" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2015
Kìm hãm sự bực tức? Đừng có điên!!
Thế gian là năng lượng. Tất thảy mọi thứ, từ những hành tinh như mặt trời, đến trái đất, đến mặt trăng, đến sao Kim hay sao Hỏa.... cho đến bé ti ti như hạt bụi, cơn gió, áng mây... cho đến vô hình như niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc hay sầu khổ... Thế gian là năng lượng.
Năng lượng có nặng có nhẹ, vận chuyển không ngừng, biến đổi liên tục. Chúng va đập nhau, chúng đi song hành cùng nhau, chúng tác động và chuyển hóa lẫn nhau. Chúng như một dòng chảy, không thể chặn đứng, không thể triệt tiêu. Chúng chỉ có thể chuyển hóa sang một hình thái khác, hoặc chuyển hướng tác động sang một đối tượng khác.
Bạn nghĩ rằng chiếc lá vàng rụng xuống là mất ư?Không, chúng có thể trở thành thức ăn cho các loài giun dưới đất, có thể vụn vỡ thành phân, thành dinh dưỡng nuôi chính chiếc cây mà chúng vừa rời bỏ. Chiếc lá vàng chưa từng mất đi, cũng như tổ tiên chúng ta, ông bà chúng ta, con cháu chúng ta, người thân chúng ta, đất đồi núi sông và vạn vật... Chưa có bất cứ thứ gì mất đi một cách tuyệt đối.
Bạn nghĩ rằng vừa có chiếc nụ non mới nhú?Không, chúng không phải vừa được sinh ra, không phải lần đầu tiên xuất hiện. Chiếc nụ non có sẵn trong cây, trong nhựa trắng của chiếc cành. Chúng chỉ ẩn mình trong cây, chờ đợi thời điểm chín muồi. Tôi mới ra đời hơn 30 năm nay ư? Gia đình tôi mới thêm thành viên mới ư? Mới xuất hiện một hành tinh khác ư? Mới xuất hiện một sự vật hiện tượng nào đó kỳ dị ư?... Không, không có bất cứ thứ gì lần đầu tiên được sinh ra cả. Tôi vốn có sẵn trong cha và mẹ của tôi, cây xanh vốn có sẵn trong đất và mây trời, hành tinh vốn hiện hữu từ vô thủy... Chưa từng có bất cứ thứ gì lần đầu tiên được sinh ra một cách tuyệt đối.
Không có bất cứ điều gì mất đi, không có bất cứ điều gì được sinh ra. Tất cả chỉ là sự chuyển hóa qua lại của năng lượng. Và tùy theo sự sắp xếp kết tụ năng lượng mà có thô có tế, có to có nhỏ, có ngắn có dài, có cao có thấp, có nặng có nhẹ.
Niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ... cũng chưa từng được sinh ra hay mất đi. Chúng có sẵn trong bạn, trong tâm bạn, trong cách nhìn của bạn, trong thái độ tiếp cận của bạn... Khi bạn vui, ấy là do bạn biết cách chuyển hóa dòng chảy năng lượng uế trược của buồn. Khi bạn buồn, ấy là do năng lượng uế trược được tích tụ quá lâu theo thời gian. Chẳng có gì là mới, chẳng có gì là lạ.
Nóng vội hay bình tĩnh cũng chỉ là những dòng năng lượng. Bạn nghĩ rằng người có khả năng bình tĩnh nghĩa là họ có khả năng chặn đứng được dòng chảy bất bình, bất mãn, khó chịu đang nảy sinh trong tâm thức ư? Không! Không một ai có thể chặn đứng được dòng chảy của năng lượng ấy. Chỉ có hai cách để có được sự bình tĩnh mà thôi: hoặc là chuyển hóa nó thành yêu thương, hoặc là chuyển hướng phản ứng sang các đối tượng khác.
Mỗi người trong chúng ta, sinh ra, đều mang theo một cái Tôi, và bám víu vào cái Tôi đó như chiếc neo níu bám tương lai của mình. Ăn, ngủ... là để nuôi dưỡng hình hài; chạy theo thời trang, quần áo, tóc tai... là để tô điểm cái đẹp bên ngoài; học hành, ước mơ sự nghiệp công danh, nuôi dưỡng lý tưởng... là để định hướng cho cái Tôi đó một đường đi nhất định. Cái Tôi đó chi phối ý nghĩ, lời nói và việc làm của chúng ta, trong bất cứ thời điểm nào... chỉ với một mong muốn: hướng tới ngày mai cái Tôi đó tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn.
Khi cái Tôi bắt đầu va chạm với ngoại giới, ấy cũng là lúc cái Tôi bị thử thách bởi những điều kiện và hoàn cảnh trái chiều. Tôi muốn cái này mà thực tế diễn ra cái khác, tôi chờ mong cái này mà hoàn cảnh đẩy đưa tôi được cái khác, tôi ghét chúng mà phải chịu đựng chúng... Tất cả sự va chạm theo chiều hướng đối nghịch ấy khiến cái Tôi bị tổn thương, bị xúc phạm... và kèm theo đó là sự phản ứng để bảo vệ nó.
Như một con nhím xù lông ra để bảo vệ sự tồn vong của chính mình, bạn giận dỗi, hét toáng lên, nói xấu người khác, đánh nhau... hay nhẹ nhàng hơn là chui vào vỏ ốc của sự cô đơn tận cùng... cũng chỉ là cách để bảo vệ chính cái Tôi vừa bị tổn thương hay bị xúc phạm ấy.
Khi cái Tôi của bạn phản ứng như thế, thông thường, đều là do bản năng chi phối. Tri thức, địa vị xã hội hoặc sự tỉnh táo của tư duy... lúc này dường như ngủ quên trong bạn. Nhất là với con gái hoặc phụ nữ, mọi sự phản ứng thường chỉ là cảm xúc nhất thời, nóng rất nhanh và nguội cũng rất nhanh, nhưng một khi phản ứng... thì thường bất chấp hậu quả. Đó là lý do cho câu nói: nóng giận mất khôn. Phật giáo hay cho sân hận đi kèm với ngu si như một cặp bài trùng.
Xin cẩn thận với ý tưởng:tôi có thể chặn đứng được nó. Không, hầu hết những kẻ gặp trường hợp cái Tôi bị xúc phạm mà không có phản ứng, đều nằm trong những đối tượng được gọi là quân tử Tàu, vô cùng nham hiểm:quân tử 10 năm trả thù chưa muộn.Họ nuôi dưỡng hận thù như một hạt giống và chờ đợi hạt giống đó đúng thời điểm sẽ đơm hoa trổ quả. Và nếu bạn có một người bạn tẩm ngẩm tầm ngầm như thế, tôi thành thật khuyên bạn hãy tránh xa, bởi bạn sẽ chết bất đắc kỳ tử với họ đấy.
Hãy cho năng lượng bực tức khó chịu ấy một lối thoát, đó là cách mà Trí Không muốn nói với bạn. Hãy ví sự bực tức của bạn như một dòng nước, hoặc chuyển nó thành thanh lương mát mẻ, hoặc chuyển nó sang một hướng khác an toàn hơn.
Trong trường hợp chuyển hướng nó sang một hướng khác an toàn hơn, tôi vẫn hay khuyến khích các bạn hãy biết khóc hoặc hãy tập khóc. Khóc được là hạnh phúc, vì trong khi ta khóc, sự buồn bã ưu sầu được chuyển sang tuyến lệ, và chúng sẽ trôi đi cùng với tiếng nấc nghẹn ngào của bạn. Đi tắm, đấm bao cát, ôm gối ôm, chui tọt vào phòng tắm thút thít, chạy ra biển ngắm sóng nước bao la... đều là những cách chuyển hướng dòng chảy một cách an toàn. Nếu bạn không chuyển hướng dòng chảy khó chịu ấy ra khỏi người bạn ngay lập tức, thì hạt giống hận thù sẽ tích tụ trong tâm bạn, rồi chúng sẽ tàn phácon ngườibạn theo thời gian, hoặc biến bạn thành sát nhân một ngày không xa, hoặc biến bạn thành kẻ tâm thần sớm hay muộn. Nhớ nhé, thở thật mạnh, hét thật to... bất cứ khi nào bạn cảm thấy khó chịu.
Trong trường hợp chuyển hóa nó thành dòng nước thanh lương mát mẻ,một mặt, bạn cần phải luyện tập đối diện với mọi nghịch cảnh một cách nhẹ nhàng nhất, một mặt, bạn cần phải giảm trừ cái Tôi của bạn nhỏ xuống đến mức tối thiểu. Cái Tôi của bạn càng nhỏ lại,tình yêuthương của bạn càng được mở rộng hơn. Sông Tô Lịch cực kỳ ô nhiễm, nhưng nó sẽ chẳng là gì khi hòa vào dòng chảy bao la rộng lớn của biển Đông. Hãy mở rộng biên giớiTình Yêutrong bạn thành biển Đông chứ đừng như hai bờ của sông Tô Lịch, thì chẳng có nghịch cảnh nào có thể khuấy đảo sự bình yên trong tâm bạn. Nhớ nhé, người ta chỉ có thể chuyển hóa nghịch cảnh thành động lực, khi người ta biết yêu thương đến tận cùng, và bạn biết không, yêu thương đến đâu, cái Tôi của ta sẽ nhỏ đi chừng ấy.
Làm thế nào để kìm hãm sự nóng giận?
Bạn đã hỏi tôi thế ư?
Kìm hãm làm gì chứ?! Tôi đâu có điên!
Tôi chỉ chuyển hướng nó sang các đối tượng khác một cách an toàn hơn
Hoặc nghịch cảnh có là gì, khi tôi biết nghịch cảnh chính là một phần lịch sử hình thành nên tôi.
Em đang khóc vì những áp lực hay vì những nỗi buồn không mong muốn?
Hãy khóc đi em ạ, và đây là bờ vai để em có thể tựa nương
Hãy thở thật mạnh và hét lên thật to, tôi có thể chia sẻ và lắng nghe khi cần
Vì trái tim tôi là biển lớn, và chẳng có nỗi buồn nào có thể làm chúng bị vẩn đục!
Trí Không
Read more:http://www.suynghiem.vn/2015/07/kim-ham-su-buc-tuc-ung-co-ien.html#ixzz3hSECozqf
“Mắt Thơ” – Góc nhìn Mới về phong trào Thơ Mới
Hà Thủy Nguyên
Người ta thường biết về phong trào Thơ Mới 32-45 qua tác phẩm phê bình “Thi Nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân. “Thi nhân Việt Nam” đã đóng vai trò quan trọng trong việc “Phong Thần” các thi sĩ Thơ Mới. Nhưng nhà phê bình thật sự khẳng định sự chuyển dịch của các đỉnh cao Thơ Mới thì phải kể đến Nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy với tác phẩm “Mắt Thơ”. Sử dụng một bút pháp hoàn toàn khác, một góc nhìn hoàn tàn khác với Hoài Thanh, Hoài Chân, Đỗ Lai Thúy đã đưa ra một cách nhìn mới về Thơ Mới, một cách nhìn của thế giới đương đại.
Mở đầu, cuốn sách, Đỗ Lai Thúy trích dẫn hai câu thơ:
“Ta bày thực hư lên bàn cuộc đời
Thực hư bày ta lên trình loài người”
(Trần Minh Hải)
Và quả nhiên “Mắt thơ” đã “trình bày” cho độc giả thấy cách một đỉnh cao của Thơ Mới cảm nhận về thực tại và cách thực tại phản ánh con người cá nhân của thi sĩ. Giống như Hoài Thanh – Hoài Chân trong “Thi nhân Việt Nam” khẳng định, Thơ Mới là một cuộc Cách mạng trong thi ca, bởi Thơ Mới đã giải phóng cái Tôi cá nhân, giải phóng bút pháp nghệ thuật khỏi các khuôn mẫu sáo mòn thời Phong Kiến. Thơ Mới thời 32-45 thường được gọi là thơ Lãng Mạn, nhưng chúng ta thấy Thơ Mới không hề bị giới hạn trong Lãng Mạn, các tuyệt phẩm Thơ Mới đều mang màu sắc Tượng Trưng hoặc Siêu Thực. Và Đỗ Lai Thúy là người tha thiết đi giải mã các yếu tố Tượng Trưng và Siêu Thực ở các thi sĩ Thơ Mới. Chủ nghĩa Hiện đại khác biệt so với Chủ nghĩa Cổ điển ở chỗ: Thay vì mô phỏng Thực tại hiện hữu, tư tưởng Hiện đại luôn tìm cách cấu trúc lại thực tại theo cái Tôi.
Thơ Mới không phải là một giải phóng Cái Tôi nữa, mà là một cuộc nổi loạn của Cái Tôi Cá Nhân. Những kẻ nổi loạn này đã vượt thoát khỏi hình mẫu Tài Tử Nho giáo và “ông Tây An Nam”. Hầu hết trong số họ thuộc về lớp trí thức “Tây học bản địa”. Họ trưởng thành trong bối cảnh các phong trào đấu tranh yêu nước đang sôi sục và hầu như đều gắn liền với các đô thị. Chữ Quốc ngữ lúc này cũng trở nên thông dụng, vượt thoát khỏi chức năng hành chính, hòa quyện với tinh hoa ngôn ngữ dân tộc. Với tất cả những lợi thế ấy, dưới cái nhìn của Đỗ Lai Thúy, một cuộc chuyển dịch của Cái Tôi đã diễn ra. Cái Tôi nhà thơ của Việt Nam đã trải qua các tiến trình: Cái Tôi Làng Xã, Cái Tôi Vô Ngã, Cái Tôi Quân Tử, Cái Tôi Tài Tử, và chỉ đến Thơ Mới, Cái Tôi cá nhân mới bùng nổ. Sự bùng nổ này dẫn đến sự bùng nổ của số lượng các kiệt tác. Có lẽ, từ trước đến giờ, chưa bao giờ Việt Nam có số lượng tác giả và tác phẩm có giá trị nhiều như thời kỳ 32-45.
Cảm thức về Thực tại thường được biểu hiện qua các lăng kính: Khái niệm Thời gian, Khái niệm Không gian, Bản chất Con người… Thơ Mới đã tạo ra một bước chuyển mạnh mẽ về cảm thức Thực Tại. Đỗ Lai Thúy đã chỉ rõ bước chuyển này trên từng lăng kính.
Về Không Gian: “Đời sống đô thị giải phóng con người trước hết ở không gian. Đầu tiên là không gian địa lý, sau đó – không gian xã hội, và cuối cùng – không gian tinh thần” … “Xưa kia, những cảm xúc không gian bao giờ cũng nhuốm màu tôn giáo và triết học, không gian là một khối thiêng liêng, không thuần nhất, có trung tâm và ngoại vi. Trong cái nhìn đô thị, thính không thuần nhất và toàn khối của nó bị biến mất. Đúng hơn, nó đã vỡ vụn ra thành những không gian nhỏ, trần thế như những con đường, bến đò, khúc sông, quán trọ… cho vừa tầm tâm sự cá nhân”. Qua đó, ta thấy, dường như thơ Cổ Điển là cái nhìn Toàn cảnh thì thơ Hiện Đại là cái nhìn Trung cảnh và Cận cảnh.
Về Thời Gian: “Trong quan niệm bác học, chỉ có một thứ thời gian tuần hoàn theo nhịp điệu vĩnh hằng của vũ trụ. Mọi vật dường như chỉ tồn tại trong không gian. Vì thế, người ta không hề lo lắng đến quỹ thời gian cá nhân.”… “Con người của xã hội thị dân không còn sống theo nhịp đi muôn thuở của mùa màng, thời tiết nữa. Họ tuân theo nhịp điệu của công việc, của sự thành đạt cá nhân trong cuộc sống. Thời gian với họ dường như trôi chảy nhanh hơn. Cảm giác thời gian, nhất là thời gian lịch sử, được mài sắc và chốt nhọn. Ý niệm về phát triển theo thời gian dần dần được hình thành.” Ta có thể hiểu, với con người Hiện Đại, con người có thể lập trình thời gian theo ý muốn của mình.
Về Con Người: “Ở thời Phục hung, khi con người cắt đứt với các ràng buộc cộng đồng nông nghiệp, xác định mình như là chủ thể của hành vi và ý chí của mình thì tương quan giữa nó và thế giới cũng thay đổi. Nếu cá nhân tập đoàn khẳng định bản ngã thông qua các quan hệ xã hội thì cá nhân cá thể khẳng định cái tôi bất chấp các quan hệ xã hội. Nó cảm thấy mình là trung tâm. Toàn thế giới xoay quanh nó.” Cái Tôi Cá Nhân không còn giữ vị trí khiêm nhường trước Không – Thời gian nữa, mà ngược lại, ngạo nghễ kiểm soát Không – Thời gian. Lúc thì lấy con người làm thước đo của thế giới như Xuân Diệu:
“Lá liễu dài như một nét mi”
Lúc thì vạn vật, thời gian phụ thuộc vào suy niệm và hành vi của con người như Đinh Hùng.
“Chúng ta đến, mùa xuân thay sắc diện
Chúng ta đi, mùa hạ vụt phai nhòa
Gương mặt mùa thu phút chốc phôi pha
Ta dừng gót, chợt mùa đông tàn phế”.
Đỗ Lai Thúy đã tổng kết lại những chiến thắng mà Cái Tôi Cá Nhân đạt được sau một cuộc nổi dậy ồn ào: Thứ nhất, thể xác và giác quan đã được giải phóng, thoát khỏi sự kìm hãm của khuôn khổ Nho giáo. Thứ hai, đó là quyền tự do lựa chọn. Tự do lựa chọn là yếu tố cần thiết để trở thành một Con Người Cá Nhân đích thực.
Vì vậy, “Hành trình thám mã” của “Mắt Thơ” là Hành trình đi giải mã các tầng tâm lý cá nhân của thi sĩ Thơ Mới. Dù cùng một thời đại, nhưng ở mỗi cá nhân đều có một thực tại phản ánh khác nhau nên cách họ phản ánh thực tại khác nhau. Đỗ Lai Thúy không lẩy ra các điểm thú vị như Hoài Thanh – Hoài Chân trong “Thi nhân Việt Nam”, mà ông loay hoay tìm cách biểu hiện thực tại bên trong của các nhà thơ. Thực tại bên trong này thể hiện qua các ám ảnh thơ ấu, khuyết tật thân thể, hoàn cảnh sống. Những sự khác biệt của thực tại ấy tạo nên cá tính của nhà thơ, thứ được gọi là “phong cách”, thứ khiến mỗi nhà thơ đều có thể vỗ ngực “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất”:
“Phong cách cũng là chỗ đặc dị, nơi chứa đựng mật số của tác phẩm văn chương. Nếu thi phẩm là một thông điệp nghệ thuật mà nghệ sĩ ngôn từ muốn gửi đến cho độc giả thì thông điệp đó phải được mã hóa. Sự vào mã của thi nhân có thể diễn ra ở tầng hữu thưc hoặc vô thức, thường thì ở cả hai. Nhiệm vụ cả các nhà phê bình là cùng bạn đọc tìm cách giải mã tác phẩm. Trên hành trình thám mã có khi là vô tận này, độc giả sẽ được hưởng những khoái cảm thẩm mỹ. Nếu mật số được cất giấu ở tầng hữu thức thì sự kiếm tìm cũng dễ vì chìa khóa chỉ có thể để ở vài “nơi quy định”. Còn khi sự mã hóa diễn ra ở tầng hầm vô thức thì coi như chìa khóa đã rơi vào “rốn bể”.”
Đỗ Lai Thúy bắt đầu xuất phát trên hành trình thám mã của mình qua “ngôn ngữ tác phẩm” chứ không phải qua tiểu sử tác giả hay hoàn cảnh xã hội. Với ông “Đó là tiếng nói của con người, là sản – phẩm – người”. Giống như một nhà thám hiểm, Đỗ Lai Thúy truy tìm từng dấu vết, giải mã dấu vết, mở ra cánh cửa xâm nhập vào tâm thức nhà thơ để khám phá. Với ông, khám phá là một sự thưởng lãm. Trong quá trình ấy, kiến thức khoa học và phương pháp luận là cần thiết, nhưng cần thiết hơn hết là trực giác, một thứ bản năng tinh thần giúp linh hồn của nhà phê bình có thể vượt qua khác biệt về thời đại để tiếp xúc với linh hồn thi sĩ. Và điều ấy, khiến tác phẩm “Mắt Thơ” toát lên khí vị của nghệ sĩ, Đỗ Lai Thúy trở thành một nhà phê bình đa tình, người có thể cảm được cái tình của mỗi nhà thơ, người đã phong tước hiệu cho mỗi cái tình.
Thế Lữ – Người bộ hành phiêu lãng
“Người bộ hành phiêu lãng” là một định nghĩa toàn diện về Cái Tôi của Thế Lữ:
“Tôi là người bộ hành phiêu lãng
Đường trần gian xuôi ngược để để vui chơi”
Đỗ Lai Thúy bình luận: “Thế Lữ là khởi điểm của những khởi điểm”. Mặc dù Phan Khôi viết bài thơ tự do đầu tiên, nhưng Thế Lữ mới là người làm Thơ Mới. Một người phá quy tắc trên mọi phương diện, rời bỏ trường trung học, sống đời phiêu lãng, thì quan trọng hơn hết, ông là người khởi đầu của nền văn hóa đô thị Việt Nam. Thế Lữ là người xây dựng nền móng cho kịch nói Việt Nam, tiểu thuyết trinh thám, truyện đường rừng, truyện khoa học… và thành công nhất là thơ lãng mạn.
Không ở đâu, cái Tôi Cá Nhân lại được khẳng định như Thế Lữ, không những được khẳng định, còn được định nghĩa một cách rõ ràng. Không còn một kẻ xưng “tôi” chung chung không cá tính, cái Tôi của Thế Lữ mang tính định tính:
“Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp của muôn hình, muôn thể”
(“Cây đàn muôn điệu”)
“Tôi chỉ là người mơ ước thôi
Là người mơ ước hão, than ôi!”
(“Bên sông đưa khách”)
“Ta là một khách chinh phu”
(“Tiếng gọi bên sông”)
“Thế Lữ là một chàng kì khôi”
(“Tự trào”)
“Đó là kẻ không nơi trú ẩn
Bốn phương trời xuôi ngực bấy lâu nay”
(“Con người vơ vẩn”)
Những câu thơ này có cấu trúc của công thức khoa học. “Trong công thức này chủ từ là “môt” , là cây đàn, là con người cá nhân cá thể còn tân từ thì muôn điệu, muôn hình, muôn thể, muôn cá tính”. “Con người phiêu lãng” trong thơ Thế Lữ đã vượt thoát khỏi con người bị định hình bởi các chức năng xã hội để bước vào không gian tinh thần. Do đó, ông tự gọi mình là “kỳ khôi”, “kẻ không nơi trú ẩn” cùng với sự vơ vẩn, tình si, mơ mộng… Và theo Đỗ Lai Thúy, đó là sự khẳng định “khởi nguyên bên trong của cá nhân”. Và chính bởi thế, Thế Lữ đã tách khỏi không gian địa lý và không gian xã hội để dành trọn đời thơ cho không gian tinh thần, như một kẻ cô độc đi lang thang trong cõi cô đơn với “cây đàn muôn điệu” của đầy đủ các sắc thái sầu, buồn, chán, tuyệt vọng… Điều này trái ngược hẳn với cây đàn “độc huyền” của những hồn thơ “ưu thời mẫn thế” trước đó.
Thế Lữ, hơn ai hết, là một người rất chăm lo cho các “bức chân dung tự họa” bằng thơ ca:
“Thế Lữ là một chàng kỳ khôi:
Sống hôm nay không biết có ngày mai
Cũng không thiết nhận cảnh đời trước mắt
Tính giản dị lại ưa điều bí mất
Trưa mùa hè đi vẽ cảnh đêm trăng
Ở Đồ Sơn thuật chuyện trên rừng
Đến khi lên thượng du, có lẽ
Anh lại nghĩ chuyện vẩn vơ dưới bể”
Chân dung của một kẻ lấy chơi làm sự nghiệp, mải mê với rong chơi, khước từ mọi phận vị xã hội – Đây là loại chân dung phá cách đầu tiên của Phong Trào Thơ Mới:
“Anh dù bảo tính tôi hay thay đổi
Không chuyên tâm không chủ nghĩa: nhưng cần chi?”
Hay:
“Anh ta buông bộ lốt chẳng nên thơ
Và giữ lại chiếc mũ tang, đôi giày trắng
Với chiếc áo đã lạt màu vì sương nắng
Anh ta đi, đi tìm chị Ly Tao”.
Bên cạnh đó, quan niệm về “Cái đẹp” cũng thay đổi. Thay vì tả thần như thơ ca cổ truyền, Thế Lữ đã chuyển sang tả thực:
“Tôi yêu đời với những cảnh lầm than
Cảnh thương tâ, ghê gớm hay dịu dàng
Cảnh rực rỡ, ái ân hay dữ dội”.
Cảnh thực này chính là ảnh hưởng cái nhìn thực tại của văn hóa đô thị phương Tây. Nói như Đỗ Lai Thúy, với Thế Lữ, cái “thường nhật đã trở thành thơ”. Con người thường nhật trong xã hội cổ truyền thường bị bỏ qua để nhường chỗ cho các anh hùng ca bi tráng. Nhưng Thế Lữ đã khám phá ra cái thường nhật ở đường phố – “con đường trần gian”, nơi con người tự nguyện làm kẻ nặc danh, nơi những kẻ phóng đãng đều được chấp nhận.
Một phát hiện đặc biệt nữa của Đỗ Lai Thúy về thơ Thế Lữ, đó là cách tân trong phương cách sử dụng ngôn ngữ. Nếu thơ cổ truyền là thơ của từ vựng thì thơ của Thế Lữ là thơ của “cú pháp”. Sự thay đổi từ Tư Duy Từ Vựng sang Tư Duy Cú Pháp đã tạo ra sự thay đổi “Cái Nhìn”, bởi thay đổi “Cú Pháp” là thay đổi cấu trúc thơ: “Cú pháp thơ cổ điển ổn định, ít biến hóa, còn phải dựa vào sự đăng đối và bị khuôn vào giới hạn của câu thơ. Cú pháp Thơ Mới tự nhiên, phóng khoáng hơn, chỉ dựa vào chính bản thân nó”
Như đã nói ở trên, cú pháp thơ Thế Lữ mang tính định nghĩa. Nhưng chính cú pháp mang tính định nghĩa rõ ràng ấy đã tạo cơ sở để Thế Lữ thực hiện các phép đảo cấu trúc ngữ pháp như:
“Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”
Hay
“Đỗ bờ sông trắng con thuyền bé”
Nhưng giống như mọi nhà thơ của đô thị, chẳng mấy chốc mà Thế Lữ thấy chán ngán, cô đơn, chông chênh giữa phố phường. “Nhớ rừng” là một bài thơ như vậy. Một bài thơ biểu lộ sự “ghét những cảnh không đời nào thay đổi”, và một ước vọng trở về. Rừng, cõi Thiên Thai, những gì trái ngược với nền văn minh, lại trở thành cõi mộng sâu thẳm nhất của Thế Lữ. Tâm thế đối lập giữa hiện thực đô thị và quá khứ mộng tưởng xa xăm, là tâm trạng chung của cả thế hệ lúc bấy giờ. Và mỗi nhà thơ đều có một cõi về riêng.
Chống đỡ cho cơn nghiện rừng, nghiện Thiên Thai, Thế Lữ đã tìm đến “mộng bên hồ”:
“Đã biết boa phen những buổi chiều thu
Ta bâng khuâng tìm cảnh mộng bên hồ
Nhưng ta chỉ tiếc khi ngồi lặng ngắm
Đôi mắt cô em như say như đắm
Như in hình ảnh giấc mơ xa”
Hồ chính là ám ảnh trong thơ Thế Lữ. Không giống như sông hay suối, hồ là một không gian nước tĩnh lặng, nơi in bóng của vạn vật, nơi Thế Lữ cảm nhận rõ nét nhất “hình ảnh giấc mơ xa”, những hình ảnh của tiên nữ tắm hồ khởi đầu cho duyên trần cấu.
“Hôm qua đi hái mấy vần thơ
Ở mãi vườn tiên gần Lạc Hồ
Cảnh tĩnh, trong hoa chim mách lẻo
Gió đào mơn trớn liễu tơ buông
Nước mát hơi thu đắm sắc trời
Trời xanh ngăn ngắt đượm hồng phai
Ái ân, bờ cỏ ôm chân trúc
Sau trúc, ô kìa! Xiêm áo ai…”
(Vẻ đẹp thoáng qua”)
Khi Thế Lữ đến với hồ, ông dường như đã chán con đường trần. Cái Tôi đã đi hết chặng đường của nó. Đỗ Lai Thúy đã gọi thơ Thế Lữ là “Phúc Âm” của Thơ Mới, và quả nhiên sau Thế Lữ, những Cái Tôi Cá Nhân khác có đủ dũng thế để vươn cao dưới ánh mặt trời.
XUÂN DIỆU – NỖI ÁM ẢNH THỜI GIAN
Thời gian luôn là nỗi lo lắng của thi nhân. Hơn ai hết, nghệ sĩ cảm nhận thấy sự lụi tàn và biến chuyển. “Nhưng chỉ với Xuân Diệu, thời gian mới trở thành ám ảnh” . Qủa vậy, đúng như Đỗ Lai Thúy nhận định, Xuân Diệu nhìn đời bằng con mắt thời gian. Ông cảm nhận thực tại qua biến chuyển của thời gian và mong muốn thay đổi thực tại bằng thay đổi chu trình thời gian.
Xuân Diệu ví thời gian như dòng nước chảy:
“Nước không vội vàng
Cũng không trễ tràng
Nước trôi vô tình”
Nhưng ví thời gian như nước thì Xuân Diệu không mới hơn các nhà thơ cổ điển như Lý Bạch. Nhưng “cái khác” của thơ ông nằm ở “ngọn gió thời gian”. Thời gian, không còn bị cụ thể hóa, hữu hình hóa nữa, mà chấp nhận sự vô hình. Tức là Xuân Diệu đã định nghĩa cái vô hình này bằng một cái vô hình khác, khiến Thời Gian mất hoàn toàn tính xác định mà chuyển sang tính bất định.
“Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi”
(“Vội vàng”)
Hay
“Cây bên đường, trụi lá đứng tần ngần
Khắp xương nhánh chuyển một luồng tê tái
Và giữa vườn im, hoa run sợ hãi
Bao nỗi phôi pha, khô héo, rụng rời”
(“Tiếng gió”)
Nỗi ám ảnh về thời gian của thi nhân cổ điển thường được biểu hiện qua “lá”, thì với Xuân Diệu lại là “hoa”:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành”
(Đây mùa thu tới”)
Hay
“Bông hoa rứt cánh rơi không tiếng
Chẳng hái mà hoa cứ hết dần”
(“Ý thu”)
Mùa thu trong thơ của Xuân Diêu, cũng như mùa xuân, mang tính chất “không mùa”, một mùa xuân tượng trưng và mùa thu cũng tượng trưng. Mùa thu tượng trưng cho sự tàn phai, và cứ khi nào thi sĩ lo lắng cho sự tàn phai thì ông lại bị khí thu bủa vây. Xuân Diệu cảm nhận sự biến chuyển, thay đổi trong từng khoảnh khắc:
“Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi – phút – ấy sang tôi – phút – này”
(Đi thuyền”)
Nhưng trái với thái độ sống ung dung thời Cổ Điển, Xuân Diệu đề xướng sống “gấp”, sống “vội vàng”. Và khi ấy, thơ Xuân Diệu lồng lộng gió xuân:
“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non đã già rồi”
(Giục giã)
Hay
“Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai”
(“Vội vàng”)
“Thắng vượt thời gian bằng tốc độ sống không đủ, mà phải thắng bằng cả cường độ sống nữa. Cường độ sống có thể có nhiều cách hiểu, nhiều cách lý giải. Nhưng trước hết phải trân trọng bám níu lấy sự sống trong mọi hình thái đa dạng, từ vi đến vĩ của nó”. Bởi vậy, nổi bật trên mọi nguồn cảm hứng, cảm hứng chủ đạo của Xuân Diệu là Tuổi Trẻ và Tình Yêu:
“Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ dựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chin móng bám vào đời”
Và
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”
Xuân Diệu thay vì đi tìm sự vĩnh cửu bất tận, đã thiết thực hơn, đi tìm sự vĩnh cửu của khoảnh khắc.
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
Đỗ Lai Thúy đã nhận ra một điều từ thơ Xuân Diệu rằng: “Thời gian khoa học không phải tất cả, mà chỉ là một chiều kích trong con người. Thời gian tâm linh biến cái thoáng chốc thành cái vĩnh cửu, tức là không gian hóa thời gian, tĩnh hóa cái động”.
Nhưng động lực để Xuân Diệu “bám vào đời” phải kể đến Tình Yêu. Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình. Nhưng ít ai nhận ra rằng với Xuân Diệu, tình yêu là lẽ sống. Tình yêu là mùa xuân trong ông, là suối nguồn Tuổi Trẻ:
“Xuân của đất trời nay mới đến
Trong tôi, xuân đã đến lâu rồi
Từ lúc yêu nhau, hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát, cả lòng tôi”
Và nhờ sức xuân ấy, ám ảnh thời gian ấy, sự gấp rút ấy, Xuân Diệu làm chúng ta nhớ đến thần Ái Tình Eros, vị thần bất tử trẻ mãi không già, vị thần khiến mùa xuân nảy lộc trong tình yêu đôi lứa.
HUY CẬN – SỰ KHẮC KHOẢI KHÔNG GIAN
Huy Cận, người bạn thân của Xuân Diệu, ngược lại có nỗi ám ảnh về Không gian, thứ không gian vĩnh cửu, không gian Thiên đường. Nói chính xác thì Huy Cận ám ảnh sự trở về.
Nhắc đến Huy Cận thời 32 -45, người ta nhớ ngay đến tập “Lửa Thiêng” – Một tuyệt phẩm của Thơ Mới. Gọi là tuyệt phẩm sở dĩ bởi đây là tập thơ toàn bích đến từng câu, từng chữ. Và “Lửa Thiêng” chính là ngọn lửa soi tỏ cái Không Gian mà Huy Cận hằng nhung nhớ. Nhưng cụ thể Huy Cận nhớ gì? Điều này được trình bày từ một bài thơ lạc điệu mở đầu tập thơ, có tên “Trình bày”. Bài “Trình bày” nói về cuộc sống chốn Thiên Đường, nơi con người hạnh phúc trong sự hòa đồng, nơi con người còn giữ được sức mạnh của tự nhiên: “Bàn tay nở hoa”, “cây chân”, “gió mây trong miệng thở”…
Nhưng con người đã “đánh mất thiên đường”. Đây là cảm hứng chung của thời đại, giống như cảm giác “Nhớ rừng” của Thế Lữ:
“Nhưng cô độc đã thầm ghi trên trán
Lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh”
“Cái tôi thị dân hiện đại, sau những phấn chấn ban đầu, đã rơi ngay vào sự cô đơn. Diện mạo tương lai thì mờ mịt, hiện tại thì bất ổn, cái tôi lãng mạn lộn ngược quá khứ làm tương lai, bởi vậy, nó luôn nhớ tiếc quá khứ như một cái gì bình ổn, hạnh phúc và đẹp đẽ”
Thiên Đường chính là cái Không gian mà Huy Cận nhớ nhung, tìm kiếm. “Không gian Lửa Thiêng là sự hóa thân của Thiên đường, của sự hòa đồng nguyên thủy thở xưa. Đó là không gian mang tính chất vĩnh viễn, và là đối tượng để con người chiêm nghiệm và chiêm ngưỡng”
Huy Cận gọi không gian này bằng nhiều cái tên khác nhau như “trời xưa”, “cõi biếc”, nói chung là một nơi xa thăm thẳm tượng trưng cho sự hoàn hảo, đối lập với “cõi đời” ở dưới thấp. Theo như Đỗ Lai Thúy, cõi trời mà Huy Cận vẽ ra trong “Lửa thiêng” còn có ý nghĩa quan trọng trong “tổ chức không gian theo trục dọc: trên – dưới, cao – thấp, đẹp – xấu, vô biên – hữu hạn”. Và động tác “trông lên” là một ứng xử mang tính triết lý sống của Huy Cận.
Khác với Thế Lữ và Xuân Diệu, Huy Cận trở về với không gian cổ điển của trời, mây, non, nước, khi con người chon von dưới sự chèn ép của không gian mênh mông. Huy Cận ít viết về thành phố, vì thành phố với ông là một khúc “Nhạc Sầu”, là ám ảnh của cái “Chết”. Ngược lại, thiên nhiên mang đến cho Huy Cận sự gần gũi với Thiên Đường hơn.
Không gian ký ức quan trọng nhất trong thơ Huy Cận là Vườn. Không biết Vườn trong thơ Huy Cận có chút nào liên hệ tới Vườn Eden không. Nhưng trong mảnh vườn ấy, những cây trinh nữ hoang sơ giữa mơ mộng yêu đương và ngủ trong lời ru âu yếm.
“Nắng chia nửa bãi chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây”
Một không gian khác biểu hiện cho sự mênh mang và ám ảnh hơn: Sông. Huy Cận làm nhiều bài thơ về sông, nhưng “Tràng giang” giữ vị trí tuyệt đỉnh. “Tràng giang” không chỉ mô tả một con sông dài và rộng. “Tràng giang” ẩn dụ cho không gian, nói một cách cụ thể hơn, không gian với Huy Cận như một dòng sông không bến bờ, hoang vu, cô tịch, không thể nào nắm bắt. Để rồi đến cuối bài thơ, ông cố níu kéo chút nhớ nhung: “Không khó hoàng hôn cũng nhớ nhà”. “Nhà” ở đây chính là không gian. Ông đang “nhớ không gian”.
Nỗi nhớ “không gian” này còn khắc khoải hơn khi Huy Cận làm thơ về “Mưa”. “Với thi sĩ mưa là vật môi giới cho nội tâm và ngoại cảnh gặp gỡ. Giữa vô thể và hữu thể, mưa là một khiếm thể, một thể không định hình, đang chuyển hóa”. Sự nhạt nhòa của mưa là mất đi “không gian nhìn thấy” để gia tăng “không gian nghe thấy”
“Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn”
Tiếng mưa đã trở thành “phương tiện chuyển hóa không gian thành tâm hồn và không gian được nội tâm hóa, không còn phân biệt giữa cái tôi và cái phi tôi nữa”. Biến thể mưa trong thơ của Huy Cận còn có mây và mù, có cùng tác dụng với mưa.
Đỗ Lai Thúy đã rất hóm hỉnh trong một câu bình: “Một tập thơ có tựa đề là Lửa Thiêng mà lại đẫm nước như vậy hẳn không khỏi gây nên những băn khoăn trong lòng bạn đọc? Mặc dù ông đã đề cập đến vấn đề Ngũ hành tương khắc, sự đối lập giữa lửa lòng và mưa không gian, nhưng dường như lý giải này vẫn chưa thỏa mãn. Sự đối lập này hẳn làm ta nhớ đến “Phong Kiều dạ bạc” của Trương Kế có câu:
“Giang phong ngư hỏa đối sầu miên”
Tức là ngọn gió trên sông và ngọn lửa trên thuyền chài cùng nhau tâm sự chuyện sầu bất tận. Giống như vậy, “Lửa Thiêng” chính là đại diện cho “linh hồn ngọc” của Huy Cận, để trò chuyện và đối thoại với sự mênh mông bất tuyệt của không gian – một không gian phi thời gian. Cuộc đối thoại ấy, là sự lan tỏa của Lửa Thiêng, để chiếm lĩnh không gian.
“Chiếm lĩnh được không gian, trở nên trường tồn như không gian, nghĩa là con người khắc phục được thời gian để đi vào bất tử. Ước mơ tưởng chừng như rồ dại đó lại là một ước mơ rất nhân bản, mà chỉ có con người mới có được. Đó là bi kịch lớn nhất, sâu sắc nhất của nhân loại.
NGUYỄN BÍNH – ĐƯỜNG VỀ CHÂN QUÊ
Nguyễn Bính có một Cái Tôi hoàn toàn đi ngược lại với thời đại. Ông có một Cái Tôi Thôn Quê. Nhưng thôn quê của Nguyễn Bính hoàn toàn nằm trong hồi ức, như một giấc mơ không thành của anh lái đò. Như thế, vị thế của Nguyễn Bính hẳn là ở đô thị và mơ tưởng tới làng quê. Như vậy, Nguyễn Bính bị phân thân giữa hai không gian: Thành thị và Nông thôn.
Thành thị trong thơ Nguyễn Bính “mang tính lưỡng trị, vừa hút vừa đẩy, vừa quen thuộc vừa xa lạ”. Theo Đỗ Lai Thúy, ông dùng đến ba lớp từ vựng để gọi thành thị. Một là, tên gốc của các địa danh. Hai là “những đồng nghĩa với thành phố nhưng bị giảm giá bởi những định ngữ đóng đinh vào nó” như “cát bụi”, “gió mưa phai”…Ba là những từ biểu hiện sự đối lập với nông thôn như “phồn hoa”, “xứ người”. Những cảm xúc bơ vơ, lạc lõng, lo âu được Nguyễn Bính gọi tên là “sầu đô thị”
“Chẳng đợi mà xuân vẫn cứ sang
Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng
Sáng nay sực tỉnh sầu đô thị
Tội lại về đây rất vội vàng”
Trong cõi sầu đô thị này, không ít lần Nguyễn Bính tìm đến cõi mơ, giấc mơ của anh lái đò, giấc mơ ở vương quốc bướm, giấc mơ của “Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi”. Nhưng cái đau đớn là Nguyễn Bính luôn sớm tỉnh mộng. Và ở ông, luôn có sự dùng dằng giữa thực hư, cũ mới, chân quê và thành thị…
VŨ HOÀNG CHƯƠNG – ĐÀO NGUYÊN LẠC LỐI
Đỗ Lai Thúy đã viết một câu mang tính định mệnh với Vũ Hoàng Chương: “Có thể nói Vũ hoàng Chương đã cô đúc toàn bộ triết lý cuộc đời và nghệ thuật của mình vào một chữ “Say”.” Điều này khiến cho độc giả nhiều thế hệ sau vẫn liên tưởng đến Vũ Hoàng Chương như một nhà thơ “Say”. Và cơn say là một cách để Vũ Hoàng Chương kiến tạo thực tại theo cách của riêng mình. Thơ Vũ Hoàng Chương, chính là gạch nối để dẫn Thơ Mới từ Lãng Mạn vào cõi Tượng Trưng.
Đỗ Lai Thúy đã có một phát hiện thú vị trong cấu trúc của tập “Thơ Say”. Ông phân tích từ các tiểu mục của tập: “Say – Mùa – Yêu – Cưới – Lỡ làng – Lại Say”. Ông gom các tiểu mục ở giữa lại thành một cấu trúc tổng quát hơn về đời thơ của Vũ Hoàng Chương: “Say – Tỉnh – Lại Say”, còn “Mây” là sự nối tiếp của một cơn say miên viễn. Trong đó, “Cái Say đầu tiên là tiền định, một đam mê tự nhiên của con người, nhất là các thi nhân, còn cái Say thứ hai mang tính nhân tạo. Bí mật của Vũ Hoàng Chương nằm ở đấy, “Lại say”…”
Đọc những bài thơ có vẻ “Tỉnh” của Vũ Hoàng Chương, ta thấy tràn ngập tâm sự: Sự tiếc nuối cõi mộng. Ông thể hiện một sự chán chường của “chàng Si tội nghiệp”, về sự phân cách “Hồn” và “Xác”, “Mơ” và “Thực”, “Thượng giới và Hạ giới”. Trong cõi tỉnh này, với Vũ Hoàng Chương, đó là:
“Lìa xứ Mộng giong thuyền qua bến tục”
(“Tân hôn”)
Hay
“Và đương rụng, giữa luồng giăng chênh chếch
Cánh hoa tàn sau chót của Ngây thơ”
Thơ Vũ Hoàng Chương, như ta thấy, phân rõ nhị nguyên và hoàn toàn duy lý. Bi kịch của duy lý đó là, sau khi tự chia rẽ bản thân đến cùng cực, linh hồn thi sĩ bắt đầu đi tìm cách hàn gắn. Và Vũ Hoàng Chương lại tìm về cõi Liêu Trai:
“Khí thiêng chừng sớm lìa nhân thế
Dương thịnh rồi chăng Âm đã suy
Quạnh quẽ thu phần thơ bặt tiếng
Lầu hoang chìm cỏ dấu hồ ly”
(“Cảm thông”)
Và theo dấu Hồ Ly, Vũ Hoàng Chương đã tìm về cõi Say của mình. Vũ Hoàng Chương nhận ra sâu sắc một điều rằng, trong cơn say, những mảnh vỡ vụn mới bắt đầu hợp nhất:
“Đàn với bút, tài sơ không chép nổi
Những cao xa để mộng chẳng nên hình
Hãy còn Men, người vợ góa Lưu Linh
Đưa lối những chàng say về Lý Tưởng”.
Không chỉ bằng hơi men, Vũ Hoàng Chương đã từng thử hàn gắn bằng tình yêu, tình dục. Nhưng rồi thì ông vẫn “Lại Say” để tìm lại Đào Nguyên.
“Trên nẻo hư vô mơ hồ chiếc bách
Khói dìu đi, men đẩy phía sau khoang”
Nhưng đỉnh cao trong số các bài thơ say của Vũ Hoàng Chương phải nhắc đến “Mời say”. Ở trạng thái tỉnh, hồn thơ còn nhị nguyên, còn phân biệt với thể xác. Nhưng trong cơn say, say rượu, say nhạc, say không gian, say sầu… thì sự phân biệt này không còn nữa:
“Hồn ngã lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng nghiêng tràn hết yêu thương
Bước chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ”.
Và trong cơn say, người bạn nhảy cũng biến thành hư ảnh:
“Ta quá say rồi!
Sắc ngã màu trôi
Gian phòng không đứng vững
Có ai ghì hư ảnh sát kề môi?”
Hư ảnh chính là từ khóa cho sự hợp nhất trong thơ Vũ Hoàng Chương. “Ngôn ngữ của thế giới cái thực và ngôn ngữ của thế giới cái ảo đối xứng nhau qua ngôn ngữ của thế giới cái hư ảnh”. Hư ảnh nằm ở vị trí trung tâm, còn Thực và Ảo xoay quanh ngoại vi đường tròn, phân bố đối xứng với nhau. Khi tỉnh, đường tròn đứng im, mọi thứ đều phân biệt rõ ràng và Hư Ảnh chiếm không gian nhỏ. Khi say, đường tròn chuyển động, ranh giới thực ảo nhòe đi, đến hòa lẫn, và Hư Ảnh lên ngôi.
Đây có thể coi là chương viết ngoạn mục nhất trong “Mắt Thơ” của Đỗ Lai Thúy. Ông không chỉ đi tìm các nhãn tự trong thơ nữa, không còn là phân tích thơ nữa, ông đã khám phá ra cấu trúc tư duy của Vũ Hoàng Chương.
ĐINH HÙNG – NGƯỜI KIẾN TRÚC CHIÊM BAO
Mở đầu những trang viết về Đinh Hùng, Đỗ Lai Thúy viết về những cơn sang chấn tâm lý. Ám ảnh lớn nhất của Đinh Hùng chính là cái chết. Những người gần gũi nhất với Đinh Hùng đều yểu mệnh. Trước hết phải kể đến mỹ nữ Tuyết Hồng, chị gái Đinh Hùng, đã tự tử ở hồ Hoàn Kiếm, tạo nên một “mùa tự tử” lúc bấy giờ. Sau cái chết của Tuyết Hồng là cái chết của cô Loan, song thân ông Hàn và bà Hàn, của Thạch Lam – bạn thân nhất của Đinh Hùng, của Liên – cô em họ xa mà Đinh Hùng yêu tha thiết.
Ám ảnh về cái chết này bị kích thích thêm bởi chính thực tại đô thị mà Đinh Hùng đang sống – một thực tại chớp nhoáng, mong manh, dễ đổ vỡ. Vì thế, Đinh Hùng đi tìm kiếm cái vĩnh cửu ở chiều kích khác – cái thiên nhiên. Nhưng không chỉ là thiên nhiên của núi rừng hoang sơ, Đinh Hùng muốn đánh thức dậy thời nguyên thủy, nơi mà “không gian và thời gian không phân biệt, nơi vĩnh cửu ngự trị”.
“Khi miếu đường kia phá bỏ rồi
Ta đi về những hướng sao rơi
Lạc loài theo dấu chân cầm thú
Từng vệt dương sa mọc khắp người”
…
“Từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ
Ta nằm trên cỏ lắng tai nghe
Thèm ăn một chút hoa man dại
Rồi ngủ như loài muông thú kia”
(“Những hướng sao rơi”)
Mọi ngôn từ của Đinh Hùng đều hướng tới sự hoang dại cổ xưa, nhưng sự hoang dại này không tàn bạo, mà thuần khiết tự nhiên và huyền bí.: “man dại”, “man rợ”, “hoang thảo”:
“ÔI bí mật của tấm lòng để ngỏ!
Đã ai vào dò xét chuyện rừng sâu”
…
“Chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt
Làm đôi người cô độc thuở sơ khai
Nàng bang khuâng đốt lửa những đêm dài
Ta từng thuở bơ vơ tìm bộ lạc”
(“Người gái thiên nhiên”)
Thơ Đinh Hùng tràn ngập vẻ đẹp kỳ vĩ. Sửng sốt trước vẻ đẹp này, Thế Lữ đã lấy thơ Đinh Hùng đưa vào truyện “Trại Bồ Tùng Linh” của mình, và cũng từ đó Thế Lữ không viết thơ nữa.
“Lòng đã khác ta trở về Đô Thị
Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa
Bóng ta đi trùm khắp lối hoang sơ
Và chân bước nghe chuyển rung đồi suối
Trông thấy ta cả cõi đời kinh hãi
Dòng sông con nép cạnh núi bên thùy
Đường châu thành quằn quại dưới chân đi
Xao động hết loài cỏ hoa đồng nội”
(“Bài ca man rợ”)
Đinh Hùng như một ngôn sứ của thuở hồng hoang đi đến thế giới hiện đại để cảnh tỉnh, cảnh tỉnh những con người đã quên đi cội nguồn của mình, kìm hãm sự “man rợ” và tha hóa. Ngay cả đàn bà, gần gũi với tự nhiên nhất, cũng dần “lạc thiên nhiên”, đánh mất chính mình. Nhưng sau những cơn tàn phá, Đinh Hùng nhận ra rằng mình vẫn tiếp tục cô độc. Đinh Hùng lại đi tìm người đàn bà tuyệt đối – một thứ mặc cảm Pigmaleon.
“Những buổi đó ta nhìn em kinh ngạc
Hồn mất dần trong cặp mắt lưu ly
Ôi mắt xa khơi! Ôi mắt dị kỳ
Ta trông đó thấy trời ta mơ ước
Thấy cả bóng những vừng đông thuở trước
Cả con đường sao mục lúc ta đi
Cả chiều sương mây phủ lối ta về
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ”.
(“Kỳ nữ”)
Đinh Hùng không hề hướng chút nào đến hiện thực hiện hữu, ông chọn lựa một thực tại khác, thực tại của tưởng tượng và hư cấu. Tại thực tại này, mọi ranh giới không – thời gian đều bị xóa nhòa, và ông đạt đến sự vĩnh cửu. Ông tự nguyện sống là chính mình một cách tuyệt đối, không do dự. Để là chính mình, ông bỏ học, để tóc kiểu Beatles, không đi làm viên chức, hút thuốc phiện, viết truyện “Đám Ma Tôi” về cái chết của chính mình”. Cho đến giờ, cũng chưa có nhà thơ nào quyết liệt là chính mình như Đinh Hùng, cả trong thơ cũng như trong đời. Đúng như Đỗ Lai Thúy nói, Đinh Hùng hoàn toàn “hiến mình cho thơ”. Chính sự quyết liệt này khiến Đinh Hùng bước hẳn vào thơ Tượng Trưng với tâm lý học miền sâu. Đinh Hùng đi vào “Ác mộng” tuyệt đối của chính mình, khi mình trở thành kẻ độc tài bạo chúa trong mọi điều mình sở hữu. Rồi ông lại đi vào cõi Chết và đắm chìm troi bóng tối u ám… Trong mỗi lần bước chân vào thực tại khác, ông lại ghi dấu bằng các biểu tượng.
Biểu tượng rõ nét nhất của Đinh Hùng là “mặt trời máu”: “Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng”. Câu này, so với “Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”, thì bạo liệt gấp bội phần, bởi nó tượng trưng cho cái chết của vĩnh cửu.
Ngoài gia, nấm mộ cũng là một thế giới với Đinh Hùng. Nấm mộ chính là thực tại bên kia mà với Đinh Hùng, còn sống động hơn thế giới thật:
“Nàng nằm mộng suốt đêm hè dưới nguyệt
Nụ cười buồn lay động ánh trăng sao
Xa nấm mồ chúng ta cuồng dại hết
Để yêu tà về khóc dưới non cao”
(“Tìm bóng tử thần”)
Theo tính toán của Đỗ Lai Thúy, cả tập “Mê hồn ca”, Đinh Hung sử dụng đến 85 chữ “hồn” với năm nghĩa như sau:
Linh hồn (người): “Em có mấy linh hồn, bao nhiêu mộng”
Hồn cầm thứ: “Cảnh diễm lệ ngẩn ngơ hồn cầm thú”
Hồn cỏ cây : “Mùi cỏ lá bỗng thoảng hồn mong nhớ”
Hồn của vật vô tri: “Hồn gỗ đá nặng nề vừa tỉnh giấc”
Hồn của những cái trừu tượng: “Cảm hồn trời bao dẫy núi trầm tư”
Thơ Đinh Hùng là một bước đột phá trong Thơ Mới, từ khi có ông, Thơ Mới bước hẳn sang cõi tượng trưng. Bởi vây, đương thời, thơ Đinh Hùng ít độc giả. Ông “lấy biểu tượng làm trung tâm”, “những biểu tượng dựa trên khám phá và tâm lý học miền sâu. Bởi vậy, biểu tượng thơ Đinh hùng là chiếc cầu nói từ hữu thức sang vô thức, từ hữu hình sang vô hình, từ thực sang ảo”. Ông đã bước ra khỏi thế giới thơ Lãng mạn và bước hẳn sang thế giới thơ của chính mình. Ông đã kiến tạo ra một thế giới nghệ thuật riêng – Điều hiếm có trong thơ ca Việt Nam.
BÍCH KHÊ – SỰ THỨC NHẬN NGÔN TỪ
Bích Khê là một hồn thơ đặc biệt, một người ý thức rất rõ ràng con đường Tượng Trưng của mình, một người khiến Hàn Mặc Tử cũng phải nghiêng mình kính phục.
“Hỡi lời ca man dại
Điệu nhạc thở hơi rừng
Đêm nay xuân đã lại
Thuần túy và tượng trưng”
Ở Bích Khê, chất tượng trưng được biểu hiện rõ nét nhất. Ở thơ Lãng mạn, cảm xúc giữ vai trò chủ đạo, nhưng với Tượng Trưng, các thi sĩ đã “đặt thơ vào cái vô hình, và xuất phát từ cảm giác. Thơ Tượng Trưng, vì thế, không còn truyền cảm mà đã là gợi cảm, gợi ý. Với thơ truyền cảm, cảm xúc do thơ tạo ra là đồng dạng, nghĩa là, bất cứ độc giả nào cũng thấy rõ được ý tưởng, những hình ảnh và thu được những xúc động tương ứng. Trong khi đó, thơ gợi cảm thường để lại những khập khiễng trong bạn đọc”. Và bởi thế, ngôn ngữ là yếu tố quan trọng trong thơ Tượng Trưng. Bích Khê đã có những tuyên ngôn như một sự thức nhận về ngôn ngữ của mình qua bài “Duy Tân”:
“Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời ca long đẹp. Hạt châu trong.
Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng
Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng”
“Điệu mới” của ông chính là sự “ứng chiếu” để tạo thành “nhất thể hóa giác quan”. Sự ứng chiếu này chính là hợp thể giữa trục hoành “vũ trụ – vũ trụ” và trục tung “con người – vũ trụ”, để “đọng lại một ấn tượng phi hình thể do những mảng màu sắc, hình khối, âm điệu,c ảm giác tương quan với nhau tạo nên. “
“Mộng?
Thiên tài:
Trên hỗn độn khỏa thân
Đẹp tỉ mỉ, hỡi rung động truyền thần”
Đỗ Lai Thúy đã chỉ ra rằng “Đi tìm cái thống nhất của hỗn độn là nguyên lý chi phối đường hướng cách tân thơ Bích Khê.
Giống như Đinh Hùng, Bích Khê cũng mắc căn bệnh mặc cảm Pigmaleon, Dường như mọi nhà thơ bước sang Tượng Trưng đều mắc căn bệnh này – những kẻ long lanh hóa thực tại khác bằng trí tưởng tượng của mình. Và thực tại của Bích Khê được kiến tạo bằng các ẩn dụ.
Các ẩn dụ của Bích Khê không sáo mòn, mà ngược lại, ông chống lại sự “xói mòn ngôn ngữ” bằng việc phục sinh lại nghĩa của từ nguyên. Ví dụ như từ “lệ ngọc”, nghe đã chán tai, thì với Bích Khê, ông hồi sinh lại bằng mấy câu thơ:
“Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc”
Hay
“Những đôi mắt, kho tàng muôn châu báu
Có những hàng đũa ngọc gắp hương yêu”.
Hoặc từ “trắng tinh” thì được Bích Khê tái hiện lại bằng:
“Những vú nõn: đồi cong tho, nho nhỏ
Với đôi hàng suối sữa trắng như tinh”
Bích Khê bị ám ảnh màu trắng. Không gian ông phủ một màu trắng siêu hình, trắng tuyệt đích, không phải màu trắng tang tóc mà là màu trắng tinh khôi.
“Muôn thứ đàn rung trên da thịt tuyết
Đàn và thơ kết thành dây tinh huyết”
Hay
“Da thịt phô bày ý tuyết băng”
Bích Khê có biệt tài trong việc biến chuyển các ẩn dụ, tạo ra cái mới dựa trên nền cái cũ. Ví dụ trong một lần tả trăng, Bích Khê viết:
“Lò mò đường lên mây
Chén trăng vừa tâm với
Chàng ơi, vàng ròng đây
Kề môi, say ân ái”
(Ngũ hành sơn)
“Ẩn dụ chén trăng đã làm nổ một dây chuyền ngữ nghĩa. Trăng màu vàng nên chén trăng cũng màu vàng, nhưng khi thi nhân hạ bút “vàng ròng” thì chén trăng lại thêm một lần chuyển nghĩa nữa, chén bằng vàng, biểu tượng của sự quý giá. Chén làm liên tưởng đến thứ đựng trong chén, rượu, nên có thể kề môi và say, nhưng say ân ái thì chén trăng lại là chén tình yêu.” Và thế giới thực về đêm trăng ở Ngũ Hành Sơn đã thành thực tại của tượng trưng.
Một điểm đặc biệt nữa của Bích Khê được Đỗ Lai Thúy phát hiện ra, đó là các “Biểu tượng trùng phức”. Biểu tượng có nguồn gốc từ xa xưa để diễn ta thế giới bên trong, thế giới vô hình, hoặc cái không thể nói ra. Nhà thơ nào cũng có một hệ thống biểu tượng riêng, nhơ ở thơ Lãng Mạn biểu tượng mang tính đơn, chủ yếu để phản ánh cái tôi bên ngoài, cái tôi xã hội. Nhưng từ Bích Khê trở về sau, những biểu tượng trở nên trùng phức, phức tạp – Cái Tôi Tâm Linh Bí Ẩn.
Ví dụ như trong trường hợp cái “Sọ Người”. Hộp sọ người xuất hiện nhiều trong nghệ thuật. Trong Hamlet, sọ người tượng trưng cho triết lý về cái chết. Cái sọ trong Điêu Tan của Chế Lan Viên thì ngả sang xu hướng tâm linh. Con “Sọ Người” của Bích Khê thì đưa ra cái thực tại bên trong sọ người:
“Ôi khối mộng của hồn thơ chếnh choáng!
Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương!
Ôi bình vàng! Ôi chén ngọc đầy hương
Ôi hồ nguyệt trọng nhiều trăng lấp loáng”
Sọ Người trong thơ Bích Khê là biểu tượng trùng phức của nhiều lớp nghĩa, vừa là”dung nhan mai hậu”, “biểu trưng cho sự tàn nhẫn của một người đàn bà đẹp”, “hậu quả của một sự đau khổ, có thể là tuyệt vọng”, và “sau cùng, sọ người báo trước người đàn bà đẹp phải chết!”
Bích Khê đã tuyên bố rằng ông tìm ra giai điệu mới. Và quả nhiên, ông đã tìm ra giai điệu mới theo đúng nghĩa đen. Bích Khê là nhà thơ hiếm hoi cách tân nhạc điệu của thơ. Ông làm nhiều bài thơ chỉ có thanh bằng như bài “Nhị hồ” hay “Tì bà”
“Sương nương theo trăng ngưng lừng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
“Thi vị” cũng là một nhạc khúc kỳ diệu, với sự láy đi láy lại hai ám ảnh của “vàng” và “rơi”:
“Lá vàng rơi
(Tôi khóc, anh ơi!)
Đàn rung tiếng
Người yêu đương ngồi…
Trăng vàng rơi
(Tôi khóc, anh ơi!)
Đàn nghẹn tiếng
Người yêu dậy rồi…
Hoa vàng rơi
(Tôi khóc, anh ơi!)
Đàn câm tiếng
Người yêu đi rồi…
Sao vàng rơi
(Thôi hết, anh ơi)
Đàn bẻ phím
Người yêu chết rồi”
Đỗ Lai Thúy gọi thơ Bích Khê là “một cõi trời”, nơi phản ánh tâm hồn ông, phản ánh kiến trúc ngôn từ của ông với các vật liệu mới, màu sắc mới, đường nét mới. Chính bởi vậy, nên thơ Bích Khê quả là “một cõi trời ở ngoài trời”
HÀN MẶC TỬ – MỘT TƯ DUY THƠ ĐỘC ĐÁO
Dường như Đỗ Lai Thúy gặp rắc rối trong việc phong tước hiệu cho Hàn Mặc Tử. Tiểu đề này ông đặt ra một lời khẳng định quá chung chung: “Tư duy thơ độc đáo”. Sự độc đáo của Hàn Mặc Tử cũng được ông điểm qua một vài nét phác thảo:
Thứ nhất, đó là sự gợi cảm. “Nhà thơ đã phóng chiếu những rạo rực, bản năng ra ngoài vũ trụ”. Ta thấy rõ điều này trong bài “Bẽn lẽn”
“Trăng nằm sõng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi”
Ở phương diện này, Hàn Mặc Tử là một thày phù thủy đã biến đổi thực tại hiện hữu thành thực tại của chính mình, một nhà giả kim thuật của thi ca. Ông sắp xếp những thứ tưởng chừng như chẳng liên quan thành một thể và thổi vào trong đó nguyên tố linh hồn – nguyên tố của sự sống. Và do đó, Hàn Mặc Tử đã bước hẳn sang thế giới thơ Siêu Thực.
“Hàn Mặc Tử, tuy tự mình đi tìm một mạch từ cổ điển đến siêu thực, nhưng thơ ông chính rộ vào quãng gối đầu giữa Tượng Trưng và Siêu Thực. Hơn nữ, điều quan trọng hơn, là tạng thơ Hàn. Cái thực và cái ảo vốn nằm sẵn trong bản thân con người, là những chiều kích khác nhau trong con người. Con người bị mất thăng bằng do bệnh tật hay chấn động tâm lý thường là dịp cho những tiềm ẩn ấy bộc lộ. Kiểu tư duy, khí chất và bệnh tật làm cho Hàn Mặc Tử luôn luôn phân thân, mộng mị và hoang tưởng”. Trong cuộc lạc lối này, Hàn Mặc Tử đã tìm về tôn giáo, một thế giới siêu thực thuần túy. Nhưng Hàn Mặc Tử không phải là nhà thơ tôn giáo, ông là một nhà thơ có tư duy tôn giáo, tức là tinh thần siêu thực của tôn giáo đã nhập thể với ông.
“Mới hay cõi siêu hình cao tột bực
Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao
Xa lắm rồi, xa lắm, hãi nhường bao!
Ai tới đó chẳng mê man thần trí
Tòa châu báu kết bằng hương kì dị
Của tình yêu rung động của hào quang
Những cù lao trôi nổi xứ mênh mang
Sẽ qui tụ thâu về trong một mối
Và tư tưởng chẳng bao giờ chắp nối”
Sự nhập thể này đã tạo ra một phá cách êm ái với Thơ Mới. Ông “kết hợp nhuần nhuyễn với chất trữ tình trên cơ sở cái tôi cá nhân hiện đại” và “Tư duy tôn giáo với tính hệ thống chặt chẽ của nó làm cho các yếu tố tượng trưng, cổ diển của thơ Đường, tượng trưng tôn giáo, lãng mạn, siêu thực… vốn rời rạc, lẻ tẻ trước đây kết thành một cấu trúc nghệ thuật hoàn chỉnh”. Hơn thế nữa, ông phá vỡ con người “nguyên phiến” để tạo ra con người “đa chiều kích”: “Bóng ai theo dõi bóng mình”. Cuối cùng thì, ông đã tạo ra những hình ảnh tân kỳ do sự kết hợp với tư duy tôn giáo:
“Lụa trời ai dệt với ai căng
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn
Và ai gánh máu đi trên tuyết
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang”
(“Cuối thu”)
Nhưng chỉ với các cơn “trăng”, Hàn Mặc Tử mới biểu hiện hết được tính siêu thực của mình. Không chỉ tạo ra những hình ảnh trăng thi vị, Hàn Mặc Tử còn “trăng hóa” bản thân mình:
“Mới lớn lên trăng đã thẹn thò
Thơm như tình ái của ni cô”.
(“Huyền diệu”)
Hay
“Không gian dày đặc toàn trăng cả
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng”.
Cùng với “hồn” và “máu”, “trăng” tạo thành “tam vị nhất thể”:
“Thịt da tôi sượng sần tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm
Cho trăng ngập dần lên tới ngực”.
Không hề nói quá khi ví Hàn Mặc Tử là con trai kết đớn đau thành ngọc quý. Hàn Mặc Tử bị bệnh phong, những cơn đau hành hạ ông thảm khốc, nhưng ông – một nhà giả kim thuật linh hồn – đã hun đúc đớn đau thành thơ, và thơ ấy đã biến đổi thực tại nhàm chán này thành một vẻ lung linh hơn, huyền ảo hơn.
XUÂN THU NHÃ TẬP – KHÚC HÁT THIÊN NGA
Khác với “Thi Nhân Việt Nam”, Đỗ Lai Thúy đưa vào quyển sách về Thơ Mới của mình hai tượng đài đặc biệt, đó là Đinh Hùng và Xuân Thu Nhã Tập. Đến giờ chưa ai hiểu tại sao Đinh Hùng không được đưa vào “Thi nhân Việt Nam”, nhưng trường hợp của “Xuân Thu nhã tập” thì có thể lý giải, người ta thường coi “Xuân Thu Nhã Tập” như “tiếp nối Thơ Mới”, vì sự ra đời muộn mằn của nhóm: năm 1942 – khi xã hội đã chuyển mình theo cách cuộc Cách Mạng Vô Sản.
Ít người biết đến “Xuân Thu Nhã Tập”, không phải vì vấn đề thời đại nữa, mà còn chính bởi các thi sĩ ấy có thứ ngôn ngữ huyên học của Đạo học phương Đông, thứ ngôn ngữ vô cùng khó hiểu và không đại chúng. Khi Xuân Thu Nhã Tập xuất hiện, người ta đã cho rằng thơ Tượng Trưng làm triệt tiêu cái tôi, nhưng không phải, Đỗ Lai Thúy đã chỉ ra được một điểm cốt lõi của Cái Tôi. Đó là Cái Tôi bao hàm cả Cái Phi Tôi, vì chỉ với Cái Phi Tôi, Cái Tôi mới được biểu hiện. Và như vậy, thơ Tượng Trưng với các chiến tướng của Xuân Thu Nhã Tập đã nới rộng đường biên của phạm trù Cái Tôi Cá Nhân.
“Xuân Thu Nhã Tập” là một tập thơ, văn, nhạc, họa của một nhóm bạn bè cùng tâm huyết, cùng chí hướng, bao gồm Nguyễn Lương Ngọc, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Đỗ Cung và Nguyễn Xuân Khoát.
“Xuân Thu, theo cổ tự: cỏ hoa nảy nở dưới mặt trời, và bông lúa chính… Một biểu tượng đương nhiên, cái nhịp của cuộc sống vô cùng. Sắc xuân và hương thu. Hai mùa quá độ, uyển chuyển trong khoảng cao, trong, nhẹ.
Hai mùa thực hiện Đẹp và Thơ
Hai mùa rung động cảm thông Người với Trời Đất, Trời Đất với người”
(Quan niệm)
Sau khi đi một vòng khám phá, Cái Tôi lại quay về với phương Đông và tìm thấy đạo học. “Cái tôi là một thực thể hữu hạn cả trong không gian lẫn thời gian, cả ở khả năng nhận thức. Bởi vậy, tôi luôn luôn sống trong lầm lạc, mâu thuẫn và đau khổ. Tôi là tiểu ngã, đối với đại ngã là cái ta không bị giới hạn, vĩnh hằng và toàn diện. Ở cái ta mọi mâu thuẫn đều được hóa giải: Tất cả là một, một là Tất cả”. Và bởi vậy, nghệ sĩ của nhóm này coi “nghệ thuật là rung động, rung động theo nhịp điệu vũ trụ”.
Bởi vì, thơ, cũng là sự rung động, nên giai điệu của thơ và các biểu cảm trong ngôn ngữ tượng trưng chính là cột đỡ của mỗi tuyệt phẩm. Và đi tìm sự khác biết trong các nhà thơ “Xuân Thu Nhã Tập”, chỉ cần tập trung vào tính nhạc.
Đoàn Phú Tứ với nhịp điệu thơ miên mang với các điệp âm:
“Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình”
(Màu thời gian)
Còn với Phạm Văn Hạnh, đó là “cốt cách rắn rỏi, như một thuật sĩ yoga, vừa khuôn phép, vừa phóng túng”:
“Người có nghe ru nhánh nhạc gầy
Dạt dào sóng thắm xõa muôn giây
Trưa nay gió dị òa trong tóc
Hoa khép òa lên tiếng nước mây”
Nguyễn Xuân Sanh, nhà thơ trẻ tuổi nhất, cũng chính là “điểm đi” của nhóm, và sớm đặt ra nhiều vấn đề của thơ Hiện đại Việt Nam. Ông viết nhiều bài như “Buồn xưa”, “Hồn ngàn mùa”, “Bình tàn thu”…
“Lẵng xuân
Bờ giữ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tì bà sương cũ đựng rừng xa”
(Buồn xưa)
Những câu thơ như vậy liệu có thể là lắp ghép? Hay muốn đọc nó, không còn có thể dễ dãi của tuyến tính mà phải đọc bằng cả trực quan phi tuyến tính. Cách viết này đã mở đường cho các Cách tân thơ mạnh dạn hơn ở giai đoạn sau như ở Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng…
LỜI KẾT
Đi từ Thế Lữ với một Cái Tôi Cá Nhân trực diện, Cái Tôi đã thực hiện một hành trình để mở rộng và trưởng thành. Nhưng cho dù Cái Tôi đi đến đâu, họ vẫn là tìm về Cái Ta. Rừng, sự vĩnh cửu, Thiên Đường, Chân Quê, hợp nhất, thời Thái Cổ, tuyệt đích… tất cả đều là Cái Ta. Nhưng Cái Ta thật sự chỉ chạm đến khi Cái Tôi dũng cảm dấn bước.
Khi Đỗ Lai Thúy “thám mã” từng nhà thơ, tôi tin rằng Cái Tôi của ông cũng đang dấn bước để với một cái Ta Toàn thể. Thông qua tâm trí thơ của thi sĩ, Đỗ Lai Thúy tự mở ra cánh cửa bươc sang thực tại khác cho mình. Nhưng nhà phê bình không dừng ở các cánh cửa lớn ấy, ông đã dồn công sức viết “Thơ – Như là Mỹ học của Cái Khác”, có thể coi là “Mắt thơ 2”, sắp tới là “Mắt thơ 3”. Mỗi cuốn “Mắt Thơ” như một chặng đường mới với thử thách mới để vượt qua, để tìm thấy đỉnh cao của mình. Đúng như ông nói, với ông “Phê bình chính là bản mệnh”
Chết yểu, chết trẻ và chết già cái nào khiến bạn mất mát nhiều nhất?
Đứa bé nói với ông lão rằng: “Thượng Đế thật là bất công, ông đã sống lâu như thế rồi, còn cháu lại chẳng khác nào chưa từng được sống vậy. Cháu dường như đã mất hết cả cuộc đời này vậy”.
Ông lão trả lời: “Cháu cơ hồ như không hề có được sinh mệnh, cũng không thể nói là mất mát gì cả. Ai được ban tặng sinh mệnh nhiều nhất thì khi chết đi, những gì mất mát cũng là nhiều nhất. Ông chính là như vậy đấy!”
Người trung niên hét lớn lên: “Thử hỏi có ai thê thảm như tôi không đây! Hai người đây, một người căn bản vốn chẳng hề mất mát gì cả, một người thì đã sống đủ rồi; còn tôi, tôi lại chết ngay lúc còn mạnh khỏe, những gì tôi đã có trong quá khứ, và những gì sắp có được trong tương lai của tôi, tất cả đều đã mất hết rồi”.
Họ đang đàm luận với nhau, không ngờ những lời này đã truyền đến tai của Đấng Toàn Năng. Một giọng nói vang lên ở phía trên đầu họ: “Hỡi chúng sinh, những gì các ngươi đã mất đi trong quá khứ và những gì sắp đến trong tương lai vốn đều không thuộc về các ngươi, các ngươi có gì đáng để than tiếc cơ chứ”.
Ba linh hồn cùng ngẩng đầu lên, hô lớn: “Chúa ơi, lẽ nào ba người trong chúng con đây, không có người nào là bất hạnh nhất hay sao?”
Thượng Đế trả lời: “Có, những sinh mệnh bất hạnh rất nhiều, các ngươi chỉ là một trong số đó, bởi các ngươi đều cho rằng bản thân mình là người mất mát nhiều nhất, ai bị suy nghĩ này dày vò nhiều nhất, thì đó cũng là người bất hạnh nhất vậy”.
Tiểu Thiện, dịch từ Sound of Hope
(Tinh Hoa)
Thứ Năm, 30 tháng 7, 2015
TỨ TƯỢNG Chương 1. Nhận định tổng quát
Sau Âm Dương, Dịch đề cập đến Tứ Tượng.
Tứ Tượng là: Thái Dương, Thiếu Dương, Thiếu Âm, Thái Âm. Tứ Tượng có thể được trình bày hoặc hiểu theo một trong ba cách sau đây:
A. Tứ Tượng theo các sách Dịch hiện tại
Theo các sách Dịch hiện nay, Tứ Tượng được hài danh và được trình bày như sau:
Thái Dương
|
Thiếu Âm
|
Thiếu Dương
|
Thái Âm
|
Nếu vẽ lên vòng tròn ta sẽ có:
Thái Dương
| ||
Thiếu Âm
|
Thiếu Dương
| |
Thái Âm
|
B. Tứ Tượng theo Đổng Trọng Thư
Nhưng nếu chúng ta nhận định rằng: nửa vòng bên trái là Dương, nửa vòng bên phải là Âm, ta liền thấy lối trình bày trên không chỉnh, vì thế có triết gia không đồng ý và muốn trình bày lại như sau:
Thái Dương
| ||
Thiếu Dương
|
Thiếu Âm
| |
Thái Âm
|
Trình bày như vậy ta sẽ thấy ở nửa bên trái hiện ra lẽ Âm tiêu Dương trưởng, và nửa bên phải hiện ra lẽ Dương tiêu Âm trưởng.
Đổng Trọng Thư đã xếp Thiếu Âm về phía Tây Kim, và Thiếu Dương về phía Đông Mộc.[1]
Tôi cũng theo chủ trương này, vì thấy nó hữu lý hơn.
C. Tứ Tượng theo Thiệu Khang Tiết
Thiệu Tử thì cho rằng:
Lưỡng Nghi là Động Tĩnh.
Tứ Tượng là: Dương, Âm, Cương, Nhu.
Ông trình bày lại như sau:
Lưỡng Nghi:
|
Động
|
Tĩnh
| |||||
Tứ Tượng:
|
Dương
|
Âm
|
Cương
|
Nhu
|
CHÚ THÍCH
[1] Đổng Trọng Thư viết: Kim sinh Thủy giả, Thiếu Âm chi khí ôn nhuận lưu trạch, tiêu Kim diệc vi Thủy. 董 仲 舒 曰 : 金 生 水 者 , 少 陰 之 氣 溫 潤 流 澤 銷 金 亦 為 水. (Kim sinh ra Thủy, khí Thiếu Âm ôn nhuận chảy trôi, nhuần thấm, vàng cũng chảy thành nước.) – Phùng Hữu Lan, Trung Quốc Triết Học Sử, trang 507.
Thơ VƯƠNG HOÀI UYÊN
MÙA THIÊN DI
Đời phân chia mấy ngả
Ngả nào cũng gian truân
Ngửa tay chờ số phận
Chọn lối rẽ cho đời.
Cánh buồm nào rồi cũng xa khơi
Nhưng có mấy cánh buồm quay trở lại?
Đại dương thì xa ngái
Chỉ có nỗi buồn neo lại
Bến bờ xưa.
Đêm cuối cùng
Trời bỗng quên mưa
Lắng đọng trong nhau một lời giã biệt
Cánh chim mỏi
Mùa thiên di mải miết
Bay về đâu
Khi gió lạnh sang mùa?
NHỚ KHÓI
Sợi khói bay vòng vèo ký ức
Mùa ấu thơ đốt rạ nghịch trên đồng
Hương rạ cũ vẫn nồng trong vô thức
Nỗi nhớ bay về phía cuối mùa đông.
Cánh cửa ấu thơ bây giờ khép lại
Dẫu muộn màng em mãi gọi: “Vừng ơi!“*
Nếu có thể quay về thời bé dại
Em lại đốt rơm cho nỗi nhớ lên trời.
Cánh đồng cũ bây giờ xa khuất mãi
Mùa giặt xong rồi rơm rạ còn không?
Mãi nhớ khói nên một đời lận đận
Sợi khói nào bay về phía bâng khuâng.
__________
*”Vừng ơi! Mở ra”: Tiếng gọi cửa trong truyện thần thoại.
Nhà thơ Vương Hoài Uyên
SÓNG HÁT
Anh có về?
kẻo muộn mất mùa xuân
Mùa dẫu muộn vẫn chờ hoa kịp nở
Em đếm ngày qua trong từng hơi thở
Mặt trời cháy lòng xuống núi
mỗi hoàng hôn
Anh có về?
kẻo muộn mất chiều hôm
Ngày ngắn quá
Kéo dài thêm chút nắng
Chim mỏi cánh bay qua miền xa vắng
Hốt hoảng quanh mình không một bóng cây
Em vẫn chờ - dù mỗi sớm mai
Sương nhỏ ngược vào đêm dòng nước mắt
Lá rụng về đâu
có sum vầy với đất?
Chỉ còn cành khô quờ quạng níu mây trời
Vẫn biết mình – hạt cát giữa biển khơi
Sao trái tim em vẫn hát lời sóng vỗ!
Con đò muộn chiều qua không còn chỗ
Bỏ lại một người
trên bến đợi chồn chân.
CÒN LẠI
Chẳng còn chi, chẳng còn chi
Vầng trăng đáy nước diệu kỳ đêm qua
Mình ta giữa cõi ta bà
Không không, sắc sắc ngỡ là chiêm bao.
Đường xa mỏi gối mòn hao
Bâng khuâng tìm bóng bên cầu nước trôi
Người về cõi ấy xa xôi
Để ta trôi giữa biển đời mênh mông!
Lắng đọng trong nhau một lời giã biệt
Cánh chim mỏi
Mùa thiên di mải miết
Bay về đâu
Khi gió lạnh sang mùa?
NHỚ KHÓI
Sợi khói bay vòng vèo ký ức
Mùa ấu thơ đốt rạ nghịch trên đồng
Hương rạ cũ vẫn nồng trong vô thức
Nỗi nhớ bay về phía cuối mùa đông.
Cánh cửa ấu thơ bây giờ khép lại
Dẫu muộn màng em mãi gọi: “Vừng ơi!“*
Nếu có thể quay về thời bé dại
Em lại đốt rơm cho nỗi nhớ lên trời.
Cánh đồng cũ bây giờ xa khuất mãi
Mùa giặt xong rồi rơm rạ còn không?
Mãi nhớ khói nên một đời lận đận
Sợi khói nào bay về phía bâng khuâng.
__________
*”Vừng ơi! Mở ra”: Tiếng gọi cửa trong truyện thần thoại.
Nhà thơ Vương Hoài Uyên
SÓNG HÁT
Anh có về?
kẻo muộn mất mùa xuân
Mùa dẫu muộn vẫn chờ hoa kịp nở
Em đếm ngày qua trong từng hơi thở
Mặt trời cháy lòng xuống núi
mỗi hoàng hôn
Anh có về?
kẻo muộn mất chiều hôm
Ngày ngắn quá
Kéo dài thêm chút nắng
Chim mỏi cánh bay qua miền xa vắng
Hốt hoảng quanh mình không một bóng cây
Em vẫn chờ - dù mỗi sớm mai
Sương nhỏ ngược vào đêm dòng nước mắt
Lá rụng về đâu
có sum vầy với đất?
Chỉ còn cành khô quờ quạng níu mây trời
Vẫn biết mình – hạt cát giữa biển khơi
Sao trái tim em vẫn hát lời sóng vỗ!
Con đò muộn chiều qua không còn chỗ
Bỏ lại một người
trên bến đợi chồn chân.
CÒN LẠI
Chẳng còn chi, chẳng còn chi
Vầng trăng đáy nước diệu kỳ đêm qua
Mình ta giữa cõi ta bà
Không không, sắc sắc ngỡ là chiêm bao.
Đường xa mỏi gối mòn hao
Bâng khuâng tìm bóng bên cầu nước trôi
Người về cõi ấy xa xôi
Để ta trôi giữa biển đời mênh mông!
Bạn đọc trẻ với việc tiếp nhận văn học mạng
Hoàng Thuy Anh
Nếu đọc sách in, người đọc tập trung, chuyên tâm tham dự vào tác phẩm, thẩm thấu từng con chữ, còn với cư dân mạng, ngoài việc đọc, còn có thể tranh thủ nghe nhạc, chơi facebook, thậm chí xem phim. Nhanh nhạy, tức thời, dễ dàng, song, tâm thế mạng chi phối nên bạn đọc trẻ khó lòng khai thác được vẻ đẹp ngôn từ của tác phẩm. Mặt khác, nếu bạn đọc cần tra cứu, tìm kiếm thông tin, không ai đứng ra bảo đảm độ tin cậy, chính xác từ mạng xã hội cho bạn. Bởi lẽ, văn học mạng như một bức tranh dang dở, chưa hoàn thành. Bạn đọc phải hết sức cẩn thận trước những “dị bản”. Bạn đọc sách như thế nào thì biểu hiện văn hóa của bạn như thế ấy. Văn hóa đọc thể hiện ở kĩ năng chọn, đọc, tiếp thu, lĩnh hội sách của bạn. Các tác giả trẻ thường viết theo thị hiếu, chiều lòng tính giải trí của bạn đọc trẻ nên sản phẩm viết ra thường hời hợt, non về tư tưởng lẫn nghệ thuật, thậm chí chứa đựng nhiều nội dung lệch lạc. Tính chất tự do của văn học mạng cho phép người sáng tạo không phải chịu trách nhiệm trước những sản phẩm do mình viết ra. Tình huống ấy đặt bạn đọc trước vô vàn thử thách trong việc tiếp nhận.
Sự xuất hiện và phát triển của văn học mạng đã góp phần đa dạng diện mạo văn học đương đại. Không thể xem toàn bộ những tác phẩm đăng online là loại văn chương mạng, còn non kém, mà tác phẩm nào in ra sách báo thì mới gọi là văn chương “thật”. Một tác phẩm nghệ thuật tồn tại như thế nào tùy thuộc ở người tiếp nhận. Nếu tác phẩm ấy đạt được giá trị về mặt nội dung lẫn nghệ thuật, thì dù nó được công bố ở trên mạng hay trên sách báo đều được bạn đọc đón nhận. Vấn đề, ở một siêu không gian, văn học mạng tạo ra sự tương tác giữa người viết và người đọc, xóa bỏ mọi giới hạn, cho phép người sáng tạo được thử nghiệm, bộc bạch quan điểm,... do đó, đây không hẳn là nơi hoàn toàn đáng tin cậy.
Thời buổi công nghệ, chỉ cần mang máy tính, chiếc điện thoại,... có hỗ trợ internet, dù ở đâu, trên tàu hay trên xe,... đều có thể lướt web bất cứ lúc nào mà không cần phải tay xách nách mang. Kể ra cũng tiện. Cần thông tin gì cứ gõ google. Văn học mạng Việt Nam phát triển hơn mười năm nay, người viết lẫn người đọc đều thỏa sức thể hiện sự sáng tạo của mình. Sự xuất hiện các trang web như vanchuongviet.org, vanvn.net, vienvanhoc.org.com, ngonngu.net, vanhocquenha.vn, phebinhvanhoc.com.vn,... góp phần thúc đẩy quá trình giao tiếp văn học, mở ra tâm thế đón nhận mới. Ngay các nhà thơ, nhà văn Việt Nam “gạo cội” cũng bước vào sân chơi này. Họ đưa sản phẩm của mình đến với cộng đồng mạng qua hai con đường, đưa lên những bài viết đã in thành sách báo và những bài viết trước khi in ra sách báo thông qua các trang blog, trang web cá nhân,... như Nguyễn Quang Thiều, Đặng Thân, Hoàng Vũ Thuật, Văn Công Hùng, Ngô Minh, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Quang Lập, Mai Văn Phấn,... Thế hệ “mười ngón tay” lại thường hành trình theo con đường từ trang mạng ra sách giấy. Nhiều tác giả trẻ như Nguyễn Thế Hoàng Linh, Gào, Kawi Hồng Phương, Born, Nguyễn Ngọc Thạch, Anh Khang, Leng Keng, Trần Thu Trang, Võ Anh Thơ, Quỳnh Thy, Hân Như, Lê Ngọc Mẫn, Lê Minh Phong, Nguyễn Phong Việt,... đã sớm thành công khi sáng tác trên mạng. Ví như tác giả Nguyễn Phong Việt, anh được xem là “hiện tượng của phát hành”. Tập thơ đầu tay Đi qua thương nhớ, bán được 30 ngàn bản; tập thứ hai Từ yêu đến thương, bán được 20 ngàn bản; tập thơ Như một dòng chảy ngược, sinh ra để cô đơn! vừa ra mắt cuối năm 2014 với 4 ngàn bản in. Theo thống kê của của trang tiki.vn (website bán sách online lớn nhất hiện nay), trong 10 quyển sách bán chạy nhất năm 2014, tác giả trẻ Việt Nam bước ra từ văn học mạng chiếm số lượng áp đảo (Ai rồi cũng khác - Hamlet Trường và Iris Cao, Buồn làm sao buông - Anh Khang, Cafe cùng Tony - Tony Buổi Sáng, Hoa Linh Lan – Gào, Người yêu cũ có người yêu mới - Iris Cao). Dẫn chứng trên cho thấy số lượng tác phẩm văn học mạng của người cầm bút trẻ in thành sách giấy tăng nhanh, có sức thu hút lớn đối với lớp trẻ. Tuy nhiên, từ đời sống mạng chuyển sang đời sống thực, nhiều tác phẩm mạng đã giảm nhiệt không ít bởi sự soi xét gắt gao của độc giả “hàn lâm” và giới phê bình.
Vậy, bạn đọc trẻ phải chọn lựa, sàng lọc như thế nào khi đối diện với văn học mạng? Thực tế trên cho thấy, nếu mạng xã hội thai nghén, sản sinh ra những người viết trẻ thì đồng thời tạo ra không gian xôm trò cho cư dân mạng trực tuyến. Bản thân mỗi văn bản văn học mạng là mỗi văn bản mở, chưa hoàn kết. Nếu văn học giấy (được in ra giấy) hoặc văn học điện tử đặt người đọc trong tâm thế “giấy” (cách gọi của Inrasara), nghĩa là ở tâm thế thụ động, thì văn học mạng lại mang đến tâm thế bình đẳng giữa tác giả và người đọc. Tác giả có thể bổ sung, thêm bớt ở bất kì thời gian, không gian nào. Còn người đọc thì tự do góp ý. Tạo ra sự tương tác dân chủ giữa tác giả và người đọc, văn học mạng buộc tác giả không ngừng phấn đấu để sinh ra những đứa con khỏe mạnh, còn người đọc phải thận trọng trước những tác phẩm dễ dãi, èo uột. Căn cứ vào lượt view (xem), số lượng like (thích), comment (bình luận), đối với mỗi tác phẩm, có thể thấy giới trẻ đã ít nhiều quan tâm đến văn học. Những lời đánh giá, nhận xét thuận chiều hay trái chiều, tích cực hay tiêu cực, một mặt, tự họ thể hiện ý thức trong việc đọc và tiếp nhận tác phẩm, mặt khác, còn tạo ra môi trường đối thoại trực tiếp, dân chủ, bình đẳng, giúp người viết có thể chỉnh sửa, hoàn thiện sản phẩm của mình.
Không chỉ quan tâm đến đời sống văn học trẻ đương đại, cộng đồng mạng còn quan tâm đến những tác phẩm kinh điển, những tên tuổi nổi tiếng,... qua các trang đọc sách online miễn phí hoặc sách điện tử chính thống. Sách điện tử so với sách giấy có nhiều lợi thế hơn về độ gọn nhẹ. Bạn đọc có thể tùy ý chỉnh sửa lại font chữ, cỡ chữ, màu sắc,... để thuận lợi cho việc đọc. Chỉ cần gõ tên tác phẩm muốn đọc, ebook sẽ đáp ứng sở thích của bạn. Bạn có thể tải về máy hoặc đọc online. Vì vậy, đa phần các bạn đọc trẻ thường chọn internet làm cầu nối để tiếp cận văn chương. Ở một góc độ, văn học mạng đã định hướng cách đọc tích cực cho giới trẻ. Sự xuất hiện văn học mạng chứng tỏ văn hóa đọc của các bạn trẻ không hoàn toàn bị lãng quên.
Văn học mạng ra đời, đặt bạn đọc trẻ trong tâm thế mới, và, nó cũng hệ lụy khi còn không ít mặt hạn chế. Thế hệ “mười ngón tay” nhanh chóng thích nghi với việc mua bán, trao đổi trực tuyến vừa đỡ tốn thời gian, công sức vừa giảm chi phí cho việc rong ruổi kiếm tìm sách. Chỉ cần ngồi lướt phím, nhấp chuột, mọi thông tin cần tra cứu, khai thác đều có. Tuy nhiên, nếu đọc sách in, người đọc tập trung, chuyên tâm tham dự vào tác phẩm, thẩm thấu từng con chữ, còn với cư dân mạng, ngoài việc đọc, còn có thể tranh thủ nghe nhạc, chơi facebook, thậm chí xem phim. Nhanh nhạy, tức thời, dễ dàng, song, tâm thế mạng chi phối nên bạn đọc trẻ khó lòng khai thác được vẻ đẹp ngôn từ của tác phẩm. Mặt khác, nếu bạn đọc cần tra cứu, tìm kiếm thông tin, không ai đứng ra bảo đảm độ tin cậy, chính xác từ mạng xã hội cho bạn. Bởi lẽ, văn học mạng như một bức tranh dang dở, chưa hoàn thành. Bạn đọc phải hết sức cẩn thận trước những “dị bản”.
Bạn đọc sách như thế nào thì biểu hiện văn hóa của bạn như thế ấy. Văn hóa đọc thể hiện ở kĩ năng chọn, đọc, tiếp thu, lĩnh hội sách của bạn. Các tác giả trẻ thường viết theo thị hiếu, chiều lòng theo tính giải trí của bạn đọc trẻ nên sản phẩm viết ra thường hời hợt, non về tư tưởng lẫn nghệ thuật, thậm chí chứa đựng nhiều nội dung lệch lạc. Tính chất tự do của văn học mạng cho phép người sáng tạo không phải chịu trách nhiệm trước những sản phẩm do mình viết ra. Tình huống ấy đặt bạn đọc trước vô vàn thử thách trong việc tiếp nhận. Tuy vậy, hiện nay, không phải bạn đọc nào cũng tiếp nhận tác phẩm một cách nghiêm túc, mà rất nhiều người, đọc chỉ để giải trí, thỏa mãn tâm lí, sở thích cá nhân. Sức nóng, sự cuốn hút của truyện ngôn tình với giới đọc trẻ là một minh chứng. Trưa ngày 5-4-2015 vừa qua, không khí nóng nực, chật chội vẫn không thể kìm hãm niềm yêu thích, được gặp gỡ, giao lưu với tác giả Diệp Lạc Vô Tâm của hàng ngàn bạn đọc trẻ tại Nhà triển lãm Thành phố, 92 Lê Thánh Tôn, Phường Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Lòng hâm mộ này thật hiếm xảy ra đối với những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng Việt Nam. Thực tế đã cho thấy bão ngôn tình chưa thoái trào, mặc dù được đánh giá là thuộc dòng truyện hay ít dở nhiều, tuổi thọ ngắn. Trước trào lưu truyện ngôn tình, hơn bao giời hết, giới trẻ cần có thái độ nghiêm túc và kĩ năng trong việc đọc. Cần tiếp nhận trên tinh thần đồng sáng tạo, có tầm nhìn bao quát, thái độ khách quan để lọc thải, lựa chọn những tác phẩm nghệ thuật đích thực, sẵn sàng loại trừ, tẩy chay những sản phẩm hời hợt, không có giá trị về mặt nội dung lẫn nghệ thuật giữa bạt ngàn rừng sách. Chỉ có tinh thần lao động khoa học, sức mạnh của bản lĩnh, trí tuệ thì chúng ta mới thu về được khối lượng tri thức cần thiết.
Văn hóa tranh luận cũng là một khía cạnh biểu hiện văn hóa đọc. Sự tự do của văn học mạng không chỉ tạo không gian tự do cho người viết mà còn tạo không gian rôm rả, dân chủ cho người đọc. Trên các trang mạng xã hội, rất nhiều comment thể hiện sự tranh luận nghiêm túc, văn minh nhưng cũng không thiếu những cuộc tranh luận như một cuộc hỗn chiến, có khuynh hướng công kích, tư thù cá nhân. Ẩn giấu bằng những cái tên nặc danh, người đọc tung hết chiêu trò, đôi khi hết sức vô văn hóa. Khen thì khen hết cỡ. Chê thì chê đến tận cùng. Va chạm với những cuộc ẩu đả ngôn từ trên mạng, nếu không tỉnh, vội vã, theo cảm tính, hùa theo số đông, bạn đọc trẻ sẽ khó lòng phân biệt đâu là giá trị đích thực của tác phẩm. Với văn học mạng, mỗi bạn đọc hãy phát huy tính chủ động, trách nhiệm cao trước những phát ngôn của mình. Trước tiên, hãy là một biên tập viên khó tính.
Đọc văn học mạng hay đọc văn học giấy, theo chúng tôi, đều rất quan trọng. Văn học mạng chứa đựng một khối lượng thông tin to lớn, khổng lồ. Vấn đề đặt ra, mỗi bạn đọc phải tìm được, định hướng được phương pháp, cách đọc tốt nhất. Bởi, đọc là việc làm suốt cả cuộc đời con người
Sự xuất hiện và phát triển của văn học mạng đã góp phần đa dạng diện mạo văn học đương đại. Không thể xem toàn bộ những tác phẩm đăng online là loại văn chương mạng, còn non kém, mà tác phẩm nào in ra sách báo thì mới gọi là văn chương “thật”. Một tác phẩm nghệ thuật tồn tại như thế nào tùy thuộc ở người tiếp nhận. Nếu tác phẩm ấy đạt được giá trị về mặt nội dung lẫn nghệ thuật, thì dù nó được công bố ở trên mạng hay trên sách báo đều được bạn đọc đón nhận. Vấn đề, ở một siêu không gian, văn học mạng tạo ra sự tương tác giữa người viết và người đọc, xóa bỏ mọi giới hạn, cho phép người sáng tạo được thử nghiệm, bộc bạch quan điểm,... do đó, đây không hẳn là nơi hoàn toàn đáng tin cậy.
Thời buổi công nghệ, chỉ cần mang máy tính, chiếc điện thoại,... có hỗ trợ internet, dù ở đâu, trên tàu hay trên xe,... đều có thể lướt web bất cứ lúc nào mà không cần phải tay xách nách mang. Kể ra cũng tiện. Cần thông tin gì cứ gõ google. Văn học mạng Việt Nam phát triển hơn mười năm nay, người viết lẫn người đọc đều thỏa sức thể hiện sự sáng tạo của mình. Sự xuất hiện các trang web như vanchuongviet.org, vanvn.net, vienvanhoc.org.com, ngonngu.net, vanhocquenha.vn, phebinhvanhoc.com.vn,... góp phần thúc đẩy quá trình giao tiếp văn học, mở ra tâm thế đón nhận mới. Ngay các nhà thơ, nhà văn Việt Nam “gạo cội” cũng bước vào sân chơi này. Họ đưa sản phẩm của mình đến với cộng đồng mạng qua hai con đường, đưa lên những bài viết đã in thành sách báo và những bài viết trước khi in ra sách báo thông qua các trang blog, trang web cá nhân,... như Nguyễn Quang Thiều, Đặng Thân, Hoàng Vũ Thuật, Văn Công Hùng, Ngô Minh, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Quang Lập, Mai Văn Phấn,... Thế hệ “mười ngón tay” lại thường hành trình theo con đường từ trang mạng ra sách giấy. Nhiều tác giả trẻ như Nguyễn Thế Hoàng Linh, Gào, Kawi Hồng Phương, Born, Nguyễn Ngọc Thạch, Anh Khang, Leng Keng, Trần Thu Trang, Võ Anh Thơ, Quỳnh Thy, Hân Như, Lê Ngọc Mẫn, Lê Minh Phong, Nguyễn Phong Việt,... đã sớm thành công khi sáng tác trên mạng. Ví như tác giả Nguyễn Phong Việt, anh được xem là “hiện tượng của phát hành”. Tập thơ đầu tay Đi qua thương nhớ, bán được 30 ngàn bản; tập thứ hai Từ yêu đến thương, bán được 20 ngàn bản; tập thơ Như một dòng chảy ngược, sinh ra để cô đơn! vừa ra mắt cuối năm 2014 với 4 ngàn bản in. Theo thống kê của của trang tiki.vn (website bán sách online lớn nhất hiện nay), trong 10 quyển sách bán chạy nhất năm 2014, tác giả trẻ Việt Nam bước ra từ văn học mạng chiếm số lượng áp đảo (Ai rồi cũng khác - Hamlet Trường và Iris Cao, Buồn làm sao buông - Anh Khang, Cafe cùng Tony - Tony Buổi Sáng, Hoa Linh Lan – Gào, Người yêu cũ có người yêu mới - Iris Cao). Dẫn chứng trên cho thấy số lượng tác phẩm văn học mạng của người cầm bút trẻ in thành sách giấy tăng nhanh, có sức thu hút lớn đối với lớp trẻ. Tuy nhiên, từ đời sống mạng chuyển sang đời sống thực, nhiều tác phẩm mạng đã giảm nhiệt không ít bởi sự soi xét gắt gao của độc giả “hàn lâm” và giới phê bình.
Vậy, bạn đọc trẻ phải chọn lựa, sàng lọc như thế nào khi đối diện với văn học mạng? Thực tế trên cho thấy, nếu mạng xã hội thai nghén, sản sinh ra những người viết trẻ thì đồng thời tạo ra không gian xôm trò cho cư dân mạng trực tuyến. Bản thân mỗi văn bản văn học mạng là mỗi văn bản mở, chưa hoàn kết. Nếu văn học giấy (được in ra giấy) hoặc văn học điện tử đặt người đọc trong tâm thế “giấy” (cách gọi của Inrasara), nghĩa là ở tâm thế thụ động, thì văn học mạng lại mang đến tâm thế bình đẳng giữa tác giả và người đọc. Tác giả có thể bổ sung, thêm bớt ở bất kì thời gian, không gian nào. Còn người đọc thì tự do góp ý. Tạo ra sự tương tác dân chủ giữa tác giả và người đọc, văn học mạng buộc tác giả không ngừng phấn đấu để sinh ra những đứa con khỏe mạnh, còn người đọc phải thận trọng trước những tác phẩm dễ dãi, èo uột. Căn cứ vào lượt view (xem), số lượng like (thích), comment (bình luận), đối với mỗi tác phẩm, có thể thấy giới trẻ đã ít nhiều quan tâm đến văn học. Những lời đánh giá, nhận xét thuận chiều hay trái chiều, tích cực hay tiêu cực, một mặt, tự họ thể hiện ý thức trong việc đọc và tiếp nhận tác phẩm, mặt khác, còn tạo ra môi trường đối thoại trực tiếp, dân chủ, bình đẳng, giúp người viết có thể chỉnh sửa, hoàn thiện sản phẩm của mình.
Không chỉ quan tâm đến đời sống văn học trẻ đương đại, cộng đồng mạng còn quan tâm đến những tác phẩm kinh điển, những tên tuổi nổi tiếng,... qua các trang đọc sách online miễn phí hoặc sách điện tử chính thống. Sách điện tử so với sách giấy có nhiều lợi thế hơn về độ gọn nhẹ. Bạn đọc có thể tùy ý chỉnh sửa lại font chữ, cỡ chữ, màu sắc,... để thuận lợi cho việc đọc. Chỉ cần gõ tên tác phẩm muốn đọc, ebook sẽ đáp ứng sở thích của bạn. Bạn có thể tải về máy hoặc đọc online. Vì vậy, đa phần các bạn đọc trẻ thường chọn internet làm cầu nối để tiếp cận văn chương. Ở một góc độ, văn học mạng đã định hướng cách đọc tích cực cho giới trẻ. Sự xuất hiện văn học mạng chứng tỏ văn hóa đọc của các bạn trẻ không hoàn toàn bị lãng quên.
Văn học mạng ra đời, đặt bạn đọc trẻ trong tâm thế mới, và, nó cũng hệ lụy khi còn không ít mặt hạn chế. Thế hệ “mười ngón tay” nhanh chóng thích nghi với việc mua bán, trao đổi trực tuyến vừa đỡ tốn thời gian, công sức vừa giảm chi phí cho việc rong ruổi kiếm tìm sách. Chỉ cần ngồi lướt phím, nhấp chuột, mọi thông tin cần tra cứu, khai thác đều có. Tuy nhiên, nếu đọc sách in, người đọc tập trung, chuyên tâm tham dự vào tác phẩm, thẩm thấu từng con chữ, còn với cư dân mạng, ngoài việc đọc, còn có thể tranh thủ nghe nhạc, chơi facebook, thậm chí xem phim. Nhanh nhạy, tức thời, dễ dàng, song, tâm thế mạng chi phối nên bạn đọc trẻ khó lòng khai thác được vẻ đẹp ngôn từ của tác phẩm. Mặt khác, nếu bạn đọc cần tra cứu, tìm kiếm thông tin, không ai đứng ra bảo đảm độ tin cậy, chính xác từ mạng xã hội cho bạn. Bởi lẽ, văn học mạng như một bức tranh dang dở, chưa hoàn thành. Bạn đọc phải hết sức cẩn thận trước những “dị bản”.
Bạn đọc sách như thế nào thì biểu hiện văn hóa của bạn như thế ấy. Văn hóa đọc thể hiện ở kĩ năng chọn, đọc, tiếp thu, lĩnh hội sách của bạn. Các tác giả trẻ thường viết theo thị hiếu, chiều lòng theo tính giải trí của bạn đọc trẻ nên sản phẩm viết ra thường hời hợt, non về tư tưởng lẫn nghệ thuật, thậm chí chứa đựng nhiều nội dung lệch lạc. Tính chất tự do của văn học mạng cho phép người sáng tạo không phải chịu trách nhiệm trước những sản phẩm do mình viết ra. Tình huống ấy đặt bạn đọc trước vô vàn thử thách trong việc tiếp nhận. Tuy vậy, hiện nay, không phải bạn đọc nào cũng tiếp nhận tác phẩm một cách nghiêm túc, mà rất nhiều người, đọc chỉ để giải trí, thỏa mãn tâm lí, sở thích cá nhân. Sức nóng, sự cuốn hút của truyện ngôn tình với giới đọc trẻ là một minh chứng. Trưa ngày 5-4-2015 vừa qua, không khí nóng nực, chật chội vẫn không thể kìm hãm niềm yêu thích, được gặp gỡ, giao lưu với tác giả Diệp Lạc Vô Tâm của hàng ngàn bạn đọc trẻ tại Nhà triển lãm Thành phố, 92 Lê Thánh Tôn, Phường Bến Nghé, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh. Lòng hâm mộ này thật hiếm xảy ra đối với những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng Việt Nam. Thực tế đã cho thấy bão ngôn tình chưa thoái trào, mặc dù được đánh giá là thuộc dòng truyện hay ít dở nhiều, tuổi thọ ngắn. Trước trào lưu truyện ngôn tình, hơn bao giời hết, giới trẻ cần có thái độ nghiêm túc và kĩ năng trong việc đọc. Cần tiếp nhận trên tinh thần đồng sáng tạo, có tầm nhìn bao quát, thái độ khách quan để lọc thải, lựa chọn những tác phẩm nghệ thuật đích thực, sẵn sàng loại trừ, tẩy chay những sản phẩm hời hợt, không có giá trị về mặt nội dung lẫn nghệ thuật giữa bạt ngàn rừng sách. Chỉ có tinh thần lao động khoa học, sức mạnh của bản lĩnh, trí tuệ thì chúng ta mới thu về được khối lượng tri thức cần thiết.
Văn hóa tranh luận cũng là một khía cạnh biểu hiện văn hóa đọc. Sự tự do của văn học mạng không chỉ tạo không gian tự do cho người viết mà còn tạo không gian rôm rả, dân chủ cho người đọc. Trên các trang mạng xã hội, rất nhiều comment thể hiện sự tranh luận nghiêm túc, văn minh nhưng cũng không thiếu những cuộc tranh luận như một cuộc hỗn chiến, có khuynh hướng công kích, tư thù cá nhân. Ẩn giấu bằng những cái tên nặc danh, người đọc tung hết chiêu trò, đôi khi hết sức vô văn hóa. Khen thì khen hết cỡ. Chê thì chê đến tận cùng. Va chạm với những cuộc ẩu đả ngôn từ trên mạng, nếu không tỉnh, vội vã, theo cảm tính, hùa theo số đông, bạn đọc trẻ sẽ khó lòng phân biệt đâu là giá trị đích thực của tác phẩm. Với văn học mạng, mỗi bạn đọc hãy phát huy tính chủ động, trách nhiệm cao trước những phát ngôn của mình. Trước tiên, hãy là một biên tập viên khó tính.
Đọc văn học mạng hay đọc văn học giấy, theo chúng tôi, đều rất quan trọng. Văn học mạng chứa đựng một khối lượng thông tin to lớn, khổng lồ. Vấn đề đặt ra, mỗi bạn đọc phải tìm được, định hướng được phương pháp, cách đọc tốt nhất. Bởi, đọc là việc làm suốt cả cuộc đời con người
CHA TÔI KHÔNG VỀ
Nguyễn Phan Hách
Nhà tôi ở một mình trên sườn đồi. Phía trước là con sông trong vắt, đằng sau là rừng già.
Tôi lớn lên trong tiếng gió ngàn rền rĩ, và mùi cỏ dại héo thơm.
Mẹ tôi có mái tóc dài như suối. Ngày ngày bà rải những nắm thóc vàng trước nhà
gọi chim rừng đến nhặt và nghe nó nói chuyện.
Mẹ tôi đẹp lắm. Trong nắng ban mai, bà giơ tay cuộn những sợi tơ trời trắng muốt đang bay lửng lơ và đan thành áo mặc.
Chợ phiên đường xa, Mẹ gánh những vầng mây biếc đi bán. Bao xanh, vạt áo của Người đựng đầy gió trời. Bà mua về những giọt mưa hoa đựng trên nón trắng.
Cha tôi đi đâu mãi chả về. Mẹ kể Cha là một Vì Sao xanh biếc ở trên trời. Một hôm Vì Sao đậu xuống hiên nhà, hiện hình thành một chàng trai đẹp. Mẹ có mang tôi trong một đêm sao băng đầy trời, núi đồi tràn ngập ánh sáng.
VanVN.Net - Cha tôi không thể ở lại ngôi nhà cột buộc bằng dây rừng, mái lợp cỏ của mẹ tôi được. Người còn phải đi chiến đấu. Đoàn quân Sao đang hành quân trên bầu trời, đội ngũ chờ ông. Ông đi mãi, đi mãi vào mênh mông, không bao giờ trở lại.
Tôi lớn lên nhìn lên trời sao, dõi theo bóng ông. Muôn ngàn vì sao hành quân, trong cuộc trường chinh muôn thuở.
Tôi nghe thấy những khẩu lệnh mà Đoàn quân Sao nói với nhau. Thỉnh thoảng có những vì sao rơi, đó là những người lính bị hy sinh trong chiến trận ….
Thế giới rộng mở khi ta buông bỏ cái tôi
.
Cổ nhân dạy “thanh thản mang lại may mắn và hòa bình tạo ra giàu có” là rất đúng. Chúng ta chỉ nhận được một điều gì khi chúng ta cho đi, và chỉ thu hoạch sau khi đã lao động chăm chỉ. Khi một cá nhân bỏ qua cái tôi của mình, anh ta sẽ thật sự cảm nhận được cảnh giới tinh thần của “Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn” (sau khi qua rặng liễu tối, sẽ là hoa tươi và một ngôi làng phía trước).
Có một câu chuyện kể rằng thời xưa, một người bị lạc trong một sa mạc. Trên bờ vực của cái chết, ông phải đối mặt với những cơn đói và khát không thể chịu đựng nổi. Tuy nhiên, ông vẫn lê từng bước chân nặng nề tiến về phía trước. Cuối cùng, ông đã tìm thấy một túp lều nhỏ bị bỏ hoang một thời gian dài. Phía trước của túp lều có một máy bơm nước, nhưng nó không chứa một giọt nước nào. Trong cơn tuyệt vọng, ông bất chợt nhận thấy một ấm đun nước để cạnh máy bơm. Miệng của ấm đun nước đã được đóng bằng một mảnh gỗ và một tờ giấy nhỏ đã được đặt trên ấm đun nước cho biết: “Hãy đổ nước trong bình đun nước này vào trong máy bơm trước sau đó mới có thể bơm nước. Nhưng xin hãy nhớ đổ đầy nước vào các bình này trước khi rời khỏi đây”. Sau khi đọc xong, ông cẩn thận mở tấm gỗ ra và nó thật sự có nước.
Vào thời điểm đó, người đàn ông đã phải đối mặt với một lựa chọn khó khăn: Hoặc là ông sẽ đổ nước vào cái bình và có thể nước sẽ không còn chảy ra từ vòi nước nữa và ông sẽ chết khát ở nơi hoang mạc này, nhưng nếu ông uống chỗ nước đó và cứu mạng sống của chính mình thì những người đến sau đó sẽ không có hy vọng.
Sau một lát do dự, ông cảm thấy như có một cảm hứng tuyệt diệu mang đến cho ông sức mạnh và ông quyết định làm theo những chỉ dẫn ghi trên tờ giấy. Nước đã chảy ra và ông uống cho đến khi thỏa mãn cơn khát đã giày vò ông. Sau khi nghỉ ngơi một chút, ông đổ nước vào đầy bình chứa, đậy nắp lại và ghi thêm vào tờ giấy nhỏ là:“Xin hãy tin tôi, những điều ghi trên tờ giấy này là thật và chỉ khi bạn dẹp bỏ được sự lo ngại về sự sống chết, bạn mới có cơ hội để tận hưởng vị ngọt của làn nước suối”.
Buông bỏ cái tôi là đức tính hy sinh cho những người khác và cũng là một tinh thần cao cả. Khi một người thật sự đặt tự ngã của mình xuống, trí tuệ sẽ xuất hiện giúp anh ta phân biệt được đâu là chân đâu là giả, và anh ta sẽ nhận được những phần thưởng bất ngờ. Mặc dù trong thế giới này, không phải lúc nào ta cũng nhận lại được ngay sau khi cho đi, nhưng chỉ khi cho đi, ta mới có thể nhận lại và có cơ hội để tận hưởng làn nước mát lành.
Tác giả: Guan Ming | Dịch giả: Serena D
(Đại Kỷ Nguyên)
Cổ nhân dạy “thanh thản mang lại may mắn và hòa bình tạo ra giàu có” là rất đúng. Chúng ta chỉ nhận được một điều gì khi chúng ta cho đi, và chỉ thu hoạch sau khi đã lao động chăm chỉ. Khi một cá nhân bỏ qua cái tôi của mình, anh ta sẽ thật sự cảm nhận được cảnh giới tinh thần của “Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn” (sau khi qua rặng liễu tối, sẽ là hoa tươi và một ngôi làng phía trước).
Có một câu chuyện kể rằng thời xưa, một người bị lạc trong một sa mạc. Trên bờ vực của cái chết, ông phải đối mặt với những cơn đói và khát không thể chịu đựng nổi. Tuy nhiên, ông vẫn lê từng bước chân nặng nề tiến về phía trước. Cuối cùng, ông đã tìm thấy một túp lều nhỏ bị bỏ hoang một thời gian dài. Phía trước của túp lều có một máy bơm nước, nhưng nó không chứa một giọt nước nào. Trong cơn tuyệt vọng, ông bất chợt nhận thấy một ấm đun nước để cạnh máy bơm. Miệng của ấm đun nước đã được đóng bằng một mảnh gỗ và một tờ giấy nhỏ đã được đặt trên ấm đun nước cho biết: “Hãy đổ nước trong bình đun nước này vào trong máy bơm trước sau đó mới có thể bơm nước. Nhưng xin hãy nhớ đổ đầy nước vào các bình này trước khi rời khỏi đây”. Sau khi đọc xong, ông cẩn thận mở tấm gỗ ra và nó thật sự có nước.
Vào thời điểm đó, người đàn ông đã phải đối mặt với một lựa chọn khó khăn: Hoặc là ông sẽ đổ nước vào cái bình và có thể nước sẽ không còn chảy ra từ vòi nước nữa và ông sẽ chết khát ở nơi hoang mạc này, nhưng nếu ông uống chỗ nước đó và cứu mạng sống của chính mình thì những người đến sau đó sẽ không có hy vọng.
Sau một lát do dự, ông cảm thấy như có một cảm hứng tuyệt diệu mang đến cho ông sức mạnh và ông quyết định làm theo những chỉ dẫn ghi trên tờ giấy. Nước đã chảy ra và ông uống cho đến khi thỏa mãn cơn khát đã giày vò ông. Sau khi nghỉ ngơi một chút, ông đổ nước vào đầy bình chứa, đậy nắp lại và ghi thêm vào tờ giấy nhỏ là:“Xin hãy tin tôi, những điều ghi trên tờ giấy này là thật và chỉ khi bạn dẹp bỏ được sự lo ngại về sự sống chết, bạn mới có cơ hội để tận hưởng vị ngọt của làn nước suối”.
Buông bỏ cái tôi là đức tính hy sinh cho những người khác và cũng là một tinh thần cao cả. Khi một người thật sự đặt tự ngã của mình xuống, trí tuệ sẽ xuất hiện giúp anh ta phân biệt được đâu là chân đâu là giả, và anh ta sẽ nhận được những phần thưởng bất ngờ. Mặc dù trong thế giới này, không phải lúc nào ta cũng nhận lại được ngay sau khi cho đi, nhưng chỉ khi cho đi, ta mới có thể nhận lại và có cơ hội để tận hưởng làn nước mát lành.
Tác giả: Guan Ming | Dịch giả: Serena D
(Đại Kỷ Nguyên)
Thứ Tư, 29 tháng 7, 2015
NHO GIÁO VÀ KHỔNG HỌC VỚI THỜI ĐẠI CHÚNG TA
PHAN NGỌC(*)
Vấn đề Nho giáo hết sức rắc rối. Theo như tôi biết, cho đến nay, không chỉ ở Việt Nam mà khắp thế giới đều có sự lẫn lộn giữa Tống Nho là học thuyết được Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên theo với Khổng học là triết học do Khổng Tử sáng lập. Với chúng ta, điều này càng thêm rắc rối khi chính Hồ Chí Minh lại thường nói đến Đức Khổng Tử vĩ đại, và một số nơi tự bảo mình theo Khổng Tử nhưng không phải vì thế mà trở thành lạc hậu, trái lại là những khu vực tiến mạnh nhất và nhanh nhất trên con đường hiện đại hoá. Cho đến nay trong cách đánh giá Nho giáo, tuy vô số sách đã viết và có những hội nghị quốc tế đã bàn, nhưng vẫn chưa có ý kiến thống nhất. Sở dĩ thế là vì công việc nghiên cứu Nho giáo hãy còn thiếu một cách nhìn theo nhận thức luận (epistemology) để phân biệt, trong cái được gọi chung là Nho giáo, nhiều bộ phận khác nhau và đối lập nhau triệt để, đòi hỏi ta phải xét riêng trên cơ sở tư liệu sách vở, đồng thời đối chiếu với hoàn cảnh xã hội của từng nước cụ thể trong từng giai đoạn cụ thể.
I. KHỔNG HỌC
Trước hết phải phân biệt Nho giáo với cái phần được gọi là Khổng học. Tài liệu gốc để hiểu Nho giáo làNgũ kinh (Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Xuân thu), còn tài liệu gốc để hiểu Khổng học là Luận ngữ. Ta lại cần phân biệt ở nhà triết học có mục đích rõ ràng là truyền bá một học thuyết riêng của mình trên cơ sở giảng dạy văn hoá cổ.
Trước hết Khổng Tử là một thầy học phải kiếm sống bằng nghề dạy văn hoá cổ với một mục đích cụ thể là để làm quan, bởi vì ở thời của ông, muốn làm quan phải học văn hoá cổ, đây là điều hết sức đặc biệt của những nước Đông á, lấy học vấn làm nền tảng trị nước. Ngoài Đông á ra, chuyện phải học để làm quan chỉ được quy định ở Châu Âu từ thế kỉ XIX, còn trước đó, người ta dựa vào giai cấp, tôn giáo, không dựa vào học vấn. Một khi phải kiếm sống bằng nghề dạy văn hoá cổ, dĩ nhiên Khổng Tử phải giảng về những công trình xưa. Điều chắc chắn là ông đã rút gọn Kinh Thi và Kinh Thư từ chỗ quá phức tạp xuống thành hai tác phẩm ngắn gọn, dễ học. Còn về những công trình khác thì hết sức đáng ngờ. Điều chắc chắn là Kinh Xuân Thu xuất hiện sau khi Khổng Tử chết do các học trò của ông nhân danh ông viết ra, cho nên không thể thuộc số sách ông dạy. Cũng vậy Kinh Dịch không phải sách ông dạy. Trong toàn bộ Luận ngữ chỉ có một câu nói đến Kinh Dịch, nhưng khảo chứng học đời Thanh đã bác, nói chữ ấy không phải là "dịch" mà là "diệc" nghĩa là "cũng". Vậy Kinh Dịch không thuộc nội dung được dạy. Còn Kinh Lễ tuy có được nhắc đến trong Luận ngữ, nhưng hiện nay chỉ có Lễ kí, trong đó một Khổng Tử hai con người khác nhau, một thầy dạy văn hoá cổ để kiếm sống và một phần lớn là những chuyện các môn đệ kể lại những lời bàn của Khổng Tử, chứ không phải là một kinh như kiểu Kinh Thi, Kinh Thư. Nội dung của Nho giáo với tư cách một học thuyết sau này được truyền bá là một thứ thuyết vạn vật hữu linh (animism) chung cho nhân loại cổ đại trong đó nói đến quan hệ giữa con người với mọi vật. Nhưng vì quan niệm ấy nẩy sinh ở Trung Quốc, cho nên nó cũng đồng thời được cấu trúc hoá lại kiểu Trung Quốc trong cái sơ đồ Âm DƯơng, Ngũ Hành, Bát quái, Bói toán, được tổ chức theo một thứ tôn ti, trong đó các hành động của vua chúa liên quan tới các hiện tượng của trời đất, các điềm báo trước, v.v... Đó là nội dung Khổng Tử dạy. Nội dung này không phải của riêng Khổng học mà là chung cho các trường phái thời Chiến quốc: Đạo học, Ngũ Hành, Âm DƯơng, Bói toán, Xem tướng, Đoán mộng, v.v...
Cái phần làm thành học thuyết của Khổng Tử là một sự lựa chọn độc đáo được ghi lại trong Luận ngữ. Và chỉ công trình Luận ngữ mới là tiêu biểu cho học thuyết của ông. Mọi công trình khác, trừ đoạn mở đầu của Đại học được mọi người cho là của ông vì nó khẳng định một trình độ tư duy nhất quán với Luận ngữcòn mọi công trình khác cần phải được gạt ra, nếu ta muốn tìm hiểu phần đóng góp của Khổng Tử với tư cách nhà triết học.
Một sự khảo sát Luận ngữ theo quan điểm ngữ văn cho thấy hai điều:
Thứ nhất, sự đối lập dứt khoát giữa lập trường triết học của ông là bất khả tri với "linh hồn giáo cổ đại". Trong tác phẩm Luận ngữ không có một câu nào nói đến quan hệ giữa trời đất với con người, không nói đến cái chết, thần linh, các điềm báo trước, bói toán, chuyện quái lạ. Không những ông không nói đến mà còn chống lại. Thái độ bất khả tri này được khẳng định rõ ràng ở Tuân Tử, là người thừa kế mặt duy vật của ông. Không phải vô cớ mà Tuân Tử hết sức đề cao Khổng Tử nhưng lại kịch liệt mạt sát Mạnh Tử, tuy cả hai người đều tự xưng là thừa kế Khổng Tử. Tuy Khổng Tử có nói đến "mệnh trời", nhưng khái niệm này chẳng qua chỉ là khẳng định giới hạn nhỏ bé của ông trong việc thay đổi xã hội trước mắt và sự bất lực của mình, cũng như ta nói "trời mưa, trời gió, số trời" mà thôi chứ không chứa đựng một hàm nghĩa huyền bí nào hết.
Cũng vậy, trong Luận ngữ không hề có một câu nào chứng minh Khổng Tử là người chủ trương chế độ quân chủ chuyên chế, chiến tranh xâm llược, nhân dân phải chấp nhận nghèo khổ, phụ nữ là thua kém nam giới. Đồng thời ông cũng không chủ trương học thuyết mình là một quốc giáo mà chỉ dành cho một số ít người có ý thức trau dồi mình để trở thành người quân tử nhằm đem lại hoà bình hạnh phúc cho dân khi được sử dụng vào việc trị dân.
Khổng Tử muốn xây dựng một học thuyết để đem đến yên ổn, hoà bình cho xã hội, nhưng lại không gây xáo trộn to lớn. Ông quy toàn bộ giáo dục về tu thân. Trong Luận ngữ chẳng hạn, có 11 câu bàn về Kinh Thinhưng cả 11 câu đều được giải thích theo hướng giúp người ta tu thân. Về các kinh khác cũng vậy.
Con đường tu thân của ông không xuất phát từ một tiền đề thần bí nào hết. Trước hết, phải sử dụng giác quan để nhìn và nhận xét. Do đó ông đề cao việc học. Cái gì giác quan không nhận thấy được thì ông gạt ra. Do đó ông không nói đến thần linh, cái chết, những quan niệm của thuyết vạn vật hữu linh. Một khi đã học thì phải suy nghĩ để tìm quan hệ. Do đó học trò của ông phải từ một góc mà suy ra được ba góc còn lại ông không dạy tiếp. Trong các quan hệ này có những quan hệ không thay đổi từ khi con người tồn tại cho đến nay, và ông xây dựng những chữ để hướng dẫn con người trong các hành vi này. Đã là người thì tất yếu có cha mẹ cho nên phải có chữ Hiếu; phải có anh chị em cho nên có chữ Đễ; phải có bạn bè và quan hệ giữa người với người cho nên phải có chữ Tín, phải có người trên kẻ dưới cho nên phải có chữ Trung. Các chữ này không phải tách rời nhau, độc lập đối với nhau, mà đều bị chi phối bởi một llưới những quan hệ qua lại, không có tình trạng một chiều. Trước hết có chữ Lễ là những quy tắc đã được xác lập. Thứ hai có chữ Nghĩa chỉ cách thực hiện đúng đắn. Thứ ba có chữ Trí là sự thông minh, biết đối phó thích hợp trong những hoàn cảnh khó khăn. Thứ tư có chữ Liêm là thái độ không mưu lợi ích riêng. Khi một người thực hiện được các đòi hỏi về tu thân này thì anh ta sẽ đạt đến cái tiêu chuẩn cao nhất của lí tưởng Khổng giáo là chữ Nhân.
Quan điểm tu thân này xuất phát từ chính mình, cái đó Khổng Tử gọi là tính nhất quán của học thuyết ông. Tính nhất quán ấy là gồm trong hai chữ Trung và Thứ. Chữ Trung là làm hết sức mình, và Thứ là xuất phát từ chính yêu cầu của mình: "Điều gì mình muốn người ta làm cho mình, thì làm cho người khác. Điều gì mình không muốn người ta làm cho mình thì mình đừng làm cho người khác".
Đặc biệt, Khổng Tử vì chống lại thứ đạo lí một chiều, chỉ có một bên hưởng và một bên phải phục vụ cho nên chủ trương hai khái niệm là Thời và Trung Dung. Chữ Thời là "thích hợp với hoàn cảnh cụ thể" không có gì là cố định cả. Khái niệm Hiếu, Trung, Lễ chẳng hạn, thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử, từng hoàn cảnh xã hội cụ thể, những điều thời Khổng Tử cho là đúng không nhất thiết là đúng cho ngày nay. Khái niệm Trung Dung là có mức độ vừa phải, không cực đoan.
Quan điểm tu thân của Khổng Tử là nhằm đào tạo những con người góp phần xây dựng xã hội dưới đất, đem đến no ấm cho mọi người, không phải nhằm một lí tưởng xa vời, lên Niết Bàn hay lên Thiên Đường, và con người tu thân là để thay đổi xã hội bằng tấm gương của mình và hành động của mình. Quan điểm ấy khác các quan điểm đã có xuất phát từ một tiên đề không có cách gì chứng minh như Chúa, cái Thiện tuyệt đối. Nó không mang tính giai cấp, cũng không bó hẹp vào một chế độ xã hội, dù đó là quân chủ, dân chủ, hay chủ nghĩa xã hội. Trong bất cứ xã hội nào, con người cũng phải tu thân, và tu thân là để đổi mới xã hội đem đến hoà bình hạnh phúc cho mọi người. Muốn tu thân thì phải học không biết mỏi, lo trước vui sau. Hồ Chí Minh đề cao Khổng Tử là vì thế, thậm chí nói phải đọc sách Khổng Tử để tu thân và đọc sách Lênin để làm cách mạng. Đối với người cộng sản Việt Nam, dù có giành được độc lập, đất nước vẫn còn rất nghèo nàn, lạc hậu, đói khổ chưa chấm dứt, con người cách mạng phải đi con đường tu thân để cải tạo xã hội. Mà chỉ có Khổng Tử mới đặt được vấn đề tu thân đầy đủ và nghiêm chỉnh như vậy.
Đó là điểm ưu việt của Khổng Tử bên cạnh nhiều thiếu sót của ông trong một xã hội Trung Hoa cách đây hai nghìn năm trăm năm.
2. NHO GIÁO
Nho giáo không phải là Khổng học. Nho giáo đời Hán là một sự quay trở về linh hồn giáo trước Khổng Tử khi lấy năm kinh làm đối tượng để học tập và thi cử. Và từ đó về sau Nho giáo là một hỗn hợp của Âm DƯơng, Ngũ Hành, Bói toán, lí thuyết quan hệ giữa Trời, quỷ thần với Người, chuyện tai biến, chuyện quái lạ... là những điều Khổng Tử tránh không nói đến. Xuất phát từ quan hệ giữa Trời và Đất trong đó Trời là Dương,
Đất là Âm, Hán Nho xây dựng thuyết Tam lương để bắt bầy tôi lệ thuộc vào vua, làm cơ sở cho chế độ quân chủ chuyên chế và sự thống trị của bộ máy quan liêu, bắt con lệ thuộc vào cha, vợ lệ thuộc vào chồng, biện hộ cho chế độ bất công. Đây chẳng qua là mượn quan hệ giữa Trời và Đất xây dựng một lí thuyết về đẳng cấp kiểu Bà La Môn giáo mà thôi.
Khổng học chỉ có thể là học thuyết cho một thiểu số trí thức. Bởi vì, nó quá trí tuệ. Toàn bộ Luận ngữ không nhắc đến trái tim biểu hiện bằng chữ "tâm" mà chỉ nói đến "chính mình". Mạnh Tử đã tìm cách bổ cứu khi dùng chữ "tâm" 150 lần (cái tâm của đứa trẻ thơ, cái tâm đã mất, giữ lấy cái tâm...). Nhưng từ đời Hán đến đời Tống, Nho giáo chỉ là một học thuyết để đào tạo quan lại mà thôi. Còn nhân dân thì theo cái "tâm" được biểu hiện trong Đạo giáo và nhất là trong Phật giáo. Để cứu vãn một Nho giáo trên đà suy vong, Tống Nho xây dựng lại Nho giáo, đưa siêu hình học Đạo giáo (Âm DƯơng, Ngũ Hành, Lí, Khí) vào, và mượn một lôgic Phật giáo, một tâm lí học Phật giáo để bổ cứu cho những thiếu sót hiển nhiên của Khổng học. Kết quả Tống Nho đã thắng Phật giáo, Đạo giáo, và trở thành học thuyết chính thống của Nho giáo về sau. Nhưng Tống Nho được xây dựng để bảo vệ một đất nước yếu về quân sự trước nạn xâm chiếm của người Kim đã chiếm Hoa Bắc vào năm 1127 và nạn xâm chiếm của người Mông Cổ sẽ làm chủ toàn bộ Trung Hoa vào năm 1276. Vì vậy, Tống Nho chỉ có thể tạo nên một thứ Nho giáo cực kì giáo điều, chết cứng, tự túc tự mãn với ba đặc điểm (kinh tế tự túc, chế độ quân chủ cực quyền, sự phong bế về ngoại giao và ngoại thương), những điều tất yếu dẫn tới sự suy sụp của ba nước theo Tống Nho là Việt Nam, Trung Quốc và Triều Tiên
3. NHO GIÁO VIỆT NAM
Nho giáo Việt Nam vào thời Pháp xâm lược là Tống Nho. Và suốt lịch sử Việt Nam không biết đến một Nho giáo nào khác ngoài Tống Nho. Đặc biệt khi Gia Long lên ngôi, mọi cải cách tiến bộ thời Tây Sơn đều bị bỏ: chữ Nôm mất địa vị, chữ Hán được tuyên bố là chữ viết chính thức, các giáo sĩ Công giáo bị cấm hoạt động, việc buôn bán của ngoại kiều bị cản trở để quay trở lại chế độ tự túc, bế quan tỏa cảng. Đồng thời, việc giáo dục theo hẳn Tống Nho. Nhưng đó là chuyện triều đình. Còn Nho giáo trong lòng người dân Việt Nam là theo bản sắc văn hoá Việt Nam. Cho nên Nho giáo Việt Nam chỉ có hình thức Tống Nho mà thôi, còn nội dung là vẫn theo yêu cầu của bản sắc văn hoá dân tộc.
1. Nho giáo Trung Quốc không nói đến nước, chỉ nói đến vua, triều đình, còn Nho giáo Việt Nam là Nho giáo vì Tổ quốc. Vua và triều đình Việt Nam không phải là người sở hữu nước như ở Trung Quốc. Tên gọi của Trung Quốc trước 1911 như Hán, ĐƯờng, Tống... là tên gọi của triều đại. ở Việt Nam, tên Đại Việt chẳng hạn là chung cho nhiều triều đại từ Lý đến Trần, Lê. Triều đình và ông vua chỉ là người quản lí nước không phải người sở hữu nước. Cho nên chữ Trung của Việt Nam là trung với nước, và Việt Nam có khái niệm Đại hiếu là hiếu với dân với nước mà Nho giáo Trung Quốc không có. Với khái niệm "trung hiếu" này, nước Việt Nam là nước duy nhất trên trái đất mặc dù đất nhỏ, dân nghèo và gần Trung Quốc, đã đánh bại mọi kẻ thù giữ vững độc lập trong những hoàn cảnh không một nước nào làm được. Đối với Việt Nam, lòng hiếu với cha mẹ chỉ là "Tiểu hiếu", mà lòng hiếu với Tổ quốc Việt Nam, nhân dân Việt Nam mới là Đại hiếu. Trường hợp Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh và mọi người cách mạng rời khỏi cha mẹ, gia đình chính là để thực hiện Đại hiếu. Cũng vì ông vua không phải người sở hữu đất nước cho nên khi một ông vua cắt đất cho nước ngoài như Tự Đức hay quỳ gối trước nước ngoài như Chiêu Thống thì nhân dân chống lại, đòi "moi gan, uống máu" ông vua. Do đó, cũng là học Nho giáo cả, nhưng các nhà Nho Việt Nam tham gia mọi phong trào chống Pháp, và số nhà Nho hi sinh cho sự nghiệp cứu nước là không thể kể hết. Ngục tù Côn Đảo có một thời đầy những nhà Nho ưu tú nhất nước. Sau đó lại có hiện tượng những nhà Nho vào Đảng Cộng sản (Đặng Thúc Hứa, Hồ Tùng Mậu, Võ Liêm Sơn...), và thế hệ học Nho giáo trong gia đình lãnh đạo Đảng cộng sản (Hồ Chí Minh, Trần Phú, Trường Trinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp...). Tôi không thấy hiện tượng này ở Trung Quốc.
2. Xã hội, đất nước Việt Nam xây dựng trên sự tồn tại của làng xã. Làng xã đóng một vai trò tự quản về mọi mặt: kinh tế, xã hội, tôn giáo, chính trị. Nó lo cho đời sống dân làng và chỉ có quan hệ gián tiếp với bộ máy quan lại của triều đình. Đặc điểm này tồn tại suốt lịch sử tạo nên một nước Việt Nam trong đó quyền lực của bộ máy quan liêu, của triều đình khá nhỏ bé. Không phải vua chúa không muốn chống lại nhưng nếu quan liêu hoá toàn bộ đất nước theo kiểu Trung Hoa thì vấp phải sự chống đối cực kì to lớn và triều đình nhất định sụp đổ. Đặc điểm thứ hai này khiến nó khắc hẳn cái làng Trung Quốc. Chế độ ruộng công của làng Việt tạo nên sự gắn bó của dân làng, đồng thời biến mỗi làng thành một pháo đài chống ngoại xâm. Nho giáo nhập vào cái cơ chế làng xã, lập tức bị làng xã hoá, và nhà Nho trước hết là người trí thức của làng, lo cho cuộc sống dân làng, rất khác nhà Nho Trung Quốc chỉ nhập vào chế độ quan liêu của triều đình, không biết đến làng. Làng Việt với tư cách cộng đồng của những người lao động gắn bó với nhau bằng máu mủ (thờ cúng tổ tiên), bằng tôn giáo (các thành hoàng phần lớn đều là những người có công với làng với nước), bằng một truyền thuyết chung về cha mẹ (Lạc Long Quân, Âu cơ), bằng hợp tác trong lao động, sướng khổ có nhau. Vì vậy, chính làng Việt là cái lò tạo nên tinh thần dân chủ và có xu hướng xã hội chủ nghĩa cái mà trong Nho giáo không có và cấp cho những người theo Nho giáo Việt Nam ý thức trách nhiệm sống chết cho quê hương. Làng giăng ra cái thiên la địa võng của chiến tranh nhân dân làm mọi kẻ thù trên hai nghìn năm nay khiếp vía.
3. Đặc điểm thứ ba là gia đình Việt Nam với vai trò quan trọng dành cho phụ nữ. Hết sức khác phụ nữ Trung Quốc, phụ nữ Việt Nam chưa hề bị ai bó chân, làm chủ thương nghiệp, nông nghiệp, nắm tài chính và quản lí tài sản gia đình, lo giáo dục con cái, gần như là người chủ yếu lo việc buôn bán của gia đình và giao dịch với họ hàng, lại tự do chăm sóc cho cha mẹ đẻ, trong khi cô dâu Trung Quốc khó khăn lắm mới được về thăm cha mẹ mình. Anh chàng rể Việt Nam có trách nhiệm với gia đình vợ chẳng kém gì với gia đình mình... Chính những quyền ưu tiên mà phụ nữ Việt Nam được thừa hưởng đã tạo nên người phụ nữ Việt Nam anh hùng và một đất nước toàn phụ nữ anh hùng mà lịch sử thế giới chưa hề biết đến.
Như vậy, Nho giáo Việt Nam chỉ giống Nho giáo Trung Quốc về cách học, cách thi cử mà thôi. Còn trong thực tế Nho giáo vào Việt Nam đã bị tiếp biến theo văn hoá Việt Nam để trở thành Nho giáo Việt Nam. Trong sự tiếp biến ấy, nét nổi bật là ý thức cộng đồng có xu hướng dân chủ và xã hội chủ nghĩa xuất phát từ quyền lợi chung của người lao động, và biểu hiện tiêu biểu nhất của nó là văn hoá dân gian mà ở đó, về mặt hệ tư tưởng, ngôn ngữ, hình thức nghệ thuật cảm xúc nghệ thuật đều không phải là Tống Nho, thậm chí chống lại Tống Nho triệt để./.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo. Số 5-2001, tr. 50-54.
(*) Nhà nghiên cứu văn hoá học và ngôn ngữ học, Hà Nội.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)