" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Chủ Nhật, 10 tháng 5, 2015
THÁI CỰC LUẬN Chương 6. Quan niệm Thái Cực ở Trung Quốc đối chiếu với quan niệm Atman ở Ấn Độ và Logos ở Âu Châu
A. THÁI CỰC VỚI ATMAN
Quan niệm của các Hiền Triết Ấn Độ về Atman có thể nói được là tương tự với quan niệm của các Hiền Triết Trung Hoa về Thái Cực.
So sánh hai quan niệm Atman và Thái Cực, chúng ta sẽ hiểu rõ Thái Cực hơn.
Thoạt tiên chúng ta phải nhận định rằng quan niệm về Atman rất là phong phú.
Atman có rất nhiều danh hiệu, mỗi danh hiệu như vẽ lại được một trạng thái, một hoạt động của Atman. Nói nôm na ra, thì đối với Ấn Độ giáo, Atman chính là Thượng Đế, là Bản Thể của vũ trụ, là Tạo hóa v.v...Vì thế, Atman[1] có thể là: Brahman,[2] Thần Ngôn,[3] Nguyên Lý Bất Diệt,[4] Brahmanaspati (Hóa Công) (R.V. 10. 72.2), Visvakarman (Tạo hóa-The All Maker) (R.V. 10. 81), Purusha (Chân Nhân) (R.V.10. 90).
Prajapati (Chủ Tể Càn Khôn, Lord of Creatures) (A.V. XIX. 17), Hiranyagarbha (Kim đơn Kim nhân, Golden Germ) (R.V. 10. 121. 1), Nguyên Thể (The original Being), [5] Căn cơ vũ trụ, [6] Thái Nhất (The One),[7] (the Underlying Unity of all being),[8] Chân lý,[9] Sự sống, [10] Thần, Chân Tâm,[11] trục cốt, núm rốn, [12] của vũ trụ và Vạn Hữu.
Sau khi đã biết khái quát rằng Atman chính là Brahman, là Thượng Đế, là Bản Thể, là Căn Nguyên, là Tâm Điểm Sinh Hóa của vũ trụ, ta có thể so sánh ít nhiều quan niệm then chốt giữa thánh kinh Ấn Độ (như Phệ Đà, Áo Nghĩa Thư) với Dịch Kinh.)
1). Áo Nghĩa Thư chủ trương Atman chính là Brahman[13]. Thánh Hiền Trung Hoa cũng nói:
Hữu sinh ư Vô [14] Vô Cực nhi Thái Cực [15]
2). Áo Nghĩa Thư chủ trương Atman tạo dựng nên vũ trụ, Vạn Hữu [16] thì các Triết gia Trung Quốc cũng chủ trương Thái Cực sinh hóa ra vũ trụ,Vạn Hữu [17]
3). Atman hay Đại ngã chính là Nguyên Khí hay Nguyên Thần, mịt mù huyền ảo, ẩn khuất trong đáy lòng vạn vật. Tế vi thì thực tế vi, mà mênh mông thì không bờ không bến, ấy là Atman ẩn ngụ trong thâm tâm Vạn Hữu. [18]
Atman cực kỳ vi tế ấy, lại lớn hơn mọi thế giới: bao quát quần sinh... vô xú, vô thanh ấy là Chân Tâm ở trong lòng tôi, ấy chính là Brahman (Thượng Đế) [19]
Quan điểm các Hiền Triết Trung Hoa cũng tương tự: Xướng Đạo Chân Ngôn mượn hai câu Trung Dung: «Ngứ đại, thiên hạ mạc năng tải, ngứ tiểu thiên hạ mạc năng phá» để bình luận rằng:
Thái Cực bao trùm trời đất... Thái Cực lồng trong lòng Vạn Hữu. Thế là Thái Cực vừa là cực đại vừa là cực tiểu.[20]
Đối với Áo Nghĩa Thư, vũ trụ chỉ gián phân, sai biệt ngoài mặt; gián phân, sai biệt vì danh tự, hình thức hoạt động khác nhau, nhưng thực thể vẫn chỉ là một. [21]
Đó chính là quan niệm nhất thể, vạn thù của Dịch Kinh và của các Triết gia Trung Hoa [22]
4). Áo Nghĩa Thư chủ trương Atman là toàn thể vũ trụ [23], vũ trụ là biểu dương của Atman [24] và Atman tiềm ẩn ngay trong đáy lòng Vạn Hữu [25]
Khảo sát thư tịch Trung Hoa ta thấy:
Chu liêm Khê chủ trương: Vạn vật thống thể nhất Thái Cực, vạn vật hợp nhất lại tức là Thái Cực. [26] Chu liêm Khê viết thêm: Mỗi vật đều có một Thái Cực. [27]
Sao Kiểu đạo nhân viết: Trời đất là biểu dương của Thái Cực. [28]
Chu Hi cũng viết: Người người đều có một Thái Cực, vật vật đều có một Thái Cực [29]
Tuy chỉ có một Thái Cực nhưng muôn loài đều bẩm thụ, chẳng những thế còn bẩm thụ trọn vẹn cả Thái Cực, ví như mặt trăng trên trời, tuy chỉ có một nhưng tán ra khắp sông hồ, thời đâu đâu cũng thấy có trăng, tuy nhiên không nói được là trăng đã chia phôi san sẻ. [30]
5). Áo Nghĩa Thư cho rằng Atman là Duy nhất, Tuyệt Đối [31]
Chu Tử cũng chủ trương: Thái Cực là duy nhất, là Tuyệt Đối [32]
6). Áo Nghĩa Thư chủ trương Atman là:
Tâm, Trục Cốt, Căn Đế, Cuống rốn Vạn Hữu, và Vạn Hữu y như biến thiên ảo hóa ở vòng tròn bên ngoài. Ta có thể vẽ như sau:
[33]
Dịch Kinh và các Đạo gia cũng vẽ vòng Dịch tương tự, trong đó: Thái Cực ở trung tâm, Hào Quải tượng trưng cho Vạn Hữu biến hóa bên ngoài.
7). Các Triết gia Ấn Độ rất chú trọng đến Tâm điểm của bánh xe Vạn Hữu, vì Tâm điểm ấy thoát vòng lao lung biến ảo của vũ trụ [34]
Ở Trung Quốc các Đạo gia cũng hết sức chú trọng đến Tâm điểm vòng Dịch vì biết đó là điểm Trung Hoàng Thái Cực, khu nữu của đất trời.
Văn Đạo tử viết: Cổ nhân gọi trục ấy là Trung tâm trời đất, là Cực Điểm Thái Cực.
Theo Thiên Đạo, tức là vào được Trung điểm Thái Cực. Người quân tử, mới đầu tu Nhân Đạo cho hợp với Thiên Đạo. Khi đã hợp Thiên Đạo sẽ vào được giữa vòng Dịch, siêu xuất trên hình tướng...
Ôi, vi diệu thay là trục bánh xe Vạn Hữu. Ai
là người thông hiểu được?[35]
Chí Nhất Chân Nhân viết trong Nhập Dược Kính như sau: Người hiểu Tạo hóa tất sẽ tìm gốc gác mình nơi «Chân Thổ». Tìm được Chân Thổ tức là Đan Đạo thành [36]
Chân Thổ tức là Trung Hoàng Thái Cực, Chân Thổ như vậy chính là Quê hương, là Đất tổ, là Đế đình, là Bồng đảo Trường Sinh, hiện lên giữa muôn trùng ba lãng biến thiên của hoàn võ [37]
8). Áo Nghĩa Thư cố tìm cho ra cứ điểm của Vạn Hữu, đó là Atman. Atman sẽ là nơi cư ngụ, chốn dừng chân của những bậc đại đức tu trì [38]
Dịch Kinh cũng dạy người quân tử phải biết Ý Nghĩa của Tâm điểm Thái Cực Trung Hoàng, và phải coi đó là nơi cư ngụ thiết yếu của tâm hồn mình [39]
9). Áo Nghĩa Thư cho rằng cái học cao siêu nhất là cái học để tìm cho ra Atman, cho ra Tuyệt Đối Thể tiềm ẩn đáy lòng vũ trụ và đáy lòng con người [40]
Chu liêm Khê cũng cho rằng: Biết được Thái Cực, Hoàng cực là cái biết cao siêu nhất [41]
10). Mục đích Áo Nghĩa Thư là đi lần theo mối giây liên lạc giữa Vạn Hữu, để dần dà từ Vạn trở về Nhất, từ Vạn thù tới Tinh hoa duy nhất, cái Tinh hoa đã hàm ngụ cả Vô cùng, Vô tận, tới Atman Bản Thể [42]
Mục đích của Dịch Kinh cũng là băng qua Vạn Hữu, hình tướng, để tìm cho ra Thái Cực, Vô Cực.
Đó chính là ven theo giòng để trở về nguồn theo từ ngữ của Trình Tử [43]
Đại Đỗng Chân Kinh viết:
Chân linh tại ngã, bất nan tầm,
Phản chiếu hồi phong hỗn Đế Tâm [44]
Tạm dịch:
Chân Linh sẵn có nơi ta,
Chân Linh tìm tõi, có là khó đâu,
Đế Tâm nếu muốn hồi đầu
Ngược dòng vũ trụ, tiến sâu về nguồn.
Lại viết:
Căn Bản do lai Thái Cực tầm
Căn Bản phải tìm nơi Thái Cực [45]
Đỗng Huyền Linh Bảo Tất Pháp viết:
Minh vô tướng ư hữu hình chi hậu,
Trí hư cực ư vị triệu chi tiên [46]
Tạm dịch:
Băng qua sắc tướng, hình hài,
Quán thông vô tướng, vô sai, vô thù,
Đất trời từ chửa manh nha,
Tìm ra Hư cực mới là cao siêu
Thái Cực Quyền Bổng Đồ Thuyết đã viết một câu rất ý vị khi cho rằng Dịch Kinh dạy người phương pháp trở về với Trời [47]
11). Taittiriya Upanishad (II, 1 4) chủ trương con người có nhiều tầng lấp, con người bên ngoài thì thô thiển, con người bên trong thì tế nhị. Từ ngoài vào trong, con người càng ngày càng trở nên tế nhị. Con người cực kỳ tế vi, tế nhị bên trong chính là Atman, là Brahman, là Thực Thể Siêu Hình của vũ trụ và của lòng người [48]
Tác giả Thái Cực Quyền Bổng Đồ Thuyết cho rằng Dịch có 64 quẻ, quẻ nào cũng có 6 Hào, tức là sáu tầng, như vậy con người cũng có sáu tầng, từ ngoài vào trong là: 1. Bì phu (da), 2. Cơ nhục (thịt), 3. Cân kiện (gân). 4. Võng mô (màng), 5. Cốt tiết (Xương khớp xương), 6. Não tủy (Óc tủy) [49]
Nhưng ngoài sáu tầng Hào ra, Dịch còn một tầng căn cơ cốt cán nữa: đó là Thái Cực. Ta xem các đồ bản Dịch bất kỳ là viên đồ, hay hoành đồ, ta đều thấy 7 tầng đó. Suy ra thì trong con người, dưới tầng lớp Não tủy, còn có tầng lớp Thái Cực nữa. Có như vậy Dịch mới ăn khớp được với con người, và ta mới hiểu sao Chu Hi lại nói được: Ai ai cũng có Thái Cực trong mình [50]
12). Nếu học để tìm cho ra Atman tiềm ẩn đáy lòng mình là cái học cao siêu nhất, thì sống phối hợp với Atman cũng là một đời sống đạo lý cao siêu nhất đối với các Thánh Hiền Trung quốc.
Các Thánh Hiền Trung quốc dẫu là Nho hay Lão cũng đều chủ trương: đời sống đạo hạnh, thuần túy cao siêu nhất là sống phối hợp với Thái Cực, với Tâm Điểm, Trung Điểm Hoàn Võ. Các ngài gọi thế là Hoàng Trung Thông Lý, chính vị cư thể [51] Hiểu biết được lẽ Trung Hoàng Thái Cực, vào được Trung Cung Chính Vị của đất trời. Các ngài gọi đó là đạo Trung Dung [52], hay là luyện thành Kim Đơn...[53]
Xướng Đạo Chân Ngôn chủ trương luyện thành Kim Đơn, tức là thực hiện được Bản Thể của Thái Cực. [54] So sánh 2 quan niệm Atman và Thái Cực ta thấy rằng cách diễn tả tuy có khác, nhưng chung qui cũng chỉ có một đề tài:Thượng Đế là căn bản quần sinh vũ trụ
B. THÁI CỰC VỚI LOGOS
Quan niệm Thái Cực cũng tương tự như quan niệm Logos ở Âu Châu.
Quan niệm Logos từ Héraclite (540 - 475 TCN), đã truyền dần qua các học phái Tân Bá Lạp Đồ, Khắc Kỷ, qua Philon le Juif (30 TCN đến 54 CN) để rồi du nhập vào Tân Ước Công giáo.[55] Héraclite cho rằng:
Logos là Lý phổ quát,[56]Logos là mối giây liên lạc giữa vũ trụ, quần sinh, [57]Logos phổ quát đại đồng, là toàn bích. [58]
Logos là Chân Lý, vì Chân Lý Phổ Quát bao dung được hết mọi khía cạnh.[59]Logos là Cơ Cấu Vạn Hữu.[60]Logos là Thần, là Thượng Đế [61]
Đối với Héraclite, Logos vừa là cực đại, vừa là cực tiểu, vì Logos vừa phổ quát, vừa bao dung Vạn Hữu [62]lại vừa tiềm ẩn trong lòng Vạn Hữu.[63]
Héraclite chủ trương: Logos soi sáng mọi tối tăm, phơi bày mọi ẩn áo, sẽ làm cho ta thấy rằng vũ trụ là nhất thể, toàn bích. Logos vừa là Nhất, vừa là Vạn; Logos tuy hiển dương trong Vạn, nhưng vẫn là duy nhất bất khả phân... Mọi người đều có thể nhận biết Logos, vì Logos là của chung mọi người, ở trong lòng mọi người. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể suy nghĩ, nói năng, hoạt động đúng với Chân lý, với bản tính, với Logos... [64] Quan niệm Logos trên đây nào có khác gì quan niệm Thái Cực đâu.
Thực thế, các Triết gia Trung Hoa từ lâu vẫn cho rằng: Thái Cực là Lý [65] Thái Cực là Chân [66]Thái Cực là Thiên Lý phổ quát, đại đồng. [67]
Thái Cực vừa bao quát Vạn Hữu lại vừa tiềm ẩn trong lòng trong Vạn Hữu [68]Thái Cực đã tiềm ẩn trong lòng mọi người. Đó là Đạo Tâm, là Thiên Tính; Tính ấy nơi Thánh chẳng tăng, nơi phàm chẳng giảm. Đó là Kim Cương Thân bất khả hủy hoại [69] Cơ cấu Vạn hữu đã hàm tàng trong Thái Cực. [70]
Héraclite cho rằng: Logos bao giờ cũng chân thực, vô vọng, nhưng người thường không hiểu được Logos, dẫu là chưa được nghe, hay là đã được nghe bàn tới. Con người nhờ Logos mới biến thiên sống động, nhưng thường lại ù cạc chẳng biết tăm hơi gì về Logos...Logos chí công, chí chính, còn người thường thì lại luôn có những ý nghĩ riêng tư, lẻ biệt. Tuy là thường xuyên tiếp xúc với Logos, nhưng người ta thường mâu thuẫn tương phản với Logos; và cái mà họ gặp hằng ngày đối với họ lại trở nên hết sức xa lạ. [71]
Nhưng lời nói trên làm ta liên tưởng đến một câu Mạnh tử:
Vẫn mang Ngài, mà thân chẳng hiển
Vì quá que,n nên khiến chẳng suy,
Suốt đời ngài độ ta đi,
Nhưng mà dung tục biết chi đạo Ngài.
Héraclite chủ trương vạn vật biến thiên, nhưng vẫn cho rằng: Thái Cực trung nhất muôn đời chẳng biến thiên[72]
Philon le Juif (30 TCN - 54 CN) cho rằng: Cơ cấu Vạn Hữu đã được ghi tạc trong Logos [73]
Chu Hi cũng cho rằng: Thái Cực là Lý của Vạn Hữu [74] Theo các học giả Âu Châu, chữ Lý có thể hiểu được nhiều cách, ví dụ là khuôn, là cơ cấu, là dạng thức v.v... [75]
Các bản dịch Cựu Ước và Tân Ước bằng tiếng Trung Hoa lại càng cho ta thấy liên quan mật thiết giữa Thái Cực và Logos. Thực vậy, người Trung Hoa từ lâu vốn chủ trương: Thái Cực là Thần, là Đạo. Thế mà chữ Thần, chữ Đạo ngày nay lại được dùng để dịch danh từ Thượng Đế và Logos trong các bản Thánh Kinh Trung Hoa.[76] Mở Sáng Thế Ký ta thấy ngay trang đầu: Khởi sơ, Thần sáng tạo thiên địa.
Mở Phúc Âm Thánh Jean, ta đọc thấy nơi trang đầu: Thái sơ hữu Đạo, Đạo dữ thần đồng tại, Đạo tựu thị thần.Đối với Thánh Jean, Logos là căn cơ Vạn Hữu; không Ngài thời không có Vạn Hữu [77]
Trong một bài diễn văn trước tòa Thượng thẩm Nhã Điển, Thánh Paul nói đại khái rằng: Con người sinh ra đời cốt là để tìm tòi cho ra Thượng Đế, và để đạt tới Thượng Đế. Vả Thượng Đế cũng chẳng xa con người, vì ta luôn sống động trong Thượng Đế... Chúng ta là giòng giõi Thượng Đế [78]
Các bậc Thượng trí, Thượng nhân Trung Hoa thực ra cũng không chủ trương gì khác.
Đối với các Ngài con người sinh ra cốt là để tìm Đạo, tìm Thái Cực. Vả Đạo hay Thái Cực cũng chẳng ở xa con người, vì Đạo hay Thái Cực chính là căn cốt con người, là tính mệnh con người [79]
Những so sánh trên đây chắc chắn đã làm sáng tỏ rất nhiều về quan niệm Thái Cực và giúp ta bắc một nhịp cầu thông cảm giữa Đông Tây.
CHÚ THÍCH
[1] Maitri Up. 7
[2] He (i.e. Atman) is Brahma (Ait. 5.3.)
[3] «Cet Impérissable est le monde entier, passé, présent, avenir et tout ce qui transcende le triple temps. Ceci aussi est le phonème Om car en vérité tout ceci est le Brahman; cet Atman, est le Brahman» (Mand U.I. 2)
Cf. Instant et Cause, page 116
[4] L'aksara, l'Impérissable est la matrice de tout ce qui existe, omniprésent et infiniment subtil... c'est de lui que les choses surgissent, en lui qu'elles retournent à la fin (Mund. U.I. 6 - 7).
Cf. Instant et Cause, page 116
...Brahman, atman et aksara désignent indifféremment l'unique réalité, le réel du réel, la plénitude sans fissure saisie en une intuition mystique (prajnãnảghàna ou jnãna) qui est au delà de la dualité du sujet et de l'objet (B.A.V. IV 5 - 13) Ib. 117
[5] Verily in the beginning this World was Brahma
(Brahma 1,4. 10) Cf. The Thirteen Upanishads
[6]The ultimate ground of the world. Ib. 10
The world ground. Ib. 21
[7]The primal entity Ib. 21
«... Him who is the One existent, sages name variously
(R. V. I 164 - 461) Ib. 13
[8] Ib. page 1
[9] This Soul (Atman) assuredly indeed is Isana (Lord), Sambhu (the Beneficent), Bhava (the Existent), Rudra (the Terrible), Prajàpati (Lord of Creation), Visvarsrij (Creator of All), Hiranya garbha (Golden Germ), Truth (Satya), Life (prana), Spirit (Kainsa), Sastri (Punisher, or Commander or Teacher), the Unshaken, Vishnu (Pervader), Nàràyana (Son of Man) — Maitri Up. 7.7, Cf. The Thirteen Up, page 453
[10] Coi chú thích trên.
[11] Le coeur, dit il (Yajnavalkya) manifeste la stabilité (sthiti), il est le siège (ayatana) de tous les êtres, le pivot (pratistha) de tous les êtres. C'est en prenant leur point d'appui sur le coeur que subsistent tous les êtres. Le coeur est le Suprême Brahman. (B.A.V. IV - 17), Instant et Cause, page 124
[12] Ce moyeu est la nàbhi du père, nàbhi signifiant à la fois moyeu et nombril, le lieu originaire, source des êtres. (R.V. I. 164 - 2), Instant et Cause, page 15
[13] Verily, that great unborn Soul, undecaying, undying, immortal, fearless, is Brahma (Brih. 4. 4 - 25)
He (i.e., Atman) is Brahma (Ait 5. 3)
The Thirteen Up. p. 29
[14] Đạo Đức Kinh Chương II
[15] Cf. Thái Cực đồ Thuyết (Chu liêm Khê) TQTHS, Thiên III thượng - trang 5
[16] He, Truly, indeed is the Self (Atman) within the heart, very subtile like fire, assuming all forms. This whole world is his food.
On Him, creatures here are woven.
Maitri Upanishad 7.7.
[17] Thái Cực nhất khai cơ, nhi vạn tượng giai tòng thử triệu. 太 極 一 開 機 而 萬 解象 皆 從 此 兆. — Xướng Đạo Chân Ngôn, quyển II 8a
[18] «Cette (essence) difficile à percevoir, intégrée dans le mystère, cachée, sise dans la caverne primordiale. Plus fin que le fin, plus grand que le grand est l'atman déposé dans le secret de la créature» (K.U. II 12 et 20) — Lilian Silburn - Instant et Cause, page 112
[19] Cet Atman infiniment petit est plus grand que tous les mondes! embrassant tout ce qui est.. muette, indifférente, est cette âme qui est au dedans de mon coeur, c'est Brahman même (Ch. U III 14. 4) — Ib. 112
[20] Trung Dung viết: Ngứ đại thiên hạ mạc năng tải Thái Cực bao hồ thiên địa chi ngoại dã. Ngứ tiểu thiên hạ mạc năng phá. Thái Cực nhập hồ Vạn Hữu chi trung dã. Hợp chi thiên địa đồng nhất Thái Cực. Phân chi vạn vật các nhất Thái Cực. 中 庸 曰 語 大 天 下 莫 能 載 太 極 包 乎 天 地 之 外 也. 語 小 天 下 莫 能 破. 太 極 入 乎 萬 有 之 中 也. 合 之 天 地 同一太 極. 分 之 萬 物 各 一 太 極. — Xướng Đạo Chân Ngôn, quyển II - trang 8b.
[21] Noms, formes, actes (nama - rupa - Karma) engendre la multiplicité, mais la continuité immédiate et profonde n'est brisée qu'en surface par l'aspect extérieur et le langage. Les discontinuités sont illusoires: par la ferveur (tapas) et la connaissance intuitive, on retrouve la continuité essentielle, le Tout unique et indifférencié, le havre même du salut, «Dès qu'on connaÛt le Tout, on devient le Tout» (P.U. IV. 9,11). «La pluralité n'est pas. Il court de mort en mort qui croit voir la multiplicité dans l'univers. Il faut voir (le soi) dans l'unité (ekadha), Lui ce stable infini» (B.A.U. IV. 4. 19)
A la triade des noms, formes et actes s'oppose une autre triade dans laquelle l'homme affranchi de la soif prend son refuge à l'heure de la mort: «Tu es l'impérissable, tu es l'inébranlable, tu es la plénitude de la vie (Ch. U. III 17, 6 et note 3 page 45 de la traduction E. Senart)
Lilian Silburn, Instant et Cause, page 117 - 118
[22] Nhất thể nhi vạn thù. 一 體 而 萬 殊.— Đại Đỗng Chân Kinh, Quyển thượng - trang 5.
[23] Atman alone is the whole world (Chand. 7. 25. 2)
The Thirteen Up. page 31
...This Soul (Atman) this Immortal, this Brahma, this All (Brih. 2 5 - 1) — Ib. 29
[24] Reality is One. Diversity and manifoldness are only an appearance. — Ib. 36
Cf. Brih 4.4. 19 - 20 - Chand. 7. 26. 2
... If all is One, the manifold differences that seem so real in experience are not constitutive of the inner being of the One; they must be only an appearance, a phenomenon.
Ib. 36
Cf. Maitri 6. 22
[25] The Inner Soul of all things...
Who makes his one form manifold (Katha 5 - 12) — Ib. 37
[26] Vạn vật nhất Thái Cực dã. Cái hợp nhi ngôn chi, vạn vật thống thể nhất Thái Cực. 萬 物 一 太 極 也. 蓋 合 而 言 之, 萬 物 統 體 一 太 極. — Tạ vô Lượng, TQTHS, Thiên III thượng - trang 7
[27] Nhất vật các cụ nhất Thái Cực. — Tạ Vô Lượng, TQTHS, Thiên III thượng - trang 7.
[28] Thiên địa giả, Thái Cực chi chương dã. 天 地 者, 太 極 之 彰 也.— Sao Kiểu Đỗng Chương, quyển thượng - trang 8a
[29] Nhân nhân hữu nhất Thái Cực, vật vật hữu nhất Thái Cực. 人 人 有 一 太 極, 物 物 有 一 太 極. — Ib. trang 59
[30] «Bản chỉ thị nhất Thái Cực nhi vạn vật các hữu bẩm thụ, hựu các tự toàn cụ nhất Thái Cực nhĩ. Như nguyệt tại thiên, chỉ nhất nhi dĩ, Cập tán tại giang hồ, tắc tùy xứ nhi hiện, bất khả vị nguyệt phân dã.» — Chu hối Am - Ngữ lục, TQTHS, Đệ tam chương thượng trang - 59
[31] The one God, hidden in All things,
All pervading, the Inner Soul of all things
... The one among many, who grants desires
S’vetasvatara Up. 6 11,13
[32] Thái Cực tất Duy Nhất, tất Tuyệt Đối. 太 極 必 惟 一, 必 絕 對.— Tạ Vô Lượng, TQTHS, Đệ tam thiên thượng - trang 58
[33] Roue de l'agencé (rta)
...Cette roue est également le prototype de la roue de la transmigration. — Instant et Cause, pages 15 - 17
[34] L'emplacement exigé par le Buddha est, comme l'a montré P. Mus, au moyen de la roue du devenir, la nabhi, ce centre immobile et paisible qui échappe au tournoiement de l'espace que les Upanishads nommaient «Kha» du nom même du moyeu, et qui, dans le Véda, est le «nombril de l'immortel», le lieu de l'autel où se trouvait placé le feu, Agni (R.V. III, 17.4) — Instant et Cause, page 196.
[35] Cổ nhân xưng thử trục vi thiên địa chi trung. Thái Cực chi cực. Thiên đạo duy cư trung ngự cực... Cố quân tử tu kỳ nhân đạo, tự hợp Thiên đạo. Hợp Thiên đạo tắc đắc kỳ hoàn trung, siêu hồ tượng ngoại. Y hi, vi hồ huyền tai, pháp luân chi trục, y thùy năng thức. 古 人 稱 此 軸 為 天 地 之 中. 太 極 之 極. 天 道 惟 居 中 御 極. ... 故 君 子 修 其 人 道 自 合 天 道. 合 天 道 則 得 其 還 中, 超 乎 象 外. 噫 嘻 微 乎 玄 哉, 法 輪 之 軸 伊 誰 能 識 .— Văn Đạo Tử Giảng Đạo Tinh Hoa Lục, quyển II - trang 36
[36] Thức Tạo hóa giả tất ư chân thổ trung cầu kỳ căn đế yên. Đắc thử tắc đan đạo lập hĩ. — Nhập Dược Kính - trang 4b
[37] Chân Thổ là miền Trung Cung nơi Hà đồ, Lạc thư nên cũng chính là Thái Cực, nó làm ta liên tưởng đến «miền đất hứa» (Terre promise) trong Cực Ước. Nơi đó Hằng Cửu bất biến, ngược hẳn với các vòng bên ngoài tượng trưng cho Vạn Hữu biến thiên.
[38] Le lieu véritable de tous les êtres est, nous le savons, l'Atman, le Soi «Celui qui considère que l'Atman est sa vraie place, de celui là, le mérite ne s'épuise pas. Quelque chose qu'il désire, il le tire de cet Atman. Celui qui quitte le monde sans avoir considéré son lieu véritable, celui - là faute de savoir ne jouit pas» (B.A.U.I. 4. 15 - 16) et la même Upanishad reprend plus loin (Iv. 4. 22): C'est vers lui (le Soi) que tendent ceux qui recherchent leur véritable lieu (loka) après une vie errante. C'est en effet parce qu'ils savaient cela que les sages d'autrefois ne recherchaient pas de postérité: «Que ferions nous d'une postérité nous qui, avec l'Atman, avons le lieu véritable?»
A la recherche de la continuité temporelle qui se manifestait par le désir d'une descendance s'est substituée la quête de la Patrie d'origine. — Lilian Silburn - Instant et Cause, page 114.
[39] Quân tử Hoàng trung thông lý chính vị cư thể. 君 子 黃 中 通 理 正 位 居 體.— Dịch Khôn, Quải
[40] The lower knowledge is of various sciences, but «the higher is that whereby that Imperishable is apprehended» (Mund. I.I. 4 5) — The Thirteen Upanishads, page 36
[41] Trung tức chí Lý hà thường bất kiêm chí nghĩa. Đại học, Văn ngôn giai ngôn tri chí. Sở vị chí giả tức thử Lý dã. Ngứ độc Dịch giả viết: Năng tri Thái Cực tức thị tri chí. Ngứ độc Hồng Phạm giả viết: Năng tri Hoàng cực tức thị tri chí... 中 即 至 理 何 常 不 兼 至 義. 大 學 文 言 皆 言 知 至. 所 謂 至 者 即 此 理 也. 語 讀 易 者 曰: 能 知 太 極 即 是 知 至. 語 讀 洪 範 者 曰 能 知 黃 極 即 是 知 至 .— Tống Nguyên Học Án, quyển 12 - trang 6 (Liêm Khê Học Án)
[42] Les Upanishads sont à la recherche d'une continuité de proche en proche d'ordre spatial, celle du fil où sont tissés tous les êtres et qui s'achemine de l'infini à l'infime (Anu) dans lequel se concentre toute l'infinité. — Lilian Silburn - Instant et Cause 113
[43] ...Elles aboutissent donc à l'essence de l'essence, au fil du fil, à l'infime de l'infime, au caché, au mystère, en un mot à «l'Atman plus précieux que tout et plus intime» et qui demeure inaccessible dans son immanence. — Ib. page 113
[44] Đại đỗng Chân Kinh, trang 17a
[45] Đại đỗng Chân Kinh, trang 4b
[46] Đỗng Huyền Linh Bảo Định Quan Kinh Chú, trang 3
[47] Dịch chi vi thư giáo nhân hồi Thiên chi đại kinh, đại pháp dã. 易 之 為 書 教 人 回 天 之 大 經, 大 法 也.—Thái Cực Quyền Bổng Đồ Thuyết, trang 52
[48] La Taittiriya Upanishad (II, 1 - 4) décrit les diverses personnes emboÛtées les unes dans les autres en allant de l'extérieur à l'intérieur et en passant du plus grossier au plus subtil. Ce sont le soi fait de nourriture, le soi fait de souffle, le soi fait d'organe mental (manas), le soi fait d'intelligence (vijnan), enfin le soi fait de félicité (ananda): la plus intime remplissant la plus grossière et se distinguant d'elle. C'est selon la progression de ces cinq personnes qu'on apprend que l'Atman est identique au Brahman, «la substance universelle et ce dont tous les êtres sont nés, ce dans quoi étant nés, ils vivent, ce en quoi à leur mort ils entrent (III, 1)» et ce Brahman est, nous le savons, la substance réelle (satya), spirituelle, infinie, établie au secret (du coeur) (II, 1) — Lilian Silburn - Instant et Cause, pages 112 -113.
[49]...Thử đồ lục thập tứ quái điên đảo tương thác dĩ minh Thái Cực quyền bổng triền ti chi đại khuyên, tiểu khuyên ước hữu lục tầng, dữ nhân thân chi bì phu, cơ nhục, cân kiện, võng mô, cốt tiết, não tủy lục tầng thích tương phù hợp. 此 圖 六 十 四 卦 顛 倒 相 錯 以 明 太 極 拳 捧 纏 絲 之 大 圈, 小 圈, 約 有 六 層 , 與 人 身 之 皮 膚, 肌 肉, 節 腱, 網 膜, 骨 節, 腦 髓 六 層 適 相 符 合.—Thái Cực Quyền Bổng Đồ thuyết trang 49.
[50] Nhân nhân các hữu nhất Thái Cực. 人 人 各 有 太 極. (Chu Hi) — Cf. Tạ Vô Lượng, TQTHS, Đệ tam thiên thượng, tr. 59.
[51] Hoàng trung thông lý, chính vị cư thể. — Dịch Khôn quải
[52] Trung Dung hay Trung đạo. «Trung Dung kỳ chí hỹ hồ dân tiển năng cửu hỹ»
Đạo Trung Dung cao siêu toàn mỹ.
Theo Trung hồ dễ mấy ai.
Trung Dung - Chương II
[53] Cố kết Đan dã giả, hoàn Thái Cực chi thể tắc Đan thành hỹ. 故 結 丹 也 者, 還 太 極 之 體 則 丹 成 矣. — Xướng Đạo Chân Ngôn, quyển 2, trang 8b.
[54] Xin đọc thêm đoạn nói về Thực chất của Atman trong Lê xuân Khoa Nhập môn Triết học Ấn Độ trang 159
[55] Héraclite, héros prométhéen de la pensée, apporte aux humains endormis, le feu du Logos. — Héraclite et la Philosophie page 65
... A l'interprétation sceptique du Logos héraclitien, succède son interprétation stoicienne... Puis vinrent les Néoplatoniciens... Après lui (Chalcidius), le Logos passa des Stoiciens à Philon le Juif et à l'Évangile johannique. — Ib. page 79
[56] Le Logos est la Raison une, universelle, unificatrice (Vernunft) — Héraclite et la Philosophie, page 59
[57]Le Logos est ce qui lie les phénomènes entre eux, en tant que phénomènes d'un univers un... Le Logos est un lien. — Ib. 57
[58] Le Logos est universel.
[59]Le vrai c'est l'universel, la totalité des fragments du monde, l'intelligence de l'universel, la méditation de l'invisible, la saisie de l'unité, de la totalité. — Ib. 64
... Le critère de la vérité n'est pas fourni par l'opinion commune qui n'est qu'une somme d'opinions particulières, mais par le Logos universel. — Ib. 85
[60] Le Logos est la structure de tout ce qui est. — Ib. 71
[61] Le Logos héraclitien est divin et la divinité est Logos. Logos et Dieu constituent les liens de l'Univers et sont présents dans la pensée humaine. —Ib. 125
... Dieu est uni au Logos, au cosmos, au feu; Il est l'unité des contraires. — Ib. 123
... Le Logos avec lequel son Logos (le Logos d'Héraclite) entre en communication est un Logos divin qui unit les contraires. — Ib. 86
[62] L'englobant universel englobe aussi bien la nature cosmique que le devenir humain dans leur originelle unité.— Héraclite et la Philosophie, page 120.
... L'englobant universel, c'est à dire la Totalité, dévoile chaque fois un de ses modes d'être; le regard humain contemple la manifestation de ces aspects, mais risque de les isoler. La pensée aspire à saisir la totalité comme totalité; au cours de cette visée, elle recontre la divinité (le fondement de tout ce qui est), et en essayant de parler d'elle, se mue en théologie. — Ib. 126
[63] La divinité assure la permanence du devenir universel; elle est même le devenir de l'être. Elle ne gouverne pas le monde du dehors, elle ne survole pas l'univers, elle n'est pas la transcendance qui s'assujettit une immanence, comme le Logos et le feu, elle est intérieure au monde. — Ib. 127
[64] Le Logos en éclairant les ténèbres et ce qui est caché, manifeste la signification totale de l'Univers, signification unitaire. Il est un et universel se manifestant dans le tout, il reste Un et montre que la totalité n'est totalité qu'en tant qu'Unité. Les hommes peuvent connaÛtre le Logos, car la pensée est commune à tous et habite leur âme; cela ne signifie pas que tous pensent. agissent et parlent conformément à la vérité, c'est à dire à la nature vraie. — Héraclite et la Philosophie, p. 62
[65]Cố Thái Cực chỉ thị nhất cá Lý tự. — (Chu Hối Am) Tạ vô Lượng, TQTHS, Đệ tam thiên thượng tr. 58
[66] Dĩ Chân vi thể... cố vân Vô Cực chi chân. —Qui Nguyên Trực Chỉ, quyển hạ - trang 604
[67] Khổng tử tắc viết Thiên Lý... Dịch đạo tắc viết Thái Cực. — Ib. Quyển Trung, trang 369
[68] Thái Cực bao hồ thiên địa chi ngoại... Thái Cực nhập hồ vạn vật chi trung... 太 極 包 乎 天 地 之 外 ... 太極 入 乎 萬 物 之 中. — Xướng Đạo Chân Ngôn, trang 8b
[69] Đan giả, hà dã? Nhân trung chi Thái Cực dã. — Xướng Đạo Chân Ngôn, tr. 8a
[70] Thái Cực chỉ thị thiên địa vạn vật chi lý. 太 極 只 是 天 地 萬 物 之 理.— Phùng Hữu Lan, Trung Quốc Triết Học Sử, tr. 905
[71] Le Logos que voici, étant toujours vrai, les hommes n'en acquièrent pas la compréhension, ni avant de l'avoir entendu, ni une fois qu'ils l'ont entendu. Car bien que tout devienne selon ce Logos - ci, ils sont pareils à des inexpérimentés, même s'ils ont fait l'expérience et des paroles et des ouvres... Mais bien que le Logos soit universel, les gens du commun (la foule) vivent comme s'ils avaient une pensée particulière. Le Logos avec qui pourtant ils ont le plus constant rapport, avec lui ils sont en désaccord et ce que tous les jours ils rencontrent, cela leur paraît étranger.
Héraclite et la Philosophie, page 58.
[72]Thái Cực chi trung nhất, cắng vạn cổ nhi bất biến. 太 極 之 中 一 亙 萬 古 而 不 變.— Văn Đạo Tử Giảng Đạo Tinh Hoa Lục, quyển I - trang 21
[73] Philon le Juif (30 av. J.C. à 54 après): «La constitution de toutes choses est gravée dans le Logos» (Art. Philon d'Alexandrie, Grande Enc. francaise) — M. Senard, Le Zodiaque 322
[74] Thái Cực chỉ thị thiên địa vạn vật chi lý. 太 極 只 是 天 地 萬 物 之 理. — Phùng Hữu Lan - Trung Quốc Triết Học Sử, trang 905
[75] Trong quyển Science and Civilisation in China của Joseph Needham ta thấy các học giả Âu Châu dịch chữ Lý bằng những chữ sau đây: 1 Form, 2 Natural law, 3 Pattern in things, 4 Principle, 5 Vernunft, 6 The generative Reason (Logos Sper- matikos), 7 Prajna, the ineffable, unchangeable, supramundane, absolute, 8 Metaphysical absolute, 9 Buddhata, 10 Absolute.
[76] Cf. Cựu Ước Toàn Thư Thánh Kinh Công Hội tại Hương Cảng ấn hành. Cựu Ước trang 1, Tân Ước trang 125
[77] Nguyên bản Vulgate như sau: «Omnia per ipsum facta sunt, et sine ipso factum est nihil quod factum est». Bản dịch Crampon: Tout a été fait par lui, et sans lui rien n'a été fait de ce qui a été fait.
Evangile de Saint Jean, Prologue I. 3
[78] S'il a fait habiter sur toute la face de la terre tout le genre humain...C'était afin que les hommes cherchent la divinité pour l'atteindre si possible, comme à tâtons et la trouver; aussi bien n'est elle pas loin de chacun de nous. C'est en elle en effet que nous avons le vie, le mouvement et l'être. Ainsi d'ailleurs l'ont dit certains des vôtres: «Car nous sommes aussi de sa race» — Actes des Apôtres XVII - 26- 27- 28 (Bible de Jérusalem) p. 1463
[79] S'il a fait habiter sur toute la face de la terre tout le genre humain...C'était afin que les hommes cherchent la Divinté pour l'atteindre si possible, comme à tâtons et la trouver; aussi bien n'est elle pas loin de chacun de nous. C'est en elle, en effet, que nous avons la vie, le mouvement et l'être. Ainsi d'ailleurs l'ont dit certains des vôtres: «Car nous sommes aussi de sa race» — Actes des Apôtres XVII- 26- 27- 28 (Bible de Jérusalem) p. 1463
THƠ CUỘN - La Ngạc Thụy
Hòa giải với ai đây ? 8 mầm mống chia rẽ
"Mike Wilson"
nếu kẻ nào vẫn ngoan cố tiếp tục :
1. chối bỏ chính nghĩa đánh đuổi ngoại xâm của dân tộc
2. chối bỏ thành quả thống nhất đất nước
3. kết án các lãnh tụ kháng chiến là "tội đồ"
4. chối bỏ thực tại kinh tế thị trường do tư bản đầu tư tại VN
5. chối bỏ các thành quả kinh tế tại VN
6. chối bỏ thế trung lập, độc lập chủ quyền của VN
- bang giao chiến lược với mọi cường quốc trên thế gian
7. chối bỏ vai trò chiến lược của VN để gìn giữ hòa bình
cho toàn bộ khu vực tại Biển Đông
8. luôn luôn tìm đủ mọi cách
bịa chuyện để bôi xấu đất nước và dân tộc VN
thì kẻ ấy đang hòa giải với ai
và ai hòa giải được với kẻ ấy ...???
8 điều trên là mầm mống
của chia rẽ và nội chiến tại VN
mà những kẻ ác
đang manh tâm thực hiện !!!
Nếu Phật có thật, bạn sẽ được gì và mất gì?
Shakespeare đã từng nói rằng “đừng phỉ báng những điều bạn không biết sự thật, nếu không tính mạng của bạn sẽ gặp trùng trùng điệp điệp những nguy hiểm.” Vâng, nếu khi bạn chết bạn thực sự thấy Đức Phật, Phật Pháp đúng là có thật, cũng có luân hồi và có tồn tại địa ngục. Như vậy những người lương thiện thì thật đáng quý, còn bạn, bạn đã mất đi cái gì?
Nhiều năm trước, tại một hội trường lớn có một vị học giả nói với mọi người rằng Phật là tuyệt đối không tồn tại.
Lúc mọi người muốn ông ta chứng minh lời mình nói là đúng, ông ta liền cao giọng nói như thách thức Đức Phật: “Đức Phật quả thực người có linh, hãy xuống đây, trước mặt rất đông mọi người hãy giết chết ta đi, thì chúng tôi sẽ tin là người thực sự có tồn tại”, ông ta cố ý lặng yên chờ mấy phút nữa, đương nhiên là Đức Phật không xuống để giết chết ông ta. Ông ta liền nhìn mọi người xung quanh và nói “mọi người thấy rồi đấy, Đức Phật vốn dĩ là không tồn tại”.
Bất ngờ có một người phụ nữ nông thôn, trên đầu quấn một chiếc khăn, nói với ông ta: “Tiên sinh, lý luận của ông rất cao minh, ông là một học giả uyên bác. Tôi chỉ là một phụ nữ nông thôn, không thể phản bác lại ông, chỉ muốn hỏi ông một câu hỏi ở trong tâm trí của tôi: Từ trước đến nay đã nhiều năm rồi, tôi luôn tin vào Phật, tin vào những lời dạy bảo của Phật và cảm thấy vô cùng thoải mái. Bởi vì trong lòng luôn tràn ngập niềm tin vào Phật , điều đó đã đem lại cho tôi sự bình yên và hạnh phúc to lớn nhất. Tôi hỏi ông: Nếu như khi tôi chết, phát hiện rằng những gì tôi tin vào Đức Phật hết thảy đều không tồn tại, nhưng cả đời này của tôi đã tin vào Phật, vậy tôi sẽ bị tổn thất cái gì?”
Vị học giả suy nghĩ một hồi lâu, cả hội trường yên lặng, người nghe cũng rất đồng ý với suy luận của người phụ nữ này, ngay cả vị học giả cũng thán phục suy nghĩ logic này. Ông thấp giọng trả lời ”Phu nhân, ta nghĩ bà không bị tổn thất cái gì cả”.
Người phụ nữ nông thôn lại nói với vị học giả “Cảm ơn câu trả lời tốt của ông, trong tâm tôi có một thắc mắc, nếu khi mà ông chết, ông thấy những gì Đức Phật răn dạy là đúng sự thật, lục đạo luân hồi là có tồn tại thật. Tôi muốn hỏi ông sẽ mất những gì?” Vị học giả suy nghĩ một hồi lâu và không nói được lời nào.
Cùng suy ngẫm:
Nếu bạn tin Phật và Phật không tồn tại, bạn sẽ mất những gì? Còn nếu như Phật có tồn tại thật, nhưng bạn lại phỉ báng Phật, bạn sẽ mất những gì? Thật đáng phải suy nghĩ sâu xa!
Đối với mỗi người trong chúng ta, bất kể là có tin Phật hay không thì đều biết rằng Phật là lương thiện, là từ bi và luôn bảo hộ chúng sinh. Ý chỉ của Phật là giáo huấn con người lương thiện, chân thành và khoan dung, Mọi người khi gặp nạn đều khẩn cầu Đức Phật phù hộ. Người có lòng tin vào Phật thường là người lương thiện, trong tâm họ luôn chứa đựng những lời dạy bảo và ý chỉ của Phật. Trong tâm họ luôn luôn vui vẻ và chứa đựng lòng biết ơn. Họ tin rằng thiện ác hữu báo nên họ không làm điều ác, tôn sùng lương thiện và hòa ái, chân thành, như thế không tốt sao? Và bởi vì người ta không tin vào sự tồn tại của Đức Phật, không tin vào thiện ác hữu báo, nên họ dám làm bất kỳ điều gì để đạt được danh lợi cho mình, không có đạo đức ước thúc, không có quy phạm lương tâm.
Shakespeare đã từng nói rằng “đừng phỉ báng những điều bạn không biết sự thật, nếu không tính mạng của bạn sẽ gặp trùng trùng điệp điệp những nguy hiểm.” Vâng, nếu khi bạn chết bạn thực sự thấy Đức Phật, Phật Pháp đúng là có thật, cũng có luân hồi và có tồn tại địa ngục. Như vậy những người lương thiện thì thật đáng quý, còn bạn, bạn đã mất đi cái gì?
Bản tính con người là thiện ác đồng thời tồn tại, những người tin vào Phật sẽ ước chế điều ác và hướng thiện, tâm trí của họ thực sự được vui sướng, ngược lại, những người không tin vào Phật thì cái thiện của họ cũng sẽ bị cái ác lấn át, họ sẽ làm bất kỳ điều gì họ muốn, không khác gì động vật. Hãy nhìn xung quanh chúng ta, một thế giới không có đức tin đúng đắn, người ta sẽ không phân biệt được điều gì là thực sự thiện và thực sự ác. Chân thành, lương thiện, nhẫn nhịn, những người chứa những đức tính này là những người tốt nhất. Những người bị tiền bạc thay thế thiện niệm (mọi người bái Phật vẫn vì danh lợi), những người này đã bị mất phương hướng, tìm không thấy được ý nghĩa đích thực của cuộc sống.
Hành xử lương thiện, không làm điều ác. Hạt giống lương thiện ở trong tâm hồn mỗi chúng ta, nếu không ngừng tưới lên nó đức tin đúng đắn, tôi nghĩ rằng bạn sẽ tuyệt đối không mất gì mà còn có được một cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn!
Theo NTDTV
Biên dịch: Mai Trà, biên tập: Tuệ Minh
Ngữ nghĩa của "nếu"
Câu điều kiện tiếng Việt từ trước đến nay thường chỉ được đề cập thoáng qua trong các sách ngữ pháp với tư cách là một tiểu loại của câu ghép chính phụ. Do chưa được xem trọng nên – so với tiếng Nhật, tiếng Anh chẳng hạn – nhiều vấn đề của nó vẫn chưa được làm sáng tỏ, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến ngữ nghĩa.
Trên cơ sở tiếp thu những thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước (trước hết là hai nhà Nhật ngữ học Maeda (1991) và Sakahara (1985)), chúng tôi đã tiến hành phân loại câu điều kiện tiếng Việt dựa vào ba tiêu chí: (1) quan hệ nhân quả (±causality) giữa hai mệnh đề[1] (protasis và apodosis), (2) tính hiện thực (±reality) của các sự việc trong phát ngôn, và (3) tần số (frequency) xuất hiện của sự việc được nói đến trong phát ngôn.
Theo tiêu chí (1) câu điều kiện tiếng Việt có thể phân thành 2 loại chính là câu điều kiện-kết quả (+causality) và câu tiền đề-kết luận (–causality).
Trong câu điều kiện-kết quả (bộ phận chủ yếu của câu điều kiện) chúng tôi dùng tiêu chí (2) về tính hiện thực để chia bộ phận này thành hai loại nhỏ hơn: giả định (–reality) và phi giả định (+reality) (= sự việc đã xảy ra trong thực tế). Trong tiếng Việt, giả định và phi giả định có thể được xác định bằng một tiêu chí bổ trợ là tần số xuất hiện sự việc: nếu sự việc có tần số lớn hơn 1, rất nhiều khả năng ta có một phát ngôn phi giả định.
Trong phần này, trên cơ sở phân loại trên, chúng tôi thử phân tích một số biểu hiện của NẾU, một kết từ có thể xem là tiêu biểu cho quan hệ điều kiện, để qua đó làm sáng tỏ thêm một số vấn đề về ngữ nghĩa câu điều kiện. Nói chung, khả năng xuất hiện của NẾU trong hầu hết các tiểu loại và khả năng biểu hiện đa dạng sắc thái ngữ nghĩa của nó có thể nhận định rằng phân tích ý nghĩa của NẾU cũng gần như là phân tích ý nghĩa của câu điều kiện nói chung.
1. NẾU trong mối liên kết điều kiện – kết quả
1.1. Đặc trưng ngữ nghĩa của NẾU là biểu hiện điều kiện giả định. Với đặc trưng này hầu như NẾU nghiễm nhiên trở thành kết từ tiêu biểu cho câu điều kiện tiếng Việt. Vì câu điều kiện, như các nhà ngôn ngữ trên thế giới thừa nhận, chủ yếu biểu hiện tính giả định. Có sự giống nhau gần như tuyệt đối trong các sách ngữ pháp tiếng Việt, hễ đề cập đến câu điều kiện tiếng Việt các sách đều đưa ra mô hình (đầy đủ): NẾU M1 THÌ M2.
Một mô hình như vậy có thể biểu hiện các loại ý nghĩa điều kiện rất phong phú. NẾU M1 THÌ M2 có thể là một phát ngôn giả thiết:
(1) Nếu đồng chí được nhà trường khen thưởng thì chi đoàn sẽ cử đồng chí đi dự Đại hội thanh niên toàn trường. (dẫn theo Hoàng Tuệ) [395]
M2 của câu có chứa NẾU thường biểu hiện ý chí, phán đoán, tình cảm của người nói:
(2) a. Nếu không đủ đổ mái bằng, tôi cũng sẽ lợp ngói Tây.[NTĐM-DTH]
b. Nếu tối vẫn không có thuyền thúng qua đây thì tôi sẽ tìm cách đóng bè chuối [TXV-LL].
c. Trời ơi, nếu chồng tôi chết thì tôi sống sao được? [MCT-HBC]
Ngoài ra M2 còn bao hàm cả những hành vi tác động đến người đối thoại. Hành vi đó có thể là mệnh lệnh, yêu cầu, khuyên nhủ, cấm đoán, đe dọa:
(3) a. Nếu đi, mang con xuống bà. [TXV-LL] (yêu cầu)
b. Nếu ở nhà không chịu được thì em lại đi đi! [TXV-LL] (mệnh lệnh)
c. Nếu không nghe em, chị sẽ bị đào thải khỏi đội ngũ... [NTĐM-DTH] (đe dọa)
Không những thế, M2 của câu điều kiện chủ quan còn biểu hiện sự đánh giá của người nói:
(4) a. Chẳng phải con dám trái ý mẹ song con nghĩ đời này thầy thông thầy ký nhiều quá, nếu con làm thì có sang trọng gì đâu. [MCT-HBC]
b. Nếu được như thế thì còn gì hơn nữa. [TXV-LL]
Mệnh đề bắt đầu bằng NẾU thường là những sự việc chưa hiện thực, nhưng cũng có trường hợp nó là những sự việc thật nhưng được người nói biểu hiện như một sự việc chỉ có tính khả năng mà thôi:
(5) (Xuân Hoa đi khỏi rồi. Bác Ái đứng ngó theo tức giận thầm trong bụng). Nếu mình để cho cô ta đi rồi thì biết ngày nào có dịp tốt như vậy nữa. [MCT-HBC].
Trong trường hợp này, tiếng Việt thường dùng các từ “như thế”, “như vậy” đi kèm với NẾU để đánh dấu tính chất giả định chủ quan đó (vì vị từ so sánh “như” tiền giả định rằng hai thực thể được đem ra so sánh không thể là một, tức là nó không thể so với chính nó):
(6) Nếu tài sản như thế này thì không cần tuyên bố phá sản.
Hội Nghiên cứu Ngôn ngữ Nhật cho rằng miêu tả một sự việc thật với tư cách khả năng thì người nói có thể tránh được cách nói “trực tiếp” hoặc là người nói muốn áp dụng một quy tắc nói chung vào một trường hợp cụ thể; như thí dụ dưới đây:
(7) (Kết cục là tôi nghĩ là đối với anh ấy tôi không hề tồn tại. Hồi tưởng lục tìm trong ký ức những kỷ niệm vui chứng minh tình yêu của anh ấy mà không có). Nếu không có bằng chứng cho sự được yêu, trái tim của người vợ sẽ trở nên phân vân.(dẫn theo một bài khảo cứu của Hội Nghiên cứu Ngôn ngữ Nhật Bản)
Ngoài cách giải thích của Hội Nghiên cứu Ngôn ngữ, cũng có một cách giải thích khác. Chúng tôi cho rằng tư duy của con người dường như có xu hướng khái quát hoá một tình huống hiện thực bằng cách khoác cho nó một hình thức giả định. Bởi lẽ, dưới hình thức giả định, người nói dường như lùi ra xa khỏi tình huống đang đề cập và đóng vai trò khách quan hơn trong việc tạo phát ngôn.
NẾU đặc biệt thích hợp với trường hợp người nói cố tình dùng dạng thức giả định dù sự việc rõ ràng là có thật.
1.2. NẾU cũng còn được dùng trong giả định phản sự thật, trong nhiều trường hợp có thể thay bằng GIÁ. Nhìn chung đối với một sự việc đã xảy ra trong quá khứ, NẾU có thể giả định nó xảy ra khác đi và đưa ra phán đoán của mình về sự việc khác đi đó:
(8) a. Nếu không có anh thì tôi đã chết mất xác rồi. [TXV-LL]
b. Nếu không có anh ấy về đây thì có lẽ tôi đã hô cả huyện làm theo cái khuôn mẫu của xã của chị phía trong đê.[TXV-LL].
Dựa vào giả định phản sự thật ở quá khứ, M2 có thể biểu hiện sự việc mang tính khả năng có thể xảy ra ở hiện tại hoặc tương lai. GIÁ thường dùng để bày tỏ trạng thái/cảm giác mong muốn, nuối tiếc; vì vậy đối với những sự việc mang tính khả năng như vừa nói, người ta sẽ không thay NẾU bằng GIÁ nếu không muốn làm thay lệch nghĩa của cả câu. So sánh:
(9) a. Nếu anh không báo được nghỉ học thì tôi đã đi đến trường rồi.
b. * Giá anh không báo được nghỉ học thì tôi đã đi đến trường rồi.
c. Nếu anh không giúp đỡ thì đã không kịp rồi.
d. * Giá anh không giúp đỡ thì đã không kịp rồi.
Tính chất giả định phản sự thật của M1 ở các câu trên không có gì khác biệt, tuy nhiên sự “trung hòa” về nghĩa của NẾU giúp bảo toàn được quan hệ nghĩa của câu nếu so với nét nghĩa “mong muốn, nuối tiếc” rất mạnh của GIÁ. Hơn nữa, lý do làm cho (b) và (d) không thể chấp nhận – khác với (a) và (c) – là hiện tượng bất tương hợp ngữ nghĩa trong nội bộ cấu trúc M1: cái điều thông thường người ta mong muốn không phải là “không báo trước” hoặc “không giúp đỡ” mà là ngược lại. Chính vì vậy khi bày tỏ sự mong muốn, nuối tiếc thì GIÁ hoàn toàn có thể thay cho NẾU với sự bổ sung nhất định về ngữ nghĩa:
e. Nếu (/Giá) kịp chuyến bay đó thì bây giờ chúng ta đang ở Mỹ rồi.
f. Nếu (/Giá) không ly dị thì ngày mai là ngày kỷ niệm ngày cưới của chúng tôi.
M2 của câu phản sự thật cũng có khi được tổ chức như một cấu trúc ổn định, như một biểu thức (expression):
(10) a.Nếu ngày nào thầy cũng đe nẹt nghiêm ngặt với nó thì đâu đến nỗi. [TXV-LL] b. Nhưng nếu em bình tĩnh nghe anh thì chắc là khác rồi. [TXV-LL]
Phần lớn ở những câu giả định phản sự thật bày tỏ sự nuối tiếc hay mong ước, mệnh đề chính thường bị lược bỏ, để chỉ còn lại mệnh đề phụ với NẾU mà thôi. Áp lực của cả cấu trúc câu kết hợp với ngữ nghĩa của M1 đủ mạnh để người nghe nhận thức được trạng thái/cảm xúc của người nói. Vd:
(11)a. Nếu lúc đó tôi không bị cảm thì ....
b. Nếu tôi có tiền thì ....
Theo nhận xét của chúng tôi, dường như thành phần hiển ngôn mới là trọng tâm ngữ nghĩa của câu chứ không phải kết quả giả định đã bị bỏ lửng; khi đưa ra một tình huống không có thật người ta hướng đến một kết quả cũng không có thật, nhưng với người nói, chính cái tình huống đáng phàn nàn là nguyên nhân của mọi điều tệ hại kia mới là điều đáng quan tâm.
1.3. NẾU khởi đầu mệnh đề điều kiện phi giả định để dùng biểu hiện các quy luật tự nhiên và xã hội, nói chung là những gì có giá trị “chân lý”. Trong đó ta có thể nhìn thấy mối quan hệ nhân quả hàm chứa trong các quy luật có tính khái quát, vượt thời gian, không gian. Ở câu điều kiện loại này, hầu như người nói chỉ đóng vai trò của người quan sát.
(12) a. Nếu băng tan thì sẽ biến thành nước.
b. Nếu cố gắng ắt hẳn thành công.
c. Nếu lụt thì đói.
Các quy luật có được từ kinh nghiệm, kinh nghiệm đó có thể được thí nghiệm bởi một nhà khoa học, cũng có thể là trải nghiệm của người nói:
(13)Nếu natrium tác dụng với nước thì sẽ có phản ứng nổ.
Kinh nghiệm trong thí dụ trên là kinh nghiệm có tính chất trực tiếp; ngoài ra, cũng có những kinh nghiệm có tính chất nhận thức gián tiếp và thông qua một quá trình:
(14)Nếu hút thuốc lâu ngày có thể bị ung thư phổi.
1.4. NẾU còn dùng để nói đến thói quen, tập quán của một người nào đó. Trường hợp này cũng hoàn toàn không biểu thị chủ kiến của người nói. Trong trường hợp này chúng tôi nghĩ có một sự “xâm nhập” của NẾU vào lĩnh vực vốn là đặc trưng của HỄ, CỨ, MỖI LẦN.
(15)a. Nếu thời tiết tốt thì anh ấy ở chung quanh đền thờ Phật 2, 3 tiếng đồng hồ.
b. Nếu không thấy mặt hai bữa thì chiều anh ta đi chơi ắt hẳn lên nhà mà thăm. [MCT-HBC]
Cũng có thể là những sự việc quá khứ mà bây giờ không còn tiếp diễn nữa:
(16) a. Nếu anh gật đầu chào tôi, tôi cũng chỉ mỉm cười đáp lễ rồi ai lo việc nấy thì anh lại lo một cách khác.[TTTN-NK].
b. Lính tráng chúng tôi đi bất cứ đâu, nếu được rảnh rỗi là y như rằng lại có ai đó làm ra nhạc khí. [TĐHMĐ-DNQ]
2. NẾU trong liên kết tiền đề – kết luận
Liên kết điều kiện – kết quả là những liên kết hàm chứa quan hệ nhân quả. Còn liên kết tiền đề – kết luận là mối liên kết mà không thể nhìn thấy mối quan hệ nhân quả như thế. Với quan hệ này NẾU được dùng trong một phạm vi rất rộng rãi.
2.1. NẾU trong cấu trúc suy đoán
Xét thí dụ sau:
(17) A: – Máy bay Mỹ sắp đến đấy!
B: – Nếu thế thì phải có còi báo động. [NBCT-BN].
Trong cuộc thoại, người nói và người nghe cùng chia sẻ kiến thức chung về một “quy tắc” hay logic khách quan:
M1 Õ M2 (máy bay Mỹ đến Õ có báo động);
và cả hai người đều có một suy đoán/suy luận rằng:
Không M2 Õ Không M1 (không báo động Õ không có máy bay Mỹ)
Về mặt ngôn ngữ, người nói sẽ đưa ra dựa vào tình huống thực tế (không M2) theo nhận thức của mình để đưa ra một cấu trúc tiền đề – kết luận:
NẾU M1 THÌ phải/đã M2
nhằm bác bỏ hoặc nhận định rằng M1 là sai (không có trong thực tế). Vd:
(18) a. Nếu nó ăn cắp thì nó đã mất bình tĩnh khi đứng trước tôi.
b. Nếu nó ăn cắp thì nó đã không có bộ mặt bình tĩnh như vậy khi đứng trước tôi.
Tương tự như cơ chế logic của câu điều kiện giả định phản sự thật đã thảo luận ở trên, NẾU, THÌ, ĐÃ, PHẢI là những chỉ tố cho thấy sự việc diễn đạt ở M2 là phản sự thật (không thực tế, ít nhất là trên quan điểm của người nói). Như vậy có thể trình bày logic câu trên:
[nó đã bình tĩnh] ® [nó đã không ăn cắp]: M1 sai.
Trường hợp sau đây vắng mặt chỉ tố ĐÃ, PHẢI, thay vào đó là một trạng ngữ đánh dấu tính hiện thực (“như vậy”), nhưng logic tiền đề – két luận cũng không có gì khác.
(19) Nếu thật lòng yêu cô ấy thì anh không thể chia tay một cách đơn giản như vậy được.
Thực tế là anh đã chia tay một cách đơn giản ® anh không thật yêu cô ấy, tức là M1 sai.
Người nói cũng có thể đưa ra một tiền đề (tiền đề này có thể là đúng, đã là sự thật hoặc chưa là sự thật) để kết luận theo kiểu: “Nếu sự việc ở M1 là đúng thì sự việc ở M2 cũng đúng”.
(20) a. Nếu cái xác được mang từ chỗ khác đến như vậy thì tội phạm không chỉ là một người.
b. Nếu ông sư Miến Điện đó là một cao tăng có cái xâu chuỗi không dễ gì có được đó thì chắc chắn ông ta không phải là một đào binh.[TĐHMĐ-TNQ].
2.2. NẾU trong cấu trúc đối ứng
Trong câu NẾU M1 THÌ M2 ta có thể có một cấu trúc sóng đôi về hình thức giữa M1 và M2, trên cơ sở sóng đôi hình thức như thế bộc lộ quan hệ đối ứng giữa M1 và M2. Tùy vào nội dung của hai bộphận đó mà câu có ngữ nghĩa khác nhau. Có thể kể đến một số quan hệ đối ứng sau đây:
– Quan hệ tương đồng về tính chất, đặc trưng:
(21) Nếu tỉnh tôi có nhiều mía thì tỉnh anh có nhiều đường.
– Quan hệ tương đồng về mức độ:
(22) a. Nếu gã là một công dân đáng ngờ bao nhiêu thì gã lại là một người lính đáng trọng bấy nhiêu.
b. Nếu môn toán nó tồi bao nhiêu thì môn văn nó cũng tệ bấy nhiêu.
– Quan hệ đồng nhất trong những đặc trưng tương liên (thường dùng trong các so sánh tu từ):
(23) Nếu giáo dục là một tòa nhà thì thầy giáo là những viên gạch xây nên tòa nhà đó.
– Quan hệ về tầm mức hoặc chiều hướng của sự việc (trong – ngoài, hẹp – rộng, cụ thể – khái quát v.v.):
(24) a. Nếu nam nữ bình đẳng thì trong gia đình vợ chồng cũng phải bình đẳng.
b. Nếu ăn mặc diêm dúa thế thì tâm hồn nghèo nàn.
– Quan hệ tuyển chọn một trong hai khả năng hoặc A hoặc B có thể được diễn đạt thành “Nếu không A thì B”. Tuy nhiên, có một điểm quan trọng là giữa A và B phải có một đặc trưng chung ngầm ẩnnào đó.
(25)a. Cô gái đó nếu không phải là vợ anh ấy thì chắc là gái bia ôm.
b. Thôi được rồi, đừng nói nữa. Chuyện này nếu không phải anh làm thì tôi làm vậy!
2.3. NẾU trong lời dẫn nhập
Cấu trúc NẾU M1 THÌ M2 có thể được sử dụng như một biểu thức ngữ dụng. NẾU M1 có thể là lời mào đầu có tính chất xã giao hoặc rào đón, nhằm thực hiện một hành động ngôn từ đi theo sau:
(26) a. Hồi nhỏ, thầy tôi còn sống, thầy tôi có kể tôi nghe chuyện này. Nếu các ông cho phép, tôi xin kể hầu các ông.[NTĐM-DTH]
b. Sách này thì có dính dáng đến chuyên môn của anh. Nếu anh cho là tốt thì sau khi đọc một trang, anh nói ý nghĩa của trang đó cho tôi nghe.
Khi phán đoán, quá trình suy nghĩ của người nói bị ràng buộc bởi cách thức, điểm nhìn, các hình thức phán đoán, vì vậy ở mệnh đề phụ thường bộc lộ các phương pháp tiếp cận đối tượng trong quá trình triển khai logic. Cho nên thường các động từ như nói, nhìn, nghĩ, đứng, xét, xuất phát, so sánh, v.v. được chọn làm những kiến trúc tương đối cố định để phản ánh chính cái quá trình triển khai ấy. Một số cấu trúc biểu thị tình thái câu, có vai trò như một trạng ngữ của câu như: “nếu nói thẳng”, “nếunói thật”, “nếu nhìn từ đây”, “nếu nhìn một cách khách quan”, “nếu nói đúng hơn”, “nếu nhìn sơqua”, “nếu xét kỹ”, “nếu đứng ở góc độ này” v.v..
(27)Nếu nói đến Bát Tràng là người ta nghĩ ngay đến đồ gốm sứ.
Đặc biệt, cấu trúc NẾU M1 có thể đặt ra một phạm vi giới hạn mà từ đó độ đúng sai của mệnh đềsau bị hạn định hoặc phụ thuộc vào nó.
(28) (– Như thế bình thường ba tôi là người thế nào?)
– Bình thường à? Nếu không lên cơn thì là người hết sức tử tế.
(29)Phật giáo của người Miến Điện nghĩ cũng là kỳ. Hãy dẹp bỏ sự đời, hãy cam phận (...). Lời Phật Thích ca, nếuhiểu theo nghĩa đen, nghe đâu là như thế. [TĐHMĐ-ĐNQ]
2.4. Câu tiền đề – kết luận NẾU P THÌ Q VÌ R
Ở câu điều kiện thông thường ta luôn nhìn thấy có một sự liên quan giữa mệnh đề trước và mệnhđề sau. Giá trị thật của mệnh đề trước luôn luôn thống nhất, liên quan đến mệnh đề sau. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có những câu điều kiện mà hầu như không nhìn thấy ở đó mối tương quan nào cả.
Chẳng hạn, sự việc không có áo mưa là một sự việc thật, đang tồn tại, còn việc trời có mưa hay không lại là một việc chưa thể đoán trước được. Ta có:
(30) a. Chiều nay trời mưa thì tôi không có áo mưa.
Ở câu điều kiện – kết quả thông thường, chúng ta có thể suy ra một câu khác (theo lối suy nghĩ dẫndắt) có cùng ý nghĩa với nó:
b. Nếu chiều nay trời mưa tôi không về nhà được.
c. Nếu chiều nay trời không mưa tôi có thể về nhà được.
Hoặc có thể thay đổi vị trí của hai mệnh đề:
d. Nếu tôi có thể về nhà (có nghĩa là) trời đã không mưa.
Nhưng trong câu điều kiện quan hệ tiền đề – kết luận không thể thao tác như vậy được:
e. ?? Nếu chiều nay trời mưa thì tôi không có áo mưa
cũng không thể:
f. ?? Nếu chiều nay trời không mưa tôi sẽ có áo mưa.
Có thể phân tích câu (a) dưới góc độ ngữ dụng học, theo đó khi sử dụng câu “tôi không có áo mưa” người nói nhằm dẫn dắt người nghe đến kết luận là “tôi không thể về nhà được”. Như vậy có thể diễngiải câu trên như sau:
(31) Nếu chiều nay trời mưa tôi không thể về nhà được vì tôi không có áo mưa.
Câu điều kiện {NẾU P THÌ R} được hình thành từ {NẾU P THÌ Q VÌ R]: Tình huống P sẽ dẫn đếnkết quả Q, đó là mối bận tâm của người nói, vì lý do R. Nhưng Q bị xóa bỏ, chỉ còn lại lý do gây ra mối bận tâm trong tình huống giả định đó mà thôi. Có thể hình dung sơ đồ tạo câu như sau:
NẾU P THÌ Q VÌ R Õ NẾU P THÌ Q VÌ R
Như vậy, “Nếu trời mưa thì tôi không có áo mưa” có thể hiểu như:
– Nếu trời mưa thì tôi không thể về nhà.
Mặt khác, khi nghe câu “Nếu trời mưa thì tôi không thể về nhà”, có khả năng người nghe sẽ hỏi lý do tại sao. Câu điều kiện đã trả lời trước cái câu hỏi mà người nghe chờ đợi được trả lời.
*
* *
Ở trên, chúng tôi đã phân tích tương đối chi tiết cách dùng và đặc trưng ngữ nghĩa của kết từ NẾU trong cả hai loại câu điều kiện-kết quả và câu tiền đề-kết quả. Trong một cấu trúc điều kiện vắng NẾU, nhiều trường hợp cho thấy nội dung mệnh đề (proposition) dường như không có gì khác biệt lớn (so với khi có NẾU) nhưng nhìn chung nội dung suy lý của một cấu trúc điều kiện vẫn chưa đủ chặt. Khi đó vai trò của từ THÌ trở nên rất quan trọng. Tuy nhiên, đây là một vấn đề mà chúng tôi xin bàm đến trong một dịp khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH:
1. Hồ Lê, 1992, Cú pháp tiếng Việt, Q 2-Cú pháp cơ sở, Nxb KHXH, Hà Nội.
2. Hoàng Trọng Phiến, 1980, Ngữ pháp tiếng Việt - Câu, Nxb ĐH & THCN, Hà Nội.
3. Hoàng Tuệ, 1962, Giáo trình về Việt ngữ, T1, Hà Nội.
4. Nguyễn Kim Thản, 1977, Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Sweetser Eve, 1990, From Etymology to Pragmatics. Cambrige: Cambrige U.P..
6. Maeda Naoko, 1991, Jyouken bun funrui no-kousatsu, Nihongo gakuhou 13, Tokyo gaikokugo daigaku.
7. Sakahara Shigeru, 1985, Nichijou Gengo no suuiron, Tokyo daigaku shuppan kai.
NGỮ LIỆU:
1. Trần Nhật Quang, 1999, Tiếng đàn hạc Miến Điện , Nxb Văn học. (TĐHMĐ-TNQ)
2. Dương Thu Hương, 1988, Những thiên đường mù, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. (NTĐM-DTH)
3. Bảo Ninh, 1991, Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Hội nhà văn. (NBCT-BN)
4. Lê Lựu, 1995, Thời xa vắng, Nxb Hội nhà văn. (TXV-LL)
5. Nguyễn Khải, 1997, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Trẻ. (TTTN-NK)
6. Hồ Biểu Chánh, 1988, Một chữ tình, Nxb Tổng hợp Tiền Giang. (MCT-HBC)
[1] Trong phạm vi bài này chúng tôi vẫn chấp nhận quan điểm của ngữ pháp truyền thống về cấu trúc hai “mệnh đề” (= cụm chủ vị, tiểu cú) của câu điều kiện chứ không đi theo cách trình bày cấu trúc khung đề – thuyết của ngữ pháp chức năng. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy những phân tích sau đây vẫn thích hợp khi diễn giải câu điều kiện như là một câu đơn mà “mệnh đề” trước là khung đề và “mệnh đề” sau là thuyết.
Theo Blog Tiếng Việt: Ngẫm nghĩ
Có gì đó
Tác giả: Kim Dung/ Kỳ Duyên
Có gì đó như niềm đau dĩ vãng
Đã khuất dần sau bóng lá phôi pha
Có gì đó tím bằng lăng khắc khoải
Lại về đây ru giấc ngủ an hòa
Có gì đó quắt quay day dứt
Trước sáng trong lặng lẽ ngọc ngà
Có gì đó bùi ngùi đắng đót
Âm thầm như tia nắng rớt giữa cỏ hoa
Ở nơi đó có niềm kiêu hãnh
Như thiên thanh bình thản đến không ngờ
Ở nơi đó vẫn ấm nồng ngọn lửa
Cháy khôn nguôi mặc giông bão gió mưa
Ở nơi đó nỗi buồn một nửa
Một nửa vui giữa thế thái nhân hòa
Ở nơi đó con tim có ngày ngày đợi cửa
Tiếng gõ nào thổn thức góc trời xa
Đã khuất dần sau bóng lá phôi pha
Có gì đó tím bằng lăng khắc khoải
Lại về đây ru giấc ngủ an hòa
Có gì đó quắt quay day dứt
Trước sáng trong lặng lẽ ngọc ngà
Có gì đó bùi ngùi đắng đót
Âm thầm như tia nắng rớt giữa cỏ hoa
Ở nơi đó có niềm kiêu hãnh
Như thiên thanh bình thản đến không ngờ
Ở nơi đó vẫn ấm nồng ngọn lửa
Cháy khôn nguôi mặc giông bão gió mưa
Ở nơi đó nỗi buồn một nửa
Một nửa vui giữa thế thái nhân hòa
Ở nơi đó con tim có ngày ngày đợi cửa
Tiếng gõ nào thổn thức góc trời xa
Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2015
Thơ Bình Nguyên Trang
Nhà thơ Bình Nguyên Trang
Mùa hạ
Xanh mãi lên một đường chân trời
Nỗi buồn màu rơm rạ
Phượng yêu mùa bầm đỏ
Vút lên cao một tiếng mõ chùa
Mùa hạ mang ta về những hoài niệm vu vơ
Yêu đến tàn cánh hoa
Rừng rực nắng
Cơ thể xanh vào trời
Cơ thể tan vào đất
Anh và em lan tiếng gọi vào nhau
Cố nhân ơi đã gãy một cây cầu
Đã lạc đường vì sao đêm cầu tự
Đã cổ xưa một lời yêu vừa tới
Đã ngọt ngào một nỗi đắng cay
Đã vơi đi một con nước đầy
Đã khác dòng sông
Đã bao người đến tắm
Đã lở bồi con tim
Đã chậm nhanh nhịp đập
Đã xanh xao trong ngờm ngợp nắng hè
Đã tủi lòng em một phút tái tê…
Cây cứ lá và mùa cứ tới
Mùa cứ đi mùa cứ thói quen
Gió cứ thổi về nhớ nhớ quên quên
Cứ hư ảo trời xanh
Cứ cồn cào nắng đỏ
Cứ năm tháng và chuyến đò cũng lỡ
Mà chúng mình cứ sóng
Cứ lần tìm bóng nhau...
Và phía ấy
Và phía ấy sông trôi về biền biệt
Mưa mù sa hoa dại nở âm thầm
Ai tắt sáng xui chiều dâng bóng tối
Cho nhớ thương phủ ngập tâm hồn
Rằng đã vắng, anh giờ không đến nữa
Rằng đã tháng năm, bài hát đã mùa hè
Rằng gió lạnh đã nghiêng bờ vai lạnh
Tóc như rèm buông kín một chờ mong
Em chờ gì phía cuối dòng sông
Cỏ vẫn xanh như ngày anh đến
Trái tim hát dưới vòng tay ghì xiết
Rạng rỡ tháng hai trên gương mặt xuân thì
Em biết thế, đời là cuộc đi
Tình cũng vậy như sông đầy sông cạn
Và nước mắt phải đâu vì em khóc
Mưa đầu mùa trong đáy mắt em rơi
Dẫu biệt ly em vẫn biết ơn đời
Cho ta sống những tháng ngày khác lạ
Cho ta bay những chân trời tha thiết quá
Để vuột mất nào cũng trong nghĩa hồi sinh…
một ngày
Một ngày khoác túi lên vai
thấy cần đi
thấy nhớ ai
đắng lòng
Nỗi niềm
treo giữa thinh không
mùa thu đứng ở bên sông
thật hiền
Tôi
như là một người điên
phải đi cho tới
những miền rất xa
Cô đơn
ngay giữa ngôi nhà
cô đơn
ngay giữa ngàn hoa chúc mừng
Cần đi
tìm một người dưng
giữa mùa thu
mắt nửa chừng
mắt ơi
Cần đi
để nói một lời
đừng nuôi cô độc
một đời
trong nhau…
Em đã đợi
Vẫn để dành nụ hôn
thời thiếu nữ
cho một ngày anh đến cùng em
Anh
người của ngàn năm trước
người của ngàn năm sau
người của hôm nay
khi ta bắt đầu
Khi ta nhìn nhau
có tình yêu làm chứng
Em lại xỏ chân
vào đôi hài thiếu nữ
tuổi 20 chầm chậm quay về
những khổ nạn trên đời
mất dấu
lồng lộng chân trời
nhấp nháy ký tự Yêu
Tóc em bỗng là mây
xanh ngàn trùng sắc lá
mắt em bỗng là hồ
sâu thẳm đáy thời gian
tay em bỗng là hoa
dâng một mùa ân ái
và môi em
bỗng
nở đóa Thiên Đường
Em đã đợi
Dẫu mùa đi mùa tới
mặc tháng năm
trầm tích cuối con đường
Em đã đợi
bởi tin ngày anh đến
nụ hôn thời thiếu nữ
trao anh....
cửa sổ
Cửa sổ để em nhìn vào khoảng trống
để mở ra trời nắng
để khép lại trời mưa
và trong những ngày sương mù
em chờ anh gõ cửa
Dẫu rằng em không còn anh nữa
hề chi mà buồn với lẽ ở - đi
hề chi mà đau
hề chi mà xa xót
Căn phòng em những ngày mộng mị
là những ngày trống vắng niềm tin
ô cửa sổ vẫn sơn màu xanh
vẫn vì anh mà xanh
Và trong cơn mưa lá rũ không đành
em ngồi hát lời cây từ cửa sổ
ngay cả lúc nỗi đợi chờ tan vỡ
em nghiêng đời em qua mỗi chấn song
Trên trời cao còn có một dòng sông
còn thao thiết yêu một vì sao lạc
em dẫu không còn anh
dẫu là anh đã khác
dẫu tình yêu mặn nồng rồi phai nhạt
rồi hư ảo như trời
Rồi cứ thế căn phòng vừa khép cửa
người mở lòng ra mà bước tới không cùng….
Hãy tập mỉm cười trong tâm
Bắt đầu bằng đôi mắt
Đôi mắt có liên quan tới hệ thần kinh chủ động (hay thực vật), chia thành hai hệ: hệ giao cảm và hệ đối giao cảm. Hệ giao cảm điều hành những bản năng nguyên thuỷ; hệ đối giao cảm giúp con người được tĩnh tại, tạo ra những tình cảm yêu thương ...
Cả hai hệ này đều nối liền với mỗi tuyến của cơ thể. Qua trung gian của những hệ thần kinh, hệ giao cảm và đối giao cảm lệnh gia tăng hoặc kìm hãm hoạt động của chúng. Chính vì có sự liên quan giữa mắt và hệ thần kinh mà cơ thể có được toàn bộ những cảm xúc và cảm ứng tức thời. Khi thư giãn đôi mắt bằng nụ cười trong tâm, bạn giải phóng tâm trí ra khỏi gánh nặng của những căng thẳng thể chất. Trong trường hợp này, bạn đủ khả năng và tập trung sử dụng toàn bộ sinh lực sáng tạo của bạn vào công việc mà bạn đang quan tâm; đạt đến sự hài hoà với môi trường quanh bạn. Theo quan điểm của Đạo gia, mối quan hệ giữa sự thư giãn của đôi mắt và khả năng tập trung tư tưởng là điều rất quan trọng.
Một khi bạn cảm thấy trong đôi mắt mình đã rạng rỡ nụ cười, thì hãy dồn cái sinh lực này vào phủ tạng, và rót đầy các phủ tạng bằng một tình cảm thân thương.
Dưới đây là bảng chỉ dẫn những giai đoạn khác nhau trong việc thực hành nụ cười trong tâm :
1.Tuyến trước thân: Mắt, mặt, cổ, hệ tuần hoàn máu, phổi, tuỵ, lách, gan, thận, tuyến thượng thận.
2.Tuyến giữa thân: Miệng, thực quản, dạ dày, ruột non, ruột già, trực tràng. Hãy nuốt nước bọt trong giai đoạn này.
3.Tuyến sau thân: Các đốt sống (từng đốt một).
Tuyến trước thân
Hãy ghi nhớ rằng nụ cười đầy sinh lực mà bạn đang dồn xuống phủ tạng cũng sẽ giúp bạn khai mở sự tuần hoàn sinh lực gọi là Tiểu Chu Thiên. Bạn phải thực hành điều này một cách nhẹ nhàng, thoải mái; hãy để nụ cười đổ xuống từ đôi mắt như một cơn mưa êm đềm, qua các phủ tạng, cho đến bộ phận sinh dục. Sau một thời gian thực hành, sự chu chuyển này sẽ diễn ra một cách tự động (là cơ thể đã hình thành và thiết lập một thói quen mới) và giúp cho các phủ tạng hoạt động một cách tốt đẹp .
Hàm
Hãy để nụ cười lan toả trên khuôn mặt, rồi sau đó hướng nó vào bên trong các hàm của bạn. Các hàm là nơi chất chứa nhiều căng thẳng nhất của cơ thể. Khi sinh lực của nụ cười trong tâm đã được lan toả, bạn có cảm giác toàn thân thư thái, buông lỏng và những căng thẳng đã rời khỏi bạn. Sự thư giãn này có thể đi kèm với cảm giác rần rần ở da và ngay cả lùng bùng ở tai. Nếu xảy ra điều này thì bạn chớ lo sợ.
Lưỡi và vòm miệng
Như chúng ta đã biết, lưỡi là điểm mà Đốc Mạch (Dương) tiếp xúc với Nhâm mạch (Âm). Hãy đặt lưỡi ở hàm trên, ngay phía sau các răng cửa. Khi lưỡi đã ở đúng vị thế, nó chạm màng hầu đóng ở đáy miệng, nhưng với những ai mới bước vào con đường luyện công, thì họ nên đặt lưỡi ở vị thế thứ nhất. (Đặt lưỡi sau các răng cửa - vị thế Phong) Một khi khí đã lan toả trong lưỡi, bạn sẽ thấy có cảm giác nóng rần rần và nếm trải những vị mà với bạn là hoàn toàn mới mẻ.
Gáy và họng
Gáy cũng là một nơi chất chứa những căng thẳng bởi vô số dây thần kinh và mạch máu có liên hệ chủ yếu đến tâm trạng, sự tươi vui, sảng khoái, đều đi ngang qua đây. Gáy giữ vai trò liên kết não bộ với thân thể. Một cái gáy kết chặt bởi lo âu và căng thẳng sẽ làm rối mù những thông điệp của não bộ và tạo ra những mắt mấu trong cơ thể. Bạn cần phải thư giãn gáy, nếu không bạn không thể thực hiện vòng tuần hoàn sinh lực gọi là Tiểu Chu Thiên. Để bắt đầu, bạn hãy gồng cứng các cơ gáy, rồi để chúng mềm mại thư giãn. Hãy thả lỏng cằm và để cho sức nặng của đầu bạn trĩu xuống trên ngực. Các Đạo gia đã khám phá ra phương pháp này trong khi nhìn tư thế của các chú rùa. Hãy thư giãn các cơ gáy trong khi mường tượng rằng đầu bạn có thể thẳng đứng mà không cần sự chống đỡ của chúng. Hãy lan toả nụ cười vào gáy và họng. Trong khi thực hiện điều này, hãy cảm nhận sự căng thẳng đang dần dần được giải toả.
Những phủ tạng chủ yếu
Tim
Tim giữ máu và khí cho toàn bộ các động mạch và tĩnh mạch. Với Nội Đan thì tim cũng như Thận, là các cơ quan chủ yếu để chuyển vị Khí. Nói cách khác ,tim có khả năng làm gia tăng năng lượng Khí và chuyển biến Khí thành một năng lượng Âm. Khi lan toả nụ cười trong tim và đong đầy nó bằng tình yêu thương thì sự tuần hoàn máu cũng gia tăng đồng thời với sự gia tăng trao đổi năng lượng Âm và Dương ở bên trong sự tuần hoàn này. Hãy cảm nhận năng lượng tình yêu xuất phát từ nụ cười của bạn đang lan toả trong hệ tuần hoàn.
Việc thực hành nụ cười trong tâm với mục tiêu làm gia tăng sự tuần hoàn Khí giúp cho tim làm việc bớt mệt nhọc hơn. Nụ cười qua đôi mắt và não bộ kích thích sự tuần hoàn sinh lực, và như thế máu có thể lưu thông một cách tự do và đầy đủ, cùng lúc với trái tim được thư giãn. Việc thực hành phương pháp nụ cười trong tâm, kết hợp với một chế độ dinh dưỡng lành mạnh và những buổi thể dục đều đặn sẽ làm giảm những nguy cơ về tai biến tim mạch.
Hãy cảm nhận sự thư giãn lan toả trên khuôn mặt, gáy và đang tiến dần về tim của bạn. Bạn sẽ nhận thấy sự tươi mát êm ả ngự trị trong tim đồng thời với sự thư giãn của toàn thân. Với phương pháp này, những người cộc cằn nóng nảy, vốn thường cảm thấy đau nhức và căng thẳng trong tim hoặc vùng tim, sẽ có thể xua đi cảm giác đó. Vậy, bạn hãy để cho nụ cười toả rạng ở vùng tim. Hãy đong đầy tình yêu vào tim và để cho trái tim bạn trở thành vật "yêu quí"..
Phổi
Từ tim hãy lan toả tình yêu thương của bạn sang hai lá phổi. Hãy cảm nhận sự thư giãn của chúng và hít thở một cách thoải mái. Khi bạn hít vào rồi thở ra, hãy cảm nhận sự linh hoạt của phổi. Khi bạn thư giãn hai lá phổi và để cho sinh lực ùa vào, hãy cảm nhận về tính ẩm ướt và xốp của phổi .
Bụng
Tiếp đó, hãy để nụ cười trong trong tâm lan toả sang gan, phía bên phải, ngay dưới lồng ngực của bạn. Nếu bạn có một lá gan "chai lỳ ", nếu bạn gặp phải khó khăn trong việc tìm cảm giác, thì hãy kiên trì tập luyện để giúp cho gan của bạn mềm mại trở lại. Bằng nụ cười, bạn hãy mang lại sự sống cho lá gan; bằng yêu thương bạn hãy phục hồi những chức năng của gan bạn.
Hãy gửi đến hai quả thận của bạn, ngay dưới lồng ngực ở hai bên cột sống, các tuyến thượng thận đóng ở trên hai thận. Hãy mỉm cười với hai quả thận của bạn. Cũng tương tự như với trái tim, phương pháp này làm gia tăng sự tuần hoàn Khí trong toàn bộ cơ thể.
Hãy để nụ cười lan toả trong toàn bộ vùng trung tâm của bụng, trong lá lách và trong tuỵ của bạn. Sau đó "dẫn" nụ cười về rốn, và để nó ngưng đọng ở điểm này của cơ thể .
Nụ cười trong tâm giúp bạn thư giãn và mang lại hạnh phúc cho bạn, như thể những chất do các phủ tạng của bạn tiết ra đã trở thành một thứ thuốc tiên. Nếu bạn sống trong lo âu sợ hãi ,căng thẳng hoặc giận dữ, thì phủ tạng của bạn sẽ tiết ra những độc tố. Việc thực hành nụ cười trong tâm giúp cho hoạt động của phủ tạng trở nên nhẹ nhàng hơn. Mỗi ngày, phủ tạng của chúng ta phải đảm đương một công việc nặng nhọc; lọc và duy trì sự tuần hoàn của máu, chuyển biến thức ăn thành năng lượng, thải bỏ các độc tố, chế ngự những cảm xúc và căng thẳng. Nụ cười trong tâm giúp cho công việc được nhẹ nhàng thoải mái hơn.
Tuyến giữa thân
Cũng vậy, để bắt đầu, bạn hãy trải đầy nụ cười trong đôi mắt bạn. Sau đó hãy dẫn nụ cười vào miệng. Quậy lưỡi theo chiều hướng hầu tích tụ nước bọt. Một khi miệng đã đầy nước bọt, hãy đưa đầu lưỡi lên chạm vào vòm miệng khi các cơ cổ căng cứng, hãy nhanh chóng nuốt nước bọt. Nụ cười trong tâm cần phải theo nước bọt xuống thực quản và cùng nước bọt lan toả trong bộ máy tiêu hoá, rồi dừng lại ở rốn. Nước bọt là một chất bôi trơn tuyệt vời có chứa sinh năng mà từ trung tâm đóng tại rốn, sẽ lan toả khắp cơ thể. Với sự trợ lực của nụ cười trong tâm hãy dẫn năng lượng thần kinh vào trong dạ dày của bạn; chất lượng thức ăn mà bạn đã hấp thụ sẽ được gia tăng và sự tiêu hoá của bạn sẽ dễ dàng hơn. Hãy để nguồn năng lượng của nụ cười trong tâm giúp bạn thư giãn ruột non, ruột già và trực tràng của bạn .
Tuyến sau thân
Vẫn khởi đầu bằng nụ cười trong mắt, rồi dẫn nụ cười xuống lưỡi. Trước khi gửi nụ cười vào cột sống, hãy giữ cho lưng thẳng và hai vai hơi nghiêng về phía trước. Đưa nụ cười vào từng đốt sống, lần lượt từ đốt sống này sang đốt sống khác, đến tận xương cụt.
Sau một lúc, bạn cảm thấy nóng ran trong các đốt sống và một sự thư thái lan toả khắp người bạn. Sự thư giãn vùng xương cụt, vùng thắt lưng và xương mu tạo ra sinh lực và sinh lực này sẽ dâng lên cột sống mà không gặp phải một trở ngại nào.
Ở vùng rốn, hãy kết thúc bài tập nụ cười trong tâm bằng cách tích tụ năng lượng vào rốn. Sau một thời gian luyện tập, bạn có thể thực hiện toàn bộ bài này trong vài phút. Tuy vậy trong những buổi đầu luyện tập, bạn có thể phải mất một khoảng thời gian trước khi thực sự cảm nhận được nụ cười. Khi kết thúc bài tập, tốt hơn là bạn không nên để năng lượng đọng lại trong trung tâm bên trên (đầu hoặc tim). Vùng rốn,nơi có thể dễ dàng đón nhận một sự gia tăng nhiệt lượng, là nơi thích hợp nhất để tích tụ năng lượng. Hầu hết, những phản ứng phụ gây khó chịu đều xuất phát từ một sự tích tụ thái quá ở đầu.
Để tích tụ năng lượng ở vùng rốn, bạn hãy tập trung ý tưởng vào vùng này và mường tượng rằng năng lượng đang xoáy quanh rốn theo hình xoắn ốc, cách làn da khoảng 6 cm. Phái nam phải xoáy vòng năng lượng theo chiều kim đồng hồ và phái nữ thì theo chiều ngược lại. Sau khi đã thực hiện 24 vòng xoắn ốc, hãy đảo ngược chiều hay nói cách khác hãy chuyển năng lượng theo chiều ngược lại .
Áp dụng phương pháp nụ cười trong tâm vào đời sống hàng ngày .
Mặc dù mục tiêu chủ yếu của nụ cười trong tâm là giúp bạn thư giãn trước khi thực hành tập luyện nhưng Phương pháp nụ cười trong tâm tự nó là cả một sức mạnh. Khi áp dụng phương pháp này vào đời sống hàng ngày, bạn sẽ gặt hái được những kết quả tốt đẹp. Nếu thực hành thường xuyên, nó sẽ giúp thay đổi đời sống của bạn một cách tích cực.
Trong thực tế, có người luôn bất mãn với chính mình, sở dĩ như thế là vì anh ta luôn cảm thấy không đủ tài sức để đương đầu với tình huống trong đời. Sau một thời gian thực hành phương pháp nụ cười trong tâm, anh ta nhận thấy rằng mình đã có ít đức tính, ưu điểm và chúng đã bị che khuất bởi thái độ tự chê bai, hạ thấp của chính mình.
Nếu làm chủ được phương pháp nụ cười trong tâm thì bạn cũng như con rùa, bơi lặn trong đại dương của sự bất khả tri mà không hề sợ hãi. Bạn sẽ mang lại cho các thành phần của cơ thể một sự thư giãn và như thế bạn sẽ tự tin để đương đầu với bất cứ tình huống nào trong đời. Nụ cười của bạn sẽ đẩy lùi mọi tiêu cực và bạn sẽ cảm thấy yêu đời trong mọi hoàn cảnh.
Tóm tắt
Nụ cười trong tâm giúp bạn dẫn đưa tình yêu thương vào bên trong cơ thể, nơi rất cần đến điều đó. Bạn hãy xem cơ thể mình như một cộng đồng mà thường khi bạn vô tình không quan tâm đến hoặc đối xử tệ với những thành viên đang kiên trì tận tuỵ làm việc. Hãy học hỏi cách thức nhằm ứng xử với các cơ quan của cơ thể bạn bằng sự trìu mến và tôn trọng như thể chúng là những đứa con của bạn.
Đừng có ruồng rẫy bất cứ một cơ quan nào của cơ thể bạn. Chẳng bao lâu bạn sẽ hiểu được thế nào là yêu thương, thế nào là năng lực tình yêu từ chính nơi bản thân mình. Nếu bạn đủ kiên trì, thì đời bạn sẽ tươi vui, sẽ rạng rỡ. Những "cư dân" trong số thành phần của cơ thể bạn (phủ tạng, xương, máu, não) sẽ phục hồi và đổi mới con người bạn. Với một con người như vậy, những quan hệ của bạn với người khác và với công việc sẽ thay đổi một cách tích cực; chúng sẽ diễn ra trong an bình và yêu thương. Nói tóm lại, bạn hãy mỉm cười với chính mình, dẫu bạn đang ở nơi đâu và gặp phải bất cứ điều gì trên đường đời của bạn.
Bạn hãy học cách yêu thương từ chính nơi bản thân mình ..
nguyen diep
Số phận
Minh Trí
Có thể hiểu Số là là tổng số lượng thời gian một người có mặt trên cuộc đời này, còn Phận là phẩm chất của những ngày sống đó. Hiểu như vậy thì thấy con người nói chung khó thể quyết định nổi Số, nhưng lại có thể làm thay đổi được Phận. Nói một cách biện chứng, số và phận có mối quan hệ mật thiết với nhau; song, trên những phạm vi và cấp độ nhất định, chúng vẫn giữ được tính độc lập tương đối. Vượt lên trên hết, số luôn mang giá trị của những ước định, ẩn số, biển số. Vì khó có thể xác định được số của mình, chừng nào tới số thì người ta nghĩ đó là “tại trời” và hiểu số là “tài sản trời ban”. Sống chết do số, yểu mạng hay trường thọ cũng tại số. Tuy nhiên, quan hệ giữa số và phận không phải lúc nào cũng lệ thuộc vào trời. Nếu sinh trong thời loạn lạc hay chọn những ngành nghề nguy hiểm, phận con người sẽ treo lơ lửng, mong manh trên đầu số. Có nghĩa là chúng ta khó thể thoái thác trách nhiệm, hành vi của mình để đặt số và phận vào hai tiến trình, mà phải coi chúng như hai thuộc tính của một con người. Chỉ có điều, số trong rất nhiều trường hợp nằm ngoài khả năng kiểm soát của hành vi. Ta chỉ có thể mong cho số mình được hưởng hết tuổi trời, như nhà thơ Tô Đông Pha đời Tống đã viết trong bài thơ nổi tiếng “Thuỷ điệu ca đầu” rằng “Đãn nguyện nhân trường cửu” (Những nguyện đời người được dài lâu).
Có nhiều người chịu sống một đời hèn mọn, bấp bênh…, cũng có những người giàu sang phú quý, vợ đẹp con khôn… từ đó làm nên những thân phận khác nhau. Trong đời người ở những giai đoạn khác nhau lại tiếp tục làm nên tính khác biệt của phận. Phận ở đây nhằm chỉ tình trạng sống, cảnh sống, phẩm chất đời sống. Nó thuộc yếu tố khả biến, khác với số ở chỗ nó có thể được quyết định bởi mong muốn chủ quan và nhờ vào nỗ lực của mỗi người trong việc định dạng bản thân. Trong khi số hàm nghĩa tổng lượng thời gian tại thế, định lượng, thì phận lại biến đổi, định tính, hướng theo chiều thay đổi của cuộc sống. Việc theo đuổi, dấn thân trên con đường xác định giá trị sống là khế cơ trong quá trình thay đổi thân phận. Sống ra sao cho càng ngày càng ra mình, đó là tiến trình tạo lập nên thân phận riêng. Giả sử một con người trót sinh ra trong gia đình nghèo khó; đến một ngày kia, người ấy hoàn toàn có thể quyết định thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn ấy để tiến thân trên con đường xác lập phận mới dưới động lực của những mục tiêu lớn. Các đô thị lớn của nước ta trong nhiều năm qua đã không ngừng thu hút nhiều cá thể tới làm ăn, lập nghiệp và không ít người trong số đó xuất phát từ mục tiêu đổi đời – một cuộc cách mạng với mơ ước thay đổi thân phận. Bởi vậy, phận là thành tố khả biến, chịu sự quyết định của chủ thể.
Xét trên phương diện tổng thể phẩm chất cuộc sống, phận bao gồm cả giá trị vật chất và tinh thần. Để thay đổi được phận, một trong những nhân tố đóng vai trò then chốt là Thực lực của mỗi con người. Thực lực có khả năng định vị, làm nên cuộc cách mạng về phẩm chất cuộc sống. Hiểu một cách đầy đủ, Thực lực gồm sáu phương diện: Công đức lực, Gia trì lực, Cảm nhiễm lực, Nỗ lực, Quan sát lực và Ứng biến lực.
Công đức lực có thể hiểu là sức mạnh của lòng từ bi, hỷ xả, những điều mà khả năng của con người có thể đem lại cho tha nhân. Một người có thực lực không thể chỉ biết chăm lo cho riêng bản thân, sống một cách tự tư, tự lợi, mà còn phải đem tài năng, phẩm hạnh ra giúp người, giúp đời. Thực lực thể hiện trên phương diện Công đức coi như một thứ trách nhiệm tự nguyện, xuất phát từ lòng yêu thương, quan tâm tới hoàn cảnh sống của người khác. Xét cho cùng, mỗi người trong chúng ta đều chỉ là một cá thể trong chỉnh thể gồm có ta cùng tha nhân. Dù rằng, vai trò cá nhân đang ngày càng được đề cao, đến mức độc tôn; nhưng cá thể không làm nên được chỉnh thể và con người không thể sống độc lập tuyệt đối trên thế gian này. Từ công đức lực liên quan đến Gia trì lực, được hiểu là sức mạnh của sự hộ trì, giúp đỡ bởi tha nhân. Bất cứ người nào, kể từ khi còn trong bụng mẹ, chưa hề biết gì cho đến lúc trưởng thành, công thành danh toại đều hàm ân không biết bao nhiêu người. Sức mạnh của những lực lượng hữu hình hay vô hình trên thế gian luôn phù trợ chúng ta trên mỗi bước đường dẫn tới thành công. Con người ta thật khó thể nói đến thành đạt khi không nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhiều người. Thực lực tiếp theo cần nói đến là Nỗ lực. Muốn thành công trên con đường sự nghiệp, đạo hạnh hay học vấn… đều phải tự mình cố gắng vươn lên. Vì, học và hành không ai có thể làm thay. Nỗ lực chính là phẩm chất số một giúp con người không ngừng thăng tiến, vươn lên. Ngoài ra, còn phải kể đến Cảm nhiễm lực: năng lực tiềm ẩn trong sức mạnh lan toả, chiếm hữu tình cảm, tinh thần của người khác. Các bậc thành tựu đều có năng lực này, từ những thiền sư, hoà thượng cho đến chính trị gia, nghệ sĩ, giáo sư… Năng lực tiêm nhiễm, cảm hoá biến họ trở thành người có khả năng truyền cảm hứng, đam mê, đức tin đến người khác, từ đó cảm hoá, lay chuyển những khối lầm lì của tập quán cũng như tư tưởng… Một năng lực khác càng ngày càng thiết yếu trong xã hội đương đại đó là Năng lực ứng biến. Thế gian vô thường nhằm chỉ tình trạng thường biến của vạn vật. Vạn vật và cả con người đều nằm trong sự biến đổi không ngừng. Sống trong điều kiện đó đòi hỏi mỗi người phải có khả năng thích ứng với hoàn cảnh. Có thể mới có thể an nhiên, tự tại trước cảnh vật đổi sao dời. Và cuối cùng là Quan sát lực :khả năng quan sát. Bất cứ ai dù giác quan khiếm khuyết đến đâu đều có khả năng quan sát. Quan sát không chỉ bằng mắt, bằng các giác quan, mà còn bằng cả tâm hồn, tình cảm và lòng yêu thương. Có như thế, năng lực quan sát mới trở thành một trong những phẩm chất làm thay đổi phận của bản thân và người khác nhằm làm nên thực lực của mỗi con người.
Trong bất cứ điều kiện nào, dài lâu về số vẫn như một niềm mong ước, đặc biệt khi mà từng phút, từng giây, không biết bao nhiêu những nguy cơ tiềm ẩn trên cuộc đời. Số rốt cuộc vẫn thể hiện sức mạnh quyền uy biến thiên của mình cho con người tin rằng, loài người còn chịu sự chi phối bởi những thế lực ngoại tại. Chính vì thế, điều chúng ta cần hướng tới là nỗ lực làm thay đổi phận. Yếu tố không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp đến số, mà còn quy định phẩm chất của số. Và điều quan trọng hơn, phận hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò tự quyết của mỗi cá nhân.■
Có nhiều người chịu sống một đời hèn mọn, bấp bênh…, cũng có những người giàu sang phú quý, vợ đẹp con khôn… từ đó làm nên những thân phận khác nhau. Trong đời người ở những giai đoạn khác nhau lại tiếp tục làm nên tính khác biệt của phận. Phận ở đây nhằm chỉ tình trạng sống, cảnh sống, phẩm chất đời sống. Nó thuộc yếu tố khả biến, khác với số ở chỗ nó có thể được quyết định bởi mong muốn chủ quan và nhờ vào nỗ lực của mỗi người trong việc định dạng bản thân. Trong khi số hàm nghĩa tổng lượng thời gian tại thế, định lượng, thì phận lại biến đổi, định tính, hướng theo chiều thay đổi của cuộc sống. Việc theo đuổi, dấn thân trên con đường xác định giá trị sống là khế cơ trong quá trình thay đổi thân phận. Sống ra sao cho càng ngày càng ra mình, đó là tiến trình tạo lập nên thân phận riêng. Giả sử một con người trót sinh ra trong gia đình nghèo khó; đến một ngày kia, người ấy hoàn toàn có thể quyết định thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn ấy để tiến thân trên con đường xác lập phận mới dưới động lực của những mục tiêu lớn. Các đô thị lớn của nước ta trong nhiều năm qua đã không ngừng thu hút nhiều cá thể tới làm ăn, lập nghiệp và không ít người trong số đó xuất phát từ mục tiêu đổi đời – một cuộc cách mạng với mơ ước thay đổi thân phận. Bởi vậy, phận là thành tố khả biến, chịu sự quyết định của chủ thể.
Xét trên phương diện tổng thể phẩm chất cuộc sống, phận bao gồm cả giá trị vật chất và tinh thần. Để thay đổi được phận, một trong những nhân tố đóng vai trò then chốt là Thực lực của mỗi con người. Thực lực có khả năng định vị, làm nên cuộc cách mạng về phẩm chất cuộc sống. Hiểu một cách đầy đủ, Thực lực gồm sáu phương diện: Công đức lực, Gia trì lực, Cảm nhiễm lực, Nỗ lực, Quan sát lực và Ứng biến lực.
Công đức lực có thể hiểu là sức mạnh của lòng từ bi, hỷ xả, những điều mà khả năng của con người có thể đem lại cho tha nhân. Một người có thực lực không thể chỉ biết chăm lo cho riêng bản thân, sống một cách tự tư, tự lợi, mà còn phải đem tài năng, phẩm hạnh ra giúp người, giúp đời. Thực lực thể hiện trên phương diện Công đức coi như một thứ trách nhiệm tự nguyện, xuất phát từ lòng yêu thương, quan tâm tới hoàn cảnh sống của người khác. Xét cho cùng, mỗi người trong chúng ta đều chỉ là một cá thể trong chỉnh thể gồm có ta cùng tha nhân. Dù rằng, vai trò cá nhân đang ngày càng được đề cao, đến mức độc tôn; nhưng cá thể không làm nên được chỉnh thể và con người không thể sống độc lập tuyệt đối trên thế gian này. Từ công đức lực liên quan đến Gia trì lực, được hiểu là sức mạnh của sự hộ trì, giúp đỡ bởi tha nhân. Bất cứ người nào, kể từ khi còn trong bụng mẹ, chưa hề biết gì cho đến lúc trưởng thành, công thành danh toại đều hàm ân không biết bao nhiêu người. Sức mạnh của những lực lượng hữu hình hay vô hình trên thế gian luôn phù trợ chúng ta trên mỗi bước đường dẫn tới thành công. Con người ta thật khó thể nói đến thành đạt khi không nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhiều người. Thực lực tiếp theo cần nói đến là Nỗ lực. Muốn thành công trên con đường sự nghiệp, đạo hạnh hay học vấn… đều phải tự mình cố gắng vươn lên. Vì, học và hành không ai có thể làm thay. Nỗ lực chính là phẩm chất số một giúp con người không ngừng thăng tiến, vươn lên. Ngoài ra, còn phải kể đến Cảm nhiễm lực: năng lực tiềm ẩn trong sức mạnh lan toả, chiếm hữu tình cảm, tinh thần của người khác. Các bậc thành tựu đều có năng lực này, từ những thiền sư, hoà thượng cho đến chính trị gia, nghệ sĩ, giáo sư… Năng lực tiêm nhiễm, cảm hoá biến họ trở thành người có khả năng truyền cảm hứng, đam mê, đức tin đến người khác, từ đó cảm hoá, lay chuyển những khối lầm lì của tập quán cũng như tư tưởng… Một năng lực khác càng ngày càng thiết yếu trong xã hội đương đại đó là Năng lực ứng biến. Thế gian vô thường nhằm chỉ tình trạng thường biến của vạn vật. Vạn vật và cả con người đều nằm trong sự biến đổi không ngừng. Sống trong điều kiện đó đòi hỏi mỗi người phải có khả năng thích ứng với hoàn cảnh. Có thể mới có thể an nhiên, tự tại trước cảnh vật đổi sao dời. Và cuối cùng là Quan sát lực :khả năng quan sát. Bất cứ ai dù giác quan khiếm khuyết đến đâu đều có khả năng quan sát. Quan sát không chỉ bằng mắt, bằng các giác quan, mà còn bằng cả tâm hồn, tình cảm và lòng yêu thương. Có như thế, năng lực quan sát mới trở thành một trong những phẩm chất làm thay đổi phận của bản thân và người khác nhằm làm nên thực lực của mỗi con người.
Trong bất cứ điều kiện nào, dài lâu về số vẫn như một niềm mong ước, đặc biệt khi mà từng phút, từng giây, không biết bao nhiêu những nguy cơ tiềm ẩn trên cuộc đời. Số rốt cuộc vẫn thể hiện sức mạnh quyền uy biến thiên của mình cho con người tin rằng, loài người còn chịu sự chi phối bởi những thế lực ngoại tại. Chính vì thế, điều chúng ta cần hướng tới là nỗ lực làm thay đổi phận. Yếu tố không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp đến số, mà còn quy định phẩm chất của số. Và điều quan trọng hơn, phận hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò tự quyết của mỗi cá nhân.■
THÁI CỰC LUẬN Chương 5. Tương quan giữa Thái Cực và Vô Cực, Thái Cực và Vạn Hữu
A. Thái Cực và Vô Cực
Nho gia không phân biệt Thái Cực và Vô Cực.
Chu Liêm Khê viết: Vô Cực nhi Thái Cực.
Các Đạo gia cũng cho rằng rất khó mà phân biệt Thái Cực với Vô Cực. Thái Cực có lẽ hàm ngụ ý sinh hóa, tạo thành vũ trụ, còn Vô Cực là thực thể siêu vi của vũ trụ. Xướng Đạo Chân Ngôn tượng trưng Vô Cực, Thái Cực bằng 2 hình sau đây [1]
Vô Cực Thái Cực
Thái Cực có thêm chấm ở giữa ngụ ý rằng Thái Cực là Huyền Quan sinh xuất muôn loài.
Ngày nay ta có thể nghị luận như sau:
Thái Cực và Vô Cực là 2 phương diện của một Thực thể duy nhất, Vô Cực là Thực thể ở thế tiềm ẩn chưa hiển dương; Thái Cực là Thực thể đã hiển dương bằng cách tạo thành vũ trụ. Vô Cực là Trời Ẩn, Thái Cực là Trời Hiện. Vô Cực hàm nghĩa siêu xuất quần sinh (Transcendent). Thái Cực hàm nghĩa ẩn ngụ giữa lòng Vạn Hữu (Immanent). Thái Cực đứng đầu Vạn Hữu, nên gọi được là Hữu.
Vô Cực vì siêu xuất trên mọi hình thức, nên gọi là Vô. Cho nên nói Hữu sinh ư Vô, hay Thái Cực từ Vô Cực xuất sinh cũng đúng; mà nói Thái Cực là Vô Cực cũng vẫn đúng. [2]
B. Thái Cực và Vạn Hữu
Thái Cực là Bản Thể Vạn Hữu, nên Vạn Hữu chính là sự biểu dương của Thái Cực.
Thái Cực sinh Vạn Hữu.[3] Thái Cực vừa lồng trong Vạn Hữu vừa bao trùm Vạn Hữu.[4]
Thái Cực bất biến; Vạn Hữu biến thiên
Vạn Hữu có phân tán; Thái Cực chẳng hề phân tán.
Thái Cực vô hình tướng, Vạn Hữu có hình tướng.
Thái Cực là Tiên Thiên vì chưa có hình tướng trẫm triệu [5]
Nhìn vào đồ bản:
Ta thấy Vạn Hữu từ tâm điểm dần dần sinh hóa ra. Trung tâm tượng trưng cho Thái Cực toàn bích, nên ta thấy chỉ có một vòng tròn có chấm giữa là trung tâm. Càng tiến ra các vòng ngoài, ta càng thấy phân tán, chia phôi, thù tạp.
Đại Đỗng Chân Kinh viết: Căn bản vốn từ trung tâm mà ra...
Có suy cứu, mới thấy Căn bản vũ trụ, thực là do trung điểm phát sinh. Các hiện tượng bên ngoài đều bắt nguồn tự bên trong.
Các sự ứng dụng hiển lộ bên ngoài đều do Bản Thể bên trong sinh xuất... [6]
Thiệu Khang Tiết cũng viết: Các đồ bản đều từ trung tâm mà sinh ra. Vạn hóa, vạn sự cũng sinh ra từ Tâm Điểm Thái Cực. [7] Thế tức là chủ trương: Thái Cực ở trung tâm, còn Vạn Hữu bao bọc bên ngoài.
Thiệu tử còn nói: Học về Tiên Thiên là học về tâm. Học về Hậu Thiên là học về các bóng hình, vết tích của tâm. Những tư tưởng trên hoàn toàn giống với tư tưởng Ấn Độ.
Thật vậy, các Triết gia Ấn Độ cũng cho rằng: Thượng Đế tiềm ẩn ngay trong lòng Vạn Hữu [8] Mọi sự đã được thêu dệt trên căn cơ vĩnh cửu [9] Đấng Bất Tử ẩn sau bức màn hiện tượng [10] Tâm ta là vết tích của Đại Thể; nhờ tâm, mà ta biết Đại Thể, cũng y như nhờ vết chân, mà ta kiếm ra người [11]
Như vậy Vạn Hữu chính là vết tích của Vô Cùng.
Quan niệm vạn vật sinh từ Tâm điểm cũng là quan niệm của sách Zohar. Zohar viết: Từ điểm Thái Cực huyền vi ra cho tới các tầng cấp hạ đẳng Vạn Hữu, cái gì cũng như là áo, là vỏ bao quanh tầng lớp trên... [12]
Áp dụng vào con người, ta thấy xác không phải phần quan trọng, xác chỉ là áo, là vỏ; óc não mới quan trọng. Suy thêm nữa thì óc não cũng chưa phải thực quan trọng; trung tâm não bộ mới thực là quan trọng [13] Trung tâm là Nhất, vòng ngoài cũng là Vạn. Nhất sinh Vạn. Vạn lại quay về Nhất [14], như vậy với là vẹn lẽ tuần hoàn. Lúc ấy Trung Tâm lại trở thành qui căn khiếu, phục mệnh quan.
Quan điểm này, xác định hai chiều vãng lai [15], tụ tán của vũ trụ và của con người. Chiều đi ra là chiều thuận, sinh nhân sinh vật. Chiều đi vào, là chiều nghịch sinh Thánh, sinh Thần:
CHÚ THÍCH
[1] Xem Xướng Đạo Chân Ngôn II, trang 8.
[2] Vô Cực tức thị Thái Cực 無 極 即 是 太 極.— Xướng Đạo Chân Ngôn, quyển II - trang 8.
[3] Vạn vật giai thủy ư Không. Thái Cực Không giả dã. 萬 物 皆 始 於 空. 太 極 空 者 也.— Xướng Đạo Chân Ngôn II, trang 9.
[4] Thái Cực dã đại tắc bao thiên địa, tiểu tắc nhập giới tử. 太 極 也 大 則 包 天 地, 小 則 入 芥 子.— Xướng Đạo Chân Ngôn II, trang 8a.
[5] Phù Tiên Thiên, vật tượng vị hình, bất lộ trẫm triệu. 夫 先 天, 物 象 未 形, 不 露 朕 兆 .— Xướng Đạo Chân Ngôn II, trang 3.
[6] Căn bản nguyên do Trung... Cứu kỳ căn bản thật do ư Trung. Hiện hồ ngoại giả bản hồ nội. Chiêu hồ dụng giả do hồ thể dã. 根 本 原 由 中 ... 究 其 根 本 實 由 於 中. 現 乎 外 者 本 乎 內. 昭 乎 用 者 由 乎 體 也. — Đại Đỗng Chân Kinh quyển hạ trang 11b.
[7] Đồ giai tòng trung khởi, vạn hóa vạn sự sinh ư tâm. 圖 皆 從 中 起 萬 化 萬 事 生 於 心.— Tạ Vô Lượng, Trung Quốc Triết Học Sử, Đệ tam thiên thượng, trang 15.
[8] Brahma underlying the world. -- The Thirteen Upanishads - page 15.
[9] C'est sur l'Impérissable que tout est tissé. — (B.A.V. III 8 - 3 - 10) Instant et Cause, page 117.
[10] «C'est l'Immortel voilé par le réel.»
(Brihad Aranyaka Upanishad I. 6. 1 - 3) Instant et Cause 107
... That is the Immortal veiled by the real (satya). Life (prana, breath) (a designation of the Atman)» verily, is the Immortal. Name and form are the real. By them this Life is veiled.
(Brihad Aranyaka Upanishad I. 6.3.).
[11] «One’s self (Atman), for therein, in all these become one. That same thing, namely, this self, is the trace of the All; for by it one knows this All. Just as, verily, one might, find by a foot print». — The Thirteen Up, page 25.
[12] «A partir du mystérieux Point Suprême jusqu'au plus infime degré de la création, tout sert de vêtement à quelque autre chose et cette autre chose sert de vêtement à une chose supérieure, et ainsi de suite. De sorte que le cerveau entouré d'une enveloppe sert lui même d'enveloppe à un cerveau supérieur. Le Point Suprême projetait une lumière immense d'une telle limpidité, d'une telle transparence et d'une telle subtilité qu'elle pénétra partout... Ainsi à partir du Point Suprême, tous les degrés de la création ne sont que des enveloppes les unes pour les autres; l'enveloppe du degré supérieur forme le cerveau du degré inférieur... — Extraits du livre du Zohar, Trad. Jean de Pauli Ed.
Reder Paris 1935 page 73 - Cf. M. Senard, Le Zodiaque, page 326.
Tout dans le monde est divisé en deux parties dont l'une est visible et l'autre invisible. Ce qui est visible n'est que le reflet de ce qui est invisible. — Le livre du Zohar page 125 - Cf. M. Senard, le Zodiaque, page 327
[13] Não chi quan ư nhân diệc đại hĩ. 腦 之 關 於 人 亦 大 矣. — Tính Mệnh Pháp Quyết Minh Chỉ, quyển 4 - trang 12.
[14] Trình phu tử tri vạn lý qui ư nhất lý, nhi bất tri nhất lý tán ư vạn sự... 程 夫 子 知 萬 理 歸 於 一 理, 而 不 知 一 理 散 於 萬 事.— Đào Hư Tử, Đạo Dư Lục, trang 19
[15] Vãng lai giả, dĩ nội ngoại ngôn dã, dĩ tiêu tức ngôn dã. Tự nội nhi ngoại vị chi vãng, tự ngoại nhi nội vị chi lai 往 來 者 以 內 外 言 也, 以 消 息 言 也. 自 內 而 外 謂 之 往, 自 外 而 內 謂 之 來. — Tống Nguyên Học Án, Quyển 37 - trang 5.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)