « thượng chủ », với quyền hành nằm trong tay một giai cấp thượng lưu luôn cố bám lấy quyền lợi của mình bằng cách duy trì xã hội trong nguyên trạng của nó. Chữ « State » hay « Etat », thường được dịch là « Quốc Gia », thật ra có nghĩa gốc là « nguyên trạng ». Giai cấp nắm quyền tự cho mình cái bổn phận phải duy trì « Quốc Gia », tức « nguyên trạng », nói cách khác, là kềm giữ xã hội trong một trạng thái nhất định, được gọi là « ổn định ». Điều này đương nhiên là mâu thuẫn với nhu cầu tiến hóa của xã hội. Vì thế, những tiến bộ quan trọng của xã hội thường phải vận dụng đến những hình thức dân chủ khác với dân chủ nghị trường, tức những cao trào quần chúng đấu tranh quy mô.
Cần biết là những người dân mong muốn xã hội tiến hóa một cách tha thiết nhất chính là tầng lớp nghèo khổ. Quyền bầu phiếu không là gì cả khi bụng đói, khi rách rưới, khi nhà cửa dột nát hay không có nhà cửa … Xã hội tư sản không dành cho những người này một định chế hữu hiệu nào để bảo vệ quyền lợi của họ. Thật vậy, không có nghiệp đoàn người thất nghiệp. Thống kê cũng cho biết những người thực sự nghèo khổ, với công ăn việc làm bấp bênh, thường không tham gia công đoàn (và ít tham gia bầu cử). Các nghiệp đoàn đều là nghiệp đoàn của những người có công việc. Những người thực sự nghèo khổ chỉ có một phương tiện duy nhất để ngoi lên, đó là : đấu tranh tập thể ! Dân chủ đối với họ, cũng như những tầng lớp thiếu thốn nói chung, buộc phải thông qua việc tổ chức thành công cao trào tập thể đấu tranh. Đó là những lóe sáng của dân chủ thực sự, trong những xã hội « thượng chủ » bị gò ép trong tay một giai cấp chính trị gia chuyên nghiệp.

QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN VÀ DÂN CHỦ HÌNH THỨC

Người ta thường nói đến tự do ngôn luận như một trong những thành tố quan trọng nhất của xã hội dân chủ. Thật ra, điều quan trọng là : quyền quyết định nằm trong tay ai ? Chứ không phải quyền nói năng, phát biểu ! Churchill từng nói (đùa) rằng : “chúng ta sống trong một xã hội dân chủ, nên quý vị có toàn quyền phát biểu trước khi phục tùng quyết định của tôi ». Khi quyền hành được tầng lớp ưu thắng nắm chắc trong tay, thì tự do ngôn luận không còn một giá trị quyết định nào. Người ta có thể có tự do, đồng thời vẫn bị lệ thuộc.

Trên một bình diện quy mô hơn, trong các xã hội Tây Phương, ngôn luận được tập trung trong tay các nhà kỹ nghệ. Tại Pháp, một tổ hợp xây cất, cùng với hai tổ hợp sản xuất vũ khí thân cận với chính quyền, hiện nắm giữ những phương tiện truyền thông đại chúng quan trọng nhất, bao gồm những đài truyền hình đại chúng, đài phát thanh, báo giấy, báo mạng, nhà xuất bản sách v.v… Patrick Le Lay Giám đốc đài truyền hình TF1, được nhiều người xem nhất tại Pháp, thuộc tổ hợp Bouyghes, gốc là một công ty xây cất, từng tuyên bố : « điều mà chúng ta bán cho Coca Cola – hay bất cứ thương hiệu nào khác – là thời gian trí não của khán giả, để họ sẵn sàng đón nhận các thông điệp quảng cáo » (6). Truyền thông trở nên lệ thuộc vào thế lực tiền bạc và gắn bó chặt chẽ với quyền lực chính trị. Khán giả các phương tiện truyền thông đại chúng, tức đại đa số dân chúng, bị điều kiện hóa để không còn biết tự mình suy nghĩ. Họ trở thành một bầy cừu với những thái độ và phản ứng đồng loạt được « quy trình » sẵn (7). Ý kiến cá nhân, vốn là cột trụ quan trọng nhất của dân chủ, từng được các triết gia như Aristote đề cao từ thời cổ Hy Lạp, bị đặt trước nguy cơ tàn lụi, bởi sự tập trung phương tiện ngôn luận dưới sự cai trị của thị trường.

VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN

Nhân quyền vốn vẫn được coi như sự biện minh của dân chủ. Người ta hình dung nhân quyền như một cái gì đương nhiên, không cần bàn cãi. Thật ra khái niệm nhân quyền rất mong manh. Nó lệ thuộc vào sự hiện hữu của ba yếu tố : một bản chất con người cách biệt với thiên nhiên một cách rõ rệt, một giá trị hiển nhiên của con người vượt hẳn mọi giá trị khác, và sự cảm thông rộng rãi giữa mọi con người với nhau. Các yếu tố này sẽ được phân tích trong một bài viết sắp phổ biến. Tạm thời, chúng ta có thể nhận xét là trong xã hội tân tiến hiện tại, cả ba yếu tố kể trên đều rất lung lay, chao đảo.

Bản chất con người cách biệt với thiên nhiên ? Không gì mơ hồ hơn, khi những chứng minh về liên hệ chặt chẽ giữa con người và thiên nhiên trên tiến trình tiến hóa càng ngày càng rõ nét, trên mặt vật lý cũng như tâm lý. Thậm chí văn hóa của con người cũng phải tuân theo những quy luật cấu trúc khách quan (8). Quan niệm chỗ đứng của con người như một chủ thể độc lập, tự do, vượt trên các thành tố khác của thiên nhiên, hiện phải bị xét lại.

– Giá trị hiển nhiên của con người ? Sau những tội ác mà con người đã làm cho đồng loại của mình suốt thế kỷ 20, từ chế độ Gulag, Auschwitz, đến Srebenisca, qua sự tiêu diệt một phần ba của chính dân tộc mình tại Campuchia rồi cuộc thảm sát ở Rwanda, người ta có quyền có đôi chút nghi ngờ về « giá trị » nhân bản ấy.

– Sự cảm thông rộng rãi giữa con người với nhau ? Với phản ứng co cụm của từng cộng đồng trong phạm vi văn hóa của riêng mình, để bài bác, thậm chí tấn công bằng bạo lực các cộng đồng khác, chiều hướng thông cảm giữa người với người cũng đang trên đà sút giảm … Thật ra, đã bao giờ người ta coi những con người thuộc văn hóa hay tôn giáo khác như mang cùng bản chất với mình hay chưa ? Chỉ cần nghĩ đến việc đa số tôn giáo thường hứa hẹn cho đa số đồng loại của mình một sự đày đọa muôn đời trong địa ngục …

Kết quả của sự khó khăn trong ý thức Nhân Quyền, là tại nhiều nơi người ta buộc phải áp đặt nó, có khi bằng bom đạn, có khi bằng áp lực kinh tế hay chính trị, khiến Nhân Quyền rất dễ bị coi như một phương tiện thống trị của chủ nghĩa thực dân mới.

TÍNH ẤU TRĨ CỦA CON NGƯỜI DÂN CHỦ

Platon, trong quyển 8 của sách Cộng Hòa (la République), mô tả con người dân chủ với một tâm lý bấp bênh, khi này, khi khác, phất phơ vô định. Hành vi của họ lệ thuộc vào những thèm muốn, những sợ sệt trái ngược hẳn nhau, lần lượt xuất hiện và biến thái trong tâm tư dao động của họ.

Tocqueville, khi phân tích nguy cơ độc tài và suy thoái trong dân chủ, đã cho rằng dân chủ có khả năng ru ngủ con người, duy trì người dân trong một tình trạng ấu trĩ. Con người trong xã hội dân chủ có khuynh hướng thu mình trong một phạm vi cá nhân, gia đình, hay bè bạn rất hạn chế, và chỉ quan tâm đến những nhu cầu và thú vui nhỏ nhoi riêng tư của họ, bất chấp mọi người, mọi việc chung quanh. Những kẻ này có thể gặp gỡ người khác, nhưng không nhìn thấy bất cứ ai. Họ có thể có nhiều tiếp xúc nhưng không hề ý thức sự hiện diện của tha nhân … Họ chỉ hiện hữu cho chính họ. Tocqueville cho rằng những người ấy nhìn xã hội qua khung cảnh hạn hẹp của gia đình mình. Tâm lý này dễ biến xã hội thành một tập hợp những sự ích kỷ, khó có được một hướng tiến, một đề án, một viễn tượng chung. Tâm lý ấy cũng thuận lợi cho những kẻ mị dân, lừa gạt dư luận bằng những lời nói vỗ về đường mật, để đưa xã hội vào độc tài toàn trị.

VẤN ĐỀ DƯ LUẬN

Dư luận vừa là một con quái vật hung hãn có khả năng nuốt sống bất cứ ai, bất cứ chương trình, tư tưởng nào, đồng thời cũng là một người đẹp được mọi người theo đuổi, chiều chuộng … Chấp nhận sự thống trị của dư luận là một nguy cơ cho xã hội. Một nhà lãnh đạo, theo định nghĩa, không thể đóng vai trò lãnh đạo nếu luôn chiều theo dư luận. Các quyết định lịch sử trọng đại thường đi ngược lại ý muốn của dư luận, như việc sát nhập Đông và Tây Đức của Thủ Tướng Kohl, hay việc xóa bỏ án tử hình của Tổng Thống Mitterrand … Những nhân vật được coi như vĩ nhân của nước họ, như Tổng Thống de Gaulle hay Thủ Tướng Churchill, đều có rất nhiều lúc phải chống lại dư luận trong cuộc đời chính trị của họ. Tuy nhiên không ai dám quả quyết là một nhà cầm quyền có thể đối đầu với dư luận. Max Weber phân biệt đạo lý trách nhiệm với đạo lý giựa trên lập trường, trên niềm tin vào lẽ phải. Người cầm quyền có thể tin rằng một quan điểm nào đó là đúng, nhưng vẫn phải chiều theo dư luận, nhân danh « đạo lý trách nhiệm » …

Trong nhiều trường hợp, dư luận trở nên quan trọng hơn bầu cử. Cả Nicolas Sarkozy lẫn Ségolène Royal đều được đưa lên đỉnh cao của cuộc tranh cử Tổng Thống Pháp năm 2007 nhờ các cuộc thăm dò dư luận. Tại Pháp, nhiều chính phủ vừa được thùng phiếu đưa lên đã nhanh chóng bị giải tán cũng chỉ vì tụt dốc trong các thăm dò dư luận. Quyền hành của dư luận khiến cho giới chính trị gia chuyên nghiệp luôn tìm mọi cách để quyến rũ người đẹp hiểm ác này. Được đào luyện bởi những văn phòng tư vấn về truyền thông, họ tập tành chú trọng đến các yếu tố phù phiếm bên ngoài, cách ăn mặc, nói năng, bộ điệu, những thứ không liên hệ gì đến khả năng quản lý quốc gia, chỉ để dụ dỗ người đẹp « dư luận ». Đồng thời họ tận lực khai thác những thị hiếu thấp kém của dư luận để tấn công các đối thủ của họ trên các lãnh vực riêng tư, như tình ái, thậm chí tình dục, các khó khăn gia đình v.v… Chính trị trở thành một đấu trường hạ cấp, với những đòn phép bỉ ổi, không ăn nhằm gì đến ưu tư ích quốc lợi dân.

NGUYÊN TẮC TỰ DO

Bên cạnh đó, sự gắn bó thái quá vào những nguyên tắc nền tảng của dân chủ cũng có thể đưa đến phủ định chính dân chủ.

Sự gắn bó quá đáng vào nguyên tắc Tự Do khiến con người có cảm tưởng mình có thể làm mọi thứ, khai phóng mọi ham muốn, gợi lên những ước vọng không giới hạn, để rồi phải thất vọng khi đụng chạm với các giới hạn của thực tế và bất mãn quay lại chống phá xã hội dân chủ đã cưu mang mình.

Mặt khác, nếu lý tưởng tự do cá nhân có thể được diễn dịch một cách đơn giản là mỗi người tự mình đạt đến một cuộc sống thoải mái, có ý nghĩa, thì khi vượt qua một giới hạn nào đó, nó lại trở thành tìm mọi cách để làm sao để có thể tiêu thụ nhiều nhất, đạt đến địa vị cao nhất … Tương tự như một thể tháo gia, thay vì chơi thể thao cho thân thể khỏe mạnh, thì lại dùng thuốc kích thích có hại cho sức khỏe để tăng hiệu năng đánh bại các đối thủ. Chính với tâm lý này mà người ta luôn tìm mọi cách để vượt trên người khác, đè bẹp người khác, với hậu quả tai hại cho sự hòa đồng, hợp tác, không thể thiếu được trong xã hội.

NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG

Nguyên tắc Bình Đẳng được đẩy mạnh khiến con người luôn nhìn thấy bất công, luôn phẫn uất, và rốt cuộc cũng bất mãn với xã hội. Bình đẳng khiến con người không còn nhận thấy chỗ đứng của mình trong cấu trúc xã hội. Một cấu trúc không khi nào là một mặt phẳng ! Bình đẳng là một mặt phảng. Nói đến cấu trúc xã hội là mặc nhiên phủ nhận hình ảnh xã hội như một mặt phẳng bình đẳng. Thời xưa, chỗ đứng của mỗi người được ban bố bởi Thiên Chúa, Mệnh Trời, Nhà Vua, giòng tộc … Ngày nay, với lý tưởng bình đẳng, những yếu tố ấy không còn nữa, đưa đến việc người ta bị thôi thúc phải chinh phục một chỗ đứng, gây nên một trạng thái cạnh tranh toàn diện có thể gay gắt đến mức làm hại cho xã hội, như vừa nói.

Thật ra, con người, dù là con người dân chủ, cũng rất khó mà chấp nhận được lý tưởng bình đẳng. Một thí dụ dễ nhận ra là việc thừa kế. Thừa kế đương nhiên là bất công, bất bình đẳng. Người được hưởng một gia sản không tài ba gì hơn người khác. Hắn chỉ được sinh ra trong một gia đình giàu có. Tưởng thưởng yếu tố « sinh ra » , tức yếu tố « dòng dõi », chính là trở về với những giá trị của chế độ phong kiến, quý tộc ! Tuy nhiên, nếu một xã hội dân chủ nhân danh lý tưởng bình đẳng của mình để xóa bỏ việc thừa kế, hay chỉ tăng thuế thừa kế, thì tuyệt đại đa số công dân ham mộ « dân chủ » của xã hội ấy sẽ đứng lên chống đối một cách mạnh mẽ, mặc dù họ luôn sẵn sàng hô hào bảo vệ lý tưởng bình đẳng trên các lãnh vực khác !

Con người dân chủ chỉ trưởng thành khi có được những lập trường chống lại chính mình. Điều này được thể hiện qua con người của Tocqueville, một trong những cha đẻ của tư tưởng dân chủ hiện đại. Thật vậy, Tocqueville tự đĩnh nghĩa mình là một nhà quý tộc trong tâm hồn, nhưng một người dân chủ trong trí não …

DÂN CHỦ TỰ GIẾT DÂN CHỦ

Lịch sử cho thấy những nền dân chủ luôn phải đối đầu với nguy cơ suy thoái hay viễn tượng đưa đến độc tài. Athena đã tàn lụi, Roma đẻ ra một chính thể độc tài rất tệ hại trước khi cũng bị nhận chìm trong giòng lịch sử. Lý tưởng dân chủ của cách mạng Pháp dẫn đến giai đoạn Kinh Hoàng trước khi nhường quyền lại cho đế quốc Napoleon. Những chủ trương cao quý của cách mạng vô sản Nga đưa đến địa ngục Staline, trước khi từ từ lún xâu vào độc tài Tư Bản. Các nền dân chủ Đức, Ý, Pháp, đã đặt lên đỉnh cao quyền hành những Hitler, Mussolini, và đám tay sai của họ.

Nguyên do của viễn tượng này đã được bàn qua ở trên : đó chính là tính khai phóng của dân chủ, đưa đến sự ích kỷ, không còn biết nghĩ đến quyền lợi chung nữa. Ngày xưa, dân chủ bị coi rẻ vì lý do ấy. Platon, trong sách Cộng Hòa (Republique), quyển 8, cho thấy tương lai của một chế độ dân chủ chính là tình trạng hỗn loạn. Từ hỗn loạn sẽ nảy sinh ra một nhân vật được coi như cứu tinh của xã hội, che chở và bảo vệ người dân, trước khi trở thành nhà độc tài sắt máu. Tâm hồn của nhà độc tài vốn là một tâm hồn « dân chủ » trước khi mọi ham muốn, tham vọng của hắn được « khai phóng » triệt để bởi lý tưởng tự do, khiến hắn không còn tự kềm hãm được nữa. Thế là dân chủ dẫn đến độc tài !

Thật ra, độc tài cũng có thể ẩn náu trong dân chủ dưới những hình thức kín đáo, như sự độc tài của trí thức khoa bảng. Người trí thức biểu dương nhãn hiệu bằng cấp, được tôn thờ như những người nắm độc quyền suy nghĩ trong một số lãnh vực và mặc nhiên tước quyền ấy của mọi người khác. Dư luận cũng có thể trở thành độc tài như đã được bàn đến ở trên. Hậu quả của hai sự « độc tài » vừa nói đương nhiên là không sắt máu như các thể chế độc tài toàn trị, và dễ được chấp nhận bởi đa số người dân.

VẤN ĐỀ VĂN HÓA

Xã hội dân chủ, với các nguyên tắc tự do và bình đẳng, thường gặp khó khăn trong việc hòa hợp các nền văn hóa. Nhất là khi văn hóa biến thái thành các « sản phẩm văn hóa » được gói ghém trong những bao bì hoa mỹ để kích thích người ta tiêu thụ chúng. Nhiều xã hội dân chủ tìm cách hội nhập các nền văn hóa khác biệt trong khuôn khổ một văn hóa ưu thắng được lấy làm tiêu chuẩn, với nguy cơ trở thành « phản văn hóa », và … phản dân chủ ! Phản ứng của các cộng đồng có văn hóa không ưu thắng trước áp lực hội nhập này có thể gây nhiều nguy hại, nhất là khi các điều kiện kinh tế khó khăn đào xâu hố ngăn cách giữa các cộng đồng.

Nói chung, người ta thường có khuynh hướng đề cao những khác biệt của cộng đồng mình, tự hãnh diện coi mình như « hơn » thành viên của những cộng đồng khác. Việc thuộc về một cộng đồng, một tôn giáo hay một chủng tộc, thường được coi như một giá trị tự thân, được đặt cao hơn cả giá trị của xã hội trong đó người ta đang sống. Trong một số điều kiện nào đó, thái độ này có thể trở thành quá khích, bạo lực, đối với những cộng đồng khác hay đối với toàn xã hội …

DÂN CHỦ VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Từ nhiều năm nay, với xác quyết : « kinh tế thị trường sẽ đưa đến dân chủ, tôn trọng nhân quyền », người ta đưa kinh tế thị trường lên hàng giá trị đạo đức, trong khi trong bản chất kinh tế thị trường không liên hệ gì đến đạo đức ! Tuy nhiên, sau khi trải qua thử thách của năm 1989, xác quyết ấy, từ một niềm tin thần thánh, đã nhanh chóng trở thành một giả thuyết, rồi một giả thuyết bị ngờ vực, trước khi dần dần bị phủ nhận. Nga, Trung Quốc, Việt Nam, và nhiều nước khác, đều đã không dân chủ hóa như người ta mong đợi, mặc dù vững tiến trên con đường « thị trường hóa ». Người dân Nga vừa bằng lòng với nền kinh tế thị trường, nhưng cũng bằng lòng với triều đại độc tài Poutine. Người dân Trung Quốc cũng sẵn sàng đứng sau chính phủ của họ, ngay cả trong những vấn đề tế nhị như Tây Tạng.

Thật ra, ngộ nhận đưa đến việc gắn liền kinh tế thị trường với dân chủ là một quan niệm của Tư Bản Chủ Nghĩa kinh điển, đặt căn bản trên mâu thuẫn giữa Lao Động với Tư Bản. Ngày nay, nhiều mâu thuẫn khác đã nảy sinh. Thí dụ như mâu thuẫn với môi trường, bao gồm ô nhiễm và suy kiệt tài nguyên thiên nhiên, đi kèm với mâu thuẫn nước giàu, nước nghèo, kinh tế thực, kinh tế ảo v.v…

Thật vậy, những lãnh vực kinh tế mới đã tạo ra những yếu tố « ảo », được coi như đang xoi mòn nền móng của Tư Bản Chủ Nghĩa. Kinh tế « ảo » mang những mâu thuẫn với nền kinh tế sản xuất và dịch vụ thông thường. Hàng hóa cũng như dịch vụ « ảo » được trao đổi tự do và miễn phí qua mạng internet, mâu thuẫn không chỉ với quyền tư hữu, mà cả với định lý nền tảng của Tư Bản Chủ Nghĩa gán cho mỗi hàng hóa, mỗi dịch vụ, một giá trị tiền bạc.

Bên cạnh đó, qua cuộc khủng hoảng ngân hàng gây ra bởi vụ Société Générale, người ta thấy một nhân viên ngân hàng cấp thấp có thể trong vài phút quyết định sự được mất hàng chục tỷ đô la tiết kiệm của những người dân thường. Điều ấy sở dĩ xảy ra được vì những món tiền vĩ đại kia chỉ là những con số, được quản lý bằng vài phát nhấn chuột trên máy vi tính. Khủng hoảng « subprimes » tại Hoa Kỳ cũng cho thấy mâu thuẫn giữa những phương tiện làm tiền có thể được, và thực tại của thị trường, khi thực tại này bị xóa nhóa trong bức tranh trừu tượng của nền kinh tế « ảo » (có người cho rằng tỷ lệ kinh tế « thực » trên kinh tế « ảo » là một trên 50 !). Một thực tế đã không được nhìn nhận đúng mức, ngày nay hiển lộ ra, là : nếu cứ để cho kinh tế thị trường được tự nó quyết định quá nhiều, thì nó sẽ đưa đến những lạm dụng tai hại, có thể kéo theo sự tự hủy diệt chính nó. Sự kiện chính quyền Hoa Kỳ tung ra những món tiền khổng lồ để cứu những công ty đang sụp đổ không là gì khác hơn một hình thức « quốc hữu hóa » quy mô, quay lưng lại với lý thuyết thị trường tự do.

Vấn đề đô thị hóa trong Tư Bản Chủ Nghĩa hiện đại cũng hàm chứa những mầm mống bất công khó giải quyết, có khi đưa đến bạo loạn, như thường xảy đến ở Pháp. Trong khi đó, nông thôn không còn nông dân, chính quyền hạn chế canh tác để giữ giá nông phẩm, mặc cho nông phẩm thiếu hụt gây nghèo đói …

DÂN CHỦ VÀ TOÀN CẦU HÓA

Một trong những chướng ngại lớn nhất của dân chủ là khuynh hướng toàn cầu hóa của Tư Bản Chủ Nghĩa. Dân chủ trong sự hoạt động của nó, cần đến những cấu trúc lệ thuộc vào một biên giới rõ rệt, thông thường nhất là biên giới quốc gia. Thị trường, ngược lại, không biết đến ranh giới. Môi trường hoạt động của nó rốt rào là toàn cầu. Những quyết định của thị trường có thể mâu thuẫn với những quyết định « dân chủ » của người dân. Thị trường có thể áp đặt quy luật của mình trên luật lệ an sinh xã hội, luật lao động, luật tài chánh, thuế khóa, hối đoái v.v… của một nước. Áp lực của thị trường có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Ngược lại, ảnh hưởng điều chế của dân chủ trên áp lực của thị trường thì lại ngày càng suy giảm, ngay cả tại các nước tiền tiến. Một chính phủ, dù hữu khuynh hay tả phái, tại Pháp, Đức, Ý, hay Tây Ban Nha, rốt cuộc cũng vẫn phải chọn một con đường thực tế, tức là phải chiều theo những đòi hỏi của thị trường trong cái thế toàn cầu không thể tránh được. Rốt cuộc thị trường làm chủ, tước quyền làm chủ của người dân.

Áp lực « siêu quốc gia » của thị trường cũng thúc đẩy việc hình thành các khối quốc gia. Trong trường hợp Liên Hiệp Âu Châu, tất cả đã bắt đầu bằng một thị trường chung, trước khi cố gắng tiến dần đến một quy chế càng ngày càng gần với quy chế liên bang. Liên Hiệp Âu Châu có quyền áp đặt những điều luật trên người dân của một quốc gia thành viên. Rồi khi những người dân này phát biểu sự chống đối của họ qua các cuộc trưng cầu dân ý, thì giới cầm quyền liền tìm cách chuyển các vấn đề bị chống đối ấy sang cho các Quốc Hội, tức cho giới chính trị gia chuyên nghiệp, thông qua. Trong điều kiện ấy, thử hỏi ai nắm quyền làm chủ ? Có còn là người dân nữa hay không ?

VIỄN TƯỢNG DÂN CHỦ ?

Trước những mâu thuẫn vừa được liệt kê, một cuộc khủng hoảng cấu trúc sẽ khó mà tránh được. Khi thị trường hoàn toàn làm chủ, các chính quyền sẽ mất dần quyền hành và bị lấn át bởi những tổ hợp kinh tế siêu quốc gia hoạt động như những băng đảng, bất kể luật pháp. Thế giới sẽ đi đến tình trạng tranh chấp toàn diện. Hỗn loạn, khánh tận tài nguyên, ô nhiễm trầm trọng, sẽ đưa đến sự sụp đổ của nhiều cấu trúc mà chúng ta hiện thấy. Vấn đề là làm thế nào để quan niệm một nền dân chủ sau đó ? Lề lối quản lý xã hội phải dựa trên những căn bản nào ? Xin tạm đề nghị vài chiều hướng suy nghĩ, với một số ý kiến có thể được áp dụng ngay trong hiện tại :

Khái niệm dân chủ dựa trên một hình thức dân chủ nhất định cần được xét lại : vấn đề không phải là hình thức dân chủ, mà là một phương thức quản lý xã hội VÌ DÂN.
Cần đi đến một sự dung hòa giữa « dân chủ đại diện » và « dân chủ trực tiếp », để một chính trị VÌ DÂN cũng thực sự DO DÂN, thay vì nằm gọn trong tay một giới thượng lưu chuyên nghiệp. Mạng lưới internet có thể giúp người dân phát biểu một cách lập tức và trực tiếp. Vấn đề là làm sao hệ thống hóa những phát biểu ấy và cho nó thể hiện được trong việc quản lý quốc gia, tức đem lại cho nó một quyền hành thực sự. Trong khi chờ đợi sự hệ thống hóa này, cần tạo ra những diễn đàn dư luận mạnh mẽ, với phương tiện thu góp rộng rãi, sắp xếp rõ ràng, các ý kiến của người dân, trên các công việc cụ thể, các quyết định hàng ngày, của việc quản lý quốc gia, của việc điều hành các địa phương, và cả việc điều hành các xí nghiệp có tầm ảnh hưởng quan trọng trong xã hội.

Vượt trên những phương tiện trưng cầu dân ý như vừa nói, dân chủ trực tiếp có thể được áp dụng ngay lập tức ở trình độ địa phương cấp thấp, qua các ủy ban làng xóm, khu phố, xí nghiệp … với sự tham gia trực tiếp của mọi người chứ không qua trung gian đại diện. Nó giúp người dân mau chóng trưởng thành hơn hình thức dân chủ đại diện, được coi như duy trì họ trong tình trạng ấu trĩ như đã phân tích ở trên. Khi biết tự lập, tự quản, người ta cũng phải thoát khỏi tháp ngà ích kỷ, để chấp nhận ý niệm tự lập, tự quản nơi người khác, đưa đến sự sẵn sàng tham gia vào những dự án chung ở một tầm mức rộng lớn hơn, như tầm mức quốc gia.

Cần từ bỏ quan niệm độc tôn của mô hình dân chủ tư bản tây phương. Người tây phương và giới thân tây phương ở các quốc gia đang phát triển cần khiêm nhượng chấp nhận sự phức tạp của các xã hội, của các vấn đề được đặt ra cho các xã hội ấy, và sự hiện hữu của nhiều phương cách giải quyết các vấn đề này. Cần chấp nhận dân chủ như một tập hợp kinh nghiệm lịch sử, tùy thuộc cấu trúc của mỗi xã hội và các con đường lịch sử mà xã hội ấy đã trải qua. Tại nhiều nơi, cấu trúc xã hội cũng như các kinh nghiệm lịch sử khiến cho sự tham gia của người dân vào việc quản lý quốc gia đi qua những con đường cá biệt. Cần tránh phê phán các xã hội khác với những tiêu chuẩn của nền văn hóa của mình hay những tiêu chuẩn vay mượn của một nền văn hóa ưu thắng nào đó.

Tinh thần dân chủ thực sự là chấp nhận sự khác biệt, tìm hiểu sự khác biệt ấy, và san sẻ những kinh nghiệm lịch sử giữa các xã hội với nhau. Sự chia sẻ này sẽ khiến cho con người ở những xã hội rất khác biệt vẫn có thể kết hợp trong cùng một dự án, vượt trên các ranh giới quốc gia, với khả năng trở thành một đối lực trước áp lực đè nặng trên các quốc gia của thị trường tự do.
Tóm lại,

Một hình thức tự quản và dân chủ trực tiếp có thể quan niệm được ngay lập tức ở trình độ địa phương cấp thấp. Động cơ cũng như phương tiện của nó có thể đến từ các phương thức quản lý kinh tế gần với người dân, như « tiểu tín dụng », thường được lồng trong khái niệm « kinh tế xã hội » (9).

Khi ý tưởng VÌ DÂN không còn bị ràng buộc bởi những gò bó quanh các hình thức dân chủ cố định, lệ thuộc vào giới chính trị gia chuyên nghiệp, thì mọi con người đều có thể suy tư và làm việc theo cùng một chiều hướng. Một sự hợp tác toàn cầu thực sự VÌ DÂN sẽ có thể quan niệm được. Hệ thống hóa và tổ chức sự hợp tác ấy sẽ đưa đến một cấu trúc quyền hành VÌ DÂN trên toàn thế giới, có khả năng đối đầu với xã hội hàng hóa toàn cầu.



Nguyễn Hoài Vân

“Sound of noise” – Sự cách tân của nghệ sĩ

“Sound of noise” – Sự cách tân của nghệ sĩ


Sự khác biệt
Khi lần đầu tiên tôi viết văn, tôi viết những thứ mình thích, chuyển vào trong đấy mọi ngưỡng vọng và ước mơ, mọi hình dung của tôi về những con người lý tưởng, nhưng khi nó được xuất bản nhiều người nói rằng nó chẳng có gì là mới mẻ cả, chẳng có gì là hiện đại cả… Rất buồn, tôi đi tìm sự cách tân… Nhưng mọi sự cách tân của tôi đều na ná giống ai đó. Và tự lúc nào tôi đã rời xa chính mình, tôi thấy mệt mỏi và nhảm nhí. Cố gắng tạo sự khác biệt, vậy mà mình lại khác biệt theo cách của người khác.
Nhưng rồi, nhận ra tôi không cần đến sự khác biệt nhảm nhí ở bên ngoài ấy. Nếu sự khác biệt được tạo dựng để cố gắng khẳng định một điều gì đó, đích thực là sự khác biệt phù phiếm. Sự khác biệt thật sự chỉ đến từ bên trong. Khi tôi nhìn những đứa trẻ con ở công viên, chẳng đứa nào chơi giống đứa nào, và sự khác biệt của chúng rất dễ nhận biết dù không cố gắng. Đơn giản chỉ bởi chúng chỉ làm việc chúng thích, không quan tâm xung quanh đang nói gì. Sao phải cố gắng cho một sự khác biệt khi chúng ta chỉ cần liên tiếp là những việc chúng ta thực sự muốn, chứ không phải người khác bắt chúng ta muốn?

Một bữa ăn sẽ khó nuốt như thế nào nếu như trong bữa thiếu đi một món có vị… nhạt? Bạn có uống mãi được bia rượu, nước ngọt không? Bạn vẫn cần uống nước lọc cơ mà? Bạn có thể ăn đủ các món mặn, ngọt, đắng, cay… nhưng lúc nào đấy bạn vẫn phải ăn cơm, đúng không? Vậy nếu bạn thích sự nhạt, hãy chấp nhận nó. Sao phải cố gắng trở nên đậm đà vì như thế người ta mới bảo là có cá tính? Nếu bạn thích ăn mặn, không cần phải cố ăn nhạt vì ai đó nói rằng ăn nhạt tốt cho thận.

Giờ tôi đã biết phải thế nào để khác biệt! Đó là ở toàn bộ trong sự chân thật của mình, đó là liên tiếp làm việc mình thích nhiều nhất có thể. Và mọi người luôn nhận ra tôi, và tôi trở nên khác biệt không phải chỉ với xung quanh, tôi khác biệt với chính mình. Và cuộc đời chúng ta sẽ là một chuỗi sự khác biệt nếu chúng ta quay lại làm chính mình.

Sau khi xem “Sound of noise”

Hôm qua đi xem phim “Sound of noise”, không khỏi suy nghĩ về nghệ thuật và cuộc sống nghệ sĩ. Họ là những người ích kỷ nhất trần đời, là những kẻ yêu mình đến kỳ lạ.

Với một nghệ sĩ đích thực, dường như cuộc đời không chạm tới được bên trong họ nhiều, bên ngoài họ có thể diễn nhiều vai diễn. Những vai diễn ấy chẳng qua chỉ để thí nghiệm một điều gì đó trong đầu họ nảy sinh. Mọi tác động bên ngoài có thể khiến họ có suy nghĩ, có cảm xúc, nhưng phần sâu thẳm bên trong chỉ như một người thưởng lãm mọi diễn biến của thế giới bên ngoài và thế giới nội tâm.

Họ là những kẻ “duy ngã độc tôn”, không cần phải quan tâm tới việc mình có được tán thưởng hay không. Trong thế giới ấy, họ là người vua duy nhất và cũng là công dân trung thành của mình, là người trình diễn duy nhất và cũng là một khán giả tri âm.

Ai đó có thể bảo họ là điên rồ, nhưng thực sự họ đã trở nên “điếc không sợ súng” và không ít lần họ tự nhủ “chó sủa cứ sủa, người đi cứ đi” và họ thẳng bước mà đi. Và một tác phẩm nghệ thuật của riêng mình không phải là làm điều gì cố tình gây khác lạ mà đơn thuần chỉ là mô tả sự khúc xạ của thế giới bên ngoài thông qua lăng kính của chính mình. Chỉ cần dùng đúng lăng kính của mình thì tác phẩm ấy là độc nhất, nhưng nếu dùng lăng kính của người khác thì đó chỉ là sự bắt chước và tác phẩm đó dù hay cũng chỉ là một món hàng thủ công.

Trong phim có một anh chàng chỉ biết 3 nốt nhạc nhưng lao vào viết và tự cho rằng tác phẩm này sẽ thay đổi thế giới, người em trai của anh ta là một nhạc trưởng nổi tiếng nói rằng rất nhiều người đã tuyên bố như vậy. Nhưng anh chàng nhạc trưởng vốn dĩ chỉ là một anh thợ khéo tay, không thể cảm thấy được cái cảm giác của sự sáng tạo từ bên trong và chỉ luôn sống một cuộc đời đã lên công thức. Nhưng người nghệ sĩ thực sự, bất kể tài năng đến đâu, khi trải hết nội tâm của mình vào tác phẩm, họ không quan tâm lắm đến việc mình có thể thay đổi thế giới bên ngoài hay không, nhưng chắc chắn thế giới bên trong của họ đã đổi thay.

Và sự sáng tạo ấy quả nhiên đã làm thay đổi thế giới.

Hà Thủy Nguyên

Thứ Tư, 16 tháng 12, 2015

172 lời khuyên của Khổng Tử


Có chí thì ... ham học
Bất chí thì ... ham chơi
Trí khôn tạo... nên người
Đức nhân tìm ...ra bạn


Thành đạt nhờ ...đức dày
Làm nên nhờ ...có thầy
Đủ đầy nhờ ...có bạn
Gái ngoan nhờ ....đức hạnh
Trai mạnh nhờ.... lực cường...

Tươi đẹp lắm ....người thương
Lực cường nhiều... kẻ mạnh
Dễ thích nghi thì ...sống
Biết năng động thì ...nên
Đủ tài trí ...làm nên
Đủ sức bền thì ...thắng

Biết mình khi ...hoạn nan
Hiểu bạn lúc ...gian nguy
Nghèo hèn bởi ...tự ti
Ngu si vì ...tự phụ

Tài đức cao hơn... phú
Hạnh phúc đủ hơn... giàu
Sống trung tín ....bền lâu
Tình nghĩa sâu... hạnh phúc

Đủ tài thì ...đỡ cực
Đủ sức thì ...đỡ nghèo
Dốt nát... hay làm theo
Hiểu biết nhiều thì ...lợi
Hỏng việc vì ...hấp tấp
Va vấp bởi ...vội vàng

Cảnh giác với... lời khen
Bình tâm nghe ...lời trách
Quá nghiêm thì... ít bạn
Dễ dãi ...bạn khinh nhờn
Không hứa hão là ...khôn
Không tin xằng.... ít vạ

Làm ơn.... đừng mong trả
Được ơn... nhớ đừng quên
Nhu nhược bị... ép trèn
Quá cương thì bị ...gãy

Cái quý thì ....khó thấy
Dễ thấy ....thường của tồi
Của rẻ ...là của ôi
Dùng người tội ....sinh vạ
Đẹp lòng hơn ...tốt mã
Nền nã hơn ...kiêu kì

Thận trọng ....từng bước đi
Xét suy.... khi hành động
Hiểu biết nhiều ...dễ sống
Luôn chủ động ...dễ thành
Thận trọng... trước lợi danh
Giữ mình đừng.... buông thả
Tránh xa ....phường trí trá
Tai vạ bởi ...nể nang
Tài giỏi ....chớ khoe khoang
Giàu sang.... đừng kênh kiệu

Học bao nhiêu ....vẫn thiếu
Học bao nhiêu ...chẳng thừa
Nhân đức.... chớ bán mua
Được thua không ...nản chí
Đủ đức tài.... bớt lụy
Đủ dũng khí ....chẳng hàng

Có vợ đảm thì ...sang
Có bạn vàng thì ...quý
Đói nghèo vì ....bệnh sĩ
Quẫn trí dễ... làm liều

Tỉnh táo với.... tình yêu
Biết điều khi.... yếu thế
Lo việc nhà ...chớ kể
Ân nghĩa chớ ...đếm đong

Người phúc lộc... nhờ nguồn
Sống bất nghĩa ...tai ương
Sống bất lương... tù ngục
Phải cầu xin là ...nhục
Phải khuất phục là ....hèn

Hay đố kị ...nhỏ nhen
Hay ép trèn... độc ác
Lắm gian truân ...càng sáng
Nhiều hoạn nạn... càng tinh

Với mình phải ...nghiêm minh
Với chúng sinh ....thân ái
Đang thắng.... phòng khi bại
Gặt hái.... phòng mất mùa

Thói quen thường... khó chừa
Say sưa thường ....khó tỉnh
Sống ỉ lại.... ăn sẵn
Dễ bạc.... phân tán mình
Sống dựa dẫm ....ngu đần
Sống bất cần ....phá sản

Hay đua đòi.... hoạn nạn
Quá nể bạn... tai ương
Gia đình trọng.... yêu thương
Sống nhịn nhường.... hỉ hả
Thiếu tình thương ....man trá

Gắn vàng đá ....cũng tan
Biết dạy dỗ ....con ngoan
Chịu bảo ban ....con giỏi
Tinh khôn nhờ ....học hỏi

Cứng cỏi nhờ.....luyện rèn
Sống vì nhau ....dễ bền
Sống vì tiền..... đổ vỡ
Rèn con .....từ mới nở
Khuyên vợ.... lúc mới về
Muốn hiểu cần..... lắng nghe
Thích khoe thì ....trí cạn

Khốn nạn.... quên mẹ cha
Tốt đẹp ....hãy bày ra
Xấu xa .....nên đậy lại
Có ích thì ....tồn tại
Có hại sớm .....diệt vong

Nhiều tham vọng..... long đong
Lắm ước mong..... lận đận
Hay vội vàng.... hối hận
Quá cẩn thận... lỗi thời

Biết được người là.... sáng
Hiểu được bạn là ....khôn
Khiêm tốn là.... tự tôn
Kiêu căng là....tự sát

Hứa trước thì ....khó đạt
Hèn nhát thì.... khó thành
Thù hận bởi..... lợi danh
Tranh giành vì ....chức vị

Giàu sang hay.... đố kị
Tài trí sinh.... ghét ghen
Tham giàu thì .....cuồng điên
Tham quyền thì ....độc ác

Vì tiền thì ....dễ bạc
Vì tình nghĩa ....bền lâu
Người hiểu nói..... trọn câu
Người dốt..... tâu phách lối

Có quyền thì..... hám lợi
Có tội thường..... xum xoe
Khờ dại hay..... bị lừa
Nó bừa hay.... vạ miệng

Đa ngôn thì .....tai tiếng
Ngậm miệng..... dễ được tin
Hám lợi hay ....cầu xin
Hám quyền hay.... xu nịnh

Thật thà hay ....oan trái
Thẳng thắn hay.... bị hại
Thông thái hay.... bị ngờ
Chiều con quá ....con hư
Tiền của dư ... con hỏng

Giàu mạnh..... thường thao túng
Nghèo vụng..... dễ theo đuôi
Người tài giỏi ....khó chơi
Kẻ trây lười..... khó bảo

Thành tâm thì ....đắc đạo
Mạnh bạo.... việc dễ thành
Quân tử thì ....trọng danh
Tiểu nhân thì..... trọng lợi
Bất tài hay..... đòi hỏi

Lộc lõi..... khó khiêm nhường
Tình nghĩa ....thường khó quên
Nợ nhân duyên.... khó trả
Khó thuần phục ....kẻ sĩ
Khó phòng bị ....tướng tài

Biết chấp nhận .....thảnh thơi
Hay hận đời.... đau khổ
Của quý thì ....khó giữ
Con cầu tự.... khó nuôi
Nhà dư của.... hiếm hoi
Nhà lắm người ....bạc cạn

Khó gần người ....quá sạch
Vắng khách tại ....quá nghèo
Dễ nổi danh.... kị hiền
Dễ kiếm tiền..... khó giữ

Kiếp người là.... duyên nợ
Lành vỡ.... lẽ thường tình
Bại thành từ.... lực trí
Thời gian đừng ....uổng phí
Biết suy nghĩ ....sâu xa.


Khổng Tử.
http://ma-tu-an.blogspot.com/2014/09/nhung-loi-khuyen-cua-khong-tu.html