" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Năm, 17 tháng 12, 2015
Những nghịch lý dân chủ
Không gì nguy hiểm cho người trí thức bằng tự giam mình trong những định kiến của một giai đoạn lịch sử. Vì đó chính là giết chết vai trò trí thức trong bản thân mình, bóp nghẹt mọi suy tư vượt trên những khuôn khổ thời thượng. Trên bình diện xã hội, thái độ ấy đưa đến khóa cửa chối từ những luồng gió mới, kềm hãm bánh xe lịch sử, ngăn cấm sự tiến hóa của xã hội một cách hài hòa trên con đường trí tuệ . Để rồi, sẽ chỉ còn những con đường đột biến, đầy khủng hoảng và tang thương …
Chúng ta đang sống trong một giai đoạn trong đó người ta hình dung Dân Chủ, đặc biệt là dân chủ nghị trường, như sự kết thúc của lịch sử (1), như chân trời không thể vượt qua của trí tuệ, như một cái gì đương nhiên. Như thể xã hội mang tính nhị nguyên. Hễ ra khỏi độc tài thì là dân chủ. Không còn gì khác ! Thực tế là xã hội con người không nhị nguyên. Mọi tương lai đều khả hữu. Marx (2), Popper (3), và ngay cả Sartre (4) trên những quan điểm khác nhau, đều đã nhìn ra điều ấy. Chúng ta cũng nhận thấy sự thật này một cách cụ thể từ năm 1989, lúc người ta tuyên dương sự chiến thắng vĩnh cửu của chính thể dân chủ đại diện và kinh tế thị trường (1). Từ thời điểm ấy, những xã hội thoát khỏi thế giới lưỡng cực đã dấn bước lên nhiều con đường khác nhau, trong đó dân chủ không phải bao giờ cũng là mối quan tâm chính yếu.
Thật ra, điều quan trọng nhất của suy nghĩ chính trị hiện nay không ngoài việc hướng đến giải đáp cho ba vấn nạn quan trọng nhất của thời đại chúng ta : nguy cơ khánh tận tài nguyên, nguy cơ chìm trong ô nhiễm, và hố sâu chênh lệch giàu nghèo (2). Nếu thật sự dân chủ nghị trường là điểm đến của mọi suy tư, thì nó có khả năng giải quyết những nguy cơ sống còn ấy hay không ? Lý thuyết dân chủ cần những thay đổi, những cập nhật nào ? Và bên ngoài chân trời ấy, có còn một bầu trời nào khác không ?
Trong bài này chúng ta sẽ tự hạn chế trong việc duyệt qua một số nghịch lý của dân chủ. Không phải để bài bác, nhưng từ sự nhận thức các mâu thuẫn, chắc chắn bạn đọc sẽ có được những cái nhìn mới. Rất có thể những quan niệm mới này sẽ vẫn ở trong phạm vi dân chủ, nhưng ở một trình độ khác hơn. Dù sao, cần giữ cho cánh cửa suy tư luôn rộng mở …
HAI MÂU THUẪN NỀN TẢNG GIỮA BẦU CỬ VÀ DÂN CHỦ
Nếu dân chủ là « người dân làm chủ », thì bầu cử chính là tước đoạt quyền làm chủ của người dân. Bầu cử mâu thuẫn với dân chủ. Trong phòng phiếu, khi để cho lá phiếu rơi khỏi tay, thì người dân mặc nhiên từ bỏ quyền làm chủ đất nước của mình, để đặt nó vào tay một người mà có khi mình chỉ được biết sơ sài qua vài màn trình diễn hay vài thông tin phiến diện được gạn lọc bởi những cơ sở truyền thông. Kết quả là quyền hành được chuyển nhượng cho một nhóm chính trị gia chuyên nghiệp, phân chia thành đảng phái để thay phiên nhau cai trị xã hội. Bầu cử, trong sự vận hành tốt đẹp nhất của nó, chỉ đưa đến một chính thể « thượng chủ » (oligarchie), với quyền hành luân chuyển trong tay một giới thượng lưu. Có lẽ vì thế mà Sartre đã cho rằng bầu cử là cạm bẫy dành cho bọn đần độn : « élection, piège à cons ! » (5) …
Mâu thuẫn nền tảng thứ hai giữa bầu cử và dân chủ đến từ một ngộ nhận phổ quát. Người ta nghĩ rằng khi mỗi cử tri phát biểu qua lá phiếu của mình thì đó là quyết định của « nhân dân », của dân tộc, của toàn xã hội, và cho đó là dân chủ. Điều này hoàn toàn là một ngộ nhận, vì lá phiếu chỉ phản ảnh sự chọn lựa của một cá nhân, và tổng hợp các lá phiếu chỉ cho biết quyết định của một tập hợp cá nhân. Một tập hợp cá nhân không phải là một dân tộc, không đồng nghĩa với « nhân dân », với xã hội. Xã hội, nhân dân, dân tộc, mang cá thể riêng biệt, khác hẳn với những cá nhân cộng lại. Chỉ cần nghĩ rằng : sự kín đáo của phòng phiếu chính là nơi mỗi cá nhân được dịp phản bội tập thể của mình …
MÂU THUẪN GIỮA DÂN CHỦ VÀ TIẾN BỘ
Như thế, mô hình dân chủ nghị trường, đặt căn bản trên bầu cử, tức trên bài toán cộng của những chọn lựa cá nhân, rốt cuộc chỉ đưa đến một chế độ « thượng chủ », với quyền hành nằm trong tay một giai cấp thượng lưu luôn cố bám lấy quyền lợi của mình bằng cách duy trì xã hội trong nguyên trạng của nó. Chữ « State » hay « Etat », thường được dịch là « Quốc Gia », thật ra có nghĩa gốc là « nguyên trạng ». Giai cấp nắm quyền tự cho mình cái bổn phận phải duy trì « Quốc Gia », tức « nguyên trạng », nói cách khác, là kềm giữ xã hội trong một trạng thái nhất định, được gọi là « ổn định ». Điều này đương nhiên là mâu thuẫn với nhu cầu tiến hóa của xã hội. Vì thế, những tiến bộ quan trọng của xã hội thường phải vận dụng đến những hình thức dân chủ khác với dân chủ nghị trường, tức những cao trào quần chúng đấu tranh quy mô.
Cần biết là những người dân mong muốn xã hội tiến hóa một cách tha thiết nhất chính là tầng lớp nghèo khổ. Quyền bầu phiếu không là gì cả khi bụng đói, khi rách rưới, khi nhà cửa dột nát hay không có nhà cửa … Xã hội tư sản không dành cho những người này một định chế hữu hiệu nào để bảo vệ quyền lợi của họ. Thật vậy, không có nghiệp đoàn người thất nghiệp. Thống kê cũng cho biết những người thực sự nghèo khổ, với công ăn việc làm bấp bênh, thường không tham gia công đoàn (và ít tham gia bầu cử). Các nghiệp đoàn đều là nghiệp đoàn của những người có công việc. Những người thực sự nghèo khổ chỉ có một phương tiện duy nhất để ngoi lên, đó là : đấu tranh tập thể ! Dân chủ đối với họ, cũng như những tầng lớp thiếu thốn nói chung, buộc phải thông qua việc tổ chức thành công cao trào tập thể đấu tranh. Đó là những lóe sáng của dân chủ thực sự, trong những xã hội « thượng chủ » bị gò ép trong tay một giai cấp chính trị gia chuyên nghiệp.
QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN VÀ DÂN CHỦ HÌNH THỨC
Người ta thường nói đến tự do ngôn luận như một trong những thành tố quan trọng nhất của xã hội dân chủ. Thật ra, điều quan trọng là : quyền quyết định nằm trong tay ai ? Chứ không phải quyền nói năng, phát biểu ! Churchill từng nói (đùa) rằng : “chúng ta sống trong một xã hội dân chủ, nên quý vị có toàn quyền phát biểu trước khi phục tùng quyết định của tôi ». Khi quyền hành được tầng lớp ưu thắng nắm chắc trong tay, thì tự do ngôn luận không còn một giá trị quyết định nào. Người ta có thể có tự do, đồng thời vẫn bị lệ thuộc.
Trên một bình diện quy mô hơn, trong các xã hội Tây Phương, ngôn luận được tập trung trong tay các nhà kỹ nghệ. Tại Pháp, một tổ hợp xây cất, cùng với hai tổ hợp sản xuất vũ khí thân cận với chính quyền, hiện nắm giữ những phương tiện truyền thông đại chúng quan trọng nhất, bao gồm những đài truyền hình đại chúng, đài phát thanh, báo giấy, báo mạng, nhà xuất bản sách v.v… Patrick Le Lay Giám đốc đài truyền hình TF1, được nhiều người xem nhất tại Pháp, thuộc tổ hợp Bouyghes, gốc là một công ty xây cất, từng tuyên bố : « điều mà chúng ta bán cho Coca Cola – hay bất cứ thương hiệu nào khác – là thời gian trí não của khán giả, để họ sẵn sàng đón nhận các thông điệp quảng cáo » (6). Truyền thông trở nên lệ thuộc vào thế lực tiền bạc và gắn bó chặt chẽ với quyền lực chính trị. Khán giả các phương tiện truyền thông đại chúng, tức đại đa số dân chúng, bị điều kiện hóa để không còn biết tự mình suy nghĩ. Họ trở thành một bầy cừu với những thái độ và phản ứng đồng loạt được « quy trình » sẵn (7). Ý kiến cá nhân, vốn là cột trụ quan trọng nhất của dân chủ, từng được các triết gia như Aristote đề cao từ thời cổ Hy Lạp, bị đặt trước nguy cơ tàn lụi, bởi sự tập trung phương tiện ngôn luận dưới sự cai trị của thị trường.
VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN
Nhân quyền vốn vẫn được coi như sự biện minh của dân chủ. Người ta hình dung nhân quyền như một cái gì đương nhiên, không cần bàn cãi. Thật ra khái niệm nhân quyền rất mong manh. Nó lệ thuộc vào sự hiện hữu của ba yếu tố : một bản chất con người cách biệt với thiên nhiên một cách rõ rệt, một giá trị hiển nhiên của con người vượt hẳn mọi giá trị khác, và sự cảm thông rộng rãi giữa mọi con người với nhau. Các yếu tố này sẽ được phân tích trong một bài viết sắp phổ biến. Tạm thời, chúng ta có thể nhận xét là trong xã hội tân tiến hiện tại, cả ba yếu tố kể trên đều rất lung lay, chao đảo.
– Bản chất con người cách biệt với thiên nhiên ? Không gì mơ hồ hơn, khi những chứng minh về liên hệ chặt chẽ giữa con người và thiên nhiên trên tiến trình tiến hóa càng ngày càng rõ nét, trên mặt vật lý cũng như tâm lý. Thậm chí văn hóa của con người cũng phải tuân theo những quy luật cấu trúc khách quan (8). Quan niệm chỗ đứng của con người như một chủ thể độc lập, tự do, vượt trên các thành tố khác của thiên nhiên, hiện phải bị xét lại.
– Giá trị hiển nhiên của con người ? Sau những tội ác mà con người đã làm cho đồng loại của mình suốt thế kỷ 20, từ chế độ Gulag, Auschwitz, đến Srebenisca, qua sự tiêu diệt một phần ba của chính dân tộc mình tại Campuchia rồi cuộc thảm sát ở Rwanda, người ta có quyền có đôi chút nghi ngờ về « giá trị » nhân bản ấy.
– Sự cảm thông rộng rãi giữa con người với nhau ? Với phản ứng co cụm của từng cộng đồng trong phạm vi văn hóa của riêng mình, để bài bác, thậm chí tấn công bằng bạo lực các cộng đồng khác, chiều hướng thông cảm giữa người với người cũng đang trên đà sút giảm … Thật ra, đã bao giờ người ta coi những con người thuộc văn hóa hay tôn giáo khác như mang cùng bản chất với mình hay chưa ? Chỉ cần nghĩ đến việc đa số tôn giáo thường hứa hẹn cho đa số đồng loại của mình một sự đày đọa muôn đời trong địa ngục …
Kết quả của sự khó khăn trong ý thức Nhân Quyền, là tại nhiều nơi người ta buộc phải áp đặt nó, có khi bằng bom đạn, có khi bằng áp lực kinh tế hay chính trị, khiến Nhân Quyền rất dễ bị coi như một phương tiện thống trị của chủ nghĩa thực dân mới.
TÍNH ẤU TRĨ CỦA CON NGƯỜI DÂN CHỦ
Platon, trong quyển 8 của sách Cộng Hòa (la République), mô tả con người dân chủ với một tâm lý bấp bênh, khi này, khi khác, phất phơ vô định. Hành vi của họ lệ thuộc vào những thèm muốn, những sợ sệt trái ngược hẳn nhau, lần lượt xuất hiện và biến thái trong tâm tư dao động của họ.
Tocqueville, khi phân tích nguy cơ độc tài và suy thoái trong dân chủ, đã cho rằng dân chủ có khả năng ru ngủ con người, duy trì người dân trong một tình trạng ấu trĩ. Con người trong xã hội dân chủ có khuynh hướng thu mình trong một phạm vi cá nhân, gia đình, hay bè bạn rất hạn chế, và chỉ quan tâm đến những nhu cầu và thú vui nhỏ nhoi riêng tư của họ, bất chấp mọi người, mọi việc chung quanh. Những kẻ này có thể gặp gỡ người khác, nhưng không nhìn thấy bất cứ ai. Họ có thể có nhiều tiếp xúc nhưng không hề ý thức sự hiện diện của tha nhân … Họ chỉ hiện hữu cho chính họ. Tocqueville cho rằng những người ấy nhìn xã hội qua khung cảnh hạn hẹp của gia đình mình. Tâm lý này dễ biến xã hội thành một tập hợp những sự ích kỷ, khó có được một hướng tiến, một đề án, một viễn tượng chung. Tâm lý ấy cũng thuận lợi cho những kẻ mị dân, lừa gạt dư luận bằng những lời nói vỗ về đường mật, để đưa xã hội vào độc tài toàn trị.
VẤN ĐỀ DƯ LUẬN
Dư luận vừa là một con quái vật hung hãn có khả năng nuốt sống bất cứ ai, bất cứ chương trình, tư tưởng nào, đồng thời cũng là một người đẹp được mọi người theo đuổi, chiều chuộng … Chấp nhận sự thống trị của dư luận là một nguy cơ cho xã hội. Một nhà lãnh đạo, theo định nghĩa, không thể đóng vai trò lãnh đạo nếu luôn chiều theo dư luận. Các quyết định lịch sử trọng đại thường đi ngược lại ý muốn của dư luận, như việc sát nhập Đông và Tây Đức của Thủ Tướng Kohl, hay việc xóa bỏ án tử hình của Tổng Thống Mitterrand … Những nhân vật được coi như vĩ nhân của nước họ, như Tổng Thống de Gaulle hay Thủ Tướng Churchill, đều có rất nhiều lúc phải chống lại dư luận trong cuộc đời chính trị của họ. Tuy nhiên không ai dám quả quyết là một nhà cầm quyền có thể đối đầu với dư luận. Max Weber phân biệt đạo lý trách nhiệm với đạo lý giựa trên lập trường, trên niềm tin vào lẽ phải. Người cầm quyền có thể tin rằng một quan điểm nào đó là đúng, nhưng vẫn phải chiều theo dư luận, nhân danh « đạo lý trách nhiệm » …
Trong nhiều trường hợp, dư luận trở nên quan trọng hơn bầu cử. Cả Nicolas Sarkozy lẫn Ségolène Royal đều được đưa lên đỉnh cao của cuộc tranh cử Tổng Thống Pháp năm 2007 nhờ các cuộc thăm dò dư luận. Tại Pháp, nhiều chính phủ vừa được thùng phiếu đưa lên đã nhanh chóng bị giải tán cũng chỉ vì tụt dốc trong các thăm dò dư luận. Quyền hành của dư luận khiến cho giới chính trị gia chuyên nghiệp luôn tìm mọi cách để quyến rũ người đẹp hiểm ác này. Được đào luyện bởi những văn phòng tư vấn về truyền thông, họ tập tành chú trọng đến các yếu tố phù phiếm bên ngoài, cách ăn mặc, nói năng, bộ điệu, những thứ không liên hệ gì đến khả năng quản lý quốc gia, chỉ để dụ dỗ người đẹp « dư luận ». Đồng thời họ tận lực khai thác những thị hiếu thấp kém của dư luận để tấn công các đối thủ của họ trên các lãnh vực riêng tư, như tình ái, thậm chí tình dục, các khó khăn gia đình v.v… Chính trị trở thành một đấu trường hạ cấp, với những đòn phép bỉ ổi, không ăn nhằm gì đến ưu tư ích quốc lợi dân.
NGUYÊN TẮC TỰ DO
Bên cạnh đó, sự gắn bó thái quá vào những nguyên tắc nền tảng của dân chủ cũng có thể đưa đến phủ định chính dân chủ.
Sự gắn bó quá đáng vào nguyên tắc Tự Do khiến con người có cảm tưởng mình có thể làm mọi thứ, khai phóng mọi ham muốn, gợi lên những ước vọng không giới hạn, để rồi phải thất vọng khi đụng chạm với các giới hạn của thực tế và bất mãn quay lại chống phá xã hội dân chủ đã cưu mang mình.
Mặt khác, nếu lý tưởng tự do cá nhân có thể được diễn dịch một cách đơn giản là mỗi người tự mình đạt đến một cuộc sống thoải mái, có ý nghĩa, thì khi vượt qua một giới hạn nào đó, nó lại trở thành tìm mọi cách để làm sao để có thể tiêu thụ nhiều nhất, đạt đến địa vị cao nhất … Tương tự như một thể tháo gia, thay vì chơi thể thao cho thân thể khỏe mạnh, thì lại dùng thuốc kích thích có hại cho sức khỏe để tăng hiệu năng đánh bại các đối thủ. Chính với tâm lý này mà người ta luôn tìm mọi cách để vượt trên người khác, đè bẹp người khác, với hậu quả tai hại cho sự hòa đồng, hợp tác, không thể thiếu được trong xã hội.
NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG
Nguyên tắc Bình Đẳng được đẩy mạnh khiến con người luôn nhìn thấy bất công, luôn phẫn uất, và rốt cuộc cũng bất mãn với xã hội. Bình đẳng khiến con người không còn nhận thấy chỗ đứng của mình trong cấu trúc xã hội. Một cấu trúc không khi nào là một mặt phẳng ! Bình đẳng là một mặt phảng. Nói đến cấu trúc xã hội là mặc nhiên phủ nhận hình ảnh xã hội như một mặt phẳng bình đẳng. Thời xưa, chỗ đứng của mỗi người được ban bố bởi Thiên Chúa, Mệnh Trời, Nhà Vua, giòng tộc … Ngày nay, với lý tưởng bình đẳng, những yếu tố ấy không còn nữa, đưa đến việc người ta bị thôi thúc phải chinh phục một chỗ đứng, gây nên một trạng thái cạnh tranh toàn diện có thể gay gắt đến mức làm hại cho xã hội, như vừa nói.
Thật ra, con người, dù là con người dân chủ, cũng rất khó mà chấp nhận được lý tưởng bình đẳng. Một thí dụ dễ nhận ra là việc thừa kế. Thừa kế đương nhiên là bất công, bất bình đẳng. Người được hưởng một gia sản không tài ba gì hơn người khác. Hắn chỉ được sinh ra trong một gia đình giàu có. Tưởng thưởng yếu tố « sinh ra » , tức yếu tố « dòng dõi », chính là trở về với những giá trị của chế độ phong kiến, quý tộc ! Tuy nhiên, nếu một xã hội dân chủ nhân danh lý tưởng bình đẳng của mình để xóa bỏ việc thừa kế, hay chỉ tăng thuế thừa kế, thì tuyệt đại đa số công dân ham mộ « dân chủ » của xã hội ấy sẽ đứng lên chống đối một cách mạnh mẽ, mặc dù họ luôn sẵn sàng hô hào bảo vệ lý tưởng bình đẳng trên các lãnh vực khác !
Con người dân chủ chỉ trưởng thành khi có được những lập trường chống lại chính mình. Điều này được thể hiện qua con người của Tocqueville, một trong những cha đẻ của tư tưởng dân chủ hiện đại. Thật vậy, Tocqueville tự đĩnh nghĩa mình là một nhà quý tộc trong tâm hồn, nhưng một người dân chủ trong trí não …
DÂN CHỦ TỰ GIẾT DÂN CHỦ
Lịch sử cho thấy những nền dân chủ luôn phải đối đầu với nguy cơ suy thoái hay viễn tượng đưa đến độc tài. Athena đã tàn lụi, Roma đẻ ra một chính thể độc tài rất tệ hại trước khi cũng bị nhận chìm trong giòng lịch sử. Lý tưởng dân chủ của cách mạng Pháp dẫn đến giai đoạn Kinh Hoàng trước khi nhường quyền lại cho đế quốc Napoleon. Những chủ trương cao quý của cách mạng vô sản Nga đưa đến địa ngục Staline, trước khi từ từ lún xâu vào độc tài Tư Bản. Các nền dân chủ Đức, Ý, Pháp, đã đặt lên đỉnh cao quyền hành những Hitler, Mussolini, và đám tay sai của họ.
Nguyên do của viễn tượng này đã được bàn qua ở trên : đó chính là tính khai phóng của dân chủ, đưa đến sự ích kỷ, không còn biết nghĩ đến quyền lợi chung nữa. Ngày xưa, dân chủ bị coi rẻ vì lý do ấy. Platon, trong sách Cộng Hòa (Republique), quyển 8, cho thấy tương lai của một chế độ dân chủ chính là tình trạng hỗn loạn. Từ hỗn loạn sẽ nảy sinh ra một nhân vật được coi như cứu tinh của xã hội, che chở và bảo vệ người dân, trước khi trở thành nhà độc tài sắt máu. Tâm hồn của nhà độc tài vốn là một tâm hồn « dân chủ » trước khi mọi ham muốn, tham vọng của hắn được « khai phóng » triệt để bởi lý tưởng tự do, khiến hắn không còn tự kềm hãm được nữa. Thế là dân chủ dẫn đến độc tài !
Thật ra, độc tài cũng có thể ẩn náu trong dân chủ dưới những hình thức kín đáo, như sự độc tài của trí thức khoa bảng. Người trí thức biểu dương nhãn hiệu bằng cấp, được tôn thờ như những người nắm độc quyền suy nghĩ trong một số lãnh vực và mặc nhiên tước quyền ấy của mọi người khác. Dư luận cũng có thể trở thành độc tài như đã được bàn đến ở trên. Hậu quả của hai sự « độc tài » vừa nói đương nhiên là không sắt máu như các thể chế độc tài toàn trị, và dễ được chấp nhận bởi đa số người dân.
VẤN ĐỀ VĂN HÓA
Xã hội dân chủ, với các nguyên tắc tự do và bình đẳng, thường gặp khó khăn trong việc hòa hợp các nền văn hóa. Nhất là khi văn hóa biến thái thành các « sản phẩm văn hóa » được gói ghém trong những bao bì hoa mỹ để kích thích người ta tiêu thụ chúng. Nhiều xã hội dân chủ tìm cách hội nhập các nền văn hóa khác biệt trong khuôn khổ một văn hóa ưu thắng được lấy làm tiêu chuẩn, với nguy cơ trở thành « phản văn hóa », và … phản dân chủ ! Phản ứng của các cộng đồng có văn hóa không ưu thắng trước áp lực hội nhập này có thể gây nhiều nguy hại, nhất là khi các điều kiện kinh tế khó khăn đào xâu hố ngăn cách giữa các cộng đồng.
Nói chung, người ta thường có khuynh hướng đề cao những khác biệt của cộng đồng mình, tự hãnh diện coi mình như « hơn » thành viên của những cộng đồng khác. Việc thuộc về một cộng đồng, một tôn giáo hay một chủng tộc, thường được coi như một giá trị tự thân, được đặt cao hơn cả giá trị của xã hội trong đó người ta đang sống. Trong một số điều kiện nào đó, thái độ này có thể trở thành quá khích, bạo lực, đối với những cộng đồng khác hay đối với toàn xã hội …
DÂN CHỦ VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Từ nhiều năm nay, với xác quyết : « kinh tế thị trường sẽ đưa đến dân chủ, tôn trọng nhân quyền », người ta đưa kinh tế thị trường lên hàng giá trị đạo đức, trong khi trong bản chất kinh tế thị trường không liên hệ gì đến đạo đức ! Tuy nhiên, sau khi trải qua thử thách của năm 1989, xác quyết ấy, từ một niềm tin thần thánh, đã nhanh chóng trở thành một giả thuyết, rồi một giả thuyết bị ngờ vực, trước khi dần dần bị phủ nhận. Nga, Trung Quốc, Việt Nam, và nhiều nước khác, đều đã không dân chủ hóa như người ta mong đợi, mặc dù vững tiến trên con đường « thị trường hóa ». Người dân Nga vừa bằng lòng với nền kinh tế thị trường, nhưng cũng bằng lòng với triều đại độc tài Poutine. Người dân Trung Quốc cũng sẵn sàng đứng sau chính phủ của họ, ngay cả trong những vấn đề tế nhị như Tây Tạng.
Thật ra, ngộ nhận đưa đến việc gắn liền kinh tế thị trường với dân chủ là một quan niệm của Tư Bản Chủ Nghĩa kinh điển, đặt căn bản trên mâu thuẫn giữa Lao Động với Tư Bản. Ngày nay, nhiều mâu thuẫn khác đã nảy sinh. Thí dụ như mâu thuẫn với môi trường, bao gồm ô nhiễm và suy kiệt tài nguyên thiên nhiên, đi kèm với mâu thuẫn nước giàu, nước nghèo, kinh tế thực, kinh tế ảo v.v…
Thật vậy, những lãnh vực kinh tế mới đã tạo ra những yếu tố « ảo », được coi như đang xoi mòn nền móng của Tư Bản Chủ Nghĩa. Kinh tế « ảo » mang những mâu thuẫn với nền kinh tế sản xuất và dịch vụ thông thường. Hàng hóa cũng như dịch vụ « ảo » được trao đổi tự do và miễn phí qua mạng internet, mâu thuẫn không chỉ với quyền tư hữu, mà cả với định lý nền tảng của Tư Bản Chủ Nghĩa gán cho mỗi hàng hóa, mỗi dịch vụ, một giá trị tiền bạc.
Bên cạnh đó, qua cuộc khủng hoảng ngân hàng gây ra bởi vụ Société Générale, người ta thấy một nhân viên ngân hàng cấp thấp có thể trong vài phút quyết định sự được mất hàng chục tỷ đô la tiết kiệm của những người dân thường. Điều ấy sở dĩ xảy ra được vì những món tiền vĩ đại kia chỉ là những con số, được quản lý bằng vài phát nhấn chuột trên máy vi tính. Khủng hoảng « subprimes » tại Hoa Kỳ cũng cho thấy mâu thuẫn giữa những phương tiện làm tiền có thể được, và thực tại của thị trường, khi thực tại này bị xóa nhóa trong bức tranh trừu tượng của nền kinh tế « ảo » (có người cho rằng tỷ lệ kinh tế « thực » trên kinh tế « ảo » là một trên 50 !). Một thực tế đã không được nhìn nhận đúng mức, ngày nay hiển lộ ra, là : nếu cứ để cho kinh tế thị trường được tự nó quyết định quá nhiều, thì nó sẽ đưa đến những lạm dụng tai hại, có thể kéo theo sự tự hủy diệt chính nó. Sự kiện chính quyền Hoa Kỳ tung ra những món tiền khổng lồ để cứu những công ty đang sụp đổ không là gì khác hơn một hình thức « quốc hữu hóa » quy mô, quay lưng lại với lý thuyết thị trường tự do.
Vấn đề đô thị hóa trong Tư Bản Chủ Nghĩa hiện đại cũng hàm chứa những mầm mống bất công khó giải quyết, có khi đưa đến bạo loạn, như thường xảy đến ở Pháp. Trong khi đó, nông thôn không còn nông dân, chính quyền hạn chế canh tác để giữ giá nông phẩm, mặc cho nông phẩm thiếu hụt gây nghèo đói …
DÂN CHỦ VÀ TOÀN CẦU HÓA
Một trong những chướng ngại lớn nhất của dân chủ là khuynh hướng toàn cầu hóa của Tư Bản Chủ Nghĩa. Dân chủ trong sự hoạt động của nó, cần đến những cấu trúc lệ thuộc vào một biên giới rõ rệt, thông thường nhất là biên giới quốc gia. Thị trường, ngược lại, không biết đến ranh giới. Môi trường hoạt động của nó rốt rào là toàn cầu. Những quyết định của thị trường có thể mâu thuẫn với những quyết định « dân chủ » của người dân. Thị trường có thể áp đặt quy luật của mình trên luật lệ an sinh xã hội, luật lao động, luật tài chánh, thuế khóa, hối đoái v.v… của một nước. Áp lực của thị trường có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Ngược lại, ảnh hưởng điều chế của dân chủ trên áp lực của thị trường thì lại ngày càng suy giảm, ngay cả tại các nước tiền tiến. Một chính phủ, dù hữu khuynh hay tả phái, tại Pháp, Đức, Ý, hay Tây Ban Nha, rốt cuộc cũng vẫn phải chọn một con đường thực tế, tức là phải chiều theo những đòi hỏi của thị trường trong cái thế toàn cầu không thể tránh được. Rốt cuộc thị trường làm chủ, tước quyền làm chủ của người dân.
Áp lực « siêu quốc gia » của thị trường cũng thúc đẩy việc hình thành các khối quốc gia. Trong trường hợp Liên Hiệp Âu Châu, tất cả đã bắt đầu bằng một thị trường chung, trước khi cố gắng tiến dần đến một quy chế càng ngày càng gần với quy chế liên bang. Liên Hiệp Âu Châu có quyền áp đặt những điều luật trên người dân của một quốc gia thành viên. Rồi khi những người dân này phát biểu sự chống đối của họ qua các cuộc trưng cầu dân ý, thì giới cầm quyền liền tìm cách chuyển các vấn đề bị chống đối ấy sang cho các Quốc Hội, tức cho giới chính trị gia chuyên nghiệp, thông qua. Trong điều kiện ấy, thử hỏi ai nắm quyền làm chủ ? Có còn là người dân nữa hay không ?
VIỄN TƯỢNG DÂN CHỦ ?
Trước những mâu thuẫn vừa được liệt kê, một cuộc khủng hoảng cấu trúc sẽ khó mà tránh được. Khi thị trường hoàn toàn làm chủ, các chính quyền sẽ mất dần quyền hành và bị lấn át bởi những tổ hợp kinh tế siêu quốc gia hoạt động như những băng đảng, bất kể luật pháp. Thế giới sẽ đi đến tình trạng tranh chấp toàn diện. Hỗn loạn, khánh tận tài nguyên, ô nhiễm trầm trọng, sẽ đưa đến sự sụp đổ của nhiều cấu trúc mà chúng ta hiện thấy. Vấn đề là làm thế nào để quan niệm một nền dân chủ sau đó ? Lề lối quản lý xã hội phải dựa trên những căn bản nào ? Xin tạm đề nghị vài chiều hướng suy nghĩ, với một số ý kiến có thể được áp dụng ngay trong hiện tại :
– Khái niệm dân chủ dựa trên một hình thức dân chủ nhất định cần được xét lại : vấn đề không phải là hình thức dân chủ, mà là một phương thức quản lý xã hội VÌ DÂN.
– Cần đi đến một sự dung hòa giữa « dân chủ đại diện » và « dân chủ trực tiếp », để một chính trị VÌ DÂN cũng thực sự DO DÂN, thay vì nằm gọn trong tay một giới thượng lưu chuyên nghiệp. Mạng lưới internet có thể giúp người dân phát biểu một cách lập tức và trực tiếp. Vấn đề là làm sao hệ thống hóa những phát biểu ấy và cho nó thể hiện được trong việc quản lý quốc gia, tức đem lại cho nó một quyền hành thực sự. Trong khi chờ đợi sự hệ thống hóa này, cần tạo ra những diễn đàn dư luận mạnh mẽ, với phương tiện thu góp rộng rãi, sắp xếp rõ ràng, các ý kiến của người dân, trên các công việc cụ thể, các quyết định hàng ngày, của việc quản lý quốc gia, của việc điều hành các địa phương, và cả việc điều hành các xí nghiệp có tầm ảnh hưởng quan trọng trong xã hội.
– Vượt trên những phương tiện trưng cầu dân ý như vừa nói, dân chủ trực tiếp có thể được áp dụng ngay lập tức ở trình độ địa phương cấp thấp, qua các ủy ban làng xóm, khu phố, xí nghiệp … với sự tham gia trực tiếp của mọi người chứ không qua trung gian đại diện. Nó giúp người dân mau chóng trưởng thành hơn hình thức dân chủ đại diện, được coi như duy trì họ trong tình trạng ấu trĩ như đã phân tích ở trên. Khi biết tự lập, tự quản, người ta cũng phải thoát khỏi tháp ngà ích kỷ, để chấp nhận ý niệm tự lập, tự quản nơi người khác, đưa đến sự sẵn sàng tham gia vào những dự án chung ở một tầm mức rộng lớn hơn, như tầm mức quốc gia.
– Cần từ bỏ quan niệm độc tôn của mô hình dân chủ tư bản tây phương. Người tây phương và giới thân tây phương ở các quốc gia đang phát triển cần khiêm nhượng chấp nhận sự phức tạp của các xã hội, của các vấn đề được đặt ra cho các xã hội ấy, và sự hiện hữu của nhiều phương cách giải quyết các vấn đề này. Cần chấp nhận dân chủ như một tập hợp kinh nghiệm lịch sử, tùy thuộc cấu trúc của mỗi xã hội và các con đường lịch sử mà xã hội ấy đã trải qua. Tại nhiều nơi, cấu trúc xã hội cũng như các kinh nghiệm lịch sử khiến cho sự tham gia của người dân vào việc quản lý quốc gia đi qua những con đường cá biệt. Cần tránh phê phán các xã hội khác với những tiêu chuẩn của nền văn hóa của mình hay những tiêu chuẩn vay mượn của một nền văn hóa ưu thắng nào đó.
– Tinh thần dân chủ thực sự là chấp nhận sự khác biệt, tìm hiểu sự khác biệt ấy, và san sẻ những kinh nghiệm lịch sử giữa các xã hội với nhau. Sự chia sẻ này sẽ khiến cho con người ở những xã hội rất khác biệt vẫn có thể kết hợp trong cùng một dự án, vượt trên các ranh giới quốc gia, với khả năng trở thành một đối lực trước áp lực đè nặng trên các quốc gia của thị trường tự do.
Tóm lại,
Một hình thức tự quản và dân chủ trực tiếp có thể quan niệm được ngay lập tức ở trình độ địa phương cấp thấp. Động cơ cũng như phương tiện của nó có thể đến từ các phương thức quản lý kinh tế gần với người dân, như « tiểu tín dụng », thường được lồng trong khái niệm « kinh tế xã hội » (9).
Khi ý tưởng VÌ DÂN không còn bị ràng buộc bởi những gò bó quanh các hình thức dân chủ cố định, lệ thuộc vào giới chính trị gia chuyên nghiệp, thì mọi con người đều có thể suy tư và làm việc theo cùng một chiều hướng. Một sự hợp tác toàn cầu thực sự VÌ DÂN sẽ có thể quan niệm được. Hệ thống hóa và tổ chức sự hợp tác ấy sẽ đưa đến một cấu trúc quyền hành VÌ DÂN trên toàn thế giới, có khả năng đối đầu với xã hội hàng hóa toàn cầu.
Nguyễn Hoài Vân
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét