Sau Âm Dương, Dịch đề cập đến Tứ Tượng.
Tứ Tượng là: Thái Dương, Thiếu Dương, Thiếu Âm, Thái Âm. Tứ Tượng có thể được trình bày hoặc hiểu theo một trong ba cách sau đây:
A. Tứ Tượng theo các sách Dịch hiện tại
Theo các sách Dịch hiện nay, Tứ Tượng được hài danh và được trình bày như sau:
Thái Dương
|
Thiếu Âm
|
Thiếu Dương
|
Thái Âm
|
Nếu vẽ lên vòng tròn ta sẽ có:
Thái Dương
| ||
Thiếu Âm
|
Thiếu Dương
| |
Thái Âm
|
B. Tứ Tượng theo Đổng Trọng Thư
Nhưng nếu chúng ta nhận định rằng: nửa vòng bên trái là Dương, nửa vòng bên phải là Âm, ta liền thấy lối trình bày trên không chỉnh, vì thế có triết gia không đồng ý và muốn trình bày lại như sau:
Thái Dương
| ||
Thiếu Dương
|
Thiếu Âm
| |
Thái Âm
|
Trình bày như vậy ta sẽ thấy ở nửa bên trái hiện ra lẽ Âm tiêu Dương trưởng, và nửa bên phải hiện ra lẽ Dương tiêu Âm trưởng.
Đổng Trọng Thư đã xếp Thiếu Âm về phía Tây Kim, và Thiếu Dương về phía Đông Mộc.[1]
Tôi cũng theo chủ trương này, vì thấy nó hữu lý hơn.
C. Tứ Tượng theo Thiệu Khang Tiết
Thiệu Tử thì cho rằng:
Lưỡng Nghi là Động Tĩnh.
Tứ Tượng là: Dương, Âm, Cương, Nhu.
Ông trình bày lại như sau:
Lưỡng Nghi:
|
Động
|
Tĩnh
| |||||
Tứ Tượng:
|
Dương
|
Âm
|
Cương
|
Nhu
|
CHÚ THÍCH
[1] Đổng Trọng Thư viết: Kim sinh Thủy giả, Thiếu Âm chi khí ôn nhuận lưu trạch, tiêu Kim diệc vi Thủy. 董 仲 舒 曰 : 金 生 水 者 , 少 陰 之 氣 溫 潤 流 澤 銷 金 亦 為 水. (Kim sinh ra Thủy, khí Thiếu Âm ôn nhuận chảy trôi, nhuần thấm, vàng cũng chảy thành nước.) – Phùng Hữu Lan, Trung Quốc Triết Học Sử, trang 507.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét