Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2013

Nghiên cứu Châu Á và Phương Tây



I. Châu Á và phương Tây trong quan niệm của Mahathir Mohamad





Mahathir Mohamad, nguyên Thủ tướng Malaysia, người được các chính khách và đông đảo các nhà nghiên cứu chú ý vì những bài viết và ý tưởng độc đáo của ông về giá trị Châu Á. Tư tưởng của ông được trình bày trong nhiều ấn phẩm và tại nhiều Hội nghị, hội thảo quốc tế Năm 2000, Nhà xuất bản Pelanduk, Malaysia đã tập hợp và in thành hai chuyên khảo gồm 21 tham luận đã được trình bày tại các Hội thảo khoa học (xem: 4 & 5). Nội dung của tất cả các tham luận này đều trục tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến vấn đề giá trị Châu Á. Có thể điểm lại những tư tưởng chính của ông như sau:

1- Mahathir phê phán tình trạng nhiều người phương Tây thành thực tin rằng chỉ tồn tại một loại giá trị là giá trị toàn cầu. Mahathir lưu ý, không phải việc đề cao một thứ giá trị nào khác ngoài phương Tây đều chỉ là biện giải cho sự áp bức, độc tài và thiếu văn minh. Đã đến lúc cần phải loại bỏ quan niệm này. Ông viết: “Tôi tin rằng có sự khác biệt tự nhiên về giá trị. Những ai không thừa nhận sự khác biệt đó thì chẳng khác gì một kẻ mù màu – chỉ nhìn thấy màu xám mà không thấy được các sắc của cầu vồng – nên họ cho rằng làm gì có sự khác biệt”. Nên sẵn sàng chấp nhận những khác biệt về giá trị và cũng nên tin rằng có những giá trị và lối sống khác hay hơn, hiệu quả hơn và có thể văn minh hơn lối sống của mình.

2- Theo Mahathir, không thể lập luận, thế giới này chỉ có giá trị toàn cầu. Những người đấu tranh cho quan điểm toàn cầu hoá về giá trị đã đi lạc đường. Nếu người châu âu thành tâm tin rằng giá trị của họ toàn cầu hơn các giá trị Mỹ, thì cũng y như thế, người Châu Á với số dân hàng tỷ người cũng có đủ cơ sở để nói giá trị của mình còn toàn cầu hơn cả giá trị Mỹ và Âu Tranh cãi về điều này quả thực là khó. Vì vậy, “tôi cầu nguyện sẽ không bao giờ có một người Châu Á nào lại đứng lên tự nhận chỉ có giá trị châu Á là giá trị duy nhất mang tính toàn cầu, hay lấy các giá trị Mỹ, Âu và phương Tây chỉ để chứng minh cho những điều xấu xa, tội lỗi đang xảy ra đâu đó”.

3- Trong nhiều thế kỷ, người Châu Á tin rằng lối sống của mình là thứ cấp. Bởi vậy, “nếu như hôm nay người Châu Á đã phát hiện ra lối sống và giá trị Châu Á không hề thấp kém chỉ vì nó là Châu Á, mà thường còn cao hơn phương Tây cũng chỉ vì nó là Châu Á, thì điều đó cũng dễ tha thứ”. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người phương Tây cũng bị lôi cuốn và có ấn tượng tốt về những điều kỳ diệu và lối sống Châu Á.

4- Lối sống và giá trị Châu Á khác biệt so với Mỹ và phương Tây. Điều này không phải là tưởng tượng mà là kết quả nghiên cứu của chính các học giả phương Tây. Sự khác nhau đó về cơ bản chỉ làm cho thế giới tốt hơn.

5- Những khuyết tật của Châu Á như tình trạng độc đoán và vi phạm dân chủ, nạn bóc lột lao động phụ nữ và trẻ em, tập quán mê tín và thói tham nhũng… là có thật và cũng như những tệ nạn có thật đang diễn ra ở phương Tây, chúng phải bị trừng phạt. Giá trị Châu Á không che đậy cho những xấu xa đó. Nhưng “không phải tất cả các hình thức dân chủ đều có hiệu quả. Có hình thức dân chủ tất và có hiệu quả, nhưng cũng có hình thức dân chủ xấu, mang tính phá hoại. Tự do dân chủ phải đi đôi với trách nhiệm dân chủ. Có hệ thống thị trường tốt và có hiệu quả, nhưng cũng có hệ thống thị trường không hiệu quả như ở quận Orange của Mỹ. Có những phương thức tất và có hiệu quả để nâng cao nhân cách và đời sống nhân dân, nhưng cũng có những phương thức ý nghĩa thì tất song lại vô nghĩa vì lãng mạn, ngớ ngẩn và không có hiệu quả”.

Dễ thấy là, với vị thế và tầm nhìn của một chính khách hiểu rõ và dám nói trực ngôn về cái hay và cái dở của cả phương Đông lẫn phương Tây, Mahathir Mohamađ là một tác giả có uy tín để giới học thuật tham khảo, bình luận và phát triển những ý tưởng về vấn đề so sánh giá trị.

II – So sánh giá trị trong quan niệm của David I.Hitchcock





David I. Hitchcock, cựu Giám đốc Phòng Đông Á – Thái Bình Dương, thuộc cơ quan thông tin Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (USA), hiện làm việc tại Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế tại Washington. Năm 1994, D.I.Hitchcock đã tiến hành cuộc nghiên cứu so sánh quan niệm sống qua các thang giá trị giữa người Mỹ và người Châu Á. Ông thực hiện cuộc điều tra này ở Nhật Bản, Thailand, Singapore, Maiaysia, Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia, Philippines và Mỹ. Đây là cuộc thăm dò gây tiếng vang đáng kể trong giới học thuật và chính trị, xã hội. Năm 1996, D. I.Hitchcock làm lại cuộc điều tra này với ý đồ so sánh hai kết quả và kiểm tra lại những kết luận năm 1994. Trên thực tế, kết luận năm 1996 của ông có phần khác trước. Mặc dù vẫn xác nhận Châu Á có bảng giá trị đặc thù với các thang giá trị riêng biệt của mình, như kết quả thu được năm 1994. Song ông lưu ý giới chính trị và học thuật rằng, giữa người Mỹ và người Châu Á, cái chung, cái giống nhau vẫn là điểm căn bản hơn, sau đó mới là tất cả những cái khác biệt. Cái chung lớn nhất mà D.I.Hitchcock đã được giữa người Mỹ và người Châu Á là quan niệm về những vấn đề quan trọng nhất đối với đời sống: tăng trưởng kinh tế và nạn nghèo đói, cuộc sống đô thị và tình trạng thiếu việc làm, tỷ lệ li hôn cao và nạn tham nhũng… Dễ thấy là có thể đồng ý được với D.I.Hitchcock về điểm này. Tuy nhiên, về Châu Á, vấn đề là ở chỗ, Hitchcock một lần nữa khẳng định những nét đặc thù và khác biệt trong quan niệm về giá trị giữa người Mỹ và người Châu Á. Đây là điểm yết hầu trong công trình của D.I.Hitchcock.

D.I.Hitchcock chia các giá trị có ý nghĩa định hướng hành vi con người thành “các giá trị xã hội” và “các giá trị cá nhân”. Trong tài liệu “Giá trị Châu Á và giá trị Mỹ xung đột với nhau như thế nào”? công bố sau cuộc điều tra 1994, D.I.Hitchcock cho biết 5 giá trị cá nhân và 6 giá trị xã hội giữ vị trí hàng đầu trong quan niệm của người Châu Á và người Mỹ như sau:

5 giá trị cá nhân quan trọng nhất:



Người Đông Á

Người Mỹ
1. Cần cù 1. Tự lực cánh sinh
2. Hiếu học 2. Thành đạt cá nhân
3. Trung thực 3. Cần cù
4. Tự lực cánh sinh 4.Thành công trong cuộc sống
5. Kỷ luật 5. Giúp đỡ mọi người




6 giá trị xã hội quan trọng nhất:



Người Đông Á

Người Mỹ
- Một xã hội trật tự - Tự do ngôn luận
- Sự hòa hợp xã hội - Sự hòa hợp xã hội
- Các quan chức có trách nhiệm - Quyền cá nhân
- Cởi mở đón nhận tư tưởng mới - Tự do tranh luận
- Tự do ngôn luận - Suy nghĩ về bản thân




Ngoài sự khác biệt về những giá trị cá nhân và giá trị xã hội chiếm vị trí hàng đầu trong bảng giá trị của người Mỹ và người Châu Á được so, sánh như trên, D.IHitchcock chỉ ra sự khác biệt giữa hai bảng giá trị còn thể hiện ở hầu hết các giá trị khác: tỷ lệ người Mỹ và người châu A tán thành mỗi giá trị cụ thể thường khác nhau khá nhiều. Dưới đây là những so sánh của D.I.Hitchcock về một số giá trị cá nhân khác trong quan niệm của người Đông Á và trong quan niệm của người Mỹ.

Những quan niệm khác về một số giá trị cá nhân

Giá trị

Người Đông Á

Người Mỹ
- Thực hiện nghĩa vụ với người khác

39%

19%
- Thành công trong cuộc sống

50%

59%
- Thành đạt cá nhân

33%

59%
- Hiếu học

69%

15%
- Kỷ luật cá nhân

48%

22%




Như vậy, theo truyền thống phương Tây, D.I.Hitchcock đã phân biệt khá rạch ròi giá trị cá nhân với giá trị xã hội. Điều thú vị là ở chỗ, giá trị cá nhân ở đây là những giá trị được số đông thừa nhận, về thực chất, cũng là giá trị xã hội, giá trị xã hội về phẩm cách cá nhân. Theo đo đạc của D.I.Hitchcock, ở người Mỹ, hiếu học không phải là một giá trị hàng đầu và cần cù cũng chỉ là giá trị đứng sau tự lực cánh sinh và thành đạt cá nhân. Trong khi đó, ở người Châu Á, cần cù là giá trị được đề cao nhất, sau đó là hiếu học. Tuy tự lực cánh sinh không bị xem nhẹ, song cũng không phải là giá trị đầu bảng. Có lẽ, chẳng những với người Mỹ mà với hầu hết những người phương Tây nói chung, tự lực cánh sinh là phẩm chất chiếm vị trí cao nhất trong bảng giá trị. Điều này thể hiện tâm lý khát khao khẳng định vị thế cá nhân trong khuôn thước văn hoá Tây phương. Còn với người Châu Á, vị trí cao nhất lại là giá trị cần cù, yêu lao động. Không nhất thiết phải khẳng định tính thần tự lực cánh sinh trong mọi trường hợp, con người được ưa chuộng là người cần cù, đây rõ ràng là một chuẩn mực định hướng có thể dùng để cắt nghĩa những bước thăng trầm trong sự phát triển của Châu Á hôm qua và hôm nay.

III – Giá trị Châu Á theo Tommy Koh





Tommy Koh, Giám đốc Viện nghiên cứu chính sách Singapore, nguyên Đại sứ Singapore tại Mỹ cho rằng, trong các xã hội Đông Á, sự thành đạt thường được nâng đỡ bởi “10 giá trị nền tảng”, “hợp thành một khuôn khổ giúp cho các xã hội Đông Á đạt được phồn vinh về kinh tế, ổn định và hài hoà về xã hội”:

10 giá trị ưu trội Đông Á theo Tommy Koh:

1. Không tán thành chủ nghĩa cá nhân cực đoan

2. Coi trọng gia đình

3. Coi trọng việc học hành

4. Cần kiệm và thanh đạm

5. Cần cù

6. Coi trọng cộng đồng

7. Đề cao quan hệ bổn phận giữa Chính phủ và công dân

8. Ở một số nước chính phủ tạo điều kiện cho công dân có cổ phần

9. Coi trọng xã hội có đạo đức

10. Tán thành nền báo chí tự do nhưng không tuyệt đối.



Đây là 10 giá trị xã hội nền tảng, kết quả thăm dò dư luận trong các cộng đồng đạt tới độ thịnh vượng nhất định với những cá nhân thành đạt mà Tommy Koh rút ra được từ các xã hội Đông Á. Theo Tommy Koh, tất cả các xã hội Đông Á đều không ưa chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Người Đông Á cũng không thích tự do báo chí theo kiểu thổi phồng nhu cầu công luận, mặc cho báo chí thoả mãn cả những thị hiếu tầm thường, lảng tránh hoặc xem nhẹ chức năng định hướng cần thiết đối với dư luận xã hội. Dĩ nhiên, không phải Đông Á phản đối tự do báo chí, song nếu báo chí được phép tự do đến mức phá vỡ những ranh giới của đạo đức và lẽ phải, trở thành diễn đàn của những kẻ bất lương… thì không thể nhân danh nhân quyền mà chấp nhận được. Thái độ này nằm trong logic chung của các giá trị gia đình, cộng đồng, đạo đức và trách nhiệm. Nói chung văn hoá Nho giáo, Hồi giáo và Phật giáo đều không “hiểu” được lý lẽ của việc con cái kiện tụng cha mẹ, trừ những trường hợp hãn hữu khi cha mẹ không còn xứng đáng là cha là mẹ. Với các nền văn hoá này, mọi chuyện thuộc quan hệ cha mẹ – con cái đều có thể (và cần phải) xử lý trong khuôn khổ giá trị huyết thống. Vượt ra ngoài khuôn khổ này, quan hệ cha con sẽ không còn là cha con. Thực tế cho thấy, trong các xã hội Đông Á, một khi quan hệ huyết thống đã bị đưa ra Tòa án để xét xử, thì dẫu mọi chuyện có được giải quyết ổn thoả, tình nghĩa cũng chẳng còn hoặc chẳng còn là bao. Điều này khác với phương Tây duy lý và pháp quyền. Ở Châu Âu, sau khi mâu thuẫn với nhau, thậm chí xúc phạm đến nhau, người ta vẫn có thể tiếp tục hợp tác nếu yêu cầu của công việc đòi hỏi. Còn Châu Á thì chỉ một trong muôn vàn trường hợp mới được như thế. Người ta rất khó hợp tác với người đã xúc phạm đến mình (Xem thêm 1 & 11).

IV – Giá trị Châu Á trong sự phân tích của Francis Fukuyama





Francis Fukuyama, hiện là Giáo sư kinh tế học chính trị quốc tế thuộc Đại học Johns Hopkins (Hoa Kỳ), nổi tiếng với “Sự cáo chung của lịch sử và con người cuối cùng” (1992) và nhiều tác phẩm khác. Trong hầu hết các ấn phẩm của mình, Fukuyama luôn đặt ra những vấn đề nóng bỏng đối với nhân loại trên đường phát triển, thu hút sự quan tâm của đông đảo độc giả. Về giá trị Châu Á, đáng kể nhất trong số các ấn phẩm của Fukuyama là bài “Các giá trị Châu Á và cuộc khủng hoảng Châu Á“, đăng trên tờ Commentary tháng 2/1998 (xem: 6). Ở đây, Fukuyama trình bày quan điểm của mình và bình luận, phê phán một số quan niệm khác xung quanh vấn đề giá trị Châu Á. Theo Fukuyama, các giá trị châu á thường được nói đến là:

Các giá trị Châu Á phổ biến theo Francis Fukuyama:
Đề cao giáo dục
Tôn trọng kỷ luật lao động
Tôn trọng cộng đồng
Tôn trọng quyền lực
Đề cao chính quyền “độc đoán

Là nhà nghiên cứu quan tâm đến quyền lực chính trị, Francis Fukuyama đặc biệt chú ý đến thái độ mà ông gọi là “độc đoán” của chính quyền ở những xã hội đạt tới tăng trưởng kinh tế cao như Hàn Quốc và Singapore. Trong nhiều bài viết của mình, Fukuyama không bác bỏ, mà thẳng thắn thừa nhận có mối liên hệ nào đó giữa tăng trưởng kinh tế với bàn tay cứng rắn của chính phủ. ông cũng thấy người dân ở các xã hội Châu Á tôn trọng quyền lực hơn so với phương Tây, và thái độ này cũng có thể có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển tích cực. Tuy nhiên, Fukuyama không coi đây là quan hệ tất yếu, nghĩa là không thừa nhận, ở các quốc gia có chính phủ độc đoán thì đứt khoát nền kinh tế sẽ đạt tới tăng trưởng cao. Ông lấy ví dụ một số nước Mỹ Latinh như Brazil và Peru trong những năm 70 (thế kỷ XX) để chứng minh rằng sự điều tiết vĩ mô độc đoán không có quan hệ nhân quả với khả năng tích cực trong tăng trưởng kinh tế. Bài học kinh nghiệm của mấy con hổ Châu Á, theo Fukuyama, không phải là bài học về sự độc đoán. Fukuyama nhận xét, trên thực tế, các Nhà nước độc đoán được sự lãnh đạo của giới quân sự ở Châu Á, rõ ràng, có năng lực hơn và trung thực hơn so với các Nhà nước độc đoán ở Mỹ Latin. Ở Mỹ, nhiều nhà kinh tế thường suy nghĩ một cách giáo điều rằng, nhà nước càng can thiệp vào kinh tế thì nền kinh tế càng kém hiệu quả Nhưng điều đó không đúng với Châu Á. Trong những năm 50 – 90 (thế kỷ XX), sự can thiệp như vậy ở Châu Á đã tạo ra những bứt phá chưa từng có trong lịch sử so với bất cứ nơi nào trên thế giới. Những người chống đối Fukuyama cũng tìm ra lý lẽ phản bác: nếu nhà nước không can thiệp, Châu Á có thể còn phát triển hơn. Fukuyama cho rằng đó là một lý lẽ chỉ có trong tưởng tượng.

Nhìn chung, về giá trị Châu Á, Fukuyama thường mâu thuẫn với chính mình. Một mặt, ông phân tích các giá trị Châu Á với cái nhìn thiện cảm và khách quan, song mặt khác, ông lại hoài nghi đó không phải là nguyên nhân của một Châu Á năng động và phát triển.

V – Giá trị Châu Á trong quan niệm của Richard Robison





Richard Robison, học giả người Australia, hiện là Giáo sư kinh tế học chính trị Viện nghiên cứu xã hội Hague, Hà Lan. Richard Robison là tác giả và đồng tác giả của hơn 10 cuốn sách có tiếng vang nhất định về các vấn đề quốc tế, trong đó có những tác phẩm đáng chú ý về Châu Á (xem: 10).

Về giá trị Châu Á, Richard Robison thể hiện tư tưởng của mình trong hầu hết các ấn phẩm, song tập trung hơn cả là ở bài “Chính trị của các giá trị Châu Á”, 1999. Bài báo này được nhiều người biết đến và trích dẫn như một ấn phẩm quan trọng. Ở đây, Richard Robison nhấn mạnh đặc thù của các giá trị Châu Á với những điểm sau:



Đặc thù giá trị Châu Á theo Richard Robison:
Gia đình là cất lõi của tổ chức xã hội .
Lợi ích của cộng đồng được đặt trấn những lợi ích cá nhân. Do đó, trách nhiệm của cá nhân đối với cộng đồng được đặt trên quyền lợi của cá nhân.
Các quyết định chính được thông qua bằng sự đồng thuận chứ không phải bằng sự đối đầu thông qua các tổ chức chính trị.
Một chính phủ mạnh và sự gắn kết xã hội luôn luôn đi cùng với sự phát triển kinh tế.
Coi trọng sự gắn kết và hài hoà xã hội. Sự gắn kết và hài hoà đó đạt được thông qua các nguyên tắc đạo đức và một Chính phủ mạnh.


Là người thừa nhận sự tồn tại đặc thù của các giá trị Châu Á, song Richard Robison nhìn nhận tính đặc thù của hệ thống giá trị khu vực này với hàm ý tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Tuy nhiên, dẫu nhìn nhận thế nào, người ta vẫn thấy Richard Robison có cảm tình khá rõ với các giá trị lợi ích cộng đồng, sự hoà hợp xã hội, đề cao gia đình và sức mạnh của Chính phủ. Theo Robison, các giá trị này đã thể hiện được vai trò của chúng trong sự phát triển đặc thù của Châu Á giai đoạn vừa qua. Điều này, một vài chính khách phương Tây không muốn chấp nhận vì nó mâu thuẫn ít nhiều với các giá trị dân chủ phương Tây.

Dĩ nhiên, ở Châu Á hiện nay, các giá trị này, nhất là cộng đồng và gia đình đang bị mai một trước sự tấn công của thị trường và toàn cầu hoá. Song theo Robison, Châu Á sẽ không còn là Châu Á và quan trọng hơn, không thể phát triển được, nếu trật tự gia đình và tâm lý cộng đồng vào một ngày nào đó sẽ giống hệt như người phương Tây. Cho đến nay, người Châu Á vẫn rất khó hình dung, nếu rồi đây, xã hội phát triển cao lại là một xã hội thiếu trật tự và gia đình trở thành một thiết chế lỏng lẻo. Phần đông người Châu Á muốn và tin rằng, giữa xã hội văn minh với thiết chế gia đình và trật tư công cộng luôn có quan hệ tỷ lệ thuận. Thiết chế gia đình có thể bớt cứng nhắc hơn, cách thức của trật tự xã hội có thể đổi khác, song dẫu sao vân phải là gia đình và trật tự xã hội. Đời sống xã hội sẽ không thể tất đẹp và văn minh hơn, nếu đa số trẻ em sinh ra và lớn lên không được hưởng môi trường gia đình, dù là gia đình hạt nhân, vợ chồng và con, hay gia đình truyền thống gồm nhiều thế hệ. Và sẽ nguy hiểm hơn nếu phần đông gia đình trong xã hội trở thành thiết chế tập thể của nhũng người cô đơn và độc thân, và trình độ trật tự xã hội giống như không khí cuồng nhiệt của một diễn đàn vô Chính phủ.

VI – Giá trị Châu Á trong sự phân tích của Chen Fenglin

Chen Fenglin (Trần Phong Lâm), nhà nghiên cứu Trung Quốc là một trong những người tin tưởng và khẳng định mạnh mẽ nhất vai trò tích cực của các giá trị Châu Á đối với sụ phát triển của các xã hội ở khu vục này. Trong bài viết đăng trên tạp chí “Waiguo wenti yanjiu”, số 4, năm 1998, Trần Phong Lâm cho rằng, các nước thuộc khu vực Đông Á như Trung Quốc, Nhật bản, Triều Tiên, Hàn Quốc, Việt Nam… và cả những nước thuộc Đông Nam Á, dưới ảnh hưởng của văn minh nông nghiệp và văn hoá Nho giáo đã hình thành nên một kiểu đời sống tinh thần của riêng mình, bao gồm phương thức tư duy, đời sống tín ngưỡng, lề thói phong tục, đặc trưng tâm thế, và đặc biệt, hệ giá trị riêng biệt. “Ngày nay, một số quan niệm giá trị và mệnh đề triết học của Đông Á vẫn có ý nghĩa tích cực và giá trị bất hủ. Nó có khả năng gợi mở và tham khảo rất lớn đối với việc uốn nắn các tệ nạn xã hội, xác lập mối quan hệ kiểu mới giữa con người với nhau, giữa con người với xã hội và với tự nhiên”.Trần Phong Lâm đã tổng hợp các quan niệm về giá trị Đông Á thành những nội dung chính như sau:


Quan niệm giá trị Đông Á theo Trần Phong Lâm:
Định hướng giá trị lấy giá trị cộng đồng làm bản vị.
Đề cao ý chí tự cường (Lấy mệnh đề “Thiên hành kiện, quân từ dĩ tự cường bất tức” làm tín điều nhân sinh).
Đồng thời quan tâm đến cả “nghĩa” và “lợi”
Để cao cần kiệm.


Theo Trần Phong Lâm, sự gắn bó đến mức “ba ngôi nhập một” giữa Nhà nước, dân tộc và xã hội đã bắt rễ sâu trong đời sống tinh thần Đông Á và trở thành giá trị lấy cộng đồng làm bản vị (cơ bản, chính yếu). Chủ nghĩa tập trung gia tộc trong làm ăn kinh tế ở Hàn Quốc, Singapore, HongKong, Đài Loan là biểu hiện của giá trị này. “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức” là quẻ Càn trong Chu dịch, cũng là tín điều nhân sinh của người Đông Á, nghĩa là, người quân tử phải phấn đấu không mệt mỏi vì ý chí tự cường thì mới hợp đạo trời. Theo Trần Phong Lâm, tất cả những người thành đạt cũng như các nhà cầm quyền thành công ở Đông Á đều có ý chí tự cường rất cao. Nhật Bản sau Thế chiến thứ hai, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, HongKong những năm 70 (thế kỷ XX), Trung Quốc thời gian gần đây là những ví dụ tiêu biểu.

So sánh với phương Tây, Trần Phong Lâm cho rằng, các nhà doanh nghiệp Đông và Tây đều giống nhau ở chỗ chạy theo lợi nhuận, nhưng nhà doanh nghiệp có văn hoá Nho giáo thì vẫn chạy theo lợi nhưng không được (hoặc không dám) bỏ nghĩa, bởi “Quân thị thần như thủ túc, tác thần sự quân như phúc tâm”, nghĩa là nếu vua coi bầy tôi như tay chân thì bầy tôi coi vua như tâm phúc, làm trái điều ấy, xã hội lên án hoặc coi thường, lợi chắc cũng khó đạt.

Về đức tính cần cù yêu lao động, Trần Phong Lâm viết: “Tinh thần cần cù của người Đông Á là nổi tiếng khắp thế giới. Thời gian lao động mỗi năm của người Nhật không chỉ nhiều hơn người Âu – Mỹ gần 600 giờ, mà ngay cả ngày nghỉ, ngày lễ, họ cũng nghỉ rất ít, vẫn làm tăng ca, làm tới đêm khuya. Các phương tiện truyền thông đại chúng Nhật Bản thường đưa tin về karoshi (chết vì mệt nhọc), người ta đùa gọi người Nhật là Robot, là con người kinh tế cũng không có gì lạ. Người Hàn Quốc trong giai đoạn kinh tế cất cánh cũng làm việc trên 10 giờ mỗi ngày”.

Có thể dễ dàng nhận thấy, Trần Phong Lâm cũng như khá đông học giả Trung Quốc khác đều khẳng định mạnh mẽ và tôn vinh rất cao các giá trị Đông Á mà trong đó giá trị văn hoá Nho giáo là trụ cột. Trần Phong Lâm viết: “Trước sự tha hoá và lộn xộn của quan niệm giá trị toàn cầu, quan niệm giá trị Đông Á cần đảm đương lấy trách nhiệm nặng nề của thời đại là vực dậy sự băng hoại của tinh thần loài người… Nhân dân Đông Á chiếm khoảng một phần ba nhân loại đã tạo ra cho loài người những di sản vô cùng quý giá trong mọi lĩnh vực, làm cho tương lai loài người tràn đầy hy vọng. Đông Á nhất định sẽ bước vào hàng ngũ những người quyết định số phận chung của loài người… Nếu trong thời kỳ tới đây văn hoá phương Tây không tạo ra được một cuộc phục hưng văn nghệ mới thì hoàn toàn có thể sẽ xuất hiện một thế kỷ mới, trong đó văn hoá phương Đông sẽ thống lĩnh trào lưu văn hoá thế giới”.

Sự tôn vinh giá trị Đông Á như vậy có thể là hơi quá. Lập trường của người viết thể hiện qua khẩu khí cũng có thể là hơi thiên lệch. Nhưng, về phương diện khoa học, vấn đề đặt ra, rõ ràng không phải là không có cơ sở khách quan.

VII- Giá trị Châu Á trong sự phân tích của Phan Ngọc





Ở Việt Nam, vấn đề giá trị Đông Á được quan tâm khá sôi nổi ở thập niên trước trong không khí chung của việc hưởng ứng Thập kỷ quốc tế về văn hoá trong phát triển do UNESCO phát động (1986-1997). Hầu hết giới học thuật và chính trị – xã hội, nhất là những người có tri thức Nho học và Đông phương học đều tán thành và tin rằng Châu Á có đặc thù văn hoá, trong đó có hệ thống giá trị của riêng mình và đó là di sản tất cho sự phát triển của mỗi xã hội Châu Á trước thách thức của toàn cầu hoá. Các giá trị đặc thù Châu Á đó tồn tại đậm nét ở Việt Nam, bởi bề dày văn hoá Việt Nam là rất đáng tự hào nếu so với một số nền văn hoá trẻ khác trong khu vực và trên thế giới. Do tính đặc thù về văn hoá quy định nên bảng giá trị của người Việt chắc chắn có những nét khác biệt so với phương Tây và đó là cơ sở để Việt Nam có tiếng nói riêng của mình, thậm chí không chấp nhận một số giá trị về dân chủ và nhân quyền phương Tây cực đoan.

Về đại thể, một quan niệm như thế được số đông tán thành. Tuy nhiên, đi vào chi tiết thì vấn đề có thể nói còn khá tản mạn. Giới nghiên cứu chưa hề thống nhất được với nhau: hệ thống giá trị đặc thù của văn hoá Việt Nam gồm những giá trị nào? Đâu là cái đặc thù về văn hoá được sinh ra ở người Việt và chỉ riêng người Việt mới có? Ngoài các giá trị thuộc văn hoá Nho giáo, các giá trị khác như Phật giáo, các giá trị bản địa, một số giá trị ngoại sinh nhưng đã được Việt hoá… có thuộc thành phần của bảng giá trị đặc thù Việt Nam hay không? Văn hoá Nho giáo nếu có tác đụng tích cực đối với mấy con rồng Châu Á thì tại sao ở Việt Nam nó lại chưa thể hiện được tính tích cực như thế…

Các cuộc Hội thảo và những bài viết đã công bố, nói chung, đều ít nhiều vướng ở những câu hỏi này. Lý do? Có lẽ ngoài tính phức tạp của bản thân học thuật thì vấn đề còn vì ở Việt Nam, dù giới trí thức rất quan tâm, nhưng số người chuyên sâu nghiên cứu, lý giải những vấn đề này không nhiều. Nói không hề quá, chưa ai có được một hệ thống thật bài bản những công trình nghiên cứu về giá trị Châu Á ở Việt Nam và của Việt Nam.

Theo dõi những bàn luận lâu nay về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy, hầu hết các nhà nghiên cứu đầu ngành về Nho học, Đông phương học, văn hoá học, sử học, văn học… đều ít nhiều đã tham gia bàn luận về giá trị Châu Á. Một số tên tuổi cũng có thể coi là tiêu biểu cho những bàn luận này như Trần Đình Hượu, Vũ Khiêu, Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc… Tuy nhiên, xin lỗi những tác giả đáng kính khác, trong bài này, chúng tôi xin chỉ bàn tới quan điểm của Phan Ngọc. Vì theo chúng tôi, ông là người có nhiều công trình hơn cả bàn đến ưu thế của các giá trị Châu Á trong sự phát triển của xã hội hiện đại. Hơn thế nữa, quan điểm của ông về vấn đề này khá nhất quán: trước sau ông đều đề cao giá trị Nho giáo, giá trị văn hoá dân tộc và tin tưởng vào ảnh hưởng tích cực của nó trong sự phát triển của xã hội hiện đại. Phan Ngọc viết: “Khổng học tồn tại được hai nghìn năm ở một phần ba nhân loại, dù có bị xuyên tạc, cũng là một giá trị của Châu Á. Không những thế, nó không chỉ là một giá trị của Châu Á mà của cả nhân loại trong giai đoạn mới này khi thế giới cần phải hiểu những giá trị của Châu Á cũng như Châu Á cần phải hiểu những giá trị của thế giới”.

Về những giá trị Châu Á cụ thể, trong “Bản sắc văn hoá Việt Nam” Phan Ngọc coi những giá trị ưu trội của văn hóa Châu Á là:

Giá trị Châu Á theo phân tích của Phan Ngọc
Ham học, thông minh và tháo vát, nhạy bén với mọi thay đổi.
Cần cù, chịu khó, thích nghi với hoàn cảnh.
Gắn bó với tổ quốc, họ hàng, bà con.
Thích sống một cuộc sống giản dị, không bị những đòi hỏi vật chất dày vò, lo cho con cháu còn hơn lo cho chính mình.

Phan Ngọc coi những phẩm chất nói trên là ưu thế của văn hoá Khổng giáo trong thời đại ngày nay. Khái quát từ thực tế các quốc gia có văn hoá Nho giáo, viện dẫn chính Khổng tử và những bậc minh triết như Hồ Chí Minh, Tôn Dật Tiên… nói về ưu thế của Nho giáo, Phan Ngọc đã trình bày rất ấn tượng về những phẩm chất này. Chẳng hạn, về hiếu học, ông viết: “Tâm thức là cái không cần học cũng biết. Việt kiều hầu như không biết gì tới Nho giáo, ngoài miệng đả kích Nho giáo kịch liệt, nhưng họ vẫn vươn lên từ những địa vị thấp kém nhất để trở thành những người làm chủ kinh tế, khoa học kỹ thuật chính nhờ truyền thống ham học mà Khổng tử đề xướng. Số ngoại kiều ở các nước hết sức đông đảo, nhưng ngoài các nước theo văn hoá này, chỉ thấy có người Do Thái là sánh được với họ mà thôi”.

Theo Phan Ngọc, văn hoá phương Tây có chỗ mạnh của nó, nhờ thế, “từ thế kỷ XVIII đến nay, phương Tây làm bá chủ thế giới. Đó là nền văn hoá lấy cá nhân làm nền tảng. Nó đề cao cá nhân, tôn trọng tự do của những cá nhân có nhiều tiền, cái nó gọi là quyền con người thực ra chỉ là quyền của cá nhân… Đó là nền văn hoá xem con người là một “động vật kinh tế”. Nó là văn hoá thúc đẩy cá nhân làm chủ thiên nhiên và xã hội và trong ba thế kỷ qua chính nó thay đổi thế giới dựa trên ba khái niệm chủ đạo là tiến bộ, khoa học và nhân quyền. Trong phân tích của mình, thực ra, Phan Ngọc có cường điệu cái hay của phương Đông và cái dở của phương Tây. Dẫu vậy, người đọc vẫn nhận thấy, đâu là thực tế khách quan, tính hợp lý không chối cãi được của giá trị phương Tây và giá trị Châu Á, còn đâu là thái độ của người viết do tâm huyết với vấn đề mà có thể hơi quá lời. Khi so sánh Nho giáo với đạo Tin Lành, Phan Ngọc viết: “Nghiên cứu đạo Tin Lành, Weber nhận thấy đạo này thích hợp với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, vì nó dạy cho con người tiết kiệm, biết sống kham khổ để tích lũy vốn và chấp nhận một cuộc sống khó khăn. Ta cũng có thể nói như vậy về Khổng học. Những người theo Khổng giáo thích sống một cuộc sống giản dị, không bị những đòi hỏi vật chất dày vò, trái lại tìm thấy niềm vui trong cuộc sống hài hoà với mọi người chung quanh, đặc biệt họ gắn bó với gia đình, lo cho con cháu còn hơn lo cho chính mình”.

Cũng cần nói thêm rằng, thời gian gần đây ở Việt Nam, trong xu hướng chung của việc thực hiện tư tưởng giữ gìn bản sắc văn hoá truyền thống, nhiều yếu tố văn hoá Nho giáo đã được khôi phục và đề cao, thậm chí trong các trường học, khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” đã được coi như một phương châm ứng xừ nền tảng của giáo dục. Mặc dù thực hiện thì chưa được bao nhiêu, nhưng trong tư tưởng, cả xã hội đều thấy các giá trị văn hoá truyền thống mà trong đó những nét tích cực của văn hoá Nho giáo là một bộ phận, đang cần phải được tôn vinh và khôi phục như là một trong các phương thức để ứng xử với các dạng văn hoá ngoại sinh, ngoại lai đang du nhập từ làn sóng toàn cầu hoá. Những giá trị mà Phan Ngọc khái quát, trên những nét lớn là phù hợp với tâm lý chung của cả cộng đồng trên con đường tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

VIII – Kết luận: vấn đề giá trị quan Châu Á

Bằng việc dẫn ra những quan niệm điển hình về giá trị Châu Á ở trên, chúng tôi muốn lưu ý rằng, mặc dù ở từng nhà nghiên cứu, bức tranh cụ thể về các giá trị Châu Á có thể là không giống nhau, song nếu chọn ra những điểm giống nhau có trong mọi quan niệm, thì ở tất cả những người đã từng suy nghĩ về sự khác biệt giá trị giữa Châu Á và phương Tây ít nhất đều có những ý tưởng chung là:

Ở các xã hội Châu Á chắc chắn có những giá trị đặc thù so với phương Tây.

Trong xã hội hiện đại, chúng có thể ưu trội hơn so với các giá trị phương Tây.

Cần phải đề cao giá trị Châu Á trong sự phát triển của xã hội hiện đại.

Nói một cách khác, chính xác hơn, hiện đang có một quan niệm khá phổ biến cho rằng, người Châu Á đã, đang và sẽ sống theo giá trị quan Châu Á. Giá trị quan này khác với phương Tây và trong xã hội hiện đại, giá trị quan này có thể sẽ tạo điều kiện cho các xã hội Châu Á phát triển thuận lợi hơn so với phương Tây. Đây là quan niệm hiện đang có mặt sau cả ở phương Đông và phương Tây.

Đặt vấn đề về giá trị quan Châu Á, chúng tôi cho rằng, sự khác biệt đáng phải bàn luận, trước hết, là khác biệt về giá trị quan chứ không nhất thiết phải là khác biệt giữa các giá trị. Nói đến giá trị đặc thù Châu Á, thực chất, là nói tới sự khác biệt về giá trị quan, thể hiện trong bảng giá trị hoặc hệ thông giá trị. Nghĩa là, với các nền văn hoá khác nhau, thông thường, bảng giá trị hay hệ thống giá trị cũng khác nhau. Tuy nhiên, các giá trị cụ thể trong mỗi hệ thống giá trị phần nhiều lại thường giống nhau. Rất hiếm có giá trị đặc thù về tính cách con người chỉ riêng biệt thuộc về một dân tộc nào đó. Lâu nay, khi bàn tới các giá trị ưu trội Châu Á, nhà nghiên cứu nào cũng bị phản bác bởi lập luận: chẳng có giá trị nào là “phẩm chất riêng” của người Châu Á, điều gì Châu Á tôn vinh thì vế đại thể ở nơi khác người ta cũng tôn vinh. Cần cù, hiếu học, tôn trọng gia đình, đề cao trách nhiệm cộng đồng… là những đức tính chung của toàn nhân loại. Chẳng lẽ chỉ có người Châu Á là hiếu học và yêu lao động còn ở những nơi khác tính cách con người lại kém cỏi hơn hay sao. Vấn đề là ở chỗ, cái khác nhau giữa các bảng giá trị, trước hết là khác nhau về vị trí của từng giá trị. Người Châu Á coi cần cù, yêu lao động là giá trị hàng đầu của sự làm người. Nhưng người Mỹ lại coi tinh thần tự lực cánh sinh mới là giá trị đáng quý nhất, cần cù cũng được coi trọng nhưng chỉ đứng thứ ba sau tự lực cánh sinh và thành đạt cá nhân. Nói rằng người Đông Á cần cù, người Do Thái khôn ngoan, hay người Đức ưa chính xác… nếu đúng, cũng chỉ có nghĩa là các giá trị đó được tôn trọng hơn, được xếp vào vị trí ưu tiên hơn so với các giá trị khác. Tuyệt nhiên không có nghĩa là chỉ có người Đông Á mới cẩn cù còn người nơi khác lười biếng, chỉ có người Do Thái là khôn quan này khác với phương Tây và trong ngoan còn lại là ngốc nghếch hay kém thông minh…

Vậy, giá trị quan là gì? Có thể tạm nêu định nghĩa về khái niệm này như sau:

Giá trị quan – đó là hệ thống các giá trị cá nhân và giá trị xã hội đã định hình và tạo thành quan điểm, quan niệm, tâm thế, có ý nghĩa nhìn nhận, đánh giá và định hướng đối với con người và cộng đồng trong quá trình điều chỉnh cách sống, lối sống và hành vi. Giá trị quan của mỗi cộng đồng được thể hiện trong tương quan vị trí của từng giá trị trong bảng giá trị, tương quan đó thường là sản phẩm lâu dài của lịch sử sinh tồn và phát triển của mỗi nền văn hoá. Giá trị quan của mỗi cộng đồng tồn tại một cách tự nhiên trong mỗi thành viên cộng đồng, nó chi phối việc xác định ý nghĩa của cuộc sống và ý nghĩa của sự làm người đối với mỗi thành viên cộng đồng.

Với quan niệm như trên, chúng tôi cho rằng, mặc dù giá trị truyền thống Châu Á không phải “chỉ toàn là những điều tốt đẹp khiến cho phương Tây phải thán phục, ngưỡng mộ”, như một vài tác giả vì quá yêu Châu Á đã nhấn mạnh một cách cường điệu. Song những nét ưu trội của giá trị quan Châu Á là có thật. Sẽ là sai lầm nếu không chú ý thỏa đáng đến sự khác biệt này trong nghiên cứu so sánh giữa các nền văn hoá, đặc biệt, trong việc hoạch định các kế hoạch phát triển tiếp theo của các xã hội châu Á, trong đó có Việt Nam.



Nguồn: Tạp chí Thông tin khoa học xã hội

Khám phá mới về Dịch Lý và Ngũ Hành



Nguyễn Cường




Có thể nói, suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm phát triển khoa học của nhân loại, không có một lý thuyết nào mang nhiều tính sai lầm, lại ảnh hưởng đến vô số người, và nhất là kéo dài trong một thờigian quá lâu cho bằng thuyết “Ngũ hành”!. Lấy thí dụ theo luật “Sinh Khắc” của Ngũ hành, thì “Thổ” khắc “Thủy” nghĩa là “Ðất” khắc “Nước”. Chẳng cần phải là nhà thông thái, chỉ với trìnhđộ của người nông phu cũng biết ngay là cógì không ỗn rồi. Nếu hiểu đúng theo nghĩa Khắc là triệt hạ, như “Thủy” Khắc “Hỏa” là “Nước” sẽ dập tắt “Lửa”, sẽ đưa đến cảnh một còn một mất chứ không thể ở chung được, thì làm gì có được cái nền vănminh nông nghiệp nuôi sống nhân loại cả mấy ngàn năm! Ðất, dù thuộc bất cứ loại gì, cũng không bao giờ “Khắc” nước. Ðất với Nước tuy không “Sinh” ra nhau, nhưng coi như là “hỗtrợ” lẫn nhau, đất cần nước để làm cho thêm màu mỡ, và nước cần đất để giữ cho khỏi bị thất thoát. Nếu không, thì làm sao có thể nói “Ðất Nước” để ám chỉ quê hương xứ sở, và nếu không hợp tính với nhau thì làmsao có được cái cảnh “sơn thủy hữu tình”!

Ðiều đáng nói là không phải không có ai thấy, mà trái lại, đã có rất nhiều người thấy rõ vấn đề sai lầm trong quátrình phát triển của thuyết Ngũ hành. Nhưng “Há miệng thì mắc quai”, vì thực tế cho thấy vào thời cực thịnh, lý thuyết của nó đã ăn sâu, bám chặt rễ vào nền văn hóa của Trung hoa và các nước liên hệ, đến độ coi nhưl à vật bất ly thân. Từ Thiên văn, Ðịa lý, cho đến Y học, Võ thuật, hay Quân sự, Văn chương, Chính trị v.v, đều dùng luật Ngũ hành như là kim chỉ nam, cơ sở chính để giải quyết mọi vấn đề, dựa vào hai luật “Sinh” và “Khắc”. Một hay vài cá nhân làm sao có hể thuyết phục, lay chuyển được quan niệm của cả khối người đang tin tưởng vào thuyết Ngũ hành như là một tín điều của tôn giáo. Thêm vào đó, vì yếu tố quyền lợi, các Ðạo sĩ và Chiêm tinh gia đã cố tình thần thánh hóa thuyết Ngũ hành, biến nó thành bất khả xâmp hạm, nhằm bảo vệ địa vị xã hội, nghề nghiệp tương lai cho mình và con cháu nối nghiệp hành nghề về sau(1).

Từ các lý do nêu trên, học giả hậu sinh vềs au nếu muốn nó ra những sai lầm thì lại không dám, vì sợ bị hiểu nhầm là xúc phạm đến thánh thần, nên chỉ còn có cách là gián tiếp, thêm vào một số lý thuyết mới để bổ túc. Chẳng hạn trong khoa Lịch số và Tử vi, mỗi hành lại có thêm sáu (6) hành khác, như hành Thủy gồm có: Ðại Hải Thủy, Giản Hạ Thủy, Tuyền Trung Thủy, Trường Lưu Thủy, Thiên Hà Thủy, và Ðại Khê thủy. Theo cách làm như trên, có lợi điểm là dễ được nhiều người chấp nhận, và cũng đỡ bị bế tắc trong vài trường hợp. Nhưng hậu quả thì vô cùng tai hại. Thay vì dứt khoát trởvề nguồn gốc căn bản là Dịch lý để giải quyết vấnđ ề, thì các học giả đờis au cứ dùng lối chấp vá tạm thời cho tránh khỏi bị đụng chạm. Kết quả, mầm mống của sai lầm lại càng được che dấu, chồng chất tích lũy theo thời gian như cái khối ung thư, và cho đến lúc trở thành “vô phương cứu chữa”!

Sau một thời gian nghiên cứu về Dịch l ý, người viết đã khám phá ra nhiều sai lầm về căn bản của Thuyết Ngũ hành, ảnh hưởng không những tới đời sống của vô số người, mà còn đưa nền văn minh khoa học rạng rỡ, đang lên tột đỉnh của Trunghoa cách đây khoảng hơn một ngàn năm đến chỗ thoái hóa, và đi vào ngõ cụt. Nguyên nhân chính của những sai lầm, vô tình hay cố ý, có thể quy về hai lý do. Thứ nhất, vô tình là vì kiến thức về khoa học còn quá sơ khai nông cạn, hay chưa biết gì . Thứ hai, giữ bí mật không muốn truyền cho người lạ, vì muốn bảo vệ quyền lợi cho dòng họ hay môn phái.

Những gì trong bài viết này sẽ được trình bày rất là đơn giản và dễ hiểu, nhằm mục đích là giới thiệu bộ môn khoa học tối cổ của nền văn minh nhân loại đến những đọc giả chỉ biết sơ về Dịch lý. Do đó chắc sẽ còn nhiều thiếu sót, và có thể không làm hài lòng hết mọi người. Tuy nhiên, người viết sẽ hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp phê bình hầu giúp làm cho sáng tỏ thêm vấn đề. Ðể quý đọc giả tiện theo dõi nội dung, bài viết sẽ lần lượt được trình bày theo các đề mục sau đây:


I.- Thuyết Ngũ hành.


a) Nguồn gốc.
b) Lý thuyết

II.- Dịch lý Cơ bản.

III.- Khám phá Mới Về Dịch lý.


a) Ý nghĩa và đặc tính lý hóa của Bát Quái
b) Phương vị của Bát Quái
c) Vòng Sinh Khắc của Bát Quái
d) Những hệ luận của vòng SinhKhắc
e) Dự đoán khoa học: Siêu Ánhs áng

IV.- Kết Luận

I.- Thuyết Ngũ hành.

a) Nguồn gốc

Khác với Kinh Dịch, nguồn gốc hay xuất xứ của Ngũ hành vẫn còn rất mơ hồ, nhất là người sáng tạo ra nó. Theo sách vở ghi lại thì trong Kinh Thi, thiên Hồng-Phạm Cửu-Trù có mở đầu bằng (1): Sơ Nhất viết Ngũ hành….. Cũng một thiên khác là Tiểu-Mân viết dưới thời Chu-U-Vương(722 BC) lại nói về Ngũ-sự trong Hồng-Phạm, và theo giả thuyết tương truyền thì cho Hồng-Phạm Cửu-Trù là do Vua Vũ nhà Hạ (2205-2197 BC), nhờ côngviệc trị thủy nên bắt được Lạc Thư, trong có luận bànv ề Cưủ-Hạc Chi-Sự hay 9 việc nên làm, ám chỉ về Cữu Trù. Tuy có tài liệu nói trên, nhưng không ai lạ gì chuyện đã xảy ra ở Trung hoa suốt hơn hai ngàn năm qua, vô số sách vở ngụy tạo được viết ra do những bậc hậu sinh có dụng ý riêng tư, và có thể không đáng tin lắm (1). Do đó, dựa vào điểm mốc thời gian chắc chắn để đoán thì thuyết Ngũ hành xuất hiện trong khoảng từ thời của Chu Dịch (1150 BC) và Kinh Thi thời Khổng Tử (khoảng 500 BC), vì bằng chứng rõ rệt nhất là Chu Dịch không hề nói đến luật Sinh Khắc của thuyết Ngũ hành.

Nhiều người vẫn thường nhầm lẫn nếu không chịu tìm hiểu, do bởi quá nhiều sách vở “Ngụy Thư ” mê hoặc, khi cho rằng thuyết Ngũ hành có cơ sở từ Dịch lý mà ra, qua trung gian là Hà Ðồ và Lạc Thư, còn gọi là Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái! Thật sự, các bậc hậu sinh đã quá tinh khôn để lồng nó vào trong Dịchl ý, và qua các phương tiện dùng Thần Thánh để thuyết phục, biến nó thành một phần tử thiết yếu của Dịch học . Bằng chứng cụ thể như đã nói trên, Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái chỉ là sản phẩm của các vị học giả hậu sinh, áp đặt lên Dịch lý của thuyết Ngũ hành, qua hình ảnh do rùa thần và ngựa thần để tăng thêm tính thuyết phục. Ðúng hơn, thuyết Ngũ hành đã đóng vai trò nhưl à một loại cây “Tầm gởi”, mới đầu đâm rễ sống bám vào cây Dịch lý, rồi từ từ phát triển mạnh để bao phủ, áp đảo và làm lu mờ vai trò của cây chủ nhà!

Dù xuất hiện vào thời điểm nào thì thuyết Ngũ hành, theo ý kiến chung của các học giả về triết Ðông, là công trình nghiên cứu độc lập riêng biệt của Nhà thông thái nào đó, và không phải sản phẩm trực tiếp có được từ Kinh Dịch mà ra (1). Bằng chứng là thuyết Ngũ hành khônghề nói về Nguồn gốc, hay giải thích Ngũ Hành bắt đầu từ đâu, và do cái gì sinh ra!?. Còn như nếu chịu ảnh hưởng của lý thuyết Dịch, thì chắc phải là 4 hay 8, chớ không phải 5. có thể tin được rằng, khởi thủy các nhà thông thái chỉ muốn làm côngviệc duy nhất là nghiên cứu các nguyên liệu chính trong thiên nhiên gồm 5 thành phần, đồng thời cũng đưa ra những quy tắc khi kết hợp 2 nguyên liệu lại với nhau. Vào thời cực hịnh bắt đầu đi lên của Trung hoa lúc bấy giờ, kỹ thuật luyện kim để đúc vũ khí, dụng cụ canh nông để trồng luág ạo, và nhất là xâydựng nhà ở đã có rồi, nên chắc phải có nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu về đặc tính của các vật liệu có thể dùng được trong thiên nhiên.

Nói cho công bằng, ưu điểm độc đáo trong thuyết Ngũ hành nếu có, chính là đưa ra khái niệm về luật Sinh-Khắc, cơ sở chính cho các bộ môn khoa học kỹ thuật của nền văn minh Á châu trong hơn hai mươi thế kỷ. Về sau, trong thời Xuân Thu và tiếpt heo là Nhà Hán, các học giả nhờ am hiểu rõ sự hổ tương giữa hai thuyết Dịchlý và Ngũ hành, nên ghép vào nhau để cho thêm nhiều ứng dụng. Ðó là một nhu cầu cần thiết rất hợp lý giữa lý thuyết và thực hành. Theo ngôn ngữ ngày nay là Khoa học và Kỹ thuật. Nhưng, chính vì phải cố gắng chấp nối, pha trộn giữa hai lý thuyết, nên kết quả đã chora một vài sơ hở thiếu sót không thể tránh được, do bởi kiến thức khoa học còn rất hạn hẹp vào thời bấy giờ. Thí dụ như khi các nhà thông thái cố tình dùng Ngũ Hành cho Bát Quái, đã đưa đến một kết quả hết sức nhầm lẫn, mà người viết sẽ phân tích rõ trong các trang sau.

b) Lý thuyết

Nói đến Ngũ hành thì hầu như đa số đều biết ngay đến 5 loại đặc tính của vật liệu nguyên thuỷ có sẵn trong thiên nhiên: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, và Thổ. Một vài học giả về au này dựa vào hiểu biết có sẵn từ Dịch, cho rằng Ngũ Hành trên không có nghĩa là 5 nguyên tố thiên nhiên đã kể ra. Nhận định trên chỉ đúng có một phần, và có ý nghiã tương tự như BátQuái trong Dịch. (Nên nhớ là các vị về sau đã văn minh tiến bộ rất nhiều, đồng thời cũng bị ảnh hưởng từ Dịch mà ra, nên không chắc là phản ảnh được ý định ban đầu của nhà thông thái, trong việc nghiên cứu tìm ra thuyết Ngũ hành).

Lý thuyết chính của Ngũ hành gồm 2 luật về Sinh và Khắc, biểu diễn bằng 2 hình vẽ sau:



Hìnhvẽ Số 1

SINH: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim.

KHẮC: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.

Một luật phụ thuộc cũng quan trọng không kém, tuy không có tên gọi chính thức, nhưng được hiểu ngầm và tuyệt đối tôn trọng là luật “Bảo tồn”. Mỗi Hành A đều phải sinh ra một Hành B, và đồng thời cũng được sinh ra bởi một hành C khác. Tương tự cho luật khắc, Hành A trên phải khắc một Hành D, và “bị” khắc lại bởi một Hành E. Như vậy, bất cứ một Hành nào trong Ngũ Hành đều có liên hệ chặt chẻ như trói buộc với 4 Hành còn lại. Ðây chính là lýdo rõ rệt nhất để giải thích, tại sao người phát minh ra thuyết Ngũ hành đã phải dùng đến số “Hành” tối thiểu là 5. Các học giả từ xưa đã biết “Thổ khắc Thủy” là sai, nhưng không thể nào sửa lại hay điều chỉnh được, vì giống như hình ảnh của thuyết con cờ “Domino”, nếu một cái ngã thì sẽ kéo theo toàn bộ, và kết quả là cả thuyết Ngũ hành sẽ không còn có giá trị gì nữa! Riêng các học giả Tâyphương khá nổi tiếng am hiểu về Dịch như C. K. Jung, Blofeld (3), v.v, khi nghiên cứu về Dịchl ý, cũng chỉ chú trọng đến “Bá tQuái” và 64 quẻ Dịch, mà không muốn nhắc đến thuyết Ngũ hành, kể cả bàn về Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái.

Cũng nhân đây xin đưa ra một chứng minh cụ thể sai lầm về lý luận trong Hậu Thiên Bát Quái. Các nhà thông thái cho rằng sở dĩ Thiên và Trạch thuộc hành Kim ở hướng Tây, vì hướng Tây (của Trunghoa ) có nhiều núi nên cho rất nhiều quặng mỏ kim loại; trong khi đó ngược lại hướng Ðông là biển, nơi các con sông đều chảy về (Chúng Thuỷ Triều Ðông) làm tốt cho cây cỏ thảo vật, nên thuộc hai quái Lôi và Phong hành Mộc. Giải thích trên nếu có được là vì các nhà thông thái thời bấy giờ coi Trung hoa là Trung tâm điểm của trái đất. Chúng ta có thể thấy ngay lập luận trên không hợp lý chút nào, vì nếu như sống ở những vùng như California, thì núi lại nằm ở hướng Ðông và biển thì lại ở hướng Tây!

Thông thường trong đa số các bộ môn về khoa học, nếu muốn tìm hiểu cho rõ nguyên nhân nào, và tại sao đưa đến sự sai lầm thực tế trong ứng dụng, thì không gì chắc chắn hơn là trở lại nghiên cứu từ căn bản nguồn gốc của lý thuyết. Vì vậy, trước khi đi sâu thêm vào chi tiết sai lầm đáng kể khác của thuyết Ngũ hành, tưởng cũng nên trở lại một chút với lý thuyết căn bản về Dịch lý.

II. Dịch lý cơ bản

Trước khi bắt đầu đi vào phần lý thuyết cơ bản, người viết có một trắc nghiệm nhỏ sau đây: Trong 6 hình vẽ biểu tượng cho Âm Dương (hay Lưỡng Nghi) trong khoa Dịch Lý, hình nào đúng nhất, và lý do tạisao?



Sở dĩ có câu hỏi nêu trên vì theo nhận xét của người viết, hầu như các sách đã xuất bản về Dịch hay các bộ môn “Khoa học Huyền Bí”, đều cho in hình nói trên một cách tùy tiện theo quan niệm sở thích cá nhân, hơn là dựa vào sự hiểu biết rõ về Dịch. Câu trả lời giải thích lý do sẽ được viết trong những trang sau, khi bàn về luật Sinh Khắc của Bát Quái.

Theo đồ hình tóm lược sau đây, thì Dịch lý cho rằng khởi thủy vũ trụ là một “Thể” duy nhất gọi là Thái cực (hay Ðạo). Thái cực, do một Nguyên nhân khởi nào đó (Hãy cho là Thượng đế ?) bị “Ðộng”hay “Dịch”, nghĩa là do bị chuyển động (theo ngôn ngữ khoa học ngày nay, có thể cho đó là “Big Bang”, hay vụ nổ đầu tiên khai sáng ra vũ trụ), sinh ra “Lưỡng Nghi” là hai trạngthái đối nghịch nhau, còn gọi là “Âm Dương”. Tiếp tục như vậy để sinh ra 4, gọi là “Tứ Tượng”, rồi sinh ra 8 gọi là “Bát Quái”. Trên mặt lý thuyết các diễn biến trên sẽ tiếp tục cho đến vô hạn. Nhưng trên thực tế thì các học giả hay nhà thông thái nào phátminh ra Dịch, với kiếnthức cách đây gần 5000 năm, cho là không cần thiết và tạm đủ để làm thành những biểu tượng cho vũ trụ vạn vật rồi!



Hình vẽ số 2

Như đồ hình trên cho thấy, với kiến thức khoa học còn phôi thai của thời bấy giờ, các nhà thông thái chỉ tìm thấy có Ngũ Hành lại đem áp đặt vào cho Bát Quái, nên buộc phải dùng 3 chỗ có 2 quái cùng chung một hành. có thể nói đây là một vi phạm trầm trọng tính “Bình đẳng” trong thiên nhiên, vì mỗi quái trong Bát Quái đều có những đặc tính riêng rẻ và độc lập với nhau. Ngoài khái niệm về nguồn gốc của vũ trụ và sự thành hình Bát Quái, Dịch lý còn đưa ra giới thiệu những đặc tính cơ bản về vật lý của Âm Dương, mà về sau các nhà nghiên cứu ứng dụng quá quen thuộc để gọil à “Âm Dương Học” thay cho từ “Dịch học”. Những đặc tính vật lý cơ bản của Âm Dương đượ chiểu như là “Quy ước” do sự đồng ý của những người phát minh ra Kinh Dịch và các nhà nghiên cứu về sau, dựa hoàn toàn vào 8 đặc tính thuần túy của Bát Quái. Xin nhắc lại ở đây, các nhà ÂmDương học về sau đã thêm vào những đặc tính phụ để thỏa mãn cho nhu cầu áp dụng Dịch lý trong các lãnh vực khác, như Dương là Nam, là Thiện, còn Âm là Nữ, là Ác, v.v (9, 10).

Tám đặc tính vật lý cơ bản là:

Dương : Sáng Nhẹ Nóng Nhanh

Âm : Tối Nặng Lạnh Chậm

Nếu sắp lại theo hàng ngang như hình vẽ số 2, mỗi đặc tính trên cũng làm biểu tượng lý tính của BátQuái như sau:

Nhóm Dương Nhóm Âm .

Thiên Trạch Hỏa Lôi Phong Thủy Sơn Ðịa

Sáng Nhẹ Nóng Nhanh Chậm Lạnh Nặng Tối

Ðiều nhận xét đáng chú ý ở Bát Quái trên là tính đối xứng của các quái về hình thức lẫn nội dung. Về nội dung bao gồm cả lý tính thì có Thiên với Ðịa, Sơn với Trạch, Hỏa với Thủy, và Phong với Lôi. Còn về hình thức thì cả hai nhóm đối xứng với nhau qua trục chính nằm giữa hai quái Lôi và Phong, cũng là vùng chuyển tiếp giữa hữu hình và vô hình. Nếu bên này là vạch (hay Hào) Dương, thì vạch bên kia sẽ là Âm, hay ngược lại.

Những gì vừa trình bày ở trên là lý thuyết cơ bản nguyên thủy và đúng nhất của Dịch lý. Còn lại, tất cả những áp dụng khác của Dịch do các đời học giả về sau “phát minh” thêm ra, như Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái, Bát Quái Ðồ hình dùng cho việc bói toán (2, 4), đều là do hậu quả của sự kết hợp và suy diễn từ Ngũ hành mà ra, và vì vậy không thể tránh khỏi những sai lầm trong nhiều trường hợp.

III.- Khám phá mới về Dịch lý.

a) Ý nghĩa và đặc tính lý hóa của Bát Quái.

Như đã nói trên, vì kiến thức về khoa học còn rất nông cạn của các nhà thông thái cách đây cả mấy ngàn năm, nên trong việc đặt tên và diễn dịch Y¨nghĩa Bát Quái đã bị ảnh hưởng rất nhiều, nhất là do bởi thuyết Ngũ hành. Tuy tôn trọng tên gọi nguyên thủy của Bát Quái, nhưng người viết xin dùng những từ thuộc 8 “Hành Mới” (tính lý hóa) để bổ túc cho một số quái, theo cách xếp đặt như sau:

Bát Quái: Thiên Trạch Hỏa Lôi Phong Thủy Sơn Ðịa

8 Hành : Sóng Khí Nhiệt Âm Mộc Thủy Kim Thổ



Hìnhvẽ số 3

Ngoài những Quái có “Hành” quen thuộc, còn một số các “Hành Mới” khác sẽ được giải thích sau:

Sơn thuộc hành Kim: Kim theo nghĩa hẹp là kim loại do từ các quặng mỏ ở trên vùng núi hay cao nguyên. Nghĩa rộng là cho các vật liệu có chung đặc tính cứng rắn, bởi vì cấu tạo của núi đồi đa số cũng là do đất đá cứng nên mới vươn cao được. Nói theo hình tượng học cho dễ hiểu, thì ngày nay các cao ốc chọc trời có thể ví như là núi (hay Sơn theo khoa Phong Thủy), vì phải dùng đặc tính cứng rắn của bê tông cốt sắt mới chịu được. Ðây cũng cho thấy sai lầm của những nhà thông thái khi muốn “ép duyên” Bát Quái cho Ngũ hành. Chẳng là vì Thổ, Thủy, Mộc và Hỏa chiếm hết 6 quái rồi, nên phải dùng hành Kim thuộc về nhóm hữu hình, cho cả Thiên và Trạch thuộc nhóm vô hình.

Lôi theo nghĩa hẹp là sấmsét, nhưng nghĩa rộng là chấn động hay cụ thể hơn là âm thanh. Có thể là do các nhà thông thái dùng hình tượng học, mượn hìn hảnh của “sấm sét” cho dễ hiễu. Diễn dịch sai lầm nếu có của lớp hậu sinh về sau là không chịu tìm hiểu, hoặc giả có hiểu thì cũng là một thiểu số rất ít. Ngay Ðức Khổng Tử gần cuối đời cũng phải thú nhận là còn hiểu sai lầm về Dịch (5). Ðiều chắc chắn là thời đó, khái niệm khoa học về “âm thanh” còn rất là trừu tượng và mơ hồ.

Hỏa nghĩa hẹp là lửa, nghĩa rộng là Ánh sáng hay nhiệt năng, theo cách giải thích tương tự như trên.

Trạch là Quái hoàn toàn bị hiểu nhầm nhiều nhất vì đa số các sách về Dịch cho là tượng của “ao hồ”. Cái sai thấy rõ vì Trạch thuộc nhóm Dương vô hình, mà ao hồ lại là vật thấy được thuộc nhóm hữu hình. Hơn nữa, điều vô lý là khi nói đến ao hồ thì phải có nước hay liên hệ đến hành “Thủy” trong đó. Một số sách sau này dùng tượng “hơi nước” (4) có lý hơn một chút, nhưng vẫn chưa đạt ý. Ðúng ra, Trạch ám chỉ tổng quát các loại chất “Khí” có trong thiên nhiên, mà lúc bấy giờ các nhà thông thái chưa biết gì cả, ngoại trừ không khí để thở và các loại “Hơi” cho ra mùi có thể ngửi được. Nên nhớ, khi gọi là Trạch với nghĩa tổng quát ám chỉ cái “cửa khẩu” hay chỗ “bị lỏm xuống”, thì các nhà thông thái cũng đã có khái niệm mơ hồ về một khoảng trống có chứa vật thể vô hình vô sắc nào đó.

Thiên ý nghĩa là “Trời”, biểu tượng cho cái gì siêu nhiên vô hình vượt qua mọi sự hiểu biết của con người vào thời bấy giờ, tuy các nhà thông thái thỉnh thoảng vẫn cảm nhận được “Có cái gì đó” ảnh hưởng không ít tới thể xác của họ. “Sóng” là hành của “Thiên”, bao gồm tất cả mọi loại sóng từ trường có trong không gian, các tia phóng xạ, tia tử ngoại, hay các loại “Siêu ánh sáng” có vận tốc nhanh hơn ánh sáng bình thường (sẽ được chứng minh bằng lý thuyết ở cuối bài viết) mà trình độ kho ahọc của con người cho đến nay vẫn chưa tìm ra được.

Nhìn vào đặc tính lý hóa của Tứ Quái thuộc nhóm dương, rõ ràng là Phục Hy hay nhà thông thái nào đó khi phát minh ra Bát Quái, đã vô tình đưa ra những khái niệm rất cơ bản về sự trao đổi giữa Vật chất và năng lượng trong khoa Vật lý học hiện đại! Chỉ tiếc rằng các họcgiả Trung hoa về sau vì không hiểu hay vì muốn giữ bí mật làm của riêng, nên hậu quả là cái học chân chính về Dịch đã bị thất truyền. Trình Dy (2), một học giả nổi tiếng đời Nhà Tống đã nói như vậy, cách đây gần cả ngàn năm. Theo sách tham khảo (4), hai bộ “Liên Sơn” và “Quy Tàng” nói về Dịch đã bị mất luôn không biết nội dung như thế nào, chỉ còn bộ “Chu Dịch” chuyên về 64 quẻ thuộc khoa Bốc phệ hay Bói toán!

b) Phương vị của Bát Quái

Như đã nói trong phần trước, ưu điểm độc đáo của thuyết Ngũ hành là đưa ra khái niệm về luật Sinh Khắc, mà ứng dụng khởi thủy chính là dùng phương hướng để định vị trí tiêu chuẩn. Như trong hình vẽ số 1 trên, chúng ta đã thấy thuyết Ng ũhành có vấn nạn, vì chỉ có 5 thành phần cho 4 hướng chính là Ðông Tây Nam Bắc, nên đã phải nhờ đến Bát Quái để rồi từ đó lại cho ra hai “phó sản” là Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái, dẫn dắt hậu sinh vào chỗ bế tắc!



Hình vẽ Số 4 :

Hãy tạm quên Ngũ hành, Tiên Thiên và Hậu Thiên, để trở về với l ýthuyết cơ bản của Dịch lý. Muốn định vị trí tiêu chuẩn phương hướng cho Bát Quái, thì cách hay nhất là truy nguyên từ nguồn gốc sinh ra nó tức là “Tứ Tượng” gồm Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương, và Thái Âm. Ở đây người viết muốn nhấn mạnh đến sự trùnghợp rõ rệt giữa “Tứ Tượng” cho “Bốn Phương” chính, và “Bát Quái” cho “Tám Hướng” kể cả 4 hướng phụ.

Bắt đầu bằng 4 hướng chính dùng “Tứ Tượng” như hình vẽ số 4 trên, cho thấyngay tên gọi là Tháidương biểu tượng cho mặt trời hay Ánh sáng thuộc về ban ngày, phải nằm ở hướng Ðông là hướng mặt trời mọc. Ngược lại cho Thái Âm, tượng cho mặt Trăng hay ban đêm, phải ở hướng Tây là lúc mặt trời lặn. Còn lại suy ra Thiếu Dương, hay Dương ít nghĩa là Âm phải nhiều, ám chỉ cái lạnh nhiều hơn nên đóng ở phương Bắc, và do đó ngược lại Thiếu Âm chỉ cái nóng nhiều hơn, nên phải ở về vị trí phương Nam, hướng về đường xích đạo.

Bốn phương chính đã được định vị trí tiêu chuẩn đúng rồi, thì trong tiến trình cho ra Bát Quái, 4 hướng chính đó sẽ trở thành “Thiên” dành cho hướng Ðông, “Ðịa” hướng Tây, “Thủy” hướng Bắc, và “Hỏa” ở hướng Nam. Sau khi bốn phương chính được định vị cho bốn quái rồi, các quái cònlại theo thứ tự suyra cho bốn hướng phụ.

c) Vòng Sinh Khắc của Bát Quái

Vòng tương sinh của Bát Quái khởi đầu bằng hệ luận tầm thường sau đây của Lão-Tử giải thích về nguồn gốc của vũ trụ, mà khoa học ngàynay cũng đưa ra giả thuyết gần giống như vậy! Ðó là: “Ðạo sinh Một, Một sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh ra Vạnvật”. Ðây là Lão-Tử muốn nói, Thái cực sinh ra Lưỡng Nghi hay cả vũ trụ nên gọi là Thiên (Trời, số Một theo thứ tự của thuyết Tam tài). Thiên sinh ra Ðịa (số 2) ám chỉ các tinh tú hay trái đất. Ðất sinh ra vạn vật bao gồm Nhân, thứ tự số 3, hay nghĩa rộng hơn là hào thứ ba sinh ra Bát Quái, bao gồm cả vạn vật trên trái đất. Vậy thì “Ðịa” hay trái đất sinh ra vạnvật theo đúng diễn tiến thứ tự của luật Bát Quái tương sinh (mũi tên trong hìnhvẽ số 3), và khoa học hiện đại đã chứng minh một cách tương tự rõ ràng những diễn tiến như sau:

Thiên Sinh Ðịa

Ðầu tiên, trời hay vũ trụ sinh ra các hành tinh kể vả trái đất là chuyện đương nhiên, không có gì khó hiểu.

Ðịa Sinh Sơn (hành Kim)

Như đã giả ithích ở trên, Sơn thuộc hành Kim: Trái đất lúc mới vừa thành hình là một khối cầu lửa rất nóng, khi bắt đầu nguội dần thì mặt đất bị co rút lại và tạo thành lồi lõm. Chỗ lồi là núi, lõm là thung lũng hay đồng bằng. Vậy Sơn do từ Ðịa mà sinh ra là điều hợp lý, khôn gcòn gì phải thắc mắc.

Sơn (hành Kim) Sinh Thủy:

Sơn là núi trên cao nguyên lạnh nên là nơi tích lũy băng tuyết. Tuyết tan thành nước chảy xuống đồngbằng thành sông, và cuốicùng là ra biển. Dù những vùng khôngcó nhiều tuyết thì nước mưa trên cao cũng chảy xuống thấp làm thành sông hay suối. Luật khoa học thiên nhiên đã được chứng minh, tất cả các consông đều có nguồn phát xuất từ các vùng cao nguyên. Luật này còn nhấn mạnh đến lý tính của Chất Lỏng là luôn luôn chảy từ cao xuống thấp. Có sách theo thuyết Ngũ hành đã giải thích vì “Kim Khí” lạnh nên hơi đọng lại mà sinh ra nước. Giải thích như vậy rất là gượng ép và thiếu sót, vì hơi nước cũng đọng lại trên cây cỏ để cho ra nước! Nguyên nhân có thể là do bị các “Ngụy Thư” đánh lừa, hoặc các hậu sinh Nho học thời Xuân Thu muốn giấu nghề “Trị Thủy” của Vua Vũ(?)

Thủy Sinh Phong (hành Mộc):

Nước nuôi dưỡng sinh ra cây cỏ, nhưng đồng thời cũng cho ra hơi nước tạo thành gió. Gió chỉ cho thấy hiệu quả khi gặp vật cản để sinh ra chuyển động. Và ngược lại, nếu vật chuyển động thì lại cho ra gió! Do đó Quái Phong ở đây ám chỉ cả hai nghĩa thực tế và trừut ượng. Vừa thuộc hành Mộc là cây cỏ thuộcvề quái cuối cùng ở biên giới của nhóm Âm hữu hình, nhưng đồng thời cũng cho ra gió, đóng vai trò trung gian chuyển tiếp đến quái “Lôi” thuộc nhóm Dương vô hình. Ðây mới thấy cái ẩn ý của các nhà thôngthái, đã không gọi quái “Phong” là quái “Mộc”.

Phong Sinh Lôi

(âmthanh) Chính là biên giới của sự chuyển tiếp từ hữu hình qua vôhình. Gió gặp vậtc ản tạora chấn động hay rung động, rồi từ sự rung động lại phát sinh ra âm thanh. Dựa vào nguyên tắc trên mà các nhà thông thái thời cổ đại bên Trung hoa đã phát minh ra câysáo, một loại nhạc khí cổ xưa nhất trên thế giới vẫn còn dùngcho tới ngày nay. Nhắc lại ởđ ây, nhà thông thái đã phải dùng đến hình tượng cụ thể là “sấm sét” (hay Lôi) cho dễ hiểu vì ai cũng thấy được. Nên hiểu rằng “Lôi” ở đây không chỉ có nghĩa là sấm sét, mà còn có nghĩa tổngq uát hơn là chấn động. Ðiều chắc chắn là Nếu khôngcó hơi nước tạo ra gió thì không có mây hay mưa, và nếu không có mây bão thì cũng không có sấm sét!

Lôi Sinh Hỏa

Chấn động mạnh thì dể sinh ra sự cọ sát và cho ra Nhiệt. Nhiệt tích lũy nhiều thì phát Hỏa, và đó là nguyên tắc để tạo ra lửa không thay đổi từ xưa đến nay. Nhân tới đây, cũng nên nhắc lại thuyết Ngũ hành nói “Mộc sinh Hỏa”, với lời giải thích gỗ cháy cho ra lửa, là không hoàn toàn đúng! Gỗ không tự nhiên mà cháy nếu không có trước mồi lửa, nghĩa là tự nó không sinh ra lửa. Thí dụ như trong thiên nhiên, những vụ cháy rừng là do sét đánh, đúng nghĩa của “Lôi” mà ra, và các hỏa diệm sơn do chuyển động xung sát của các tầng nham thạch, bao giờ cũng bắt đầu phun lửa bằng các cơn địa chấn đi trước. Còn về mặt nhân tạo thì ngay cả dùng cái bật lửa, cũng cần phảicó tác động ban đầu do sự đánh diêm hay cọ sát mạnh vào viên đá lửa. Ngoài ra, do hai quái trên hoàn toàn nằm trong vùng vô hình thuộc phạm vi tinh thần, nên còn được hiểu theo nghĩa bóng. Thí dụ như âm nhạc cóthể làm cho con người cảm thấy kích động mạnh lên, phấn khởi nhảy múa tưng bừng. Hoặc là, khi hai quyền lợi tranh dành đụng chạm mạnh, thì tất nhiên phải xảy ra cảnh chiến tranh máu lửa!.

Hỏa Sinh Trạch

Lửa thiêu đốt vật cho ra khói hay các chất “Khí” theo như phản ứng hóa học. Lập luận của Ngũ hành cho Hỏa Sinh Thổ là sai lầm, bởi không phải lúc nào lửa cháy cũng cho ra tro than, thí dụ như dầu lửa hay khí đốt. Về phương diện tinh thần, khi tâm cuồng nhiệt hay nóng sốt đam mê về chuyện gì, thì các chất kích thích ố (Hormone) ở nãobộ tất sẽ phát tiết ra, và làmc ho con người dễ chìu theo dụcv ọng hay sở hích cá nhân. Vì vậy, quái “Trạch” còn cónghĩa là làm cho hài lòng, hay vui lòng và chìu chuộng theo đối tượng v.v. Nên nhớ là hành “Khí” ở quái “Trạch” này còn bao gồm luôn cả ý¨nghĩa “Thần Khí” hay “Khíc ông” của y học và võ thuật. Khoa Tâm sinh lý đã chứng minh rõ là tất cả đều do phản ứng hóa của các chất kích thích tố lên trên hệ thần kinh não bộ!

Trạch Sinh Thiên

Trạch hành “Khí”, theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các hóa chất vô hình vô sắc trong vũ trụ, cuối cùng cũng kết hợp và tác động lẫn nhau dưới bất kỳ hình thức nào, để cho ra năn glượng và thường là dưới dạng “Sóng”. Chẳng hạn khi con người suy nghĩ hay tính toán là lúc các sóng não làm việc cho ra tín hiệu, do bởi phản ứng dây chuyền của các hóa chất trong nãobộ. Nhưng quan trọng hơn hết, Quái Thiên cuối cùng còn là biểu tượng cho trí khôn hay sự thông minh cao cấp nhất mà loài người có thể có được trong một tương lai vô hạn.

Biểu đồ dưới đây cho thấy hai vòng Bát Quái Sinh và Khắc:



Nhìn vào biểu đồ bên trái của hình số 5 cho thấy diễn tiến của vòng Bát Quái Tương Sinh, và cũng là câu trả lời đúng nhất cho 6 hình vẽ biểu tượng cho Lưỡng Nghi hay Âm Dương. Hình đánh số 1 đúng cho khu vực Bắc bán cầu, và số 4 đúng cho ai sống ở miền Nam bán cầu.

Trước khi tiếp tục giải thích vòng Tương Khắc, biểu đồ bên phải trong hình số 5, xin nhắc lại mộtsố quy luật về Sinh Khắc của Bát Quái rất phù hợp với khoa học thực nghiệm ngày nay. Chẳng hạn theo luật tựnhiên, cùng loài thì “Sinh” ra nhau, khác loài mới “Khắc” nhau. Chỉ các quái thuộc nhóm Âm mới “Sinh” ra quái Âm, và cũng tương tự cho các quái thuộc nhóm Dương, trừ trườnghợp duynhất phải chuyển tiếp giửa hai quái “Phong” và “Lôi” ngay biên giới của hai nhóm Âm Dương. Tương tự cho vòng “Khắc”, chỉ có quái thuộc nhóm Âm mới khắc quái ở nhóm Dương, hay ngược lại. (Xin nhắc thêm ở đây là trong khoa Tử vi đã áp dụng rất đúng nguyênt ắc trên. Mệnh Dương đóng ở cung Dương tốt hơn ở cung Âm, hay ngượclại)

d) Vòng Khắc của BátQuái

Theo hình vẽ bên tay Phải của biểu đồ số 5 :

Thiên Khắc Phong Ðây muốn nói các loại sóng phóng xạ, các tia tử ngoại hay tia “X” đều là khắc tinh của cây cỏ sinh vật, kể cả con người (thể xác và hình dạng con người nói chung được coi như hành Mộc, ý chính và là nghĩa phụ thuộcvề phần hữu hình của quái Phong). Về Y¨nghĩa thuộc dạng chuyển tiếp qua phần vô hình là “Gió” hay giông bão, thì chỉ có các loại sóng nhiệt năng làm thay đổi nhiệt độ nóng hay lạnh của vùng có gió đi qua, và kết quả sẽ làm tan biến đi luồng gió. Một ứng dụng thựctế vôtình trùng hợp, là hiện nay các nhà khoa học đang thử dùng các tia “Laser” cực mạnh để bắn vào tâm các trậnc uồng phong, nhằm hóa giải sứcmạnh hay có thể phá tan luôn trung tâm bão mới thành hình.

Phong Khắc Trạch

Có hai nghĩa được giải thích nhưsau: Bất kỳ các loại “Khí” nào cũng sẽ bị “Gió ” thổi làm tan loãng đi. Thí dụ khí chứa trong các bình kín bị mở nắp thông hơi, hay các nhà hầm kín được mở cửa cho gió vào làm thoángkhí. Nghĩa thứ hai, các loại rễ cây khi phát triển sẽ chiếm dần các khoảng trống (Y¨nghĩa của quái “Trạch” đã nói trên) trong đất, và dĩ nhiên là đẩy chất khí đi rangoài.

Trạch Khắc Thủy

Khái niệm đầu tiên là các bọt khí trong chất lỏng hay hơi nước bốc lên sẽ làm khô cạn nước hay chất lỏng đó. Y¨ chínhlà nếu chất lỏng tiếp xúc với một khoản gtrống thì sẽ bị hao tổn vì chảy thoát ra đó. Thí dụ như một bình chứa nước bị đục một lổ hổng. Nhân đây cũng nhắc lại chuyện các nhà thông thái khi xưa, do nhìn thấy nước chảy trên mặt đất bị hút mất, nên cholà Thổ Khắc Thủy! Thật sự như khoa học chứng minh, nước hay chất lỏng bị mất vào lòng đất là vì chảy thấm vào các khoảngt rống li ti (Trạch) giữa đất cát mà thôi.

Thủy Khắc Hỏa

Ðiều này ai cũng biết rồi, và cũng đúng hoàn toàn theo thuyết Ngũ hành, xin miễn nói thêm.

Hỏa Khắc Sơn.

Theo nghĩa đen trong thuyết Ngũ hành, vì Sơn thuộc hành Thổ, và lại cho Hỏa Sinh Thổ, nên suy ra “Lửa Sinh ra” hay làm lợi cho rừng núi là điều nhầm lẫn hoàntoàn! Lửa Thật sự mới chính là khắc tinh của núi. Các vụ cháy rừng đã làm thiệt hại cho núi nhiều nhất, kể cả lửa phun ra từ hoả diệm sơn. Các kiến tạo về cầu hay caoốc cũng rất ngại bị rỉsét, một hiện tượng oxýt hóa hay còn gọilà “cháy ngầm”. Dođó, nghĩa bóng thứ hai của Sơn thuộcv ề hành Kim, cho ra Hỏa khắc Kim là đúng với thực tế.

Sơn Khắc Lôi

Cũng dễ hiểu như trong thực tế chothấy, núi hay các bức tường thành cao (hình tượng tha ythế cho Sơn), đều có công dụng chống và cản lại tiếngđộng hay âmthanh. Ngoài ra, một ứng dụng khác là các cột thu lôi bằng kim khí (xin nhắc lại, Sơn thuộc hành Kim theo Bát Quái) trên cao ốc hay nóc nhà cũng có khả năng “triệt tiêu Thiên lôi” nếu có!

Lôi Khắc Ðịa

Chỉ có những chấn động mạnh trong thiên nhiên như động đất, bão lụt, hay nhân tạo như bom mìn hoặc các máy móc có độn gcơ nổ, mớ icó đủ sức mạnh để làm cho đất sụp lở hay bị dời đi mà thôi. Trườn ghợp thuyết Ngũ hành cho “Phong” hay gió thuộc hành Mộc khắc thổ, với lập luận gió thổi làm cho đất cát bayđi mất là quá gượng ép. Ðúng ra, chỉ có các trận bão lớn hay cuồng phong mới thổi đất cát bay đi được, và nên nhớ là các trận cuồng phong bao giờ cũng cho ra những âm thanh chấn động mạnh như động đất.

Ðịa Khắc Thiên

Lập luận cuối cùng này có thể làmcho khó hiểu một chút, bởi vì trong vòng Sinh thì Thiên Sinh Ðịa, mà trong vòng Khắc thì ngượclại!. Xin nhấn mạnh, Ðịa ởđây không trực tiếp khắc Thiên mà phải qua trung gian chính là Nhân hay loài người. Do những tiến bộ mà nền văn minh khoa học kỹ thuật mang đến, giúp con người khắc phục thiên nhiên, cưỡng chốnglại “mệnh trời”, hay hủy diệt hệ sinh thái của vòng khí quyển ozone, đều đượ chiểu như là “Khắc Thiên”. Vậy thì hai đầu mối cực điểm của Bát Quái là Thiên và Ðịa, cuốicùng lại phải gia hợp nhau trong cái chu kỳ tuần hoàn “Sinh và Khắc” đó, để duy trì cán cân quân bình của tạo hóa. Trong đó, yếu tố quan trọng hàng đầu, vẫn là phải có phần “Nhân” hay con người, để chu toàn công việc!

d) Những hệ luận của vòng Bát Quái

Trong biểuđồ của hai vòng Sinh và Khắc (hình số 5), nếu để ý thì thấy vòng Sinh có sự quân bằng và điều hòa cả hai bên vùng Âm Dương. Về hình tượnghọc, đường chuyển tiếp giữa quái Phong qua Lôi giốngnhư dạng của một lànsóng êm dịu, hài hòa và thuận lợi. Trong khi vòngKhắc có dạng mũi nhọn giao động và không đồng đều, giống như biểuđồ của một vụ nổ hay cơn địac hấn, sẽ tạo ra cảm giác khóc hịu vì có tính sátphạt hay không được vừa lòng.

Cũng trong vòng Sinh nói trên(xem hình số 5), nếu nối liền trọng tâm của hai nửa bán cầu nhỏ, do đường chuyển từ quái Thủy qua Phong trong vùng Âm (Ðen), và quái Lôi qua Hỏa trong vùng Dương(Trắng), sẽ hợp với trục thẳng đứng Thủy-Hỏa một góc gần bằng 23° 27 (7), chính là độ nghiêng của trái đất. Khoa học đã chứngminh rằng nếu trái đất không nghiêng một gócđộ nhưvậy thì thờ itiết sẽ không có 4 mùa, và có thể trái đất đã là một hành tinh chết, làmgì có được sinh vật và con người như ngày nay. Vậy suy luận mộtcách cụ thể hơn, hai quái chuyển tiếp giữa Phong, hành Mộc thuộc vùng Âm hữuhình biểutượng cho thểxác, và Lôi hành Âm, thuộc vùng Dương vôhình hay tinhthần, chora con người thuộc phần Nhân, giữa Thiên và Ðịa trong Bát Quái. Xi nnó ithêm cho quý vị đã biết nhiều về Dịchl ý, tại sao các nhà thông thái đã ghép hai quái lại thành quẻ “Lôi Phong Hằng” ở ngay giữa 64 quẻ, tượng cho nhân duyên hay đạo vợ chồng (9). Nếu khôngcó sự giaod u giữa Âm và Dương đó, thì chắc là không có thế giới loài người!

Theo chu kỳ của vòng “Sinh”, từ khởi điểm là Thiên sinh Ðịa, rồi cuốicùng là trở về lại Thiên, đã ngầm chứa một khái niệm “vạn vật đồng nhất thể” của nền triết học Ðông phương. Phải chăng đó cũng là một tiền đề cho thuyết Luân hồi của Phật giáo sau này(?) Trong vòng “Sinh và Khắc”, bao giờ cũng có một sự liên hệ chặt chẽ như sau: Nếu “Thủy” khắc “Hỏa” và “Hỏa” sinh ra “Trạch”, thì “Trạch” sẽ khắc lại “Thủy”. Tương tự cho tất cả, “Lôi” khắc “Ðịa”, thì “Ðịa” sinh ra “Sơn”, để “Sơn” khắc lại “Lôi”,v.v. Ðây có thể coi như là hiện tượng “Trả thù” theo tâm lý con người, hay “Bảo tồn” của thiên nhiên, hay nói theo triết lý Nhà Phật là luật “Nhân quả” .

e) Dự đoán khoa học: Siêu Ánh sáng.

Dựa vào mô hình Bát Quái, người viết muốn đưa ra một dự đoán khoa học trong việc tìm ra loại siêu ánh sáng có vận tốc lớn hơn ánh sáng hiện nay (v = 300.000 km/giây). Tuy nhiên, trước khi nói chuyện tươnglai, thì cũng nên ôn lại chút qua khứ để coi như một kinh nghiệm thự tế. Chỉ mới cách đây hơn nửa thế kỷ trở về trước, mọi người đều thấy vận tốc của âm thanh là nhanh nhất, mà tất cả các máy móc nhân tạo hay trong thiên nhiên không gì bằngđược (trừ ánh sáng). Nên mới có câu “Một lời nói ra, thì bốn ngựa đuổi theo cũng không kịp”.

Trong tiến trình sinh trưởng của Bát Quái, “Lôi” tượng cho âm thanh, và kế đến là “Hỏa”. Dĩ nhiên, ở đây quái “Hỏa” không những ám chỉ ánh sáng, mà còn tượng hình cho nguyên tắc về hỏa tiển hay máy phản lực. Hai vạch Dương ở ngoài cứng giống như lớp vỏ bao bọc bên ngoài, và vạch âm ở giữa như là khoảng trống để nhiên liệu cháy phun ra ngoài. Kết quả cho thấy, chỉ có các động cơ phản lực mới có đủ sức đưa vậtt hể di chuyển nhanh hơn vận tốc âm thanh.

Ánh sáng thiên nhiên theo giải thích của khoa Vật lý học hiện đại, được tạo thành bởi những hạt quangtử (Photon) di chuyển theo dạng hình sóng có chu kỳ (oabc) như trong hình vẽ số 6, và có vận tốc theo trục đường thẳng là 300.000 km/giây trong chân không. Bây giờ, nếu xét về mặt lý thuyết hình học, giả sử các hạt sóng quang tử nhờ bị thu hút một năng lượng cực mạnh nào đó, di chuyển theo đường tắt ngắn hơn (oa’-bc), thì chắc chắn vận tốc theo trục đường thẳng phải nhanh hơn bình thường, nghĩa là nhanh hơn vận tốc ánh sáng thiên nhiên!



Sở dĩ người viết dự đoán điều nói trên là nhờ dựa vào hình tượng của Bát Quái. Quái “Hỏa” tượng cho ánh sáng, gồm hai vạch Dương đối xứng cân bằng qua vạch Âm ở giữa, cho thấy giống như dạng sóng bình thường lên xuống của Ánh sáng thiên nhiên. Tuy nhiên, để đạt tới được vận tốc cao hơn của “Siêu Ánh sáng”, thì phải xét tới quái tiếp theo là “Trạch”. Quái “Trạch” có hai vạch Dương nằm ở dưới một quái Âm, cho thấy có sự mấtquân bình và không đối xứng. Vạch Âm nằm ở trên cùng còn ám chỉ một sự “thiếu hụt” nào đó, giống như đường tắt (oa-bc) sovới (oabc).



Trên chỉ là một thí dụ nhỏ trong vô số các hiện tượng về thiên nhiên của vũ trụ hay thế giới loài người mà khoa Dịch lý học có thể giải thích, dự đoán, hay chứng minh được. Chẳng hạn, đọc giả có thể đã nghe nói về những áp dụng của Dịch lý vào trong nhiều lãnh vực khác. Nhưng dám chắc chưa ai biết được, Dịch lý có thể giải thích và trình bày tổng quát tất cả các mô hình về chủ thuyết Chính trị từ cổ chí kim, và hy vọng đó cũng chínhlà chủ đề cho những bài viết sắp tới.

IV.- Kếtluận

Ðã đến lúc thuyết Ngũ hành cần phải được đóng khung lại và cho vào bảo tàng viện. Các bộ môn học thực hành đang được phổ biến và thông dụng trên thế giới, còn sót lại từ nền văn minh Trung hoa nói chung như: Ðông y học, Châm cứu, Lịch số, Phong Thủy, vv, phải thẳng thắn, dứt khoát từ bỏhẳn thuyết Ngũ hành, để quay về lại với cội nguồn chân chínhlà Dịch lý mà nghiên cứu áp dụng, nếu muốn phát triển trở thành tốt đẹp hơn.

Dịch lý không thể bị coi là một khoa học huyền bí. Không có bất cứ lý luận nào, mệnh đề nào trong Dịch lý mà không thể hiểu, hay chứng minh được theo tiêu chuẩn khoa học hiện đại.

Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2013

KHÓI THUỐC CHIỀU



Huy Hùng




Chiều vạm vỡ vươn vai
đốt. đốt tôi. điếu thuốc
hút. hút nhả. nhả khói
thuốc bay nhởn. nhơ. nhởn.
nhơ chúng cười đắc. thắng
một vị đắng. đắng đắc.
thắng. đắc. thắng một vị
đắng. đắng suy. tư. suy.
tư. nhìn điếu thuốc cháy.
cháy. ngắn. dần. ngắn. dần
như cuộc đời đang bốc.
cháy. cháy. ngắn. dần. ngắn.
dần nhìn cuộc đời đang
bốc. khói. những vị đắng.
đắng bay. bay nhởn. nhơ.
nhởn. nhơ đắc. thắng. đắc.
thắng qua thời gian. thời
gian lặng. im. lặng. im.
mộng. mị. mị. đôi. mắt.

KHUNG CỬA CHIỀU ĐÔNG





Hoàng Mai Đạt



Đôi mắt, cửa sổ của tâm hồn. Ở góc phòng nơi tôi làm việc, cửa sổ là đôi mắt, thỉnh thoảng giúp tôi bay thoát mấy bức tường tù túng, giam hãm tâm hồn hơn tám tiếng đồng hồ mỗi ngày. Không có khung kiếng ấy, tôi chắc không có gì khác ngoài một ngày làm việc mù mịt dưới giông bão của tin thời sự, của những tranh chấp chính trị, những tai họa, những buồn vui của đời thường từ nơi xa xăm vướng mắc về tôi ở chốn này. Có khi tôi thầm nghĩ, đời tôi trong cõi vũ trụ vô biên, biến đổi vùn vụt theo từng sát na, thật sự chỉ nằm ở khung cửa sổ, ở bên này và ở bên kia, cách nhau có mấy thước.

Trong một ngày làm việc, đôi mắt cận thị của tôi nhìn màn ảnh của máy điện toán nhiều nhất. Màn ảnh nằm chình ình ngay trước mặt ở trên bàn, muốn tránh cũng không được, chờ tôi bước vào mỗi buổi sáng, bắt đầu một ngày chạy theo gió lốc. Từ màn ảnh dài hai gang tay, tôi có thể lùng kiếm khắp mọi nơi trên trái đất, thu lượm những tin tức cần thiết cho thính giả. Cũng trên màn ảnh quen thuộc ấy, tôi viết những dòng tin, gạn lọc mấy chi tiết, xào nấu với một chút hương vị thích hợp cho người nghe ở phố Little Saigon. Phòng làm việc cũng có hai màn ảnh truyền hình, giúp cho tôi cập nhật tin tức, xem tận mắt những hình ảnh thời sự mà thường là giật gân, chấn động – nhà cháy, bom nổ, bão lụt, động đất, án mạng, cảnh sát rượt kẻ gian trên xa lộ. Nhờ phát minh tân tiến của con người, tôi có thể biết nhiều thông tin, liên lạc đến mọi nơi, nhìn thấy hình ảnh từ khắp chốn có dấu chân của nhân loại mà không cần đi đâu xa, chỉ ngồi trong một phòng chật hẹp, dán mắt vào màn ảnh, dự phần trong ngôi làng hoàn cầu.

Bên cạnh màn ảnh máy điện toán và hai màn ảnh máy truyền hình, khung cửa sổ là nơi tôi thường đưa mắt nhìn, quan sát một cuộc sống gần tôi nhất, nhiều lúc phẳng lặng, đôi ba lần xôn xao, và hầu như không thể chia sẻ với ai như tin tức trên màn truyền hình. Từ ngày tị nạn ở Mỹ hơn 30 năm trước, cửa sổ là nơi tôi thường dành thời giờ tĩnh lặng, tạm quên những bôn ba đời thường đang bủa vây ở chung quanh. Tôi từng nhìn ra khung cửa tại nhà của một gia đình Mỹ bảo trợ gần Pittsburgh, xem mưa tuyết rơi trên những mái nhà thấp thoáng ở xa, phủ lấp một bãi cỏ ở gần đó. Lúc bấy giờ gia đình bảo trợ không muốn cưu mang ba mẹ con tị nạn thêm nữa, không thể giấu những món tiền xã hội, cần bàn giao chúng tôi cho một nhà thờ Tin Lành. Tôi đã nhiều lần ngồi bên cửa sổ, nhìn hoàng hôn thấm dần xuống những xưởng thép sét rỉ ở West Homestead. Từ trên căn cao nhất của một khu chung cư tồi tàn, tôi xem những tia nắng đang cố gắng rọi sáng trên một phố nghèo, tiêu điều sau những đợt suy thoái kinh tế. Đêm xuống, tôi không thể thấy xa hơn, không biết bên kia dãy đồi là một vùng ánh sáng của đô thị. Tiếng ho vẳng lại từ dưới lầu thường giật tôi về thực tại, nhắc tôi biết mẹ đang đi từng bước trên những bậc thang, một tay cầm hộp đựng thức ăn trưa, một tay vịn thành sắt gỗ hoen màu, vừa trở về sau một ca chiều làm việc ở xưởng chế tạo. Trong mấy năm ngắn ở trường Penn State, tôi gồng gánh trách nhiệm của người duy nhất trong gia đình được vào đại học. Bên cạnh bàn học, khung cửa sổ mang đến cho tôi những giây phút êm đềm, thơ mộng như những đồi cỏ, núi rừng chung quanh thung lũng Happy Valley.

Khác với mấy sở làm lúc trước, đài Little Saigon Radio có cửa sổ bên cạnh bàn viết tin của tôi. Tại một địa chỉ cũ của đài ở Santa Ana, cửa sổ của tôi nằm trên tầng lầu thứ nhì, núp bóng một tàn cây. Mỗi khi có những nhân vật quan trọng đến đài, như một ông chính trị gia từ bên Pháp, một nhà báo từ vùng Hoa Thịnh Đốn, hay một cô ca sĩ hàng đầu tại Bolsa, tôi thường có dịp quan sát họ đứng nói chuyện, hút thuốc, trang điểm bên ngoài cửa đài. Ở địa chỉ hiện nay tại Westminster, ngay trong khu Bolsa, tôi cũng có dịp nhìn ngắm thiên hạ mỗi khi có chương trình văn nghệ, hội họp, hay thảo luận gì đó bên cạnh đài. Cửa sổ của tôi nhìn ra bãi đậu xe phía sau những văn phòng.

Khung cửa sổ có dán một lớp nhựa chống nắng. Nhờ lớp nhựa dán kiếng, vào ban ngày, nhất là những lúc nắng gắt, tôi có thể nhìn ngắm thiên hạ ở bên ngoài mà thiên hạ không thể thấy tôi ngồi ở trong phòng. Ngược lại, vào ban đêm người ta có thể thấy hết mọi sự việc ở bên trong, biết tôi đang đánh máy, đọc báo hay bận xem hình bậy bạ trên Internet, trong khi tôi hoàn toàn không biết có ai ở bên ngoài.

Cũng nhờ lớp nhựa chống nắng, thỉnh thoảng tôi có dịp được “rửa mắt” bất đắc dĩ. Cửa sổ nằm bên cạnh hội quán của đài phát thanh. Mỗi khi có hội họp, thảo luận, nhất là nếu có thêm phần văn nghệ, nhiều người thường đứng bên ngoài cửa sổ của tôi, ngắm nghía, trang điểm như đang đứng rọi kiếng ở nhà. Nhờ lớp nhựa màu đen, cửa sổ trở thành một tấm gương cho thiên hạ. Có mấy ông đứng tuổi hoặc mấy cụ cao niên đến đứng trước gương, kéo quần lên, bỏ áo vào quần, kéo giây zipper, sửa ca-vát, vuốt lại mái tóc thật chỉnh tề trước khi bước vào hội quán. Có mấy chàng thanh niên, cũng sờ lại mái tóc dợn cứng chất kem, nghiêng đầu qua bên này, xong lại nghiêng qua bên kia, nhe răng cười hoặc nhếch mép xem thử mình đẹp trai cỡ nào. Tôi từng thấy mấy nam ca sĩ, hài sĩ đứng rọi kiếng. Họ điệu còn hơn con gái, đứng hơi lâu trước cửa sổ. Một anh ca sĩ khá nổi tiếng hiện nay từng gây chú ý cho tôi. Anh cũng vuốt tóc như mấy ông bình thường khác, cắm điếu thuốc chưa châm lửa ở trên môi. Anh dùng môi xoay điếu thuốc, tìm một vị thế mà điếu thuốc sẽ giúp cho mặt anh được “cool” nhất. Anh chàng “mát” và ngầu này đã làm cho tôi mất mấy phút, xao lãng chuyện viết tin, vì anh có một hành động mà tôi cho là anh thường làm ở nhà. Sau khi tìm được nơi cắm điếu thuốc thật ngon lành trên môi, anh nheo mắt như ra vẻ khinh mạn cuộc đời, xong dùng một bàn tay nâng đẩy “chỗ ấy” vài lần như muốn khoe hết phần nam tính của anh. Buổi hôm đó tôi nghe người ta vỗ tay rất lớn, không biết vì anh hát điêu luyện hay vì “chỗ ấy” nhìn “đã” quá xá cỡ thợ mộc.

Đối với tôi, “đã” nhất là thấy mấy bà, mấy cô đứng trang điểm, sửa lại mấy đường cong một cách tự nhiên, không hề biết tôi đang ngồi trố mắt ở bên kia lớp kiếng. Mấy phụ nữ thường đưa hai tay lên thắt lưng, xoay lại quần lót cho ngay ngắn hơn ở bên trong quần hoặc trong váy. Có bà thò tay xuống ngực, kéo dại dây xú-cheng cho bớt xệ xuống dưới. Cũng có bà đưa bàn tay đẩy ép hai bên ngực, giúp hai ngọn đồi được vào khuôn cao như núi... giả. Thường thì các cô đánh thêm phấn trên má, kẽ đậm hơn đôi chân mày, thoa thêm chút son trên môi. Mỗi khi cần thoa son trên môi, họ đưa mặt sát vào kiếng để nhìn rõ hơn nét son, khiến cho tôi giật mình và “đành” trở lại bản tin đang viết dở dang. Tôi sợ họ nhìn quá kỹ vào bên trong, thấy bóng dáng của một “thằng cha” kỳ cục, đeo kính cận đang nhìn chăm chăm vào họ. Cũng có phụ nữ đứng châm thuốc hút, đeo kính mát, dựa lưng vào thành vịn tay, mơ màng xem khói thuốc và khuôn mặt của họ phản chiếu trên kiếng. Tuy ngồi bên cạnh cửa sổ này hơn năm năm, tôi chưa thấy một nữ ca sĩ nào “chỉnh đốn hàng ngũ” ở bên dưới như chàng ca sĩ nọ.

Bình thường bãi đậu xe chỉ có... xe. Mấy nhân viên đến mau chóng, xách cặp táp trong tay hay đeo bóp trên vai, lẩn biến vào các văn phòng. Họ cũng rời gấp rút, lái xe đi mất sau mấy giờ làm việc. Cũng có lần tôi thấy một cặp nam nữ trung niên da trắng đến đây vào giờ ăn trưa. Mỗi người lái một chiếc xe. Họ đậu bên cạnh nhau trong một góc riêng, bước ra ngoài, ôm hôn trước khi nói chuyện với nhau. Buổi gặp gỡ kéo dài chừng nửa tiếng. Họ hôn nhau một lần nữa trước khi trở về trên xe riêng. Cặp này hẹn hò được hai tuần thì không thấy trở lại. Có lẽ họ tìm được một nơi khác trong giờ ăn trưa. Mấy nam nhân viên trong đài của tôi thường rủ nhau ra ngoài bãi đậu, tụ tập hút thuốc, gật gù, cười ha hả, tán dóc chừng mười lăm phút dưới bóng cây, xong trở vào bàn làm việc. Mấy nữ nhân viên ít khi rủ rê ra ngoài. Họ ra riêng từng người, để nói chuyện điện thoại, hoặc le te đi tới đi lui như tập thể dục, giúp cho mấy phần quan trọng trên cơ thể được rắn chắc, nở nang hơn.

Mặc dù được chiêm ngưỡng người lạ, tôi ít ngóng cổ chờ xem một ai đó ở bên ngoài. Bầu trời xanh biếc không một áng mây của California, những tàn cây xanh lá bên kia khung kiếng mới thật sự cho tôi những giây phút lắng đọng, càng yên bình hơn trong những buổi sáng vắng xe như trong ngày lễ, ít người đến sở làm. Bãi đậu phía sau dài chừng một trăm thước, rộng gấp đôi sân banh tennis. Chung quanh tường người ta trồng mấy cây bottlebrush – xuất phát từ bên Úc, lá có mùi khuynh diệp với chùm bông đỏ như cọ lau chai – tên tiếng Anh của cây. Ở giữa sân là hai cây xanh xum xuê, cần được cắt tỉa ở trên tàn. Giữa những bản tin vừa viết xong, tôi thường dành vài giây nhìn ra bãi sau, tìm bóng cây bên trên những mui xe, lấy lại tâm trí, chuẩn bị cho bản tin kế tiếp.

Mấy năm trước, vào một sáng sớm mùa thu, khung cảnh bên kia cửa kiếng của tôi bỗng có chút thay đổi. Một người đàn ông đến đậu xe ngủ suốt đêm. Đến sáng hôm sau ông lái đi mất trước khi bãi có nhiều xe. Trong khoảng thời gian đó tôi đạp xe đến sở làm mỗi ngày, không dùng xe hơi như bình thường. Tôi đạp xe đến sở trước 7 giờ sáng, ít khi thấy một chiếc xe nào ở bãi sau. Thế nên khi thấy xe lạ đậu mỗi buổi sáng sát bức tường, trong ngày thứ nhì hoặc thứ ba gì đó, tôi bắt đầu chú ý. Vào trong phòng làm việc, tôi liền kéo màn nhìn ra ngoài. Giữa những lúc xem tin trên mạng điện toán, tôi quay đầu quan sát chiếc Honda màu xám đen bên kia cửa sổ. Chiếc xe này cũ, chắc đời 86. Tôi nghĩ vậy vì tôi có một chiếc như thế. Chiếc Honda của người đàn ông trông tệ hơn, chất đầy đồ ở trong xe. Ông đắp mền ngủ ở ghế sau. Khoảng nửa tiếng từ lúc tôi đến sở, ông thức dậy, bước ra ngoài tập thể dục, vuốt lại tóc, thay chiếc áo trên người, xong lái xe đi nơi khác.

Tôi đoán ông ta là người Việt Nam, trẻ hơn tôi vài tuổi. Có lẽ ông sa cơ thất thế, đang trong tình trạng “giữa hai việc làm” theo lối nói lịch sự của người Mỹ, nên cần ngủ ở trong xe, chờ một dịp khá hơn. Ở chốn Bolsa phồn thịnh này, người Việt vô gia cư cũng nhiều. Mỗi buổi sáng lái xe qua phố, tôi vẫn thấy dăm ba người Việt da đen sậm, tóc tai bù xù, vừa đi vừa nói một mình, có khi đẩy một xe chất đầy đồ cũ, đàn ông cũng như đàn bà. Họ chui ra từ trong những bụi cây hoặc từ một góc tường kín gió, đằng sau những nhà hàng tỏa mùi xào nấu mạnh vô cùng, khiến kẻ no ăn còn thèm muốn, huống hồ người đói bụng mấy ngày không có một miếng cơm lót lòng. Tôi không nghĩ người đàn ông ngủ trong xe sắp rơi xuống hoàn cảnh ngủ bờ ngủ bụi. Có lẽ ông đang phấn đấu giữa một trận chiến khá gay go, mà nếu cố thêm một chút dịp may sẽ đến với ông. Tôi tin như vậy vì tôi từng ngủ trong xe như ông, cũng sống còn trong một chiếc xe chất quần áo, sách vở và giấy tờ tùy thân.

Vào cuối thập niên 1980, tôi từng rơi vào tình trạng “giữa hai việc làm” trong mấy tháng. Lúc bấy giờ tôi lái xe lên Sacramento, hy vọng tìm được việc tại sở xã hội. Ban ngày tôi lái xe đến các văn phòng hạt khắp miền bắc California, điền đơn chờ ngày thi vào sở xã hội. Ban đêm tôi lái xe về đường Stockton Boulevard, nơi mà phố Việt đang hình thành trong vùng Sacramento. Gần phố Việt, tiền ăn cũng rẻ. Một ổ bánh mì có thể cắt làm hai, ăn được một ngày. Mì gói rẻ hơn nhưng thiếu nước nóng. Với không tới một ngàn đồng trong túi, tôi cần kiếm chỗ ngủ qua đêm để tiết kiệm tiền thuê phòng ngủ, cầm cự chừng hai hoặc ba tháng nếu cần. Tìm chỗ ngủ mỗi đêm cũng khó. Ngủ ở công viên thường gặp mấy nhóm thanh niên. Ngủ trong khu gia cư dễ gây chú ý với mấy người trong xóm. Ngủ trong bãi đậu xe của thương xá nghe hợp lý hơn, ban đầu tôi tưởng vậy. Đêm xuống chưa thể ngủ liền, phải đợi đến gần nửa đêm thì phố xá mới yên tịnh, bớt tiếng xe để có thể nhắm mắt mấy tiếng đồng hồ.

Tôi ngủ ở dăm ba địa điểm chung quanh vùng Sacramento, kể cả một nơi gần nghĩa trang, và một lần bị cảnh sát đến “hỏi thăm sức khỏe” trong bãi đậu của chợ Target. Sau gần một tiếng đồng hồ xem số xe, xét thẻ căn cước, dò hỏi lý lịch và bắt đợi trong xe, cuối cùng mấy ông cảnh sát khuyên tôi thuê khách sạn, đừng ngủ trong bãi đậu nữa. Tôi cũng ừ, gật đầu đồng ý cho qua chuyện. Chưa có việc làm, đâu dám phí tiền thuê thuê khách sạn. Tôi tiếp tục ngủ xe, tìm được một chỗ kín đáo đằng sau một trung tâm y khoa được mấy đêm. Khi nắng ban mai bắt đầu chiếu sáng trên các ngọn cây, tôi bò dậy và mau chóng nổ máy xe “dọt” đi nơi khác. Sau những đêm phập phồng như vậy, cuối cùng tôi đành lấy nửa phần tiền giấu trong túi và thuê một phòng chung cư rẻ nhất mà tôi tìm được trên báo. Tôi ký giấy thuê một tháng, sống chung với mấy người Lào trong một khu phố gần sông Sacramento. Rất may, gần hết tháng thì sở xã hội tại Hạt Sutter “mời” tôi đến làm.

Mỗi buổi sáng quan sát người đàn ông bước ra khỏi xe và tập thể dục, tôi thầm phục sự chịu đựng bền bỉ của ông trong thân hình gầy yếu. Có một lần tôi thấy ông vội vã lái xe đi nơi khác sau khi có vài nhân viên rời xe, đứng nói chuyện và nhìn về hướng của ông. Chiếc Honda xám biến mất vài ngày, sau lại xuất hiện. Từ tháng 10 qua tháng 11, trời bắt đầu lạnh hơn. Đạp xe mỗi buổi sáng, tôi bị lạnh cóng hai bàn tay cho dù cơ thể được ấm hơn nhờ mấy lớp áo. Phóng xe ngang chiếc Honda, tôi thấy người đàn ông nằm co ro trong mền, vừa thương hại mà vừa không biết phải giúp như thế nào.

Trong khoảng thời gian đó đài Little Saigon Radio vừa tuyển một nữ xướng ngôn viên. Cô ta có giọng nói khỏe, tươi vui, biết chơi đàn guitar, biết hát tình ca, có “ngoại hình” rất đáng sợ cho mấy ông chồng chung thủy, và hình như cô cũng có nhiều tiền. Tôi đoán vậy. Lương xướng ngôn viên của đài phát thanh không là bao nhiêu. Vậy mà sáng nào cô cũng mua thức ăn mang vào sở cho mọi người. Sáng nào cũng vậy. Khi thì mấy ổ bánh mì, khi thì mấy gói xôi, bánh patechaud, bánh croissant, nem, trái cây và có khi mấy tô phở, mọi thứ bày trên một mặt bàn như bày hàng, với đầy đủ khăn giấy và muỗng nĩa. Mấy người làm ca sáng đều hưởng ứng lời mời của cô. Riêng tôi, vì không thích ăn vặt với lại có mang theo thức ăn, ngày nào tôi cũng từ chối, khiến có lúc cô giận, cho rằng tôi chê cô ấy chứ không phải chê thức ăn. Có lần tôi tính nói đùa rằng tôi chỉ thích ăn điểm tâm với tôm hùm, nhưng lại thôi không dám nói, sợ cô ta mua thật thì phiền chết. Sau một buổi sáng nhìn người đàn ông thức giấc và tập thể dục như mọi lần, tôi liền nảy ý định giúp, không thể làm ngơ như không biết có ông ở bên kia khung cửa. Buổi sáng hôm sau tôi mau chóng rời bàn làm việc khi biết cô bạn đồng nghiệp đang có mặt ở “gian hàng” ăn sáng của cô.

Thấy tôi cầm một gói xôi gấc, cô vui vẻ hẳn, nói ngay, “Anh Đạt hôm nay không chê đồ ăn của em. Đổi ý rồi phải không? Cầm luôn hai gói đi, ăn cho no.”

Tôi cười mỉm chi, không biết nói sao trong khi mọi người đang nhìn tôi cầm gói xôi ở trong tay. “Bữa nay cũng hơi đói bụng. Cám ơn,” tôi chỉ biết nói vậy và khen xôi trông rất ngon. Xong tôi lĩnh về bàn, chờ gian hàng bớt khách, rồi lại rời phòng và phóng ra ngoài bãi sau. Tôi mừng khi thấy người đàn ông chưa thức giấc, nhanh chân chạy đến gần và đặt gói xôi trên mui xe. Vừa trở lại bàn làm việc tôi thấy ông bước ra ngoài, vươn vai như mọi lần. Khi thấy gói xôi ông liền cầm lấy, ngó dáo dác chung quanh bãi đậu. Ông nắn gói xôi, để xôi vào bên trong xe gần tay lái. Ông nhìn quanh thêm vài giây, khiến tôi phải quay lưng ghế trước khi ánh mắt của ông hướng về cửa sổ của tôi. Mấy phút sau tôi nghe tiếng nổ của máy xe. Kể từ hôm đó tôi thấy hình như ông rời bãi đậu sớm hơn, không cho tôi có dịp lấy cho ông bánh mì, trái cây, hoặc những món ăn mà cô bạn mang vào cho mọi người.

Một buổi chiều tôi ở lại sở làm lâu hơn bình thường. Đến khi ra ngoài đạp xe về nhà thì trời đã tối, lạnh buốt như một chiều mùa đông mặc dù mới gần ngày lễ Tạ Ơn, chưa hết mùa thu. Chiều hôm ấy người đàn ông đã đậu chiếc Honda gần bức tường, chuẩn bị cho một đêm ngủ trong bãi tối om. Tôi đeo túi trên lưng, đạp xe đến gần mới nhận ra chiếc xe. Ông đang đứng bên ngoài với hai tay choàng thêm áo lạnh trùm xuống đầu. Tôi nhìn ông đúng lúc chiếc áo vừa được kéo xuống, cho chúng tôi chạm mặt cách nhau vài thước. Chúng tôi không nói gì trong mấy giây nhìn mắt nhau. Mắt ông sáng, không yếu như thân hình tiều tụy, xạm nắng. Thấy tôi đẩy gọng kiếng trên sóng mũi và mỉm cười, ông cũng mỉm cười. Xong tôi đưa tay lên chào, như muốn chúc ông một đêm ngủ bình an.

Đêm ấy là một đêm trong vắt, có thể thấy rõ những vì sao cách xa trái đất hàng tỉ năm ánh sáng. Đối với những ai sống ở miền hàn đới, một đêm trong, không một áng mây giữa mùa đông như vậy là một đêm kinh khiếp, hơi lạnh từ trên không trung có thể xuyên thấu qua mấy bức tường, ăn sâu vào xương tủy bên trong chăn ấm. Tuy Bolsa không nằm ở miền bắc, một đêm trong vắt cũng lạnh buốt, lạnh xuyên qua lớp sắt bọc xe. Những ai từng ngủ trong xe, từng bị khí lạnh cắn mấy ngón chân, bị cào xé những lớp da hở bên ngoài tấm mền, sẽ hiểu cái lạnh của một đêm không nhà, không nơi nương tựa. Người đàn ông đã ngủ thêm nhiều đêm như vậy, đến gần lễ Giáng Sinh thì ông biến mất. Ban đầu tôi ngóng chờ. Sau tôi hy vọng ông không trở lại bãi đậu xe vì ông tìm được một việc làm, một nơi nương tựa, một mái ấm gia đình. Đôi lúc tôi mong gặp lại người đàn ông đó, chỉ muốn biết chuyện gì đã xảy ra cho ông trong mấy năm qua.

Khung cửa sổ, đôi mắt của tâm hồn tôi. Đời tôi có lúc tưởng như tù hãm, mà không thật sự như vậy. Có lẽ tôi may mắn, còn có thể nhìn ra tâm hồn qua khung cửa của đời mình.

Sinh Tử


hàn song tường


Khó khăn lắm, tôi mới làm cho con bé chóng mặt, xây sẩm ngã lăn đùng dưới chân Phong, khẩu súng nó cầm. Rớt. Rồi văng tuốt vào bụi cây, cả nhà không ai biết nó đến đây để giết Phong. Bà mẹ Phong rên rỉ, khi đưa đứa cháu gái vào nhà, con Trinh làm sao thế, bà hỏi con trai, nhưng Phong không thể nói gì với mẹ cả.Nó còn sợ, còn bàng hoàng, làm sao Phong dám kể ra, Trinh đến nhà để giết nó về vụ nó tránh mặt con bé mấy tháng nay. Bà cô cởi áo đứa cháu gái, làn da trắng muốt, được bôi đầy dầu gió. Trinh rên rỉ những lời rất nhỏ, khó hiểu. Bà nhìn đứa cháu ruột khổ tâm, bà chợt lo âu, bà biết thỉnh thoảng trong giòng họ của bà, vẫn có những người cùng thế hệ, yêu thương nhau, cái giòng họ đã 800 trăm năm qua vẫn không ổn, cái dâm cũng di truyền như cái loạn, bà bỗng rùng mình sợ hãi, bà bảo Phong đi vào phòng, rồi mặc lại cái áo cho cháu gái. Khi Trinh đứng dậy uống viên thuốc cảm từ tay bà cô, rồi nhìn xung quanh phòng, nó không thấy Phong nữa, đôi mắt có lửa, bỗng vụt tắt để những giọt nước mắt lăn xuống như mưa...Trinh đã đi về lâu rồi, chiều cũng xuống, gió không có hôm nay, Phong ra sân tìm kiếm khẩu súng. Nó lục lọi khắp cùng, tôi bật cười, làm sao Phong có thể thấy được, khi tôi đã đẩy mạnh nó xuống một ống cống. Không khí càng lúc càng oi bức, Phong thở mệt nhọc, rồi trở vào nhà, mặt đầy vẻ thất vọng. Bà mẹ ở dưới bếp cố lòng tỉnh trí hỏi con, Phong ơi, bao giờ con đi học lại, tháng sau mẹ ạ, con à ở chung với bạn học, cũng cẩn thận nghe con, dạ vâng. Câu chuyện mẹ con họ chấm dứt nhanh. Vụ con Trinh đến nhà chơi, bị trúng gió khiến hai mẹ con vẫn còn khó chịu, cô thương cháu, anh sợ em. Những ngày cuối tuần trôi nhanh qua. Phong lặng lẽ gậm nhấm sự tai họa khi gian díu với Trinh, quả thật nó đang sợ, rồi nó lì ra ngồi xem, hết phim kia đến phim nọ, từ Vanilla Sky, Collateral Damage đến Moulin Rouge...phim mới cũ lẫn lộn, cả đống phim đống tài tử chẳng hàn gắn được tấm lòng đang rách nát của nó, tôi đứng ngay bên cạnh Phong, nhìn ngắm khuôn mặt, đẹp đẽ, rất đàn ông ấy thở dài...tôi chết cũng được 15 năm thì phải, lúc chết còn trẻ lắm mới 18 tuổi, sau vài tháng mẹ tôi khóc chán chê, thương nhớ tôi khốn khổ, rồi câm lặng, tôi sợ nhất câu nói thầm của mẹ (con ơi, sao con bỏ mẹ đi sớm vậy, sao con bỏ mẹ một mình) lúc ấy mẹ có biết, tôi đau khổ gấp vạn lần không. Vài năm sau mẹ quyết định bán nhà,, về ở với anh chị tôi, tận miền bắc, tôi đã không đi theo. Có gì đâu, tôi còn lưu luyến chốn này nhất là hàng đá cuội, chính tay tôi mua trải đầy tràn lối đi, con gái 17 khỏe như voi, tôi bê gạch, bê đá, làm ra cái sân gạch đỏ cho mẹ, cái lối đi đá sỏi cho tôi, thế mà, một ngày, tôi lăn đùng ra chết, bác sĩ bảo bệnh tim mọc rễ, chưa yêu ai, mà trái tim rễ mọc tùm lum. Mẹ gào lên kinh hoàng, linh hồn tôi run lên thương cảm, bác sĩ dè dặt trả lời, bệnh này chưa có tên. Anh tôi lẩm bẩm hỏi, chưa được đặt tên à. Đúng, chưa có tên, anh tôi lúc ấy chỉ hơn tôi hai tuổi, ôm xác em gái, khóc lên rất tội. Bây giờ anh tôi đã có vợ con, đi làm và trông nom mẹ tôi. Ngày gia đình tôi dọn đi, mẹ không ngờ tôi ở lại nhà này, ngày trước tôi hay trêu mẹ, mẹ chẳng biết gì, ngoài nuôi con, chiều con, giờ thì khóc con, nhiều khi mẹ nhớ tôi, mẹ gọi tên tôi đến sốt ruột, lúc nhìn mẹ thế, tôi khổ lắm, nên tôi không theo mẹ cũng phải...Người chủ mới nhà này, hai vợ chồng cũng có hai người con, như mẹ tôi vậy, người con trai lớn tên Phong, đi học xa nên phải thuê phòng chung với bạn bè, mùa hè, hay lễ tết nó mới về nhà, cô gái nhỏ xinh lắm, mới 15 tuổi, cô có làn da trắng, cao ráo như một thiếu nữ ngoại quốc, cô bị mẹ bắt học đàn, cô rất ghét đàn, cô trốn học mãi về sau mẹ cô không bắt nữa, cái đàn dương cầm để ở góc nhà, phủ đầy bụi, nó chỉ được lau khi có khách...Sáng chủ nhật Phong dậy sớm hỏi em gái, Trinh có gọi em không? Kim Anh, em nghĩ nó sao không? Sao là sao.Kim Anh hỏi lại Phong lần nữa, sao là sao? Đạo này ông vớ vẩn thật, nó không có chết, chỉ bịa cảm thôi mà, Phong im và hiểu em gái mình chẳng biết gì cả...Sáng, cả nhà chạy rầm rầm từ trên lầu xuống dưới, tiếng động mạnh làm tôi giật mình, tôi ngại lẩn mình trốn vào bên cạnh tủ sách, một hồi tôi mới biết, ông bà chủ nhà đi đón cô em vợ từ Pháp sang chơi, từ phi trường mới về đến, cả họ hàng ở đâu đã ào ào một lúc là có đủ mặt cả. Trâm tên người em gái đứng đếm từng đứa cháu, con trinh ngồi ở ghế, nét buồn còn vương trên khuôn mặt, trông nó lạ, kiêu kỳ hơn. Tôi hiểu Trinh đến đây là để tìm Phong, nó muốn nhìn Phong, nó muốn làm một cú bạo động, làm khốn khổ Phong trước khi nó bỏ đi nhưng nó bỗng bỏ cuộc, ai biết đâu. Ngày hôm sau, cả nhà đi chơi xa, chỉ còn Phong một mình, hắn cởi trần tập tạ. Tôi ngồi xem mải miết, dĩ nhiên hắn có thân thể của một tài tử, và nhiều cái khác rất được, y hệt nhân vật trong truyện của một nhà văn tả, tôi vừa đọc vài ngày qua, còn nhớ, ôi, từ truyện sang người, hình như tôi đang bị cú ái tình, quật nhanh như sét đánh, bỏ mẹ, ma không thể yêu người, nếu bà chúa ma Segal biết được, tôi sẽ bị giết lần thứ hai ngay, tôi uất ức gục mặt lên thành ghế, 15 năm qua nhanh, tôi chết đã lâu rồi, tất cả kỷ niệm chỉ là dĩ vãng, trong ký ức người thân, họ đã quên tôi, trừ mẹ, hòn máu của mẹ rơi mất hút không tăm tích, nhưng lòng mẹ tôi, còn vết thương mang nặng, đẻ đau. Tôi gọi, mẹ ơi, con gái mẹ đây, tôi nhớ những lòi âu yếm của mẹ. Khi nhớ mẹ, nước mắt tôi tuôn như suối, cũng giống mẹ ngày giỗ tôi, nhìn vào mắt mẹ dâng tràn nước mắt, tôi lại nằm liệt cả tuần, người nhỏ như hạt bụi, chẳng lấp la lấp lánh chút nào cả, cái linh hồn tôi nó khổ, nó bịnh, không bút nào tả xiết. Vì thế ngày giỗ tôi năm nay, tôi đã không về nhà, dù mùi nhang mẹ đốt gọi tôi, nó lẩn quẩn, rồi bay tuốt vào mũi tôi mà thúc, tôi cũng không về. Thôi mẹ cố quên con...Phong dậy sớm, ca hát, tôi không muốn nó hát, nên lấy tay chận vào mũi Phong, khiến nó khó thở, hắt hơi liên tiếp, rồi ngưng hát ca, tôi gật gù thích thú, tôi nói vào tai nó, là chính tôi đã cứu nó thoát chết, tôi đã sàm cho Trinh không cầm nổi một khẩu súng. Nhưg Phong không nghe được lời gì của tôi cả. Mấy hôm nay bố mẹ Phong có nói với con rất nhiều về tình yêu trai gái, họ là người văn minh. Tuy nhiên họ không biết, người con trai của họ vừa chấm dứt xong chuyện vụng trộm với con em họ, không phải Phong không còn yêu Trinh, nhưng với bản tánh cứng cỏi, nó không muốn cứ phải dấu diếm, nó nói thẳng với Trinh, chuyện đến đó đủ rồi, nó không thích gian dối, khi ngồi xem lại những tấm ảnh gia đình, những tấm hai đứa chụp chung ở cổng trường học UT, Trinh với mái tóc xõa ngang vai, khuôn mặt của bà thánh, với dáng vẻ ấy nó chỉ tìm được ở Trinh. Tôi nằm lăn lên những tấm ảnh chọc phá, cào xé, thế mà chẳng có cái gì động đậy, trầy vi tróc vẩy. Ông thần trên bàn thờ chõ miệng, nhẹ tay thôi cô tiên, cô đang ở thời gian tốt lành. Tôi đập tay nhìn ông thách đố, ông thần cười, tôi nhăn mặt khi thấy Phong cầm ảnh con em họ, hôn lên cái khuôn mặt có duyên đó. Muốn khóc, tôi nhắm mắt, lúc chết tôi còn trẻ quá, nên chưa rành trò trai gái, với lại loài ma cũng có luật lệ, phép tắc chẳng kém gì trần gian, như không được nhìn nam nữ yêu nhau, không được sờ mó gợi dục người sống. Có vài cô, chú ma tôi biết, lỡ phạm tà dâm, bị giết thê thảm lắm, hoặc tối thiểu cũng bị giam cầm vào chỗ đen tối, chẳng bao giờ được đầu thai, chứ đừng nói lên thiên đàng...Phong chải đầu, huýt sáo, nó sắp đi chơi. Tôi đứng ở ngưỡng cử nhìn theo xe Phong đi khuất, rồi mới vào nhà, không biết sao ông thần nhà này, dễ dãi cho tôi trú ngụ. Chính ra tôi không được ở lại, ông cứ khen tôi hiền, ông gọi cô tiên nhỏ có đôi cánh xanh, lâu lâu tôi biến ra như vậy cho ông nhìn, khi ấy cả nhà lấp loáng mầu xanh, bà chủ nói hoa mắt, ông cười với tôi, rồi lên bàn thờ ngồi, cạnh chúa Giêsu, tôi đọc chúa Giêsu đánh đu, ông mắng không được nói thế, Chúa phạt, tôi bướng nói ở nhà này lâu, có thấy Chúa về đâu, ông nói các ngài bận, Phật Chúa gì cũng bận, thăm cả thế gian sao được. Ừ, tôi hiểu rồi, xin Chúa tha lỗi cho con, con không dám chọc ghẹo Chúa nữa, ông thần cười gật gù, cô tiên ngoan. Cả tuần nay từ hôm cô Trâm sang Mỹ chơi, lúc nào trong nhà cũng ồn ào, họ ăn uống tiệc tùng, Con Trinh lấy cớ ở lại nhà Phong để ngủ, tâm tình với cô Trâm, tôi ghen lắm, bỗng dưng tôi phải theo sát nó rình mò tối nay, căn phòng của Phong nằm sát phòng tắm, Trinh chỉ cần vài bước là lọt vào phòng ngủ Phong ngay, tôi nghe tiếng Phong thật nhỏ, và tôi phải đi ra, khi Trinh đứng tay lau nước mắt, tôi bay đậu lên cánh hoa lan mới nở, lòng rũ buồn, nhưng cũng may chẳng bao lâu, Trinh ra ngồi ngoài phòng khách rồi đòi về nhà, cả nhà dỗ mãi nó cũng nhất định về. Cô Trâm hỏi, con bảo có nhiều chuyện kể với cô lắm mà. Không, cháu chỉ nói thế, giờ cháu đã quên hết, rồi nó bước ra cửa, lúc ấy đã 12 giờ đêm...Bà Segal, lãnh tụ loài ma chết trẻ, cho chúng tôi biết, tất cả sẽ tụ tập ở vùng biển vào hôm giao thừa. Chiều thẩm tối, tôi mặc cái váy giống y hệt của cô đào người Úc vừa được giải Oscar, tay cầm bó hoa trắng, tôi bay về phía mặt trời lặn, để đón một người bạn, hắn chết sau tôi vài năm, nhưng hắn luôn bảo hắn muốn sống lại, và cũng như tôi hắn được bà Segal che chở, bà Segal nói đến bà, tôi cũng xin sơ lược một chút về bà, bà có nhan sắc tự nhiên, chứ không phải do biến hóa mà ra, bà vốn là người tầu lai Mỹ, chết vì bị đầu độc lúc mới 25 tuổi, vì tranh chấp gia tài gì đó, bà hết oan ức, còn ham sống, nên bà đứng ra giúp đỡ những người chết trẻ, còn muốn lảng vảng ở trần gian, nghe nói khi được làm lãnh tụ của ma, bà phải tranh giành với cả trăm người khác, sau bà thắng, vì bà cố gắng, và lì, từ đó bà đứng lo cho thế giới bí mật này cả gần trăm năm rồi, bà chỉ dẫn cho chúng tôi làm việc, chỉ dẫn chúng tôi cách sinh hoạt mới, để không uổng phí những linh hồn trẻ trung của chúng tôi, có những người mới chết còn bàng hoàng thù hận, đau thương, bà sai chúng tôi đến bên an ủi, cho họ biết, cái xác chỉ là đồ bỏ, ví như cái xe hư hại nặng không thể sửa chữa được, vậy dẹp, tiếc làm gì, còn thù hận nếu có, từ từ chúng ta trả, sẽ lấy lại đủ cả, với những lời hứa chờ thời của bà, phần đông kẻ đòi nợ, chưa kịp đòi, thì kẻ thù ở trần gian lăn quay ra chết, thế là huề, vui vẻ cả làng, quả thật mới bước vào thế giới vô hình này, chua ai rõ, một năm ở cõi trần có thể chỉ bằng một ngày ở cõi âm, không phải Chúa, Phật gì đặt ra như thế, nhưng vì người chết không có xác để già, hoặc họ muốn biến họ, thế nào cũng được, nên họ quên ngày tháng là thường, cũng nhờ vậy mà vụ bầy mưu trả thù, quá hạn giao kèo, như tháng trước bà Segal bằng lòng cho cả lũ cô hồn theo thằng Albert đến nhà thằng giết nó, đoạt của để trả thù, thì mới hay thằng giết người treo cổ chết mẹ nó hồi nào trong khám tối, linh hồn kẻ ác, tan hoang ở đâu không biết, thằng Albert hậm hực, lấy chân đạp vào cổng sắt nhà tù, ầm ầm lên như bão, lão cai ngục phải chửi thề vì cánh cổng mới sửa mà bị long ốc, gió máy gì tợn thế, cả lũ chúng tôi ôm nhau cười, rồi kéo Albert bỏ đi...M bạn tôi đang đứng chờ tôi ở cổng nghĩa trang, tay anh cầm bó hoa tulip mầu đỏ. M than, tôi chờ cô lâu quá. Tôi cười trừ. Cái vụ luôn cho bạn phải chờ, tôi quen từ lúc còn sống, khó bỏ quá. Tôi cầm tay bạn cùng lướt nhanh về vùng biển. M hỏi, em có thích nước không. Tôi gật đầu, trao hoa tặng M. Hai bó hoa trao đổi, chúng tôi tung lên trời. Rồi biến mất hút. M khen biển đẹp. Khi chúng tôi đã tụ tập khá đủ, mặt biển đổi mầu đen, rờn rợn tiếng hú. Trong chiếc tầu ven biển đã đềy đủ bạn bè tụ tập, bà Segal đã đến từ lâu, cả bọn đồng thanh hát bài We are family. Vui quá cỡ. Mấy người từ xa đến cũng đứng ra tự giới thiệu. Một cô đến từ Hawaii, đứng biểu diễn một điệu Hula. Tôi hỏi tại sao lại về vùng nhà quê này, biển ở đây đâu có đẹp bằng Hawaii, nó nói đúng vậy, ở đây xấu hơn nhiều, nhưng tôi về đây mới mấy tháng đã muốn ở lại. Sao vậy, ma ở Hawaii không biết điều, ma cũ bắt nạt ma mới, sai bảo tụi tôi suốt, còn các chiến sĩ hải quân chết từ hồi Nhật thả bom, một số chẳng muốn siêu thoát, hoặc đi đâu, lâu lâu chơi trò, lùng tìm chân tay, thi thể của mình, rồi chửi nhau loạnxạ, còn ông W.T. Oneal vẫn còn khóc vì tiếc đời, nhớ vợ, ông ấy là người chết ngay với loạt đạn đầu tiên của chiếc máy bay Nhật, đâm xuống tự vận ở Trân Châu Cảng. Tôi cay mắt, muốn khóc. M bảo thôi đừng kể chuyện buồn, đầu năm mà. Tôi ngả đầu lên vai M. Sóng biển vỗ miên man lên thành tầu. Chúng tôi đang ở trên chiếc tầu thật lớn, bỏ hoang. Lũ ma quỉ hò hét cùng biển cả, gió thổi vù vù, vài loài cá thỉnh thoảng phóng thẳng lên mặt nước, vẩy chúng lấp lánh ngân tinh chiếu sáng loáng. Tôi nhìn thấy một ngư nữ nhỏ cỡ đứa bé gái 5 tuổi, thả người, đưa tay vẫy với đồng loại, nhóm ngư nữ này đừng hòng người trần mà thấy được, họ tinh mắt lắm, động một tí họ trốn lẹ, sức bơi còn nhanh hơn hỏa tiễn, hóa ra sách vở con người viết ra cũng khá đúng, tóc họ dài, da họ gần xanh như biển, nghe đồn ngư phủ nào tình cờ trông thấy họ, phải đưa mắt nhìn ngay sang chỗ khác, và im lặng , nếu mở một lời về họ, tức thì tầu thuyền bị chìm ngay, bởi thế người đi biển về già mới dám hé môi, mà có kẻ chưa kịp hé lời đã bị câm điếc. Dĩ nhiên họ không nói tiếng người, nhưng đôi mắt là quyền uy tối thượng, ánh mắt có thể chọc thủng màn đêm...Quá nửa đêm sau buổi hoan ca, nhẩy múa, chúng tôi chào tạm biệt ra về. M hỏi tôi có về ngôi mộ của tôi không, tôi lắc đầu. Bà Segal nói, tôi phải về thăm viếng vài lần. Tôi lại khất khi cô Suzan, một cô đĩ bị chết vì thằng khách bạo dâm, với dáng vẻ thật thơ ngây nhưng hồi trước, miệng cô là một pho truyện tục và đầy ngôn ngữ đầu đường. Cô chận tôi lại ở cửa, ê nhỏ Á đông, mày chưa đi đầu thai sao, chưa muốn, còn cô, tao muốn nhưng vừa rồi khám phá, tao chắc chắn đầu thai làm con bà đĩ, nên tao sợ lại bị mẹ đem bán như kiếp trước, nên tao khất ở lại đây, tổ mẹ, tao tu thân rồi mà, bao năm giúp đỡ mọi người, hứa không chửi tục, bỏ nói chuyện bậy vậy mà lại bắt tao làm con bà đĩ hạng chót, thật là không công bằng, chẳng lẽ tao bị mấy kiếp bán trôn, tao thề thà tan hồn, mất vía chứ đừng hòng tao làm con bà ta. Tôi hỏi, ai cho cô biết chuyện này. Thằng quỉ méo miệng, chuyên dẫn kẻ đầu thai hạng chót, hở chuyện cho tao nghe. Tôi sợ hãi, thôi cô giữ kín, lỡ bà Segal mà biết, cô không thoát mà thằng miệng méo khó yên. Ừ, tao chỉ than vậy, mẹ, thật là bất công, chưa phải bán thân nên chưa biết nó tủi nhục thế nào, thằng cùi, thằng lở nó cũng nằm trên người mình, nó sả mùi hôi như chuột cống. Mày nói bà Segal hộ tao, kiếp nào tao cũng làm, trừ kiếp làm đĩ, và làm con ông bà đĩ. M. bịt miệng cô an ủi, đừng lo, chúng tôi sẽ giúp cô. Khi chúng tôi bỏ đi, cô Suzan vẫn dậm chân đùng đùng xuống nước, nước bắn trắng xóa, lũ cá con ngã chúi từng loạt. M than thế là thêm một năm không xác. M bỗng buồn như muốn khóc. Tôi khuyên anh về thăm gia đình, sắp đến tết Việt nam rồi. Anh lắc đầu, thôi để họ yên, anh chỉ muốn đi chùa ngày tết. Tôi hứa sẽ đi với anh. Anh vẫn còn tiếc đời, anh hay kể, một tay anh đỡ bao đứa bé ra đời, có vài đứa sinh ra không còn sống, thế mà anh cứ ngồi hô hấp nắn chân, nắn tay mà nó dần sống lại, đến phiên anh lăn quay, chẳng có ai hô hấp. Một bác sĩ mà ngã ra chết thản nhiên, cả hai ngày trong nhà, mới có người biết, thương thay. Dạo này M bảo, anh thèm một thân thể con người, thân thể quí giá biết bao, mắt, mũi, ngực...cái gì cũng đẹp, còn chúng ta, cái hồn lãng đãng như mây khói này, chẳng có gì là tận cùng, anh bật khóc ở cổng nghĩa trang. Tôi co người lại bằng chiếc lá, đứng trên một cành thông. Tiếng khóc lan rộng, càng lúc càng rộng, cả lũ ma bật dậy, hồn run rẩy như bị chấn thương...

Chuyện anh M và chuyện cô Suzan làm bận tâm tôi cả ngày sau, bỗng không tôi gậm nhấm ra nỗi cô quạnh, luôn bao phủ từng giây phút, quanh tấm linh hồn mong manh như tờ giấy mỏng của mình. Về nhà tôi nằm chết dấp trong bình rượu cạn, không có xác nên mùi rượu có chan hòa, tôi cũng chẳng say. Nằm mê thiếp bất động một tháng. Ông thần gõ vào chai rượu hỏi, Có chuyện gì không, tôi nhắm mắt lắc đầu. Có ai bắt nạt cô. Không ai cả. Ông kể, Phong đi học lại rồi, Trinh có bồ mới. Kệ cha họ. Sao tôi chán không muốn nghe chuyện nhà này. Chuyện loạn luân, trần gian đầy rẫy, mà sao tôi và ông thần cứ xía vào nhà này để giúp đỡ, lôi kéo họ ra, họ tốt đẹp hay xấu xa có ảnh hưởng gì đến tôi. Tôi nói với ông thần, tôi không muốn nghe chuyện của họ nữa. Ông thần bật cười hỏi, lại có điều không vui đúng không. Tôi im không thèm trả lời, nằm co thêm một tuần, rồi bay ra khỏi chai rượu, lòng còn bâng khuâng, khó hiểu, tôi lục lọi đống báo chí, đọc qua lại vài bài thơ được một nữ sĩ ở hải ngoại gọi là thơ Sex Sells, ừ mà sao cứ gào lên mà đòi thế này, khổ quá, tội cho cô làm thơ, cô khát tình như loài ma tham ăn mà không có xác để tiêu hóa. Tôi lại chán thơ, tôi gấp tờ báo lại. Buổi chiều với mưa rào vội vã, để xóa mất đi những tia nắng đẹp bên hàng cây cọ, có lá cứng cáp đầy gai góc. Âm thanh cơn mưa khiến tôi bực mình, linh hồn tôi vẫn ngồi bên cửa sổ nghe mưa, xem mưa và bỗng muốn điên, người điên sướng lắm, làm gì cũng được, ai chấp, vậy mà mấy con ma điên xuống dưới âm phủ, thần tiên phải chữa mãi cho đến hết bệnh, rồi mới tính được với họ, tôi bật cười một mình, nhớ ngày còn sống, lúc ấy tôi muốn điên và ước mình là đàn ông, giờ chết rồi, có muốn cũng không được. Lũ trứng âu cơ trong người chưa nở, đã sạch bách tan hoang. Lòng tôi buồn vô hạn, phải chi còn sống tôi đã có chồng và có con, các con tôi chắc xinh xắn lắm, nó sẽ gọi tôi, mẹ ơi, mẹ ơi, nước mắt bỗng tuôn trên má, lòng tôi ngổn ngang trăm mối. Tôi sẽ ở nhà này cho đến bao giờ. Câu M than thở, tôi nhớ lắm. Anh muốn làm người, anh chưa làm xong những việc anh muốn. Tôi đã vặn vẹo hỏi anh, ai cũng muốn chết được lên thiên đàng, sao anh không. Chúng ta cứ tận tụy, học hỏi với bà Segal mãi rồi cũng có ngày được lên, cõi nhân gian khổ lắm. Bao nhiêu chuyện để khổ, M nói, anh biết, nhưng anh cứ muốn làm người. Rồi anh khóc nức lên đau đớn...Nửa năm sau, một hôm đang ngồi trên tủ sách, M đứng ngoài cửa hú tên tôi ầm ĩ. Anh cho biết, bà Segal gọi mọi người đến đưa tiễn anh đi đầu thai, sau đó anh sẽ được dẫn đến nhà người đàn bà sắp đẻ, anh có mẹ rồi, anh kể mặt hớn hở. Anh cầm tay tôi lần cuối, chào vĩnh biệt. Ôi bao nhiêu lần vĩnh biệt trên quả đất này, hợp tan, tan hợp, tôi cầm tay anh, linh hồn anh run trong linh hồn tôi, anh mỉm cười khá tươi khi hai người mặc áo xanh, dẫn anh bay nhanh về phía trước, cách đi như gió, hơi lạnh chùm tỏa một phía...Những tháng ngày qua không còn M nữa, không ai biết anh ở phương nào, tôi tưởng tượng một thằng bé mới đẻ, có một nốt ruồi mầu đỏ ở cổ, đang khóc oe oe vì lạ cảnh, lạ người. Rồi tôi bật cười lớn, ông thần quát bảo im, ông rủ tôi đi dạo bờ hồ. Tôi lặng lẽ bay theo ông, nước mặt hồ trong suốt, lũ cá bơi vút nhanh như tên bắn. Một người đàn bà mang thai ngồi một mình trên tảng đá từ hồi nào. Cô đang nghỉ mệt, thần trí cô êm ả tựa như làn mây xanh lơ mơ qua lại. Một giây rất nhanh, tôi chú ý đến cô, và tôi đi theo cô. Ông thần la lối, tôi mặc kệ, tôi cứ theo cô về nhà. Nhà cô xa, vậy mà cô đi bộ. Tôi lấp ló ở cửa sổ, cho đền khi cô đi nấu ăn. Chập tối, thấy lòng tôi bâng khuâng, tôi bèn dạo chơi, bay qua lại trên miền núi, sông xa tắp, nhởn nhơ qua những hàng cây, còn ướt đẫm nước mưa và không khí của ngày chớm thu, tiết thu bỗng mãnh liệt dội vọng khắp trần gian, biết chăng lớp lá xanh kia, một mai này héo úa, rụng rơi, tôi ngậm một chiếc lá đầu tiên vừa mới lìa cành và bỗng thèm khát được sống làm người...Phong lại về nhà, chẳng có gì vui hơn, tôi lại dở trò yêu Phong tiếp, yêu ghê lắm, cái gì của nó, tôi cũng thấy đẹp, lúc nó cười, tôi ngẩn ngơ nhìn. Ông thần khuyên đừng để ý đến người trần mệt lắm cô ơi, đúng, thật là mệt. Khi một ngày Phong đưa người yêu mới về, tôi choáng váng, rồi thu mình nức nở. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao anh M bỏ lại cái thế giới ma mị này. Tình yêu chỉ có một chiều, nó tội lắm, nó âm u, uất hận, như một nụ hoa không thể nở, nào có ai muốn yêu thương kiểu đó, tôi sợ, rú lên thống thiết. Ông thần lấy tay ôm ngực, lẩm bẩm, cô tiên, bình tĩnh, nguyện cho cô lên miền cực lạc đời đời. Tôi dậm chân lên phím đàn, tôi không thèm thiên đàng, địa ngục gì cả. Tôi xòe tay đếm từng ngón rồi cộng trừ tuổi tôi và Phong nếu tôi chào đời ngay từ phút này, tôi chỉ thua nó có 21 tuổi. Tôi che mặt, rồi ấp người bên lò sưởi phòng khách, tiếng cười nói của cặp tình nhân trẻ bắn vào linh hồn tôi nát lòng. Tôi biết, tôi phải bước ra khỏi nhà này, tôi nghĩ đến người đàn bà có thai ngồi bên bờ hồ, tôi gọi mẹ ơi, tiếng kêu tha thiết của tôi, vọng dội như ngàn ngàn điện tử. Ông thần vội bay xuống đỡ tôi đứng vững, rồi kéo tôi đi nhanh ra cửa. Ông nói, ta không ngờ, mười mấy năm cô vẫn không tiến bộ, cô vẫn muốn lao vào vòng sinh tử triền miên, chỉ cần khoảng một năm nữa thôi, cô có thể hóa thân vào cảnh trời đạo lợi, ông lại hỏi. Trần gian quyến rũ thế sao? tôi bịt tai không muốn nghe, không muốn trả lời. Xung quanh tôi, bao nhiêu người đã tụ tập từ lúc nào, bà Segal bảo tôi chào từ biệt các linh hồn, rồi cùng ông thần hướng dẫn tôi bay thật nhanh, xuyên qua bao nhiêu luồng ánh sáng, rực rỡ, lạ thường. Bàn tay mềm mại của bà Segal vuốt lên mặt tôi dặn dò. Hôm nay là ngày đi làm người của cô. Cô phải làm cho tốt và quên hết mọi việc đã qua. tôi ngẩng lên định cám ơn bà, nhưng đã quên mất tên bà, bất ngờ, ông thần đẩy tôi ngã chúi xuống lòng một người đàn bà còn trẻ, cú đẩy quá mạnh, khiến tôi choáng váng khóc thét lên như bị đánh đòn, tôi quơ tay chân chòi đạp, rồi mê thiếp đi không biết gì nữa.■

ANH TỰ TIN LỜI ANH NÓI



Nguyễn Đức Nhân



Bầu trời đang hé mở cánh cửa thô sơ, ghép tạm
bởi những ý nghĩ vênh cong năm tháng. Không nên bước ra
khỏi trái tim bình minh nhỏ bé. Chưa đủ kinh nghiệm, em
không thể bước qua cánh cửa bầu trời, bơi trong
tinh thể lỏng bầu trời sóng sánh sắc màu
ký ức. Ký ức những đổ vỡ mùa đông bơ vơ cơn mưa hư thực
che kín người đời

Bơi trong tinh thể lỏng bầu trời quạnh hiu, em
biết nơi đâu là bến bờ?
Hãy nhốm bếp lửa thơm nồng hương quê mẹ giữa
trái tim em. Anh tự tin lời anh nói: Chất lửa thơm trong
trái tim sẽ giúp em nhận ra
hơi ấm tiềm ẩn nồng nàn hạnh phúc đời người, không thể tìm
thấy hạnh phúc một nơi nào khác. Chỉ có nhịp đập của
trái tim em không bao giờ phụ bạc
đời em. Và, rồi 
em sẽ thấu đạt em là gì, là ai. Với tâm hồn yêu thương
phơi bày đỉnh ngọ, anh
chỉ biết nói
sự thật

Anh không thể. Vâng. Anh không thể hồ đồ
bảo rằng anh có thể
bảo hộ em khỏi muộn phiền, khi em tự nguyện
bước qua cánh cửa bầu trời.

Bơi trong tinh thể lỏng bầu trời quạnh hiu, em
biết nơi đâu là bến bờ?

Không một người đàn ông nào lơ láo trên trái đất sần sùi nầy che chở được
chính họ, nói gì che chở
kẻ khác. Bởi, mỗi người là kẻ xa lạ với chính hắn. Chẳng
ai thật sự thấu hiểu nhịp đập của
trái tim mình, lấy gì để huênh hoang về
ý nghĩa tối hậu của yêu thương, của
sự sống và sự chết. Họ – những thằng đàn ông – ham muốn, lơ láo, ích kỷ, chưa
hề sống chân thật với chính họ, nói gì có sự chân thật với
ai. Chỉ có ai thấu đạt như chân, như thật về
nhịp đập của trái tim mình – nhịp đập của sự sống – mới có đủ năng lượng và
năng lực che chở chình họ và kẻ khác. Ai nói với em
rằng họ bảo hộ được sự khốn khổ của đời
em, anh nghĩ
lời ấy
xuất xứ từ tâm hồn tật nguyền. Vâng, cuộc đời trôi lăn bất tận, đã
từ lâu, được dưỡng nuôi bởi những lời lẽ của
những tâm hồn tật nguyền
đậm màu hoàng hôn
thổn thức

Với tâm hồn
yêu thương phơi bày đỉnh ngọ, anh
chỉ biết nói sự thật : Em
hãy an trú nơi
trái tim em.

Đảo chính ở Việt Nam hay hỗn loạn ở Trung Quốc?





© Flickr.com/- luz -/cc-by-nc-sa 3.0



Trong năm qua, nhà xuất bản "Văn học phương Đông" tại Matxcơva đã in tập 3 của bộ biên niên sử "Đại Việt sử ký toàn thư” bằng tiếng Nga. Trong tập này, bốn chương đầu của "Biên niên sử cơ bản” được in chung với các trích đoạn biên niên sử Trung Quốc cùng thời kỳ. Điều này cho phép người đọc so sánh cách viết của các sử gia Việt Nam và sử gia Trung Quốc về cùng một sự kiện. Ban biên tập của dự án gồm các chuyên gia hàng đầu của Nga về lịch sử của Việt Nam và Trung Quốc, đôi khi đưa ra những cách lý giải mới mẻ về các sự kiện nhất định.

Ví dụ, biên tập viên điều hành của dự án, Tiến sĩ Khoa học Lịch sử Andrei Fedorin bác bỏ quan điểm cho rằng sau khi Hoàng đế Lý Nhân Tông băng hà năm 1127 trong triều đình đã xảy ra một cuộc đảo chính ngầm. Ông hoàn toàn không đồng ý với ý kiến cho rằng vì cuộc cướp ngôi này mà tân hoàng đế Lê Thánh Tông không được phía Trung Quốc thừa nhận trong 4 năm liền.

Xin nhắc lại rằng năm Lý Nhân Tông qua đời là thời điểm khó khăn nhất trong lịch sử của nhà Tống. Giao tranh với nước Tấn, nhà Tống mất một nửa lãnh thổ, bao gồm cả thủ đô, quân đội đã bị đánh bại. Trên vùng biên giới giáp với Đại Việt đã lập ra triều đại Nam Tống, quan hệ với các nước láng giềng thật sự hỗn loạn. Chuyên gia về lịch sử VN Andrei Fedorin nói:

“Trong những điều kiện như vậy, Đại Việt không thể ngay lập tức hiểu được nên cử sứ đoàn tới gặp ai ở Trung Quốc và thương lượng với triều đình nào? Các nguồn sử Việt ghi nhận có hai đoàn sứ giả, nhưng điều này thường được hiểu như là hai thông tin về một sự kiện duy nhất. Chúng tôi đã chứng minh rằng thực sự có hai đoàn đi sứ với các thành phần tương tự. Các nguồn sử Trung Quốc cũng ghi lại như vậy.”

Đó là những sứ đoàn nào? Trước tiên Đại Việt chỉ nghe ngóng và thông báo một cách không chính thức cho Nam Tống biết về thay đổi trong triều đình. Sợ rằng Đại Việt lợi dụng sự suy yếu của họ và tấn công đế chế như Lý Thường Kiệt từng làm nửa thế kỷ trước, Nam Tống công nhận tân vương và cấp cho danh hiệu giống như người tiền nhiệm của ông. Điều đó đã xảy ra vào năm 1130. Tuy nhiên Đại Việt không vội vàng nhận tước hiệu đó. Trước tiên phải đảm bảo rằng Nam Tống là triều đình hợp pháp có đầy đủ thẩm quyền. Trong cùng năm đó Đại Việt chính thức cử người đi sứ tới Nam Tống lần thứ nhất. Hơn nữa, như đã nêu trong "Toàn thư" đây là chuyến thăm đáp lễ. Công thức này thường được áp dụng với nước đối tác ngang hàng, chứ không phải với nhà chúa. Rõ ràng, chuyến đi sứ đã không đáp ứng được mong muốn. Hai năm sau Đại Việt lại cử sứ thần sang Nam Tống. Lần này Nam Tống đã thuyết phục được các sứ thần về tính hợp pháp của mình. Đại Việt chấp nhận tước hiệu được phong.

Theo ông Andrey Fedorin, Nam Tống chậm công nhận Lý Thánh Tông không phải do nghi ngờ về tính hợp pháp trong chuyển giao quyền lực của Đại Việt, mà là do tình hình hỗn loạn trong nội bộ Trung Quốc .