Chủ Nhật, 10 tháng 5, 2015

THÁI CỰC LUẬN Chương 6. Quan niệm Thái Cực ở Trung Quốc đối chiếu với quan niệm Atman ở Ấn Độ và Logos ở Âu Châu



A. THÁI CỰC VỚI ATMAN

Quan niệm của các Hiền Triết Ấn Độ về Atman có thể nói được là tương tự với quan niệm của các Hiền Triết Trung Hoa về Thái Cực.

So sánh hai quan niệm Atman và Thái Cực, chúng ta sẽ hiểu rõ Thái Cực hơn.

Thoạt tiên chúng ta phải nhận định rằng quan niệm về Atman rất là phong phú.

Atman có rất nhiều danh hiệu, mỗi danh hiệu như vẽ lại được một trạng thái, một hoạt động của Atman. Nói nôm na ra, thì đối với Ấn Độ giáo, Atman chính là Thượng Đế, là Bản Thể của vũ trụ, là Tạo hóa v.v...Vì thế, Atman[1] có thể là: Brahman,[2] Thần Ngôn,[3] Nguyên Lý Bất Diệt,[4] Brahmanaspati (Hóa Công) (R.V. 10. 72.2), Visvakarman (Tạo hóa-The All Maker) (R.V. 10. 81), Purusha (Chân Nhân) (R.V.10. 90).

Prajapati (Chủ Tể Càn Khôn, Lord of Creatures) (A.V. XIX. 17), Hiranyagarbha (Kim đơn Kim nhân, Golden Germ) (R.V. 10. 121. 1), Nguyên Thể (The original Being), [5] Căn cơ vũ trụ, [6] Thái Nhất (The One),[7] (the Underlying Unity of all being),[8] Chân lý,[9] Sự sống, [10] Thần, Chân Tâm,[11] trục cốt, núm rốn, [12] của vũ trụ và Vạn Hữu.

Sau khi đã biết khái quát rằng Atman chính là Brahman, là Thượng Đế, là Bản Thể, là Căn Nguyên, là Tâm Điểm Sinh Hóa của vũ trụ, ta có thể so sánh ít nhiều quan niệm then chốt giữa thánh kinh Ấn Độ (như Phệ Đà, Áo Nghĩa Thư) với Dịch Kinh.)

1). Áo Nghĩa Thư chủ trương Atman chính là Brahman[13]. Thánh Hiền Trung Hoa cũng nói:

Hữu sinh ư Vô [14] Vô Cực nhi Thái Cực [15]

2). Áo Nghĩa Thư chủ trương Atman tạo dựng nên vũ trụ, Vạn Hữu [16] thì các Triết gia Trung Quốc cũng chủ trương Thái Cực sinh hóa ra vũ trụ,Vạn Hữu [17]

3). Atman hay Đại ngã chính là Nguyên Khí hay Nguyên Thần, mịt mù huyền ảo, ẩn khuất trong đáy lòng vạn vật. Tế vi thì thực tế vi, mà mênh mông thì không bờ không bến, ấy là Atman ẩn ngụ trong thâm tâm Vạn Hữu. [18]

Atman cực kỳ vi tế ấy, lại lớn hơn mọi thế giới: bao quát quần sinh... vô xú, vô thanh ấy là Chân Tâm ở trong lòng tôi, ấy chính là Brahman (Thượng Đế) [19]

Quan điểm các Hiền Triết Trung Hoa cũng tương tự: Xướng Đạo Chân Ngôn mượn hai câu Trung Dung: «Ngứ đại, thiên hạ mạc năng tải, ngứ tiểu thiên hạ mạc năng phá» để bình luận rằng:

Thái Cực bao trùm trời đất... Thái Cực lồng trong lòng Vạn Hữu. Thế là Thái Cực vừa là cực đại vừa là cực tiểu.[20]

Đối với Áo Nghĩa Thư, vũ trụ chỉ gián phân, sai biệt ngoài mặt; gián phân, sai biệt vì danh tự, hình thức hoạt động khác nhau, nhưng thực thể vẫn chỉ là một. [21]

Đó chính là quan niệm nhất thể, vạn thù của Dịch Kinh và của các Triết gia Trung Hoa [22]

4). Áo Nghĩa Thư chủ trương Atman là toàn thể vũ trụ [23], vũ trụ là biểu dương của Atman [24] và Atman tiềm ẩn ngay trong đáy lòng Vạn Hữu [25]

Khảo sát thư tịch Trung Hoa ta thấy:

Chu liêm Khê chủ trương: Vạn vật thống thể nhất Thái Cực, vạn vật hợp nhất lại tức là Thái Cực. [26] Chu liêm Khê viết thêm: Mỗi vật đều có một Thái Cực. [27]

Sao Kiểu đạo nhân viết: Trời đất là biểu dương của Thái Cực. [28]

Chu Hi cũng viết: Người người đều có một Thái Cực, vật vật đều có một Thái Cực [29]

Tuy chỉ có một Thái Cực nhưng muôn loài đều bẩm thụ, chẳng những thế còn bẩm thụ trọn vẹn cả Thái Cực, ví như mặt trăng trên trời, tuy chỉ có một nhưng tán ra khắp sông hồ, thời đâu đâu cũng thấy có trăng, tuy nhiên không nói được là trăng đã chia phôi san sẻ. [30]

5). Áo Nghĩa Thư cho rằng Atman là Duy nhất, Tuyệt Đối [31]

Chu Tử cũng chủ trương: Thái Cực là duy nhất, là Tuyệt Đối [32]

6). Áo Nghĩa Thư chủ trương Atman là:

Tâm, Trục Cốt, Căn Đế, Cuống rốn Vạn Hữu, và Vạn Hữu y như biến thiên ảo hóa ở vòng tròn bên ngoài. Ta có thể vẽ như sau:

[33]

Dịch Kinh và các Đạo gia cũng vẽ vòng Dịch tương tự, trong đó: Thái Cực ở trung tâm, Hào Quải tượng trưng cho Vạn Hữu biến hóa bên ngoài.



7). Các Triết gia Ấn Độ rất chú trọng đến Tâm điểm của bánh xe Vạn Hữu, vì Tâm điểm ấy thoát vòng lao lung biến ảo của vũ trụ [34]

Ở Trung Quốc các Đạo gia cũng hết sức chú trọng đến Tâm điểm vòng Dịch vì biết đó là điểm Trung Hoàng Thái Cực, khu nữu của đất trời.

Văn Đạo tử viết: Cổ nhân gọi trục ấy là Trung tâm trời đất, là Cực Điểm Thái Cực.

Theo Thiên Đạo, tức là vào được Trung điểm Thái Cực. Người quân tử, mới đầu tu Nhân Đạo cho hợp với Thiên Đạo. Khi đã hợp Thiên Đạo sẽ vào được giữa vòng Dịch, siêu xuất trên hình tướng...

Ôi, vi diệu thay là trục bánh xe Vạn Hữu. Ai

là người thông hiểu được?[35]

Chí Nhất Chân Nhân viết trong Nhập Dược Kính như sau: Người hiểu Tạo hóa tất sẽ tìm gốc gác mình nơi «Chân Thổ». Tìm được Chân Thổ tức là Đan Đạo thành [36]

Chân Thổ tức là Trung Hoàng Thái Cực, Chân Thổ như vậy chính là Quê hương, là Đất tổ, là Đế đình, là Bồng đảo Trường Sinh, hiện lên giữa muôn trùng ba lãng biến thiên của hoàn võ [37]

8). Áo Nghĩa Thư cố tìm cho ra cứ điểm của Vạn Hữu, đó là Atman. Atman sẽ là nơi cư ngụ, chốn dừng chân của những bậc đại đức tu trì [38]

Dịch Kinh cũng dạy người quân tử phải biết €Ý Nghĩa của Tâm điểm Thái Cực Trung Hoàng, và phải coi đó là nơi cư ngụ thiết yếu của tâm hồn mình [39]

9). Áo Nghĩa Thư cho rằng cái học cao siêu nhất là cái học để tìm cho ra Atman, cho ra Tuyệt Đối Thể tiềm ẩn đáy lòng vũ trụ và đáy lòng con người [40]

Chu liêm Khê cũng cho rằng: Biết được Thái Cực, Hoàng cực là cái biết cao siêu nhất [41]

10). Mục đích Áo Nghĩa Thư là đi lần theo mối giây liên lạc giữa Vạn Hữu, để dần dà từ Vạn trở về Nhất, từ Vạn thù tới Tinh hoa duy nhất, cái Tinh hoa đã hàm ngụ cả Vô cùng, Vô tận, tới Atman Bản Thể [42]

Mục đích của Dịch Kinh cũng là băng qua Vạn Hữu, hình tướng, để tìm cho ra Thái Cực, Vô Cực.

Đó chính là ven theo giòng để trở về nguồn theo từ ngữ của Trình Tử [43]

Đại Đỗng Chân Kinh viết:

Chân linh tại ngã, bất nan tầm,

Phản chiếu hồi phong hỗn Đế Tâm [44]

Tạm dịch:

Chân Linh sẵn có nơi ta,

Chân Linh tìm tõi, có là khó đâu,

Đế Tâm nếu muốn hồi đầu

Ngược dòng vũ trụ, tiến sâu về nguồn.

Lại viết:

Căn Bản do lai Thái Cực tầm

Căn Bản phải tìm nơi Thái Cực [45]

Đỗng Huyền Linh Bảo Tất Pháp viết:

Minh vô tướng ư hữu hình chi hậu,

Trí hư cực ư vị triệu chi tiên [46]

Tạm dịch:

Băng qua sắc tướng, hình hài,

Quán thông vô tướng, vô sai, vô thù,

Đất trời từ chửa manh nha,

Tìm ra Hư cực mới là cao siêu

Thái Cực Quyền Bổng Đồ Thuyết đã viết một câu rất ý vị khi cho rằng Dịch Kinh dạy người phương pháp trở về với Trời [47]

11). Taittiriya Upanishad (II, 1 4) chủ trương con người có nhiều tầng lấp, con người bên ngoài thì thô thiển, con người bên trong thì tế nhị. Từ ngoài vào trong, con người càng ngày càng trở nên tế nhị. Con người cực kỳ tế vi, tế nhị bên trong chính là Atman, là Brahman, là Thực Thể Siêu Hình của vũ trụ và của lòng người [48]

Tác giả Thái Cực Quyền Bổng Đồ Thuyết cho rằng Dịch có 64 quẻ, quẻ nào cũng có 6 Hào, tức là sáu tầng, như vậy con người cũng có sáu tầng, từ ngoài vào trong là: 1. Bì phu (da), 2. Cơ nhục (thịt), 3. Cân kiện (gân). 4. Võng mô (màng), 5. Cốt tiết (Xương khớp xương), 6. Não tủy (Óc tủy) [49]

Nhưng ngoài sáu tầng Hào ra, Dịch còn một tầng căn cơ cốt cán nữa: đó là Thái Cực. Ta xem các đồ bản Dịch bất kỳ là viên đồ, hay hoành đồ, ta đều thấy 7 tầng đó. Suy ra thì trong con người, dưới tầng lớp Não tủy, còn có tầng lớp Thái Cực nữa. Có như vậy Dịch mới ăn khớp được với con người, và ta mới hiểu sao Chu Hi lại nói được: Ai ai cũng có Thái Cực trong mình [50]

12). Nếu học để tìm cho ra Atman tiềm ẩn đáy lòng mình là cái học cao siêu nhất, thì sống phối hợp với Atman cũng là một đời sống đạo lý cao siêu nhất đối với các Thánh Hiền Trung quốc.

Các Thánh Hiền Trung quốc dẫu là Nho hay Lão cũng đều chủ trương: đời sống đạo hạnh, thuần túy cao siêu nhất là sống phối hợp với Thái Cực, với Tâm Điểm, Trung Điểm Hoàn Võ. Các ngài gọi thế là Hoàng Trung Thông Lý, chính vị cư thể [51] Hiểu biết được lẽ Trung Hoàng Thái Cực, vào được Trung Cung Chính Vị của đất trời. Các ngài gọi đó là đạo Trung Dung [52], hay là luyện thành Kim Đơn...[53]

Xướng Đạo Chân Ngôn chủ trương luyện thành Kim Đơn, tức là thực hiện được Bản Thể của Thái Cực. [54] So sánh 2 quan niệm Atman và Thái Cực ta thấy rằng cách diễn tả tuy có khác, nhưng chung qui cũng chỉ có một đề tài:Thượng Đế là căn bản quần sinh vũ trụ



B. THÁI CỰC VỚI LOGOS

Quan niệm Thái Cực cũng tương tự như quan niệm Logos ở Âu Châu.

Quan niệm Logos từ Héraclite (540 - 475 TCN), đã truyền dần qua các học phái Tân Bá Lạp Đồ, Khắc Kỷ, qua Philon le Juif (30 TCN đến 54 CN) để rồi du nhập vào Tân Ước Công giáo.[55] Héraclite cho rằng:

Logos là Lý phổ quát,[56]Logos là mối giây liên lạc giữa vũ trụ, quần sinh, [57]Logos phổ quát đại đồng, là toàn bích. [58]

Logos là Chân Lý, vì Chân Lý Phổ Quát bao dung được hết mọi khía cạnh.[59]Logos là Cơ Cấu Vạn Hữu.[60]Logos là Thần, là Thượng Đế [61]

Đối với Héraclite, Logos vừa là cực đại, vừa là cực tiểu, vì Logos vừa phổ quát, vừa bao dung Vạn Hữu [62]lại vừa tiềm ẩn trong lòng Vạn Hữu.[63]

Héraclite chủ trương: Logos soi sáng mọi tối tăm, phơi bày mọi ẩn áo, sẽ làm cho ta thấy rằng vũ trụ là nhất thể, toàn bích. Logos vừa là Nhất, vừa là Vạn; Logos tuy hiển dương trong Vạn, nhưng vẫn là duy nhất bất khả phân... Mọi người đều có thể nhận biết Logos, vì Logos là của chung mọi người, ở trong lòng mọi người. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể suy nghĩ, nói năng, hoạt động đúng với Chân lý, với bản tính, với Logos... [64] Quan niệm Logos trên đây nào có khác gì quan niệm Thái Cực đâu.

Thực thế, các Triết gia Trung Hoa từ lâu vẫn cho rằng: Thái Cực là Lý [65] Thái Cực là Chân [66]Thái Cực là Thiên Lý phổ quát, đại đồng. [67]

Thái Cực vừa bao quát Vạn Hữu lại vừa tiềm ẩn trong lòng trong Vạn Hữu [68]Thái Cực đã tiềm ẩn trong lòng mọi người. Đó là Đạo Tâm, là Thiên Tính; Tính ấy nơi Thánh chẳng tăng, nơi phàm chẳng giảm. Đó là Kim Cương Thân bất khả hủy hoại [69] Cơ cấu Vạn hữu đã hàm tàng trong Thái Cực. [70]

Héraclite cho rằng: Logos bao giờ cũng chân thực, vô vọng, nhưng người thường không hiểu được Logos, dẫu là chưa được nghe, hay là đã được nghe bàn tới. Con người nhờ Logos mới biến thiên sống động, nhưng thường lại ù cạc chẳng biết tăm hơi gì về Logos...Logos chí công, chí chính, còn người thường thì lại luôn có những ý nghĩ riêng tư, lẻ biệt. Tuy là thường xuyên tiếp xúc với Logos, nhưng người ta thường mâu thuẫn tương phản với Logos; và cái mà họ gặp hằng ngày đối với họ lại trở nên hết sức xa lạ. [71]

Nhưng lời nói trên làm ta liên tưởng đến một câu Mạnh tử:

Vẫn mang Ngài, mà thân chẳng hiển

Vì quá que,n nên khiến chẳng suy,

Suốt đời ngài độ ta đi,

Nhưng mà dung tục biết chi đạo Ngài.

Héraclite chủ trương vạn vật biến thiên, nhưng vẫn cho rằng: Thái Cực trung nhất muôn đời chẳng biến thiên[72]

Philon le Juif (30 TCN - 54 CN) cho rằng: Cơ cấu Vạn Hữu đã được ghi tạc trong Logos [73]

Chu Hi cũng cho rằng: Thái Cực là Lý của Vạn Hữu [74] Theo các học giả Âu Châu, chữ Lý có thể hiểu được nhiều cách, ví dụ là khuôn, là cơ cấu, là dạng thức v.v... [75]

Các bản dịch Cựu Ước và Tân Ước bằng tiếng Trung Hoa lại càng cho ta thấy liên quan mật thiết giữa Thái Cực và Logos. Thực vậy, người Trung Hoa từ lâu vốn chủ trương: Thái Cực là Thần, là Đạo. Thế mà chữ Thần, chữ Đạo ngày nay lại được dùng để dịch danh từ Thượng Đế và Logos trong các bản Thánh Kinh Trung Hoa.[76] Mở Sáng Thế Ký ta thấy ngay trang đầu: Khởi sơ, Thần sáng tạo thiên địa.

Mở Phúc Âm Thánh Jean, ta đọc thấy nơi trang đầu: Thái sơ hữu Đạo, Đạo dữ thần đồng tại, Đạo tựu thị thần.Đối với Thánh Jean, Logos là căn cơ Vạn Hữu; không Ngài thời không có Vạn Hữu [77]

Trong một bài diễn văn trước tòa Thượng thẩm Nhã Điển, Thánh Paul nói đại khái rằng: Con người sinh ra đời cốt là để tìm tòi cho ra Thượng Đế, và để đạt tới Thượng Đế. Vả Thượng Đế cũng chẳng xa con người, vì ta luôn sống động trong Thượng Đế... Chúng ta là giòng giõi Thượng Đế [78]

Các bậc Thượng trí, Thượng nhân Trung Hoa thực ra cũng không chủ trương gì khác.

Đối với các Ngài con người sinh ra cốt là để tìm Đạo, tìm Thái Cực. Vả Đạo hay Thái Cực cũng chẳng ở xa con người, vì Đạo hay Thái Cực chính là căn cốt con người, là tính mệnh con người [79]

Những so sánh trên đây chắc chắn đã làm sáng tỏ rất nhiều về quan niệm Thái Cực và giúp ta bắc một nhịp cầu thông cảm giữa Đông Tây.

CHÚ THÍCH


[1] Maitri Up. 7


[2] He (i.e. Atman) is Brahma (Ait. 5.3.)


[3] «Cet Impérissable est le monde entier, passé, présent, avenir et tout ce qui transcende le triple temps. Ceci aussi est le phonème Om car en vérité tout ceci est le Brahman; cet Atman, est le Brahman» (Mand U.I. 2)

Cf. Instant et Cause, page 116


[4] L'aksara, l'Impérissable est la matrice de tout ce qui existe, omniprésent et infiniment subtil... c'est de lui que les choses surgissent, en lui qu'elles retournent à la fin (Mund. U.I. 6 - 7).

Cf. Instant et Cause, page 116

...Brahman, atman et aksara désignent indifféremment l'unique réalité, le réel du réel, la plénitude sans fissure saisie en une intuition mystique (prajnãnảghàna ou jnãna) qui est au delà de la dualité du sujet et de l'objet (B.A.V. IV 5 - 13) Ib. 117


[5] Verily in the beginning this World was Brahma

(Brahma 1,4. 10) Cf. The Thirteen Upanishads


[6]The ultimate ground of the world. Ib. 10

The world ground. Ib. 21


[7]The primal entity Ib. 21

«... Him who is the One existent, sages name variously

(R. V. I 164 - 461) Ib. 13


[8] Ib. page 1


[9] This Soul (Atman) assuredly indeed is Isana (Lord), Sambhu (the Beneficent), Bhava (the Existent), Rudra (the Terrible), Prajàpati (Lord of Creation), Visvarsrij (Creator of All), Hiranya garbha (Golden Germ), Truth (Satya), Life (prana), Spirit (Kainsa), Sastri (Punisher, or Commander or Teacher), the Unshaken, Vishnu (Pervader), Nàràyana (Son of Man) — Maitri Up. 7.7, Cf. The Thirteen Up, page 453


[10] Coi chú thích trên.


[11] Le coeur, dit il (Yajnavalkya) manifeste la stabilité (sthiti), il est le siège (ayatana) de tous les êtres, le pivot (pratistha) de tous les êtres. C'est en prenant leur point d'appui sur le coeur que subsistent tous les êtres. Le coeur est le Suprême Brahman. (B.A.V. IV - 17), Instant et Cause, page 124


[12] Ce moyeu est la nàbhi du père, nàbhi signifiant à la fois moyeu et nombril, le lieu originaire, source des êtres. (R.V. I. 164 - 2), Instant et Cause, page 15


[13] Verily, that great unborn Soul, undecaying, undying, immortal, fearless, is Brahma (Brih. 4. 4 - 25)

He (i.e., Atman) is Brahma (Ait 5. 3)

The Thirteen Up. p. 29


[14] Đạo Đức Kinh Chương II


[15] Cf. Thái Cực đồ Thuyết (Chu liêm Khê) TQTHS, Thiên III thượng - trang 5


[16] He, Truly, indeed is the Self (Atman) within the heart, very subtile like fire, assuming all forms. This whole world is his food.

On Him, creatures here are woven.

Maitri Upanishad 7.7.


[17] Thái Cực nhất khai cơ, nhi vạn tượng giai tòng thử triệu. 太 極 一 開 機 而 萬 解象 皆 從 此 兆. — Xướng Đạo Chân Ngôn, quyển II 8a


[18] «Cette (essence) difficile à percevoir, intégrée dans le mystère, cachée, sise dans la caverne primordiale. Plus fin que le fin, plus grand que le grand est l'atman déposé dans le secret de la créature» (K.U. II 12 et 20) — Lilian Silburn - Instant et Cause, page 112


[19] Cet Atman infiniment petit est plus grand que tous les mondes! embrassant tout ce qui est.. muette, indifférente, est cette âme qui est au dedans de mon coeur, c'est Brahman même (Ch. U III 14. 4) — Ib. 112


[20] Trung Dung viết: Ngứ đại thiên hạ mạc năng tải Thái Cực bao hồ thiên địa chi ngoại dã. Ngứ tiểu thiên hạ mạc năng phá. Thái Cực nhập hồ Vạn Hữu chi trung dã. Hợp chi thiên địa đồng nhất Thái Cực. Phân chi vạn vật các nhất Thái Cực. 中 庸 曰 語 大 天 下 莫 能 載 太 極 包 乎 天 地 之 外 也. 語 小 天 下 莫 能 破. 太 極 入 乎 萬 有 之 中 也. 合 之 天 地 同一太 極. 分 之 萬 物 各 一 太 極. — Xướng Đạo Chân Ngôn, quyển II - trang 8b.


[21] Noms, formes, actes (nama - rupa - Karma) engendre la multiplicité, mais la continuité immédiate et profonde n'est brisée qu'en surface par l'aspect extérieur et le langage. Les discontinuités sont illusoires: par la ferveur (tapas) et la connaissance intuitive, on retrouve la continuité essentielle, le Tout unique et indifférencié, le havre même du salut, «Dès qu'on connaÛt le Tout, on devient le Tout» (P.U. IV. 9,11). «La pluralité n'est pas. Il court de mort en mort qui croit voir la multiplicité dans l'univers. Il faut voir (le soi) dans l'unité (ekadha), Lui ce stable infini» (B.A.U. IV. 4. 19)

A la triade des noms, formes et actes s'oppose une autre triade dans laquelle l'homme affranchi de la soif prend son refuge à l'heure de la mort: «Tu es l'impérissable, tu es l'inébranlable, tu es la plénitude de la vie (Ch. U. III 17, 6 et note 3 page 45 de la traduction E. Senart)

Lilian Silburn, Instant et Cause, page 117 - 118


[22] Nhất thể nhi vạn thù. 一 體 而 萬 殊.— Đại Đỗng Chân Kinh, Quyển thượng - trang 5.


[23] Atman alone is the whole world (Chand. 7. 25. 2)

The Thirteen Up. page 31

...This Soul (Atman) this Immortal, this Brahma, this All (Brih. 2 5 - 1) — Ib. 29


[24] Reality is One. Diversity and manifoldness are only an appearance. — Ib. 36

Cf. Brih 4.4. 19 - 20 - Chand. 7. 26. 2

... If all is One, the manifold differences that seem so real in experience are not constitutive of the inner being of the One; they must be only an appearance, a phenomenon.

Ib. 36

Cf. Maitri 6. 22


[25] The Inner Soul of all things...

Who makes his one form manifold (Katha 5 - 12) — Ib. 37


[26] Vạn vật nhất Thái Cực dã. Cái hợp nhi ngôn chi, vạn vật thống thể nhất Thái Cực. 萬 物 一 太 極 也. 蓋 合 而 言 之, 萬 物 統 體 一 太 極. — Tạ vô Lượng, TQTHS, Thiên III thượng - trang 7


[27] Nhất vật các cụ nhất Thái Cực. — Tạ Vô Lượng, TQTHS, Thiên III thượng - trang 7.


[28] Thiên địa giả, Thái Cực chi chương dã. 天 地 者, 太 極 之 彰 也.— Sao Kiểu Đỗng Chương, quyển thượng - trang 8a


[29] Nhân nhân hữu nhất Thái Cực, vật vật hữu nhất Thái Cực. 人 人 有 一 太 極, 物 物 有 一 太 極. — Ib. trang 59


[30] «Bản chỉ thị nhất Thái Cực nhi vạn vật các hữu bẩm thụ, hựu các tự toàn cụ nhất Thái Cực nhĩ. Như nguyệt tại thiên, chỉ nhất nhi dĩ, Cập tán tại giang hồ, tắc tùy xứ nhi hiện, bất khả vị nguyệt phân dã.» — Chu hối Am - Ngữ lục, TQTHS, Đệ tam chương thượng trang - 59


[31] The one God, hidden in All things,

All pervading, the Inner Soul of all things

... The one among many, who grants desires

S’vetasvatara Up. 6 11,13


[32] Thái Cực tất Duy Nhất, tất Tuyệt Đối. 太 極 必 惟 一, 必 絕 對.— Tạ Vô Lượng, TQTHS, Đệ tam thiên thượng - trang 58


[33] Roue de l'agencé (rta)

...Cette roue est également le prototype de la roue de la transmigration. — Instant et Cause, pages 15 - 17


[34] L'emplacement exigé par le Buddha est, comme l'a montré P. Mus, au moyen de la roue du devenir, la nabhi, ce centre immobile et paisible qui échappe au tournoiement de l'espace que les Upanishads nommaient «Kha» du nom même du moyeu, et qui, dans le Véda, est le «nombril de l'immortel», le lieu de l'autel où se trouvait placé le feu, Agni (R.V. III, 17.4) — Instant et Cause, page 196.


[35] Cổ nhân xưng thử trục vi thiên địa chi trung. Thái Cực chi cực. Thiên đạo duy cư trung ngự cực... Cố quân tử tu kỳ nhân đạo, tự hợp Thiên đạo. Hợp Thiên đạo tắc đắc kỳ hoàn trung, siêu hồ tượng ngoại. Y hi, vi hồ huyền tai, pháp luân chi trục, y thùy năng thức. 古 人 稱 此 軸 為 天 地 之 中. 太 極 之 極. 天 道 惟 居 中 御 極. ... 故 君 子 修 其 人 道 自 合 天 道. 合 天 道 則 得 其 還 中, 超 乎 象 外. 噫 嘻 微 乎 玄 哉, 法 輪 之 軸 伊 誰 能 識 .— Văn Đạo Tử Giảng Đạo Tinh Hoa Lục, quyển II - trang 36


[36] Thức Tạo hóa giả tất ư chân thổ trung cầu kỳ căn đế yên. Đắc thử tắc đan đạo lập hĩ. — Nhập Dược Kính - trang 4b


[37] Chân Thổ là miền Trung Cung nơi Hà đồ, Lạc thư nên cũng chính là Thái Cực, nó làm ta liên tưởng đến «miền đất hứa» (Terre promise) trong Cực Ước. Nơi đó Hằng Cửu bất biến, ngược hẳn với các vòng bên ngoài tượng trưng cho Vạn Hữu biến thiên.


[38] Le lieu véritable de tous les êtres est, nous le savons, l'Atman, le Soi «Celui qui considère que l'Atman est sa vraie place, de celui là, le mérite ne s'épuise pas. Quelque chose qu'il désire, il le tire de cet Atman. Celui qui quitte le monde sans avoir considéré son lieu véritable, celui - là faute de savoir ne jouit pas» (B.A.U.I. 4. 15 - 16) et la même Upanishad reprend plus loin (Iv. 4. 22): C'est vers lui (le Soi) que tendent ceux qui recherchent leur véritable lieu (loka) après une vie errante. C'est en effet parce qu'ils savaient cela que les sages d'autrefois ne recherchaient pas de postérité: «Que ferions nous d'une postérité nous qui, avec l'Atman, avons le lieu véritable?»

A la recherche de la continuité temporelle qui se manifestait par le désir d'une descendance s'est substituée la quête de la Patrie d'origine. — Lilian Silburn - Instant et Cause, page 114.


[39] Quân tử Hoàng trung thông lý chính vị cư thể. 君 子 黃 中 通 理 正 位 居 體.— Dịch Khôn, Quải


[40] The lower knowledge is of various sciences, but «the higher is that whereby that Imperishable is apprehended» (Mund. I.I. 4 5) — The Thirteen Upanishads, page 36


[41] Trung tức chí Lý hà thường bất kiêm chí nghĩa. Đại học, Văn ngôn giai ngôn tri chí. Sở vị chí giả tức thử Lý dã. Ngứ độc Dịch giả viết: Năng tri Thái Cực tức thị tri chí. Ngứ độc Hồng Phạm giả viết: Năng tri Hoàng cực tức thị tri chí... 中 即 至 理 何 常 不 兼 至 義. 大 學 文 言 皆 言 知 至. 所 謂 至 者 即 此 理 也. 語 讀 易 者 曰: 能 知 太 極 即 是 知 至. 語 讀 洪 範 者 曰 能 知 黃 極 即 是 知 至 .— Tống Nguyên Học Án, quyển 12 - trang 6 (Liêm Khê Học Án)


[42] Les Upanishads sont à la recherche d'une continuité de proche en proche d'ordre spatial, celle du fil où sont tissés tous les êtres et qui s'achemine de l'infini à l'infime (Anu) dans lequel se concentre toute l'infinité. — Lilian Silburn - Instant et Cause 113


[43] ...Elles aboutissent donc à l'essence de l'essence, au fil du fil, à l'infime de l'infime, au caché, au mystère, en un mot à «l'Atman plus précieux que tout et plus intime» et qui demeure inaccessible dans son immanence. — Ib. page 113


[44] Đại đỗng Chân Kinh, trang 17a


[45] Đại đỗng Chân Kinh, trang 4b


[46] Đỗng Huyền Linh Bảo Định Quan Kinh Chú, trang 3


[47] Dịch chi vi thư giáo nhân hồi Thiên chi đại kinh, đại pháp dã. 易 之 為 書 教 人 回 天 之 大 經, 大 法 也.—Thái Cực Quyền Bổng Đồ Thuyết, trang 52


[48] La Taittiriya Upanishad (II, 1 - 4) décrit les diverses personnes emboÛtées les unes dans les autres en allant de l'extérieur à l'intérieur et en passant du plus grossier au plus subtil. Ce sont le soi fait de nourriture, le soi fait de souffle, le soi fait d'organe mental (manas), le soi fait d'intelligence (vijnan), enfin le soi fait de félicité (ananda): la plus intime remplissant la plus grossière et se distinguant d'elle. C'est selon la progression de ces cinq personnes qu'on apprend que l'Atman est identique au Brahman, «la substance universelle et ce dont tous les êtres sont nés, ce dans quoi étant nés, ils vivent, ce en quoi à leur mort ils entrent (III, 1)» et ce Brahman est, nous le savons, la substance réelle (satya), spirituelle, infinie, établie au secret (du coeur) (II, 1) — Lilian Silburn - Instant et Cause, pages 112 -113.


[49]...Thử đồ lục thập tứ quái điên đảo tương thác dĩ minh Thái Cực quyền bổng triền ti chi đại khuyên, tiểu khuyên ước hữu lục tầng, dữ nhân thân chi bì phu, cơ nhục, cân kiện, võng mô, cốt tiết, não tủy lục tầng thích tương phù hợp. 此 圖 六 十 四 卦 顛 倒 相 錯 以 明 太 極 拳 捧 纏 絲 之 大 圈, 小 圈, 約 有 六 層 , 與 人 身 之 皮 膚, 肌 肉, 節 腱, 網 膜, 骨 節, 腦 髓 六 層 適 相 符 合.—Thái Cực Quyền Bổng Đồ thuyết trang 49.


[50] Nhân nhân các hữu nhất Thái Cực. 人 人 各 有 太 極. (Chu Hi) — Cf. Tạ Vô Lượng, TQTHS, Đệ tam thiên thượng, tr. 59.


[51] Hoàng trung thông lý, chính vị cư thể. — Dịch Khôn quải


[52] Trung Dung hay Trung đạo. «Trung Dung kỳ chí hỹ hồ dân tiển năng cửu hỹ»

Đạo Trung Dung cao siêu toàn mỹ.

Theo Trung hồ dễ mấy ai.

Trung Dung - Chương II


[53] Cố kết Đan dã giả, hoàn Thái Cực chi thể tắc Đan thành hỹ. 故 結 丹 也 者, 還 太 極 之 體 則 丹 成 矣. — Xướng Đạo Chân Ngôn, quyển 2, trang 8b.


[54] Xin đọc thêm đoạn nói về Thực chất của Atman trong Lê xuân Khoa Nhập môn Triết học Ấn Độ trang 159


[55] Héraclite, héros prométhéen de la pensée, apporte aux humains endormis, le feu du Logos. — Héraclite et la Philosophie page 65

... A l'interprétation sceptique du Logos héraclitien, succède son interprétation stoicienne... Puis vinrent les Néoplatoniciens... Après lui (Chalcidius), le Logos passa des Stoiciens à Philon le Juif et à l'Évangile johannique. — Ib. page 79


[56] Le Logos est la Raison une, universelle, unificatrice (Vernunft) — Héraclite et la Philosophie, page 59


[57]Le Logos est ce qui lie les phénomènes entre eux, en tant que phénomènes d'un univers un... Le Logos est un lien. — Ib. 57


[58] Le Logos est universel.


[59]Le vrai c'est l'universel, la totalité des fragments du monde, l'intelligence de l'universel, la méditation de l'invisible, la saisie de l'unité, de la totalité. — Ib. 64

... Le critère de la vérité n'est pas fourni par l'opinion commune qui n'est qu'une somme d'opinions particulières, mais par le Logos universel. — Ib. 85


[60] Le Logos est la structure de tout ce qui est. — Ib. 71


[61] Le Logos héraclitien est divin et la divinité est Logos. Logos et Dieu constituent les liens de l'Univers et sont présents dans la pensée humaine. —Ib. 125

... Dieu est uni au Logos, au cosmos, au feu; Il est l'unité des contraires. — Ib. 123

... Le Logos avec lequel son Logos (le Logos d'Héraclite) entre en communication est un Logos divin qui unit les contraires. — Ib. 86


[62] L'englobant universel englobe aussi bien la nature cosmique que le devenir humain dans leur originelle unité.— Héraclite et la Philosophie, page 120.

... L'englobant universel, c'est à dire la Totalité, dévoile chaque fois un de ses modes d'être; le regard humain contemple la manifestation de ces aspects, mais risque de les isoler. La pensée aspire à saisir la totalité comme totalité; au cours de cette visée, elle recontre la divinité (le fondement de tout ce qui est), et en essayant de parler d'elle, se mue en théologie. — Ib. 126


[63] La divinité assure la permanence du devenir universel; elle est même le devenir de l'être. Elle ne gouverne pas le monde du dehors, elle ne survole pas l'univers, elle n'est pas la transcendance qui s'assujettit une immanence, comme le Logos et le feu, elle est intérieure au monde. — Ib. 127


[64] Le Logos en éclairant les ténèbres et ce qui est caché, manifeste la signification totale de l'Univers, signification unitaire. Il est un et universel se manifestant dans le tout, il reste Un et montre que la totalité n'est totalité qu'en tant qu'Unité. Les hommes peuvent connaÛtre le Logos, car la pensée est commune à tous et habite leur âme; cela ne signifie pas que tous pensent. agissent et parlent conformément à la vérité, c'est à dire à la nature vraie. — Héraclite et la Philosophie, p. 62


[65]Cố Thái Cực chỉ thị nhất cá Lý tự. — (Chu Hối Am) Tạ vô Lượng, TQTHS, Đệ tam thiên thượng tr. 58


[66] Dĩ Chân vi thể... cố vân Vô Cực chi chân. —Qui Nguyên Trực Chỉ, quyển hạ - trang 604


[67] Khổng tử tắc viết Thiên Lý... Dịch đạo tắc viết Thái Cực. — Ib. Quyển Trung, trang 369


[68] Thái Cực bao hồ thiên địa chi ngoại... Thái Cực nhập hồ vạn vật chi trung... 太 極 包 乎 天 地 之 外 ... 太極 入 乎 萬 物 之 中. — Xướng Đạo Chân Ngôn, trang 8b


[69] Đan giả, hà dã? Nhân trung chi Thái Cực dã. — Xướng Đạo Chân Ngôn, tr. 8a


[70] Thái Cực chỉ thị thiên địa vạn vật chi lý. 太 極 只 是 天 地 萬 物 之 理.— Phùng Hữu Lan, Trung Quốc Triết Học Sử, tr. 905


[71] Le Logos que voici, étant toujours vrai, les hommes n'en acquièrent pas la compréhension, ni avant de l'avoir entendu, ni une fois qu'ils l'ont entendu. Car bien que tout devienne selon ce Logos - ci, ils sont pareils à des inexpérimentés, même s'ils ont fait l'expérience et des paroles et des ouvres... Mais bien que le Logos soit universel, les gens du commun (la foule) vivent comme s'ils avaient une pensée particulière. Le Logos avec qui pourtant ils ont le plus constant rapport, avec lui ils sont en désaccord et ce que tous les jours ils rencontrent, cela leur paraît étranger.

Héraclite et la Philosophie, page 58.


[72]Thái Cực chi trung nhất, cắng vạn cổ nhi bất biến. 太 極 之 中 一 亙 萬 古 而 不 變.— Văn Đạo Tử Giảng Đạo Tinh Hoa Lục, quyển I - trang 21


[73] Philon le Juif (30 av. J.C. à 54 après): «La constitution de toutes choses est gravée dans le Logos» (Art. Philon d'Alexandrie, Grande Enc. francaise) — M. Senard, Le Zodiaque 322


[74] Thái Cực chỉ thị thiên địa vạn vật chi lý. 太 極 只 是 天 地 萬 物 之 理. — Phùng Hữu Lan - Trung Quốc Triết Học Sử, trang 905


[75] Trong quyển Science and Civilisation in China của Joseph Needham ta thấy các học giả Âu Châu dịch chữ Lý bằng những chữ sau đây: 1 Form, 2 Natural law, 3 Pattern in things, 4 Principle, 5 Vernunft, 6 The generative Reason (Logos Sper- matikos), 7 Prajna, the ineffable, unchangeable, supramundane, absolute, 8 Metaphysical absolute, 9 Buddhata, 10 Absolute.


[76] Cf. Cựu Ước Toàn Thư Thánh Kinh Công Hội tại Hương Cảng ấn hành. Cựu Ước trang 1, Tân Ước trang 125


[77] Nguyên bản Vulgate như sau: «Omnia per ipsum facta sunt, et sine ipso factum est nihil quod factum est». Bản dịch Crampon: Tout a été fait par lui, et sans lui rien n'a été fait de ce qui a été fait.

Evangile de Saint Jean, Prologue I. 3


[78] S'il a fait habiter sur toute la face de la terre tout le genre humain...C'était afin que les hommes cherchent la divinité pour l'atteindre si possible, comme à tâtons et la trouver; aussi bien n'est elle pas loin de chacun de nous. C'est en elle en effet que nous avons le vie, le mouvement et l'être. Ainsi d'ailleurs l'ont dit certains des vôtres: «Car nous sommes aussi de sa race» — Actes des Apôtres XVII - 26- 27- 28 (Bible de Jérusalem) p. 1463


[79] S'il a fait habiter sur toute la face de la terre tout le genre humain...C'était afin que les hommes cherchent la Divinté pour l'atteindre si possible, comme à tâtons et la trouver; aussi bien n'est elle pas loin de chacun de nous. C'est en elle, en effet, que nous avons la vie, le mouvement et l'être. Ainsi d'ailleurs l'ont dit certains des vôtres: «Car nous sommes aussi de sa race» — Actes des Apôtres XVII- 26- 27- 28 (Bible de Jérusalem) p. 1463

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét