Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Phán xét



Khi nhìn các vì tinh tú đang lấp lánh ở phía chân trời ta luôn nghĩ đó là vì sao của giây phút hiện tại. Nhưng ta có thể lầm. Cái lấp lánh mà chúng ta nhìn thấy chỉ là phần ánh sáng của vì sao đang trên đường đi về phía ta, tại vì đoạn đường phải mất hàng triệu năm mới tới, còn vì sao ấy có thể đã lặn khuất từ lâu lắm rồi. Đó là khám phá của khoa học. Nếu không có nền văn minh khoa học ta sẽ còn lầm lẫn rất nhiều thứ trên thế gian này khi sử dụng con mắt của mình với tầm nhìn rất giới hạn.

Nhưng khoa học cũng vẫn còn lầm lẫn, khoa học vẫn luôn tiếp tục làm mới chính mình để điều chỉnh lại một cách hoàn hảo về những nhận xét trước đây và tìm tòi thêm những phát hiện mới. Cho nên mới có khoa học tiến bộ ngày nay và chắc chắn sẽ có khoa học tiến bộ trong tương lai. Nếu khoa học bám chặt những hiểu biết của mình, không chịu mở lòng ra để tiếp tục khám phá về những đối tượng mà mình đã từng đưa ra nhận xét thì đó là một nền khoa học cũ kỹ, lạc hậu và đầy nguy hiểm.

Trên thực tế khoa học cũng đang cố gắng ngày đêm để không ngừng cung cấp cho con người những hiểu biết về bản chất thật của vạn vật, nhưng số lượng vẫn còn quá ít so với những gì đang hiện hữu trong vũ trụ bao la này. Nghĩa là ta vẫn còn phải chịu vướng kẹt vào vô số cái nhìn sai lầm về thế giới vật chất chung quanh mỗi ngày.

Trái tim con người còn kỳ bí và mênh mông hơn cả vũ trụ, nếu không có một công trình nghiên cứu miệt mài và tinh xảo hơn cả khoa học thì làm sao ta có thể thông đạt? Những dòng cảm xúc tuôn chảy bất tận, những ngõ ngách tâm ý sâu kín hay những khúc mắc chập chùng trong nhận thức luôn tạo nên những hành động bất ngờ mà ta hoàn toàn không chủ động được. Tại vì ta không hiểu biết bao nhiêu về chúng cả. Mà trái tim của ta thì ta phải tự tìm tòi khám phá chứ đâu thể trông mong vào công trình nghiên cứu nào của ai khác. Một khi ta vẫn chưa hiểu thấu được chính mình thì ta sẽ không bao giờ hiểu thấu được kẻ khác. Ước muốn đó chỉ là ảo tưởng.

Vậy mà ta vẫn thường hay tuyên bố những câu xanh rờn: Ta đã biết hết, đã hiểu hết rồi! Tại vì ta luôn có thói quen nhìn mọi thứ bằng kinh nghiệm có sẵn. Ta lười biếng quan sát bằng tất cả sự khám phá về một vấn đề hay một đối tượng trong giờ phút hiện tại, bởi ta nghĩ mình đã từng có kiến thức và trải nghiệm về chuyện ấy, nhìn sơ qua là có thể biết ngay. Thái độ chấp chặt định kiến của ta đã khóa kín cánh cửa nhận thức, vì lẽ đó mà không biết bao nhiêu lần trong cuộc đời ta đã có những phán xét sai lầm đáng tiếc.

Trong khi bản chất của mọi sự mọi vật luôn vận hành biến đổi không ngừng, không có cái nào hoàn toàn giống cái nào, cái trước cũng không bao giờ giữ nguyên phẩm chất như cái sau. Nó có thể tươi tốt hơn, cũng có thể héo tàn hơn. Chỉ có con mắt chưa vẩn đục, nhìn như chưa từng nhìn thấy lần nào, bằng tất cả sự tinh khiết trong nhận thức thì ta mới có thể tiếp xúc được sự thật về đối tuợng ấy ngay bây giờ và ở đây.

Còn nhớ câu chuyện của thiếu phụ Nam Xương. Khi chàng Trương từ chiến trận trở về đã không được đứa con công nhận là cha, vì nó được biết cha của nó chỉ xuất hiện trên vách nhà vào ban đêm. Trong cơn cảm xúc hờn ghen, chàng Trương đã không chịu hỏi han hay lắng nghe một lời giài thích tận tường của vợ.

Chàng đã không sử dụng con mắt trong để nhìn vào người vợ vói những nỗi vất vả khổ đau và chung thủy trong những ngày nuôi con trong chiếc bóng. Chàng đã tin lời người khác mà đó lại là kiến thức của đứa bé thơ. Để rồi chàng phải nhận lấy kết cục bi thương sau những phán xét sai lầm của mình, người vợ đã nhảy xuống sông tự vẩn như để rửa sạch oan ức cho chính mình và cả trái tim mù quáng của người bạn đời chăn gối.

Tổ tiên ta đã từng nhắc nhở “Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học”. Khi nào cái hiểu biết hay kinh nghiệm của ta còn hạn chế thì ta vẫn phải mở lòng ra để học hỏi suốt đời. Lắng nghe, quan sát, khám phá, thắc mắc đều là những hành động tích cực cần phải có của một người không bị kẹt vào những kiến thức mà mình cho là đủ. Đâu phải chuyện gì mình cũng biết, đâu phải cái gì mình cũng thấy được nguồn cơn. Thông minh nhạy bén mà thiếu sự tỉnh táo và sâu sắc thì nó sẽ trở thành năng lực nguy hại, đẩy ta ra khỏi cái nhìn đúng đắn về thực tạỉ.

Kinh nghiệm vốn rất hữu ích nếu ta biết dùng nó đúng lúc đúng nơi và cả sự chọn lọc tinh tế nữa. Nhưng ta không làm được điều đó. Vì bản ngã ích kỷ mà ta luôn có khuynh hướng áp đặt vào đối tượng đang rất mới trong giờ phút hiện tại bằng những gì mình đã rút tỉa được ở đối tượng khác trong quá khứ. Đặc biệt trong tình yêu luôn cần đến cái nhìn trong suốt ấy hãy yêu như chưa yêu lần nào, thì ta mới tiếp xúc trọn vẹn được con người đang có mặt bên ta hôm nay. Ta đừng để nhữug vết thương quá khứ làm trở ngại công trình khám phá và hòa nhập giữa ta và con người đang hiện hữu. Ta sẽ không bao giờ có được họ.

Tất nhiên bản năng tự vệ đề phòng là cần thiết nhưng nếu đi quá xa thì nó sẽ trở thành nghi kỵ và hiểu lầm. Người yếu đuối, thiếu tự tin, chỉ đặt quyền lợi của mình lên trên mọi liên hệ nên lúc nào cũng có thái độ phòng thủ, lúc nào cũng nghĩ rằng người kia sẽ phản bội hay hãm hại mình. Chính trí tưởng tượng phong phú kết hợp với cái tôi nhút nhát đã dựng lên trong tâm ta những hình ảnh sai lệch về người kia. Một cử chỉ hay lời nói bất cẩn của người kia cũng dễ dàng trở thành bản án chung thân mà ta trao cho họ.

Dù người kia tìm từng mắc phạm sai lầm, nhưng trong giây phút hiện tại này đây họ đã hoàn toàn chuyển hóa, đứng trước ta đó là một con người không còn chút tì vết lỗi lầm. Nhưng ta có nhìn thấy họ như là họ đang là không? Hay những hình ảnh xấu xa mà ta có về họ vẫn còn in khắc nguyên vẹn trong tâm. Như vậy ta sẽ không thể ghi nhận và sẽ đánh mất họ. Một người cố ngoi lên từ vũng lầy mà không được đón nhận ít nhất từ đôi mắt tin tưởng của người thương yêu thì còn đâu nghị lực để mà đi tới chỗ hoàn thiện

Ở bên Tây trong các phòng bán thuốc của bệnh viện người ta hay treo câu “Ngay cả khi bạn đã chắc rồi, thì cũng xin vui lòng kiểm tra lại một lần nữa” . Một liều thuốc lầm lẫn có thể đưa người ta lập tức đi vào cõi chết. Cho nên ta phải rất cẩn trọng trong khi đưa ra lời phán xét về một vấn đề hay một đối tượng mà mình chưa hiểu rõ sự thật. Nếu cần ta hãy pán ba chữ “Có chắc không?” thật lớn ngay chỗ làm việc hay cắt thành một mẫu giấy nhỏ bỏ ba chữ ấy vào trong túi, để trước khi mở miệng phán xét thì ta lấy ra đọc như niệm thần chú mà không dễ dàng sập vào bẫy của nhận thức sai lầm.

Nhiều lần luyện tập dừng lại để nhìn rõ vào đối tượng rước khi phán xét sẽ giúp ta có cái nhìn đúng đắn hơn. Nếu ta đã dùng con mắt không thành kiến của mình để nhìn mà vẫn không thấy được sự thật thì hãy tìm cách nhờ bên kia giúp đỡ. Ta phải sẵn sàng lắng nghe người kia bằng tất cả sự chú tâm và thành khẩn thì mới hiểu được những góc khuất trong tâm hồn của họ. Chừng ấy ta sẽ không còn lên án hay buộc tội nữa, trái lại ta sẽ có thái độ cảm thông và thương xót.

Cho nên một người vững chãi sẽ không bao giờ căn cứ trên vài hành động bâng quơ hay vài thông tin chưa rõ ràng mà vội vàng kết luận một điều gì. Có khi người kia hành xử như vậy cũng vì hoàn cảnh bất đắc dĩ hay vì một mục đích cao cả nào đó mà họ chưa có cơ hội để trình bày cho ta rõ. Hãy thực tập im lặng chờ đợi và không rời sự qua sát. Khi hai tâm hồn tự tìm tới để hiểu nhau mà không cần phải dù tới ngôn từ để giải thích hay chất vấn thì nó mới là đỉnh cao nhất của tình cảm linh thiêng và bền vững.

Rút kinh nghiệm từ những lần phán xét sai lầm đã chôn ta vào những vũng lầy đen tối, ta hãy khôn ngoan mỗi khi mở lời nhận xét: “Tôi thấy như thế này không biết có đúng không?” hay “Đó là suy nghĩ của tôi, nếu thấy có chỗ nào sai sót thì xin nói cho tôi biết, tôi rất biết ơn”. Đừng vì tự ái hay tổn thương mà ta tự đóng bít lối thoát cho mình bằng những lời tuyên bố chắc ăn như đinh đóng cột. Bởi hiểu biết của ta chưa đủ lớn thì nhận xét sẽ mãi còn sai.

Một trong những điều kiện căn bản của hạnh phúc là ta phải hiểu được bản chất thật của chính mình. Hãy buông bỏ bớt những bận rộn lo toan trong lối sống tích góp vật chất và danh dự, để lòng thanh thản và bình an mà trở về tìm hiểu chính mình để vén lên những bức màn định kiến đang che phủ những góc sáng trong tâm hồn. Ở đó ta sẽ thấy mình rất khác, một con người chân thật sau những tấn tuồng đời đầy kịch tính.

“Đừng vội vàng phán xét
Nhận thức hay sai lầm
Tập lắng nghe, ái ngữ
May ra lòng hiểu lòng”

♥Minh Niệm

Chiếc thùng mẻ



Một người đàn bà gánh hai thùng nước trên vai. Một thùng có vết nứt, con thùng kia luôn chứa đầy nước. Đến cuối đoạn đường dài từ suối đến nhà, thùng mẻ chỉ còn nửa lượng nước.

Hai năm dài với mỗi ngày người đàn bà chỉ gánh về một thùng rưỡi nước. Chiếc thùng đựng đầy nước luôn hảnh diện về thành quả của mình. Còn chiếc thùng bị vết nứt bên kia buồn bã và xấu hổ vì mình không toàn hảo nên chỉ làm được một nửa công việc mình được tạo ra để làm. Sau hai năm sống trong sự đau khổ vì không làm tròn nhiệm vụ. Một ngày kia bên bờ suối chiếc thùng bị nứt bèn nói với người đàn bà:

– Tôi rất xấu hổ về chính mình vì một vết nứt phía thùng của tôi đã làm cho nước chảy ra ngoài suốt đoạn đường bà gánh nước về nhà.”

Người đàn bà mỉm cười: “Bạn có nhìn thấy rất nhiều hoa bên đường phía bạn đi ngang qua nhưng không có hoa nào ở phía bên kia không? Bởi vì tôi luôn nhận biết khuyết điểm của bạn, nên tôi đã gieo những hạt giống của bông hoa phía bạn đi qua, để mỗi ngày trên đường về bạn đã tưới nước cho những hạt mầm. Suốt hai năm qua tôi đã hái những bông hoa đẹp để chưng trên bàn. Nếu không có bạn với những gì của bạn thì đã không có những nét đẹp trang điểm cho ngôi nhà đẹp thêm”.

Mỗi người chúng ta đều có những khuyết điểm. Nhưng qua những vết rạn nứt và những khuyết điểm đó làm cuộc đời mỗi người thêm phong phú.

Mỗi người cần chấp nhận người chung quanh và tìm những điều tốt nơi người đó.

(Ngạn ngữ Trung Hoa)

TỪ CHỐI


Có hơn một cách nói lời chối từ. Cách dễ nhất là có người thứ ba. Cách dễ nữa là nhận hết tội lỗi về mình hay đổ hết tội lỗi cho người kia. Cách khó hơn cả là mắc bệnh ung thư và đau đớn một cách sang trọng như trong những bộ phim Hàn Quốc. Nhưng cô và anh lại là hai con người tự trọng, mạnh khỏe và yêu đời. Cuộc đời còn dài lắm trước mắt họ.

Nên anh loay hoay tập dượt mãi. Cảm ơn cũng sẽ không và xin lỗi cũng sẽ không nốt. Anh không muốn phải tỏ ra tiếc nuối cho những giây phút êm đềm đã chia sẻ cùng cô. Quan trọng hơn cả, với cô anh không thể nói dối. Nói dối cô sẽ là một cực hình với chính bản thân anh.

Cuối cùng anh chọn cách nói thật. Anh chỉ cảm động thôi chứ không phải yêu. Do dự mãi, anh nói thêm điều lẽ ra phải nói đầu tiên. Nhận lời yêu cô hay bất kỳ ai khác lúc này đồng nghĩa với việc trốn chạy vô điều kiện những mớ bòng bong nhùng nhằng anh vẫn lảng tránh bấy lâu. Anh sẽ phải tự bơi vào bờ. Anh sẽ phải làm điều ấy cho chính mình.

Anh không sợ cô sẽ không hiểu, hoặc không muốn hiểu. Anh chỉ sợ một ngày kia, có thể là sẽ rất lâu sau này, khi tóc anh và tóc cô đã ngả màu muối tiêu, khi lốc nhốc giữa hai người có thể đã là cả một bầy bé con, cô sẽ bàng hòang nhận ra rằng tình yêu chỉ trọn vẹn khi nó đến từ cả hai phía. Và rằng giữa cảm thông với rung động là một khỏang cách vô bờ.

Thế đấy. Có hơn một cách để nói lời chối từ, nhưng chẳng có cách từ chối nào không mang lại nỗi đau cả.

Giống những bước chân ngập ngừng dẫm lên tuyết lấp lánh. Những bước chân khẽ đi thật chậm còn tuyết cứ lấp lánh , ngập tràn, êm dịu, và tinh khiết trắng, tinh khiết tỏa lan những hạt sao li ti đẫm sương như những giọt nước mắt trong một đêm tối đầy trăng.


Nguyễn Thị Hồng

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

BÀI THƠ VỀ THỜI ĐẠI NÀY, BẤT KHẢ TÍN



HÀ QUANG MINH


Anh không còn tin vào bất kỳ điều gì nữa
Cuộc sống lầy lội này, ta biết tin ai
Những nói cười thế thôi
Nhưng cảm thông thế thôi
Những yêu đương thế thôi
Tất cả
Cuối cùng
Chỉ là trò hề lộ liễu

Thành phố này ngổn ngang
Bụi
Khói
Và mùi mồ hôi của những kẻ chạy đua vì lý do gì chính họ cũng không biết
Những màu hoa ngày xưa bây giờ thành mỏi mệt
Bởi nỗi ám ảnh mơ hồ về một thời đại rất đẹp
Đã đi qua rất xa

Đôi khi ước ao một buổi chiều về nhà
Bình yên và hạnh phúc
Nhưng cuối cùng,
Ngay cả căn nhà
Cũng là địa ngục
Bởi nỗi cô đơn của một kẻ lạc loài
Nhìn lại mình chẳng thấy giống ai
Nhìn lại mình chẳng có ai là đồng loại
Chúng ta chỉ đồng lõa thôi
Để dựng nên một thời đại
Hối hả không thể tin nổi bất kể điều gì

Những dối trá
Hỡi ôi không chút khả nghi
Chúng ta cũng dối trá khi giả vờ tin vào chúng
Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng màn kịch này quá vụng
Để rồi hềnh hệch cười
Tất cả chỉ là trò chơi

Vết thương này
Thực sự khó ngoai nguôi
Vết thương này
Ngày nào cũng ứa máu
Một thời đại
Không biết đi đâu
Làm gì
Và từ đâu ta tới
Quẩn quanh
Hoang mang
Giả trá và lọc lừa

Ngay cả những điều em nói cùng anh mới lúc ban trưa
Cuối cùng cũng là lời nói dối
Nó ngọt ngào khiến anh nghĩ anh mới là thằng có lỗi
Nhưng chỉ cần bình tĩnh một phút thôi
Anh hiểu em đang trong vở kịch của chúng mình
Nhưng tốt nhất là anh cứ làm thinh
Cứ giả vờ như anh đang tin
Cứ giả vờ kiểu như anh cũng đang đóng kịch

Anh chẳng còn tin bất kỳ ai
Cả em nữa đấy “em yêu” ạ
Thời đại này tin ai cũng là khờ dại
Và nếu không tin, cũng cố phải ra vẻ dại khờ…
SG chiều mưa không ra mưa, nắng chẳng ra nắng


Bài Hát Đĩ



黎文鄧





排喝�� Bài Hát Đĩ
��天下包��朱���� Trong thiên hạ, bao giờ cho hết đĩ?
��生��本底麻制 Trời sinh ra vốn để mà chơi!
朱��坦竜��歐買適 Cho lở đất long trời, âu mới thích
��胞子芸制强歷 Đĩ bao tử, nghề chơi càng lịch,
他胡朱曲��姉㛪唭 Tha hồ cho khúc khích chị em cười:
������������ Người ba đấng, của ba loài,
嗷喭��如埃辰��沐 Ngao ngán nhẽ như ai, thì đĩ mốc.
固殘固傘固香案固盘讀 Có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc
意買别浪��固宗 Ấy mới biết rằng đĩ có tông
江湖拯趣芾空 Giang hồ chẳng thú nào không
泣南北西東調㘃㗂 Khắp Nam Bắc Tây Đông đều nức tiếng
����方����朱���� Đĩ mười phương, đĩ cho đủ chín,
群殳方底����重 Còn một phương, để nhín lấy chồng
劍吒丐��桃紅 Chém cha cái số đào hồng
撰殳仉英䧺朱當�� Chọn một kẻ anh hùng cho đáng số.
��姂重官停亊妬 Vợ bợm, chồng quan, đành sự đó,
枚����杜固文喃 Mai sau ngày giỗ có văn Nôm.
Nguồn: Tam Nguyên Yên Đỗ Thi Ca, Liễu Văn Đường, t. 7b-8a

Sĩ vị tri kỷ giả tử



Thư pháp: Tử Hư-Nguyễn Ngọc Thanh viết giữa tiết Trung thu tại Đài Loan

Thơ: Nguyệt hạ độc chước/ Lý Bạch (trích cú)

 Lời dịch:

Dưới hoa rượu đục 1 bình
Tự tay chuốc chén thân tình không ai
Trăng thanh nâng chén ta mời
Tự mình soi bóng ra người thứ ba
Cùng trăng tha thiết ngâm nga
Múa cho hình bóng loạn ra bao hình
Tỉnh thì hoan lạc thân tình
Say rồi chia biệt bóng hình đôi nơi
Vô tình kết mối vui chơi
Hẹn nhau gặp mặt ở nơi Mây bồng

Toàn Đức

“Bảo đảm an sinh xã hội:” Những hạn chế của mô hình báo chí đảng


Jonathan London


Ngày 4/10/2013, báo Nhân Dân đăng một bài với tựa đề “Bảo đảm an sinh xã hội – điểm sáng trong thực hiện nhân quyền ở Việt Nam”. Tác giả lấy bút danh là “NGUYỄN TRẦN” (Xin hỏi: Đến bao giờ nhà báo Việt Nam sẽ sử dụng tên thật?).

Dù là một người hay một nhóm người, tôi thấy bài viết rất hay về nhiều mặt và liên quan trực tiếp đến những vấn đề tôi đặc biệt quan tâm. Bài nay cũng minh họa rõ những hạn chế cơ bản của mô hình ‘thơ báo đảng’ và văn hóa chính trị ở Việt Nam đến hôm nay.

Bài viết dành nhiều mục nhất để nêu những thành tích và nêu một số vấn đề quan trọng. Bài cũng đã chê một số vấn đề khác mà chúng ta nên chú ý. Dù tôi muốn bình luận về nội dung trong bài, có lẽ quan trọng hơn cả là bài này tạo ra một cơ hội để can thiệp vảo những tranh luận xoay quanh vấn đề nhân quyền ở Việt Nam; Trong đó có vấn đề tự do báo chí và vấn đề tôi gọi là “văn hóa chính trị” của Việt Nam.

“Bảo đảm an sinh xã hội – điểm sáng trong thực hiện nhân quyền ở Việt Nam”

Tôi thấy dù nhiều nội dung của bàì hay, thú vị. Nhưng ấn tượng nhất là về những giả thuyết và những kết luận trong bài… từ mặt này bài có vấn đề . Cụ thể, việc đạt được những thành tích to lớn ở Việt Nam trong 20 năm qua không nên được hiểu là không có những vấn đề bức xúc đối với những thể chế xã hội của Việt Nam. Đồng thời, việc có những người phê bình những chính sách xã hội và nhân quyền chẳng có nghĩa là họ là “những thế lực thù địch” của đất nước.

Dưới đây, tôi sẽ đề cập nội dung của bài để thể hiện một cách suy nghĩ cách về những vấn đề đã được nêu ra và đồng thời phân tích một số đặc điểm của văn hóa chính trị tại Việt Nam nên được xét lại trong thời đại mới. Để cho dễ đọc. tôi sẽ đánh số và trả lời từng đoạn một của bài.

1. Bảo đảm an sinh xã hội là yêu cầu và điều kiện cần thiết của sự ổn định, phát triển đất nước, góp phần hiện thực hóa các quyền xã hội của mọi người dân. Vượt qua khó khăn, thách thức, kể cả sự xuyên tạc, bóp méo của các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Nhà nước Việt Nam, hoạt động bảo đảm an sinh xã hội ngày càng được triển khai có hiệu quả, trở thành một điểm sáng trong thực hiện nhân quyền ở Việt Nam…

Vâng, hoàn toàn đồng ý là “bảo đảm an sinh xã hội là yêu cầu và điều kiện cần thiết của sự ổn định, phát triển đất nước, góp phần hiện thực hóa các quyền xã hội của mọi người dân. Vượt qua khó khăn, thách thức…”. NHƯNG, ngay từ đâu tôi hỏi: có thực sự cần thiết khi báo động về “sự xuyên tạc, bóp méo của các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí”.

Câu tiếp “dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước Việt Nam hoạt động bảo đảm an sinh xã hội ngày càng được triển khai có hiệu quả, trở thành một điểm sáng trong thực hiện nhân quyền ở Việt Nam…”. Ngoài việc là một câu quá dài, xin hỏi hai câu. Thứ nhất, tại sao viết “Đảng…Việt Nam”? Tôi chưa thấy một đảng nào có tên đó. Thứ hai, đúng ra những hoạt động bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam đã phát triển một cách đáng khích lệ trong một số mặt NHƯNG để giả định những hoạt động này là “ngày càng được triển khai có hiệu quả” là một cách viết cảm tính hơn là phân tích khách quan. Tôi quá biết báo Nhân Dân là báo có chức năng định hướng dư luận. Chính vì thế số người đọc báo Nhân Dân ngày càng ít. Tốt nhất là trong những năm tới báo Nhân Dân nên cố gắng chuyển sang một mô hình hiện đại hơn.

2. Con người là trung tâm, động lực và mục tiêu của phát triển. Công nhận các quyền con người về dân sự, chính trị và về kinh tế, xã hội, văn hóa; đặc biệt, quyền có việc làm, thu nhập, nhà ở, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, dùng nước sạch, sống trong môi trường an toàn và mưu cầu hạnh phúc xứng đáng với phẩm giá con người ngày càng trở thành những yêu cầu cơ bản, thiết thực. Bảo đảm quyền con người trở thành lý tưởng chung mà các quốc gia, dân tộc cần đạt tới và là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Ðó cũng là Ðiều 25 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người của LHQ nhấn mạnh: Mọi người dân và hộ gia đình đều có quyền có mức sống tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội, bao gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế, dịch vụ xã hội thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa phụ, tuổi già… hoặc các trường hợp bất khả kháng khác. Theo ILO (Tổ chức Lao động quốc tế), an sinh xã hội là chỉ sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của mình bằng một loạt những biện pháp công cộng, chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ…

Hay quá, hay quá!!!! Tôi hoàn toàn ủng hộ những giá trị này. Hay ra phết!

3. Là thành viên có trách nhiệm của LHQ và cộng đồng thế giới, Việt Nam luôn chia sẻ, tôn trọng các yêu cầu và cam kết quốc tế về nhân quyền nói trên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Việt Nam coi việc phát triển bảo đảm an sinh xã hội (BÐASXH), bảo đảm chất lượng sống cho người dân ngày càng được an toàn và cải thiện là nội dung, cách thức thiết thực nhất thực hiện các quyền xã hội của mọi người dân; đồng thời, cũng là động lực và mục tiêu xuyên suốt của sự nghiệp đổi mới đất nước. Trải qua mấy chục năm chiến tranh tàn khốc, phải chịu hơn 17 triệu tấn bom đạn, hơn 70 triệu lít hóa chất chứa dioxin, Việt Nam hiện có hơn bốn triệu người khuyết tật, tàn tật do bom đạn, chất độc, cùng hàng triệu người có công, người già và trẻ em không nơi nương tựa, nghèo, cô đơn. Việt Nam còn chịu áp lực mỗi năm thêm hàng triệu người bước vào độ tuổi lao động và hàng chục triệu lao động làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, dễ bị tổn thương… Vì vậy, Việt Nam luôn cháy bỏng khát vọng hòa bình, ổn định để có điều kiện phát triển cuộc sống của toàn dân, bù đắp cho những người bị thiệt thòi, và cũng vì thế, Việt Nam coi hệ thống BÐASXH đa dạng, có tính chia sẻ và hiệu quả theo chiến lược tổng thể quốc gia là sự nghiệp của toàn hệ thống chính trị và toàn dân; trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

Thế hà? Trước hết, câu “là thành viên có trách nhiệm của LHQ” mang tính chất chủ động. Hơn nữa, để khẳng định “(nhà nước) Việt Nam luôn chia sẻ, tôn trọng các yêu cầu và cam kết quốc tế về nhân quyền nói trên” thì tôi rất ái ngại cho sức khỏe tâm lý của tác giả. Rõ rằng dù có những tiến bộ đáng mừng về những quyền xã hội, Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề đối với các quyền chính trị, kinh tế, văn hóa và ai mà phủ nhận điều đó rõ ràng là có một quan điểm hết sức kỳ lạ.

Câu mà đọc “Việt Nam coi việc phát triển bảo đảm an sinh xã hội (BÐASXH), bảo đảm chất lượng sống cho người dân ngày càng được an toàn và cải thiện là nội dung, cách thức thiết thực nhất thực hiện các quyền xã hội của mọi người dân; đồng thời, cũng là động lực và mục tiêu xuyên suốt của sự nghiệp đổi mới đất nước” dù dài dòng cũng là một câu tôi hoàn toàn ủng hộ. Đọc đến câu “Trải qua mấy chục năm chiến tranh tàn khốc…” thì không có ai phủ nhận. Khi khẳng định “mỗi năm thêm hàng triệu người bước vào độ tuổi lao động” thì quả là phóng đại một chút vì theo tôi hiểu mỗi năm có hơn một triệu chứ (cũng theo ILO). Nhưng việc VN còn có “hàng chục triệu lao động làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, dễ bị tổn thương” là có thật và đáng lo ngại.

Câu cuối cùng trong đoạn này cho rằng: “…vì thế Việt Nam coi hệ thống BÐASXH đa dạng, có tính chia sẻ và hiệu quả theo chiến lược tổng thể quốc gia là sự nghiệp của toàn hệ thống chính trị và toàn dân; trong đó, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Về câu này tôi không có vấn đề gì hết.

4. Ðối với vấn đề xóa đói, giảm nghèo, Việt Nam coi đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài và quan trọng hàng đầu trong BÐASXH. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành T.Ư Ðảng khóa VII chỉ rõ: “Trợ giúp người nghèo chủ yếu bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn. Hình thành quỹ xóa đói, giảm nghèo ở từng địa phương trên cơ sở dân giúp dân, Nhà nước giúp dân và tranh thủ các nguồn tài trợ nhân đạo trong nước và quốc tế. Phấn đấu tăng số hộ giàu, đi đôi với xóa đói, giảm nghèo”. Nghị quyết Ðại hội XI của Ðảng tiếp tục khẳng định: “Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân”. Lấy ngày 17-10 hằng năm là “Ngày vì người nghèo” (cùng với ngày “Thế giới chống đói nghèo” do Liên hợp quốc khởi xướng), từ năm 1995 đến nay, tất cả các tỉnh, thành phố đều thành lập các ban chỉ đạo, triển khai hàng chục chương trình và chính sách đầu tư, cho vay phát triển hạ tầng, việc làm, hỗ trợ hộ nghèo, hộ đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển sản xuất, kinh doanh; khuyến khích các hoạt động cộng đồng, tương thân, tương ái, từ thiện, đền ơn đáp nghĩa. Tháng 5-2002, Chính phủ chính thức triển khai “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo” phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của LHQ. Từ năm 2003 tới năm 2012, ngân sách Nhà nước chiếm hơn 51% tổng chi cho BÐASXH, bình quân khoảng 6,6% GDP/năm. Riêng giai đoạn 2006 – 2012, Chính phủ đã đầu tư hơn 700 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ cho gần 3.000 dự án giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục nhằm tăng cường hỗ trợ xóa đói, giảm nghèo; trong đó, riêng các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã được ngân sách Nhà nước đầu tư hơn 54.770 tỷ đồng. Hằng năm, Nhà nước chi trợ cấp xã hội thường xuyên tới khoảng 2% dân số, trợ cấp đột xuất khoảng 0,5% – 0,6% GDP cho khắc phục hậu quả các vùng bị thiên tai. Giai đoạn 2010 – 2013, thực hiện Nghị định 41/2010/NÐ-CP về chính sách đẩy mạnh tín dụng cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tổng dư nợ tín dụng cho nông nghiệp đã tăng 2,1 lần (từ 292 nghìn tỷ đồng, lên gần 622 nghìn tỷ đồng). Nhà nước còn thực hiện giao quản lý đất và rừng ổn định; vận động người dân tộc thiểu số sống định canh, định cư và tái định cư ở những địa bàn phù hợp, vì lợi ích kinh tế – xã hội và môi trường cộng đồng và quốc gia.

Vì đoạn này rất dài chỉ nêu rõ một số vấn đề đáng bàn. Một là, trong câu đầu tiên có ghi “Việt Nam coi…”. Đề nghị nên nói cụ thể là nhà nước Việt Nam thay vì “Việt Nam” (Việt Nam là một đất nước, không phải là một tổ chức chính trị như câu này hàm ý). Tôi cũng biết ít nhiều về những vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam và đã từng tham gia những công trình phục vụ nhà nước Việt Nam. Về những thông tin trên tôi không cần tranh luận. Mục tiêu cơ bản phải là năng cao an sinh xã hội và “an ninh kinh tế” của của người dân Việt Nam. Nêu ra những chỉ số thực sự là không hữu ích chút nào vì chúng ta thiếu thông tin ở đây để đánh giá ý nghĩa của những chỉ số này. Mặt khác, một lần nữa tôi không có vấn đề lớn lắm về những mực tiêu và ý định kể trên, dù e rằng nếu coi nhà nước Việt Nam là một tổ chức nhân đạo vì những khoản tiền mà nhà nước chi tiêu lại đến từ tiền thuế của dân.

5. Khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân ngày càng được cải thiện cũng là một điểm nhấn trong BÐASXH ở Việt Nam. Cuối năm 2012, khoảng 90,7% số người nghèo nhất đã được sử dụng điện lưới; hơn 85% số dân nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; 100% số xã có trạm y tế, trong đó 78% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; 100% số xã có đường giao thông đến trung tâm; 67,5% số xã có công trình thủy lợi nhỏ. Hàng nghìn nhà tình nghĩa và hàng trăm dự án nhà ở xã hội được triển khai trên toàn quốc, góp phần đáp ứng nhu cầu cho hàng triệu người dân thuộc đối tượng chính sách. Từ năm 2010, cả nước đã cơ bản hoàn thành phổ cập THCS với 100% số xã có đủ trường tiểu học, THCS. Tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học là 97,7% và bậc trung học cơ sở là 87,2%. Mỗi năm, 1,8 triệu lao động được dạy nghề qua hệ thống 10 nghìn trường, trung tâm học tập cộng đồng và gần 700 trung tâm giáo dục thường xuyên. Riêng hai năm 2011 – 2012, ngân sách Nhà nước đã hỗ trợ 11.844 tỷ đồng tiền miễn, giảm học phí, trợ cấp học bổng, hỗ trợ tiền ăn trưa cho bốn triệu lượt học sinh con của hộ nghèo, hộ chính sách và trẻ đến 5 tuổi. Theo Quyết định 36/2013/QÐ-TTg, từ ngày 15-3-2013, Nhà nước thực hiện hỗ trợ 15kg gạo/tháng (chín tháng/năm học) cho mỗi học sinh tiểu học và THCS người dân tộc thuộc khu vực có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

Vâng, “khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân ngày càng được cải thiện cũng là một điểm nhấn trong BÐASXH ở Việt Nam” là điều đáng mừng. Tôi và không ít người khác đang lo là việc có “khả năng tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản” rất dễ đánh mất ý nghĩa tích cực nếu dân phải bỏ biết bao nhiêu tiền để đảm bảo chất lượng dịch vụ là trên mức có thể chấp nhận được. Vâng, Việt Nam đã thấy nhiều tiến bộ đối với việc mở rộng các dịch vụ cơ bản là điểm tốt.

Tôi hoàn toàn đồng ý rằng, Đảng Công Sản Việt Nàm và nhà nước CHXHCNVN lâu nay đã quan tâm đến những vấn đề này. Nhưng vấn đề này đâu có nghĩa là không có vấn đề nghiêm trọng chúng ta phải chú ý đến. Mục đích của bài này là gì? Nêu mãi những chỉ số như trên không có nghĩa lắm.

6. Các loại hình bảo hiểm cho người dân ngày càng mở rộng với sản phẩm ngày càng đa dạng. Ðối tượng tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ngày càng tăng và được hưởng các chế độ và quyền lợi kịp thời, đầy đủ, an toàn, đúng quy định. Năm 2012, hơn 60,5 triệu người tham gia BHXH, BHYT tăng 5,9% so với năm 2011. Tính đến năm 2011, BHXH bắt buộc đã thu hút được 20% lực lượng lao động và 70% đối tượng liên quan. BHXH tự nguyện thu hút được hơn 0,22% số lao động thuộc diện tham gia. BHTN đã có hơn 8,1 triệu người tham gia. Chỉ riêng hai năm 2011 – 2012, NSNN đã hỗ trợ hơn 22 nghìn tỷ đồng cấp thẻ BHYT miễn phí cho 29 triệu lượt người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi; hỗ trợ bằng 70% mệnh giá thẻ mua BHYT cho người dân thuộc diện cận nghèo (với mức 3% lương tối thiểu chung). Hơn 90% số trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ. Chênh lệch tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi giữa nông thôn và thành thị đã giảm xuống còn 14,3%, so với 20,3% năm 2001. Tỷ lệ tử vong trẻ dưới 1 tuổi, tỷ lệ tử vong mẹ đều thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia có cùng điều kiện kinh tế. Tuổi thọ bình quân của Việt Nam hiện đạt 73-74 tuổi. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước liên tục giảm, chỉ còn gần 9,64% vào cuối năm 2012, so với 22% năm 2006. Tỷ lệ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã giảm từ trung bình 47% năm 2006, xuống còn 28,55% năm 2012 ở vùng Tây Bắc, Ðông Bắc – 17,39%, Tây Nguyên -15,58%, Bắc Trung Bộ – 15,01%. Thu nhập bình quân của hộ nghèo năm 2010 tăng 2,3 lần so với năm 2005; bình quân GDP tăng từ 1.024 USD/người năm 2008 lên 1.540 USD/người năm 2012.

Vâng, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ đáng mừng. Tuy nhiên, chế độ bảo hiểm y tế còn quá nhiều vấn đề. Hy vọng những vấn đề này sẽ được giải quyết trong tương lai. Đời sống của hàng triệu người đã được cải thiện, nhưng hàng triệu người khác vẫn nghèo và dễ bị rơi vào khủng hoảng vì tình trạng mất ổn định trong nền kinh tế. Hơn nữa, mức sống tối thiểu ở Việt Nam còn quá thấp. Nên chúng ta phải cần thận trọng khi quá lạc quan về tinh hình an sinh xã hội. Nghèo tuyệt đối (absolute poverty) đang giảm chậm hơn so với trước trong khi đó sự nghèo tương đối (relative poverty) đang tăng là những xu hướng đáng lo. Tóm lại, việc Việt Nam đã có nhiều tiến bộ là đáng mừng nhưng cũng phải nhắc đến những vấn đề vẫn còn và nếu không viết như thế này chỉ phản ánh bệnh thành tích vẫn còn ở Viẹt Nam.

7. Với những nỗ lực nói trên, Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn tất cả các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ đặt ra cho năm 2015 nên đã được Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thế giới trao giải thưởng thành tích xuất sắc trong xóa đói, giảm nghèo. Tại Hội nghị cấp cao “Kêu gọi hành động vì sự sống còn của trẻ em” tổ chức ở Hoa Kỳ năm 2012, LHQ và nhiều tổ chức quốc tế đã đánh giá Việt Nam thuộc tám quốc gia đạt tiến độ thực hiện Mục tiêu MDG 4 về giảm tử vong trẻ em; thuộc chín quốc gia đạt tiến độ thực hiện về Mục tiêu MDG 5 về giảm tử vong mẹ; xếp thứ 27 trong số 101 nước đang phát triển về năng lực giảm nghèo của các quốc gia (gọi tắt là CPM), trên cả In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Phi-li-pin, Thái-lan…

Ở đây, tôi không có bình luận gì.

8. Bằng việc thông qua và triển khai Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, Việt Nam phấn đấu đến năm 2020, hệ thống BÐASXH sẽ bao phủ toàn dân; đặt trọng tâm vào các mục tiêu giảm nghèo đa chiều bền vững; tiếp cận và thụ hưởng công bằng các dịch vụ và các phúc lợi xã hội, các nguồn lực, cơ hội và thành quả phát triển cho người dân, ưu tiên người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vùng đặc biệt khó khăn, người dân nông thôn, công nhân làm việc tại các khu công nghiệp và sinh viên; tăng cường nhận thức của cộng đồng, trợ giúp pháp lý, năng lực của cơ quan thực thi pháp luật về quyền con người. Những chủ trương, chính sách, kết quả hoạt động thực tế và định hướng, mục tiêu phấn đấu nêu trên khẳng định sự nhất quán và những nỗ lực không mệt mỏi trong công tác BÐASXH của Việt Nam. Ðó còn là bằng chứng mạnh mẽ bác bỏ luận điệu của những người cố tình xuyên tạc, phủ nhận vai trò của Nhà nước Việt Nam trong công tác BÐASXH. Ðồng thời, những sự thật hiển nhiên này cũng bác bỏ dứt khoát sự vu khống, bịa đặt trắng trợn và suy diễn méo mó của một số kẻ cho rằng, đâu đó trên đất nước Việt Nam còn có hiện tượng kỳ thị dân tộc và bỏ rơi người nghèo, nhất là ở nông thôn, người dân tộc thiểu số, miền núi. BÐASXH tốt hơn, xã hội dân chủ, cởi mở và đồng thuận hơn đã, đang và sẽ góp phần quan trọng để phát triển đất nước, cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đoạn cuối không có nhiều vấn đề chưa đề cập đến trước đây và nói chung tôi ủng hộ định hướng (dù có ý kiến khác một chút về cách thực hiện). Mặt khác, câu khẳng định “Ðó còn là bằng chứng mạnh mẽ bác bỏ luận điệu của những người cố tình xuyên tạc, phủ nhận vai trò của Nhà nước Việt Nam trong công tác BÐASXH” thật ngây ngô. Ai là người phủ nhận vai trò của Nhà nước Việt Nam trong công tác BÐASXH? Chắc chắn không phải là tôi hay ai biết nhiều về chính sách xã hội ở Việt Nam. Tôi thích câu cuối cùng: “BÐASXH tốt hơn, xã hội dân chủ, cởi mở và đồng thuận hơn đã, đang và sẽ góp phần quan trọng để phát triển đất nước, cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.” Lạc quan quá!

Kết luận gì?

Như vậy, chúng ta có thể kết luận gì về bài viết này? Đối với tôi, một người quan tâm nhiều về những vấn đề xã hội ở Việt Nam và cũng ủng hộ Việt Nam trong quá trình cải cách những thể chế chính trị-xã hội, tôi lo nhất về giọng văn trong bài này.

Nó giả định chỉ có một quan điểm duy nhất mà có giá trị và ai suy nghĩ cách về tình hình ở Việt Nam nói chung và đối với BĐASXH nói riêng là những kẻ thù địch. Chính vì thế tôi thấy trong bài này là một vấn đề ‘văn hóa’ Việt Nam nói chung và cụ thể hơn chính quyền Việt Nam phải chấp nhận.

Ai cũng biết mực đích và chúc năng của báo Nhân Dân chính là để đầy mạnh đường lối của Đảng. Luôn luôn giả định đường lối hiện giờ là đúng, dù là thời kỳ Lê Duẩn hay thời kỳ hiện nay. Nhưng muốn có một Việt Nam tốt đẹp hơn, xã hội dân chủ, cởi mở và đồng thuận hơn phải thực bảo đảm những quyền xã hội, chính trị, dân sự. Phải xóa văn hóa chính trị một chiều. Phải bình thường hóa việc có tranh luận trên báo chí. Phải thực sự cởi mở về những vấn đề quan trọng mà đất nước đang phải đương đầu.

JL

Tín ngưỡng thờ "Ông Tà" của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long





Một điểm thờ “Ông Tà”.

Đối với đồng bào Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long, NeakTa (Ông Tà) là vị thần có vị trí rất quan trọng trong đời sống tâm linh của họ. Đây là vị thần gần gũi, dân dã gắn liền với sinh hoạt của cộng đồng dân cư. Dân gian tin là NeakTa có quyền uy tối thượng khiến cho những kẻ làm ác phải kiêng dè.
Về nguồn gốc của vị thần này cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. “(...) Moura (1883) cho rằng NeakTa là những vị thần các cánh đồng hay khu vực mà người ta cầu xin khi có công việc và NeakTa có nguồn gốc Bà La Môn giáo. Ông đặt các vị thần này trong vũ trụ quan của tôn giáo đó: Những NeakTa có từ khi các xứ sở được thành lập và chính Preak In (Indra) đã giao cho họ công việc trông coi các xứ sở này. Adhémar Lecclère (cuối thế kỷ XIX) cho NeakTa là hồn của những người đã chết từ lâu. Monod (1931) lại cho NeakTa là các vị thần đồng áng hay thần ở trong rừng mà người ta phải cầu xin khi có công việc liên quan đến khu vực này. Quan niệm cho rằng NeakTa có nguồn gốc Bà La Môn giáo cũng được L.Malleret (1946) tán thành. Ông lấy vị thần Neang Khmau (Bà Đen) trong tín ngưỡng của người Khmer làm minh chứng. Éveline Porée Maspéro khác những ý kiến trên và dẫn chứng có trường hợp NeakTa là con vật. Theo Phan An thì có thể tục thờ NeakTa ở người Khmer là tàn dư của tín ngưỡng thờ đá có ở Nam Á”1.
Tuy có những quan niệm về NeakTa khác nhau nhưng tất cả các ý kiến trên đều có chung một nhận định: NeakTa là vị thần bảo hộ nhân dân. Đồng bào Khmer cho rằng: “NeakTa là một vị nam thần đứng tuổi, có trách nhiệm bảo hộ con người và đất đai trong một khu vực (tương tự như loại tín ngưỡng Thành Hoàng của người Kinh). Đối với người Khmer, NeakTa có nhiều xuất xứ khác nhau, có thể là linh hồn của một người đã chết từ lâu, một vị thần ở trong rừng thẳm, hoặc một vị thần ở nơi đồng ruộng được chỉ định để coi sóc một địa phương hoặc một khu vực nào đó” 2.
NeakTa còn có nhiệm vụ trông coi sức khỏe và sự thịnh vượng ở những nơi mà ông giữ gìn. Ông chịu trách nhiệm về những chuyện xảy ra ở đó, nên mỗi khi có bệnh dịch, địa phương bị loạn lạc, nhất là khi hạn hán, người ta đều làm lễ cầu khẩn “Ông Tà”.
Người ta căn cứ vào những đặc điểm, chức năng, truyền thuyết... để phân chia NeakTa ra thành nhiều loại, vì vậy tên gọi NeakTa trong đời sống của người Khmer rất đa dạng. “Loại dùng tên của một vật trong thiên nhiên, hoặc dùng địa danh để đặt tên, loại mang tên nhân vật trong truyền thuyết, loại căn cứ vào màu sắc để gọi tên, cũng có loại tên có nguồn gốc từ đạo Bà La Môn như NeakTa Day Khmau, NeakTa Kocohom, NeakTa Buôn Muk, NeakTa Pottobol, NeakTa Neang Khmau, NeakTa Neang Khiu. Riêng các NeakTa Day Khmau, Kocohom được thờ cúng rất nhiều ở các vùng Đồng bằng sông Cửu Long được người ta xem như những hóa thân của các thần Vishnou và Siva trong các truyền thuyết xa xưa. Các NeakTa này thường được thờ cúng ở chùa” 3.
Nơi thờ cúng NeakTa thường là những ngôi miếu nhỏ, đơn sơ được làm bằng cây lá dựng ở khúc quanh con đường, ở ngã ba sông hay dưới gốc cây to trong mỗi ấp, cũng có khi miếu thờ được xây to hơn bằng gạch được đặt trong khuôn viên chùa, hay ở một vị trung tâm nào đó trong phum sóc. Trên bệ thờ mỗi miếu thường là những viên đá cuội bóng láng, người ta tin rằng đó là hóa thân của NeakTa mà người Kinh thường gọi là “Ông Tà” và gọi các miếu đó là “miếu Ông Tà”.
“Lễ cúng ông Tà hằng năm được tổ chức vào tháng 4, tháng 5 dương lịch, tức là trong vòng một tháng đầu mùa hạ trước khi làm đồng áng. Vào những ngày này, người Khmer họp nhau làm lễ theo từng sóc để cúng ông Tà, và cũng để xin nước mưa làm ruộng rẫy trong năm. Họ kính trọng Ông Tà, coi như vị thần trực tiếp bảo hộ và giúp họ thu hoạch tốt trong công việc đồng áng và trong đời sống hàng ngày. Vị thần này đã cho nước mưa và đuổi các sâu rầy không cho phá lúa, màu”4.
Người ta đến miễu Ông Tà còn để làm lễ xin nước mưa. Các lễ vật cúng Ông Tà thường là đầu heo, gà, vịt luộc, rượu... Tuy nhiên, các lễ vật này không chỉ dùng để cúng Ông Tà, mà nhân tiện người ta cũng cúng luôn các vị Thổ thần và cả ma quỷ ngoài đồng mà người ta quan niệm rằng đều là con cháu của Ông Tà. Các ma quỷ được ăn uống sẽ dẫn nhau đi bảo vệ ruộng rẫy cho họ.
Ở một số nơi, người ta còn cúng cho mỗi loại Ông Tà bằng mỗi loại thức cúng khác nhau. “Cúng NeakTa phum sóc bằng thịt heo, cúng NeakTa rạch, bưng, giồng bằng thịt gà, vịt. Hoặc không cứ thời gian, gia đình nào gặp chuyện chẳng lành, sửa lễ đến miếu cúng NeakTa. Các sư sãi trong chùa bị ốm đau, cũng cúng lễ tại miếu thờ NeakTa trong khuôn viên chùa. Đồng thời NeakTa còn là quan tòa xử kiện việc người, trong phum sóc cần thề thốt điều gì. Hai bên đưa nhau đến miếu cúng NeakTa, với cách đem con gà đang sống đến miếu cắt cổ cho chảy máu rồi thả gà ra. Nếu gà sống hoặc chết là thể hiện lời thề của hai bên đúng sai”5.
Trên đường đến miễu Ông Tà làm lễ, người ta đi vòng quanh nhà ông ba vòng theo chiều kim đồng hồ tượng trưng cho sự xin nước mưa. Đi đầu là người chủ lễ, tiếp sau là những người cùng trong phum sóc. Đến miễu Ông Tà, họ vào đốt nhang, cầu khẩn Ông Tà bảo vệ cho xóm làng được bình yên, cơm no áo ấm, nhà nhà đầy tiếng cười, và cầu cho được mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Trong lúc làm lễ, nhạc cụ dân tộc hòa vào lời ca tiếng hát được cất lên như là sự thỉnh mời các vị thần đến thưởng thức.
Nếu đã thực hiện đầy đủ các nghi thức trên mà vào mùa hạ năm ấy, trời vẫn không mưa thì người ta tiếp tục làm thêm một lễ nữa gọi là Lễ xin nước mưa. “Họ đưa mười nhà sư ra đứng phơi nắng tụng kinh để động lòng trời; bên cạnh, họ để một con cá lóc vào cái thau khô, hoặc vào một hố đất khô để ông Trời thấy con cá cũng như nông dân đều cần nước mưa để sống và làm ruộng nên sẽ ban nước mưa cho họ. Sự tích này có nguồn gốc từ Phật giáo. Kinh Sôphôntôn có nói con cá lóc là tiền thân của đức Phật Thích Ca, trong các kiếp luân hồi, sống trong một hồ thật lớn tên là Anôtlah. Từ khi ngài sinh ra không bao giờ sát sanh, chỉ biết ăn rong rêu và cây cỏ mục để sống. Qua thời gian hạn hán 12 năm, mọi nơi đều khô cạn kể cả hồ Anôtlah. Mọi người và mọi sinh vật như tôm tép, cá lớn cá bé đều chết, muôn vàn tai họa đưa đến rất khủng khiếp. Cá lóc bèn suy gẫm: Ta đây, từ sinh ra đến giờ không làm hại ai, chỉ biết trầm tư mặc niệm làm lành lánh dữ, tại sao trời nỡ sát hại muôn loài và sát hại cả bản thân ta. Nghĩ vậy, cá bèn chui đầu lên khỏi bùn và kêu trời: Thưa Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng có thấy thế gian đau khổ chẳng? Ta đây 12 năm tu tâm tham thiền hầu kiếp sau đắc đạo cứu chúng sanh. Vậy giờ đây, ta kêu gọi ngài hãy cứu lấy muôn loài dưới thế gian này bằng cách ban cho những giọt mưa lành. Tiếng kêu ấy động đến trời. Ngọc Hoàng nhìn xuống thấy cá lóc đúng là hiện thân của Phật Thích Ca Mâu Ni tương lai, nên ban mưa xuống cứu rỗi cho thế gian và muôn loài”6.
Tóm lại, tín ngưỡng thờ NeakTa của đồng bào Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long là một tín ngưỡng mang lễ nghi nông nghiệp tồn tại trong nhiều thế kỷ qua. Tín ngưỡng này đã ăn sâu vào tâm thức của đồng bào Khmer, đã trở thành chỗ dựa tinh thần không chỉ đối với người lao động nghèo mà gần như tất cả các giai tầng trong xã hội. Đó là ước mơ về một cuộc sống bình an, có được nước mưa để sinh hoạt và làm ruộng, có được một vụ mùa bội thu để còn có cái ăn cái mặc, và đôi khi đó chỉ là một ước mơ về công lý được thực thi... Tín ngưỡng thờ NeakTa còn thể hiện niềm tin của đồng bào Khmer vào tổ tiên dòng họ, vào những vị thần bảo hộ xóm làng, để xin được cứu giúp mỗi khi bị thiên tai, dịch bệnh, mất mùa, tai nạn...
Trong quá trình cộng cư với các dân tộc Việt, Hoa, tín ngưỡng thờ NeakTa đã có sự giao lưu trong văn hóa của các dân tộc anh em. Giờ đây, Ông Tà không chỉ được đồng bào Khmer tin tưởng, xem là chỗ dựa tinh thần mà các dân tộc Việt, Hoa cũng tin vào sức mạnh siêu nhiên của Ông Tà. Tuy nhiên, dù Ông Tà có quyền năng tuyệt đối nhưng ông lại khá gần gũi với dân gian nên cư dân Đồng bằng sông Cửu Long đã có một giai thoại thú vị về sự tranh chấp của Ông Tà và Ông Địa như sau:
“Xưa kia, Ông Tà được nhiều người mến mộ, cúng bái nhưng từ khi Ông Địa vào nhà, bao nhiêu đồ cúng đều về tay Ông Địa, Ông Tà dần dần bị thất sủng, lại còn bị thỉnh ra ngồi dưới gốc cây hoặc bìa ruộng, bìa vườn. Vì vậy ông đã nhờ một vị thần phân xử.
Sau khi xem xét, vị thần ấy phán rằng: Địa suốt ngày cần mẫn chăm lo họa phúc cho dân tình nên được mọi người kính nể, còn như Tà thích rong chơi, hay ngao du sơn thủy, ít gần gũi xóm giềng nên người đời xao lãng, đó cũng là lẽ thường tình. Kể từ bây giờ, các ngươi hãy siết chặt tay nhau, người nào việc nấy để cùng chăm lo cho dân lành theo sự phân công của ta, ông Địa giữ nhà, Ông Tà giữ ruộng. Thế là Ông Tà mãn nguyện, sẵn sàng ngụ ở bất cứ nơi nào, dù ngoài đồng, bờ ruộng, gốc cây hay hang đá vẫn cứ vui lòng”7.

TRẦN NGU LẠC
(1) Lâm Quang Vinh, Tín ngưỡng thờ NeakTa trong cộng đồng người Khmer tỉnh Trà Vinh. In trong Tạp chí Nguồn sáng dân gian, số 4 năm 2010. Tr.59.
(2) Trần Văn Bính (chủ biên), Văn hóa các dân tộc Tây Nam Bộ - thực trạng và những vấn đề đặt ra. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2004. Tr.179-180.
(3) Trần Văn Bính (chủ biên). Sđd .Tr.180.
(4) Viện Văn hóa, Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang - 1988. Tr.126.
(5) Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh Nam Bộ. NXB Hà Nội - 1997. Tr.246.
(6) Viện Văn hóa. Sđd. Tr.127-128.
(7) Theo Hoài Phương, Ông Tà trong tín ngưỡng dân gian Nam Bộ. Báo Doanh Nhân Sài Gòn cuối tuần số Xuân 2009.

Thơ Bác Hồ viết về phụ nữ





Các đại biểu phụ nữ điển hình tiên tiến chụp ảnh lưu niệm với lãnh đạo tỉnh tại Hội nghị biểu dương điển hình tiên tiến toàn tỉnh lần thứ II (3 - 2010) do Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh tổ chức. Ảnh: CTV
(THO) - Nhà sử học người Mỹ Giôxơphin Stensen trong một tham luận đọc tại hội nghị quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 3 -1990 có nhận xét: “Trong số các lãnh tụ là nam giới như Tômát Giecphécsơn, Mahátma Găngđi, Vlađimia Elích Lênin, Các Mác, Mao Trạch Đông, Máctin Lôthơ Kinh và Nenxơn Manđêla, chỉ có Hồ Chí Minh là luôn luôn nói về quyền bình đẳng của người phụ nữ, về giáo dục, tự do ngôn luận, độc lập về kinh tế và quyền của phụ nữ được hưởng các quyền lợi khác như của nam giới.

Chỉ Hồ Chí Minh là thấy được rằng phụ nữ đã phải chịu đựng những gánh nặng như nam giới và còn hơn thế nữa. Tất cả những lãnh tụ nói trên đều quan tâm sâu sắc đến công lý xã hội cho toàn xã hội... Chỉ Hồ Chí Minh đã thẳng thắn nói về chủ đề phụ nữ”(1)

Ngày nay, không phải chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, nhân loại đều nhất trí khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người quan tâm sâu sắc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ và đấu tranh quyết liệt giải phóng phụ nữ. Chính Người đã gắn cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với con đường đi tới bình đẳng, tự do và phát triển của phụ nữ.

Bác Hồ của chúng ta đã tận dụng mọi cơ hội trên diễn đàn quốc tế và trong nước, trên các phương tiện thông tin, trong các tác phẩm chính trị, tác phẩm văn học để phát biểu về phụ nữ, bảo vệ và đấu tranh cho phụ nữ. Chủ đề phụ nữ đã trở thành một chủ đề lớn trong các bài phát biểu về cách mạng, các bài phát biểu trực tiếp về phụ nữ và với phụ nữ, trong các tác phẩm văn xuôi và trong thơ ca.

Thơ ca viết về phụ nữ mà Bác Hồ để lại, ngoài những vần thơ lẻ, nếu tính từ bài thơ Cô Vượng khuyên chồng viết ở Xiêm (Thái Lan) năm 1928 đến bài thơ Khen 11 cháu gái thành phố Huế trong cuộc Tổng tiến công mùa xuân 1968, thì số lượng thơ là đáng kể và tự nó đã nói lên một phần về sự quan tâm của Bác Hồ với chủ đề này.

Thơ ca viết về phụ nữ của Bác trước hết là biểu hiện tấm lòng của Bác, một tấm lòng rộng mở, yêu thương, thấu hiểu, đồng cảm và cảm thông. Ba bài thơ Cô Vượng khuyên chồng, Thư vợ gửi chồng, Thư vợ gửi chồng đi làm cách mạng viết trước cách mạng Tháng Tám cho thấy sức cảm thông, thấu hiểu đối với phụ nữ của Bác là rất lớn. Đọc những bài thơ này cứ tưởng như đọc những bài thơ của chính phụ nữ viết vậy. Người phụ nữ trong xã hội cũ chịu khó, chịu khổ nhẫn nhịn, lặng lẽ hy sinh cho chồng con, cho gia đình yên ấm phát triển. Lời tâm sự của người vợ với chồng:

Đói no bữa cháo bữa rau
Tuy lao khổ em dám đâu phàn nàn

(Thư vợ gửi chồng đi làm cách mạng)

Và:

Thù nước, thù nhà chàng gắng trả,
Việc nhà, việc cửa, thiếp xin đương.

(Thư vợ gửi chồng)

Ý thức về bổn phận, về trách nhiệm và sự chịu đựng là phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Các chị biết hy sinh, biết chịu đựng nhưng các chị cũng biết đón chờ hạnh phúc, niềm vui:

- Bao giờ đuổi sạch quân thù địch,
Ta sẽ sum vầy ở Cố hương.

(Thư vợ gửi chồng)

- Mai sau anh trở lại nhà,
Ánh trăng càng tỏ màu hoa càng nồng

(Thư vợ gửi chồng đi làm cách mạng)

Phải thực sự cảm thông, phải đồng cảm lắm mới có những câu thơ bật ra từ trái tim như thế. Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên thú vị, hồi ở trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, Bác cũng đã viết ba bài thơ (trong số 6 bài viết về phụ nữ của Nhật ký trong tù) về tình cảnh đáng thương trong hoạn nạn, tai ương của mấy cặp vợ chồng. Vợ người bạn tù đến thăm chồng, Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng, Gia quyến người bị bắt, toàn những con người và sự việc mà Bác chứng kiến, bài thơ nào cũng da diết một tình thương yêu, một sự cảm thông chia sẻ. Những người phụ nữ này chẳng phải là con cháu, là anh em ruột thịt, là đồng bào cùng Tổ quốc với Bác, họ lại còn là người đồng hương với những người đang ngày đêm hành hạ, đọa đầy Bác, vậy mà Bác rất thương. Tình thương của Bác trùm lên khắp thế gian. Ai là người cực khổ, là người nhỏ bé trong xã hội Bác đều thương. Cảm thương với nỗi đau của người vợ mất chồng, bài thơ Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng đâu còn là lời của người làm thơ nữa mà là lời của người trong cuộc cơ sự vì sao vội lánh đời?. Để thiếp từ nay đâu thấy được thì rõ là đã nhập cái đau vào mình vậy. Một cảnh tượng thương tâm, đau xót khác, một người vợ vô tội bỗng nhiên phải ngồi tù thay vì chồng chị ta trốn đi lính làm bia đỡ đạn bảo vệ bọn cường quyền:

Biền biệt anh đi không trở lại,
Buồng the trơ trọi, thiếp ôm sầu;
Quan trên xót nỗi em cô quạnh,
Nên lại mời em tạm ở tù.

(Gia quyến người bị bắt lính)

Một chế độ xã hội vô lý, vô nhân, trớ trêu và oái oăm đến thế là cùng. Đọc bài thơ Gia quyến người bị bắt lính không thể không liên tưởng đến một cảnh tượng dã man mà Bác đã lên án gay gắt trong Bản án chế độ thực dân Pháp viết từ năm 1925. Trong Bản án này, Bác dành hẳn một chương riêng Những nỗi khổ nhục của người đàn bà bản xứ mô tả tỉ mỉ những thân phận, những bà, những chị, những cháu bé gái hàng ngày, hàng giờ bị các quan thực dân áp bức, đầy đọa. Một tên Tây đoan ở tỉnh Bà Rịa, tự cho phép mình đánh gần chết người đàn bà chuyên gánh muối thuê cho hắn vì chị ta vô ý làm ồn ngoài hiên khiến hắn mất giấc ngủ trưa. Một tên Tây đoan khác ngang nhiên co chân đạp vào giữa bụng một chị phụ nữ đang mang thai, làm chị bị trụy thai và mấy ngày sau thì chết chỉ vì khi chào đã không gọi hắn là quan lớn. Căm phẫn trước tội ác dã man của bọn thực dân, Bác lên án đanh thép: Người ta nói: Chế độ thực dân là chế độ ăn cướp. Chúng tôi nói thêm: chế độ hãm hiếp đàn bà và giết người (2).

Trong một tác phẩm khác, Lên án chủ nghĩa thực dân, Bác đã vạch trần những hành động bạo ngược của bọn xâm lược: Không một chỗ nào, người phụ nữ thoát khỏi những hành động của bọn xâm lược; ngoài phố, trong nhà, giữa chợ hay ở chốn thôn quê, ở đâu họ cũng vấp phải những hành động tàn nhẫn của các quan cai trị, sĩ quan, cảnh binh, nhân viên nhà đoan, nhà ga...(3)

Bất công, ngược đãi, ức hiếp phụ nữ, là bản chất của chế độ thực dân phong kiến ở bất cứ đâu, bất cứ nước nào. Bác đã lớn tiếng tố cáo mạnh mẽ chế độ thực dân tàn bạo đối với phụ nữ ở khắp các châu lục, Bác đã dành sự quan tâm và tình thương lớn cho phụ nữ. Tình cảm sâu sắc nhất của Bác luôn hướng về số phận đau thương của phụ nữ. Nhưng tình cảm đó không một chiều, không bao giờ làm cho phụ nữ bé nhỏ đi. Cùng với tình thương, Bác luôn tìm mọi cách thức tỉnh giác ngộ và khích lệ người phụ nữ tự chủ trong cuộc đời riêng đứng lên trong cuộc đời chung. Trong bài Ca phụ nữ, Bác biểu dương phụ nữ tham gia công tác cách mạng, Bác ca ngợi tinh thần cách mạng, ca ngợi tinh thần dũng cảm của chị em.

Một khi phụ nữ đã đứng lên thì mọi sức mạnh được phát huy. Lời người vợ trong bài Thư vợ gửi chồng đi làm cách mạng thật rắn rỏi trong một tình thế người chồng hoạt động cách mạng không may sa vào lưới giặc, bị bắt vào tù, người vợ nguyện tiếp bước con đường đi của chồng.

Vì anh tranh đấu mấy phen,
Vì anh mong giải phóng cháu Tiên, con Rồng.
Em xin anh chớ phiền lòng
Em tuy hèn yếu quyết thay chồng đấu tranh.


Ý thức về mình bao giờ cũng tự có trong bản thân người phụ nữ, chỉ có điều, nó bộc lộ và phát huy như thế nào, trong những hoàn cảnh nào, trường hợp nào.

Thời kỳ Mặt trận Việt Minh do yêu cầu khẩn thiết tập hợp lực lượng, Bác tha thiết kêu gọi phụ nữ:

Bây giờ cơ hội đã gần
Đánh Tây, đánh Nhật, cứu dân cứu nhà.
Chị em cả trẻ lẫn già,
Cùng nhau đoàn kết để mà đấu tranh.
Đua nhau vào Hội Việt Minh,
Trước giúp nước sau giúp mình mới nên
.
(Ca phụ nữ)

Phụ nữ đã làm theo lời Bác, tự nguyện tự giác tham gia Mặt trận Việt Minh, cùng toàn dân nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà giành độc lập tự do. Để phát huy sức mạnh và tài năng phụ nữ, trong thơ ca Bác đã làm sống dậy những trang sử hào hùng của phụ nữ trong lịch sử dân tộc. Đó là Hai Bà Trưng phất cao cờ khởi nghĩa rửa sạch mối hận thù chồng nợ nước. Đó là Bà Triệu anh hùng, tài năng dũng cảm, cưỡi voi xung trận đuổi quân xâm lược. Đó là nữ danh tướng Bùi Thị Xuân dũng mãnh trăm trận trăm thắng.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và chống Mỹ cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác, vai trò và sức mạnh của phụ nữ càng được phát huy, phụ nữ được giải phóng, phụ nữ có mặt ở mọi nơi, trên khắp các mặt trận. Bác rất tự hào về những tấm gương phụ nữ anh dũng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi khi chị em phụ nữ lập chiến công hoặc đạt thành tích xuất sắc, Bác động viên, biểu dương và khen ngợi kịp thời. Chị Nguyễn Thị Bưởi (tức Anh hùng liệt sĩ Mạc Thị Bưởi) hy sinh anh dũng, Bác viết bài thơ Nữ Anh hùng Nguyễn Thị Bưởi tỏ lòng khâm phục và ca ngợi tinh thần hăng hái xung phong đi đầu trong mọi công việc, mưu trí, dũng cảm và kiên cường bất khuất trước quân thù. Bài thơ như một chuyện kể rất mực giản dị:

Việc gì chị cũng xung phong
Khi đánh giặc, khi giao thông;
Tuyên truyền tổ chức, chị không ngại nề.


Một hôm trên đường đi khai hội trở về chị bị địch phục kích bắt, chúng tra tấn dã man và dùng những thủ đoạn đê hèn làm nhục chị, nhưng chị không một lời khai, lại còn dùng mưu trí đánh lừa địch, kịp thời báo tin cho đồng đội cất giấu tài liệu bí mật của Đảng. Do không lung lạc, không khuất phục được, chúng đã đem chị ra hành hình một cách man rợ:

Đứa dao khoét vú đứa chân dẫm đầu,
Đứa thì tay đỡ chậu thau,
Đứa thì mổ bụng từ đầu đến chân.

Chị vẫn một lòng một dạ trung thành với cách mạng, tiến công địch cho đến giây phút cuối cùng của đời mình Hô to khẩu hiệu chửi quân bạo tàn. Chị Bưởi đã trở thành người phụ nữ kiên cường, bất khuất. Bài thơ kết thúc, Bác nêu cao tấm gương Anh hùng Mạc Thị Bưởi:

Nêu gương oanh liệt muôn đời ngàn sau

Trong cuộc Tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân 1968, được tin các cháu dân quân gái thành phố Huế lập chiến công, Bác xúc động có thơ khen:

Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường,
Khôn ngoan dàn trận khắp trong phường.
Bác khen các cháu dân quân gái,
Đánh giặc Hoa Kỳ phải nát xương.

(Khen 11 cháu dân quân gái thành phố Huế)

Bác thực sự coi phụ nữ là lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Một khi phụ nữ được giác ngộ, được giải phóng họ sẽ phát huy tất cả tài năng và sức mạnh to lớn của mình. Từ thực tiễn, Bác khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà tốt đẹp, rực rỡ”(4)

Bác tôn trọng phụ nữ, đề cao vai trò phụ nữ và chăm lo cho sự phát triển của phụ nữ. Bác coi việc giải phóng phụ nữ là mục tiêu của cách mạng và sự nghiệp giải phóng phụ nữ bao giờ cũng gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, gắn liền với độc lập, tự do của Tổ quốc. Tương lai phát triển của phụ nữ đi cùng với bước tiến của đất nước.

Trong hai cuộc trường kỳ kháng chiến, khẩu hiệu vừa chiến đấu vừa sản xuất mà Bác và Đảng đề ra được quán triệt và trở thành hành động cụ thể, là việc làm hàng ngày. Bác nêu điển hình trong Thư Bác Hồ gửi Mẹ Nguyễn Thị Đào, một bà mẹ vì nước, vì dân đã hiến dâng tất cả 6 người con cho Tổ quốc. Lời thơ trong thư là lời người mẹ mà cũng là lời non nước, tình nhà nghĩa nước quyện chặt, tiền tuyến hậu phương là một, hiện tại và tương lai kết nối, phơi phới tin yêu:

Con đi đi, đi đi con
Đánh Tây để giữ nước non Lạc Hồng
Bao giờ kháng chiến thành công
Con về giúp mẹ vun trồng lúa khoai.

Biết bao tấm gương những mẹ, những chị, những em, những cháu gái đã góp phần làm nên truyền thống anh hùng, làm nên chiến thắng lẫy lừng trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, làm nên những kỳ tích trong xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Bác rất tâm đắc và luôn nhắc nhở mọi người câu nói của Mác: Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái thì biết xã hội tiến bộ như thế nào. Bác đã tặng phụ nữ Việt Nam 8 chữ vàng: Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.

Hơn ai hết, Bác Hồ là người thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ, thương yêu và tin tưởng phụ nữ; đề cao và phát huy vai trò, tài năng và sức mạnh của phụ nữ. Bác khẳng định, giải phóng phụ nữ đó là một cuộc cách mạng to và khó. Dù to và khó nhưng nhất định thành công(5).

Bác tin tưởng ở cách mạng, Bác tin ở phụ nữ, đã viết câu thơ về phụ nữ:

Lòng vàng gan sắt nào đà kém ai.
(1) Vai trò của Hồ Chí Minh trong lịch sử tiến bộ của phụ nữ - Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh - NXB Khoa học xã hội - Hà Nội 1990, tr.142
(2) Bản án chế độ thực dân Pháp - Nxb Sự thật - Hà Nội 1960, tr.110
(3) Lên án chế độ thực dân - Nxb Sự thật - Hà Nội 1959, tr.29
(4) Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ - Nxb Phụ nữ - Hà Nội 1970, tr31
(5) Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ - Nxb Phụ nữ - Hà Nội 1970, tr.17.


.Lê Xuân Đức

Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2013

Cú đánh trí mạng vào lòng nhân ái



Trần Minh Quân, TPHCM



(TBKTSG Online) - Trong vòng hơn một tuần, liên tiếp hai sự việc xảy ra liên quan đến lòng nhân ái, và chưa bao giờ lòng nhân ái của con người lại bị tổn thương đến vậy. Dư luận về vụ hàng cứu trợ lũ lụt “giẻ rách” tại Nghệ An chưa nguôi thì lại xảy ra sự việc bốn em nhỏ trốn chạy khỏi nhà mở tại Đồng Nai. Mặc dù hai sự việc xảy ra ở hai thời điểm, hai địa phương khác nhau, nhưng có cùng một điểm chung, đó đều là một cú đánh trí mạng vào lòng nhân ái.

Công việc cứu trợ đồng bào vùng lũ và việc chăm sóc các em nhỏ mồ côi, cơ nhỡ, không nơi nương tựa là việc làm nhân đạo, nó thể hiện tinh thần lá lành đùm lá rách, là một nghĩa cử cao đẹp đáng biểu dương, đáng trân trọng.

Tống khứ bằng hết những thứ thừa thải?

Đồng bào vùng lũ đang trong cơn hoạn nạn, nhà cửa đổ nát, gia tài tiêu tan, đang sống cảnh màn trời chiếu đất, ... rất cần những tấm lòng sẻ chia. Liên tiếp những chuyến hàng cứu trợ từ mọi miền đất nước, từ bạn bè thế giới được chuyển về đúng lúc giúp bà con vượt qua được những khó khăn trước mắt, bên cạnh đó còn có những lời động viên, chia buồn sâu sắc những mất mát mà đồng bào miền Trung vừa phải gánh chịu. Tất cả sự đùm bọc sẻ chia của mọi người như ngọn lửa thắp sáng giữa đêm đông giá buốt, mang lại hơi ấm để nhen nhóm chút hy vọng của cuộc sống vốn quá nhiều khó khăn này.

Mỗi đợt lũ đi qua, cũng là lúc những tấm lòng nhân đạo từ khắp nơi hướng về đồng bào miền Trung ruột thịt. Nghĩa cử cao đẹp ấy sẽ trọn vẹn nếu không có những sự cố đang tiếc xảy ra ở Nghệ An. Đành rằng những người dân đang rất thiếu thốn, cơ cực trăm bề, trong lúc này nhận được sự chia sẻ bất cứ thứ gì cũng đều đáng quý, từ gói mì, cân gạo, chiếc áo, chiếc quần, viên thuốc, ... Tuy nhiên, không thể chấp nhận một số người xem việc cứu trợ như cơ hội để tống khứ cho bằng hết những thứ thừa thải của mình.

Thời gian trước đây, dư luận cũng đã phát hiện và cực lực lên án một số mặt hàng cứu trợ cho nhân dân vùng lũ là những lô hàng hết hạn sử dụng. Vì lợi ích, vì hiệu quả kinh doanh, một số doanh nghiệp xem đây là “cơ hội” giải quyết hàng tồn kho. Nhưng xem ra, việc này dễ hiểu, dễ thông cảm hơn những gì vừa diễn ra ở Nghệ An, khi những thùng hàng dán mác “hàng cứu trợ” là là những thứ giẻ rách, thậm chí là những bộ “phụ tùng” nhăn nheo, không biết đã hết niên hạn sử dụng từ khi nào?

Khi mang những thứ giẻ rách này đi cứu trợ, một số người đã vô tình hay cố ý xem thường, thậm chí sỉ nhục người nhận. Họ đang cần, họ đang thiếu thật đấy nhưng họ đâu đến nỗi phải “được nhận” những thứ bỏ đi như vậy.

Sự việc trên đây không phải phổ biến, nhưng nó đã làm hoen ố hình ảnh cao đẹp của công việc từ thiện, nó đã đánh một cú knock-out vào tấm lòng của những người làm từ thiện chân chính.

Mái ấm hay làng nô lệ?

Người viết bài này trước đây đã từng quen những người làm việc tại nhà mở Nhị Xuân 3, thuộc Thành đoàn TPHCM đặt tại phường 13, quận Tân Bình. Cách đây cũng đã gần 10 năm, khi đó nhà mở này lúc nào cũng đông vui, rộn rã tiếng cười. Những bạn trẻ ngày ấy làm việc tại nhà mở này hàng đêm phải đi khắp các con phố, từ trung tâm thành phố đến vùng ngọai ô, để tìm kiếm những trẻ em đường phố, sống lây lất trên vỉa hè và đưa về nuôi nấng, chăm sóc và cho học chữ.

Các em từng được đưa về và sống ở đây đa số là những trẻ cơ nhỡ, từ mọi nơi lưu lạc về TPHCM, sống bằng đủ thứ nghề từ ăn xin, đánh giày, phụ quán ăn, ... Các em được người của trung tâm tìm về, lo cho ăn uống, lo cho chỗ ngủ. Ban ngày các em có thể đi làm những công việc của mình như đánh giày, tối đến các em về nhà mở nghỉ ngơi, được các cô chú dạy học. Nhìn những đứa trẻ đường phố rách rưới, bụi bặm, hàng ngày phải đối mặt với bao hiểm nguy rình rập, được chăm sóc tận tình, có nơi ăn chốn ở, có tình yêu thương, có người dạy dỗ, người viết trộm nghĩ, đây chính là thiên đường của các em.

Hình ảnh nhà mở là hình ảnh của tấm lòng ấm áp, là nơi chia sẻ những khó khăn của bao trẻ em bất hạnh. Đây chính là nơi lòng nhân đạo lên ngôi.

Trở lại sự việc xảy ra tại nhà mở ở Đồng Nai. Theo thông tin từ các cơ quan truyền thông, sự trốn chạy của các em không khác nào sự trốn chạy của những người nô lệ. Các em kể rằng, hàng ngày phải làm bao nhiêu việc nặng nhọc, lại bị đánh đập tàn nhẫn, trong đó rất nhiều hành động rất đáng bị lên án như lấy cây đánh vào mặt, vào đầu, vùi đầu vào lu nước... Nhà mở không còn là tổ ấm, là tình thương của người lớn, của xã hội dành cho những mảnh đời cơ nhỡ, bị bỏ rơi, mà nơi đây không khác nào một làng nô lệ. Người ta nhân danh lòng nhân đạo lại ngang nhiên chà đạp lên chính cái đang được xem là nhân đạo.

Trẻ em là tương lai của đất nước. Trẻ em cần được trân trọng, nuôi nấng, cần được yêu thương, nhất là đối với các em mồ côi, không nơi nương tựa. Các em đã thiếu hẳn cái cơ bản nhất trong quãng đời thơ ấu của mình là tình thương lại bị chính cái gọi là “tình thương” ấy nhẫn tâm chà đạp lên thân thể và tâm hồn vốn rất dễ bị tổn thương.

Hình ảnh những em nhỏ đang bị những vết thương chi chít trên cơ thể cùng nỗi sợ hãi trốn chạy mà không biết chạy về đâu, chỉ biết rằng các em phải chạy, chạy thật xa cái nơi gọi là “mái ấm” ấy đã làm nhiều người rơi nước mắt. Thật đáng thương làm sao! Thật là nhẫn tâm và vô trách nhiệm khi những người quản lý nhà mở Đồng Nai không dám nhìn vào sự thật, thậm chí còn bao che cho nhau.

Người ta nói “ra đường hỏi người già, về nhà hỏi con nít”, tâm hồn trẻ em luôn trong sáng, lời nói của các em nhỏ là lời nói thật, đáng tin cậy. Liệu những lời phân bua, chối bỏ trách nhiệm của những người liên quan có đáng để tin?

Lòng nhân đạo luôn luôn được đề cao trong xã hội hiện đại, lòng nhân ái luôn là mục tiêu mà mọi người hướng đến trong một xã hội nhân văn. Những việc làm phản nhân đạo hay lòng nhân đạo hình thức sẽ bị lên án, bị đào thải. Tuy nhiên những việc làm này ít nhiều đã làm cho lòng nhân ái bị tổn thương, một vết thương sẽ mãi còn âm ỉ trong tâm trí nhiều người.