Thứ Ba, 23 tháng 6, 2015

Những đe dọa nguy hiểm từ mất cân bằng giới tính trong thế kỷ XXI


LÊ ĐỖ HUY (TỔNG HỢP)


Độc giả Việt Nam còn nhớ phe đảng Hứa Gậy gộc trong truyện về cách mạng Trung quốc Rừng thẳm tuyết dày, ấn hành những năm 1960. Từ đầu thiên niên kỷ mới, các nhà quan sát quốc tế ngày càng quan ngại hơn về tình trạng “quang côn” (guang gun - gậy trơ trụi - những người đàn ông không lập được gia đình) ở Trung quốc. Các nghiên cứu về vấn đề này cho rằng đây là đường dẫn tới tội phạm, giặc cướp, bất ổn, ở quốc nội, và gây chiến với các nước láng giềng.


Chuông báo động từ Nga
Dưới đầu đề “Báo chí xôn xao về mất cân bằng giới tính ở Trung quốc”[1]báo của ngành nhân khẩu học ở Nga năm 2005 giới thiệu một tổng quan về tình trạng này ở Trung Quốc, với những cảnh báo mà hôm nay nhìn lại, tỏ ra chính xác[2].

Nhiều học giả Nga (và phương Tây) đổ lỗi cho quốc sách “mỗi gia đình chỉ sinh một con” mà chính quyền Trung quốc đã ban hành năm 1979 là nguyên nhân gây ra tình trạng này. Các biện pháp thực hiện chính sách này khá cứng rắn: nếu vẫn sinh con thứ hai, gia đình sẽ bị phạt nặng. Bắc Kinh dự kiến rằng tới năm 2000, dân số Trung quốc sẽ chỉ lên tới 1,2 tỉ người. (Tuy nhiên, vào khoảng giao thừa thiên nhiên kỷ mới, dân Đại lục đã lên tới 1,3 tỷ nhân khẩu).

Trước đó, 2002, Hãng thông tấn Lenta của Nga đã cảnh báo rằng, tình trạng thiếu đàn bà sẽ buộc “chính phủ Trung quốc xung đột vũ trang với các nước khác”, để “giải quyết nạn thừa đàn ông”[3].

Âm thịnh dương suy?

Theo các học giả Trung quốc, điều này dẫn tới thay đổi thang giá trị trong xã hội, trước kia đàn ông chọn vợ cho mình, nay ngược lại, phụ nữ kén chồng. Nhưng dù địa vị xã hội của phụ nữ trưởng thành có tăng lên do phận “mỳ chính cánh” (cách nói của Hà Nội thời bao cấp chỉ sự khan hiếm), cá thể giới tính nữ ở Trung quốc có xu thế bị giết chết khi còn là bào thai có lẽ là cao nhất, vì các gia đình chỉ nhăm sinh ra con trai trong một quá trình dài.

Tạp chí Trung quốc Beijing Luntan năm 1997[4] cho biết, tình trạng thừa đàn ông đã trở thành đường dẫn cho các tội phạm như “cưỡng hôn, bắt cóc cô dâu, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng, mua bán dâm, cưỡng hiếp …”. Mua bán, bắt cóc phụ nữ đã trở thành chuyện thường ngày ở huyện (ở nông thôn) trong khi nạn mãi dâm hoành hành ở các đô thị.

Tỷ lệ phạm tội đã tăng gấp ba lần trong 20 năm tính đến đầu năm 2004, khi số tội phạm nghiêm trọng tiến gần đến con số một triệu (khoảng 923 ngàn) được ghi nhận chỉ trong ba tháng đầu năm 2004. Đa số thủ phạm của các vụ trọng án là những thanh niên độc thân, chưa vợ, và bất mãn về vị thế của mình trong cộng đồng[5].

Học giả phương Tây nghiên cứu thâm hậu

Các nhà Trung quốc học phương Tây đã nghiên cứu vấn đề này khá công phu. Năm 2004, NXB MIT Press xuất bản cuốn sách Nạn Guang gun: nguy cơ từ châu Á (‘Bare Branches’ and Danger in Asia (2004)[6] của Valerie Hudson và Andrea den Boer. Sách được giải Otis Dudley Duncan Awardcủa Hiệp hội Xã hội học Hoa Kỳ (ASA).

Trong từ điển, Guang gun là trai (đàn ông) chưa vợ, độc thân, cô đơn, ế vợ. Gun (âm Hán Việt: côn) là cây gậy dùng để đánh nhau, guang (quang) ở đây là trần trụi. Người bản ngữ Anh dịch thành Bare Branches, cành không lá, không đâm chồi nảy lộc, không hoa. Guang gun hay bare Branches hôm nay trở thành một thuật ngữ quốc tế chỉ tình trạng thừa đàn ông không đính hôn (unattached males)ở Trung quốc đang ngày một gây lo âu cho an ninh toàn cầu[7].

Nhìn chung, chuyện gì sẽ xảy ra với một xã hội có quá nhiều đàn ông? Hudson và Boer biện luận rằng, về phương diện lịch sử, một tỷ lệ chênh lệch quá cao giữa đàn ông và đàn bà sẽ thành cò súng làm nổ bùng bạo lực cả trong nước lẫn quốc tế. Phần lớn tội phạm có yếu tố bạo lực là do nam thanh niên trẻ không được ràng buộc một cách ổn định về địa vị xã hội gây ra. Dù đây không phải là một quan hệ nhân - quả trực tiếp, nhưng xưa nay, sự dư thừa đàn ông thường có vai trò quyết định trong cách hành xử thiên vũ lực thường thấy trong cộng đồng. Các chính quyền thường xử lý tình trạng này bằng cách động viên số nam giới dư thừa vào các chiến dịch quân sự và các đại công trình có độ an toàn lao động thấp. Các nước mất cân bằng giới tính thường là những nước thực hiện chế độ chính trị độc tài.

Sách Nạn Guang gun: nguy cơ từ châu Á phản ánh nỗi khổ, sự bế tắc của những Guang gun - tiếng Trung quốc chỉ những chàng trai nghèo không lập được gia đình. Nạn Guang gun có xuất phát điểm từ một truyền thống phân biệt đối xử do giới tính (genderism) - một thực tại đã tước đoạt quyền sống của vô vàn bé gái ở Trung quốc, và cả ở một sốcác quốc gia châu Á khác.

Các tác giả cho rằng nạn Guang gun đe doạ ổn định khu vực và an ninh thế giới trong thế kỷ 21. Sách của Hudson và Boer được xem là một công trình khoa học công phu, nghiêm túc, được sách báo về an ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương trích dẫn thường xuyên.

Các tác giả phương Tây khác cho rằng vẫn khá phổ biến tình trạng các em gái bị mất hy vọng được sống[8] trước khi chào đời (phá thai sau khi nhận biết được giới tính), hoặc thậm chí bị sát hại sau khi lọt lòng[9].

Trận hồng thuỷ Guang gun

Để so sánh, trong bài “Quá thừa đàn ông, thiếu đàn bà” trên báo Times[10], cho biết sách báo cũng đánh giá đội ngũ Guang gun ở châu Á là khoảng 110 triệu, ở thời điểm giao thời giữa hai thiên niên kỷ.





Mất cân bằng giới tính ở Trung Quốc năm 2000. Các vùng có màu đỏ đậm có tỷ lệ sinh đẻ là từ 130 đến trên 150 em trai sơ sinh trên 100 em gái.

Trong bài “Thừa đàn ông - thiếu hoà bình” tác giả J. Power dẫn Thống kê dân số Trung Quốcnăm 2009, cho hay đang có một sự thiếu cân bằng rất nghiêm trọng về tỷ lệ sinh đẻ: 117 bé trai so với 100 bé gái. Ở tỉnh Hải Nam tỷ lệ này là 135/100. Hiện nay, có tới 97% người chưa lập gia đình trong độ tuổi từ 28 – 49 là đàn ông[11].

Các học giả cho hay các khu vực có màu đỏ rất sậm (tỉ lệ sinh đẻ là trên 150 bé trai/100 bé gái), đỏ sậm (tỷ lệ này là 140 - 150/100), đỏ (130 – 140), cũng như bức trang toàn cảnh về lệch cân bằng giới tính (skewed sex ratio) ở Trung Quốc vẫn ngày một xấu đi.

Các bài viết đều cho rằng, tựa như trong lịch sử, các băng nhóm đi ăn cướp do thiếu đàn bà (womanless bandits) vẫn đang giăng một màn đêm u ám trên đất nước Trung Hoa hôm nay. Các cách giải quyết của Bắc Kinh vẫn khá “quẩn quanh”, cho những Guang gun này phục vụ trong các lực lượng cảnh sát để trị những Guang gun khác, hoặc đưa đi các vùng xa Bắc Kinh, Thượng Hải… để khỏi gây mất an ninh cho các đô thị; hoặc ngược lại đưa đi làm công một cách đại trà ở các nước khác, trong một quá trình về thực chất là di dân. Ngày càng có quan ngại về bất ổn do hàng vạn đàn ông “không gia đình” từ Trung quốc trôi dạt khắp nơi.

Nhưng như tác giả Paul Wiseman dự báo trên tờ USA Today[12] ngay từ đầu thế kỷ, là Bắc Kinh vẫn không tìm được lối thoát cho tình trạng thừa đàn ông, sẽ vẫn phải đi vào chốn đoạn trường, là tìm kiếm xung đột vũ trang với các nước láng giềng, dẫn trường hợp Bồ Đào Nha thời Trung Cổ, do thiếu đất đai và thừa “đực rựa”, đã đưa họ đi xâm lược Bắc Phi. Các học giả phương tây chưa thấy kết bằng một câu, rằng các lính Âu - Phi, hẳn là hậu duệ của kẻ xâm lược Bồ và những phụ nữ bị cưỡng đoạt tại các thuộc địa Bắc Phi, đã được đưa sang xâm lược Việt Nam thế kỷ 20. Chúng khét tiếng với tên là bọn lính Tabo…

Paul Wiseman và các tác giả khác đều cho rằng các biện pháp độc đoán buộc phải áp dụng nhằm khắc phục nạn Guang gun làm cho Trung Hoa càng khó tiếp cận quỹ đạo của các thể chế dân chủ[13].



Trận đánh của các Guang gun giữa thế kỷ 19.

Nguồn: http://pl.wikipedia.org/w/index.php?title=Plik:Battle_Nien_Rebellion.jpg&filetimestamp=20100516021053

Nơi Guang gun nổi dậy nay lại đỏ sậm

Nhìn vào bản đồ mất cân bằng giới tính ở Trung Quốc, ta như nghe thấy tiếng vọng của bài giảng thời còn học phổ thông về các cuộc nổi dậy lớn ở Trung Hoa nửa cuối thế kỷ 19. Thời đó có khoảng 25% đàn ông Trung quốc không lấy được vợ[14]. Để so sánh, các số liệu cho hay 10 năm nữa cứ 5 người đàn ông Trung quốc thì một người sẽ không lập được gia đình. Các học giả cho rằng điều này không thể chấp nhận đối với một xã hội thời bình[15].

Tại khu vực có nhiều màu đỏ sậm nằm ở phía tây bán đảo Hoa Đông, như Hồ Bắc,trên Bản đồ mất cân bằng giới tính ở Trung Quốc, vào thời khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc từng đạt tới tỷ lệ khoảng 130 đàn ông trên 100 đàn bà. Các nhà Trung quốc học như Hudson và Boer khẳng định rằng sựlệch cân bằng giới này đã bùng phát cuộc nổi loạn Niệm (Nien) mà báo chí bằng nhiều thứ tiếng về chủ đề Guang gun đều nhắc đến. Kể từ năm 1995, Hồ Bắc đã qua ngưỡng tỷ lệ 130 bé trai/100 bé gái sơ sinh[16]

Trong suốt ba mươi năm từ giữa thế kỷ 19, khoảng 10 vạn Guang gun thuộc Niệm quân đã hoành hành trên một địa bàn rộng quanh tỉnh Hồ Bắc. Dù cuộc nổi dậy này bị dập tắt, sử gia cho rằng nó là một trong những yếu tố căn bản dẫn đến sự sụp đổ của triều đình Mãn Thanh về sau[17].




[1]http://demoscope.ru/weekly/2005/0191/gazeta04.php

[2]http://www.newsland.ru/News/Detail/id/441551/cat/42/

[3]http://www.lenta.ru/world/2002/06/19/china/

[4]http://www.timesonline.co.uk/tol/life_and_style/article448270.ece

[5]http://www.timesonline.co.uk/tol/life_and_style/article448270.ece

[6]http://www.amazon.com/Bare-Branches-Implications-Population-International/dp/0262083256

[7]http://www.timesonline.co.uk/tol/life_and_style/article448270.ece

[8]http://www.nzherald.co.nz/world/news/article.cfm?c_id=2&objectid=10430539.

[9]Sách Thông điệp của người mẹ Trung quốc vô danh (Message from an Unknown Chinese Mother), của Xinran Xue, NXB Chatto & Windus (2010).

[10]http://www.timesonline.co.uk/tol/life_and_style/article448270.ece

[11]http://www.transnational.org/Columns_Power/2009/46.SurplusMen.html

[12]http://www.usatoday.com/news/world/2002/06/19/china-usat.htm

[13]Chẳng hạn: http://www.timesonline.co.uk/tol/life_and_style/article448270.ece

Và một số nguồn tiếng Nga.

[14]http://www.usatoday.com/news/world/2002/06/19/china-usat.htm

[15]http://www.economist.com/node/15636231

[16]http://www.usatoday.com/news/world/2002/06/19/china-usat.htm

[17]http://en.wikipedia.org/wiki/Nien_Rebellion

Luận bàn về những vấn đề minh triết (Góp phần định nghĩa minh triết)


HOÀNG NGỌC HIẾN

Trong tiểu luận “Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây” (1960) của Kim Định (1915-1997) tác giả đề nghị ước lệ phân biệt 3 ý niệm: triết lý, minh triết, triết học. Cho đến nay vẫn lưu hành một thành kiến cho rằng chỉ phương Tây mới có triết lý, phương Đông có tư tưởng, có Đạo học, có minh triết… nhưng không có triết lý. Với một cách ước định riêng thuật ngữ “triết lý”, Kim Định khẳng định: có triết lý phương Tây và có triết lý phương Đông ngay từ thời cổ (cổ đại và trung đại)

Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914-1997)1

- Ngô Thời Sĩ có phân biệt “đạo lý thánh hiền” và “đạo lý đời thường”: “Đem đạo thánh hiền để quở trách thói đời không bằng đem đạo đời thường để cảm hoá lòng người”. Trên đại thể, minh triết là “đạo lý đời thường”. Đạo lý này có tính chất đời thường vì, cũng như tính Phật, nó sẵn có ở mọi người. Nói môt cách khác, ai cũng có thể có minh triết. Triết lý thì khác, triết luận đòi hỏi năng lực tư duy đặc biệt, không phải cứ muốn thì trở thành triết gia. Đời thường còn có nghĩa là kinh nghiệm trong cuộc sống thường nhật. Trí khôn, trí tuệ, trí thức… của minh triết bao giờ cũng gắn với kinh nghiệmsống đời thường, nó vốn nảy sinh từ những kinh nghiệm này. Đây là một đặc tính quan trọng của minh triết. Triết lý thì khác, nó thiên về thuần lý và có xu hướng thoát ra khỏi “tính cục bộ”, “tính cụ thể” của kinh nghiệm.. Đến đây dựa vào những đặc trưng của ý thức minh triết và nhất là tư tưởng hiền minh của Ngô Thời Sĩ, tôi mạnh dạn đưa ra một định nghĩa về minh triết như sau: “Minh triết là tính sáng khôn (có khi được diễn ngôn thoáng gọn) chủ yếu được sống và sống ở bình diện đạo lý đời thường, tuy vậy không xa lạ với đạo lý thánh hiền, thiên về cảm hóa lòng người hơn là quở trách thói đời”. Dùng từ “tính sáng khôn” tôi muốn hiểu minh triết cũng như tính Phật là tính sẵn có trong lòng người, nói như Nhất Hạnh, nó là “hạt giống tốt’ vốn có ở mọi người. Cân nhắc giữa 3 từ: “trí khôn”, “sự khôn ngoan”, “tính sáng khôn”, cuối cùng tôi chọn từ “tính sáng khôn”, “tính sáng” như là một thuộc tính của “minh tâm” và Phật tính là một từ của nhà Phật được nhắc đến nhiều lần trong bài “Cư trần lạc đạo phú” nổi tiếng của Trần Nhân Tông (1258-1308)2. Tôi nhấn mạnh: “chủ yếu được sống và sống” bởi lẽ lẽ sống của nhà hiền triết là “sống” và “sống” minh triết chứ không phải “nói” và “nói” minh triết. Tôi nhấn mạnh thuộc tính “thiên về cảm hóa lòng người…” vì ở trạng thái nhân thế hiện nay, ở xã hội ta cũng như trên toàn thế giới, ý thức con người thiên về “phá” hơn là “xây”, những thiện chí “cảm hóa lòng người” bị “lép vế”, bị lấn át, thậm chí bị áp đảo trước những cơn cuồng nộ quở trách, chửi rủa vô tội vạ “thói đời”. Cảm hứng chủ đạo của minh triết là “xây dựng” bằng “sự cảm hóa lòng người”.

- Trong tiểu luận “Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây” (1960) của Kim Định (1915-1997) tác giả đề nghị ước lệ phân biệt 3 ý niệm: triết lý, minh triết, triết học. Cho đến nay vẫn lưu hành một thành kiến cho rằng chỉ phương Tây mới có triết lý, phương Đông có tư tưởng, có Đạo học, có minh triết… nhưng không có triết lý. Với một cách ước định riêng thuật ngữ “triết lý”, Kim Định khẳng định: có triết lý phương Tây và có triết lý phương Đông ngay từ thời cổ (cổ đại và trung đại):

Tư duy triết lý phương Đông mang những đặc điểm của tư duy minh triết mà những nét tiêu biểu nhất là:

- “lấy cứu cánh con người làm trọng tâm suy nghĩ, lấy sự thực hiện đến rốt ráo cái tính bản nhiên con người làm mục tiêu (tận kỳ tính) [réaliser l’humanité] “(xem tr.3)3

- những lời huấn đức minh triết được trình bày “tuy vắn tắt kiểu châm ngôn nhưng có hiệu lực muôn đời như: Pythagore, Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca v.v.(H.N.H.tô đậm]” (xem tr.2)

- những nhà hiền triết “lo sống cái minh triết hơn là nghĩ đến viết ra sách vở (H.N.H. tô đậm)” (xem tr.2); họ cố gắng thực hiện minh triết “không phải ngoài cõi nhân sinh mà ngay trong đời sống, trong lối cư xử, trong cử chỉ”

- Phương pháp của tư duy minh triết “là thể nghiệm, trực giác, không dùng đến lý luận, phân tích(H.N.H. tô đậm)”, “lý chứng, luận bàn” (xem tr.3), đương nhiên là không xây dựng hệ thống.

Tư duy triết lý phương Tây thiên về kiểu “tư duy triết học” mà những đặc điểm chính được Kim Định xác định như sau:

- “không lấy con người mà lấy thiên nhiên sự vật làm trung tâm suy tư,……. con người chỉ được bàn đến một cách phụ thuộc, hay đúng hơn bằng những phạm trù của sự vật” (xem tr.4)

- “Triết Tây hầu hết là duy niệm, nghĩa là chỉ dùng có ý niệm suông, ngoài mọi tình cảm, ngoại lý (irrationnel) và tiềm thức. Những khoản này mới được chú ý đến từ ít chục năm sau đây (H.N.H. tô đậm)” (xem tr.22)

- “phương pháp: theo lối khoa học phê phán và phân tách, cố tìm ra những ý niệm độc đáo và tích luỹ sự kiện để kết thành những hệ thống mạch lạc chặt chẽ…”

- “mục tiêu lấy tri thức làm cùng đích.”

- trong khi minh triết “được giấu vào trong cử chỉ, thể hiện vào đời sống và trong cả sự im lặng…” thì những hệ thống triết học “kiểu nhà trường” được quăng ra, nằm “chình ình bên cạnh đời sống.”

Vài thế kỷ gần đây do sự tiếp xúc Đông-Tây ngày càng mở rộng và có chiều sâu, sự tương tác giữa triết học phương Tây và minh triết phương Đông ngày càng có hệ quả rõ rệt.

Một mặt, “triết học Tây phương hiện phát động một phong trào di cư vĩ đại: di cư từ những nền móng cũ đến định cư trên những nguyên lý mới” (tìm thấy ở minh triết Đông):

- “nguyên lý biến dịch thay vào ý niệm bản thể im lìm”

- “nguyên lý cơ thể4 thay vào ý niệm cơ khí…”

- “Bớt chú trọng … thiên nhiên để nhấn mạnh đến thân phận con người.”

- Ngoài khái niệm duy lý, có chú ý đến “tình cảm, ngoại lý (irrationel), tiềm thức” (xem tr.7)

Mặt khác, “Đông phương chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Tây phương: (1) về phương diện lý luận trình bày và chú ý đến phần lịch sử hơn, (2) đưa vào một óc phê phán được thức tỉnh và không chấp thuận dễ dàng mọi huấn điều tiền nhân, (3) dùng sự mổ xẻ phân tích dưới nhiều khía cạnh khác nhau để làm sáng tỏ vấn đề” (xem tr.7). Ngày nay, muốn bàn về minh triết Đông, không thể không biết triết học Tây, phải nghiên cứu những phạm trù và lịch sử của nó.

Tiểu luận về “hai nền triết lý Đông-Tây” của Kim Định nêu lên nhiều vấn đề đến nay vẫn có tính thời sự. Tư trào phục hưng minh Triết mới đột khởi ở phương Tây cách đây mươi năm trong khi Kim Định cách đây nửa thế kỷ (bài tiểu luận được viết trong những năm 1956-1961) đã khẳng định con đường đế vương của minh triết trong lịch sử tư tưởng nhân loại thời quá khứ, hiện tại cũng như trong tương lai. Rất tiếc do phạm vi của chủ đề, trong bài này chúng tôi chỉ có thể nêu lên phần nào còn sơ sài vài ba vấn đề.

* * *

Trong lịch sử tư tưởng phương Tây, ngay từ đầu nguồn của triết học, triết lý đã được đặt trong tương quan với minh triết5. Minh triết là bất cập với con người, chỉ Thượng đế mới có minh triết (sophia). Triết gia chỉ dám nghĩ đến sự vươn tới minh triết với tư cách là người quí mến minh triết, cũng có thể đây là một cách bày tỏ thái độ khiêm nhường, khỏi bị nghi oan là báng bổ, dám sánh ngang với Thượng đế. Như vậy ở đầu nguồn của triết học, minh triết (sophia) là trên-triết học(philosophia)

Triết học phương Tây phát triển qua các thời đại. Đặc biệt đến thế kỷ XVIII, triết luận trở thành một hoạt động bộ môn quy củ chuyên sâu, đã có thể nói đến sự hình thành của giới triết gia chuyên nghiệp. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, những thành tựu rực rỡ của triết học cổ điển Đức phát huy thanh thế của triết học. Có sự thay đổi trong tương quan giữaminh triết và triết học. Không ít triết gia phương Tây xem minh triết là người bà con nghèo của triết học. Minh triết bị lép vế, không có sức thuyết phục chứng minh của tri thức khoa học, triết học, cũng không có sự linh diệu thần khải của tín điềutôn giáo. So với tư duy triết học có những bay bổng mê hồn thì những lời bàn của minh triết xem ra tẻ nhạt, ỉu sìu, ngán ngẩm, tủn mủn, không có góc cạnh. “Minh triết - Wittgenstein, một triết gia Anh gốc Áo (1889-1951) viết - là cái gì đó nguội lạnh và do đo lẩn thẩn... Cũng có thể nói như thế này: minh triết chỉ che đậy cuộc sống, làm cho ta không thấy được nó. Minh triết giống như tro xám, nguội lạnh phủ lên than hồng”. Sự phát triển lịch sử làm nổi bật một ưu thế lớn của triết học:triết học có lịch sử, nhiều lịch sử, nhưng chưa bao giờ có lịch sử minh triết (chỉ có lịch sử tư tưởng của một bậc minh triết). Với sự phát triển của triết học phương Tây hiện đại, dưới con mắt của nhiều triết gia phương Tây hiện đại, minh triếttrở thành cái gì đó dưới-triết học. Theo quan niệm của nhà triết học Pháp François Jullien, minh triết không “dưới” (sous-) “triết học”mà là “hạ tầng” (infra-) cuả triết học”.

Từ những năm cuối thế kỷ XX, ở phương Tây, đặc biệt ở Mỹ, có một trào lưu phục hưng minh triết ngày càng rộng lớn, nhằm trả lại cho minh triết địa vị và vai trò xứng đáng của nó trong đời sống tinh thần của nhân loại. Có học giả đánh giá đây là một trào lưu Khai sáng thứ hai. Chỉ cần mở trang Web “Wisdom Page” (Trang Minh triết) là có danh sách hàng trăm tiểu luận và công trình về Minh triết được giới thiệu nghiêm túc, có hệ thống, phân tích cặn kẽ. Đặc biệt từ 2005 đến 2006, trên mạng số bài mục về minh triết tăng 600%, tổng số trang Web có từ wisdom (minh triết) lên đến 17 triệu trang. Tôi đặc biệt chú ý đến mấy sự kiện sau đây:

- Càng ngày càng có nhiều học gỉa lên tiếng thay “kinh tế trí thức” bằng “kinh tế minh triết”, thay “giáo dục trí thức” bằng “giáo dục minh triết”… Kinh tế trí thức đơn thuần không có minh triềt cũng như giáo dục trí thức đơn thuần không có minh triết …đang đưa nhân loại đến bờ vực thẳm.

- Để xây dựng xã hội cần có vốn. Những năm 60 thế kỷ trước, vốn trước hết là tiền mặt. Những năm 70, vốn là trí thức. Những năm 80, có xu hướng đề cao vốn xã hội (tức là ý thức gắn bó với xã hội, với tập thể và cộng đồng). Ngày nay, có nhiều học giả đưa ra yêu cầu đặt vốn minh triết lên trên hết.

- Một công trình đồ sộ có nhan đề Wisdom Bible (Kinh thánh Minh triết) đã được biên soạn, thu thập những viên ngọc “minh triết” của những nền văn minh cổ của nhân loại: Trung Quốc (Đạo đức kinh, Đại học, Trung dung…), Ấn Độ (Kinh Upanishad, Đạo Hin đu, Kinh Phật), Trung Đông (Đạo Do Thái, Đạo Hồi, Kinh Coran), Hy-La (Platon, Epicure, Epictete [chủ nghĩa khắc kỷ], Boece [cổ La Mã]…). Điều đáng chú ý là có những văn bản của những triét gia đích thực cũng được đưa vào bộ Kinh Thánh Minh triết này (có nghĩa là sự phân biệt minh triết và triết học chỉ có tính chất tương đối).

- Đã xuất hiện những trường Đại học Minh Triết (Wisdom University). Riêng bang California có vài ba trường như vậy. Tiêu biểu nhất là Đại học Minh Triết có trụ sở ở San Fransisco. Trường này được thành lập năm 1996, chỉ đào tạo trên đại học (M.A. và Ph.D.). Đối tượng đào tạo của Trường là “những người đã có trình độ nghiệp vụ chín chắn muốn đặt mình vào một văn cảnh sống và học tập rộng lớn hơn”. Trường giúp họ “vượt qua những biên giới của hiểu biết và hành vi ước lệ đặng đi vào một cuộc sống chân chính hơn”, “có một ý thức bao trùm hơn về cái khả thể”, phương châm giáo dục của trường là việc trau dồi học vấn “trong khuôn khổ học vị trên đại học” gắn liền với “đào sâu quá trình trưởng thành của tâm linh và phát triển nhân cách”. Môn học nghiên cứu “trí tuệ bản địa” (indigenous mind) được đặc biệt coi trọng: con đường cứu nguy cho nhân loại hiện nay là “đem những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại hòa vào tri thức, minh triết và những lề lối thực hành lành mạnh về sinh thái của những nhân dân bản địa và truyền thống”.

Định nghĩa Minh triết là gì là một việc rất khó. Một câu nói hóm của một học giả: “Tìm cách định nghĩa minh triết, đó là bằng chứng của sự thiếu minh triết”. Đại học tổng hợp Chicago vừa đưa ra Dự án đề tài Định nghĩa Minh triết với kinh phí trợ cấp 2.000.000$, học giả bất cứ nước nào đều có thể tham gia.

Tôi bằng lòng với việc đưa ra một số ví dụ:

- Thời bom Mỹ, láng giềng với hộ của tôi,có một cháu bé hơn mười tuổi, học lớp 3, một lần đi sơ tán về, cháu nói với tôi: “Bác ạ, mình cứ nói người nhà quê ra Hà nội thì đần, cháu thấy người Hà nội về nhà quê cũng đần, hôm đầu, cháu chịu, không biết làm thế nào để rửa chân, mãi mấy hôm sau cháu biết cách”. Câu nói của cháu làm tôi sửng sốt… Đây là một nhận xét minh triết. Có những công trình học thuật giầy cộp mà không có nổi một nhận xét độc đáo, sâu sắc như của cậu bé. Thường thì càng cao tuổi người ta càng hiền minh. Nhưng không nhất thiết vậy. Đối với sự phát huy minh triết, học vấn không phải là thừa. Nhưng chỉ có trình độ tiểu học vẫn có thể có những suy nghĩ hiền minh. Từ ví dụ này có thể thấy một sự khác biệt giữa triết học và minh triết: một học sinh lớp ba một dòng triết học cũng không hiểu nổi vẫn có thể nói một câu minh triết độc đáo và sâu sắc.

- Tôi có đọc một công trình lý luận tác giả viết những trang rất hay về vấn đề tư hữu. Nhưng vấn đề chỉ sáng bừng lên khi tôi đọc dến câu của Balzac được tác giả, trích dẫn: “Người mà không có gì là kẻ không ra gì”. Câu của Balzac là minh triết. Mác đã viết những trang cứ liệu uyên bác, lập luận đanh thép để đi đến một kết luận quyết liệt: bãi bỏ tư hữu.Giá như Mác có thêm được minh triết của Balzac chắc chắn ông suy nghĩ khác và học thuyết của ông không phải là chủ nghĩa Mác như chúng ta biết.

- Hôm vừa rồi, đến thăm chùa Quang Ân (Hà Đông cũ) tôi thấy môt bức trướng ghi lai 14 lời khuyên của Phật, do Thượng tọa Kim Cương Từ sưu tầm. Câu đầu tiên: “Kẻ thù lớn nhất đời người là chính mình”. Câu cuối cùng: “An ủi lớn nhất đời người là làm bố thí”. 14 câu, câu nào cũng hay. Tôi nghĩ bụng giá như học sinh của chúng ta ngay trên ghế nhà trường đã được học những câu này, những ý nghĩ minh triết giản đơn, không bao giờ cũ.

- “Người là muối của đất. Nhưng nếu như muối mất vị mặn, làm sao nó có thể mặn trở lại? Chẳng còn cách nào khác là đem vứt đi, để rồi người ta dẫm đạp lên…”. Không thể nào quên được câu nói đặm đà minh triết này của thánh Matthew.

- Troy Dunn có đưa ra một năng lực của minh triết: “năng lực có những lựa chọn đúng và đưa ra những quyết định tối ưu trong khi chưa có thông tin đây đủ”. Nhận xét này giúp chúng ta nhận ra những người minh triết thường gặp trong cuộc sống.

- Trí, nhân, dũng, bộ ba phẩm gíá này hết sức quen thuộc với chúng ta, có thể xem đây là lý tưởng của minh triết. Trong lý tưởng này, trí gắn với nhân là tuyệt đẹp nhưng không có dũng thì chỉ làm cảnh thôi. Hành động ít nhiều đòi hỏi lòng dũng cảm. Mà không hành động là không có gì. Lòng dũng cảm có khi còn quan trọng hơn sự hoàn thiện trí và nhân.Trí gắn với nhân tức là gắn với những giá trị đạo đức, tinh thần. Đây là một đặc tính hết sức quan trọng của minh triết. “Kinh tế trí thức” rất hấp dẫn nhưng nguy hiểm, vì trí thức và lý thuyết một khi “lộng hành” thì sẽ gặt phăng các giá trị tinh thần, đạo đức. Do đó mới có sự đề xuất “kinh tế minh triết”. “Giáo dục trí thức” cũng rất hầp dẫn nhưng nguy hiểm. Xu thế càng ngày càng có tính chất áp đảo của giáo dục toàn thế giới là sự truyền đạt tri thức và kỹ năng hầu như trở thành mục tiêu duy nhất của giáo dục, làm lu mờ mục tiêu giáo dục những giá trị chi phối người sinh viên sử dụng những trí thức và kỹ năng đó như thế nào và làm gì. Xu thế này cũng là một nguy cơ đáng lo ngại đối với nền giáo dục Việt Nam. Hiện nay hầu như không có triển vọng nào ngăn ngừa xu thế này. Trên thế giới tiếng nói của những học giả đòi hỏi cải tạo một cách cơ bản nền giáo dục hiện nay thành nền “giáo dục minh triết” còn hết sức yếu ớt. Không mấy ai quan tâm đến nguyên lý giáo dục của Gandhi được đề ra từ đầu thế kỷ trước: “Giáo dục cơ sở phải lấy minh triết và lòng từ thiện làm nền tảng.”

Những biểu hiện của minh triết có tính chất tổng thể: vừa là chân, là mỹ, là thiện; vừa là tri thức, là kinh nghiệm; vừa là trí tuệ, là tâm hồn, là ý chí; vừa là vốn sống, lối sống, phương pháp tư duy…Chuẩn bị cho một định nghĩa thấu đáo và đầy đủ hơn về minh triết, tôi thử đưa ra mấy nét đặc biệt của minh triết như là nhận thức và lối sống:

- Minh triết gắn với nghiệm sinh.

- Minh triết quan tâm đến sự cân bằng, hài hoà

- Minh triết thể hiện trong lối sống.

Minh triết gắn với nghiệm sinh (le vécu). Jerry Ortiz y Pino đã nêu đặc điểm này thành một yêu cầu tất yếu:“ Minh triết không phải là cái gì đó bẩm sinh. Thông minh là bẩm sinh. Linh lợi là bẩm sinh. Năng động cũng vậy. Nhưng minh triết thì không. Nó chỉ đến từ sự sống, từ sự phạm sai lầm − hoặc giả từ sự nghe những người khác đã phạm sai lầm và học hỏi được ở họ…”. Yêu cầu này được tuyệt đối hoá trong một câu kinh Phật nổi tiếng: “Chớ có tin vào đức tin của những truyền thống, dù cho chúng đã được vinh danh lâu đời nhiều thế hệ và ở nhiều nơi. Chớ có tin vào một điều nào chỉ vì có nhiều người nói đến nó. Chớ có tin vào đức tin của những bậc hiền minh trong quá khứ. Chớ có tin vào những gì mà anh tưởng tượng rằng Thượng đế truyền gợi cho anh. Không tin gì hết nếu như chỉ có uy tín của những bậc thầy của anh hoặc của những nhà sư của anh. Sau khi xem xét hãy tin vào những gì chính anh đã thể nghiệm hoặc nhìn nhận là hợp lẽ, những gì phù hợp với phúc lợi của anh và của những người khác” (Siddârtha, Kâlâma sutta).

Minh triết là “trí tuệ được nhào nặn bởi kinh nghiệm”.

“Những người tốt sở dĩ tốt vì họ đã đến với minh triết thông qua thất bại”

“Cuộc sống là người khuyên bảo dích thực duy nhất của chúng ta; minh triết chưa được lọc qua kinh nghiệm riêng tư thì chưa trở thành một phần trong cốt cách đạo đức…”

Nhìn chung minh triết thuận cho sự tích hợp với nghiệm sinh hơn triết học. Chủ nghĩa Freud, chủ nghĩa hiện sinh Pháp do còn gắn với nghiệm sinh nên đã có thời trở nên hết sức phổ cập. Nhưng trên đại thể, do cách tiến hành của tư duy triết học thiên về thuần lý nên triết lý dễ tách rời nghiệm sinh. Học giả Alan Nordstrom nói đến tình trạng triết học hiện thời không tích hợp với nghiệm sinh nữa, đó là nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng trầm trọng của triết học hiện nay, thậm chí ông còn nói đến “sự cáo chung của triết học”! Cũng từ tình trạng này ông giải thích xu hướng trở về với Cơ sở của Minh triết. Mong rằng triết học chưa cáo chung và sự phục hưng của Minh triết tạo ra quan hệ bổ sung giữa minh triết trong bản chất gắn với nghiệm sinh và triết học do quán tính tư duy thuần lý dễ xa rời nghiệm sinh.

Nhìn chung, minh triết là một kho báu những kinh nghiệm đối nhân xử thế, “đắc nhân tâm”… Tuy nhiên, nghiên cứu minh triết không thể dừng lại ở sự tổng kiểm kê những kinh nghiệm này. Từ sự phân tích, nghiền ngẫm những kinh nghiêm này, cần đề ra những ý niệm, khái niệm của minh triết. François Jullien đã từng đề nghị xem ý niệm “mặc hóa” (“biến hóa lặng lẽ”, từ của Lão tử) như một ý niệm đặc thù của minh triết Trung Hoa.

Bàn về cách tư duy của minh triết nhiều học giả nói đến nhu cầu cân bằng. Robert Sternberg nói đến nhu cầu cân bằng giữa những lợi ích trong bản thân một cá nhân, giữa cá nhân này và cá nhân kia, giữa cá nhân và tập thể, cộng đồng; giữa cộng đồng này và cộng đồng kia…“giữa sự thích nghi với môi trường và sự cải tạo môi trường, sự lựa chọn những môi trường mới …” Joseph W. Meeker nói đến nhu cầu đồng bộ: “có ý thức về chỉnh thể nhưng không quên những cái cụ thể, những cái đặc biệt; “bán cầu phải” thống nhất với “bán cầu trái” cũng như tư duy lô-gích thống nhất với tư duy thơ, ý thức về mình không lủng củng với ý thức về những người khác…”. Từ nhu cầu cân bằng tự nhiên có nhu cầu hài hoà: cá nhân hài hoà với xã hội, với thế giới… Đương nhiên không thể quên sự hài hoà với bản thân mình mà biểu hiển quan trọng nhất là hài hòa giữa lý và tình, hài hoà giữa trí óc (mind) và tâm hồn (soul), cùng một gốc nhưng là hai phương diện rất khác nhau: “trí óc thiên về tìm tòi chân lý, hình thức,sự sáng sủa, sự hợp lý, hình mẫu,quy luật… Còn tâm hồn thiên về tìm tòi cái đẹp, sự cân bằng, niềm vui, hạnh phúc, mê ly, hoà bình,sự thương cảm … Trí óc khẳng định chân lý bất chấp nó đẹp hay xấu; tâm hồn cứ thấy xấu là giãy nảy, thiên về cái đẹp hơn chân lý. Trí óc khẳng định và chối bỏ;tâm hồn yêu và ghét…” (Glenn Shipley). Đặc biệt thời gian gần đây, xuất phát từ nhận định hết sức tỉnh táo “có khoảng trống đạo đức” trong đời sống chính trị, những nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung quốc nêu cao chữ “hòa”. Hòa trước hết là sự hòa hợp giữa “đức trị” (hoặc “nhân trị”) và pháp trị, sự hài hòa giữa tính chính đáng đạo đức và thực tiễn chính trị. Nhằm duy trì hoặc lập lại cân bằng, hài hoà minh triết không thể không quan tâm đến cái Chỉnh thể, cái mà Lão tử gọi là Nhất (Một) hoặc Cao Xuân Huy gọi là Toàn (quan điểm chủ toàn). Thế giới hiện đại mải mê với sự phân tích, sự duy lý, sự thực dụng, có cơ mất hút cái toàn. Đồng thời trong mọi lĩnh vực, mọi bình diện, cân bằng bị phá vỡ, nghiêm trọng nhất là sự mất cân bằng giữa nhu cầu tiêu dùng của con người tăng lên với một cấp số nhân khủng khiếp và sự bất lực của con người quản lý việc khai thác hành tinh quả đất đang bị tàn phá một cách man rợ và chúng ta đều biết hiểm hoạ: khí hậu quả đất thay đổi.Phải chăng sự thức tỉnh của minh triết với nhu cầu cân bằng, hài hoà có liên quan đến sự mất cân bằng tận thế đương đe doạ sự sống còn của chúng ta trên hành tinh này? Mặt khác, sự thức tỉnh của minh triết đòi hỏi sự tỉnh táo nhìn thẳng vào những mâu thuẫn của cuộc sống, và nhu cầu cân bằng hài hòa được đặt ra trong quá trình tích cực giải quyết mâu thuẫn. Với cái thói né tránh mâu thuẫn, chữ “hòa” của phương Đông không khéo trở thành dễ dãi và dớ dẩn, chỉ tạo ra những ảo tưởng về cân bằng, hài hòa, nhiều khi chữ “hòa” được đưa ra cốt để che đậy sự lười biếng của tư duy ngại mâu thuẫn, không có tinh thần tích cực giải quyết mâu thuẫn.

Aristote có phân biệt “minh triết lý thuyết” và “minh triết thực tiễn”. Minh triết thực tiễn thể hiện ở chỗ biết “suy tính những gì là tốt, là thiết thực… cho mình để có được một cuộc sống tốt, nói chung” (ở đây cần hiểu “cuộc sống tốt” một cách toàn diện: cả về vật chất và tinh thần, không chỉ có tư duy, ứng xử tốt mà ăn, ở, mặc cũng “tốt”, không những tốt trong việc công mà tốt trong cuộc sống riêng, với gia đình, bạn bè và… với cả bản thân mình). “Cuộc sống tốt” được hiểu một cách toàn diện như vậy, thì cái đầu “minh triết” của Aristote quả là vĩ đại! Chỉ có “minh triết lý thuyết” thì người minh triết dễ biến thành một kẻ hão huyền, gàn dở, ba hoa, nhảm nhí. Trong tiếng Việt có một từ hết sức đích đáng để diễn đạt ý niệm “cuôc sống tốt” của Aristote, đó là từ “hẳn hoi”. Với từ này chúng ta có thể tóm gọn “minh triết” trong một câu:

“Minh triết là biết làm thế nào sống hẳn hoi”

“Hẳn hoi” không phải là một tiêu chuẩn quá cao: không phải thật giỏi mới hẳn hoi, không phải thật đàng hoàng, thật dũng cảm, thật “đạo cao, đức trọng” mới hẳn hoi… “Hẳn hoi” là một phẩm chất có thể đặt ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi bình diện: ăn mặc hẳn hoi, nhà cửa hẳn hoi, lời lẽ hẳn hoi, một người thầy hẳn hoi, một người cha hẳn hoi, một người lãnh đạo hẳn hoi, học vấn hẳn hoi, làm ă n hẳn hoi… Xã hội nào cũng có kỷ cương và lễ nghi, người hẳn hoi tiếp nhận tinh thần của kỷ cương và lễ nghi với/do lòng tự trọng chứ không bị lệ thuộc một cách mù quáng vào những quy ước của kỷ cương và lễ nghi. Xã hội nào cũng có tôn ty trật tự, người hẳn hoi không gò mình vào trật tự này nhưng rất có ý thức về lẽ phải của thứ bực. Vài mươi năm trước đây với bộ phim nổi tiếng về người Hà Nội Trần Văn Thuỷ đã làm sống lại phẩm chất “tử tế” trong ý thức đạo đức của xã hội. Tuy nhiên, phẩm chất này dường như vẫn chưa được chính thức công nhận, đạo đức và hành vi được kiểm điếm theo nhiều chuẩn mực trừ chuẩn mực “người tử tế”. Phẩm chất “hẳn hoi” cũng có số phận tương tự. Một hiện tượng quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân loại là những gì không được người ta nhớ đến thì dần dà sẽ biến mất. Xã hội không quan tâm đến “sự tử tế”, “sự hẳn hoi” thì dần dà những ngừơi tử tế, hẳn hoi sẽ biến mất; ngược lại, xã hội còn nhớ đến những phẩm hạnh này, thì những người hẳn hoi, tử tế xuất hiện khắp nơi. Ở xã hội ta, chính họ (những người hẳn hoi, tử tế trong Đảng và ngoài Đảng) là nền tảng đạo đức của xã hội.

Ởnhững mục trên chúng tôi định nghĩa minh triết bằng cách nêu lên những đặc trưng của minh triết, phân biệt nó với triết lý. Sau đây là một định nghĩa phổ thông về minh triết chúng tôi cố gắng trình bầy thật ngắn gọn.

Theo cách hiểu thông thường nhất minh triết là khôn ngoan, nhưng khôn ngoan chưa phải là minh triết, chẳng hạn khôn ngoan để “ăn người” thì chưa phải là minh triết. Minh triết là biết sống khôn ngoan và hẳn hoi, nói một cách khác, sự khôn ngoan của minh triết thường gắn với những giá trị hướng thượng, hướng thiện. Hẳn hoi là một từ rất Việt (chúng tôi chưa tìm được ở những ngôn ngữ khác từ tương ứng). Trong xã hội Việt Nam, ở mọi nơi mọi thời, người hẳn hoi bao giờ cũng được nể trọng. Hẳn hoi có gốc rễ ở những đức tính phổ quát: đó là sự hứơng thiện, sự “liêm chính”, nhin chung sự hẳn hoi của con người không ở ngoài bốn chữ “cần, kiệm, liêm, chính” của cụ Hồ. Sự hẳn hoi có tính phổ quát, tính “liêm chính” ở người hẳn hoi thể hiên ở việc to và việc nhỏ. Bị vu oan là “làm hư hỏng thanh niên”, Socrate bị bức tử. Sắp sửa uống cốc “cần độc” thì Socrate sực nhớ có mua chịu một con gà và ông nhờ một người bạn trả tiền dùm cho ông, đây là một trong những lời trăn trối cuối cùng của ông: Socrate là người hẳn hoi trong viêc nhỏ. Cũng như trong việc lớn: được tin Socrate bị án bức tử, mấy người bạn của ông lập mưu kế cho ông chạy trốn, nhưng nhà hiền triết đã từ chối, lấy cớ bỏ trốn là chống lại pháp luật mà tín niệm công dân của ông là tôn trọng luật pháp bằng mọi giá, Socrate đã coi trọng tư cách công dân hẳn hoi của ông hơn cả tính mạng của ông. Có một sự việc, nhỏ thôi, nhưng qua đó có thể thấy được sự hẳn hoi của Hồ Chí Minh. Hoạ sĩ Dương Bích Liên được cấp trên điều động đến sống với Hồ chủ tịch một thời gian để vẽ chân dung. Hoạ sĩ vẽ rất nhiều ký hoạ về bác Hồ. Một vị lãnh đạo xem những ký hoạ của Dương Bích Liên không hài lòng và quyết định đưa họa sĩ trở về cơ quan chủ quản. Dương Bích Liên ra đi mà Hồ chủ tịch không hay. Đến lúc biết việc ra đi đột ngột của người hoạ sĩ, Hồ chủ tịch liền cho người đuổi theo và đưa hoạ sĩ trở về. Bác mời Dương Bích Liên dùng cơm thân mật rồi sau đó hai bác cháu mới chia tay (thuật theo lời của Hào Hải, một bạn vong niên gần gũi với Dương Bích Liên). Sự việc sau đây là một sự kiện lớn. Sau Hiệp định Genève, trong một chuyến Hồ chủ tịch đi thăm Ấn độ, trong một cuộc phỏng vấn, có một phóng viên nước ngoài đặt câu hỏi về Ngô Đình Diệm, Hồ chủ tịch đã trả lời đại ý như sau: Tôi đến đây không phải để nói xấu ông Ngô Đình Diệm, ông là người yêu nước nhưng theo cách của ông ấy… Trong cách trả lời phỏng vấn của Hồ chủ tịch, có sự khôn ngoan, nhưng nổi lên vẫn là sự hẳn hoi của một chính khách lớn.

Ở những phần trên, qua sự đối lập minh triết với triết lý một số đặc điểm của minh triết đã được xác định: không có lịch sử, gắn với nghiệm sinh, quan tâm đến sự cân bằng, hài hoà, thể hiện trong lối sống… Còn có một cách đối lập khác, đối lập minh triết với tri thức.

T.S. Eliot (1888−1965) có lời than vãn:

“…minh triết mất rồi, chỉ còn lại tri thức, minh triết ấy đâu rồi;tri thức cũng mất rồi, chỉ còn lại thông tin, tri thức ấy đâu rồi…”

T. S. Eliot, giải thưởng Nobel năm 1948, than vãn về tình trạng suy thoái của tri thức con người trong thế giới hiện đại (thế kỷ XX): minh triết biến mất, chỉ còn lại tri thức, tệ hại hơn nữa, đến tri thức cũng biến mất, chỉ còn lại thông tin. Minh triết khác tri thức ở chỗ nào? Minh triết cao hơn tri thức. Tri thức chỉ là tri thức. Minh triết vượt siêu tri thưc, gắn vớĩ những giá trị tâm linh và nhân văn bằng cả trí tuệ và tâm hồn. Platon, Epicure, Epictete, Boece… là những triết gia lớn nhưng nhiều trích dẫn trong tác phẩm của họ được đưa vào Kinh Thánh Minh triết, vì những tri thức và tư tưởng của họ thực sự là minh triết, chúng được gắn với những giá trị lớn không chí bằng trí tuệ mà bằng cả tâm hồn.

Minh triết do xu hướng cân bằng, hài hoà gắn với lương tri, gần với sự biết điều. Lương tri giúp những thức giả kịp thời thoát khỏi sự cuốn hút của những mê sảng lý thuyết. Sự biết điều giúp ta biết thế nào là “đủ”, đến đâu thì “dừng lại”. Do những đặc tính này, minh triết là một vị thuốc tốt ngăn ngừa những sự liều lĩnh và điên rồ6. Bản tính của con người là dễ nhầm lẫn và điên rồ. Trong các cuộc cách mạng, bắt đầu từ Cách mạng Pháp 1789, không thiếu gì những sai lầm giống như sự điên rồ ... Một nguyên nhân của những sự điên rồ là bệnh súng sính lý thuyết và tiếp theo là sự riết róng và hăng máu lý thuyết, những “máu” này càng nổi dậy và bốc lên cùng với sự đấu tranh phe phái. Mà như chúng ta biết “lý thuyết nó có thể chịu đựng bất kỳ sự mê sảng nào” (Maiakovxki). Trong hoàn cảnh nước ta nên chú ý đến ý kiến sau đây của Vũ Trọng Phụng: “Thật thế, tôi tin rằng Đại Cồ Việt ta là cái đất cằn cỗi, những lý thuyết và tư tưởng ở đâu đâu, tốt đẹp thế nào mặc lòng, cũng cứ đến đây là thối nát.Tôi không tin dân An nam ta lại có nổi một điều tin ngưỡng nào, một quan niệm chắc chắn gì…”7.Ý kiến của Vũ Trọng Phụng là cực đoan, nhưng không phảỉ không có ít nhiều minh triết trong đó. Nói về những nhược điểm của Đảng, Hồ chủ tịch nhấn mạnh: “…một trong những nhược điểm lớn là trình độ lý luận còn thấp kém”8. Như vậy, có một điều chắc chắn tư duy lý thuyết không phải là chỗ mạnh của chúng ta. Đã thế thì súng sính, riết róng, hăng máu lý thuyết vừa thôi, phải quan tâm đến minh triết nhiều hơn nữa. Càng nhiều minh triết thì càng bớt mê sảng lý thuyết. Không cần nhìn đâu xa, trong các cơ quan của chúng ta, những thủ trưởng thông minh, tài ba, trình độ học vấn, lý thuyết xuất sắc vẫn có thể thất bại: họ có tất cả, chỉ thiếu minh triết, còn nơi nào những quyết định của thủ trưởng được hướng dẫn bởi minh triết, bởi lương tri và sự biết điều thì nơi ấy có sự ăn nên làm ra.

Tuy nhiên, cũng không nên tuyệt đối hoá vai trò của lương tri và sự biết điểu. Minh triết cũng không hẳn là hoàn toàn đối lập với sự “điên rồ”.

“Vẫn có một góc điên rồ trong đầu óc của người minh triết nhất” (Aristote). Bậc hiền dẫu sao cũng là một con người, mà người nào chả có một góc điên rồ trong đầu.

“Kẻ sống không điên rồ đâu có minh triết như y tưởng” Francois De La Rochefoucauld

“Minh triết là điên tiết khi gặp hoàn cảnh đáng điên tiết” Jean Cocteau

“Hãy trộn một chút điên rồ vào minh triết, quên minh triết đi đôi khi lại là hay” Horace

Tôi lấy câu trích dẫn sau cùng để kết luận mục này có bổ sung đôi chút: …quên minh triết đi, quên triết lý đi đôi khi lại là hay.

Phẩm giá minh triết ngày càng được những nhà cầm quyền và chính trị gia quan tâm. Thomas Jefferson (1743-1826), người khởi thảo bản Tuyên ngôn độc lập Hoa kỳ, một trong những người có công đầu khai quốc Hợp chủng quốc Mỹ đã trực tiếp đặt ra vấn đề quan hệ giữa minh triết và quyền lực: “Tôi hy vọng rằng minh triết của chúng ta sẽ lớn lên cùng với quyền lực của chúng ta và dạy cho chúng ta rằng chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn” (thư viết ngày 12/6/1815).

Trong hơn bốn chục năm cầm quyền và hoạt đông chính trị, Jefferson luôn đảm nhiệm những chức vụ quan trọng: đại biểu quốc hội, thống đốc tiểu bang, đại sứ ở Pháp, quốc vụ khanh, phó tổng thống, 2 nhiệm kỳ tổng thống Hoa Kỳ… Và điều thứ nhất, điều duy nhất mà Jefferson đòi hỏi ở nhà cầm quyền, ở chính trị gia, đó là minh triết, ở họ minh triết phải tương xứng với quyền lực: “Tôi hy vọng rằng minh triết của chúng ta sẽ lớn lên cùng với quyền lực của chúng ta”… Nhà chính trị lỗi lạc Jefferson đồng thời cũng là một nhà văn hóa xuất sắc: ông là nhà triết học, nhà giáo dục, nhà khoa học, là kiến trúc sư.là nhạc sĩ, văn sĩ… Jefferson tự xem mình là một nhà văn hóa, ông mong muốn hậu thế nhớ đến ông như làtác giả bảnTuyên ngôn độc lập Mỹ, tác giả pho tượng Tự do tôn giáo ở Virginia, Người cha của Đại học tổng hợp Virginia. Và cuối cùng thì nhà văn hóa Jefferson đặt minh triết lên trên hết, trên cả triết học, khoa học, tôn giáo và những hệ tư tưởng khác…

Suy nghĩ về điều mà minh triết dạy cho Jefferson: “càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực …càng lớn” không thể không liên tưởng đến minh triết Vô vi vủa Lão tử. Trong Đạo đức kinh vô vi đối lập với hữu vi dễ bị hiểu lầm như là sự đối lập giữa không (làm) và có (làm), thực ra đây là sự đối lập giữa hai cách làm. Hữu vi là làm theo cách can thiệp chủ quan(cậy quyền lực một cách vũ đóan, thô bạo), không coi trọng sự phát triển tự thân, tự nội lực của bản thân sự vật, và vô vi là làm theo cách không can thiệp chủ quan, trước sau tôn trọng và nương vào sự tự phát triển của nội giới, nội lực của sự vật.Hiểu như vậy thì “vi vô vi”(th. 63) là làm mà không can thiệp chủ quan, “sự vô sự” (th. 63) là làm mà “không đa sự (phiền hà)”, “không sinh sự”…và câu danh ngôn “vô vi nhi vô bất vi” có thể hiểu là: không làm (theo cách chủ quan, cậy quyền vũ đoán…) thì chẳng có việc gì là không làm”. Trong minh triết Đông Á, cách làm “vô vi” quán xuyến từ việc giáo dục đạo đức đến việc trị dân. Trong quan niệm của Mạnh tử (xem Mạnh tử, II, A,2) muốn bồi dưỡng khí hạo nhiên và đạo đức cho ai đó thì “đừng có hấp tấp, cầu cho mau xong… mà nong sức trưởng thành…”[H.N.H.tô đậm], đừng có làm như người nước Tống kia “lo lắng đám mạ của mình chẳng lớn bèn lấy tay mà nhổm lên từng cọng”. “Không hấp tấp nong sức trưởng thành…” cũng như “nhổ cỏ mọc xen đám mạ” để mạ tự mọc lên, đó chính là vô vi. Trong việc trị dân cũng vậy, Lão tử đặc biệt quan tâm đến nội giới, nội lực ở bản thân người dân.Lời của thánh nhân (minh triết) [xem th.57]: “ngã vô vi nhi dân tự hóa…ngã vô sự nhi dân tự phú…” (…ta không làm [theo cách can thiệp chủ quan, cậy quyền vũ đoán], vậy thế mà dân tự cải hóa…,ta không làm [theo cách đa sự,sinh sự] vậy thế mà dân tự phú túc…).Như vậy “vô vi” không có nghĩa là “không làm”. “Nếu vô vi là không làm gì cả thì Lão tử đã không viết Đạo đức kinh ra làm gì!” (Nguyễn Duy Cần)9 Vô vi là một cách làm biết nương theo cái “tự nhiên” của sự vật, tức là sự phát triển của nội lực sự vật, không nôn nóng cậy quyền lực, để can thiệp một cách chủ quan, vũ đoán. Hiểu như vậy thì minh triết vô vi của Lão tử gần với minh triết của Jefferson nghiệm ra rằng “chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn”.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của chúng ta minh triết “vô vi” sớm được nêu lên. Vua Lê Đại Hành (941-1005) thường mời Thiền sư Pháp Thuận (916-991) vào triều bàn việc chánh trị và ngoại giao và xem sư như là Quốc Sư. Một lần vua Đại Hành hỏi về vận nước, sư Pháp Thuận bèn dâng một bài kệ :

Quốc tộ như đằng lạc,

Nam thiên lý thái bình.

Vô vi, cư điện các,

Xứ xứ tức đao binh.

Dịch thơ

Vận nước như mây quấn

Trời Nam mở thái bình

Vô vi trên điện các

Xứ xứ hết đao binh

(bản dịch thơ trích dẫn từ WikiPhậtgiáo)

Đại ý 2 câu cuối của bài kệ được giảng là: “Nhà Vua ung dung vô vi ngự nơi đền các, mọi chốn đều tắt binh đao”.Có thể triển khai ý 2 câu này như sau: “mọi chốn đều tắt binh đao” có nghĩa là mọi chốn trời Nam đều “mở thái bình”, “thái bình” có nghĩa là không có đấu đá, xâu xé, đâm chém lẫn nhau, ví “dân tự hóa” (bớt tham, sân, si), vì “dân tự phú” (thoát cảnh nghèo đói) …; do đâu mà “mở thái bình”? đến đây có thể láy lại câu của Lão tử, vì vua “vô vi mà dân tự hóa”, vì vua “vô sự mà dân tự phú”.

Không thể khác được nghiên cứu minh triết ở Việt Nam bắt đầu bằng sự tổng kiểm kê và sưu tầm bổ sung những viên ngọc quý của Minh triết hiện đương rải rác khắp nơi. Chỉ có những viên ngọc quý trong ca dao tục ngữ là được sưu tầm tương đối đầy đủ, tuy vậy chưa được nghiên cứu sâu sắc ở “mặt cắt” minh triết, vả chăng vẫn còn sót ca dao tục ngữ của những dân tộc anh em. Còn minh triết của Đạo Phật (trong tâm tưởng những tín hữu phật giáo xưa và nay)? Minh triết của Thiên chúa giáo (trong tâm tưởng những tín hữu công giáo và đạo Tin lành Việt Nam)? Minh triết của đạo Hồi (trong văn hoá và lối sống của người Chăm)? Minh triết của đạo thờ cúng tổ tiên? … Nho giáo đã được nghiên cứu khá sâu nhưng chưa được chắt lọc ở bình diện minh triết. Câu nói hiền minh của nho gia Ngô Thời Sĩ được dẫn ở phần trên rất tiếc là không mấy người Việt biết đến, những người hiện nay đương làm công tác tư tưởng, công tác tuyên giáo không biết đến nó lại càng đáng tiếc! Minh triết của Đạo giáo đã được những học giả nghiên cứu khá sâu nhưng chưa được phổ cập. Một vấn đề nữa rất đáng được quan tâm là: những viên ngọc quý trong văn hoá và lối sống các dân tộc anh em hầu như chưa được khai thác và quảng bá. Cuối cùng có một vốn minh triết nữa rất quan trọng: đó là những suy nghĩ, những bài học minh triết được rút ra từ hoạt động của những người hoạt đông chính trị và xã hội, những người làm công tác lãnh đạo, quản lý, những doanh nhân, những người hoạt dộng tôn giáo -- họ là những người trực tiếp và thường xuyên vật lộn với thực tiễn Việt Nam Nói đến minh triết của những người làm lãnh đao quản lý, không thể quên được minh triết của những người vẫn dược gọi là “quần chúng”. Họ là những người bình thường trong sĩ,nông, công, thương và từ những suy ngẫm và kinh nghiệm làm ăn, nghề nghiệp và kinh doanh của họ có thể rút ra những viên ngọc minh triết quý.

Tóm lại, minh triết văn hóa Việt có nhiều nguồn. Trong thời đại Hồ Chí Minh, minh triết Hồ Chí Minh với sức thấm sâu, lan tỏa rộng trong lòng dân xứng đáng là một nguồn trung tâm trong đa nguồn minh triết Việt.

Làm tốt công việc sưu tầm và tổng kiểm kê, lần đầu tiên chúng ta có thể hình dung được đầy đặn vốn minh triết phong phú và đa dạng tàng trữ trong trí tuệ và tâm đức Việt Nam. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, lịch sử văn hoá Việt Nam có thêm một căn cứ tham chiếu. Đây là đóng góp về mặt học thuật.

Công việc sưu tầm và tổng kiểm kê còn có tác dụng về mặt thực tiễn. Đứng trước cái vốn tinh thần to lớn này, như soi vào một tấm gương lớn và sáng, người theo đạo Phật cũng như người đạo Thiên chúa, người Ê đê Tây nguyên cũng như người Tày Đông Bắc, người Chăm cũng như người Thái … họ đều thấy minh triết của mình trong đó, sự góp phần của họ vào cái vốn trí tuệ và đạo đức chung của toàn dân tộc. Vốn này là một cơ sở tinh thần quan trọng để thực hiện sự đoàn két tôn giáo, sự đoàn kết các dân tộc anh em, sự đoàn kết toàn dân sĩ, nông, công, thương trong và ngoài nước. Ngoài ra, vốn minh triết to lớn này mới có đủ sức mạnh để gây ở chúng ta ý thức về minh triết. Ý thức này khiến chúng ta nhậy cảm hơn với minh triết ở cuộc sống xung quanh ta và bản thân ta. Một tác động quan trọng nâng cao sự tự giác trong đời sống tinh th ần.

Minh triết trong vốn trí tuệ và tâm linh của chúng ta không tách rời minh triết nhân loại bao gồm minh triết của nhiều nền văn minh, nhiều khu vực văn hóa, tôn giáo…. Ngay trong bản thân minh triết lưu hành ở Việt Nam có thể tìm thấy nhiều vết tích vang vọng của minh triết những nền văn hoá, văn minh khác. Người Việt không thể không tìm hiểu minh triết của những nền văn hoá khác. Công việc này giúp chúng ta thấy được rõ hơn, tinh tế hơn bản sắc riêng của mình. Đồng thời thấy được tính phổ quát của minh triết, thấy dược cái chung giữa ta và người, Cũng có thể xem đây là một sự chuẩn bị tinh thần đi vào con đường hội nhập.



CHÚ THÍCH

Kim Định, giáo sư, triết gia


“Yêu tính sáng yêu hơn châu báu” (Hội thứ nhất, Cư trần lạc đạo phú)
“Gìn tính sáng tính mới hầu an” (Hội thứ hai)
“Di Đà là tính sáng soi” (Hội thứ hai)
“Gìn tính sáng, chớ lạc tà đạo” (Hội thứ ba)

Số trang của bài “Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây” PDF trên mạng

Tức là “nguyên lý hữu cơ”

Khoảng hai chục năm nay, trên sách báo nước ta, từ “ minh triết” được dùng để dịch từ tiếng Pháp “sagesse”, từ tiếng Anh “wisdom” và từ tiếng Nga “mudrost”,từ này đã được dùng sớm hơn rất nhiều ở miền Nam trước đây (khoảng cuối những năm 50 thế kỷ trước)


Ý này được rút ra từ hai danh ngôn:
- “Quà tặng minh triết được ban như là một vị thuốc trị sự điên rồ” St. Gregory I
- “Đặc tính của minh triết là không làm những việc liều lĩnh” David Thoreau
Vũ Trọng Phụng. Truyện ngắn. N.x.b. Hội nhà văn. 1996. tr. 237-238
Xem Hồ Chí Minh. Toàn tập. ST,1987, tập7.tr.782
Xem Lão tử, Đạo đức kinh, Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú. N.x.b. Văn học,1992, tr.21

Khai trí – Sự nghiệp trăm năm cần tiếp nối



Học sinh Trường tiểu học Lê Văn Tám, TPHCM. Ảnh: ĐỨC TÀI

Làm sao để phát triển? Làm sao để vươn lên? Câu trả lời không là gì khác ngoài những điều một nhóm trí thức tinh hoa đã chỉ ra từ hơn một trăm năm về trước: Trước hết cần khai dân trí.


Nỗi buồn trăm năm


Chí sĩ Phan Chu Trinh là một trong những người khởi xướng phong trào Duy Tân ở Việt Nam. Ông nổi tiếng với khẩu hiệu: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.

Chuyện kể rằng hơn 100 năm trước, khi về nước hoạt động, rất nhiều người ngưỡng mộ biết tin đã vào ra thăm hỏi không ngừng. Nhưng ai đến thăm ông cũng đều phải trải qua một “thủ tục” lạ đời như sau (*):

- Anh đã đọc Dân ước của Lư Thoa chưa?

- Anh đã đọc Vạn pháp tinh lý của Mạnh Đức Tư Cưu chưa?

Dân ước của Lư Thoa chính là cuốn Du contrat social ou Principes du droit politique, xuất bản năm 1762 (Bàn về khế ước xã hội hay các nguyên lý về quyền chính trị) của Rousseau, còn Vạn pháp tinh lý chính là cuốn De l'esprit des lois, xuất bản năm 1748 (Bàn về tinh thần pháp luật) của Montesquieu.

Đây là những cuốn sách kinh điển của xã hội văn minh phương Tây. Kể từ ngày xuất bản lần đầu, tính đến nay đã được hơn 250 năm. Nhưng thử hỏi trong số chúng ta đây, đã mấy người đọc cả hai cuốn này? Vậy mà hơn 100 năm về trước, Phan Chu Trinh đã nhắc những người đương thời về việc đọc các sách này.

Nói như vậy để thấy, sự nghiệp khai dân trí, ngay từ khi được đôn thúc ở Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20, trên thực tế là đã lạc hậu so với thế giới hàng trăm năm. Nhưng đáng buồn thay, sau hơn 100 năm, đến nay tình hình cũng không sáng sủa hơn là bao nhiêu. Câu chuyện về khai dân trí vẫn là một niềm đau đáu của bất cứ ai quan tâm đến sự phát triển của đất nước.

Ngày nay, nếu cụ Phan Chu Trinh còn sống, và nếu có ai đến thăm cụ, thì ắt hẳn cụ sẽ lặp lại “thủ tục” xưa, tất nhiên là theo ngôn ngữ mới, nhưng xem ra cũng vẫn còn lạ đời không kém:

- Anh đã đọc Khế ước xã hội của Rousseau chưa?

- Anh đã đọc Tinh thần pháp luật của Montesquieu chưa?

Rất có thể phần đông chúng ta sẽ ngậm ngùi lắc đầu trước thủ tục kiểm tra của cụ.

Dù những cuốn này đã được dịch ra tiếng Việt, dù máy tính nối mạng internet, nếu muốn đọc thì chỉ cần ra hiệu sách hoặc lên mạng làm vài động tác bấm chuột là xong. Chỉ cần bấm một ngón tay là sách đã bày ra trước mắt. Nhưng chúng ta vẫn không đọc.

Chúng ta vẫn lắc đầu. Cái lắc đầu kéo dài suốt trăm năm.


Một chuyện không thay đổi


Hơn một trăm năm qua, kho tàng tri thức thế giới đã mở rộng biết nhường nào. Chỉ xét riêng trong địa hạt Vật lý học chẳng hạn, hai lý thuyết nền tảng nhất là Cơ học lượng tử và Lý thuyết tương đối cũng đều ra đời trong khoảng thời gian này. Đây là hai lý thuyết có ảnh hưởng quyết định đến bộ mặt của thế giới văn minh. Nếu không có chúng, tất cả những phương tiện mà chúng ta sử dụng, như tivi, điện thoại di động, máy tính, internet…, và ngay cả bài viết này, sẽ không tồn tại. Cũng nhờ hai lý thuyết này, cùng với sự hỗ trợ của kỹ nghệ, con người đã đặt chân lên đến mặt trăng, và vươn xa hơn nữa ra ngoài vũ trụ. Những chuyện này nếu xét ở thời của cụ Phan Chu Trinh thì không khác gì chuyện cổ tích, thậm chí còn hơn cổ tích.
Sang các lĩnh vực khác như nghệ thuật chẳng hạn, thì trong 100 năm qua, thế giới cũng chứng kiến sự bùng lên của biết bao phương tiện và trường phái nghệ thuật mới. Thậm chí, có những sản phẩm nghệ thuật mà ngay cả trí tưởng tượng phong phú nhất của 100 năm trước cũng không thể hình dung ra được.

Cục diện thế giới cũng bao lần thay đổi. Qua hai cuộc đại bể dâu, hợp tan tan hợp, vật đổi sao dời. Các quyền lực lên rồi xuống. Các trật tự thế giới mới được hình thành. Những kẻ khổng lồ bừng tỉnh dưới sự thúc ép của kỷ nguyên thông tin. Cả thế giới đã trở thành một ngôi làng nhỏ, đến mức nếu muốn thì người ở đầu này có thể nói chuyện và cười nói với người ở đầu kia ngay tắp lự. Những điều này, nếu sống lại, chắc cụ Phan cũng không thể nào hình dung được.

Nhưng kỳ lạ thay, bất chấp mọi sự thay đổi to lớn như vậy, có một thứ dường như vẫn không thay đổi. Đó chính là những câu hỏi của cụ Phan: Anh đã đọc Dân ước chưa? Anh đã đọc Vạn pháp tinh lý chưa? Và tất nhiên phía sau nó là tâm nguyện khai dân trí để phát triển đất nước, vẫn bức bối và thời sự như hơn 100 năm về trước.

Và đáng buồn hơn, khi bàn về câu chuyện này, chúng ta vẫn chưa biết làm sao cho sao hiệu quả!


Vì sao cần tiếp nối?

Trăm năm với bao biến động. Đất nước Việt Nam đã trở mình. Nhưng so ra trường quốc tế thì vị thế vẫn còn kém cỏi nhiều so với bè bạn năm châu. Chỉ mới đây thôi, chúng ta mới vượt được mốc 1000 USD/người/năm, thoát ra khỏi nhóm các nước kém phát triển. Chưa kịp vui thì cái bẫy thu nhập trung bình đã bày ra trước mắt. Kinh tế khủng hoảng triền miên, cơ cấu bất hợp lý, nợ nước ngoài đã đến mức trở thành nguy cơ lại càng làm cho bức tranh thêm ảm đạm. Chưa kể, ngoài biển Đông sóng dậy không ngừng. Kể từ ngày thống nhất, nguy cơ lệ thuộc ngoại bang về kinh tế, văn hóa, chính trị… chưa bao giờ lớn như bây giờ. Thế giới đi quá nhanh, mà ta thì vẫn mãi đì đẹt ở nhóm chót.

Nếu ở thế kỷ 19, để gấp đôi lượng tri thức đã có, thế giới chỉ cần 50 năm, tức khoảng một đời người, thì ngày nay, chỉ cần chưa đến 1 năm. Các nhà khoa học còn dự đoán, thời gian gấp đôi tri thức của thế giới sẽ còn rút ngắn nữa, xuống thang đơn vị tính bằng ngày, bằng giờ.

Những nét phác họa này làm cho chúng ta giật mình nhìn lại câu chuyện 100 năm về trước. Câu hỏi làm sao để phát triển, để theo kịp năm châu lại gióng lên cấp bách. Người ta đi quá nhanh, sao mình còn mãi đủng đỉnh rề rà?

Nếu chỉ tính về mặt tri thức, thì tốc độ phát triển đã tăng lên hơn 50 lần. Nhưng chúng ta vẫn gần như giậm chân tại chỗ. Đó chính là lý do vì sao các nghiên cứu cho thấy năng suất lao động của chúng ta thua sút năng suất lao động của các nước phát triển hàng chục lần.

Mà không chỉ thua kém thế giới phát triển, chúng ta thua cả những người hàng xóm láng giềng có cùng hoàn cảnh với chúng ta 100 năm về trước. Theo báo cáo của Tổ chức Năng suất Á Châu (APO) năm 2012, năng suất lao động của người Việt Nam thua kém năng suất lao động của người Nhật, Mỹ và Singapore khoảng 20 lần.

Vẫn sức vóc ấy, vẫn thời gian làm việc ấy, mà một người của họ làm ra của cải vật chất bằng 20 người của ta cộng lại. Khoảng cách này từ đâu ra? Chỉ có thể giải thích từ sự thiếu hụt tri thức trong tổ chức và triển khai sản xuất.


Vậy làm sao để khắc phục? Làm sao để phát triển? Làm sao để vươn lên?

Câu trả lời không là gì khác ngoài những điều một nhóm trí thức tinh hoa đã chỉ ra từ hơn một trăm năm về trước: Trước hết cần khai dân trí.


Cần đưa tri thức thế giới về Việt Nam


Nhìn sang các quốc gia và vùng lãnh thổ Châu Á láng giềng, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore thì thấy rằng, con đường phát triển của họ cũng không nằm ngoài chuyện khai dân trí. Khi tri thức là sức mạnh, dân tộc nào có được nền tảng tri thức mạnh, có nền khoa học kỹ nghệ tân tiến, thì dân tộc đó sẽ vươn lên dẫn đầu. Còn nếu nền tảng tri thức thiếu trước hụt sau, nhặt nhạnh chắp vá những điều người ta đã bỏ đi từ trăm năm về trước, thì chắc chắn sẽ mãi chìm trong bóng tối của vô minh và lạc hậu, không thể nào phát triển được.

Nếu ngày xưa trong nền kinh tế nông nghiệp, dốt chỉ đồng nghĩa với một đời sống tinh thần nghèo nàn, còn việc sản xuất canh nông có thể trông chờ vào kinh nghiệm từ đời này qua đời khác, thì ngày nay, dốt đồng nghĩa với nghèo, với hèn, với lạc hậu chậm tiến, với phụ thuộc ngoại bang và đánh mất chủ quyền. Lý do thật đơn giản: Trong nền kinh tế tri thức toàn cầu, dân tộc nào tạo ra tri thức, dân tộc đó là người dẫn dắt. Dân tộc nào nắm được tri thức và biết cách khai thác tri thức, dân tộc đó có sức mạnh. Còn dân tộc nào thiếu hụt tri thức hoặc quay lưng với tri thức, dân tộc đó là kẻ phụ thuộc, nghèo hèn.

Chính vì thế, mọi hy vọng đi tắt đón đầu đều không thể nào trở thành hiện thực nếu không có một hạ tầng tri thức đủ mạnh làm bệ phóng, không có những lãnh đạo trí tuệ dẫn dắt, và không có những công dân được trang bị tri thức hiện đại thực hiện.

Cũng chính vì thế, công cuộc khai trí dù được khởi xướng cách đây cả trăm năm, cần phải được tiếp nối. Cần mẫn và kiên nhẫn. Không thể nào khác được.

Chỉ khi nào công cuộc khai trí thành công thì mới hy vọng xây dựng được một hạ tầng tri thức và một nền dân trí mạnh.Chỉ sau đó, các chương trình kiến thiết phát triển mới có thể thành tựu được.

Muốn vậy, tất cả chúng ta, nhất là những người trẻ, cần phải xắn tay lên. Cần phải tiếp nối công cuộc khai dân trí được khởi động từ hơn 100 năm về trước.

Hãy làm việc, không ngồi than vãn nữa. Nếu không, trăm năm sau con cháu mình cũng lại ngồi bàn lại chuyện khai dân trí như chúng ta hiện giờ trong sự buồn oải. Sự buồn oải kéo dài suốt mấy trăm năm.

Nhưng đó chưa phải là viễn cảnh xấu nhất. Việc xấu nhất có thể hình dung được là, nếu cuộc khai dân trí không được tiếp nối, thì trăm năm nữa, thế hệ sau biết có còn chỗ mà ngồi để bàn chuyện khai dân trí nữa hay không?
----------
(*) Xem Nguyễn Văn Trọng, "Tinh thần thời đại, 100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục", NXB Tri Thức, Tr. 269.
Giáp Văn Dương
---

Sống trong sợ hãi



 “Con yêu! Chừng nào con còn sống trong quá khứ, muốn quay trở lại quá khứ; và chừng nào con còn lo nghĩ về tương lai, muốn làm chủ lấy tương lai, thì con còn sống trong sợ hãi.





Một người nọ sau khi từ giã cõi đời và được về bên Thượng Đế, anh ta mạo muội xin phép Thượng Đế cho anh ta được sống lại một vài giai đoạn trong đời anh ta. Sau khi suy nghĩ và thấy anh này cũng có một đề nghị hơi lạ, Thương Đế đã đồng ý.

Anh ta xin tiếp, “Thưa Ngài, sau mỗi quãng đời, xin cho con được dừng lại và về gặp Ngài để hỏi một vài thắc mắc có được không?” Thượng Đế cũng tỏ vẻ vui lòng ưng thuận. Vậy là người này trở lại kiếp người.


1/ Anh ta làm lại một cậu học trò với bao bận rộn với việc học hành, nhưng cũng không ít vui chơi hồn nhiên giải trí. Nhưng khi phải vượt qua những kỳ thi, thì cậu học trò lại tỏ ra lo sợ. Cậu ta lo sợ bị thi rớt, sợ bị điểm thấp, sợ bị chúng bạn chê cười…

Cậu ta xin dừng cuộc đời lại đó và đi hỏi Thượng Đế. “Thưa Ngài, tại sao con phải lo sợ những chuyện thi cử?”
“Con lo sợ chúng vì con đã nhìn cuộc đời của con như thể chỉ có chuyện thi cử mà quên đi những chuyện khác xung quanh con,” Thượng Đế trả lời.

2/ Anh ta trở lại dương thế và tiếp tục làm người.
Giai đoạn này, anh ta có người yêu, lập gia đình, có con và tưởng chừng như anh ta đã vượt qua những nỗi lo sợ của thời trẻ con. Thế nhưng, anh ta vẫn lo sợ. Anh sợ vợ anh phản bội, con anh không đủ sức khỏe, công việc làm ăn không ổn định.
Anh dừng cuộc đời lại và đi hỏi thượng đế. “Thưa Ngài, dù biết rằng con đã không nhìn cuộc đời như trước đây nữa, nhưng sao con vẫn lo sợ?”

Thượng Đế đáp, “Con lo sợ vì con muốn sở hữu chúng vĩnh viễn; con không muốn bị mất chúng. Con nên nhớ, điều gì con càng muốn nắm giữ, thì con càng lo sợ chúng bị mất đi.”

3/ Trở lại cuộc sống dương thế lần thứ ba, giờ đây ở tuổi cao niên, sau bao tháng ngày sợ hãi, lo lắng, ông già trông bình an và chấp nhận hơn. Ông không lo sợ bị mất vợ và lo lắng cho con cái như trước đây.
Nhưng trong tâm thức ông, một nỗi lo âu, sợ hãi vẫn ám ảnh ông. Nỗi lo sợ của ông không còn là nỗi lo liên quan đến “cơm áo, gạo tiền” như trước đây, nhưng ông lại sợ bị lãng quên những công trạng của thời trai trẻ; ông lo những thành quả ông góp cho đời sẽ bị mất dấu tích. Kỳ lạ thay, ông lại lo không còn được cảm nếm những nỗi lo sợ của thời học trò, của thời thiếu niên, của người thanh niên mà ông đã trải qua.

Ông quá tò mò nên quay về hỏi Thượng Đế, “Thưa Ngài, tại sao những điều lúc trước làm con lo sợ, thì bây giờ con lại sợ không còn được cảm nếm những nỗi sợ ấy nữa?”

Thượng Đế đáp, “Con yêu! Chừng nào con còn sống trong quá khứ, muốn quay trở lại quá khứ; và chừng nào con còn lo nghĩ về tương lai, muốn làm chủ lấy tương lai, thì con còn sống trong sợ hãi.

Một số vấn đề về quyền tự do ngôn luận


ĐINH HỒNG PHÚC



Bài viết này lược thuật một số nội dung về quyền tự do ngôn luận được triết gia Nigel Warburton, hiện là Giảng viên cao cấp của Phân khoa Triết học trường Open University, bàn luận trong cuốn sách Free Speech: A Very Short Introduction (New York: Oxford University Press, 2009, tr. 1-21) của ông. Trong cuốn sách này, Nigel Warburton nêu thành nguyên tắc luận điểm rằng tự do ngôn luận là hạt nhân của nền dân chủ, là một quyền căn bản của con người, và việc bảo vệ nó là dấu hiệu của một xã hội văn minh và khoan dung; và trên nguyên tắc đó, ông cung cấp một cái nhìn tổng quan có phê phán đối với các luận điểm chính về tự do ngôn luận, giá trị và những hạn chế của nó. Phần nội dung của bài viết này nằm trong chương 1 của cuốn sách. Tên bài viết và các tiểu mục là do chúng tôi đặt.


1. NHỮNG PHƯƠNG DIỆN CỦA QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN

Quyền tự do ngôn luận thuộc về giá trị đặc thù của một xã hội dân chủ. Trong nền dân chủ, các cử tri đều quan tâm đến việc lắng nghe nhiều ý kiến khác nhau và tranh luận với những ý kiến đó, đồng thời quan tâm đến việc nắm bắt các sự kiện và các lối lý giải, cũng như các quan niệm đối lập ngay cả khi họ tin rằng các quan niệm được thể hiện ra ấy có tính chất công kích về phương diện chính trị, đạo đức hay cá nhân. Những ý kiến này không phải lúc nào cũng có thể được truyền thông trực tiếp qua báo chí, truyền thanh và truyền hình, mà chúng còn thường được trình bày trong các loại hình nghệ thuật: tiểu thuyết, thi ca, điện ảnh, biếm họa, và ca từ. Chúng cũng có thể được thể hiện một cách tượng trưng bằng những hành vi như đốt một lá cờ, hay như nhiều người Mỹ phản đối Chiến tranh xâm lược Việt Nam đã làm là đốt thẻ quân dịch. Các thành viên của một nền dân chủ cũng quan tâm đến việc đại đa số các công dân phải là người chủ động tham gia tích cực vào sự bàn luận chính trị chứ không phải là người tiếp nhận thụ động chính sách từ trên ban xuống.

Một số người, như triết gia Ronald Dworkin (1931-), đi xa hơn khi cho rằng một chính quyền không cho phép mở rộng quyền tự do ngôn luận ắt là chính quyền không chính đáng và không đáng gọi là chính quyền dân chủ. Theo quan niệm này, nền dân chủ không chỉ đơn thuần là sự đảm bảo cho các cuộc bầu cử và nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, mà nó còn phải lấy việc bảo hộ quyền tự do ngôn luận rộng rãi như là điều kiện tiên quyết để nền dân chủ ấy xứng danh là dân chủ. Nhưng thực tế không hoàn toàn đơn giản như vậy. Có những trường hợp, việc bày tỏ quan điểm có thể gây ra những hậu quả khôn lường nếu người ta không cân nhắc đến những nhân tố khác, có thể quan trọng hơn cả sự tự do ngôn luận, như nền an ninh quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng chẳng hạn. Tự do ngôn luận có cái giá của nó.

Quyền tự do ngôn luận thường không phải là một vấn đề có liên quan đến các hoạt động riêng tư, mà liên quan đến các hoạt động truyền thông đại chúng như: công bố một quyển sách, một bài thơ, một bài báo, hay một bức ảnh, phát sóng một chương trình phát thanh hay truyền hình, sáng tác và triển lãm một tác phẩm nghệ thuật, đọc một bài diễn văn trong một cuộc mít-tinh chính trị, hay có thể là đăng tải một lời công kích trên nhật ký web (weblog) hay thu âm vào một hệ thống podcast. Quyền tự do ngôn luận đặc biệt quan trọng đối với người cầm bút vì bản chất hoạt động của họ là truyền thông các ý niệm trong công chúng. Hơn ba mươi năm qua, tạp chí Index on Censorship không khó khăn lắm trong việc tìm bài cho đủ trang bằng những ví dụ về các cây bút bị tước quyền truyền thông cơ bản này. Các nhà tù trên thế giới là nơi ở của nhiều người cầm bút khi họ đã vượt quá những giới hạn mà nhà cầm quyền cho phép trong việc truyền thông, và nhiều nhà văn vĩ đại nhất trong lịch sử từng bị giam cầm, tra tấn, hay thậm chí bị sát hại vì đã thể hiện công khai tư tưởng của mình.

Thuật ngữ “quyền tự do ngôn luận” có điểm hay là gắn với ý niệm về việc cá nhân truyền thông bằng một trong những cách trực tiếp nhất và riêng tư nhất mà bất cứ ai cũng có sẵn là tiếng nói. Theo cách nào đó, “quyền tự do thể hiện quan điểm” (free expression) là thuật ngữ diễn tả chính xác hơn, nhưng nó cũng hàm ý rằng cái được thể hiện phần nào có tính chủ quan; trong khi đó, trong nhiều trường hợp kiểm duyệt đầy tranh cãi đối với những người cầm bút và những người hoạt động trong các lĩnh vực khác, các sự kiện mà họ cố gắng truyền thông rộng rãi cho công chúng không hề là chủ quan. Chẳng hạn, một nhà văn Trung Quốc trong khi cung cấp các chi tiết về số lượng chính xác những sinh viên bị chết trong vụ thảm sát ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989, thì không phải ông ta đang “thể hiện” một ý niệm mà là đang truyền thông các sự kiện. Nếu chính quyền Trung Quốc ngăn không cho ông ta nói thì các sự kiện vẫn còn.

Có một phương diện mà mọi người ít khi chú ý đến trong vấn đề quyền tự do ngôn luận là trong một bầu không khí không cho phép người ta thể hiện công khai quan điểm của mình, thì những quan điểm bị cấm đoán ấy cũng khó lòng bị chôn chặt trong bụng, nhất là đối với các nhà tư tưởng vốn là những người có năng lực khai triển các ý niệm của họ qua việc tương tác với người khác, hay các văn sĩ tài năng xuất chúng vốn là những người có năng lực viết ra một tác phẩm dày cộp bằng trí nhớ. Ở đâu có sự ngăn cấm của nhà nước không cho thể hiện những loại tư tưởng nào đó, thì việc tiếp xúc với tài liệu cần cho việc thể hiện các tư tưởng này một cách thuyết phục cũng bị từ chối. Cách ly một mình là biện pháp kiểm duyệt hết sức hiệu quả và thường được sử dụng chống lại các nhà văn và các nhà tư tưởng bất đồng ý kiến. Tuy nhiên, lịch sử đã cho thấy, dù nhà nước có đem cảnh tù đày hay cái chết ra đe dọa thì nhiều người vẫn không sờn lòng, họ vẫn đủ dũng cảm để nói lên tiếng nói của mình dù hậu quả có thế nào đi nữa.

2. THẾ NÀO LÀ “TỰ DO” TRONG VẤN ĐỀ NGÔN LUẬN?

Triết gia Isaiah Berlin (1909-1997) phân biệt hai khái niệm về sự tự do: tự do tiêu cực và tự do tích cực. Tự do tiêu cực là tự do không có sự cưỡng chế, nghĩa là người ta có thể làm bất cứ điều gì miễn là không bị cấm cản; trái lại, tự do tích cực là tự do con người ta thực sự làm được điều mình muốn làm. Theo hai thuật ngữ này của Berlin, con người ta hẳn là tự do theo nghĩa tiêu cực, chứ không phải theo nghĩa tích cực. Lịch sử của quyền tự do ngôn luận là lịch sử của những sự nỗ lực ngăn chặn con người truyền thông các quan điểm của mình bằng chế độ kiểm duyệt, hệ thống nhà tù, những đạo luật khắt khe, những lối đe dọa dùng bạo lực, đốt sách, ngăn chặn công cụ tìm kiếm trên mạng hay trường hợp cực đoan nhất là hành hình. Nhưng một số triết gia Marxist, như Herbert Marcuse (1898-1979) chẳng hạn, lại lưu ý rằng nếu không có chế độ kiểm duyệt thì sẽ chẳng có gì bảo đảm bảo việc thực thi nền tự do, dù bằng phương cách hay ho nào. Trong một xã hội mà toàn bộ dân chúng bị nhồi sọ và bị thao túng bởi những người kiểm soát các phương tiện truyền thông, thì quyền tự do ngôn luận chỉ phục vụ cho lợi ích của giới có quyền lực.

Tuy nhiên, tự do không có nghĩa là sự tùy tiện. Quyền tự do ngôn luận toàn diện ắt sẽ bật đèn xanh cho sự tự do vu khống, tự do lừa mị và chỉ dẫn sai lạc trong quảng cáo, tự do xuất bản các tài liệu tình dục liên quan đến trẻ em, tự do tiết lộ các bí mật quốc gia, v.v.. Nhà triết học Alexander Meiklejohn (1872-1964) cho rằng thứ tự do ngôn luận đáng mong muốn là tự do thể hiện quan điểm của mình đúng lúc đúng chỗ, chứ không phải tự do thích nói sao thì nói. Quyền tự do thể hiện quan điểm luôn có những giới hạn của nó: không phải quan điểm nào cũng có thể được thể hiện một cách tự do.

John Stuart Mill (1806-1873) lưu ý đến cái ranh giới mà tại đó việc nói hay viết là một hành vi kích động sự bạo lực. Ông ta cũng nói rõ rằng các luận cứ của ông ta cho vấn đề tự do chỉ áp dụng cho “những người đã trưởng thành về năng lực”. Chế độ gia trưởng, theo nghĩa cưỡng chế ai đó vì lợi ích của chính họ, thích hợp đối với trẻ em và đối với “các trạng thái lạc hậu của xã hội trong đó bản thân chủng tộc có thể được coi là chưa trưởng thành”; nhưng nó lại không thích hợp đối với các thành viên trưởng thành của một xã hội văn minh, loại người này chắc hẳn được tự do quyết định lấy cuộc sống của mình.

Thẩm phán Oliver Wendell Holmes (1841-1935) có nêu một nhận xét đáng chú ý rằng quyền tự do ngôn luận không bao gồm việc tự do hô hoán “Cháy!” trong một rạp hát đông người. Điều ông muốn nói ở đây là những người biện hộ cho tự do ngôn luận cần phải vạch ra một giới hạn nào đó. Hàm nghĩa của từ “tự do” có sức mạnh biểu cảm khiến người ta có thể không ý thức được giới hạn. Nếu cho phép ai đó có quyền hô hoán “cháy” trong một rạp hát đông người có thể gây ra cảnh hoảng loạn giẫm đạp gây thương tích hay thậm chí gây chết người, và cái trò chơi khăm này cũng có thể khiến cho các khán giả trở nên thờ ơ với tiếng hô “cháy” thực sự.

Như vậy, cả Mill lẫn Holmes đều nhận thấy tự do ngôn luận cần có những giới hạn và những sự cân nhắc khác đôi khi thủ tiêu bất cứ tiền giả định nào về quyền hạn tuyệt đối của tự do ngôn luận. Ngoài những sự cân nhắc đặc biệt ở thời chiến, hầu hết các hệ thống pháp luật vốn dành rộng chỗ cho quyền tự do ngôn luận vẫn chế ước sự tự do thể hiện quan điểm khi nó có tính chất phỉ báng hay vu khống, khi nó dẫn đến việc tiết lộ bí mật của nhà nước, khi nó gây nguy hại cho một phiên tòa xét xử công minh, khi nó liên quan đến một vụ xâm phạm nghiêm trọng đến đời tư của ai đó mà không có lý do chính đáng, khi nó dẫn đến việc vi phạm bản quyền, và cả trong những trường hợp quảng cáo sai sự thật. Ở nhiều nước, các loại văn hóa phẩm khiêu dâm bị hạn chế xuất bản hay tiêu thụ một cách khắc khe. Đây chỉ là một vài sự chế ước về ngôn luận và những kiểu thể hiện quan điểm phổ biến ở các quốc gia tán thành một thứ nguyên tắc tự do ngôn luận nào đó và các công dân ở các quốc gia ấy nghĩ là mình tự do.

3. CÁC LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN

Có hai loại luận cứ được dùng để bảo vệ quyền tự do ngôn luận: luận cứ công cụ và luận cứ luân lý. Các luận cứ công cụ dựa vào yêu sách rằng việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận mang lại những loại lợi ích hữu hình nào đó như hạnh phúc cá nhân nhiều hơn, xã hội phồn thịnh, hay thậm chí mang lại những lợi ích kinh tế. Chẳng hạn, Alexander Meiklejohn (1872-1964) lập luận rằng giá trị chủ yếu của quyền tự do ngôn luận là ở chỗ nó cổ xúy cho các kiểu thảo luận cần có để nền dân chủ có thể vận hành một cách có hiệu quả. Để nêu ra những phán đoán đúng đắn, các công dân phải cọ xát với hàng loạt các ý kiến; tự do ngôn luận cho phép các công dân được biết nhiều quan niệm khác nhau mà người ta hết lòng tin tưởng. Điều này rất quan trọng, bởi lẽ những người kịch liệt phản đối hiếm khi hình dung mình ở trong lập trường mà những người họ chống đối hết sức tin theo. Tốt hơn hết là lắng nghe các quan điểm bất đồng từ những người bất đồng ý kiến thực sự chứ không phải từ những người đang hình dung ra những gì mà người bất đồng ý kiến có thể nói.

Những luận cứ này viện dẫn đến những hậu quả, và với tư cách ấy, câu trả lời cho câu hỏi liệu quyền tự do ngôn luận có mang lại ích lợi cụ thể cho xã hội hay cá nhân không là một câu trả lời dựa theo kinh nghiệm: có một câu trả lời đúng, dù chúng ta biết hay không biết nội dung của câu trả lời ấy, và về nguyên tắc, ta có thể tìm ra câu trả lời ấy bằng công việc điều tra nghiên cứu những hậu quả trên thực tế và những hậu quả có thể xảy ra. Mặt bất lợi của lối tiếp cận này là ở chỗ nếu những hậu quả có ích của quyền tự do ngôn luận có thể được chứng minh là không hề xảy ra trên thực tế, thì lối biện minh cho việc bảo vệ quyền này ắt sẽ không còn chỗ đứng.

Các luận cứ luân lý biện hộ cho quyền tự do ngôn luận thường đi từ quan niệm về con người cá nhân (person) là gì đến ý niệm rằng việc cắt xén nội dung lời nói của người khác là vi phạm đến tính tự trị hay phẩm giá của họ. Ngăn cấm người khác nói ra quan điểm của họ (hay lắng nghe quan điểm của người khác) là điều hoàn toàn sai lầm, vì như thế sẽ là không tôn trọng người khác với tư cách là cá nhân có khả năng tư duy và quyết định bản thân mình. Các luận cứ này dựa trên ý niệm về giá trị nội tại của quyền tự do ngôn luận và sự nối kết giá trị này với khái niệm về sự tự trị của con người chứ không phải dựa trên bất cứ những hậu quả có thể đo lường nào vốn có thể do việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận gây ra.

4. QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN NGÀY NAY QUA HAI TRƯỜNG HỢP: NHỮNG VẦN THƠ CỦA QUỶ SATAN VÀ BỨC BIẾM HỌA ĐAN MẠCH

Mối quan hệ mật thiết của các cuộc bàn thảo về quyền tự do ngôn luận với cuộc sống đương đại là hiển nhiên. Kể từ khi phát minh ra sách, những người nắm giữ quyền hành trong xã hội đã đốt sách bằng các hành vi phá hủy mang tính tượng trưng. “Vụ hỏa thiêu những thứ phiếm huyễn” (tiếng Ý: Falò delle vanità) nổi tiếng của linh mục Girolamo Savonarola (1452-1498) tại Florence năm 1497 đã tiếp nối một truyền thống lâu dài. Ý nghĩa thiết yếu của ngọn lửa đó là thiêu hủy các đồ vật, gồm các cuốn sách trái với thuần phong mỹ tục có thể cám dỗ các chủ nhân của nó vào tội lỗi. Các biến thể của chủ đề này vẫn còn tồn tại dai dẳng tới ngày nay.

Chúng ta đang sống trong một thời đại mà việc đốt và kiểm duyệt sách ngày càng tăng và một số hành vi thể hiện quan điểm có thể dẫn đến những sự phản ứng có tính quốc tế với hàng triệu người phản đối. Lúc nào cũng có những lời kêu gọi kiểm soát sách báo khiêu dâm, kiềm chế phát ngôn đầy thù oán và đặt giới hạn cho sự phủ nhận tội diệt chủng người Do Thái (Holocaust denial). Ở một số nước, sự kiểm duyệt trên diện rộng của nhà nước là bình thường và việc cố gắng thể hiện bất cứ quan điểm nào ngoài quan điểm chính thống đều gặp phải những mối nguy hiểm thực sự. Tuy nhiên, những biểu hiện dễ thấy nhất của tình trạng bất khoan dung với quan điểm của người khác và những lời kêu gọi cần có sự kiểm duyệt ầm ĩ nhất trong những năm gần đây lại là từ những người cảm thấy tôn giáo của mình bị phỉ báng theo cách nào đó. Các vụ việc xoay quanh cuốn tiểu thuyết The Satanic Verse (Các vần thơ của quỷ Satan, 1988) của Salman Rushdie và các bức biếm họa Muhamad trên báo Jyllands-Posten của Đan Mạch là những trường hợp điển hình.

Ngay từ lúc mới xuất bản, cuốn tiểu thuyết The Satanic Verse đã gây nên một làn sóng chống đối kịch liệt. Ở Ấn Độ và Nam Phi, nó được liệt vào danh mục sách cấm. Cuốn sách này có vài đoạn mà nhiều tín đồ Hồi giáo coi là đã sỉ nhục sâu sắc đến tôn giáo của họ. Vào tháng Một năm 1989, người Islam giáo ở Bradford đã đốt các bản in cuốn sách này theo lối phản đối tượng trưng trong một cuộc mít-tinh. Nhiều người trong số họ nghĩ rằng cuốn tiểu thuyết của Rushdie đã cố tình bôi nhọ tôn giáo và nhà tiên tri của họ. Họ tiến hành những cuộc mít-tinh rầm rộ để chống đối cuốn sách. Năm 1989, vị thủ lĩnh tối cao Islam giáo công bố một fatwa (sắc dụ) chống lại Rushdie, về cơn bản là xách động việc sát hại ông. Các nhà xuất bản, nhà sách, và dịch giả đã có những hành động dũng cảm bất chấp những sự đe dọa bạo lực được phê chuẩn bởi quyền lực tôn giáo. Dịch giả người Nhật của cuốn sách bị sát hại. Rushdie phải sống ẩn náu trong sự bảo vệ của cảnh sát. Tuy nhiên, ở Anh và những nước khác, cuốn tiểu thuyết này vẫn được in ra và có mặt tại các hiệu sách mà chẳng bị hề hấn gì.

Trường hợp thứ hai là sự kiện tờ Jyllands-Posten đăng 12 bức biếm họa về Muhammad vào năm 2005 lại tiếp tục làm bùng lên những làn sóng phản đối mạnh mẽ. Một trong những bức vẽ gây tranh cãi nhất đã vẽ Muhammad đội một quả bom trong cái khăn đội đầu. Bài xã luận trong tờ báo nhấn mạnh rằng việc để các nhóm tôn giáo đòi hỏi sự chiếu cố đặc biệt đến các tình cảm tôn giáo của riêng họ là không thích hợp với nền dân chủ đương đại. Nhiều người, cụ thể là các tín đồ Islam giáo, coi những bức biếm họa này là những bức biếm họa đầy tính chất nhục mạ, báng bổ và cố ý khiêu khích. Các bức biếm họa này được nhiều tờ báo ở các nước Âu châu đăng lại, cho dù các nhà biên tập báo ở Anh quyết định không in chúng. Những cuộc phản đối trên toàn thế giới dẫn đến cảnh bạo lực: các tòa đại sứ quán Đan Mạch bị đốt và số người chết có thể lên đến cả trăm. Một số vị lãnh đạo Islam giáo thậm chí còn phát đi lời đe dọa đòi giết các nhà vẽ tranh biếm họa. Còn ở London, một cuộc biểu tình về các bức biếm họa diễn ra ở bên ngoài tòa Đại sứ quán Đan Mạch vào ngày 3 tháng Hai năm 2006, tại đó những người biểu tình gương các biểu ngữ chống chủ nghĩa tự do, chống quyền tự do ngôn luận và hô hào các khẩu hiệu chống người Đan Mạch và người Mỹ, đã dẫn đến những vụ bắt bớ và buộc tội kích động giết người và thù hằn sắc tộc.

Có một số khía cạnh của vấn đề quyền tự do ngôn luận trong cuộc tranh cãi này ta cần lưu ý. Động cơ ban đầu của việc đăng các bức biếm họa là để khẳng định quyền tự do ngôn luận và nhấn mạnh rằng trong một nền dân chủ hiện đại việc để cho các nhóm cá biệt có được sự bảo vệ đặc biệt khỏi phê phán là không phù hợp. Sự phản ứng chống lại các bức biếm họa nổi lên ở một số nơi như là một sự công kích chủ nghĩa tự do và giá trị của tự do ngôn luận. Khi những người phản đối bị truy tố, một số nhà bình luận cho rằng việc truy tố hành vi kích động giết người và thù hằn sắc tộc là hành động xén bớt quyền tự do ngôn luận và hiểu sai bản chất của các quan niệm được thể hiện: chúng không phải là những hành vi kích động đặc biệt mà chỉ là những hành vi thể hiện sự tổn thương chung chung. Bên dưới vụ việc này, người ta cảm thấy có một sự tự kiểm duyệt đang lan rộng ở những người chỉ trích đạo Islam do sợ bị trả đũa.

Tình trạng bất khoan dung ở đạo Islam đối với các tư tưởng bị coi là báng bổ tôn giáo không hề bị chế ước, thế nhưng chính mức độ ác liệt của việc phản đối chống lại The Satanic Verses và các bức biếm họa của người Đan Mạch đã đưa các câu hỏi về quyền tự do ngôn luận vào tiêu điểm nhạy cảm. Một vấn đề cấp bách về quyền tự do ngôn luận trong thời đại chúng ta là câu hỏi một xã hội dân chủ có nên chú ý đến những lời kêu gọi kiểm soát các hành vi thể hiện quan điểm có thể bị coi là xúc phạm đến các tín đồ tôn giáo hay không. Đây là câu hỏi rất khó trả lời, và theo Nigel Warburton, chúng ta cần khai thác lại di sản của John Stuart Mill, đặc biệt là công trình Bàn về Tự do (1859) của ông, mới có thể tìm ra câu trả lời cho vấn đề nan giải ấy.

Nguồn gốc của minh triết Việt và suy nghĩ về minh triết Việt hiện đại



TRẦN NGỌC HIÊN


Xưa nay dân tộc và đất nước thịnh suy đều có quan hệ đến sự thăng trầm của Minh triết. Việt Nam cũng vậy, sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước đã có bộ mặt khác trước nhiều. Nhưng nhìn vào thực trạng kinh tế, xã hội, văn hoá hiện nay thì người ta không rõ Minh triết Việt đang thăng hay trầm ra sao?


Để lý giải câu hỏi đó, có lẽ phải đi tìm "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt quá trình phát triển Minh triết Việt thì mới hy vọng cùng nhau nhận thức dần dần vấn đề Minh triết Việt hiện đại - trường hợp Hồ Chí Minh.

Bước đầu đi tìm sợi chỉ đỏ ấy từ thực tiễn, tôi thấy đó là mối quan hệ giữa kinh tế - xã hội với văn hoá - chính trị. Đây là mối quan hệ luôn thay đổi trong các giai đoạn, các thời đại khác nhau. Chỉ khi nhận thức được sự thay đổi có tính xu hướng, tính quy luật của mối quan hệ ấy thì mới đem đến những giá trị Minh triết bền vững.

Suy nghĩ như vậy nên tôi bắt đầu phân tích cơ sở hay nguồn gốc tạo nên những đặc điểm giống nhau và khác nhau giữa Minh triết Việt truyền thống với Minh triết Việt hiện đại, hy vọng từ đó có thể tìm đến những giá trị Minh triết Hồ Chí Minh - đỉnh cao của Minh triết Việt hiện nay.

I. Nguồn gốc của sự giống nhau và khác nhau giữa Minh triết Việt truyền thống với Minh triết Việt hiện đại
Để làm rõ sự giống nhau và khác nhau giữa Minh triết truyền thống và hiện đại cần đến một đề tài khoa học lớn, nên ở đây tôi chỉ tìm hiểu một số mặt giống nhau và khác nhau giữa hai thời kỳ Minh triết nhằm làm rõ nguồn gốc của sự giống nhau và khác nhau đó.

Nhìn khái quát, sự giống nhau giữa hai thời kỳ Minh triết Việt tập trung ở khâu then chốt:đạo làm người. Minh triết chỉ ra con đường muốn làm người phải có đạo nghĩa là phải có nhân cách và bản lĩnh. Hai phẩm chất ấy gắn bó với nhau tạo ra "đạo làm người". Con người muốn giữ nhân cách phải có bản lĩnh, để không bị tha hoá trong môi trường xã hội phức tạp. Trong Minh triết truyền thống, con người có nhân cách là "giữ được nếp sống nghèo mà trong sạch, yên phận giữ mình, không màng danh lợi". Đối với một số người có học thì "có thể mất mọi thứ nhưng không thể mất nhân cách". Minh triết truyền thống nêu cao bản lĩnh con người là "phải hiểu được mình, thắng được mình". Danh nhân Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cho rằng: "Hiểu được mình là anh. Thắng được mình là hùng" (theo Đắc Trung trong "Luận về lẽ sống và đạo làm người").

Nhân cách và bản lĩnh của "đạo làm người" trong Minh triết Việt truyền thống đặc biệt thể hiện ở "tinh thần dân tộc yêu nước sâu sắc", trong đó biểu hiện cả bản lĩnh và nhân cách con người Việt Nam. Đây là một phẩm chất được kết tinh từ hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của nhiều thế hệ. Tính bền vững của giá trị Minh triết này thể hiện nổi bật ở hai luận điểm:

Một là,coi dân làm trọng, là nhân tố quyết định sự hưng thịnh hay suy tàn của chế độ chính trị, thể hiện luận điểm "Chở thuyền, lật thuyền đều ở dân". Hội nghị Diên Hồng mang ý nghĩa lịch sử là vì vậy.

Hai là,coi "hiền tài là nguyên khí quốc gia". Hai luận điểm đó gắn bó với nhau, làm điều kiện cho nhau. Những giá trị của Minh triết Việt truyền thống có nguồn gốc, cơ sở từ địa chính trị, địa văn hoá của Việt Nam. Cơ sở này vẫn tồn tại đến ngày nay, nên những giá trị Minh triết vẫn còn phát huy tác dụng nhất định. Mặt yếu của những giá trị Minh triết truyền thống là chưa được hình thành trên một cơ sở kinh tế phát triển. Đây là vấn đề mà việc nghiên cứu Minh triết Việt hiện đại cần bổ sung.

Ngày nay, vai trò của địa kinh tế Việt Nam sẽ ngày càng tăng, đem lại sức sống mới, chất lượng mới cho những giá trị Minh triết Việt đã có. Sự phát triển của cơ sở kinh tế mới là nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng đồng thuận cả kinh tế, xã hội và môi trường, tức phát triển bền vững. Sự phát triển kinh tế thị trường theo hướng đó sẽ đem lại bộ mặt xã hội mới, nền văn hoá mới và nền chính trị tiến bộ. Đó sẽ là sự khác nhau về nguồn gốc giữa hai thời kỳ Minh triết Việt. Nó đem lại nội hàm mới cho "đạo làm người". Nhân cách và bản lĩnh con người không chỉ ở thước đo dân tộc mà còn cả thước đo quốc tế thời hội nhập. Nó cũng đem lại nội hàm mới cho khái niệm "hiền tài" và khái niệm nhân dân, cho tinh thần dân tộc yêu nước. Hơn nữa, kinh tế thị trường phát triển bền vững là một xu thế tất yếu. Khi kinh tế tri thức thay thế kinh tế công nghiệp đã tạo ra khả năng thực tế xoá bỏ vấn nạn lịch sử "người bóc lột người" và tàn phá thiên nhiên, nghĩa là xoá bỏ những chế độ chính trị coi thường sự phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Khả năng thực tế ấy còn bao hàm sự hình thành nền chính trị nhân văn - một tiêu chí của Minh triết hiện đại.

Bước vào thế kỷ 21, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức đang tạo ra xu thế ra đời nền chính trị nhân văn thể hiện trong sự phát triển của một hệ thống gồm Nhà nước pháp quyền của dân, một xã hội dân chủ mới, một nền kinh tế thị trường phát triển bền vững. Khái niệm nền chính trị nhân văn không phải nền chính trị lo cho dân bằng cách ban phát ân huệ mà bằng sự sáng tạo trong tổ chức, hướng dẫn cho dân tự phát triển đủ sức làm chủ xây dựng nhà nước, xây dựng xã hội ngay trong phát triển kinh tế thị trường.

Như vậy, Minh triết thời hiện đại không chỉ mang lại những nội dung mới mà còn cả phương pháp mới, không chỉ làm rõ những giá trị tốt đẹp của "đạo làm người" hiện nay, mà còn phải chỉ rõ làm thế nào để thực hiện những giá trị tốt đẹp đó.

II.Từ những giá trị Hồ Chí Minh, suy nghĩ về phát triển Minh triết Việt hiện đại

Từ góc nhìn Minh triết có thể nhận ra: Cách mạng tháng Tám 1945 thành công là cột mốc lịch sử giữa hai thời kỳ của Minh triết Việt. Những giá trị chính trị và văn hoá Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ hướng dẫn nhân dân ta giành chính quyền và chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh với chủ nghĩa tư bản Pháp và chủ nghĩa tư bản Mỹ. Tôi không dùng khái niệm "thực dân Pháp và xâm lược Mỹ" mà dùng khái niệm chủ nghĩa tư bản Pháp và chủ nghĩa tư bản Mỹ là muốn nói đến hai nước có nền kinh tế thị trường phát triển cao và nền văn minh công nghiệp, trong khi Việt Nam còn là nước nông nghiệp lạc hậu, nửa phong kiến. Nhưng tại sao cuối cùng Việt Nam thắng ?

Vấn đề này phải được lý giải bằng cách nhìn vào lịch sử thế giới và Việt Nam vào sau nửa thế kỷ 20 trở đi. Từ đầu thế kỷ 21 mà nhìn lại, nhiều sự kiện của thế giới ở nửa sau thế kỷ 20 phát đi tín hiệu: gió thời đại đang đổi chiều, trong đó có các sự kiện tiêu biểu như các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nổi lên khắp nơi; sự hình thành thế giới thứ ba; sự thất bại của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phát xít; sự phát triển nền kinh tế thị trường - xã hội ở châu Âu (nhất là Bắc Âu) và chủ nghĩa xã hội - dân chủ; sự suy thoái và kết thúc chủ nghĩa xã hội nhà nước ở Liên Xô, Trung Quốc và Đông Âu; sự kết thúc chiến tranh lạnh và thế giới hai cực đối đầu; sự phát triển mạnh kinh tế tri thức và toàn cầu hoá; những hiểm hoạ có tính toàn cầu do tàn phá môi trường đi đôi với cuộc đấu tranh về xã hội và chính trị mang tính toàn cầu.

Gió thời đại đổi chiều là nhân tố khách quan tạo ra thời cơ chưa từng có cho các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ giành thắng lợi. Cách mạng tháng Tám 1945 và hai cuộc kháng chiến của Việt Nam thắng lợi nhờ thời cơ ấy.

Thời cơ đó là cơ hội chung cho mọi dân tộc đang đấu tranh giành giải phóng dân tộc, nhưng chỉ có dân tộc nào có nhân tố chủ quan, minh triết được xu thế của thời đại thì mới giành được thắng lợi.

Ở Việt Nam, nhân tố chủ quan đó là sự xuất hiện Hồ Chí Minh với những giá trị được tích hợp qua chặng đường dài, từng trải, từ khi ra đi tìm đường cứu nước (1911) cho đến khi lãnh đạo đất nước đã thể hiện ngày càng sâu sắc những đặc điểm và nội dung Minh triết Việt hiện đại. Giá trị Minh triết Hồ Chí Minh không những được khẳng định thông qua thành công về đối ngoại và đối nội, không những trong tư tưởng, quan điểm mà cả trong hành động thực hiện, trong sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nói với làm, giữa sự nghiệp với cuộc sống cá nhân.

Có thể nói Minh triết Hồ Chí Minh được tích hợp từ những giá trị của thời đại mới với những tinh hoa của Việt Nam, cho nên sức sống của nó lâu bền và sẽ lan toả trong đời sống Việt Nam, dù ở giai đoạn đầu còn nhiều cản trở.

Vậy nói vắn tắt thì Minh triết Hồ Chí Minh gồm những giá trị gì chủ yếu ?

Nếu nói một cách cô đọng thì có ba giá trị lớn gắn bó với nhau, làm điều kiện cho nhau. Đó là:

1) Độc lập cho dân tộc.

2) Tự do dân chủ cho nhân dân.

3) Sự phát triển của mỗi người.


Ba giá trị ấy trở thành ba mục tiêu của cách mạng Việt Nam, được thực hiện bằng ba cuộc giải phóng: giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đó là nội dung cơ bản của thời đại Hồ Chí Minh.

Bước sang thế kỷ 21, kinh tế tri thức đang phát triển mạnh trên phạm vi toàn cầu, đem lại những nội dung và yêu cầu mới trong các mục tiêu: độc lập dân tộc, tự do dân chủ và phát triển con người. Vì vậy, làm rõ những nội dung và yêu cầu mới trong ba mục tiêu trên phải là định hướng phát triển Minh triết Việt hiện đại. Theo suy nghĩ bước đầu của tôi, có thể gợi ra mấy hướng nghiên cứu sau đây:

1.Mục tiêu độc lập dân tộc:
Minh triết vấn đề này không nên dừng lại ở mục tiêu giành chính quyền, mà phải gắn độc lập dân tộc với phát triển bền vững. Độc lập dân tộc hiện nay phải bảo đảm vấn đề an ninh. Bên cạnh những vấn đề an ninh truyền thống, đang nảy sinh nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống ở phạm vi quốc gia, khu vực và toàn cầu, như an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, tài nguyên, an ninh sinh học, thông tin, năng lượng, môi trường và tài chính tiền tệ. Những vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng tăng do biến đổi khí hậu toàn cầu, thiên tai dịch bệnh, di dân bất hợp pháp, buôn lậu... gây ra.

2.Mục tiêu tự do dân chủ cho nhân dân
: Minh triết vấn đề này trong thế kỷ 21 đã khác nhiều với thế kỷ 20. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, vấn đề nhận thức và xây dựng nền dân chủ ở nước ta phải trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Không được để cho sự hấp dẫn của chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế hàng năm che khuất. Vai trò và uy tín của Đảng và Nhà nước được quyết định bởi những bước tiến của nền dân chủ, chứ không phải ở tỷ lệ đầu tư và tăng trưởng. Nếu tăng trưởng kinh tế không đi đôi với tiến bộ dân chủ thì nguy cơ chệch hướng ngày càng tăng. Trái lại, nếu dân chủ hoá quá trình phát triển kinh tế thì đạt được đồng thời hai mục tiêu kinh tế và xã hội.

Để thực hiện mục tiêu này, giá trị Hồ Chí Minh chỉ cho ta thấy những yêu cầu mới.

a) Xây dựng nền dân chủ nhân dân là biểu hiện giá trị của độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ giá trị Minh triết này:

"Nước được độc lập mà dân không được tự do thì độc lập cũng chẳng có ích gì".

b) Phải xây dựng nền dân chủ ngay trong tiến trình phát triển kinh tế thị trường. Lịch sử cho thấy, chỉ phát triển kinh tế thị trường lành mạnh mới là cơ sở đẻ phát triển dân chủ và ngược lại có phát triển dân chủ mới bảo đảm sự phát triển tốt của kinh tế thị trường. Minh triết này còn được xác minh ở mặt khác: trong kinh tế tập trung của nhà nước và bao cấp chỉ hình thành quan hệ ban ơn và chịu ơn, không hề có giá trị dân chủ thực sự, với hậu quả là nhà nước sụp đổ.

c) Sau hơn 20 năm đổi mới, nhiệm vụ trung tâm của Đảng hiện nay là xây dựng nền dân chủ cho dân, kể cả đổi mới cách thực hiện dân chủ trong Đảng. Để làm tốt nhiệm vụ đó, giá trị Hồ Chí Minh là giá trị duy nhất để Đảng thực hiện dân chủ hoá xã hội Việt Nam một cách thành công và an toàn. Từ góc nhìn Minh triết thì Đảng phải tổ chức và rèn luyện nền dân chủ Việt Nam bằng nhận thức và vận dụng giá trị Hồ Chí Minh bởi vì giá trị đó thể hiện nền văn hoá mới. Đó là "nền văn hoá tương lai" như nhà thơ Liên Xô Ôxép Manđenxtam đã viết khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh năm 1923.

3. Sự phát triển cá nhân mỗi người: Đây là kết quả cao nhất của quá trình dân chủ hoá. C.Mác đã từng dự báo khi phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa rằng: kinh tế thị trường sẽ đưa đến sự phát triển cá nhân "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển mọi người" hình thành xã hội hậu tư bản. Trong thể chế ban ơn - chịu ơn hoặc thể chế chuyên quyền độc đoán đều phủ nhận sự phát triển cá nhân mỗi người, nên hình thành "xã hội thần dân" chứ không có xã hội dân chủ.

Để vận dụng tính tất yếu về sự phát triển cá nhân trong kinh tế thị trường (được coi như là động lực và mục tiêu phát triển kinh tế) cần nắm vững mấy quy luật phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ, giáo dục trong giai đoạn hiện nay, gắn liền với quyết tâm khắc phục cho được nhược điểm chủ yếu của một xã hội lạc hậu.

a) Để tạo ra cơ sở kinh tế cho sự phát triển cá nhân, cần sửa đổi chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp theo quy luật phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Ở các nước phát triển, công ty cổ phần là phổ biến, trong đó những người lao động trong doanh nghiệp và cả người dân trở thành cổ đông. Sự phát triển công ty cổ phần tạo ra sở hữu cá nhân của lao động (cơ sở kinh tế của sự phát triển cá nhân) và sở hữu xã hội (cơ sở kinh tế của sự phát triển cộng đồng) hoàn toàn khác với sở hữu nhà nước.

b) Xây dựng nền khoa học và nền giáo dục quốc gia theo hướng đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững. Sự liên kết, thâm nhập vào nhau giữa khoa học tự nhiên với khoa học xã hội (về tri thức, phương pháp, hướng sử dụng bền vững) trong khoa học và trong giáo dục sẽ tạo ra nền văn hoá nhân văn và sự phát triển của cá nhân.

c) Trước sự cám dỗ của tiền bạc và danh lợi hiện nay thì sự phát triển cá nhân nhanh hay chậm còn tuỳ thuộc vào nhân cách và bản lĩnh mỗi người.Trong Minh triết truyền thống về bản lĩnh con người là "phải hiểu được mình, thắng được mình" vẫn còn giá trị và rất cần cho hiện nay.

4. Việc thực hiện ba mục tiêu nói trên chỉ có kết quả phụ thuộc vào nhân tố quyết định nhất là xây dựng thể chế chính trị theo Minh triết Hồ Chí Minh, với quyết tâm "Hồ Chí Minh hoá nền chính trị Việt Nam", coi đó là sứ mệnh, là nghĩa vụ của các nhà chính trị, như ý kiến một số trí thức kiến nghị.

Yêu cầu này đã trở nên cấp bách khi tính tự phát trong dân và một số quan chức đã phổ biến thành một nếp sống xấu, vì nó chống lại Nhà nước pháp quyền bằng hối lộ, bằng lợi dụng quan hệ gia đình, họ hàng để tranh giành lợi ích và chức vụ. Lênin khi thực hiện chính sách kinh tế mới đã chỉ ra "Tính tự phát tiểu tư hữu là kẻ thù giấu mặt, nguy hiểm". Thậm chí là "Kẻ chủ chính của chủ nghĩa xã hội". Còn Hồ Chí Minh thì coi đó là "giặc nội xâm" làm hư hỏng xã hội và chính trị./.

Thứ Hai, 22 tháng 6, 2015

Người đàn bà uống Vodka một mình




Hà Lập Nhân


mắt to mũi thon môi nhạt khăn lụa vạn phúc lấm chấm hoa chìm
tự tin sải chân lách mũi giày tím bước vào quán nhỏ
cười cười vươn những ngón mềm móng sẫm tươi khẽ nhắc chiếc ghế tre
ánh vàng màu thời gian nhẹ bẫng chọn chỗ ngồi
một góc phố quen dải nắng đông rười rượi
một chút hương vị lạ thoảng làn gió muộn len vào


gần như không giọng nói hai ngón dài vẫy vẫy
người bồi bàn trẻ nghiêng nghiêng bước lại với chiếc khay thiếc chạm hoa văn
vodka, soda, lọ tiêu, chút muối, vài lát bơ màu mỡ gà viền lớp vỏ nâu sẫm
mỏng tang ngai ngái vị khói xếp nghiêng nghiêng trong chiếc đĩa gốm bát tràng
dòng vodka nhỏ thẫm trong thoảng vị rêu phương bắc


hai chiếc ly pha lê lóng lánh lanh canh chạm vài giọt vodka sánh rơi
treo trên nụ hồng sẫm tím cắm trong chiếc lọ gốm nhỏ ấm màu đất nung
hờ hững đặt trên mặt bàn phủ khăn gấm vương vài cánh rụng
đôi khi vẳng nhịp ghế tre kót két sau lưng
tiếng mọt thời gian gậm nhấm tháng năm dài đã chót bỏ quên


người đàn bà uống vodka một mình
từng ngụm nhỏ mắt thoảng chút xa xăm lướt qua những con phố ồn ào
ngoài xa kia bao dáng hình quen, bao gương mặt lạ
ngoài xa kia bao cuộc đời bao kẻ cùng sải bước chia tay
chai vodka đã cạn hai chiếc ly trống không
những lát bơ màu mỡ gà viền lớp vỏ nâu sẫm còn nguyên
ngoài xa kia là dải đê dài, chiếc cầu sắt già nua, con sông bời bời réo gọi
người đàn bà uống vodka một mình