Thứ Ba, 15 tháng 10, 2013

Điều 86 bộ luật hình sự CHLB Đức: Tuyên truyền bất hợp pháp




(1) Ai phát tán các tài liệu tuyên truyền
1. của một đảng phái, một hội đoàn hoặc một tổ thức, mà theo quyết định của tòa án hiến pháp công bố là bất hợp pháp
2. hoặc của một hội hoặc một nhóm của hội đó vì lý do vi phạm trật tự hoặc thuần phong mỹ tục của nhân dân mà bị cấm tuyệt đối
3. hoặc của lãnh đạo, hội đoàn hoặc cơ sở không nằm trong diện cấm nhưng để nhằm hỗ trợ các tổ chức, đảng phái, hội đoàn ghi trên 1. và 2.
4. hoặc tài liệu tuyên truyền có nội dung nhằm vận động cho việc phục hồi các tổ chức dân tộc xã hội cũ ở trong nước hoặc làm ra các tài liệu dù trong hay ngoài nước, lưu trữ, mang về nước hoặc mang ra khỏi nước, lưu trữ trong dữ liệu khiến người khác truy cập được, sẽ bị phạt tù tới 3 năm hoặc phạt tiền.

(2) Tài liệu tuyên truyền theo (1) là những tài liệu chiếu theo điều 13, khoản 3, nội dung chống lại trật tự căn bản của nền tự do dân chủ hoặc đi ngược lại thuần phong mỹ tục của nhân dân

(3) Khoản (1) không có giá trị khi sử dụng các tài liệu tuyên truyền nhằm mục đích định hướng dư luận và phòng ngừa các hành động bất hợp pháp, hoặc sử dụng cho nghệ thuật, cho nghiên cứu hoặc cho giáo dục, cho báo chí với mục đích mô tả lại sự kiện hoặc các mục đích tương tự.

(4) nếu phạm tội ở mức nhẹ thì tòa án không cần thiết phải áp dụng điều luật này.

Nguyên văn tiếng Đức:
(1) Wer Propagandamittel
1. einer vom Bundesverfassungsgericht für verfassungswidrig erklärten Partei oder einer Partei oder Vereinigung, von der unanfechtbar festgestellt ist, dass sie Ersatzorganisation einer solchen Partei ist,
2. einer Vereinigung, die unanfechtbar verboten ist, weil sie sich gegen die verfassungsmäßige Ordnung oder gegen den Gedanken der Völkerverständigung richtet, oder von der unanfechtbar festgestellt ist, dass sie Ersatzorganisation einer solchen verbotenen Vereinigung ist,
3. einer Regierung, Vereinigung oder Einrichtung außerhalb des räumlichen Geltungsbereichs dieses Gesetzes, die für die Zwecke einer der in den Nummern 1 und 2 bezeichneten Parteien oder Vereinigungen tätig ist, oder
4. Propagandamittel, die nach ihrem Inhalt dazu bestimmt sind, Bestrebungen einer ehemaligen nationalsozialistischen Organisation fortzusetzen, im Inland verbreitet oder zur Verbreitung im Inland oder Ausland herstellt, vorrätig hält, einführt oder ausführt oder in Datenspeichern öffentlich zugänglich macht, wird mit Freiheitsstrafe bis zu drei Jahren oder mit Geldstrafe bestraft.

(2) Propagandamittel im Sinne des Absatzes 1 sind nur solche Schriften (§ 11 Abs. 3), deren Inhalt gegen die freiheitliche demokratische Grundordnung oder den Gedanken der Völkerverständigung gerichtet ist.
(3) Absatz 1 gilt nicht, wenn das Propagandamittel oder die Handlung der staatsbürgerlichen Aufklärung, der Abwehr verfassungswidriger Bestrebungen, der Kunst oder der Wissenschaft, der Forschung oder der Lehre, der Berichterstattung über Vorgänge des Zeitgeschehens oder der Geschichte oder ähnlichen Zwecken dient.
(4) Ist die Schuld gering, so kann das Gericht von einer Bestrafung nach dieser Vorschrift absehen.

Đảng lao động Áo chính thức ra đời







Ngày 12 tháng 10 là ngày đảng lao động Áo (viết tắt PdA ) chính thức thành lập sau nhiều năm chuẩn bị. Đảng lao động Áo lấy mục tiêu là đại diện chân chính cho tầng lớp công dân lao động của Áo và lấy mục tiêu đấu tranh vì quyền lợi của giai cấp lao động.

Đúng 10 giờ sáng, ngày 12 tháng 10, tại số nhà 41 phố Schwendergasse 41, thành phố Wien, khoảng 100 người đại diện đã có mặt để đặt ra các vấn đề dành cho đảng trong thời kỳ tới, bầu ra lãnh đạo và ngay sau đó sẽ tổ chức đại hội đảng lần đầu tiên.



Trang web của đảng lao động Áo cũng được công bố: parteiderarbeit.at

Đại diện một số đảng phái, kể cả nước ngoài cũng có mặt, như: đảng cộng sản Hy lạp, đảng lao động cộng sản Hungary, đảng cộng sản Đức, Đảng cộng sản nhân dân Tây ban nha, đảng cộng sản Thổ Nhĩ Kỳ, đoàn thanh niên cộng sản Áo, đại diện tổ chức sinh viên cộng sản Áo, thư ký chính trị đại sứ quán Cuba tại Áo.

Địa chỉ liên hệ:
Partei der Arbeit Österreichs (PdA)
parteiderarbeit.at
pda@parteiderarbeit.at
Facebook: facebook.com/ParteiDerArbeit
Twitter: twitter.com/PdA_Austria
Google+: plus.google.com/104692072197706650861
Youtube: www.youtube.com/user/ParteiDerArbeit
Postanschrift: Rankgasse 2/5, A-1160 Wien

Đừng biến Việt Nam thành Chí Phèo!



Đọc nhiều bài trên mạng có liên quan tới ngoại giao, tôi có cảm giác rằng, người Việt cho rằng trong ngoại giao chúng ta không có nhiều lựa chọn, chủ yếu là:
- Thân Trung quốc hoặc thân Mỹ
Tại sao lại như vậy? Dù muốn hay không muốn thì Trung quốc vẫn là hàng xóm của chúng ta. Yêu ghét họ có làm cho chúng ta giàu lên hay chăng?

Tôi chỉ có thể nhận xét về những ai có tư tưởng đó rằng "Họ là những kẻ thiển cận!"
Quan hệ với Mỹ làm sao không để cho nó can thiệp vào công việc nội bộ, đó mới là khéo trong ngoại giao.
Quan hệ với Trung quốc làm sao mà nó không thể phá hoại được Việt Nam, đó mới là khôn trong ngoại giao.
Đành rằng trong ngoại giao giữa một bên là nước nhỏ với bên kia là một cường quốc, kiểu gì cũng sẽ có bên thiệt bên thua. Nhưng thua một bước để mà tiến lên đã rồi mới nói tới chuyện xa vời. Chuyện nhỏ không nhịn được thì làm sao đủ sức làm việc lớn?

Xét về nước Đức đây, thân với Mỹ được gì, mất gì?
Căn cứ quân sự Heidelberg từng là căn cứ quân sự lớn nhất của Mỹ bên Đức. Dự kiến mở rộng qui mô thành phố, với 30.000 cư dân Mỹ mà phải đóng cửa. Lý do Mỹ khủng hoảng chỉ là một góc của vấn đề. LÝ do chính là sức ép của dân và giới lãnh đạo hiện thời, đặc biệt bà thủ tướng Merkel là người sinh ra lớn lên dưới thời đông Đức cũ, ít nhiều cũng hiểu cái giá khi quân đội nước ngoài có mặt trên đất nước của họ.
Nhưng nước Đức phải chấp nhận sự có mặt của người MỸ, Anh, Pháp trong một thời gian dài như vậy. Chẳng những thế còn phải chu cấp tiền cho các căn cứ quân sự đó. Chỉ nói riêng về việc căn cứ quân sự đó lấy đất của nông dân, khiến cho hậu quả là hàng ngàn người nông dân mất ruộng đất, mất nhà cửa. Nước Đức là nước giàu có, cho nên những người nông dân đó không phụ thuộc quá vào ruộng đấ tổ tiên để lại nên họ không tới mức chết đói.
Nhưng câu hỏi: Họ có phải là công dân Đức hay không?

Giàu có như Đức, mạnh như Đức còn phải thua thiệt trong ngoại giao với Mỹ, mang tiếng là đồng minh, cùng trong khối NATO. Hay ai đó nghĩ rằng những căn cứ đó mang lại lợi lộc gì cho nước Đức? Hoàn toàn không!
Người dân Đức quan điểm sao về sự có mặt của những căn cứ đó? Hầu hết đều phản đối!

Huống hồ Việt nam là một nước nghèo!
Nghèo đủ đường!
Mới thoát được bom đạn vài thập niên, bao nhiêu liệt sĩ ngã xuống còn chưa có nổi một nấm mồ. Chẳng lẽ bây giờ lại muốn đâm đầu vào cuộc chiến mới hay sao mà thân với ghét?

Bọn cường quốc chúng nó tranh chấp nhau, dựa vào nước nhỏ để lôi kéo bè phái, làm lợi cho bản thân chúng nó chứ lợi lộc gì cho Việt Nam?
Ai đó nghĩ rằng thân Mỹ thì Trung quốc không dám tấn công à? Mơ hồ! Đừng biến Việt Nam thành Chí Phèo!

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

Máy phệt








Bukowski, Charles
Bản dịch của Thận Nhiên




CHARLES BUKOWSKI

(1920-1994)



một đêm oi bức ở quán rượu của Tony. quý vị không tơ tưởng gì đến chuyện đụ đéo nổi đâu, mà chỉ khoái lai rai bia lạnh thôi. Tony đẩy nhẹ hai ly đến phía tôi và Indian Mike, Mike xuỳ tiền ra. tôi để cho gã trả tiền vòng đầu. Tony tính tiền, chán ngán, ngó quanh — 5 hay 6 mạng đang ngó mê mải vào những ly bia của họ. bọn đần. Tony bước tới hai thằng tôi.

“có trò gì mới không hả, Tony?” tôi hỏi.

“ui, cứt.” Tony đáp.

“đếch có khỉ gì mới à.”

“cứt.” Tony nói.

“a, cứt.” Indian Mike nói.

chúng tôi nốc bia.

“mày nghĩ gì về mặt trăng?” tôi hỏi Tony.

“cứt.” Tony đáp.

“đúng là cứt.” Indian Mike nói, “thằng nào là đồ khốn nạn trên mặt đất thì hắn cũng là đồ khốn nạn trên mặt trăng, đếch có chó gì khác.”

“người ta cho rằng chắc không có sự sống trên sao Hoả.” tôi nói.

“thì sao nào?” Tony hỏi.

“ồ cứt, cho hai ly nữa đi.” tôi nói.

Tony lại đẩy ra hai ly, rồi đi tới tính tiền. bước trở lui. “trời nóng bỏ mẹ. ước gì tao chết ngắc, tiêu mẹ nó đi như miếng băng vệ sinh cũ hôm qua.”

“khi chết ngắc rồi thì người ta đi về đâu, hả Tony?”

“cứt, ai quan tâm đéo?”

“mày không tin vào Linh Hồn Con Người à?”

“cục cứt!”

“vậy Che thì sao? thánh nữ Joan of Arc thì sao? Billy the Kid thì sao? tất cả mấy mạng đó thì sao?”

“cục cứt!”

chúng tôi nhậu bia, nghĩ về chuyện đó.

“nè, tao đi đái à.” tôi nói.

tôi đi ra phòng vệ sinh đằng sau, và như thường khi, thằng Petey Mặt Cú đứng láng cháng ở đó.

tôi móc cu ra đái.

“chắc như đinh đóng cột là cha nội có con cu bé xíu xiu.” hắn cà khịa.

“khi tao đái hay ngồi thiền, thì đúng vậy, nó bé. nhưng tao sẽ là cái thứ mà mày phải gọi bằng siêu-cụ. khi mà tao sẵn sàng phệt thì mỗi lóng tay bây giờ sẽ cương lên tới gấp sáu lần à nghen.”

“nếu cha nội không nổ ì xèo thì nghe gồ ghề thiệt. vì bi giờ tui thấy chỉ có hai lóng tay ló ra à.”

“tao chỉ mới khoe cái đầu buồi thôi đó.”

“tui sẽ tính cha một đô để bú cu cha.”

“nhiêu đó nhiều nhặng gì mạy.”

“cha ló ra nhiều hơn cái đầu. cha chìa ra hết cỡ rồi đó cha nội à.”

“má mầy, Pete.”

“tui cá là cha nội sẽ quay lại khi hết xu uống bia.”

tôi bước trở ra.

“cho 2 ly nữa đi.” tôi gọi.

Tony lặp lại cái quy trình chán ngắt, bước tới.

“trời nóng bỏ mẹ. chắc tao lên cơn khùng mất.” hắn nói.

“cái nóng làm cho mày nhận ra cái con người thật của mình.” tôi nói với Tony.

“ê, nè. mày cho rằng tao là thằng khùng à?”

“hầu hết tụi mình khùng. nhưng giữ kín như điều bí mật.”

“nghe được, giả sử cái cứt mày nói là đúng đi, thì có bao nhiêu đứa tỉnh táo trên địa cầu này? liệu có đứa nào không?”

“vài đứa.”

“mấy đứa?”

“chỉ mấy đứa tính trong cả triệu đứa à?”

“ờ, tính vậy đi.”

“chà, tao cho là có chừng 5 hay 6 đứa.”

“5 hay 6 à?” Indian Mike nói. “mẹ, bú cặc tao đây nè!”

“nè,” Tony nói, “làm sao mày biết là tao khùng? làm sao mình thoát khỏi cái điều đó chứ?”

“ờ, vì tất cả tụi mình đều khùng nên chỉ có vài đứa kềm chế, kiểm soát được tụi mình, thậm chí còn ít hơn vài đứa nữa kìa, cho nên chúng mặc kệ mình lên cơn khùng, lúc này thì chúng chỉ có thể làm được vậy thôi. có thời tao nghĩ là có khi chúng tìm ra nơi nào đó để sống ở ngoài không gian trong lúc chúng tiêu diệt tụi mình. nhưng giờ thì tao biết rằng bọn điên cũng chiếm ngự cả bầu trời ngoài vũ trụ luôn rồi.”

“sao mày biết?”

“vì chúng đã dựng cờ Mỹ trên mặt trăng.”

“giả sử bọn Nga dựng cờ Nga trên mặt trăng thì sao?”

“cũng vậy thôi.” tôi đáp.

“vậy thì mày không thiên vị cho bên nào à?” Tony hỏi.

“tao công bằng với mọi mức độ của sự điên loạn.”

chúng tôi ngồi im. nốc tì tì. Tony cũng vậy, hắn tự rót cho mình một ly scotch pha nước. hắn có thể chơi vậy. hắn là chủ quán mà.

“trời ơi, nóng quá.” Tony nói.

“cứt, nóng thiệt.” Indian Mike nói theo.

rồi Tony ca cẩm. “điên loạn. tụi mày biết chưa, có một điều gì rất điên đang xảy ra ngay lúc này!”

“đúng vậy.” tôi nói.

“không, không, không... tao muốn nói là ngay TẠI ĐÂY, ngay quán này!”

“sao?”

“thiệt vậy. thiệt là điên quá xá, có lúc tao phát sợ luôn.”

“kể tao nghe đi, Tony.” tôi nói, tôi luôn sẵn sàng đón chờ những trò khỉ của chúng sinh.

Tony chồm tới gần. “tao biết một thằng cha có cái máy phệt. hổng phải cái thứ cứt khùng điên trên mấy tạp chí đâu. hay như thứ bọn mày thấy trên quảng cáo. mấy cái chai nước nóng với mấy cái hĩm làm bằng thịt bò muối, thứ thịt mà lâu lâu có thể thay được, mấy thứ đó toàn là nhảm nhí. thằng cha này biết cách kết hợp và chế ra nó. một cha khoa học gia người Đức, mà mình thộp cổ được, ý tao là chính phủ mình thộp cổ thằng chả trước khi bọn Nga ra tay. giờ thì giữ bí mật nghen.”

“chắc chắn, Tony, phải bí mật chứ...”

“Von Brashlitz là tên chả. chính phủ mình cố làm cho chả khoái trong KHÔNG GIAN sống. để chả đừng bỏ đi. thằng già lỗi lạc trời đánh, nhưng trong đầu chả có chứa cái MÁY PHỆT này. cùng lúc chả nghĩ rằng chả là một thứ nghệ sĩ con mẹ gì đó, nhiều khi tự xưng là Michelangelo... người ta chu cấp cho chả 500 đô một tháng, giữ chả đủ sống qua ngày để khỏi vào nhà thương điên. họ canh chừng chả một thời gian, rồi phát chán hay quên mẹ chả rồi, nhưng họ vẫn tiếp tục gởi checks, và thảng hoặc trong tháng thì có một tay đặc vụ tới nói chuyện với chả chừng hai mươi phút, viết một bản tường trình rằng chả còn khùng, rồi chuồn, cho nên chả cứ đi rong hết thành phố này qua thành phố khác, lôi theo chiếc xe tải to đùng màu đỏ. sau cùng, một đêm nọ chả tới đây nhậu. tâm sự với tao rằng chả chỉ là một lão già hết gân, muốn có một nơi yên tĩnh để làm nghiên cứu con mẹ gì đó. nghe vậy thì tao cứ câu giờ xem sao. tụi mày biết đó, quán này có vô số thằng khùng lai vãng mà.”

“đúng vậy.” tôi nói.

“rồi, nghe nè, chả cứ nhậu tì tì tới xỉn, rồi chả phun ra hết với tao. chả đã chế ra một mợ người máy có thể tặng cho bất cứ gã đàn ông nào một cú phệt phê ngất trời, hơn bất cứ mợ đàn bà nào suốt trong nhiều thế kỷ qua! thêm nữa, không băng vệ sinh, không ỉa đái, không cãi cọ xì xằng!”

“lâu nay tao truy tìm một mợ y như vậy trong suốt đời mình.”

Tony bật cười ha hả, “thằng nào mà hổng tìm. tất nhiên, tao nghĩ rằng cha này khùng, cho tới một đêm nọ tao theo chả mò xuống tận nơi chả ngụ, và chả lôi cái MÁY PHỆT trong chiếc xe đỏ ra cho tao xem.”

“rồi sao nữa?”

“cứ như thể là lên tới thiên đường trước khi mày ngủm.”

“để tao đoán phần còn lại nghen.” tôi nói.

“đoán đi.”

“Von Brashlitz và cái MÁY PHỆT của chả giờ đang nằm trên lầu quán này.”

“hê hê...” Tony cười nhăn nhở.

“nhiêu?”

“hai mươi tì một phùa.”

“hai mươi tì để phệt một cái máy?”

“chả qua mặt bất cứ thứ gì mà Tạo Hoá đã mần ra. mày sẽ chứng kiến tận mắt.”

“thằng Petey Mặt Cú sẽ bú tao mà chỉ đòi có một tì thôi.”

“Petey mặt cú cũng được đấy. nhưng nó không phải là thứ phát minh hạ đo ván mọi thứ thánh thần.”

tôi xuỳ ra tờ 20.

“vậy thì giúp tao cú này, Tony, nếu đây chỉ là trò đểu cho qua cái ngày nóng hừng hực này thì mày đi tong tay khách hàng tuyệt vời nhất đó nghen!”

“như mày mới nói đó, cách gì thì tụi mình đều là những thằng điên hết. phệt hay không thì tuỳ mày thôi.”

“phệt tới đi.” tôi nói.

“tao nữa. 20 tì của tao nè.” Indian Mike tham gia.

“tụi mày nên hiểu điều này, tao chỉ ăn 50% tiền cò thôi. phần còn lại là vô túi của Von Brashlitz. 500 tì tiền trợ cấp đéo nhằm nhò gì với lạm phát và thuế má, vả lại, cha Von B. này nhậu schnapps [*] như điên.”

“nào, lên đường.” tôi nói, “mày thu 40 tì rồi đó. cái MÁY PHỆT bất tử kia ở đâu?”

Tony nhấc tấm phên ngăn lên, nói, “đi qua đi. theo cầu thang lên phía sau. lên đó, gõ cửa, nói, ‘Tony bảo lên đây’.”

“có số ở cửa không?”

“cửa số 69.”

“ờ, con số nghe ngầu lắm.” tôi nói, “còn gì nữa không?”

“ngầu, tất nhiên là ngầu rồi...” Tony nói, “chuẩn bị súng ống cho ngon đi.”

chúng tôi mò tới cầu thang. leo lên. “thằng Tony chẳng từ chuyện gì để chơi mình một cú đểu.” tôi nói.

chúng tôi bước theo hành lang. đây rồi: cửa số 69.

tôi gõ cửa: “Tony bảo lên đây.”

“a, xin chào quý ông, mời vào.”

một lão trông rất quái với vẻ mặt nghênh nghênh, ly schnapps trên tay, kính hai tròng, y như trong những cuốn phim thời xưa cú đế. có vẻ như lão đang có khách, một thứ tươi trẻ, hầu như quá trẻ, trông vừa mỏng manh vừa chắc lụi.

nàng bắt chéo chân, khoe hàng một tí: đầu gối trong vớ ny-lon, đùi vớ ny-lon, và cái phần nhỏ tí ngay đó, nơi đôi vớ dài giao nhau chỉ hở cho một xíu thịt phô ra. nàng mông vú ngồn ngộn, đôi chân cũng vớ ny-lon, đôi mắt ánh nét cười xanh biếc, trong veo...

“thưa quý ông, — con gái tôi, Tanya...”

“cái gì?”

“à, vâng, tôi biết, tôi thì quá... già... nhưng như là cái huyền thoại về gã da đen có cái củ lẳng to khổng lồ, thì cũng có huyền thoại về những lão già người Đức chẳng bao giờ ngừng phệt. các ông có thể tin vào những điều các ông muốn. đây là con gái tôi, Tanya, thế nào đi nữa...”

“chào các anh.” nàng bật cười, cắt lời.

bất giác mọi người cùng nhìn về phía cánh cửa có đề dòng chữ: PHÒNG CHỨA MÁY PHỆT.

lão già nốc hết ly schnapps.

“ra là... các ông đến để thưởng thức cú PHỆT sướng tê chim, phải không nào?”

“bố ơi!” Tanya nói, “bố có phải cứ thô lỗ như thế mãi đâu?”

Tanya lại gác chân lên, lần này cao hơn lúc nảy, làm tôi phê ngất ngư. lão giáo sư nốc thêm một lyschnapps nữa, đứng dậy bước tới cánh cửa có đề PHÒNG CHỨA MÁY PHỆT. lão quay lại, mỉm cười với chúng tôi, rồi từ từ mở cánh cửa. lão đi vào rồi trở ra ngay, tay đẩy ra một vật trông như cái giường bệnh viện có gắn bánh xe.

Nó, cái vật ấy, TRẦN TRỤI, một cục kim loại.

lão giáo sư đẩy cái vật quái quỷ ra ngay trước mắt chúng tôi, rồi bắt đầu ư ử một bài hát bốc mùi thối tha nào đó, hẳn là bằng tiếng Đức.

cục kim loại có cái lỗ ngay chính giữa. lão giáo sư cầm một lon dầu, dí nó vào cái lỗ, rồi xịt vào đó một lượng dầu kha khá trong lúc miệng vẫn ư ử cái khúc ca tiếng Đức.

lão mải miết bơm dầu vào, rồi ngoái đầu nói, “ngó dễ thương quá, phải không quý ông?”, rồi quay lại với công việc đang làm.

Indian Mike ngó tôi, cười gượng, nói, “mẹ kiếp... mình lại bị chúng lừa nữa rồi!”

“ra vậy.” tôi nói, “gần cả 5 năm rồi tao đếch đụ đéo gì, nhưng có mà trời đày thì tao mới đút cu vào trong cái đống chì cứng ngắt đó!”

Von Brashlitz cười rộ. bước tới tủ rượu, lấy chai thứ 5, rót một ly tràn trề, ngồi xuống đối diện chúng tôi.

“khi chúng tôi ở Đức, hiểu rằng cuộc chiến đã thất bại, và tấm lưới đang siết chặt dần — xuống tới trận đánh cuối cùng ở Berlin — thì chúng tôi hiểu rằng cuộc chiến đã lái qua một tính chất mới — cuộc chiến thật lúc đó trở thành việc ai vồ được những khoa học gia người Đức nhiều nhất. nếu ai trong Nga hay Mỹ vồ được nhiều khoa học gia người Đức nhất — thì kẻ đó là người sẽ lên mặt trăng trước nhất, lên sao Hoả trước nhất... bất cứ điều gì cũng trước nhất. chà, tôi không biết thật sự chuyện xảy ra như thế nào... tính bằng số hay tính trong nghĩa quyền lực trí tuệ của khoa học. tôi chỉ biết rằng người Mỹ dớt được tôi trước, họ vồ ngay lấy tôi, nhét lên xe chở đi, cho tôi uống một liều, dí súng vào đầu tôi, hứa hẹn với tôi, nói khùng nói điên. tất nhiên, lúc đó họ đưa cái mẹ rượt gì thì tôi cũng ký hết...”

“thôi được rồi.” tôi nói, “dài dòng lịch sử quá, cha nội. nhưng dù gì đi nữa thì tôi cũng không nhét cu, con cu bé bỏng tội nghiệp của mình, vào trong cái bướu bằng kim loại lát mỏng hay là cái cục quái gì đó đâu! Hitler rõ là một gã khùng mới chăm bẵm, nuôi nấng cha nội. tôi ước gì bọn Nga tóm cổ cha nội trước! trả lại tôi 20 tì đây!”

Von Brashlitz cười khì, “hehehehehe... tớ chỉ là đùa chút thôi mà, phải không nào? heheheheheheeee!”

lão đẩy cái đống kim loại ấy trở vào phòng, xô cửa đóng sầm lại. “ui chu choa, hehehehehee!”, rồi chơi thêm một ngụm rượu.

Von B. rót thêm một ly schnapps. lão ngửa bài. “thưa quý ông, tôi là một nghệ sĩ và một nhà phát minh! MÁY PHỆT của tôi chính là cô con gái của tôi, là Tanya...”

“cha nội lại đùa nữa hả, Von?” tôi hỏi.

“không đùa! Tanya! tới ngồi lên đùi quý ông đó đi nào!”

Tanya cười nhẹ, đứng dậy, ngúng nguẩy bước tới, ngồi lên đùi tôi. cái MÁY PHỆT kỳ diệu đây ư? Tôi không thể tin nổi! da của nàng là da, hay thứ gì dường như vậy; và lưỡi nàng, nó ngọ nguậy trong miệng tôi khi chúng tôi hôn nhau, chẳng có vẻ gì là máy móc cả — mỗi cử động đều khác thường, hưởng ứng nhịp nhàng với các cử động của tôi.

tôi cuống cuồng lên, kéo rách áo nàng ra khỏi đôi vú, sờ soạng trong quần lót, tôi nóng hừng hực hơn chính mình trong nhiều năm qua, rồi chúng tôi quấn lấy nhau; cách nào đó chúng tôi phải đứng lên — rồi tôi dựng nàng lên, hai tay tôi níu lấy mái tóc dài óng ánh hoàng kim của nàng, bẻ ngược đầu nàng ra sau, rồi vươn xuống, vạch mông nàng ra, lúc tôi đâm vào, nàng tới — tôi thấy được sự thắt bóp, và tôi tan loãng vào cơn hoan lạc.

quả là trận tình tuyệt nhất mà tôi từng được hưởng!

Tanya vào phòng vệ sinh, tắm rửa, chỉnh sửa lại nhan sắc, cho phiên của Indian Mike. Tôi đoán vậy.

“phát minh vĩ đại nhất của loài người đấy.” Von Brashlitz nghiêm nghị phát biểu. lão hoàn toàn đúng.

rồi Tanya trở ra, và đến ngồi lên đùi CỦA TÔI.

“KHÔNG PHẢI! KHÔNG PHẢI! TANYA! TỚI PHIÊN CỦA QUÝ ÔNG KIA! CON VỪA PHỆT TAY ĐÓ XONG MÀ!”

dường như nàng chẳng nghe lão nói gì. và thật lạ, bởi vì, thật sự thì tôi chưa bao giờ là người tình giỏi giang gì lắm, ngay cả với cái MÁY PHỆT.

“anh yêu em không?” nàng hỏi.

“yêu.”

“em yêu anh. em hạnh phúc quá, và... em không có quyền được sống. anh biết điều đó, phải không?”

“anh yêu em, Tanya. anh chỉ biết vậy thôi.”

“thật khốn kiếp!” lão già gào lên, “cái MÁY PHỆT này!” lão bước tới cái hộp được đánh vẹc-ni, có in chữ TANYA bên thành hộp. cái hộp có những sợi dây điện thò ra ngoài; có đĩa số để bấm, những cây kim rung rung, và nhiều màu sắc, bóng đèn chớp tắt, tiếng tích tắc... Von B. là gã ma cô quái nhất mà tôi từng gặp. lão cứ mải mê bấm số, rồi ngước lên nhìn Tanya:

“25 NĂM TRỜI! mẹ kiếp, mất gần cả đời để chế tạo ra mày! Thậm chí tao còn phải giấu mày với HITLER nữa kìa! mà giờ thì... mày đang cố biến thành một con đĩ chó tầm thường!”

“tôi không phải 25 tuổi.” Tanya nói, “tôi 24 thôi.”

“mày thấy chưa? mày thấy chưa nào? đúng y như là một con đĩ tầm thường!”

lão lại loay hoay bấm số.

“em mới tô màu son mới hả?” tôi hỏi Tanya.

“anh có thích màu này không?”

“à, thích lắm!”

nàng chồm tới hôn tôi.

Von B. cứ loay hoay bấm số. tôi cảm thấy rằng lão sẽ thắng.

Von B. quay sang Indian Mike. “chỉ là chút sai sót nhỏ trong máy thôi. tin tôi đi. tôi sẽ sửa xong trong giây lát thôi.”

“tôi hi vọng như vậy.” Indian Mike nói, “tôi có cái cù lẳng dài 14 lóng tay đang háo hức, và đã đặt cọc 20 tì rồi.”

“em yêu anh.” Tanya thì thầm với tôi. “em sẽ không bao giờ phệt với đứa nào khác nữa. nếu em không thể có anh thì em sẽ không thèm bất kỳ ai khác.”

“Tanya, anh sẽ tha thứ cho em, dù em làm bất cứ điều gì.”

lão giáo sư nổi nóng. lão loay hoay bấm bấm xoay xoay nhưng không có kết quả gì. “TANYA! tới lúc mày phải PHỆT thằng cha KIA! tao... tao... mệt quá rồi... phải làm một ngụm schnapps thôi... rồi dẹp hết đi ngủ... Tanya...”

“á à...” Tanya nói, “cái thằng già thối xác kia! mày với thói rượu chè của mày, rồi bú vú tao suốt đêm, làm tao không ngủ nghê gì được! mà cu mày có ngỏng được chút nào đâu! mày thật là gớm ghiếc!”

“CAIII GIII?”

“TAO NÓI LÀ, ‘MÀY CÓ NGỎNG CON CU ĐƯỢC CHÚT NÀO ĐÂU!’”

“mày... mày... Tanya, mày sẽ trả giá cho chuyện này! mày là tạo vật của tao, và tao không phải là đồ chơi của mày!”

lão cứ cố xoay xoay vặn vặn mấy cái nút kỳ dị. ý tôi là mấy cái nút trên máy. lão điên tiết lắm rồi, và bạn hiểu mà, một cách nào đó, cơn giận lại cho lão sự sáng suốt không ngờ. “chờ chút nhé Mike, tôi chỉ cần điều chỉnh mấy mạch điện tử là êm ngay! chờ chút! một chút thôi! tôi thấy nó rồi.”

rồi lão nhảy dựng lên. cái thằng cha mà người ta đã cứu thoát khỏi tay bọn Nga. lão nhìn Indian Mike. “giờ thì nó ổn rồi! cái máy chạy ngon lành rồi! chúc quý ông vui vẻ!”

rồi lão đi lấy chai schnapps, rót một ly, ngồi xuống quan sát.

Tanya xuống khỏi đùi tôi, bước tới với Indian Mike. tôi nhìn Tanya và Indian Mike ôm ghì lấy nhau thắm thiết.

Tanya kéo dây kéo quần Indian Mike xuống, móc cu hắn ra. quả là thằng này có con cu trời thần đất lở! hắn nói là 14 lóng tay thôi nhưng ngó kỹ thì nó gần như 20 lóng tay lận.

Tanya ôm con cu của Mike bằng cả hai bàn tay.

hắn mê tơi, rên lên thống khoái.

bất ngờ, nàng giật toạc nguyên con cu ra khỏi người hắn. ném qua một bên.

tôi thấy cái vật ấy lăn trên thảm như một súc xúc-xích động cỡn, dây một vệt máu buồn đến nao lòng. nó lăn tới chân tường. rồi nằm lại đó như một vật có đầu mà không có chân, và không nơi chốn để đi... thiệt đúng là vậy.

kế tiếp, là hai HÒN DÁI bay tưng trong không, một cảnh tượng nặng nề, vòng vèo. chúng chỉ rớt xuống giữa tấm thảm mà không biết làm gì hơn là từ từ nhỏ máu.

thế đấy, chúng nhỏ máu.

Von Brashlitz, vị anh hùng của cuộc xâm lược Mỹ-Nga, thất thần ngó những gì còn lại của Indian Mike, tay bạn nhậu ngày xưa của tôi, đỏ lòm một đống trên sàn nhà, máu tuôn chảy từ giữa phòng — Von B. dọt lẹ như ma đuổi, xuống cầu thang...

phòng 69 chấm dứt mọi chuyện, ngoại trừ một chuyện.

tôi hỏi nàng: “Tanya, nhà chức trách sẽ đến trong giây lát, chúng ta có nên dâng hiến cái số phòng này cho tình yêu của mình không?”

“tất nhiên, anh yêu của em!”

chúng tôi mần điều đó với nhau, chỉ vừa kịp, và bọn chức trách ngu xuẩn xông vào.

một tay trong bọn có vẻ uyên bác liền tuyên bố Indian Mike đã ngủm.

và vì Von B. là một thứ sản phẩm của chính phủ Mỹ, nên có cả đống người lu bu lại quanh — đủ thứ viên chức lăng nhăng — lính cứu hoả, phóng viên, cớm, nhà phát minh, C.I.A, F.B.I, và đủ thứ hình thái cứt đái khác của nhân loại.

Tanya bước tới ngồi lên đùi tôi. “chúng sẽ giết em thôi anh ạ. anh đừng đau buồn quá nghen.”

tôi không trả lời nàng.

Von Brashlitz gào lên, chỉ tay vào mặt Tanya — “NGHE TÔI NÓI VỚI CÁC VỊ NÀY, CON QUỶ ĐÓ NÓ KHÔNG CÓ CẢM XÚC GÌ ĐÂU! TÔI ĐÃ CỨU NÓ KHỎI TAY HITLER! nghe tôi nói này, nó chỉ là một CÁI MÁY thôi!”

bọn họ đứng trơ trơ, chẳng ma nào tin lời Von B.

chỉ đơn giản vì đây là một cỗ máy xinh đẹp vô ngần, cái-được-gọi-là-đàn-bà, mà họ từng được thấy.

“cứt thiệt! mấy cha đần kia! mỗi mợ đàn bà là một cái máy phệt, mấy cha không hiểu vậy sao? chúng vận hành cho kẻ trả giá cao nhất! CHẲNG CÓ CÁI CHÓ GÌ LÀ TÌNH YÊU CẢ! ĐÓ CHỈ LÀ ẢO VỌNG HOANG ĐƯỜNG NHƯ THỨ ẢO VỌNG VỀ LỄ GIÁNG SINH THÔI!”

họ vẫn không tin lão.

“ĐÂY chỉ là một cái máy! nó chẳng biết SỢ gì cả! XEM NÀY!”

Von Brashlitz chộp lấy một cánh tay của Tanya.

giật phăng nó ra khỏi thân thể nàng.

và bên trong — bên trong cái lỗ của vai nàng — ai cũng thấy — chẳng có gì khác ngoài dây điện và đủ thứ ống xoắn xít, và mọi thứ lăng nhăng khác đang hoạt động — với một thứ chất lỏng gì đó có vẻ tượng trưng cho máu.

tôi nhìn Tanya đứng đó với đủ thứ dây nhợ lòng thòng trên vai nàng, nơi đã từng có một cánh tay, nàng nhìn lại tôi:

“anh yêu, hãy vì em! em đã bảo là anh đừng có quá đau buồn cơ mà.”

tôi ngó bọn chúng xô lại quanh nàng, cấu xé nàng, cưỡng hiếp nàng.

tôi không thể chịu nổi cảnh đó. tôi gục xuống rồi thổn thức khóc...

không khác con mẹ gì cả, có hơn gì Indian Mike đâu, hắn không bao giờ được hưởng cái giá của 20 tì.

nhiều tháng trôi qua. tôi không hề quay lại quán rượu. có một phiên toà nhưng chính phủ tha bổng cho Von B. và cái máy của lão. tôi dời qua thành phố khác sống. một nơi xa lắc. một hôm nọ đang ngồi trong tiệm cắt tóc, tôi nhặt lên tờ tạp chí tình dục, thấy mẩu quảng cáo thế này: “Hãy bơm phồng nàng búp-bê bé bỏng của bạn lên! giá chỉ $29.95. chất liệu cao-su đàn hồi, rất bền bỉ. Bao gồm luôn dây xích và roi da trong gói hàng. Một bộ bikini, nịt vú, quần lót, 2 bộ tóc giả, son môi và lọ chứa dung dịch thuốc-yêu. Công ty Von Brashlitz.”

tôi gởi cho lão một ngân phiếu. đến một số hòm thư ở bang Mass. thì ra lão cũng đã dời nhà.

gói hàng đến trong khoảng 3 tuần. thiệt là kẹt, tôi không có cái ống bơm xe đạp nào, và tôi nổi cơn hứng tình khi lôi nó ra khỏi hộp. tôi phải xuống trạm xăng ở góc phố để dùng cái vòi bơm bánh xe của họ.

nó trông hấp dẫn hơn nhiều khi được bơm lên. vú mông ngồn ngộn.

“có cái gì ngộ vậy, hả ông thầy?” tay nhân viên trạm xăng hỏi tôi.

“nè, cha nội, tớ chỉ mượn cái vòi bơm chút hơi thôi. ngày nào mà tớ không đổ xăng ở đây, phải không nào?”

“được mà, có gì đâu. chuyện nhỏ mà ông thầy. ông thầy cứ bơm thoải mái. tui chỉ thắc mắc ông thầy có cái gì ngó ngộ quá thôi...”

“quên nó đi!” tôi nói.

“TRỜI ƠI! ngó cặp TI kìa!”

“tao đang ngó, đồ khốn!”

tôi để hắn đứng le cái lưỡi dài thoòng ra vì kinh ngạc, rồi vác nàng lên vai, quày quả về nhà. tôi vác nàng vào phòng ngủ.

nỗi thắc mắc lớn đã đến chưa nào?

tôi dang đôi chân nàng ra, cố tìm một thứ khe lỗ nào đó.

Von B. đã không sai sót gì nhiều lắm.

tôi leo lên nàng rồi hôn đôi môi cao-su. thỉnh thoảng tôi sờ soạng xoa vuốt một trong hai cái núm ti khổng lồ và mút nó chùn chụt. tôi đã đội cho nàng mái tóc giả màu vàng và thoa thứ dung dịch thuốc-yêu lên khắp cu mình. chẳng hao phí nhiều thuốc lắm đâu. có lẽ lão đã gởi cho tôi đủ xài cả năm cũng không hết.

tôi hôn nàng say đắm ở sau vành tai, nhét ngón tay vào đít nàng, rồi thúc liên tục. rồi tôi nhảy xuống, dùng dây xích trói tay nàng ra sau lưng, có một cái ổ khoá bé tí và chìa, rồi tôi quất nàng một trận tơi bời xí quách bằng cái roi da.

trời ạ, chịu hết xiết! chắc mày lên cơn khùng quá rồi! tôi nghĩ thầm.

tôi lật nàng lại, nhét nó vào, chồm hổm, thúc dồn dập. thiệt tình mà nói, chẳng hứng thú chi mấy, tôi bắt đầu chán. tôi hình dung ra cảnh mấy con chó đực quậy với mấy con mèo cái; tôi tưởng tượng ra cảnh hai kẻ phệt nhau qua không khí khi họ nhảy ra từ toà nhà Empire State. Tôi tưởng tượng một cái hĩm to tướng như một con bạch tuộc, bò về phía tôi, ướt mem và thối hoắc và kêu đòi khao khát cho một cơn tới đỉnh. tôi nhớ lại tất cả các thứ quần lót, đầu gối, chân, vú, hĩm mà tôi từng có lần chiêm ngưỡng. cục cao-su đang đổ mồ hôi; tôi cũng đang tuôn mồ hôi như tháo.

“yêu dấu ơi, anh yêu em quá xá!” tôi thì thầm vào vành tai cao-su của nàng. tôi ghét phải thừa nhận điều này, nhưng tôi tự buộc mình tới trong cái dề cao-su cà chớn đó. nó chẳng giống một em Tanya chút nào.

tôi lấy lưỡi dao lam, cắt rạch cái con quỷ đó tan tành cho đã cơn bực. mang vất vào bồn rác cùng với mớ lon bia.

có bao nhiêu trự đàn ông Mẽo bỏ tiền mua cái thứ đần độn đó?

hay là rồi đây bạn có thể bước qua cả năm chục cái máy phệt trong 10 phút đi bộ trên hầu hết các vỉa hè chính của nước Mỹ — cái hiện hữu khác biệt duy nhất mà chúng giả vờ rằng chúng thuộc về loài người.

tội nghiệp cho Indian Mike. với con cu 20 lóng tay chết ngắc.

tất cả những thằng khốn khổ Indian Mike. tất cả mọi kẻ leo vào không gian. tất cả những cô điếm của Việt Nam và bang Washington.

Tanya khốn khổ, bụng của nàng đã là bụng của một con cừu non, mạch máu là mạch máu của một con chó. hiếm khi nàng ỉa đái, nàng chỉ phệt — trái tim, giọng nói và cái lưỡi mượn từ những kẻ khác — vào thời đó chỉ có 17 vụ giải phẫu ghép nội tạng có thể thực hiện. Von B. đã đi trước thời đại xa lơ xa lắc.

Tanya đáng thương, nàng chẳng ăn gì, chỉ liếm láp tí chút gọi là — phần lớn là phô-mai rẻ tiền và nho khô. nàng chưa từng khao khát tiền bạc hay bất động sản hay xế xịn hay nhà cửa sang trọng đắt tiền. nàng chưa bao giờ đọc báo buổi chiều. chưa từng ham muốn ti-vi màu, mũ mới, giày ống đi mưa, những cuộc ngồi lê đôi mách với những mụ vợ đần độn; nàng cũng không ao ước có một gã chồng là bác sĩ, là đại gia chứng khoán, là chính khách hách-xì xằng hay là cớm gộc.

thằng nhân viên ở trạm xăng cứ hỏi tôi hoài, “nè, ông thầy! cái em mà hôm nọ ông thầy vác tới đây để bơm phồng lên giờ sao rồi?”

nhưng gã hết cơ hội để thắc mắc. tôi đổ xăng ở trạm khác. thậm chí tôi cũng không còn cắt tóc ở cái tiệm mà tôi thấy tờ tạp chí có mẩu quảng cáo búp-bê cao-su của lão Von B. nữa. tôi cố quên hết mọi chuyện.

còn bạn, nếu là tôi thì cha nội tính sao nào?
_________________________

[*]schnapps: rượu mạnh, xuất phát từ chữ “Schnaps” trong tiếng Đức.


---------------
Dịch từ nguyên tác “The Fuck Machine”, trong Charles Bukowski, The Most Beautiful Woman in Town & Other Stories (San Francisco: City Lights Books, 1988) 35-46.





NGỬA CHIỀU KHẤT THỰC







Ngày em ngược dòng sông trôi ngang mùa
Con mắt thức mở choàng lên ngực phố
Cơn co thắt của chiều
Rụng trắng bờ mi.

Em, thôi khát về những sóng mắt cơ cực
ngàn năm còn sám hối
Tung tẩy môi son
hất tiếng nấc trượt mình vào con đường
lát thảm quá khứ đời nhau.

Anh, thôi lướt trên ngõ hẹp đồng bằng
đang chia mùa nức nở
Nụ hôn rát lòng
Đeo khoen chiều trống rỗng
Dòng sông mủi lòng đứng hát giữa ngày rơi.

Có choán hết được lòng nhau
Khi con đường tắc nghẹn nơi ta không một lần hò hẹn
Cố tình không đan lát những hạt mưa cuối ngày
bào mòn phút giây em ngước mặt lên hỉ hả trái tim mình.

Phố lách muộn màng thăm thẳm vào tâm đường trú ngụ
Bợt những nụ cười đang thắc thỏm
không thật thà
Về ngày hôm qua.

Em, không còn yêu cánh đồng anh giáp hạt
thổi bung những ráng chiều úa tàn
Phe phẩy lúc hòang hôn
Bàn tay trốn tìm
Thong thả đuổi cánh diều trơ trụi những phù du.

Vết chân buồn ẩn ức
loang cái giật mình giữa mềm mại em
Tóc mai giật những chiều sóng đổ
Cơ hồ anh thắt bóng đời mình

Sầm sập những ảo giác
Phủi bụi mình năm tháng hóa sao khuya
Anh - cố lát trường ca về một loài cỏ dại
Em - nằng nặc ngủ vùi khóc vụn đam mê

Nhưng, trời ạ!
Dẫu cố đốt hết những màu hoa dại dột
Em, vẫn không ngừng khao khát
Về những buổi chiều đầy gió
lộng tim mình
trong những ngày
ta vội vã qua nhau.....


Hoàng Thanh Trang

NOBEL Y HỌC 2013







Giới thiệu về 3 nhà khoa học nhận giản Nobel y học 2013


Ba nhà khoa học đó gồm có 2 là Hoa Kỳ - James Rothman và Randy Schekman. Và 1 người còn lại là người Đức - Thomas Sudhof. Gọi là 3 nhà khoa học ở 2 quốc gia, nhưng cũng giống năm 2012, thực chất 3 nhà khoa học này đều nghiên cứu và làm việc tại Hoa Kỳ.


James E. Rothman sinh năm 1950 ở Haverhill, Massachusetts, Hoa Kỳ. Ông nhận bằng tiến sĩ từ Trường Y Harvard vào năm 1976, là một nhà nghiên cứu sau tiến sĩ tại Massachusetts Institute of Technology, và năm 1978 đến Stanford University ở California, nơi ông bắt đầu nghiên cứu của mình trên các túi của tế bào. Rothman cũng đã làm việc tại Princeton University, Memorial Sloan-Kettering Cancer Institute và Columbia University. Năm 2008, ông tham gia giảng dạy của Yale University ở New Haven, Connecticut, Hoa Kỳ, nơi mà ông hiện là giáo sư và Chủ nhiệm Khoa Sinh học tế bào.


Randy W. Schekman sinh năm 1948 tại St Paul, Minnesota, Hoa Kỳ, nghiên cứu tại University of California Los Angeles và tại Stanford University, nơi ông lấy bằng tiến sĩ vào năm 1974 dưới sự giám sát của Arthur Kornberg (giải Nobel năm 1959) và tại khoa này Rothman tham gia một vài năm tiếp theo sau đó. Và từ năm 1976, Schekman tham gia giảng dạy của University of California at Berkeley, nơi ông hiện là giáo sư tại Khoa Sinh học phân tử và tế bào. Schekman cũng là một nhà nghiên cứu của Howard Hughes Medical Institute.


Thomas C. Südhof sinh năm 1955 tại Göttingen, Đức. Ông học tại Georg-August-Universität in Göttingen, nơi ông nhận được một chương trình kép cho

2 bằng tiến sĩ y khoa và tiến sĩ hóa thần kinh trong cùng một năm 1982. Năm 1983, ông chuyển đến University of Texas Southwestern Medical Center in Dallas, Texas, Hoa Kỳ, như là một thành viên nghiên cứu sau tiến sĩ với Michael Brown và Joseph Goldstein (những người cùng nhận giải thưởng Nobel năm 1985 về Sinh lý học và Y học). Südhof đã trở thành một nhà nghiên cứu của Howard Hughes Medical Institute vào năm 1991, và được bổ nhiệm làm giáo sư sinh lý học phân tử và tế bào tại Stanford University năm 2008.


Ba ông đã có công tìm ra phương pháp vận tải của tế bào đối với các chất liệu thiết yếu xây dựng và hoạt động sống của tế bào. Phương thức này được đặt tên là phương thức vận chuyển chính xác bằng túi của tế bào, hay nói gọn hơn là vận chuyển túi - precisely material transport of cells.


Mỗi tế bào là một nhà máy sản xuất và xuất khẩu các phân tử. Ví dụ, insulin được sản xuất và đưa vào máu, và đồng thời các các hóa chất được gọi là tín hiệu dẫn truyền thần kinh được gửi từ một tế bào thần kinh khác.

Các phân tử này được vận chuyển xung quanh màng các tế bào trong các gói nhỏ được gọi là túi - vesicle.

Ba người đoạt giải Nobel đã phát hiện ra những nguyên lý kiểm soát phân tử, và cách thức vận chuyển những vật liệu này để gửi đến đúng nơi, vào đúng thời điểm mà nhu cầu bên trong tế bào cần đến chúng.


Randy Schekman phát hiện ra một bộ gene đã chỉ huy giao thông túi. James Rothman làm sáng tỏ cấu trúc loại protein cho phép các túi này hợp nhất với mục tiêu của chúng để cho phép chuyển giao hàng hóa. Thomas Südhof tìm ra tín hiệu hướng dẫn các túi để giải phóng hàng hóa của chúng với độ chính xác cao.


Thông qua những khám phá của họ - Rothman , Schekman và Südhof - đã cho thấy một hệ thống điều khiển tinh xảo, chính xác cho việc vận chuyển và phân phối hàng hóa của tế bào. Rối loạn trong hệ thống này có tác hại và góp phần vào gây ra những bệnh lý như: bệnh thần kinh, tiểu đường, và các rối loạn miễn dịch.


Làm thế nào hàng hóa được vận chuyển trong và ngoài tế bào


Giống như vận trù ở một bến cảng lớn và bận rộn, hệ thống được yêu cầu để đảm bảo rằng hàng hóa được vận chuyển đúng đến đích chính xác vào đúng thời điểm.


Các tế bào, với các ngăn khác nhau của nó gọi là bào quan, phải đối mặt với một vấn đề tương tự như sau: các tế bào sản xuất các phân tử hóa chất như kích thích tố, dẫn truyền thần kinh, các cytokine và enzyme phải được gửi đến những nơi khác bên trong tế bào, hoặc xuất khẩu ra khỏi tế bào, đúng chính xác thời điểm và vị trí cần thiết.


Thời gian và địa điểm là vấn đề đóng vai trò quan trọng nhất. Túi nhỏ giống như bong bóng, bao bọc bởi một màng, xe đưa đón các hàng hoá giữa các quan tử hoặc tiếp xúc với bên ngoài màng tế bào và giải phóng hàng của chúng ra bên ngoài. Điều này có tầm quan trọng lớn, vì nó gây kích hoạt thần kinh trong trường hợp của các hóa chất truyền tín hiệu thần kinh, hoặc kiểm soát sự trao đổi chất trong trường hợp của những kích thích tố. Làm thế nào để những cái túi biết ở đâu và khi nào cung cấp hàng hóa của chúng? Đó là vận trù hàng hóa của những khám phá này.


Ùn tắc giao thông là do bộ điều khiển di truyền

Randy Schekman bị thu hút bởi cách các tế bào tổ chức hệ thống giao thông và trong những năm 1970 đã quyết định nghiên cứu cơ sở di truyền của nó bằng cách sử dụng nấm men như một hệ thống mô hình. Trong một mô hình di truyền, ông đã xác định được tế bào nấm men với khiếm khuyết vận tải vật liệu, dẫn đến một tình huống tương tự như một hệ thống giao thông công cộng bị lên kế hoạch tồi. Hậu quả là các túi chứa hóa chất vật liệu bị chất đống ở các bộ phận nhất định của tế bào.

Ông phát hiện ra rằng nguyên nhân gây ra tình trạng tắc nghẽn này là di truyền và tiếp tục xác định các gen bị đột biến. Schekman xác định ba loại gen kiểm soát các khía cạnh khác nhau của hệ thống giao thông của tế bào, qua đó cung cấp những hiểu biết mới vào bộ máy điều hòa chặt chẽ giữ vai trò trung gian vận chuyển túi trong tế bào.


Lắp ghép với độ chính xác


James Rothman cũng bị hấp dẫn bởi bản chất của hệ thống giao thông của tế bào. Khi nghiên cứu giao thông vận tải túi trong các tế bào động vật có vú trong những năm 1980s và 1990s, Rothman phát hiện ra rằng một phức hợp protein cho phép các túi cập bến và kết hợp được với những mục tiêu trên màng tế bào của chúng. Trong quá trình hợp nhất, các protein trên các túi và những mục tiêu trên màng tế bào kết hợp với nhau như hai mặt của một dây khóa quần áo.

Thực tế là có rất nhiều protein như vậy, và chúng chỉ ràng buộc trong sự kết hợp cụ thể đảm bảo rằng hàng hóa được chuyển giao cho một vị trí chính xác. Cùng một nguyên lý hoạt động bên trong tế bào và khi túi gắn vào màng ngoài của tế bào để phát tín hiệu và chất liệu của nó .


Nó cho thấy rằng một số gen Schekman đã phát hiện trong men mã hóa cho protein tương ứng với những gì Rothman xác định trong động vật có vú, tiết lộ một nguồn gốc tiến hóa của hệ thống giao thông. Nói chung, chúng phản ảnh các thành phần quan trọng của thiết bị vận chuyển của tế bào.


Thời gian là vấn đề cốt lõi


Thomas Südhof đã quan tâm đến cách các tế bào thần kinh thông tin với nhau trong não. Các phân tử tín hiệu, dẫn truyền thần kinh, được giải phóng khỏi các túi kết nối với màng ngoài của tế bào thần kinh bằng cách sử dụng các thiết bị được phát hiện bởi Rothman và Schekman. Nhưng những túi chỉ được phép phóng thích vật liệu nó mang theo khi các tín hiệu tế bào thần kinh dến với các vùng lân cận. Làm thế nào để sự phóng thích này được kiểm soát một cách chính xác như vậy?

Ion canxi được biết là có liên quan đến quá trình này và trong những năm 1990, Südhof tìm kiếm những protein nhạy cảm với canxi trong các tế bào thần kinh. Ông đã xác định thiết bị phân tử đáp ứng với một dòng của các ion canxi và những protein trực tiếp tiếp xúc nhanh chóng để gắn túi vào màng ngoài của tế bào thần kinh. Dây khóa mở ra và các chất tín hiệu được phóng thích. Phát hiện của Südhof giải thích sự chính xác về thời gian đạt được và làm thế nào để những chất liệu bên trong các túi 'có thể được phóng thích theo mệnh lệnh .


Vận chuyển túi cho cái nhìn sâu sắc vào các quá trình bệnh


Ba người đoạt giải Nobel đã phát hiện ra một quá trình cơ bản trong sinh lý tế bào. Những khám phá này đã có một tác động lớn đến sự hiểu biết của chúng ta về hàng hóa được cung cấp với thời gian và độ chính xác bên trong và bên ngoài tế bào. Vận chuyển túi và tập hợp những phản ứng hoạt động với các nguyên tắc chung đó, trong các sinh vật khác nhau như nấm men và con người.

Hệ thống là rất chặt chẽ cho một loạt các quá trình sinh lý trong đó sự kết hợp giữa túi và màng tế bào phải được kiểm soát, sắp xếp từ tín hiệu trong não bộ để phóng thích các kích thích tố và các cytokine miễn dịch. Khiếm khuyết vận chuyển túi xảy ra trong nhiều loại bệnh trong đó có một số rối loạn thần kinh và miễn dịch, cũng như trong bệnh tiểu đường. Không có tổ chức chính xác tuyệt vời này, các tế bào sẽ rơi vào hỗn loạn .

Những đóng góp này sẽ mở ra cho ngành dược tìm ra thuốc và ngành y sẽ tìm ra cơ chế điều hòa vận chuyển túi trong quá trình điều trị 3 lĩnh vực bệnh lý thần kinh, tiểu đường và miễn dịch.

Hữu cú vô cú - 有句無句 của Trần Nhân Tông





Chân dung Phật hoàng Trần Nhân Tông trong tranh Túc Lâm đại sĩ xuất sơn chi đồ được vẽ năm 1360
有句無句 Hữu cú vô cú -
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt


有句無句,Hữu cú vô cú,
藤枯樹倒。Đằng khô thụ đảo.
幾個衲僧,Kỷ cá nạp tăng,
撞頭嗑腦。Chàng đầu hạp não,

有句無句,Hữu cú vô cú,
體露金風。Thể lộ kim phong.
兢伽沙數,Căng già sa số.
犯刃傷鋒。Phạm nhẫn thương phong.

有句無句,Hữu cú vô cú
立宗立旨。Lập tông lập chỉ.
打瓦鑽龜,Đả ngõa toàn quy,
登山涉水。Đăng sơn thiệp thủy.

有句無句,Hữu cú vô cú,
非有非無。Phi hữu phi vô.
刻舟求劍,Khắc chu cầu kiếm,
索驥按圖。Sách ký án đồ.

有句無句,Hữu cú vô cú,
互不回互。Hỗ bất hồi hỗ.
笠雪鞋花,Lạp tuyết hài hoa,
守株待兔。Thủ chu đãi thố.

有句無句,Hữu cú vô cú,
自古自今。Tự cổ tự kim.
執指忘月,Chấp chỉ vong nguyệt,
平地陸沉。Bình địa lục trầm.

有句無句,Hữu cú vô cú,
如是如是。Như thị như thị.
八字打開,Bát tự đả khai,
全無巴鼻。Toàn vô ba tị.

有句無句,Hữu cú vô cú,
顧左顧右。Cố tả cố hữu.
阿刺刺地,A thích thích địa,
鬧聒聒地。Náo quát quát địa.

有句無句,Hữu cú vô cú,
忉忉怛怛。Điêu điêu đát đát.
截斷葛藤,Tiệt đoạn cát đằng,
彼此快活。Bỉ thử khoái hoạt.
----


DỊCH NGHĨA

Câu hữu câu vô,
Như cây đổ, dây leo héo khô.
Mấy gã thầy tăng,
Đập đầu mẻ trán.

Câu hữu câu vô,
Như thân thể lộ ra trước gió thu.
Vô số cát sông Hằng,
Phạm vào kiếm, bị thương vì mũi nhọn.

Câu hữu câu vô,
Lập công phái, ý chỉ.
Cũng là dùi rùa, đập ngói,
Trèo núi lội sông.

Câu hữu câu vô,
Chẳng phải hữu, chẳng phải vô,
Khác nào anh chàng khắc mạn thuyền mò gươm,
Theo tranh vẽ đi tìm ngựa ký.

Câu hữu câu vô,
Tác động qua lại với nhau.
Nón tuyết giày hoa,
Ôm gốc cây đợi thỏ.

Câu hữu câu vô,
Từ xưa đến nay,
Chỉ chấp ngón tay mà quên vầng trăng,
Thế là chết đuối trên đất bằng.

Câu hữu câu vô,
Như thế như thế!
Tám chữ mở ra rồi,
Hoàn toàn không còn điều gì lớn nữa.

Câu hữu câu vô,
Quay bên phải, ngoái bên trái.
Thuyết lý ầm ĩ,
Ồn ào tranh cãi.

Câu hữu câu vô,
Khiến người rầu rĩ.
Cắt đứt mọi duyên quấn quýt như dây leo,
Thì hữu và vô đều hoàn toàn thông suốt

Tranh cãi việc dạy môn 'loạn luân' ở Mỹ


ĐH Missouri, Mỹ, dự định sẽ đưa môn 'Loạn luân anh chị em trong lý luận và văn học' vào giảng dạy từ mùa xuân năm nay.




Giảng viên cho rằng môn học này đặt câu hỏi tại sao những câu chuyện loạn luân lại có xu hướng tăng lên trong giai đoạn này.
Môn học mang tên “Loạn luân anh chị em trong lý luận và văn học” sẽ giúp sinh viên tìm hiểu những quan điểm lịch sử về mối quan hệ anh chị em và“sự tiến triển ham muốn tình dục, tình yêu và đồng cảm… cũng như phân tích các động cơ giới tính liên quan đến sự tiến triển này”. Môn học này do giảng viên Stefani Englstein đứng lớp.

Theo thông tin từ trang web của trường, m ôn học này sẽ tìm hiểu một số quan điểm mang tính phản biện và lý thuyết về sự loạn luân, cụ thể là sự loạn luân trong mối quan hệ anh chị em, cùng với những tác phẩm văn học ở cuối thế kỷ 18 tới đầu thế kỷ 20. "Chúng tôi sẽ tìm hiểu cách thức mà sự loạn luân được thiết lập và gây đau khổ những người trong cuộc trong bối cảnh quốc gia, tôn giáo, chủng tộc và gia đình. Chúng tôi cũng sẽ xem xét sự tiến triển của những ham muốn tình dục, tình yêu và đồng cảm”, trang web viết .




ĐH Missouri.Giảng viên Engelstein cho biết bà đang viết một cuốn sách về chủ đề loạn luân. Tác giả của trang blog có tên “Cải cách giáo dục” này cho biết, môn học mới sẽ được dạy trong những buổi học kéo dài hàng giờ, 2 buổi mỗi tuần.

Tuy vậy, một blogger khác gọi môn học này là tập hợp những thuật ngữ khó hiểu nhằm tìm cách bảo vệ và bình thường hóa sự loạn luân, coi đó như một hiện tượng bình thường và có thể chấp nhận được.

Trang TotalFratMove.com cũng thể hiện sự hoang mang về những giá trị học thuật mà môn học này sẽ mang lại.

Bà Engelstein giải thích: “Môn học 'Loạn luân anh chị em trong lý luận và văn học' của tôi là một môn học nhân văn. Chúng tôi nghiên cứu mối quan hệ giữa những ý tưởng phát sinh trong lịch sử về tư tưởng của con người nhằm hiểu rõ hơn các vấn đề phức tạp, trong quá khứ cũng như hiện tại. Đã có nhiều môn học khác nhau đặt ra câu hỏi, những cấm kỵ loạn luân xuất phát từ đâu và chúng phát triển như thế nào”.

“Môn học này đặt câu hỏi tại sao những câu chuyện loạn luân lại có xu hướng tăng lên trong giai đoạn này. Các tác phẩm văn học cũng sẽ cung cấp dữ liệu để mọi người đặt câu hỏi về cách mà xã hội đánh giá các mối quan hệ khác nhau. Vì thế, việc đọc các tác phẩm văn học sẽ tập trung vào tìm hiểu xem những vấn đề khoa học, chính trị có mối liên hệ gì với chủ đề này và tại sao”.

Theo TTVN

Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

Thú tủi nhục



Vũ Ngọc Anh


Bạn có bao giờ thưởng thức cái thú đau thương chưa? Cái thú được mất người yêu, được vợ/chồng “có trăng quên đèn” ấy. Cái cảm xúc mạnh trác tuyệt đó đã dệt nên bao fleurs du mal cho đời.

Hồi còn trai, bọn chúng tôi đứa học sinh, đứa làm sở Mỹ, đứa sinh viên ở chung một căn gác thuê trên đường Trần Bình Trọng; chúng tôi thường gọi căn gác trọ đó là the house of the rising sun.

Và một hôm má của một đứa đến để cung cấp tài chánh và cũng để xem nó sống thế nào, bà nhận xét chúng tôi: tao không hiểu tại sao tụi bay lại thích “đào bỏ” để làm thơ sướt mướt? - Chúng tôi trả lời: má ạ, “có bột mới gột nên hồ”, cần phải có hiện thực thơ mới hay. - Bà bảo: thế thơ không có nước mắt nước mũi không hay à? lệ gì phải có đau thương mới thú? Tại sao tụi bay thích ngứa rồi gãi mới sướng? không ngứa có sướng hơn không?

Có ngứa mới thưởng thức đượcc cái “đã”; không ngứa sao biết “đã” là gì. Đau thương là ân sủng của trường tình, lệ gì hạnh phúc mới là ân huệ, hả má? Tội còn có tội hồng ân nữa là!

– Thôi, tao chịu thua bay đó bay, cái vụ này mới quá, tao theo không kịp. - Chúng tôi thưa: vụ án này đã có từ thuở có hồng hoang lận má, chí đến giờ cũng còn lai rai khá đông người tự hành xác mình hết sức thích thú và đầy tự hào nữa. Họ đấm ngực mea culpa, mea culpa, mea maxima culpa (lổi tại tôi, lổi tại tôi, lổi tại tôi mọi đàng) để ăn năn hối lỗi của mình. Không phải họ chỉ đấm có ba cú mà thôi đâu, họ đấm lia lịa cả hai tay vào ngực bên phải vào ngực bên trái để rũ cái nghiệp nữa đấy. Họ còn lấy cả roi đánh vào thân thể cho rách thịt tươm máu ra mà họ còn chưa “đã”; họ còn nhờ người khác quất phụ cho toạc màng vô minh là khác. Nghe tới đây, má xanh mặt!

Chúng tôi cố thuyết phục bà nữa, chứ nếu không, sẽ không có thơ sụt sùi cho đời - mất đi một mảng văn học ẩm ướt, khô héo đi một mảnh triết học chèm nhẹp…- dẫn đến sự tàn lụi các lò tôn giáo!

Cái thú đau thương không phải là chuyện nhỏ đâu bạn, là vụ án lớn rồi. Vì đời là bể khổ mà: “Mới sinh ra… thì đà khóc chóe. Đời có vui… sao chẳng cười khì ?”[Nguyễn Công Trứ]. Chào đời bằng tiếng khóc là xác nhận thân phận con người, là khẳng định mình. Khẳng định gì đây? – Sinh ra là đã mang tội rồi! Tội gì? – “Nhân chi sơ tính bản thiện” cơ mà. Không, -“Nhân chi sơ tính bản ác” cơ đấy. Nhân chi sơ tính bản thiện thì vạ gì mới sinh ra thì đà khóc chóe? Chỉ có nhân chi sơ tính bản ác thì mới chuốt vạ vào thân nên chẳng cười khì là vậy. Nguyên lai cái ác từ đâu ra mà mới chào đời đã phải lãnh đủ? Trước hết là do Mẹ Eva di lưu, sau nữa là do cái nghiệp của kiếp trước lưu đày, nên mới bày ra cái bể khổ nhân luân.

Không có lửa sao có khói? Có sinh sự mới có sự sinh chứ! Bằng chứng chắc thực như vậy, chi cho nên thành thực khai báo “tiên trách kỹ” để bằng lòng nhận cái nghiệp quả cho thêm hào hứng trả nợ. Trả nợ mà bị đòi, bị thúc, bị xiết, bị cưỡng chế…sao vui bằng tự nguyện. -Trả nợ mà vui? –Sao không? Bạn chưa có kinh nghiệm à? Mình trả nợ đúng hẹn thôi không cần sớm hơn; lòng đã thấy thanh thản, ngẩng mặt nhìn đời tự tin hơn, trong đó có chút tự hào len lén chui vào nữa là đàng khác và khi gặp lại chủ nợ tay bắt mặc mừng vui vẻ cả làng.

Có trãi nghiệm chuyện trả nợ đời mới cảm thông được chuyện trả nợ nghiệp. Có thể có khác đấy, nhưng giống nhau ở niềm vui. Khi mình nhận cái nợ là đương nhiên thì việc trả nợ là tất yếu sẽ tạo cho mình cái cảm giác thảnh thơi nhẹ nhàn vui thỏa vì không còn vướn cái mặc cảm chúa chổm nặng chình chịch như đeo đá vào cổ - mà ở đây là mang xiềng trong tâm – thì đau khổ là dường nào! Mang nợ mà nhờ người khác xin giùm, dầu nợ có được xóa đi chăng nữa, lòng vẫn cứ còn áy náy băn khoăn ray rức như thể có cái gì chưa công bằng, hơi một chút gian lận, lẫn một tí tiêu cực ở chỗ ỉ lại ù lì. Thua cái hùng tâm: dám làm dám chịu!

Dám chịu nên mới dám tự thú mea maxima culpa và can đảm thừa nhận nghiệp quả: không đổ thừa cho ai hết, cho hoàn cảnh nào hết…Người khác giải tội cho mình, giải oan nghiệp chướng cho mình sao bằng mình tự giải ách cho mình – cái ách của chính mình tự buộc vào –

Đời cho ngon, đời phải đủ vị đắng cay, chua, chát… me chưa đủ chua thì thêm chanh; chanh chưa vừa thì gia dấm vào. Phải học Tôn Ngộ Không: phân thân ra làm Không Tôn Ngộ để bày trận gà nhà bôi mặt đá nhau; xỉ vã nhau cho đã cái miệng, cho sướng cái ý, cho vừa cái tâm, cho toạc màng vô minh mới thâm trầm giáo lý. Phải lên núi, vào rừng, tận hang sâu cùng cốc…sống cùng muông, vui cùng thú cho thấm vị tân toan. Chưa đã thì ngồi một chổ, đứng một giò, hay ho nữa là không tắm. Đủ trò, lắm cách! Nếu không vào rừng thì đóng quan tài tối ngủ, ngày đào huyệt mà gẫm mà suy mà đì cái thân cho sướng cái ý; thế mới là thi vị.

Cái thú không phải sướng cái thân mà dần cái phận để hưởng cái phần về sau. Chính đời sau mới là cái đời chính. “Thả con săn sắt, bắt con cá rô” là vậy. Vậy sao không tận hưởng cái thú thả hồn vào tủi nhục đọa thân cho tâm hồn lâng lâng giải thoát?

Thế nhưng không có con vật nào khôn bằng con người. Kìm kẹp xác thân sao cho thanh, sao cho lịch, sao cho thú cái miệng, sao cho thích cái ý; thế đời mới biết tay! Món chay phải gợi được cái vị giác thèm thuồng như thí nghiệm của Povlov: phải có chả, phải có nem, phải có đùi gà…mới hả cái dạ hãm khẫu cho ngọt cái đạo, cho bùi cái đời…ấy là đưa cái đời vào cái đạo vậy!


Làm Tình Em Chiêm Bao



Võ Công Liêm




tiễn Sài Gòn khóc rũ rượi
chân em đi chầm chậm dẫm lá vàng me bay
gió đợi hoài
nực cười một mùa thu rưng rưng
hoàng hôn tím đi lang thang giấu mặt
trong đáy tận cùng kẻ sĩ với tình nhân

suốt đời là chim cô độc bắt cầu ô thước sang em ngủ nhờ cơn mưa thất thố lịm dưới cỏ non thơm sáng tinh sương mình trần ôm nhục thể hướng dương giao hưởng đêm Cổ Nhuế nhớ Hà Nội trăng treo đầu ngõ thời thịnh suy hát ca trù ở phố Khâm Thiên gảy đàn đáy nhúc nhích trên vế ả đào mơ về Hoàn Kiếm đẫm ướt heo may trong tháp ngà yêu dấu ngày hiệp định Giơ-Neo(*)

thịt da em mềm óng ả
phiếm tơ chùng đột nhập giữa canh khuya
rít đôi vú thở
ru giấc ngủ mạ xanh
son sắc một thời yêu vội
trăng vỡ lở tình cờ
trả quá khứ cho tôi
với trái tim muộn màng
làm tình em chiêm bao

về đi
giữa muôn trùng yêu em như có thật một nữa hồn đau một nữa điêu linh cuộn trong mơ mà tưởng lúc nầy tôi hối hả hứng chịu những tàn cơn bay vút trong đêm hay tôi ná thở một năng lượng vô biên cuốn phăng đi dĩ vãng mơ hồ theo mộng ảo chơi vơi xin cho tôi ân huệ cuối cùng của kẻ tử tội được thoả mãn ngất ngây say lên châu thổ bình nguyên em sống thực!

tôi hoá thạch sửng sốt
một linh hồn đơn côi
xin em làm nhân chứng
cuộc tình hoang trong tôi ./.



(*) Thủđô Geneve (Thụy Sĩ)