Hiển thị các bài đăng có nhãn chuyện xưa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chuyện xưa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 9 tháng 5, 2016

Làm chủ bản thân mình: Gió lớn không lay chuyển được núi!



Tác giả: Theo Secretchina | Dịch giả: Minh Nữ





Nếu như có ai đó nói những lời khiến bạn bị tổn thương, phê bình hay hạ nhục bạn thì bạn sẽ phản ứng thế nào? Bạn sẽ nổi trận lôi đình, hỏa khí bừng bừng mắng lại người ta, bạn sẽ kìm nén cơn giận xuống hay sẽ ung dung bỏ qua? Câu chuyện về Đức Phật dưới đây sẽ cho chúng ta một bài học sâu sắc để giữ vững tâm tính và làm chủ bản thân mình.

Một hôm, Đức Phật đang trên đường đi hóa duyên thì ngang qua một ngôi làng, đột nhiên có một toán người kéo đến tìm Ngài và nói những lời hết sức vô lễ thậm chí rất xấu xa bẩn thỉu. Đức Phật chỉ im lặng lắng nghe, sau khi họ nói xong mới ôn tồn bảo: “Cảm ơn các vị đã tới tìm tôi, nhưng tôi đang có việc phải đi ngay, người dân làng bên còn đang đợi tôi, tôi phải đến đó đã. Ngày mai khi xong việc tôi sẽ có đủ thời gian, lúc đó nếu như các vị còn điều gì muốn nói với tôi thì chúng ta sẽ gặp lại nhau được không?”.

Toán người sau khi nghe xong thì không tin nổi vào tai mình, họ đồng loạt kinh ngạc: Chuyện gì xảy ra với người này vậy? Một người trong số đó liền hỏi Đức Phật: “Chẳng lẽ ông không nghe thấy chúng tôi nói gì sao? Chúng tôi nói ông không ra gì cả, vậy mà ông không phản ứng gì hết.”

Đức Phật nói: “Nếu các vị muốn tôi phản ứng lại thì quá muộn rồi, các vị phải quay về mười năm trước thì mới thấy được tôi phản ứng. Nhưng mười năm nay tôi đã không còn bị người khác điều khiển, tôi không còn là một nô lệ nữa, tôi là chủ của bản thân mình. Tôi chỉ dựa vào việc mình cần làm chứ không chạy theo phản ứng của người khác.”

Đúng vậy! Chỉ cần là đang làm việc mà bản thân cần làm, nếu như có người tức giận hay sỉ nhục bạn thì đó chẳng qua là vấn đề của anh ta. Bởi vì anh ta muốn nói thế nào, muốn làm ra sao thì đó là đạo đức tu dưỡng của anh ta, bạn có thể làm được gì sao?

Trong cuộc sống hàng ngày, bạn nhất định sẽ gặp phải những chuyện trái ý hoặc nhận được những lời lẽ khó nghe. Phản ứng của bạn trước những mâu thuẫn chính là tấm gương phản chiếu nội tâm bên trong bạn. Có những người tâm như ngọn cỏ đầu tường, hễ gió thổi về tây thì ngả về tây, gió thổi về đông thì lập tức ngả về đông, cứ luôn bị ngoại cảnh chi phối mà không sao làm chủ được mình. Họ khi phải đối mặt với mâu thuẫn hoặc khi bị sỉ nhục thì không thể giữ được bình tĩnh và lập tức tranh đấu với đối phương, hành động của đối phương quyết định phản ứng của họ, họ đã vô tình trở thành nô lệ của người khác. Nhưng để có thể bất động trước ngoại cảnh và làm chủ bản thân là cả một quá trình tu dưỡng lâu dài, không tự nhiên mà làm được. Nếu như bạn có ý thức rèn giũa bản thân, học cách khoan dung nhẫn nại, luôn suy nghĩ tích cực và thiện tâm với người khác, thì nhất định có một ngày bạn sẽ làm được. Khi ấy, tâm của bạn không còn là ngọn cỏ – gió vừa thổi tới đã vội vàng lay động, mà tâm của bạn sẽ vững chãi như ngọn núi kia – dù là ngọn gió nào cũng không thể lay chuyển được!

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2016

“Trong trần ai, ai dễ biết ai?” hay chuyện Gieo và Gặt







Võ Hương An
Nhà Nghiên cứu, Hoa Kỳ.

Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?
Thế Chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế!”


Người Việt Nam chơi câu đối đều biết đến đôi câu đối trứ danh này bởi vế ra mang nghĩa thách thức cả về nội dung lẫn hình thức với 4 chữ ai nhiều nghĩa, và vế đối đã hiên ngang trả lời chan chát không một chút do dự, nhún mình. Người ra câu đối là Đặng Trần Thường, thuộc phe chiến thắng; người đối lại là Ngô Thì Nhậm, thuộc phe chiến bại. Nhưng vì đâu nên nỗi?

Ai dễ biết ai” – Hồi một

Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) – từ năm 1848 trở đi đổi gọi là Ngô Thời Nhiệm vì kiêng húy của vua Tự Đức là Nhậm và Thì – vốn thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc của đất Bắc, con của Ngô Thì Sĩ, quê làng Tả Thanh Oai, nay thuộc Thanh Trì, Hà Nội. Vốn thông minh, học giỏi nên năm 21 tuổi đỗ giải nguyên (thủ khoa hương cống, 1768), rồi tiến sĩ (1775), và ra làm quan vào đời chúa Trịnh Sâm (1763 – 1782) đến chức Đốc đồng trấn Kinh Bắc, sau qua Thái Nguyên.

Năm 1788, vâng lệnh Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, Văn Nhậm (rể Nguyễn Nhạc) đem quân ra Bắc, diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, đuổi vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc. Cũng trong năm đó, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, giết Vũ Văn Nhậm, thu lại binh quyền, trực tiếp cai trị Bắc hà và kêu gọi các cựu thần nhà Lê ra hợp tác. Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng, Ngô Thì Nhậm… là ba trong số những người hưởng ứng lời kêu gọi của tân triều.

Vốn đã nghe tiếng Ngô Thì Nhậm nên khi được ông này ra hợp tác, Bắc Bình Vương rất lấy làm mừng, coi Nhậm như là của trời dành cho. Nhậm được phong ngay làm Tả Thị lang bộ Lại và chỉ một thời gian sau đó, thăng làm Thượng thư bộ Lại rồi Thượng thư bộ Binh. Khi Bắc B.nh Vương về lại Phú Xuân thì Ngô Thì Nhậm là một trong những người được tin cậy giao nhiệm vụ hợp tác với Đại Tư Mã Ngô Văn Sở, Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, Nội hầu Phan Văn Lân lo việc cai trị Bắc hà. Quả thật, Ngô Thì Nhậm đã không phụ lòng tin tưởng của Bắc Bình Vương. Khi quân Thanh ồ ạt xâm lăng Việt Nam dưới chiêu bài “phù Lê”, chính Ngô Thì Nhậm đã đưa ra kế hoạch bỏ ngỏ Thăng Long, rút đại quân về giữ đèo Tam Điệp để bảo toàn lực lượng trong khi chờ viện binh từ Phú Xuân ra. Rồi sau khi đại thắng quân Thanh, cũng chính nhờ ngòi bút tài ba của Ngô Thì Nhậm qua những văn thư ngoại giao khôn khéo mà tránh được can qua có thể tiếp diễn giữa hai nước, biến nỗi tức giận thua trận của vua khi vua Quang Trung thăng hà (1792) thì ông không còn được tín nhiệm như trước nữa nên cáo lão về hưu.

Còn Đặng Trần Thường (1759 – 1813) là ai?

Đại Nam liệt truyện (sau đây gọi tắt là Liệt truyện) viết khá chi tiết về cuộc đời của ông này. Theo đó, Đặng TrầnThường người huyện Chương Đức, trấn Sơn Nam (nay thuộc Chương Mỹ, Hà Nội) cũng thuộc con nhà dòng dõi, đậu Sinh đồ (Tú tài) cuối đời Lê, có quen biết với Ngô Thì Nhậm từ hồi ở huyện Thanh Oai. Vốn học rộng và tự biết mình có tài nhưng chưa được ai biết đến nên khi thấy Ngô Thì Nhậm ra cộng tác với Tây Sơn và được trọng dụng thì ông tìm đến gặp Nhậm để nhờ tiến cử.

Theo Wikipedia, thấy thái độ khúm núm nhờ vả của Thường làm mất phong độ kẻ sĩ, Nhậm đã nói rằng:

“Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác”.1

Riêng Liệt truyện thì thuật lại rằng, trong cuộc gặp gỡ này, Nhậm đã không nhiệt tình giúp đỡ mà còn lên mặt kẻ cả đang lên voi, cho Thường một bài học khi hai người bàn về việc đời.

Nhậm nói: “Người quân tử quí ở chỗ biết thông biến mới có thể làm nên được công nghiệp, chứ kẻ thất phu chỉ biết tự tin mình, rồi có ích gì.”

Thường nghe vậy, rũ áo đứng dậy ra về. Về đến nhà, ông nói với người nhà:

Ta sẽ giết tên giặc ấy”2 và quyết chí tìm đường vào Nam để tiến thân với Nguyễn Vương nhưng chưa có cơ hội.

Tại miền Nam, sau khi tái chiếm Gia Định năm 1787, thế lực Nguyễn Vương ngày một mạnh.

Năm 1793, Nguyễn Vương lấy lại thành Diên Khánh và cuối năm đó, giao cho Đông cung Cảnh (tức Hoàng tử Cảnh) trấn giữ thành này. Vương cũng đồng thời cử một cận thần là Nguyễn Đình Đắc bí mật ra Bắc tìm người có tài để thuyết phục vào Nam giúp sức.

Đang muốn vào Nam, nay gặp được Nguyễn Đình Đắc là người có thẩm quyền được ủy nhiệm tìm đến cầu hiền thì còn cơ hội nào tốt hơn, đúng là vận hên đã tới, nên sau cuộc gặp gỡ này, Đặng Trần Thường rủ Nguyễn Bá Xuyên và vài người đồng chí hướng khác nữa vượt biển vào Nam.

Đặng Trần Thường đầu tiên cập bến Diên Khánh, nơi Đông cung Cảnh đang trấn nhậm. Yết kiến Đông cung, Thường không lạy mà chỉ vái ba cái (hành tam khấu lễ) với lời thưa rằng chưa gặp quân vương (Nguyễn Vương) nên chưa dám lạy Thái tử. Có lẽ đã được Nguyễn Vương hay Nguyễn Đình Đắc thông báo trước, lại thêm cái phong độ ra mắt của Thường hơi khác người – tôn kính nhưng không hạ mình, sợ sệt – nên Đông cung Cảnh sinh biệt nhãn, tiếp đón Đặng Trần Thường khá niềm nở, vui vẻ, tặng tiền lộ phí rất hậu để Thường dong buồm đi tiếp vào Gia Định.

Mùa xuân năm Giáp Dần (1794), thuyền đến cửa Cần Giờ. Ông cho người đi trước, mang biểu dâng lên Nguyễn Vương. Chúa Nguyễn xem biểu, thấy đây là người có tài nên ra lệnh cho tả hữu rằng khi Thường đến thì đưa vào ra mắt ngay. Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên, qua đối đáp rất trúng , Nguyễn Vương nhận ra đây là người mà Vương đang cần để giúp chóng hoàn thành nghiệp lớn nên tỏ rõ trọng đãi, ban ngay 300 quan tiền và 100 phương gạo để làm phương tiện định cư ban đầu.

Thấy được Nguyễn Vương biết tài và tin cậy nên từ đó Đặng Trần Thường ra sức bày mưu hiến kế để đem lại chiến thắng cho quân Gia Định. Ngay trong năm đầu tiên (1794) ở miền Nam, ông đã được đi theo đạo quân do Nguyễn Vương chỉ huy, giữ việc tham mưu, ra giải vây thành Diên Khánh cứu Đông cung Cảnh.

Với thành tích này, Đặng Trần Thường được thăng làm Hữu Tham tri bộ Lại (chỉ đứng sau Tả Tham tri và Thượng thư). Từ đó, ông thường được phái theo các đạo quân lớn của các tướng kỳ cựu như Tôn Thất Hội, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, khi th. giữ vai tham mưu, khi thì giữ chức phó tướng, chỉ huy một cánh quân, phối hợp chiến đấu, lập được nhiều công trạng.

Năm 1802, vua Gia Long tiến quân ra Bắc, chấm dứt nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước. Chức Tổng trấn Bắc Thành được lập ra, giao cho Nguyễn Văn Thành trông coi việc cai trị và trị an miền Bắc (gồm 11 trấn) với sự giúp đỡ của ba cơ quan lớn là Tào Binh, Tào Hộ và Tào Hình. Đặng Trần Thường coi Tào Binh. Năm 1809, ông được thăng Thượng thư bộ Binh nhưng vẫn coi Tào Binh, mùa đông năm 1810 được triệu về Kinh.

Trở lại, vào mùa Xuân năm 1803, ba cựu Thượng thư của triều Tây Sơn là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và Nguyễn Gia Phan, sau một thời gian trốn tránh đã ra đầu thú vì nghe có lệnh tha. Cả ba được giải về Kinh.

Đặng Trần Thường nhân dịp này, dâng sớ, nói: “Bọn Nhậm là bề tôi nhà Lê, nỡ cam tâm thờ giặc [Tây Sơn], đặt lời dối trá để lừa bịp nước Thanh, hãm đồng loại vào con đường bất nghĩa… Thực là người có tội trong danh giáo, nếu không giết đi, lấy gì để răn bảo người sau”.3

Vua giao vụ việc cho các quan nghị tội. Nguyễn Văn Thành nói rằng tội của bọn Nhậm thật quá đáng chết nhưng vì đã có chiếu chỉ tha tội cho người ra đầu thú, nên nếu bây giờ giết đi, hóa ra nhà vua thất tín. Vì vậy, triều đình quyết định chỉ đem ba người ra trước Văn Miếu Thăng Long đánh đòn rồi tha về.

Đặng Trần Thường là người chủ trì việc thi hành án phạt. Chính trong cuộc giáp mặt sau mười lăm năm không gặp này đã làm nảy sinh đôi câu đối bất hủ. Ngồi trên ghế nơi công đường oai vệ. Đặng Trần Thường hất hàm hỏi Ngô Thì Nhậm đang quỳ dưới sân:

Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?

Họ Ngô không chút e dè, lấy mệnh trời đáp ngay:

Thế Chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế!

Thấy tới bước đường cùng này mà kẻ thù xưa vẫn không chịu hạ mình thua cuộc, Đặng Trần Thường lấy làm giận lắm, sai lính đánh đòn. Sau khi cả ba cựu thần Tây Sơn chịu đòn xong thì được về nhà, hai người kia bình thường, riêng Ngô Thì Nhậm về nhà mấy hôm sau thì mất. Liệt truyện nói rằng, vì Nhậm bị đau quá, chịu không nổi mà chết nhưng nguồn tin khác lại ghi nhận rằng vì thù xưa quyết trả nên Thường đã bí mật ra lệnh cho lính tẩm thuốc độc vào roi, đánh thật đau, gây thành thương tích, thuốc ngấm vào người, về nhà thì tất Nhậm phải chết.

Wikipedia dẫn nguồn tài liệu không rõ kể rằng, trước khi chết, Ngô Thì Nhậm có làm bài thơ, sai người nhà chuyển đến cho Đặng Trần Thường, như sau:

Ai tai Đặng Trần Thường
Chân như yến xử đường
Vị Ương cung cố sự
Diệc nhĩ thị thu trường.

Nghĩa là:

Thương thay Đặng Trần Thường. Nay quyền thế lắm đấy, nhưng khác nào như chim yến làm tổ trong cái nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi. Giống như Hàn Tín giúp Hán Cao tổ, rồi bị Hán Cao tổ giết ở cung Vị Ương. Kết cuộc của ngươi rồi cũng thế đó.

Tạm dịch:

Thương thay Đặng Trần Thường
Tổ yến nhà xử đường
Vị Ương cung chuyện cũ
Tránh sao kiếp tai ương?”

Quả nhiên bài thơ ứng nghiệm như một lời tiên tri hay một lời nguyền. Nhưng đó là câu chuyện thuộc “Ai dễ biết ai” – Hồi hai. Riêng tôi, không mấy tin chắc rằng đó là thơ của Ngô Thì Nhậm; biết đâu sau này có người hiếu sự, sau khi biết rõ cuộc đời hai người trong cuộc đã làm ra bài thơ đó cho đậm đà câu chuyện!

“Ai dễ biết ai” – Hồi hai
Tây Sơn có một tướng tài, người huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định là Lê Chất (1774 – 1826), hễ quân Gia Định của Nguyễn Vương đụng trận với Lê Chất thì thường thua đậm.

Chất làm đến chức Đô đốc, dưới quyền của Tư lệ Lê Trung. Từ năm 1797, khi thấy nội tình bất ổn và suy yếu của Tây Sơn, Chất đã có ý hàng Nguyễn Vương nhưng chưa có dịp.

Khi Lê Trung bị vua Cảnh Thịnh giết, Lê Chất sợ bị vạ lây, bèn giả chết bằng cách đem một người có khuôn mặt giống mình cho uống thuốc độc, rồi phao lên Chất đã sợ mà tự tử, làm ma chay xong, ông bí mật đem mẹ và vợ con trốn vào núi Trà Bồng để tránh sự truy nã.

Màn kịch diễn ra hay đến nỗi ai cũng lầm, ngay cả mẹ Lê Chất lúc đầu cũng tưởng con mình chết thật, thương khóc thảm thiết. Sau đó, nhờ người giới thiệu, Lê Chất trốn vào Quy Nhơn đầu quân dưới trướng Đại Tổng quản Lê Văn Thanh.

Năm 1799, khi Võ Tánh đem quân đánh thành Quy Nhơn, Lê Chất đem 200 thuộc hạ về hàng, Nguyễn Vương cho đặt dưới quyền điều khiển của Võ Tánh, lập được nhiều chiến công ban đầu. Thu phục được thành này, vua đổi tên làm Bình Định, cho Lê Chất làm Tả đồn Thống chế. Sau đó thành bị Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu đem quân thủy bộ vào vây đánh rất ngặt, Võ Tánh phải vào thành cố thủ, phái Lê Chất về Gia Định.

Năm 1801, Nguyễn Vương đem đại binh giải vây Bình Định, Lê Chất giữ vai tiên phong, đánh rất hăng nhưng trước lực lượng bao vây hùng hậu của Tây Sơn, không làm gì được. Theo đề nghị của Võ Tánh, đạibinh Nguyễn Vương tiến ra đánh Phú Xuân. Lê Chất và Lê Văn Duyệt dẫn quân đi trước, đã phối hợp nhịp nhàng chọc thủng được phòng tuyến Tư Hiền, mở đường tái chiếm cố đô, lập công đầu.

Khi Lê Văn Duyệt, Lê Chất và Nguyễn Văn Thành được lệnh đem quân vào giải vây cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu ở thành Bình Định thì thành này đã thất thủ và cả hai đều tuẫn tiết.

Năm 1802, Nguyễn Vương ban bố niên hiệu Gia Long tại Phú Xuân, mở đầu một triều đại mới, sau đó cùng Lê Văn Duyệt, Lê Chất và các tướng khác đem quân ra Bắc, truy quét Tây Sơn, bắt được vua tôi Cảnh Thịnh, hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước.

Với công trạng này, Lê Chất được phong tước Quận công, mang ấn Bình Tây Tướng Quân.

Thấy Chất là bầy tôi mới, thuộc loại hàng thần mà được chức lớn, Đặng Trần Thường nói với những người thân cận rằng:

“Chất mà bình Tây thì ai bình Chất? Chất mà quận công thì ta nên 10 quận công”.

Lê Chất nghe vậy rất hận Đặng Trần Thường nhưng để bụng và cũng biết đang có sự ganh ghét ngấm ngầm nên trong lòng không yên, bèn dâng biểu nói:

“… tôi bất tài, mới phụ, ví với các quan lao khổ vạn phần, tài không kịp một phần, đã tước quận công, lại chưởng hậu quân, lạm ở cao quý, không dám tự đương, xin xuống đứng cùng hàng với đô thống chế”4 nhưng vua không chịu.

Trong thời gian vua Gia Long trị vì (1802 – 1820), Lê Chất đã được giao những nhiệm vụ quan trọng sau:

– Năm 1803, cùng Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Khiêm đốc xuất hàng vạn quân binh xây dựng Kinh thành Phú Xuân.

– Cũng trong năm đó, đang khi hộ tống vua Gia Long ra Bắc nhận sắc phong của nhà Thanh, đã theo lệnh vua cùng Nguyễn Văn Trương đem quân dẹp yên giặc biển ở Quảng Yên. Khi trở về, tiếp tục cùng các đại thần khác trông coi việc xây dựng cung điện, hoàng thành, tu sửa các lăng.

– Năm 1810, được cử làm Hiệp Tổng trấn Bắc thành.

– Năm 1813, làm Giám đốc Cục Bảo tuyền, cơ quan đúc tiền của Bắc thành.

– Năm 1818, làm Tổng trấn Bắc thành.

Năm 1826, Lê Chất xin nghỉ phép về quê Bình Định thì phát bệnh và mất tại đấy, hưởng thọ 53 tuổi(ta). Vua Minh Mạng nghỉ chầu 3 ngày, ban các loại gấm, sa, đoạn và 3.000 quan tiền để làm đám, tặng hàm Thiếu phó, thụy Trung Nghị.

Bi kịch “Ai dễ biết ai” – Hồi hai diễn ra khi Lê Chất lên nắm quyền ở Bắc Thành. Bấy giờ là năm Gia Long thứ 10 (1811), Lê Chất giữ chức Hiệp trấn Bắc thành (Phó Tổng trấn). Từ chỗ nghe phong thanh có sự man trá trong việc phong sắc thần thời Đặng Trần Thường làm việc, Lê Chất tìm hiểu, điều tra, phát giác ra có đến 560 đạo sắc phong cho thần linh là giả mạo (sắc phong của vua là thật nhưng thần giả, không đáng làm thần). Liên quan đến vụ này có Đặng Trần Thường, Tham tri Bộ Lễ Nguyễn Gia Cát cùng với con là Nguyễn Dục và Thiêm sự Vũ Quý Dĩnh. Điển hình là Vũ Quý Dĩnh đẫ làm sắc phong cho cha cố và bố mẹ vợ làm phúc thần và làm gian cho người khác nữa, còn Đặng Trần Thường dư biết Hoàng Ngũ Phúc là tướng họ Trịnh, người đã đem đại quân vượt lũy Trường Dục đánh chiếm Phú Xuân năm 1774, tiêu diệt cơ nghiệp chúa Nguyễn ở Đàng Trong mà vẫn che giấu, xin phong làm Thanh Danh Văn Võ Thánh Thần Đại Vương,… Khi bị xét hỏi, các người liên hệ đều thú tội. Vua Gia Long nói:

… Bọn ngươi làm gian trá, dối người khinh thần, không tội nào lớn bằng. Và cuộc biến loạn năm Giáp Ngọ (1774) Hoàng Ngũ Phúc là thủ ác, nay lại cất lên mà cho là thần, thế chẳng phải là bán nước sao? Việc ấy còn nỡ làm thì việc gì lại chẳng nỡ!”.5
Tất cả đều bị hạ ngục và vua giao án cho Bộ Hình nghị tội. Phạm Như Đăng cho là tội của Đặng Trần Thường nên cách chức, còn tội Gia Cát thì xử tử. Lê Bá Phẩm cho rằng cả hai cùng tội như nhau, sao hình phạt lại khác, vậy phải xử tội chết cả hai mới công bình. Vua chưa quyết định, đưa án nghị của Bộ Hình ra cho triều đình xét lại. Các quan lớn như Nguyễn Văn Thành, Lê Quang Định, Nguyễn Đức Huyên, Nguyễn Hữu Thận viện dẫn việc Thường và Cát đều có công, xin được theo bát nghị (8 hạng người được chiếu cố, xem xét giảm nhẹ hình phạt luận tội) mà xét xử.

Nhóm các quan lớn khác như Trịnh Hoài Đức, Trần Văn Trạc theo lời nghị của Phạm Như Đăng. Vua Gia Long quyết định:

Vũ Quý Dĩnh bị án trảm (chém), Thường và Gia Cát bị án trảm giam hậu (giam lại, chém sau).

Vào dịp duyệt xét các vụ án vào mùa thu (thu thẩm) năm Gia Long thứ 12 (1813), vua nghĩ thương tình cả hai đều có công trong thời gian phục quốc nên tha tội chết cho Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát, chỉ xóa tên trong sổ bộ các quan (quan tịch) và cho phép lưu ngụ tại Kinh.

Việc thoát chết của Thường không làm cho Lê Chất hài lòng, ông nén lòng chờ cơ hội khác.

Năm Gia Long thứ 18 (1819), Lê Chất lên giữ chức Tổng trấn Bắc thành, quyền uy tột bậc. Ông (hay thuộc hạ theo lệnh ông?) phát hiện ra những việc làm sai trái khác của Đặng Trần Thường, chẳng hạn che giấu thuế đầm ao, che giấu việc kê khai sổ đinh và sổ điền thổ (ẩn lậu đinh điền) liền tâu xin trị tội. Đặng Trần Thường liền bị hạ ngục để điều tra. Trong ngục, ông làm bài Hàn Vương tôn phú, lấy chuyện Hàn Tín giúp Lưu Bang dựng nên nhà Hán rồi bị vu tội để ví với mình, và khi có rượu vào thì phát ngôn bừa bãi, có ý oán hận. Bởi vậy, khi vua giao vụ án cho đình nghị, ông bị kết án giảo (thắt cổ ngay) và gia sản bị tịch thu.

Thế là màn kịch Đặng Trần Thường hạ màn nhưng chưa hạ màn với Lê Chất, dù đã chết.

“Ai dễ biết ai” – Hồi ba

Lúc sinh thời, Lê Chất giao du thân mật với Lê Văn Duyệt. Hai người rất ăn ý với nhau; năm 1824, ông cùng Lê Văn Duyệt rủ nhau xin từ chức Tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, gây khó xử cho vua Minh Mạng không ít.

Lê Văn Duyệt mất vào năm 1832. Năm 1833, vua Minh Mạng bỏ chức Tổng trấn Gia Định thành, đổi các trấn ở phía Nam làm tỉnh và đặt các chức Tổng đốc, Tuần vũ, Bố chánh, Án sát. Cũng trong năm 1833, do sự hà khắc của Tổng đốc Bạch Xuân Nguyên, con nuôi của Lê Văn Duyệt là Lê Văn khôi nổi loạn chiếm thành Phiên An và các tỉnh Nam Kỳ, triều đình mất ba năm hao binh tổn tướng mới dẹp yên.

Vua Minh Mạng rất giận về việc này. Biết ý vua, người ta mới truy cứu trách nhiệm đến Lê Văn Duyệt, làm thành án. Từ vụ Lê Văn Duyệt, Lại bộ Tả Thị lang Lê Bá Tú dâng sớ hạch Lê Chất phạm 17 tội (vì khi còn sống, cả hai người này chơi thân với nhau và ngầm cùng có ý không phục tùng vua). Khi vua giao triều đình nghị án, các quan lớn khác như Tổng đốc Nguyễn Công Trứ, Tuần phủ Hà Thúc Lương, Hộ phủ Trần Văn Tuyên lại tố cáo thêm tội khác và các đồng lõa khác.

Triều đình kết án Chất 6 tội xử lăng trì (xẻo thịt cho tới chết), 8 tội trảm (chém đầu) và 2 tội giảo (thắt cổ). Khi bản án dâng lên, vua Minh Mạng quyết định: vì Chất đã chết (1826) nên sai Tổng đốc Võ Xuân Cẩm san bằng mộ phần, dựng bia đá nơi mộ, đề mấy chữ “Gian thần Lê Chất phục pháp xử” (Đây là nơi gian thần Lê Chất chịu hình phạt) để răn đời, truy thu các sắc phong, tịch thu gia sản (được hơn 22 ngàn quan tiền), đem cấp cho dân nghèo 12 tỉnh Bắc Kỳ. Vợ là Lê Thị Sa bị đày làm nô tì, các con là Cận, Trương, Thường, Ky đều bị trảm quyết.

Năm 1848, đời Tự Đức, Đông các Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn (nhạc gia của vua) xin vua truy lục công của Chất, nhờ vậy cháu là Luận được làm Cai đội. Năm sau, Tổng đốc Tạ Quang Cự xin vua rửa sạch tội cho Chất vua không chấp thuận, vì rằng về tư cách và công trạng, không thể đem Chất sánh với Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành. Vua xem việc tha dựng bia kể tội và thu dụng cháu tên là Luận vào hàng ngũ quan lại là đã tỏ ân điển của triều đình rồi.

Đến đây thì chuyện Trong trần ai, ai dễ biết ai? tạm kết thúc. Quả thật danh lợi làm điên đảo lòng người,gây ra biết bao thảm cảnh cho người, cười đó rồi khóc đó. Nguyễn Công Trứ, sau mấy chục năm quay trong cơn lốc xoáy ấy, đến khi thoát ra mới thấm thía mà hát rằng:


Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.

V.H.A.

Tạp chí Nghiên cứu-Trao đổi số 56-8

CHÚ THÍCH
1 http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_Th%C3%AC_Nh%E1%BA%ADm
2, 3, 4 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Tập 2, Bản dịch của Tổ phiên dịch Viện Sử học (Huế: Thuận Hóa, 1997), 491, 494, 444.
5 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1. Bản dịch của Tổ phiên dịch, Viện Sử học (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 815.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quốc sử quán triều Nguyễn. 2002. Đại Nam thực lục.Tập 1. Bản dịch của Tổ phiên dịch Viện Sử học. Hà Nội: Giáo dục.
Quốc sử quán triều Nguyễn. 1997. Đại Nam liệt truyện. Tập 2. Bản dịch của Tổ phiên dịch Viện Sử học. Huế: Thuận Hóa.
V. Hương-An. 2012. Từ điển Nhà Nguyễn. Califonia: Nam Việt.
http://vi.wikipedia.org/

Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2016

Trên đời này thứ gì là khó được nhất?



Tác giả: Theo Renmingbao | Dịch giả: Tâm Nguyễn




Ảnh: Getty Images

Có ba vị tỳ kheo thảo luận vấn đề: “Trên đời này thứ gì là khó được nhất”?

Vị tỳ kheo thứ nhất nói: “Trên đời khó được nhất là có mãi tuổi thanh xuân, khoẻ mạnh và trường thọ. Một người cho dù có gia tài của cải tiền tỉ, nhưng khi bệnh tật già nua tới, cũng không thụ hưởng được những niềm vui của đời”. Vị tỳ kheo thứ hai nói: “Trên đời điều khó được nhất là có người bạn tri kỷ, có thể cùng nhau chia sẻ hoạn nạn. Một người dù cho quyền cao chức trọng đến đâu, nếu không có lấy một người bạn chân thành bên cạnh, quạnh hưu cô đơn, chẳng khác nào đoá hoa mà mất đi hương thơm, không có ong bướm vòng quanh.” Vị tỳ kheo thứ ba nói: “Tôi nhận thấy thứ khó được nhất là họ hàng quyến thuộc hoà hợp mỹ mãn. Nếu một người có thân thể khoẻ mạnh, có bạn tốt tri kỷ nhưng họ hàng quyến thuộc tranh đấu bất hòa, thì có ích gì? Cuộc sống mỗi ngày giống như ở địa ngục trần gian, muốn thoát ra mà không biết đến khi nào.”

Phật Đà nghe ba vị tỳ kheo luận nghị xong, liền quyết định triệu tập đại chúng. Lúc này tiết trời đang độ mùa thu, gió thu nhè nhẹ thổi, cỏ cây xanh tươi khoáng dã, không khí thanh khoát sảng khoái lòng người. Phật Đà nói với các chư vị tỳ kheo: “Trên thế gian này thứ gì là khó được nhất? Không phải khoẻ mạnh trường thọ, không phải bạn bè tri tâm, cũng chẳng phải thân quyến hoà hợp. Ta kể một câu chuyện cho các vị nghe:

Ở đại trung hải, có một con rùa mù, mệnh thọ của nó vô lượng kiếp số, trải qua thiên bách ức thương hải tang điền (trăm ngàn năm bãi bể nương dâu). Bình thường nó lặn sâu nghìn trượng tận dưới lòng đại dương, trăm năm mới nổi lên mặt nước một lần. Lại có một cây gỗ nổi trên mặt nước, bên trong có một cái lỗ hổng, theo gió và sóng biển mà trôi dạt. Rùa mù trăm năm mới nổi lên mặt nước một lần, để gặp được cây gỗ nổi thì đã là kỳ tích, huống hồ hôm nay lại gặp đúng cây gỗ có lỗ hổng, chở nó vào bờ? Rùa mù gặp gỗ rỗng, hơn cả cơ hội ngàn vạn năm có một, nhưng đối với sinh mệnh trôi nổi trong luân hồi mà nói, muốn có được thân người còn khó hơn rùa mù được vào bờ cả vạn lần!”


Đức Phật dúm lấy một nắm đất trên mặt đất, mở bàn tay ra, nói với các tỳ kheo: “Chúng sinh được thân người như đất trên lòng bàn tay ta, chúng sinh chẳng được thân người như đất trên khắp đại địa cầu. Cái gì khó được nhất? Chính là thân người!”


Ảnh: NTDTV

Một khi đã mất thân này, vạn kiếp khó có lại được, đây không phải chỉ là lời dạy của kinh Phật cổ xưa mà còn là nhận thức không thể thiếu trong cuộc sống của sinh mệnh chúng ta, giúp chúng ta quý tiếc thân người, trân trọng nhân duyên đương tại. Cái gì khó được nhất? Thân người khó được nhất. Con người là anh linh của vạn vật, cũng chỉ có người có thể tu luyện, có thể tu thành Phật, tu thành Đạo. Cho nên cần trân quý cơ quyên này. Danh lợi là không mang theo đi được, chúng ta khi đến cõi đời này với hai bàn tay trắng, khi rời khỏi nơi đây tay trắng vẫn hoàn trắng tay mà thôi. Vậy mà còn mê lạc trong thế gian, vì danh vì lợi mà theo đuổi đến cùng, lại càng tạo thêm nhiều nghiệp lực tội lỗi, thiện – ác tất có báo ứng đó là đạo lý của trời, cứ như vậy càng khiến cho đời sau thêm nhiều khổ nạn. Hãy trân trọng hiện tại, tuân theo chính pháp, phản bổn quy chân mới là mục đích chân chính để làm người.

“Phật độ người hữu duyên” có thể hiểu Phật độ người như thế nào!


Tác giả: Theo Secretchina | Dịch giả: Tâm Nguyễn



(ảnh minh họa: wikimedia commons)

Một vị tín đồ thành kính và sùng bái đạo đang lúc gặp phải một trận lũ lụt, bèn leo lên trên mái nhà lánh nạn. Tuy nhiên đại hồng thủy cứ dần dâng cao mênh mông, xem chừng nước đã muốn ngập chạm đến bàn chân, tín đồ vội vàng hướng Phật cầu cứu và khấn rằng : “Phật Tổ đại từ đại bi xin hãy nhanh đến cứu con đi ạ!”

Không lâu sau đơn độc một chiếc thuyền gỗ lướt tới, người trên thuyền muốn cứu tín đồ, nhưng anh ta lại nói: “Ta không gọi ngươi đến cứu, Phật Tổ sẽ tới cứu ta.”

Và người kia lại một mình với chiếc thuyền gỗ rời đi. song nước lớn vẫn đang không ngừng tiếp tục dâng cao, rất nhanh đã cao tới lưng chừng đùi của vị tín đồ. Tín đồ mười phần lo lắng cả mười, lập tức hướng về Phật tổ mà phát tâm cầu cứu.

Khi này lại chèo tới một chiếc thuyền, người trên thuyền hướng dẫn tín đồ những yêu cầu sao cho lên thuyền được an toàn, anh ta không những đã cự tuyệt, lại còn nói rằng: “Ta không muốn (thích) chiếc thuyền này, Phật Tổ sẽ đến cứu ta.” Và thế rồi chiếc thuyền đơn độc kia cũng đã rời đi bỏ lại tín đồ phía xa xa.


Chẳng mấy chốc nước đã dâng cao ngập đến ngực, tín đồ tiếp tục hướng về Phật Tổ khẩn cầu bật to ra thành tiếng trong lo lắng. Nước lũ thuận theo hồng thủy vẫn cứ không dừng dâng nhanh, tín đồ thở dài trong tâm trạng than thở, vô vọng.

Chính ngay lúc ấy, một vị thiền sư với dáng chèo thuyền cấp bách vội đến cứu được anh ta. Vị tín đồ được cứu nói với thiền sư trong tâm trạng giận dỗi đầy oán trách: “Ta đối với Phật đã thành kính như thế, nhưng Phật Tổ lại không tới cứu giúp khi ta đang gặp nạn.”

Vị thiền sư trầm lắng nói một cách thâm sâu: “Người thật sự đã trách oan Phật rồi. Phật đã mấy lần hóa tác cho thuyền đến cứu người, người lại chưa hài lòng hết chê thế này thế kia, đã cự tuyệt rồi bỏ qua hết lần này đến lần khác, xem ra Phật và người vô duyên (không có duyên) rồi.”

Đạo Phật thuyết rằng: “ Độ người hữu duyên”, Phật từ bi vô ngã, đã cho thuyền lành vượt trong lũ lớn và thoát khỏi đảo lộn lật úp, đã vì phật tính của tất cả chúng sinh là bình đẳng, hữu tình mà chỉ thị dậy bảo cụ thể cho hết thảy tất cả các bản tính khác. Căn cứ vào căn tính khác nhau của chúng sinh, mà khai mở mọi ngả mọi nẻo hết thảy các phương tiện rộng lớn trong thế gian. Nguyên cơ giảng Pháp, là để lần lần hướng người ta sang đường thiện. Người thành tâm kiên chí, noi theo chỉ thị của Phật dăn dạy sẽ dần thoát ly khỏi bể khổ. Không cố gắng kiên chí và thành tâm thì vĩnh viễn không thoát ly nổi bể khổ. Cho nên nói: Điều gọi là Phật độ ấy kỳ thực là những gì chúng sinh chiểu theo Phật Pháp chỉ thị để tự ngộ, tự độ, tự cứu lấy mình mà thôi!

Có một vị tín đồ nọ đứng dưới mái hiên tránh mưa, nhìn thấy một vị thiền sư cầm chiếc ô đi ngang qua, liền gọi lớn: “Thiền sư, xin người hãy phổ độ chúng sinh ạ! Cho tôi đi nhờ một đoạn có được không?”

Vị Thiền sư thấy vậy mới nói: “Ta đang đi ở trong mưa, còn người ở dưới mái hiên, dưới mái hiên không hề mưa ướt, người không cần ta độ giúp?”

Vị tín đồ bèn lập tức bước ra khỏi mái hiên, đứng dưới trời mưa và nói: “Hiện tại tôi cũng ở trong mưa, nên giúp đỡ tôi được chưa?”

Vị Thiền sư: “Người cũng ở dưới mưa, ta cũng ở dưới mưa, ta không bị mưa thấm ướt, bởi vì có chiếc ô; người bị mưa thấm ướt, vì không có chiếc ô. Cho nên không phải ta độ được người, mà là chiếc ô độ giúp ta. Người muốn được độ, không cần tìm ta, tự đi mà tìm một chiếc ô!”

Trong chuyện này vị thiền sư không bằng lòng chia chung ô, đây là đại từ bi của thiền sư — Con người muốn được cứu độ không thể mong vào người khác chỉ bảo mà còn nên cần phải dựa vào chính mình.

Tự mình có chiếc ô, mới có thể khiến mưa không thấm ướt, đạo lý cũng vậy, tự mình có chân như Phật tính, tự nhiên cũng sẽ trở thành tuy ở phàm trần mà không có chỗ nào để bụi nhơ bám lên được!

Chủ Nhật, 17 tháng 4, 2016

Lẽ sống chết






Người ta ở đời, kẻ thì mến đời không muốn chết, hoặc có kẻ lại chán đời không muốn sống. Như thế đều là nhầm cả. Sự sống chết không phải tự cho mình có chủ quyền được, thì mình đem tâm lo nghĩ, cầu khẩn về việc sống, chết, mà có ích gì!

Mạnh Tôn Dương hỏi Dương Tử: “Có kẻ mến đời, yêu thân, cầu cho không chết có nên không?”.

Dương Tử nói: “Có sống thì phải có chết, lẽ nào mà không chết được?”.

- Thế cầu sống có nên không?

- Lẽ nào sống lâu được? Người ta không phải thích sống mà sống mãi được, yêu thân mà thân còn mãi được. Vả chăng, sống lâu để làm gì? Thế tình hay dở, xưa cũng như nay; thân thể an nguy xưa cũng như nay; việc đời vui khổ, xưa cũng như nay; biến đổi trị loạn, xưa cũng như nay; cái gì cũng đã nghe thấy, đã trông thấy, đã từng trải cả rồi, thì sống trong khoảng trăm năm cũng đủ lấy làm chán, huống còn cầu lấy sống lâu để cho khổ làm gì?”.

Mạnh Tôn Dương nói: “Nếu như thế, thì chóng chết còn hơn là sống lâu. Ta nên xông vào gươm giáo, nhảy vào nước lửa để chết ngay đi có thỏa không?”.

Dương Tử nói: “Không phải thế. Đã sinh ra đời thì lúc sống cứ tự nhiên mặc, muốn làm gì thì làm, cho đến lúc chết. Lúc sắp chết, cũng tự nhiên mặc, muốn hóa ra gì thì hóa cho đến lúc cùng. Lúc sống, lúc chết, lúc nào cũng tự nhiên như không, hà tất phải quan tâm sống lâu hay chóng chết làm gì?”.

Dương Tử[1]

Lời bàn:

Người ta ở đời, kẻ thì mến đời không muốn chết, hoặc có kẻ lại chán đời không muốn sống. Như thế đều là nhầm cả. Sự sống chết không phải tự cho mình có chủ quyền được, thì mình đem tâm lo nghĩ, cầu khẩn về việc sống, chết, mà có ích gì!

Thà rằng: Từ lúc sống đến lúc chết, việc mình, mình làm, còn ngoại giả phó mặc ở sự tự nhiên cho gọi là số, là mệnh, là tạo hóa cũng không cần. Thói đời, thường tình vẫn tham sống, sợ chết. Nhưng chết, vị tất là khổ hẳn. Mà sống, cũng không ai bảo là toàn sướng được! Như xưa có kẻ sống hơn trăm tuổi, ai chẳng cho sống lâu là quý! Thế mà người ấy thường vẫn ta thán rằng: “Sống làm chi cho nhục!”. Sống lâu cho vô ích mà chỉ trông nhiều cảnh tang thương thì có hay gì.

(Theo “Cổ học tinh hoa” của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân – NXB Trẻ)




------------------------------

[1] Dương Tử: Người thời Chiến Quốc tên là Tử Cư, tôn chỉ học thuyết là: “Mất một cái lông mà lợi thiên hạ cũng không cho, được cả thiên hạ phụng sự một mình cũng không làm, người nào cũng không chịu thiệt, người nào cũng không ham lợi thì thiên hạ tự nhiên thái bình”. Học thuyết ấy rất thịnh hành thời Chiến Quốc và người đời bây giờ cho là học thuyết “Vị ngã
”.

Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2016

Ông Kẹ là ai?



Đó chính là một tướng lĩnh người Carthaginian (Tunisia hiện tại), người đã đánh bại Đế quốc La mã trong trận đánh tên là Cannae, chỉ với 50,000 quân chống lại 90, 000 quân thiện chiến.


Trận Cannae, năm 216 trước Công Nguyên (tranh không rõ tác giả)

Trong trận đánh đó, thay vì bố trí một chính diện mạnh để chống xuyên phá như thông thường, ông đã găm lực lượng tinh nhuệ ở hai cánh. Trong quá trình phát triển của trận đánh, ông chủ động lùi khối trung tâm, tạo thành một vòng cung lõm bao lấy đội hình địch. Khi chính diện của địch đã bị kéo giãn theo vòng cung, thì lực lượng kỵ binh ở 2 cánh phát triển thành hai gọng kềm, cơ động vu hồi khép kín vòng vây, và sau đó chia cắt đội hình La Mã ra từng khối và tiêu diệt.


Bố trí trận Cannae (từ trang emersonkent.com)

Kể từ sau trận đó, Hannibal, tên của ông, trở thành Ông Kẹ mà người La Mã ngày xưa và người Ý ngày nay dùng để doạ trẻ nít khi khóc. Còn bản thân trận đánh trở thành bài học kinh điển về chiến tranh, mà trong đó vận động chiến thuật để tạo thành thành các mũi cơ động vu hồi (tấn công đối phương từ bên sườn hoặc sau lưng) bao vây địch được nâng lên tầm nghệ thuật.

Câu chuyện ngụ ngôn: Hãy lắng nghe tiếng hát của Thiên thần





Tác giả: Lam Nguyệt




Từ thuở xa xưa trong đại khung vũ trụ có rất nhiều Thiên quốc mỹ lệ, trong một Thiên quốc nọ, có Thiên thần và các Thiên nhân sống một cuộc sống tràn đầy hạnh phúc. Thế giới Thiên quốc rất nguy nga lộng lẫy, khắp nơi lấp lánh ánh hào quang rực rỡ và thần thánh, nơi đó không có bi thương, không có bệnh tật, càng không có oán hận và tranh đấu.


Thiên quốc đã trải qua những năm tháng dài đằng đẵng, không biết đã qua bao nhiêu năm, bao nhiêu kiếp, thế rồi Thiên thần phát hiện ra Thiên quốc của mình đã bị lệch khỏi đặc tính của vũ trụ, nếu không quy chính kịp thời thì cuối cùng sẽ phải đối mặt với sự hủy diệt. Chỉ có một biện pháp để quy chính lại Thiên quốc, đó là hạ xuống một nơi thấp kém nhất gọi là “nhân gian”, đi tìm bí quyết cứu độ thế giới: ba chữ Chân Ngôn!


Từ Thiên quốc nhìn xuống nhân gian, cảnh tượng thật đáng sợ tột cùng! Khói đen cuồn cuộn, sóng đục ngất trời, người thế gian đều mang trên mình lớp vỏ giống như cái kén chui ra chui vào trong bùn đất, lúc khát lúc đói, lúc sợ nóng, lúc sợ lạnh, còn bị dày vò bởi các loại bệnh tật không tránh khỏi và các truy cầu, dục vọng không được thỏa mãn, đau khổ không sao tả siết. Hơn thế nữa, vào lúc ba chữ Chân Ngôn xuất hiện ở nhân gian thì cũng đồng thời xuất hiện một con ma đỏ tên là “Thượng Hắc” gây họa loạn nhân gian, nó sẽ tìm mọi cách ngăn cản Thiên thần quay trở về.


Thiên thần vẫn quyết định đi xuống nhân gian, chúng sinh trong Thiên quốc quỳ phủ phục mãi không đứng dậy, nước mắt tuôn trào đầy cảm phục, cũng có chúng sinh thệ nguyện cùng đi xuống với Thiên thần: “Hỡi Thiên thần mỹ lệ, để thế giới Thiên quốc của chúng ta được trường tồn mãi mãi, chuyến đi này của Ngài chắc chắn vô cùng nguy hiểm, gian nan muôn phần, hãy cho phép chúng thần được cùng Ngài hạ thế.”


Thiên thần đã bỏ đi vầng hào quang của Thần mà hạ xuống nhân gian, trải qua vô số khổ nạn, khó nhọc tìm kiếm suốt 200 triệu năm.


Cuối cùng, ngày ấy đã đến, Thiên thần đã tìm được ba chữ Chân Ngôn, cô mừng rỡ cất lời ca từ tận bản nguyên sinh mệnh của mình: “Đây chính là điều ta muốn tìm, những người bạn nơi Thiên quốc hãy mau tới đây, ta đã tìm được bí quyết cứu độ thế giới Thiên quốc rồi, ba chữ Chân Ngôn vĩ đại và thiêng liêng! Chúng ta cuối cùng đã có thể trở về Thiên quốc rồi!”


Tiếng hát đã làm kinh động con ma đỏ, ma đỏ điên cuồng cười nhạo: “Ha ha, ngươi đừng có mong nghĩ đến việc trở về!” Nói xong nó hiện nguyên hình là một con quái thú lớn màu đỏ vô cùng xấu xí, trông giống như con rồng nhưng lại không phải rồng, nó ngoác cái miệng lớn đầy máu lao về phía Thiên thần. Kể cũng thật thần kỳ, từ khi Thiên thần có được ba chữ Chân Ngôn, cô đã dần dần trút bỏ lớp vỏ kén dày và nặng, đôi cánh của cô đã mọc trở lại, năng lượng của Thần dần dần khôi phục, sức mạnh đó khiến ma đỏ gần như mất mạng, phải tháo chạy xa bay.


Thế nhưng Thiên thần không muốn một mình trở về Thiên quốc, cô muốn tìm những người bạn của mình, cô không kể vất vả cực nhọc mà tìm kiếm họ, không kể mệt mỏi mà cất lên tiếng ca kêu gọi họ thức tỉnh: “Bạn và tôi đều có duyên, xin hãy lắng nghe tôi hát, mau nhớ kỹ ba chữ Chân Ngôn, đó là điều chúng ta chờ đợi bấy lâu, hỡi những người bạn của tôi, hãy cùng tôi trở về đi, trong Thiên quốc của tôi có thế giới của các bạn, trong thế giới của các bạn có lời chúc phúc của tôi…”


Có những người bạn nghe được lời ca của Thiên thần, họ nhảy múa reo hò, chính tại thời khắc họ ghi nhớ ba chữ Chân Ngôn kia, thân thể của họ cũng xảy ra sự thay đổi thần kỳ, năng lượng từ bi và thần thánh đã tẩy sạch hết những dơ bẩn trên thân họ, họ mừng rỡ hòa theo lời ca của Thiên thần: “Tôi đã nhớ rồi, tôi đã nhớ rồi, ba chữ Chân Ngôn thật quá tốt đẹp, tương lai của chúng ta thật xán lạn vô cùng!”


Thế nhưng, cũng có những người bạn đã bị ma đỏ bỏ bùa mê, họ đã mất đi ký ức bình thường, quên đi lời giao ước thuở xưa khi đến đây; họ cũng mất đi thị giác bình thường nên không thể nhìn thấy đôi cánh của Thiên thần. Nghe thấy Thiên thần không ngừng ca hát, họ cười nhạo nói rằng: “Ta không tin chút nào, những điều ngươi nói đều là cái thứ mê tín phong kiến. Ta khoác trên mình những bộ y phục lộng lẫy, ở trong căn biệt thự xa hoa, lái xe sang đi khắp đó đây, còn ngươi hãy xem ngươi có gì? Ngươi nói ngươi có cánh mà sao ta lại chẳng nhìn thấy?” Thiên thần lo lắng kêu lên: “Mau rời khỏi con ma đỏ đi, nó đã bỏ bùa mê cho mọi người rồi, nên mọi người mới không thấy được chân tướng!” Lúc này con ma chú bị bùa mê của ma đỏ cũng cất tiếng nói: “Con à, ta là người mẹ “Thượng Hắc” của các con, ta đem số tiền ta cướp được chia cho các con, mua những bộ quần áo lộng lẫy và xây những căn biệt thự xa hoa cho các con, chỉ cần các con nghe lời ta, mãi mãi đi theo ta, ta sẽ cho các con sống một cuộc sống an nhàn thoải mái!”


Những người bạn bị bỏ bùa mê càng thêm tin vào lời của con ma đỏ, mắt họ chỉ thấy lợi ích mà không nhận ra Thiên thần. Nếu trước khi kiếp nạn cuối cùng xảy đến mà họ vẫn không thể tỉnh ngộ, thì họ sẽ không bao giờ có thể quay trở về Thiên quốc được nữa, hơn nữa sẽ bị tiêu hủy cùng với con ma đỏ, thật cực kỳ nguy hiểm!


Thiên thần vẫn không nản lòng hát vang lời ca thức tỉnh họ: “Hãy nhớ kỹ ba chữ Chân Ngôn, đó là điều chúng ta chờ đợi bấy lâu, hỡi những người bạn của tôi, hãy cùng tôi trở về đi, trong Thiên quốc của tôi có thế giới của các bạn, trong thế giới của các bạn có lời chúc phúc của tôi…”


Cứ như vậy, dẫu cho trời đông giá rét, ngày hè nóng nực, dẫu cho xuân hạ thu đông, có những lúc, con ma đỏ gắng gượng hơi tàn đột nhiên tập kích, Thiên thần không cẩn thận cũng sẽ bị thương, nhưng dưới pháp lực của ba chữ Chân Ngôn, Thiên thần sẽ hồi phục lại rất mau chóng. Ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, Thiên thần dùng tiếng ca để thức tỉnh mọi người.


Hỡi con người thế gian, nếu như có người khuyên các bạn hãy mau mau rời khỏi con ma đỏ ấy thì đó nhất định là Thiên thần đang hát, xin các bạn hãy buông bỏ những thành kiến nơi thế tục và những lời dối trá bịa đặt của con ma đỏ, hãy cảm nhận lời ca bằng trái tim chân thành nhất, không vì điều gì khác, chỉ bởi vì các bạn cũng tới từ thế giới Thiên quốc tươi đẹp.


Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2010/10/18/69107.寓言故事:听,天使在唱歌.html

Thứ Tư, 6 tháng 4, 2016

Thì ra nói chuyện cũng là một loại tu dưỡng!



Tác giả: Theo letu.life | Dịch giả: Minh Nữ

Vương Dương Minh là một nhà tư tưởng nổi tiếng đời Minh. Có một lần, ông cùng học trò ra ngoài du ngoạn. Bên đường có hai người đang cãi nhau kịch liệt. Một người mắng: “Ngươi thật không biết thiên lý là gì”. Người kia phản bác: “Ngươi mới thật là không có lương tâm”. Cậu học trò liền quay sang nói với Vương Dương Minh: “Thầy xem, họ đang giảng đạo lý kìa”. Vương Dương Minh đáp: “Không, là họ đang chửi mắng người khác”. Dùng thiên lý và lương tâm để yêu cầu bản thân mình thì mới đúng là giảng đạo lý; dùng nó để yêu cầu người khác thì chính là mắng chửi người ta.

Trong đối nhân xử thế giữa người với người, nói chuyện chính là một loại tu hành thực tế, lời nói tán dương khen ngợi cũng là một loại thiện hạnh. Chuyện thị phi thường có nguyên nhân từ cái miệng; người nói, người nghe, lại có thêm người thứ ba vô tâm bàn luận khuấy đảo thị phi, khiến sự việc xấu càng thêm xấu. Bởi vậy mới có câu: “Dao ngôn chỉ vu trí giả”, những tin đồn vô căn cứ truyền đến tai người thông minh thì không thể tiếp tục truyền được nữa.


Người với người gặp nhau đã khó, được cùng nhau tề tựu một nơi còn khó hơn, thế nên đừng vì lời nói nhất thời mà phá hỏng đi thiện duyên khó được. Ngôn ngữ vốn câu thông với cảm tình và là công cụ để truyền đạt tư tưởng. Nhưng nếu không dùng lời nói đúng mực hợp lý mà lại dùng những lời dư thừa vô bổ thì cũng sẽ dẫn đến thị phi, phiền não.

Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Socrates là một người cực kỳ giỏi diễn thuyết, ông thường dạy phương pháp diễn giảng cho người khác. Một hôm, có một cậu thanh niên đến xin ông dạy cho kỹ xảo diễn thuyết. Socrates chờ anh ta thao thao bất tuyệt một hồi, rồi mới bảo anh ta nộp gấp đôi tiền học phí. Anh ta rất ngạc nhiên hỏi Socrates lý do tại sao, Socrates trả lời: “Bởi vì ngoài việc dạy anh nói ra tôi còn phải dạy anh cách ngậm miệng nữa.” Cổ nhân dạy: “Nhất ngôn chiết tẫn bình sinh phúc”, một câu nói có thể làm hao tổn hết phúc đức một đời. Nói năng cẩn thận quả là một việc tu thân quan trọng.

Mục đích của nói chuyện là để truyền đạt cho nhau những lời chân tình thân ái. Thông thường trong khi nói chuyện, có rất nhiều ngôn từ và cách diễn đạt cần chú ý, chẳng hạn như: “Là tôi bắt hắn đến”, tại sao không nói: “Là tôi mời anh ta đến”. “Nghe tôi nói đây” thì tại sao không nói “Chúng ta trao đổi một chút nhé”. “Bạn đừng có hối hận đấy” thì tại sao không nói “Bạn không suy nghĩ thêm chút nữa sao?” “Bạn phải cẩn thận chứ” thì tại sao không nói “Có lẽ bạn nên cẩn thận một chút”. Cùng một ý nghĩa, tại sao không thêm vào những từ ngữ dễ nghe? Bằng không, không những khiến người nghe khó chịu mà còn gây ra những hiểu lầm không cần thiết.

Khi Tấn Vũ Đế mới lên ngôi không lâu, bèn xem bói xem có thể tại vị hoàng đế được bao lâu, kết quả được một quẻ có chữ “Nhất” (tức là 1). Vũ Đế vô cùng không vui, quần thần cũng sợ đến mặt mày trắng bệch, không ai dám hé răng nửa lời. Lúc này, viên quan Bùi Khải mới tiến lên và bảo: “Vi thần nghe nói, trời mà được chữ Nhất thì thanh minh trong sáng, đất mà được chữ Nhất thì an bình yên ổn. Bậc vương hầu mà được chữ Nhất thì nhân dân yêu mến ủng hộ”. Mấy lời ngắn ngủi như vậy nhưng cũng đủ khiến Vũ Đế từ buồn chuyển thành vui, quần thần trước những lời động viên thiện ý của Bùi Khải cũng vô cùng thán phục. Có thể thấy rằng, bất luận việc gì cũng không tuyệt đối. Nắm giữ nghệ thuật nói chuyện, lựa chọn thời cơ thỏa đáng thì có thể biến buồn thành vui, dở lại hóa hay!

Thứ Tư, 9 tháng 3, 2016

Công Dã Tràng




Công dã tràng, ý nói có gắng công cũng vô ích.

Tục truyền có chàng thợ săn tên Dã Tràng, một ngày kia nhìn thấy một cặp rắn. Khi con rắn cái lột da thì rắn đực đi tìm đồ ăn mang về chọ Nhưng khi rắn đực lột da thì rắn cái bèn bò đi tìm rắn đực khác. Dã Tràng bất bình bèn bắn chết rắn cáị Rắn đực đi tìm vợ, gặp Dã Tràng mới hiểu ra vợ mình xấu xạ Rắn đực bèn trả ơn Dã Tràng bằng một viên ngọc lạ, mỗi lần Dã Tràng ngậm viên ngọc này thì có thể nghe và hiểu được tiếng nói của loài vật.

Tin viên ngọc lạ có thể cho cho con người hiểu ngôn ngữ loài vật bay đến tai vuạ Vua cho đòi Dã Tràng tới, mượn viên ngọc của chàng và ban thưởng nhiều của cảị

Một hôm vua xuống thuyền, ngậm viên ngọc, nghe được các loại cá mực hát rất haỵ Vua bật cười, viên ngọc bị rơi xuống biển.

Dã Tràng tiếc viên ngọc, ngày đem ngụp lặn tìm kiếm, kiệt sức chết đi. Dã Tràng biến thành một loài cua bể ngày đêm tha cát lấp biển để tìm lại viên ngọc đã mất.

Dã Tràng tha cát lấp bể, sóng biển lại đánh vàọ Cho nên trong dân gian Việt Nam có câu:

"Dã Tràng xe cát biển đông,
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì"

Thứ Tư, 2 tháng 3, 2016

Đây mới thực là cao nhân chân chính!


Tác giả: Theo NTDTV | Dịch giả: Minh Nữ




Cao nhân chân chính, chính là có thể thắng nhưng không nhất định phải thắng, có thể đánh bại kẻ khác nhưng không nhất định phải đánh bại. (Ảnh: NTDTV)

Thế nào gọi là cao nhân? Tương truyền, Tả Tông Đường rất thích chơi cờ vây, hơn nữa còn là một cao thủ, gần như không có ai là đối thủ của ông.

Có một lần, Tả Tông Đường cải trang trước khi xuất chinh đánh trận, trên đường bỗng nhìn thấy một ngôi nhà tranh, trên xà nhà có treo tấm biển “Thiên hạ đệ nhất kỳ thủ”. Tả Tông Đường thấy thế thì trong lòng không phục, liền đi vào trong để cùng chủ nhân ngôi nhà đánh ba ván cờ.

Vị chủ nhà đánh ba ván đều thua, Tả Tông Đường cười nói: “Ông nên tháo tấm biển kia xuống đi!”

Nói xong, Tả Tông Đường tràn đầy tự tin, cao hứng bừng bừng mà rời đi.


Không lâu sau, Tả Tông Đường thắng trận trở về, lại đi ngang qua ngôi nhà ấy, thấy tấm biển “Thiên hạ đệ nhất kỳ thủ” vẫn chưa được gỡ xuống, Tả Tông Đường tức giận đi vào trong nhà để cùng vị chủ nhân tỷ thí ba ván cờ nữa.

Lần này, Tả Tông Đường thua cả ba ván.

Tả Tông Đường vô cùng kinh ngạc, liền hỏi vị chủ nhân tại sao lại như vậy.

Vị chủ nhân đáp: “Lần trước, ngài tuy mặc thường phục nhưng ta đã sớm biết ngài là Tả Công, ngài mang trên mình nhiệm vụ đánh giặc, ta không thể dập tắt nhuệ khí chiến đấu của ngài. Lần này, ngài đã chiến thắng trở về, ta đương nhiên toàn lực ứng phó, việc đáng làm thì ắt phải làm, không thể nhượng bộ!”

Cao thủ chân chính trên thế gian, chính là có thể thắng nhưng không nhất định phải thắng, có thể đánh bại kẻ khác nhưng không nhất định phải đánh bại, ấy là vì có tấm lòng khiêm nhượng, thiện tâm với người.



Cuộc sống chẳng phải là như vậy sao?

Thông minh không nhất định là có trí tuệ, thế nhưng trí tuệ thì nhất định bao quát thông minh.

Người thông minh tâm nặng chuyện được mất, người trí tuệ có thể dũng cảm xả bỏ.

Tai thính thật sự thì có thể nghe được tiếng lòng, mắt sáng thật sự thì có thể nhìn thấu tâm linh.



Chứng kiến, không có nghĩa là nhìn thấy.

Nhìn thấy, không có nghĩa là nhìn rõ.

Nhìn rõ, không có nghĩa là hiểu được.

Hiểu được, không có nghĩa là hiểu rõ.

Hiểu rõ, không có nghĩa là đã thông suốt.


Chúng ta vẫn thường nghe nói: “Không có văn hóa thì thật đáng sợ!”. Thế nhưng “văn hóa” ấy rốt cuộc là cái gì vậy? Là bằng cấp? Là kinh nghiệm? Hay là sự từng trải?

Đáp án: Tất cả đều không phải!

Ngày hôm nay, coi như chúng ta đã được thấy một lời giải thích thuyết phục, “văn hóa” ấy chính là biểu đạt bởi bốn điều sau đây:

Đào sâu vào tu dưỡng nội tâm.
Tự giác không cần nhắc nhở.
Lấy ước thúc làm tiền đề cho tự do.
Suy nghĩ lương thiện vì người khác.

Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2016

Cái bẫy chuột






Một con chuột nhìn qua vết nứt của vách tường và trông thấy một bác nông dân cùng với vợ đang mở một chiếc hộp. “Hẳn là có đồ ăn gì trong hộp?” - con chuột tự hỏi. Nhưng liền sau đó, nó hốt hoảng khi phát hiện ra đó lại là cái bẫy chuột.

Chuột ta bèn chạy ra ngoài vườn và la làng la xóm: “Có một cái bẫy chuột trong nhà! Có một cái bẫy chuột trong nhà!”

Chị Gà cục ta cục tác chạy tới: “Chú Chuột này, đây quả thật là mối lo ngại ghê gớm đối với chú, nhưng nó chẳng phiền hà gì tới tôi. Tôi không thể nào bị vướng một cái bẫy chuột”.

Chuột quay sang nói với anh Heo với vẻ lo lắng: “Anh ơi, trong nhà ta có một cái bẫy chuột”. Anh Heo tỏ ra thông cảm: “Tôi rất lấy làm tiếc, cậu em ạ! Tôi chẳng thể làm gì được, nhưng tôi sẽ cầu nguyện cho chú”.

Chuột chạy tới bác Bò tỉ tê. Bác bò một lần nữa trấn an: “Tôi rất hiểu cậu, nhưng tôi cũng chẳng thể giúp gì”. Chuột lẳng lặng bỏ vào nhà. Lòng buổn thỉu buồn thiu, một mình nhìn cái bẫy chuột tàn nhẫn của bác nông dân.

Thế rồi đêm nọ, một tiếng động vang lên trong ngôi nhà, hệt như tiếng sập bẫy. Vợ của bác nông dân vội chạy tới để xem có bắt được con chuột nào không. Trong đêm tối, loạng cha loạng choạng, bà đã bị một con rắn độc cắn khi bà mon men tới cái bẫy vốn đang sập vào đuôi con rắn.

Bác nông dân nhanh chóng đưa vợ vào trạm xá. Khi về nhà, bà đã bị sốt. Mọi người đều biết rằng ăn cháo có thể làm giảm cơn sốt; vì thế bác nông dân đã chạy ra vườn bắt chị Gà mần thịt để làm cháo nấu cho vợ.

Thế nhưng bệnh tình của vợ ông vẫn không thuyên giảm. Bạn bè và xóm giềng đã tới thăm hỏi. Để thết đãi họ, ông đã mần thịt anh Heo.

Sau nhiều ngày chống chọi với cơn bệnh, vợ ông đã qua đời. Nhiều người đến lễ tang và vì thế bác nông dân đã mổ thịt bác Bò để có đủ thức ăn đãi khách, những người đã rất quan tâm tới gia đình ông.

Lần sau, một khi bạn nghe thấy ai đó đang gặp khó khăn dù chuyện đó chẳng "ăn nhập" gì tới bạn, hãy nhớ rằng khi một người trong chúng ta gặp nguy khốn, nghĩa là tất cả chúng ta đều có nguy cơ gặp nguy khốn. Tất cả chúng ta đều đồng hành trên chuyến hành trình mang tên Cuộc Đời. Hãy để mắt tới mọi người và luôn động viên và cùng họ vượt qua cơn khốn khó.



--- o0o ---
Nguồn: http://www.tuoitre.com.vn

Thứ Bảy, 27 tháng 2, 2016

Sống trong hiện tại






Phật hỏi đệ tử
- cuộc sống người ta được bao nhiêu?
Các đệ tử thay nhau trả lời :
-80 năm- Sai
-70 năm- Còn sai
-60 năm- Sai
-Vậy người ta sống bao lâu?
Phật mĩm cười đáp :
- Đời người chỉ thuộc trong vòng hơi thở

Thứ Tư, 16 tháng 12, 2015

Một thứ mà cả phú ông và lão ăn mày đều cần, là gì?


Một thứ mà cả phú ông và lão ăn mày đều cần, là gì?

Tác giả: Khỏe & Đẹp




Bá Nha- Tử Kỳ. Ảnh: Trên mạng


Ngày xưa có một phú ông rất thích thưởng trà, phàm là người đến nhà dùng trà, dù là người nghèo hay giàu thì ông ta đều sẽ phân cho hạ nhân chiêu đãi.

Một hôm nọ, có một tên ăn mày rách rưới đứng trước cửa nhà phú ông, không xin cơm, chỉ nói đến xin bát nước trà. Hạ nhân cho hắn vào nhà, đun trà cho hắn.

Tên ăn mày nhìn nhìn rồi nói: “Trà không ngon”.

Hạ nhân nhìn hắn có vẻ hiểu rồi đổi một bát trà ngon khác.

Tên ăn mày ngửi ngửi, nói: “Trà này ngon, nhưng nước vẫn chưa được, phải dùng nước suối trong”.

Hạ nhân nhìn ra hắn cũng có chút hiểu biết, liền đi lấy nước suối cất trữ từ sáng sớm ra để pha trà.

Tên ăn mày nhấp thử một ngụm, nói: “Nước rất tốt, nhưng củi sao trà không được, củi phải dùng củi sau danh sơn. Bởi vì củi phía đón nắng của núi chất củi xốp, còn sau núi chất củi chắc cứng”

Hạ nhân cuối cùng nhận định người này tinh thông trà đạo, liền dùng loại củi tốt pha lại trà, rồi mời lão gia ra tiếp. Sau khi trà được mang lên, phú ông và tên ăn mày đối ẩm một bát.

Tên ăn mày nói: “Ừm, bát trà lần này, nước, củi, lửa đều tốt, chỉ có ấm pha trà không ổn”.

Phú ông nói: “Đây là ấm pha tốt nhất của ta”.

Tên ăn mày lắc đầu, từ trong áo cẩn thận lấy ra một ấm trá bằng đất sét tử sa, yêu cầu hạ nhân dùng chiếc bình này để pha lại trà. Phú ông vừa nhấp thử mùi vị quả nhiên không tầm thường, lập tức chắp tay thi lễ với tên ăn mày: “Ta xin mua lại chiếc ấm tử sa này, bao nhiêu cũng được”.

Nhưng tên ăn mày cũng rất thích chiếc ấm tử sa, nhất định không muốn bán, tên ăn mày dứt khoát trả lời: “Không được, chiếc ấm này là cuộc sống của ta, ta không thể bán”.Tên ăn mày vội vàng rót trà ra, cất lại chiếc ấm.

Phú ông vội vã ngăn lại, nói: “Ta đổi một nửa gia sản để lấy chiếc ấm của ngươi”.Tên ăn mày không tin, vẫn bước tiếp. Phú ông nôn nóng, nói: “Ta đổi toàn bộ tài sản để lấy chiếc ấm của ngươi.” Tên ăn mày nghe vậy không tự chủ mỉm cười, nói: “Nếu không phải tôi tiếc chiếc ấm này thì cũng không lâm vào bước đường như hôm nay”. Nói xong tên ăn mày quay người bỏ đi.

Phú ông sốt ruột nói: “Như này đi, ấm là của ngươi, ngươi hãy ở lại nhà ta, ta ăn gì ngươi ăn đó, nhưng có một điều kiện, chính là ngày nào cũng phải cho ta nhìn chiếc ấm, thế nào”. Phú ông quá thích chiếc ấm rồi vì vậy trong lúc cấp bách nghĩ ra cách đó.

Tên ăn mày cũng vì miếng ăn qua ngày mà túng quẫn, chuyện tốt như vậy sao lại không đồng ý nhỉ? Vậy là hắn vui vẻ đồng ý yêu cầu của phú ông.



Cứ như vậy, tên ăn mày ở lại nhà phú ông, ăn cùng ở cùng phú ông, hai người ngày ngày nâng niu chiếc ấm trà, chia sẻ với nhau, thưởng trà ẩm rượu, vô cùng ăn ý. Cứ thể hơn mười năm qua đi hai người trở thành hai lão già tri kỷ thấu hiểu nhau.

Thời gian trôi đi, phú ông và tên ăn mày cũng dần già đi, lúc này người ta nhận ra người bạn ăn mày lớn tuổi hơn phú ông. Một hôm phú ông mới nói với người bạn ăn mày của mình: “Ông không có con cháu nối dõi, không có ai kế thừa chiếc ấm trà, không bằng sau khi ông đi, để tôi giúp ông bảo quản, ông thấy thế nào?”.

Ông ăn mày rưng rưng đồng ý.

Không lâu sau, ông ăn mày thật sự ra đi, phú ông cũng được như mong muốn có được chiếc ấm tử sa. Vừa mới đầu, phú ông chìm trong cảm giác vui sướng có được chiếc ấm tử sa, cho đến một ngày, lúc phú ông đang ngắm nghía trên dưới trước sau chiếc ấm đột nhiên cảm thấy bản thân như thiếu thứ gì đó, lúc này trước mắt ông hiện lên hình ảnh ngày trước cùng ông ăn mày vui vẻ thưởng trà. Hiểu rõ tất cả rồi, lão phú ông lạnh lùng ném mạnh chiếc ấm xuống đất…

Câu chuyện kết thúc, kết cục có lẽ khiến người ta không ngờ được. Thật ra theo dòng thời gian, có rất nhiều thứ cũng đổi thay, tình nghĩa giữa phú ông và tên ăn mày đã vượt qua cái giá trị ban đầu của ấm trà, thứ dù có tốt đến đâu nếu không có ai cùng thưởng thức thì cũng mất đi ý nghĩa của nó, thứ đáng giá đến đâu cũng không đáng giá bằng tri kỷ. Hãy nghĩ về cuộc đời mình, thứ gì mới là quan trọng nhất trong cuộc đời bạn? Có lẽ chính là người cùng bạn giao tâm thưởng trà!

Trong cuộc sống có được một người bạn tri kỷ là quá đủ! Đây là điều mà bao người từng trải đúc kết được! Tình tri kỷ, như một thứ ấm áp không lời, một sự đồng hành vô hình.

Tri kỷ thật sự, là hiểu, là thân thiết, là đồng điệu. Giống như một chén trà xanh, chan chát mà thấm vào tận trong tim. Có những khi chỉ cần một cái ôm, một ánh mắt, là hiểu tất cả mà không cần dùng đến lời nói; có những khi chỉ cần một đoạn tin nhắn là có thể cảm động mãi sau này.

Tri kỷ, không cần che đậy, cũng không cần giải thích, tự nó đã hiểu, tự nó cảm nhận. Không cần dốc hết sức, cũng không cần chuẩn bị, tự nó sẽ đem đến niềm vui, tự nó sẽ như ý thơ. Cuộc sống có một loại tình cảm, không tác động vào thế giới mỗi người, chỉ đồng hành trong tâm hồn; không trở ngại cuộc sống mỗi người, chỉ mang cùng tiếng nói tâm hồn.


————
http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/thu-ma-ca-phu-ong-va-lao-an-may-deu-can.html

Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2015

Ba câu chuyện kể về thứ đáng sợ nhất trên đời



Có người hỏi Thiền sư: “Điều đáng sợ nhất trên cõi đời này là gì?”
Thiền sư đáp: “Dục vọng!”
Người đó lộ vẻ hoài nghi.
Thiền sư nói: “Hãy để tôi kể vài câu chuyện cho ông nghe vậy”.

Truyện thứ nhất: Bạc vàng đáng sợ

Một vị tăng nhân hốt hoảng từ trong rừng chạy đến, vừa khéo gặp hai người bạn vô cùng thân thiết đang tản bộ bên rừng. Họ hỏi vị tăng nhân: “Chuyện gì mà ông hốt hoảng quá vậy?”.

Vị tăng nhân nói: “Thật là kinh khủng, tôi đào được một đống vàng ở trong rừng!”.
Hai người bạn, không nhịn được liền nói: “Thật đúng là tên đại ngốc! Đào được vàng, việc tốt như thế mà ông lại cho là kinh khủng, thật không thể hiểu nổi!”.
Thế là họ lại hỏi vị tăng nhân kia: “Ông đào được vàng ở đâu? Chỉ cho chúng tôi xem với!”.
Vị tăng nhân nói: “Thứ xấu xa như thế, các ông không sợ sao? Nó sẽ nuốt chửng người ta đấy!”.
Hai người kia gạt phăng, hùng hổ nói: “Chúng tôi không sợ, ông mau mau chỉ chỗ xem nào!”.
Vị tăng nhân nói: “Chính là bên dưới cái cây ở bìa rừng phía tây”.
Hai người bạn liền lập tức tìm đến chỗ vị tăng nhân vừa chỉ, quả nhiên phát hiện được số vàng đó. Người này liền nói với người kia rằng: “Tên hòa thượng đó đúng là ngốc thật, thứ vàng bạc mà mọi người đều khao khát đang ở ngay trước mắt, thế mà lại trở thành quái vật ăn thịt người”. Người kia cũng gật đầu đồng tình.




Thế là họ bàn với nhau làm thế nào để chuyển số vàng này về nhà. Một người trong đó nói: “Ban ngày mà đem nó về thật không an toàn cho lắm, hay là đêm đến chúng ta mới vận chuyển, vậy sẽ chắc ăn hơn. Tôi ở lại đây canh chừng, ông hãy về mang chút cơm rau trở lại, chúng ta ăn cơm rồi đợi đến trời tối mới chuyển số vàng này về nhà”.
Người kia liền làm theo người bạn nói. Người ở lại nghĩ : “Nếu như số vàng này đều thuộc về sở hữu của riêng ta thì hay biết mấy! Đợi hắn quay lại, ta hãy dùng cây gậy gỗ đánh chết đi, vậy thì toàn bộ số vàng này là của ta hết rồi”.
Thế là khi người bạn đem cơm rau đến khu rừng, người kia liền từ phía sau lưng dùng gậy gỗ đánh mạnh vào đầu khiến ông ta chết ngay tại chỗ, sau còn nói rằng: “Bằng hữu ơi, chính là số vàng này buộc tôi phải làm như vậy”.
Sau đó ông ta vớ lấy thức ăn mà người bạn mang đến, ăn ngấu nghiến. Chưa được bao lâu, người này cảm thấy rất khó chịu, trong bụng giống như bị lửa thiêu đốt. Khi đó, ông ta mới biết rằng mình đã bị trúng độc. Trước lúc chết, ông mới nói rằng: “Lời hòa thượng đó nói quả thật không sai!”.
Đây thật là ứng với lời người xưa để lại: Người chết vì tiền tài, chim chết vì miếng ăn. Đều là họa do lòng tham đưa đến, chính dục vọng đã khiến người bạn thân nhất trở thành kẻ thù không đội trời chung.

Truyện thứ hai: Người nông dân mua đất

Có một người nông dân muốn mua đất, ông ta nghe nói một người ở vùng khác có đất muốn bán, liền quyết định đến đó hỏi thăm. Người bán đất nói với ông ta rằng: “Chỉ cần giao một nghìn lạng bạc, ta sẽ cho ông thời gian một ngày, bắt đầu tính từ lúc mặt trời mọc, đến khi mặt trời lặn xuống núi, ông có thể dùng bước chân khoanh tròn được bao nhiêu đất, thì số đất đó sẽ chính là của ông, nhưng nếu ông không trở về nơi khởi điểm, thì ngay cả một tấc đất ông cũng sẽ không có được”.
Người nông dân đó nghĩ thầm: “Nếu như hôm nay ta vất vả một chút, đi nhiều đường hơn một chút, thì chẳng phải có thể đi được vòng rất lớn, theo đó sẽ có được một mảnh đất rất lớn hay sao? Làm ăn như vậy quả thật là rất có lợi!”. Thế là ông ta liền ký kết giao ước cùng người chủ đất đó.


(Ảnh theo Epochtimes)

Mặt trời vừa mới nhô lên, ông ta liền cất bước thật dài đi nhanh về phía trước; đến giữa trưa, bước chân của ông vẫn không dừng lại giây phút nào, cứ mãi đi về phía trước, trong lòng nghĩ: “Hãy ráng chịu đựng một hôm nay, sau này sẽ có thể hưởng thụ hồi báo của vất vả hôm nay mang đến rồi”.
Ông ta cứ thế tiếp tục đi về phía trước, đến khi mặt trời sắp lặn rồi mới chịu quay trở về, trong lòng vô cùng lo lắng, bởi vì nếu như không về kịp thì một tấc đất cũng chẳng có. Thế là ông ta vội vàng trở về theo đường tắt. Tuy nhiên, mặt trời sắp xuống núi, ông ta đành phải liều mạng mà chạy, cuối cùng chỉ còn thiếu vài bước thì đến vạch khởi điểm, nhưng sức lực đã cạn kiệt, ông ngã nhào xuống nơi đó.
Dục vọng của con người và ranh giới với hiện thực mãi mãi cũng không cách nào vượt qua được, bởi lòng tham là vô đáy. Con người mãi mãi không biết thỏa mãn, đây chính là khuyết điểm lớn nhất trong nhân cách.

Truyện thứ ba: Phật và ma

Có một họa sĩ rất nổi tiếng, ông muốn vẽ Phật và ma, nhưng không tìm được người làm mẫu phù hợp, vì đầu óc ông không tài nào tưởng tượng ra nổi hình dáng của Phật, nên rất lo lắng. Trong một lần tình cờ, ông lên chùa bái lạy, vô tình nhìn thấy một hòa thượng. Khí chất trên vị hòa thượng này đã thu hút người họa sĩ sâu sắc. Vậy là ông liền đi tìm vị hòa thượng đó, hứa cho hòa thượng một số tiền lớn để làm người mẫu cho ông.
Về sau, tác phẩm của họa sĩ đã hoàn thành, gây chấn động ở vùng đó. Nhà họa sĩ nói: “Đó là bức tranh vừa ý nhất mà tôi từng vẽ qua, bởi người làm mẫu cho tôi quả khiến người ta vừa nhìn thấy nhất định cho rằng anh ta chính là Phật, loại khí chất thanh thoát an lành trên người anh có thể cảm động bất kì ai”.


(Ảnh: theo Epochtimes)

Người họa sĩ sau đó đã cho vị hòa thượng đó rất nhiều tiền như lời đã hứa.
Cũng nhờ bức tranh này, mọi người không còn gọi ông là họa sĩ nữa, mà gọi ông là “họa Thánh”.
Bẵng đi một thời gian, họa sĩ chuẩn bị bắt tay vào việc vẽ ma, nhưng điều này lại trở thành một vấn đề khó của ông, vì chẳng biết tìm hình tượng ma quỷ ở đâu. Ông đã hỏi thăm rất nhiều nơi, tìm rất nhiều người có vẻ ngoài hung dữ, nhưng không ai vừa ý cả.
Cuối cùng, ông tìm được trong nhà tù một tù nhân rất phù hợp với đối tượng ông cần vẽ. Họa sĩ vô cùng mừng rỡ, nhưng khi ông đối diện phạm nhân đó, người này đột nhiên khóc lóc đau khổ trước mặt ông.
Nhà họa sĩ rất lấy làm kinh ngạc, liền hỏi rõ ngọn ngành.
Người phạm nhân đó nói: “Tại sao lần trước khi người mà ông tìm để vẽ Phật là tôi, bây giờ khi vẽ ma quỷ, người ông tìm đến vẫn là tôi!”
Người họa sĩ giật cả mình, thế là ông lại nhìn kỹ người phạm nhân đó, rồi nói: “Sao lại có thể chứ? Người mà tôi tìm để vẽ Phật ấy khí chất phi phàm, còn cậu xem ra chính là một hình tượng ma quỷ thuần túy, sao lại có thể là cùng một người được? Điều này thật kì lạ, quả thật khiến người ta không thể nào lý giải được”.
Người kia đau khổ bi ai nói: “Chính là ông đã khiến tôi từ Phật biến thành ma quỷ”.
Họa sĩ nói: “Sao cậu lại nói như vậy, tôi vốn đâu có làm gì đối với cậu đâu”.
Ngươi đó nói: “Kể từ sau khi tôi nhận được số tiền ông cho, liền đi đến những chốn ăn chơi đàng điếm để tìm thú vui, mặc sức tiêu xài. Đến sau này, tiền tiêu sạch hết, mà tôi lại đã quen với cuộc sống đó rồi, dục vọng đã khởi phát mà không thể thu hồi lại được. Thế là tôi liền giật tiền người ta, còn giết người nữa, chỉ cần có được tiền, chuyện xấu gì tôi cũng có thể làm, kết quả đã thành ra bộ dạng này của ngày hôm nay đây”.
Người họa sĩ nghe xong những lời này, cảm khái vạn phần, ông sợ hãi than rằng bản tính con người trước dục vọng lại biến đổi mau chóng đến thế. Con người chính là yếu nhược như vậy đó. Thế là ông áy náy quăng cây bút vẽ xuống đất, từ đó về sau không còn vẽ bức tranh nào nữa.
Con người ta, một khi rơi vào trong cạm bẫy “theo đuổi ham muốn vật chất”, thì rất dễ đánh mất bản thân mình, muốn thoát ra khỏi đã trở thành mục tiêu rất khó khăn, vậy nên bản tính con người không thể đi cùng với lòng tham.
Thiền sư kể xong mấy câu chuyện, nhắm nghiền mắt lại không nói gì cả, còn người kia đã biết được đáp án từ trong những câu chuyện này: Thì ra điều đáng sợ nhất trên cõi đời này chính là dục vọng, dục vọng của người ta càng nhiều, thì sẽ càng không thỏa mãn, vậy nên sẽ càng không vui vẻ và phiền não vì thế cũng sẽ càng nhiều hơn.

 Dịch giả: Tiểu Thiện

Thứ Hai, 23 tháng 11, 2015

Cần coi nhân dân như cha mẹ



Trịnh Lữ chép lại






Trịnh Hữu Ngọc, “Vịnh Hạ Long” 1953

Khi dạy học, bố Ngọc thường làm cho mỗi học sinh một folder riêng. Bài vở và ý kiến qua lại giữa thày với trò đều viết ra giấy và để vào hồ sơ ấy, chứ không phải thư gửi riêng cho nhau qua bưu điện. Cũng có cái thư của trò sau khi ra trường gửi thầy thì nhận được qua bưu điện, nhận rồi bố lại cất vào hồ sơ.

Đây là một ví dụ trao đổi thư từ giữa thày và trò.

Thư thầy gửi trò:

Em P.,

Em tiếp thu tốt, ghi chép có hệ thống, viết có mạch lạc, ý thức phê phán phân tách khá sắc bén. Em chịu khó tập luyện theo phương pháp khoa học mới thế nào cũng đạt.

Thày có mấy nhận xét sau đây, nhắc em để em nhớ mà giữ một thái độ sống, một thái độ lao động ngoan lành hơn.

1. Em mắc cái bệnh chung của rất nhiều người hiện nay, là thích nghĩ đến “giáo dục nhân dân”, chê nhân dân kém văn minh, thiếu mỹ cảm, sống bừa bãi, vân vân… tuy tuổi em thì còn nhỏ, tài em chưa có gì, hiểu biêt về cuộc sống còn ít ỏi nghèo nàn, và sự ăn học của em hiện nay là do nhân dân đài thọ.

2. Em chưa được hướng dẫn giảng giải về trình độ thẩm mỹ rất cao của nhân dân ta qua các công trình lao động nghệ thuật. Em chỉ mới nghe một số người chê bai trên cơ sở một số vốn vay mượn thật sơ sài về nghệ thuật. Rồi em cứ thế nhắc lại một cách không có phê phán. Thày rất tiếc cho sự thông minh của em chưa được khai thác đúng đắn. Em nên thận trọng, và nhớ là phải có thái độ hiếu hạnh ngoan lành đối với nhân dân, coi nhân dân như cha mẹ, học hỏi nhân dân trên mọi mặt, thông cảm với nhân dân cả trên điều kiện ăn ở bừa bãi luộm thuộm hiện nay.


Họa sĩ Trịnh Hữu Ngọc dùng xe đạp mini đi vẽ trong Hà Nội.

3. Em chỉ có một mục đích, là tập luyện cho vững nghề, để biết làm ra những đồ dùng đẹp, tốt, rẻ, mai đây khi tất cả con em công nông đều có trình độ văn hóa cao, sự đòi hỏi hồ dùng tốt đẹp tự nhiên sẽ đến. Nếu em có đủ tài đáp ứng kịp thời, là em tự nhiên sẽ góp phần đắc lực vào cuộc cách mạng văn hóa mà em từng ao ước với ý thức “mệnh lệnh” ngày nay.

4. Ý ao ước những đồ kết hợp của em cũng thế. Em mới chỉ xem mẫu hàng ngoại quốc. Nghe nói đến sự áp dụng tiện lợi vào cuộc sống chật hẹp và nghe nhiều người xung quanh em ca tụng tác dụng tốt của những hàng ấy. Em chưa rõ thực tế cuộc sống hiện nay ở ta có thật sự cần đến, và có khả năng tiêu thụ những hàng sản xuất với nhiều công như thế không? Cho nên không có gì đáng sợ bằng sự hiểu biết mơ hồ. Vậy từ nay em nên thận trọng cân nhắc họi hỏi mọi vấn đề một cách thông minh hơn.

5. Em cần tập vẽ tốt hơn, làm việc với ý thức cầu tiến hơn.

Tháng 6. 1963


Ảnh chụp năm 1920 ở trường tiểu học Bắc Giang. Trịnh Hữu Ngọc ngồi hàng đầu bên phải. Khi xem ảnh, chẳng ai đoán được là ai, trừ cháu nội ông là Trịnh Minh Tuệ, lúc ấy mới 10 tuổi. Cháu bảo “Con đoán chỉ có người ấy là ông, vì vẻ mặt và dáng điệu chẳng giống ai. Bố cứ nhìn mà xem, chỉ có ông là bắt chân chữ ngũ như đang mải nghĩ chuyện gì chứ không để ý đến chụp ảnh. Mũ thì lại là mũ phớt chả giống như các bạn, mà lại để dưới đất…” Xin cảm ơn anh Nam chị Thơm đã lưu giữ và tặng lại cho gia đình bức ảnh hiếm có này.

*

Còn đây là thư của người trò gửi thày:

Kính thưa thày.

Em đã về nhận công tác ở đây được một tháng. Công việc cũng tạm ổn. Em đang thiết kế mẫu cho phòng khách của tỉnh ủy. Xa các thấy, cũng có phần nào bí, nhưng dù sao em cũng không chịu bằng lòng những mẫu mà người ta thích. Gặp nhiều khó khăn nhưng em đã chịu đựng được và dần dần sống dễ chịu hơn. Mai kia có lẽ em sẽ về nông thôn một thời gian khá dài để nghiên cứu.

Em đã lĩnh tháng lương đầu, lòng không khỏi bồi hồi xúc động; tuy số tiền kiếm được chẳng là bao nhiêu nhưng em sung sướng là đã có việc làm và đã thật sự tự lập. Em biết ơn rất nhiều ở các thày, cả những thầy mà không ưa em, em cũng rất nhớ. Em chỉ biết gắng làm thật tốt những công việc, tìm tòi và yêu nghề.

Em gửi biếu thày một ít bánh đậu xanh của Hải Dương. Món quà mà nhắc đến Hải Dương ai cũng nghĩ tới. Thầy nhận ở em món quà nhỏ và tấm lòng thành thực biết ơn của em đối với thày, và thày cũng dự vui với em tháng lương đầu trong cuộc đời của một đứa học trò thày.

Em kính chúc thày và gia đình mạnh khỏe.

Học trò thày,

P.

Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2015

Thiên hạ vốn vô phúc (Trích Luận ngữ tân thư)



Bậc Thánh nhân đứng giữa Trời, Đất, hợp với Trời, Đất mà tìm ra lý, rồi làm thành đạo lý, cốt truyền lại cho muôn đời. Về sau, con người ngày càng đông, của cải ngày càng nhiều, mắt mũi ngày càng tối tăm đi, lòng tham cũng theo đó mà tăng mãi không ngừng… Kẻ học giả xét không kĩ, thấy đạo lý của Thánh nhân cứ ngày càng được bàn dài ra đến thiên kinh vạn quyển, thì lại cho đó là sự nâng cao, là đã “phát triển“ thêm được cái đạo lý của Thánh nhân. Tóm lại cho rằng càng đời sau thì đạo lý càng cao hơn đời trước (!). Thật là một sai lầm khủng khiếp. Bởi nếu được như thế thì thiên hạ đã có phúc quá. Đạo lý nếu cứ được nâng cao, cứ được “phát triển“ mãi cho đến tận bây giờ, thì làm gì còn tranh giành, khủng bố, làm gì còn những thế hệ lưu manh cứ nối đời bịp bợm thiên hạ, làm gì phải giết nhiều người đến thế. Giết mấy nghìn năm chưa đủ, lại còn tiếp tục giết mãi đến bao giờ? Than ôi! Thiên hạ vốn vô phúc. Cho nên dẫu của cải ngày càng tăng, hiểu biết ngày càng rộng, chữ nghĩa ngày càng nhiều… song đạo lý của Thánh nhân thì cơ hồ cứ “phát triển“ theo chiều ngược lại…

Vẫn “Lời tựa“ trong Luận ngữ Tân thư. Sau đây xin trích tiếp một phần của bộ sách đó.


Tục ngữ có câu: “Con hơn cha là nhà có phúc“. Thế nếu ngược lại, con kém cha thì nhà… vô phúc hay sao?

Cũng chưa chắc đã đến nỗi như thế, vì đó chẳng qua chỉ là chuyện trong một “nhà“. Khối kẻ bất tài đểu cáng, song nhờ có “lộc“ của ông cha mà xài mãi vẫn không hết của ăn cướp đó sao. Nhưng chuyện của cả thiên hạ thì đúng như thế thật. Thiên hạ có phúc thì đạo lý đời sau cao hơn đời trước. Thiên hạ vô phúc thì ngược lại, càng đời sau càng hạ thấp đạo lý của đời trước xuống.

Hạ thấp như thế nào?

Cách đây hai ngàn rưởi năm, Khổng Tử làm Dịch. Ngài biết rằng khi đặt ra tam tài (Thiên, Địa, Nhân) là ý Thánh nhân xưa muốn nói tới một loại “Người“ (Nhân) đặc biệt nào đó, có đủ phẩm chất xứng được với Trời, Đất, sánh ngang với Trời, Đất, cùng với Trời, Đất mà làm nên mọi lẽ huyền vi trong vũ trụ này. “Nhân“ mà đạt tới mức như thế thì tất phải không giống ai, không “chơi“ nổi với ai, mà Ngài gọi đó là: “Chẳng phải con Truỷ, chẳng phải con Hổ, ở ngoài đồng vắng…“. (Luận ngữ). Chữ “Nhân“ ấy ở trong “Thiên, Địa, Nhân“ chính là cái phần “hồn vía“ của vũ trụ. Nó có “tượng“ là “Người“, thuộc về con Người… Chứ không phải hễ cứ là “người“, hễ cứ mồm ngang mũi dọc, đi đứng bằng hai chân, biết ăn nói leo lẻo thì bất kể thế nào, cũng ứng vào chữ “Nhân“ trong cái “tam tài“ ấy được. Ngài bèn đặt ra đạo “Nhân“, định nghĩa về “Nhân“ mà theo đó, chỉ khi nào đạt / ngộ đến đạo ấy, đúng với định nghĩa ấy thì mới đích thị đóng vai trò là “Nhân“ trong bộ ba Thiên, Địa, Nhân kia. “Nhân“ của Khổng Tử chính là chỉ một trạng thái giác ngộ đã đến bực tuyệt đỉnh của con người. Nó tương đương với chữ “Phật“ trong đạo Phật. Số còn lại tất thảy đều bình đẳng với mọi loài sinh vật khác, thậm chí nếu không cẩn thận thì có lúc, có thời “nhân“ chỉ ngang hàng với những thứ “sô cẩu“ (chó rơm) mà thôi.

Nhưng từ khi Ngài đặt ra đạo ấy, thiên hạ chẳng mấy ai đạt tới. Khối kẻ lừng lẫy, nổi tiếng là “người“ nhất trong tất cả các giống người. Vậy mà khi hỏi như thế đã “Nhân“ chưa, Ngài đều bảo: “Chưa lấy gì làm chắc!“. Môn chữ “Nhân“ vì thế cho đến nay, vẫn là một tuyệt kĩ làm người của riêng trí tuệ Khổng Tử. Sinh thời, học trò có kẻ từng khuyên Ngài nên hạ thấp đi một chút, may ra ở đời có người hiểu mà theo kịp, song Ngài nhất quyết không chịu, đến nỗi suýt mắc họa vào thân.

Hơn một trăm năm sau, nước Lỗ lại sinh ra một Thánh nhân khác là Mạnh Tử. Vị Thầy này nghiên cứu chữ “Nhân“ của Đức Khổng Tử, thấy quả nhiên ghê gớm, người đời khó lòng hiểu nổi, đừng nói là theo đòi tu dưỡng ra làm sao. Bấy giờ thiên hạ đã loạn (vô phúc) lắm rồi, con người chỉ còn biết đâm chém, tranh giành nhau mà thôi, không thể nào thoát ra được nữa. Nhưng đạo “Nhân“ nếu không được thi hành, thì con người rốt cuộc sẽ đi đến đâu? Nhưng oái oăm thay, đó lại là cái mà cả thiên hạ không ai hiểu nổi, thì thi hành thế nào? Thôi thì cố vớt vát được chừng nào hay chừng đó. Thế là cái việc mà Đức Khổng Tử ngày trước nhất quyết không chịu làm, giờ đến lượt Thầy Mạnh Tử đành phải làm thôi. Thầy bèn hạ thấp cái đạo “Nhân“ kia đi một chút.

Hạ thấp như thế nào?

Mạnh Tử thêm vào đằng sau chữ “Nhân“ một chữ “nghĩa“, thành ra “Nhân nghĩa“. Theo đó thì làm người (Nhân), không nhất thiết cứ phải đòi cho bằng được ngang với Trời, Đất. Cốt sao đạt tới “nhân nghĩa“ là được rồi. “Nhân“ là cái thuộc về cả Trời, Đất, vũ trụ… khó lắm! Còn “Nhân nghĩa“ là cái chỉ thuộc về mỗi con người mà thôi. Thế là “thêm“ chữ, mà thực ra đã “bớt“ đi rất nhiều qui mô, tầm vóc. Đó rõ ràng là một sự “tHỏa hiệp“, một bước “lùi“ đấy chứ. Hy vọng con người có thể hiểu được (“nhân nghĩa“) mà thi hành. Đạo “Nhân nghĩa“ này của Thầy Mạnh Tử tuy cũng là một trí khôn trùm thiên hạ đấy, song vẫn chỉ là một phần nhỏ. Nó thấp hơn cái đạo “Nhân“ lồng lộng kia của Đức Khổng Tử nhiều lắm.

Sau đó thì thế nào, có bao giờ thiên hạ trở lại được cái đạo “Nhân“ ấy của Đức Khổng Tử không?

Chưa bao giờ, bởi thiên hạ vẫn ngày càng vô phúc. Cho nên đời sau cứ thế tiếp tục hạ thấp dần những đạo lý của đời trước theo phương châm: “Vớt vát được chừng nào hay chừng đó“.

Tiếp tục hạ thấp như thế nào?

Cứ mỗi đời lại hạ thấp thêm một ít, hạ thấp bằng đủ các kiểu trên đời, kể ra không xuể. Ví dụ hơn một nghìn tám trăm năm sau, ở phương Nam có một vị Thánh nhân, khi xem xét cái đạo “Nhân nghĩa“ của Thầy Mạnh Tử, đem đối chiếu với thời cuộc lúc bấy giờ, vị Thánh nhân này thấy nó vẫn cao quá, xa vời quá, không cách gì thực hiện cho được. Nhân nghĩa nếu được thi hành, được “tưới“ khắp thiên hạ, thì kẻ làm vua không còn cái thú làm vua, kẻ làm quan không mơ màng đến bổng lộc, kẻ làm dân tha hồ tự do, tha hồ ung dung tự tại mà vẫn không ra ngoài phép tắc. Một “thiên hạ“ như thế chẳng phải là điều không tưởng hay sao? Không tưởng, chẳng lẽ lại bỏ qua nhân nghĩa? Thôi thì vẫn thi hành. Nhưng lại phải hạ thấp xuống, chỉ còn: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân…“. mà thôi. Yên được dân, thế cũng coi như “Nhân nghĩa“ rồi, không đòi hỏi phải sướng dân, mới dân, hay sáng dân… gì gì nữa. Muốn “yên dân“, thì trước tiên phải lo “trừ bạo“. Luôn luôn trừ bỏ kẻ hung bạo trong thiên hạ cho dân được yên, thì cái việc nhân nghĩa ấy, so với cả cái đạo “Nhân nghĩa“ kia, tuy có thấp hơn nhiều lắm, song thời bấy giờ, mong đạt được đến đó cũng là tuyệt lắm rồi.

Cứ hạ thấp mãi như thế, vậy chẳng lẽ thiên hạ mấy nghìn năm, chưa bao giờ là “có phúc“ hay sao?

Thỉnh thoảng cũng có đấy, nhưng chỉ là những “phúc“ nhỏ, riêng, ngắn ngủi, nằm trong cái “vô phúc“ lớn, tổng quát, trùm hết mọi đời.

Còn bây giờ thì sao?

Bây giờ, các Thánh nhân đã chìm vào dĩ vãng cùng với đạo lý của các Ngài. Thế giới ngày nay tự hào là văn minh, là giỏi giang lắm. Đã bay vào vũ trụ, lại còn bắn phá được cả sao Chổi… thế mà cái đạo lý “yên dân“ kia, xem chừng vẫn còn quá cao, nói chi đến “nhân nghĩa“ làm gì nữa cho xa vời. Kẻ hung bạo trừ mãi không hết, thậm chí ngày càng hung bạo hơn, chúng lại có bom đạn, súng ống… trong tay. Kẻ lưu manh, bịp bợm giáo hóa mãi không chừa, thậm chí càng đời sau càng đểu cáng hơn đời trước. Chúng lại có sẵn quyền lực, địa vị trong tay, tha hồ mà nhân danh mọi thứ… Yên dân tức là yên được cả thiên hạ, trong khi những kẻ hung bạo, lưu manh đủ các kiểu lớn, bé… vẫn còn nhan nhản, vẫn leo lẻo nhân danh cái sự bịp bợm để ngồi trên đầu, trên cổ thiên hạ giữa thanh thiên bạch nhật như thế, vẫn tự xem dân như những món tài sản riêng trong túi mà muốn sao được vậy, mà bất chấp luật lệ, thi nhau hoành hành. Thậm chí còn coi dân chẳng khác gì những thứ thịt chó, thịt mèo cần phải ướp riềng mẻ, mắm tôm… trước khi làm những món chả, hấp, nhựa mận, tiết canh… Thế thì cái đạo lý “yên dân“ kia xét cho đến đời nay, lại tiếp tục là một điều không tưởng nữa.

Nghĩa là tiếp tục phải hạ thấp?

Tất nhiên, không theo được đạo lý của người xưa thì đành phải hạ thấp xuống chứ còn biết làm thế nào.

Đạo “yên dân“ mà hạ thấp xuống nữa thì thành cái gì?

Thì thành cái đạo… “yên thân“. Bây giờ thì chỉ còn mong: “Việc nhân nghĩa cốt ởyên… thân…“. mà thôi. Không yên được cả thiên hạ, cả thiên hạ không yên thì cốt sao yên lấy cái thân mình, vợ con mình, gia đình mình là tốt lắm rồi. “Đạo“ ấy tóm tắt như sau: mình cố không “động“ đến ai, cũng cố mong đừng ai “động“ đến mình… Tóm lại là “Nhân nghĩa“ kể từ thời Thầy Mạnh Tử cho đến bây giờ, chỉ còn lại… có bấy nhiêu mà thôi.

Thế thì có còn là đạo lý nữa không?

Đạo lý là cái gì? Chẳng phải đến bây giờ, chính nó cũng đã bị “hạ thấp“, đến nỗi chỉ còn là cái “lý“ của kẻ cướp rồi hay sao? Cho nên “yên thân“ cũng không dễ mà đạt cho mĩ mãn đâu. Bạn đang ở giữa châu Nam Cực? Hay đang ngồi trên sao Hoả? Cứ thử thò mặt ra đường xem? Dẫu có tình nguyện làm con giun, con dế, cũng chưa chắc đã “yên“, nếu không biết lối mà tung hô, mà dạ, vâng… cho phải phép.

Vậy thì: “Ngu“ là căn hầm trú ẩn cuối cùng của cái giống động vật có tên (khoa học) là “con người“ đáng thương. “Hèn“ là một đại lượng tỉ lệ thuận với vai vế, địa vị hay (thậm chí) tỉ lệ thuận với tri thức, cũng của cái giống động vật có bốn chi (song chỉ sử dụng hai chi để di chuyển) đó. “Định nghĩa“ như thế “trừu tượng“ lắm phải không?

Đại khái hãy so sánh với ngày hôm qua, không được phép so sánh với bất kì ai, kể từ gã hàng xóm trở đi…

Thiên hạ đang là một bầy cừu có chủ. Tốt hơn hết, hãy là một con cừu. Tối qua trong một đám cưới, có mấy con cừu cứ thi nhau ca ngợi những ông chủ đang chăn dắt chúng. Vậy thì kẻ biết chữ ngồi nghe cần phải biết liệu hồn. Biết đâu đến một lúc nào đó, ngay cả cái đạo “yên thân“ này, cũng vẫn còn là một mơ ước… quá cao. Thì sao?


Phạm Lưu Vũ

Thứ Ba, 25 tháng 8, 2015

Nghịch lý Trích Luận ngữ tân thư




Thiên hạ chật ních người, kẻ cô liêu cứ coi như đồng vắng. Vòng danh lợi tít mù, gã ngủ gật cứ hờ hững như không. Tấm áo chữ “nhân” may đã nghìn năm, nay vá chằng vá đụp. Đến bao giờ…? Hóa công là tưởng tượng. Tiên đạo là vô vi. Thánh nhân là hoang đường. Bạn bè là xa xỉ. Rốt cuộc nâng vật nặng ngàn cân, có khi không cần dùng sức. Thổi một sợi tóc, có lúc phải dùng đến bão dông… Vẫn lời “tựa” trong “Luận ngữ tân thư”. Sau đây, lại xin trích một đoạn trong bộ sách đó:

– Nghịch lý cũng là một loại “lý”. Nhưng là cái “lý” nghịch, “lý” không thuận. Thánh nhân có bàn đến nghịch lý không?

– Thánh nhân thì cái gì khác có thể không bàn, chứ đã gọi là “lý” thì dù nghịch hay thuận cũng không thể không bàn đến.

– Thánh nhân bàn như thế nào?

– Khổng Tử bảo: “Danh không chính thì ngôn không thuận. Ngôn không thuận thì việc không thành. Việc không thành thì lễ nhạc suy. Lễ nhạc suy thì hình phạt không trúng. Hình phạt không trúng thì dân không biết đặt tay chân vào đâu cho đúng chỗ”. Túi mình không móc, lại móc túi người khác. Thế là tay nhầm. Đường mình không đi, lại đi vào đường người khác. Thế là chân nhầm. Vợ mình không ôm, lại ôm vợ người khác. Thế là cả tay lẫn chân đều nhầm. Ruộng mình không cày, lại cày ruộng người khác. Thế là nhầm vào đến ruột gan. Người có đạo không thờ, lại tôn thờ kẻ vô đạo. Thế là nhầm vào đến cốt tủy… Rốt cuộc thiên hạ nhầm lẫn lung tung. Mầm loạn cũng từ đấy mà sinh ra.

– Nhưng cái “lý” ấy, xem ra chưa có gì gọi là nghịch?

– Hơn một trăm năm sau, ông Mạnh Tử phát triển cái “lý” trên của Khổng Tử. Ông bảo: “Nước có đạo thì đặt ra hình phạt để ngăn ngừa cường bạo. Nước vô đạo thì đặt ra hình phạt để thi hành cường bạo”. Thế là cùng đặt ra “hình phạt”, mà té ra ở thời “có đạo” và thời “vô đạo” lại nhằm vào những mục đích ngược hẳn nhau. Như thế tất phải có một thời là nghịch lý.

– Vậy khi nào thì hết nghịch lý?
– Khi tất cả các “lý” trên đời đều… nghịch!
– Thánh nhân buồn nhất lúc nào?
– Người ta thường nhận ra niềm vui nhanh hơn nhận ra nỗi buồn. Thánh nhân thì ngược lại.
– Thánh nhân buồn như thế nào?

– Tử Hạ nói: “ngồi với kẻ hèn, có cái thú thấy mình là sang. Ngồi với kẻ khó, có cái thú thấy mình là giàu. Ngồi với tiểu nhân, có cái thú thấy mình là quân tử. Nhưng ngồi với kẻ ngu, có cái buồn không biết nói chuyện gì”.

– Thánh nhân vui nhất lúc nào?

– Tăng Tử bảo: “Làm con thấy cha mẹ vui, làm thầy thấy học trò hiểu, làm bạn thấy bạn nhớ mình, làm người thấy giữ được chữ tín. Đó là những nỗi vui lớn trong đời”.

– Thánh nhân có khi nào vội vàng không?

– Việc đời có lúc khoan, lúc nhặt. Làm người có lúc vội, lúc thư. Thánh nhân cũng không là ngoại lệ.

– Thánh nhân vội vàng như thế nào?

– Khỗng Tử có học trò tên Mỗ, người nước Đằng. Mỗ học vào loại trung bình, song luôn luôn tự cho mình là giỏi nhất. Học được vài năm, Mỗ xin về nước vì tưởng rằng đã học hết đạo của thầy. Tử Cống thấy vậy hỏi:

– Người ấy về nước rồi làm quan có sao không?

Khổng Tử rung đùi đáp:

– Không sao.

Lại hỏi tiếp:

– Làm tướng có được không?

Khổng Tử vuốt râu đáp:

– Được.

Lại hỏi tiếp:

– Thế nhỡ về làm giặc?

Khổng Tử vừa ngáp vừa trả lời:

– Cũng không hại gì.

Bấy giờ Tử Cống mới yên tâm mà thủng thẳng:

– Nghe nói Mỗ xin về nước chỉ để làm thầy!

Khổng Tử vừa nghe câu đó bỗng giật bắn mình. Thế là chân không kịp xỏ giày, áo không kịp cài khuy, vội vàng lao ra cổng chạy hớt hơ hớt hải. Học trò đuổi theo hỏi: “thầy chạy đi đâu?”. Khổng Tử vừa chạy vừa đáp:

– Sang ngay nước Đằng.

Học trò lại hỏi: “sang nước Đằng làm gì?”. Khổng Tử vẫn vừa chạy vừa trả lời:

Sang ngăn không cho tên Mỗ làm thầy. Hắn có làm quan thì cùng lắm chỉ hại đến một ấp. Làm tướng cũng chỉ hại đến một thành. Thậm chí có làm giặc cũng chưa chắc đã hại nổi ai. Nhưng nếu hắn làm thầy thì sẽ hại đến muôn đời. Ngay cả ta cũng khó mà tránh khỏi liên luỵ…



Phạm Lưu Vũ

Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2015

Chuyện đời cong, thẳng và trong, đục…( trích Luận ngữ Tân thư)


Phạm Lưu Vũ


Trong kiệt tác kiếm hiệp kiêm chính trị cổ điển Tam quốc diễn nghĩa, La Quán Trung tiên sinh từng ca ngợi cây dâu cổ thụ mọc trong sân nhà anh thợ đóng dép Lưu Bị là linh mộc, là hiện thân của phong thuỷ, đến nỗi bịa ra một ông thầy, đi qua nhìn thấy cái cây ấy bèn phán: "Cây dâu này mọc thẳng tắp, tán xoè như cái ô. Nhà ở dưới gốc cây này ắt sinh quý nhân." Quý nhân ấy chẳng phải Lưu Huyền Đức thì còn ai vào đây nữa. Cây dâu đó là cái ô Trời, là bản mệnh sự nghiệp của Lưu Bị sau này. Quả là về sau, Lưu Bị nhờ có cái bản mệnh ấy mà gặp được khối người ngay thẳng. Trong số đó, người quan trọng số 1 phải kể đến là vị quân sư Gia Cát Lượng (Khổng Minh). Thế nhưng La Quán Trung tiên sinh đã "lờ" đi không chép việc cái “ô” vĩ đại ấy rồi cũng đến lúc đổ kềnh. Số là một hôm, trời nổi bão giông. Cây dâu cổ thụ bỗng nghiêng ngả, quay cuồng rồi đổ sập xuống, đè nát đúng bàn thờ nhà Lưu Bị. Lúc ấy Lưu Bị đã lên ngôi hoàng đế bên đất Thục. Giá như ông thầy kia lại nhìn thấy, chắc thể nào cũng bảo vị quý nhân nhà này có nhẽ sắp đến lúc… toi. Quả nhiên một thời gian ngắn sau đó, Thục chủ Lưu Bị gặp hạn ở thành Bạch Đế rồi “toi” luôn tại đó. Trước khi chết, ngài không ngại nước Ngụy của Tào Tháo, cũng chẳng thèm ngại nước Ngô của Tôn Quyền. Ngài chỉ ngại mỗi… quân sư Khổng Minh mà thôi. Vì thế ngài đã phải triệu Khổng Minh đến tận giường bệnh mà chơi bài ngửa, tiếng là gửi gắm con côi, song lại "thòng" một câu rùng rợn rằng nếu nó bất tài, thì hay là ông thay nó, làm chủ quách nước Thục đi! Lưu Bị nói thế là có ý muốn "đe” Khổng Minh, rằng ta biết tỏng ông là người như thế nào rồi. Trước khi gặp ta, ông có tiếng là một người ngay thẳng. Ông bắt ta phải ba lần hạ cố mới chịu ra, giả vờ không thèm màng đến danh vọng. Có thật ông không thèm màng danh vọng? Sao ở lều tranh mà ông theo dõi việc thiên hạ kĩ thế? Lại còn lặn lội đi gài sẵn "thạch trận" ở những đâu đâu. Giờ ta mới biết ông rất có tài ảo thuật, dễ dàng mê hoặc được lòng ngưỡng mộ của thiên hạ không chỉ trong một vài đời. Ông mẹo vặt có thừa, song bụng dạ lại hẹp hòi. Trong thiên hạ, bất cứ ai tài hơn, ông cũng tìm cách chiêu nạp về rồi nghĩ kế trừ đi. Đã mượn tay Trương Nhiệm giết ngóm một Bàng Thống ngây thơ cả tin, kẻ "học giỏi gấp mười ông" (ý này do chính ông từng nói ra), lại còn định chém Ngụy Diên ngay trước mắt ta. Ham hố danh tiếng như ông thì sau khi ta chết đi rồi, dẫu có làm chuyện thoán nghịch cũng chẳng có gì lạ… Khổng Minh lúc đó sợ toát mồ hôi, vội vàng sụp xuống dập đầu thề lấy thề để (thề cá trê chui ống). Màn chơi bài ngửa này tuy chỉ có Lưu Bị và Khổng Minh biết, song khó mà che được cặp mắt thế gian. La Quán Trung về sau nhân đó cũng “lờ” đi cho văn vẻ sạch sẽ, sử sách trơn tru. Ấy là cái truyền thống chép sử xưa nay nó thế. Sử sách vốn chỉ ưa chép những chỗ thơm mà giấu nhẹm đi chỗ thối. Và La Quán Trung đã tỏ ra là một người chép sử khéo, song lại là một tay kể chuyện tồi, bởi ông vẫn để lộ những chỗ thối của lịch sử ra. Lưu Huyền Đức quả có con mắt tinh đời. Về sau, chỉ vì ghen tài mà Khổng Minh đã quyết không thực hiện diệu kế của Ngụy Diên, lại còn dùng lời lẽ ngụy biện để chê bai, dè bỉu. Rốt cuộc cả 6 lần đem binh ra Kì sơn đều công cốc, đến nỗi thân phải bỏ ở gò Ngũ Trượng. Thế mà trước khi chết vẫn còn nghĩ kế để giết Ngụy Diên cho bằng được. Vị quân sư ngay thẳng ấy thù dai hay sợ Ngụy Diên sau này được đắc dụng thì sẽ thành công hơn mình? Vì thân mà hy sinh béng cả cơ nghiệp của chúa như thế, chẳng trách nước Thục do Lưu Bị tốn công gây dựng chẳng bao lâu cũng mất toi về tay cha con Tư Mã Ý, không để lại được chút hơi hám gì. Vậy thì cái điềm cây dâu cổ thụ kia bị đổ, làm nát cả bàn thờ nhà Lưu Bị quả là nghiệm lắm. "Mệnh" trời quả không thể xem thường. Tuy thế, song những màn "ảo thuật," những "mẹo" vặt của Khổng Minh vẫn được người đời thích thú, tôn sùng, đã lưu truyền được danh tiếng lẫy lừng của ông cho đến tận bây giờ. Danh tiếng ấy bao đời nay át cả Lưu Bị, đến mức bất cứ ai nghe thấy cũng phải trợn mắt thán phục. Thế thì có thể nói rằng Khổng Minh mới chính là người đã "vớ" được Lưu Bị, còn Lưu Bị, là người đã "vớ" phải Khổng Minh vậy.


Tóm lại, việc đời thường tuân theo quy luật quân tử khởi xướng, tiểu nhân a dua, quân tử thiệt thân, tiểu nhân thủ lợi. Cho nên cái triết lý "đầu voi đuôi chuột” dẫu chẳng ra gì, vẫn luôn tỏ ra đúng với mọi thời đại. Cái “ô Trời” ấy ở nhà Lưu Bị ban đầu dẫu có mang cái “lý” của một “con voi,” thì cuối cùng, "con voi" ấy vẫn phải có lúc đổ kềnh. Và một khi nó đã đổ, thì kết quả bao giờ cũng vô cùng thảm hại. Việc của Trời Đất còn như thế, huống hồ là việc của con người. Một cây cổ thụ còn như vậy, huống chi những loài cỏ lác. Vậy mà có kẻ vẫn còn muốn bền vững muôn năm? Có biết đâu rằng cái tử tế mãi chính là cái đáng nghi nhất trên đời. Cứ xem những sự khởi đầu và kết thúc của mọi cuộc đổi thay trên thế gian này thì biết. Sự thật rốt cuộc chẳng mang tí dáng dấp nào của những bản tuyên ngôn kinh điển viển vông. Tuy rằng cây dâu kia ở nhà Lưu Bị (có vẻ) chẳng liên quan gì đến Khổng Minh. Song việc mọc thẳng của nó hoá ra lại là một cái "triệu" bất tường. Thật chẳng biết rồi nó sẽ đổ về phía nào để mà đề phòng vậy. Giá như nó đừng đứng thẳng, mà cứ cong hẳn về một phía, để ông cha Lưu Bị cất nhà ở bên phía ngược lại, thì bàn thờ nhà ông đâu đến nỗi bị đập nát, và duyên trời biết đâu đã chẳng dun rủi cho ông gặp phải con người cũng có tiếng ngay thẳng là Khổng Minh? Tưởng gặp phúc mà thành ra vô phúc, tưởng kì duyên mà lại hoá vô duyên. Chắc chỉ có giời mới đùa nổi kiểu ấy. Trên đời, có ai lại ngu đến mức không tự nhận mình là người ngay thẳng, nhất là những hạng được coi là kẻ sĩ. Thế nhưng so với cái trò đùa ghê gớm ấy của cơ trời, thì sự dối trá kinh niên của con người xem ra chẳng thấm tháp vào đâu.

Ấy là chuyện cong, thẳng. Thế còn chuyện trong, đục… thì như thế nào?


Có một vị hoàng đế (mà người viết không nhớ rõ cụ thể là ai), vốn được các bầy tôi, lâu la xưng tụng là bậc thánh, đạo đức trong vắt như pha lê, không hề gợn chút dơ đục nào của cuộc đời. Một hôm cải trang vi hành (tất nhiên ngài sẽ đến lầu xanh. Bởi lầu xanh bao giờ cũng là đích cuối cùng của mọi cuộc vi hành trên thế gian này), ngài vớ được một cô gái đẹp lắm, mắt liếc như thu ba, thân hình ngon như đùi gà rán. Bèn tán tỉnh rồi đưa nhau vào phòng trọ. Lâu lắm rồi hoàng đế mới được một phen thoả chí mày mò trên thân xác của một ả thần dân như vậy. Đang lúc hứng đến cao trào, vị hoàng đế bỗng buột mồm ngôn ra một lời dạy mà các thần dân của ngài ai ai cũng thuộc lòng từ thuở lên ba. Ngay lập tức, cô gái kia phát hiện ra chân tướng của ngài và kiên quyết cự tuyệt. Ngài năn nỉ thế nào cũng vô ích. Đành tiếc nuối nuốt nước bọt, mặc quần áo vào rồi than thở, rằng giá ta đừng mang tiếng là một kẻ đạo đức trong suốt như pha lê thì có phải đỡ thiệt thòi. Đằng này… Té ra lũ bầy tôi kia sở dĩ xưng tụng ta như thế đâu phải vì chúng yêu ta, mà chính vì cái lợi ích của chúng…


Sách Phật kể rằng trong một kiếp, Đề Bà Đạt Đa và Phật cùng đầu thai làm con cá chép. Con cá chép là Đề Bà Đạt Đa chỉ thích bơi vào chỗ dòng nước trong vắt để phô bày cái hình dáng tuyệt đẹp của mình. Những giống xấu xí khác như cá mại, cá mè, cả lũ đòng đong cân cấn cứ rùng rùng bám theo, vừa bơi vừa luôn miệng trầm trồ. Trái lại, con cá chép là Phật thì chỉ luẩn quẩn trong những chỗ nước đục, chẳng con nào thèm để ý tới làm gì. Một bữa có con chim bói cá đậu trên cây nhòm xuống. Trong làn nước trong vắt, nó nom rõ con cá chép Đề Bà Đạt Đa, liền lao xuống đớp gọn rồi nuốt chửng vào bụng. Đề Bà Đạt Đa chui vào bụng con bói cá, chẳng bao lâu bị nó tiêu hoá, biến thành một cục phân. Con bói cá bay qua sông, ỉa cục phân đó xuống giữa đàn cá vẫn thường bơi theo Đề Bà Đạt Đa khi trước. Lập tức, từ cá mại, cá mè đến lũ đòng đong cân cấn đều tỏ ra hết sức ghê tởm. Con nào con nấy vội cố hết sức bơi vào chỗ nước đục để lẩn trốn. Sau đây là mẩu đối thoại giữa cục phân Đề Bà Đạt Đa và Phật:


"Ngài thấy tôi bây giờ so với trước thế nào?" - cục phân hỏi.
"Không khác gì cả" - Phật trả lời.
"Thế tại sao lũ mạt hạng kia giờ lại xa lánh tôi?" - cục phân hỏi tiếp.
"Bởi bây giờ chúng mới nhìn rõ ngài thực ra là cái gì" - Phật trả lời.
"Ôi! Giá như ta đừng chọn chỗ nước trong” - cục phân than thở.


Câu chuyện chỉ đơn giản thế. Vậy mà có một số học thuyết rất đứng đắn đã căn cứ vào đó để chứng minh một cách đầy thuyết phục, rằng Đề Bà Đạt Đa nếu không là thuỷ tổ của cả loài người nói chung, thì ít nhất cũng là thuỷ tổ của cái giống mũi tẹt da vàng.

Chuyện khác: trong một lần giảng giáo lý Đại thừa, một vị Tổ của thiền tông kể rằng kiếp trước ông từng là một con sáo. Một bữa đang bay lượn, chợt bắt gặp một quả bầu rất to. Bèn khoét một lỗ rồi chui vào. Bảy bảy bốn chín ngày nằm trong đó, chén hết già nửa ruột bầu thì bỗng ngộ ra ba nghìn thế giới. Mừng vì đắc đạo, vị thiền sư (con sáo) bèn chui ra khỏi quả bầu rồi bay mãi, bay mãi... Bầu trời trước mắt ông như khác hẳn, rộng bao la và thơm ngát mùi hương. Tất cả, từ một sợi lông cho đến những quả núi, cánh rừng… đều được thu vào cặp mắt chỉ bé bằng hai hạt tấm của ông. Mới hay sự đắc đạo là vô cùng thoả chí. Có lẽ ông sẽ bay mãi như thế, tự do tự tại, như lai như ý không gì câu thúc, không cần phải xác định phương hướng… nếu ông không vô tình bay qua một dòng suối. Dòng suối trong veo, nhìn thấu tận đáy. Nước suối ấy có thể rửa sạch mọi thứ. Có ai ngờ nó lại “rửa” luôn cả cái tâm Phật vừa mới được nhen nhúm trong ông. Soi mình xuống dưới, thiền sư bỗng thấy mình rõ ràng đang là một… con nhặng. Vậy mà vẫn không hề kinh ngạc (đã là thiền sư thì không bao giờ kinh ngạc). Có điều đôi cánh của con nhặng lúc đó dường như cứ bị hút về một phương nào đấy không thể cưỡng nổi. Lại bay mãi, bay mãi… Cuối cùng té ra ông lại trở về đúng cái quả bầu ấy. Bấy giờ nó đã thối nhủn từ bao giờ. Con nhặng là ông bị cái mùi thối ấy hấp dẫn, lập tức lao vào thò vòi ra hút lấy hút để… Thế là toi một kiếp tu hành. Toi từ lúc nào? Thiền sư hỏi rồi tự trả lời: không phải vì ông hút phải cái thứ ruột bầu thối tha ấy. Mà toi vào đúng cái lúc ông thấy mình là một con nhặng. Kể đến đây, thiền sư chép miệng: giá như dòng suối kia đừng có trong vắt như thế, mà nó đục ngầu, thì ông đã đắc đạo ngay từ kiếp đó rồi. Và câu chuyện ấy đã giải thích tại sao con người hiện đại ngày nay không thể trở thành thiền sư.


Cũng vẫn vị Tổ ấy, một hôm muốn truyền lại y bát, bèn hỏi đệ tử thứ nhất:

"Trước mắt con là hai cốc nước, một trong, một đục. Con chọn cốc nào?"

Đệ tử thứ nhất trả lời:

"Con chọn cốc nước trong."

Sư nhắm mắt không nói gì. Để tử thứ nhất lui ra. Đệ tử thứ hai vào. Thiền sư vẫn hỏi câu ấy. Đệ tử thứ hai trả lời:

"Con chọn cốc nước đục.”

Sư lại nhắm mắt không nói gì. Đến lượt đệ tử thứ ba. Nghe xong câu hỏi, đệ tử thứ ba lặng im hồi lâu. Sư hỏi:

"Sao con không trả lời?"

Đệ tử thứ ba bảo:

"Con không thể nào phân biệt được thế nào là trong, thế nào là đục…”

Sư liền trao ngay y bát.

Thứ Tư, 19 tháng 8, 2015

Học làm quan (Trích Luận ngữ tân thư)


Chuyện cũ đọc xong rồi… tỉnh bơ thì: hoặc là chuyện sắp vứt vào sọt rác, hoặc là người sắp quy tiên (sắp toi). Cũ/mới xin không bàn đến; “người“/“ngợm“ xin cũng miễn bàn. Song, chuyện cũ đọc xong mà… giật mình thì chắc chắn là chuyện chưa thể vứt vào sọt rác, và người… cũng chưa đến nỗi liệt vào hạng bỏ đi.

Kẻ khoác lác há to mồm mà tắc tị. Bậc Thiền sư ngậm miệng mà thông suốt mọi điều. Kẻ dối trá suốt đời lo gào thét để nhồi sọ thiên hạ. Bậc Vạn Thế Sư chỉ cần im lặng mà vẫn truyền được đạo lý cho đời…

Trên đây vẫn “Lời tựa“ trong Luận ngữ tân thư. Sau đây lại xin trích một phần của bộ sách đó:

Khổng Tử rời nước Lỗ đến nước Vệ. Ngài cùng các học trò ở nhờ trong phủ quan đại phu nước Vệ là Cừ Viên. Người nước Vệ nghe tin, nhiều kẻ tìm đến khấn lễ với Cừ Viên, xin được làm học trò Khổng Tử. Cừ Viên hỏi:

“Chẳng hay các người muốn học Phu Tử để làm gì?“.

Đám kia trả lời:

“Chúng tôi học để làm quan“.

Cừ Viên bảo:

“Bình sinh ta nghe nói Phu Tử chỉ dạy làm người, chưa hề nghe nói Ngài dạy làm quan bao giờ. Phu Tử từng bôn ba khắp thiên hạ, cũng chưa gặp một người nào muốn học làm quan. Nay các người đòi hỏi một việc chưa hề có tiền lệ như thế, dẫu ta thân đứng ra nói, chắc gì Phu Tử đã nhận lời“.

Đám kia liền năn nỉ:

“Ấy, chính vì thế mà nước Vệ ta xưa nay luôn tự hào là một dân tộc độc nhất vô nhị. Ai ai cũng không thèm làm người, chỉ nhăm nhăm muốn làm quan. Chúng tôi vẫn biết Khổng Phu Tử khi làm quan cũng không được bề trên tín nhiệm cho lắm. Chẳng qua là dao sắc không gọt được chuôi đấy thôi. Song làm thầy thì lừng lẫy thiên hạ. Phu Tử dạy vua còn được, huống hồ chỉ dạy làm quan. Ngài cứ đứng ra nói hộ chúng tôi. Biết đâu Phu Tử sẽ chẳng vì nể ngài mà nhận lời. Sau này chúng tôi học xong sẽ ra làm quan, kiếm được bổng lộc, phú quý, nhất định không quên ơn ngài“.

Cừ Viên bất đắc dĩ phải vào gặp Khổng Tử, nói lại yêu cầu của bọn người nước Vệ kia, đề nghị Khổng Tử hãy vì họ mà mở lớp dạy làm quan. Quả nhiên Khổng Tử vừa nghe nói đã vội đưa hai tay lên bịt chặt tai lại, lắc đầu ra hiệu từ chối. Đến lượt Cừ Viên phải năn nỉ:

“Làm người với làm quan thì có gì phân biệt? Vậy thì dạy làm người với dạy làm quan chắc cũng không khác nhau là mấy. Thiết tưởng với kiến thức của Phu Tử, việc đó cũng chẳng khó khăn gì. Hay là Phu Tử cứ thử dạy họ một phen xem sao“.

Khổng Tử nhã nhặn bảo:

“Khâu này xưa nay chỉ dạy làm người. Tuy chẳng lạ gì việc làm quan. Song làm người với làm quan là hai việc khác nhau xa lắm, không thể ví với nhau được. Vì thế, dạy làm người tất có chỗ khác với dạy làm quan. Đó là điều mà một kẻ làm thầy như Khâu này không thể tùy tiện bạ đâu hay đấy được“.

Cừ Viên hỏi: “Khác ở chỗ nào?“.

Khổng Tử bảo:

Dạy làm người mà không đến nơi đến chốn thì học trò khó có thể thành người. Song dạy làm quan thì chả cần đến nơi đến chốn mà học trò vẫn có thể thành quan. Đó là chỗ khác nhau căn bản. Từ xưa tới nay vẫn vậy“.

Cừ Viên lại hỏi: “Thế từ nay về sau thì thế nào?“.

Khổng Tử bảo:

“Càng những đời sau càng như vậy. Thiên hạ rồi sẽ đến lúc, khối kẻ chẳng cần học hành gì, hoặc học giả vờ, mà vẫn có thể làm quan, thậm chí làm quan to, rất to…“.

Cừ Viên nghe nói thì trợn mắt tỏ vẻ không tin. Thế rồi chợt nghĩ ra điều gì, bèn nhân đó mà năn nỉ:

“Đã vậy Phu Tử cứ nhận lời dạy họ đi. Đằng nào cũng thế rồi. Họ có học đến nơi đến chốn hay không thì cũng thế thôi, Phu Tử xem ra chả mất gì…“.

Lúc bấy giờ đang có Tử Lộ đứng bên cạnh. Tử Lộ thấy thế cũng lên tiếng:

“Nước Vệ vô đạo đã bảy tám chục năm nay. Kẻ sĩ rặt một lũ hèn hạ, đội đít đội trôn chính trị, đã tham lam như chó, lại kiêu ngạo, càn rỡ. Kẻ làm dân vì bị tuyên truyền, nhồi sọ từ tấm bé thành ra mê muội, suốt đời chỉ biết tin theo những sự dối trá. Nay quan đại phu đã có ý như vậy, âu cũng là một cơ hội để Phu Tử chứng tỏ cái đạo lý của mình. Nếu không thế, chẳng lẽ người quân tử lại có thể khoanh tay ngồi nhìn lũ vô đạo hoành hành hay sao?“.

Khổng Tử bảo:

“Ta không phải không biết đến điều đó. Song chính trị nước Vệ bây giờ sở dĩ tồn tại là nhờ bám vào một thứ học thuyết lưu manh. Vua quan nước Vệ vì thế sợ đạo lý như kẻ cướp sợ người ngay. Ta nương thân ở đây cũng đã là một cái gai trong mắt họ rồi. Nay lại còn đem đạo lý ra dạy nữa, thì có khác gì mắng vào mặt họ. Họ ngán gì mà không sai quân đến bắt ta, khóa miệng ta lại… Nếu không thì cũng vu vạ cho ta, đặt điều bôi xấu ta, hoặc thuê du côn ném đất ném đá vào nhà ta… Không khéo vạ lây cả đến quan đại phu đây thì làm thế nào?“.

Tử Lộ vẫn cố thuyết phục:

“Không đi đường thẳng thì đi đường vòng, không giảng trực tiếp thì giảng xa xôi. Phu Tử cứ nhận lời đi, rồi tìm cách nào đó mà dạy cho họ. Miễn sao những kẻ cầm quyền không có cớ gì để bắt lỗi Phu Tử là được rồi“.

Khổng Tử phần vì nghe Tử Lộ thuyết đến thế thì cũng động lòng quân tử, phần vì nể Cừ Viên quá, bèn nhận lời. Cừ Viên cả mừng, liền ra tuyển được ngay một trăm kẻ hăng hái. Lập tức sai chuẩn bị một phòng thật lớn, kê đủ trăm chiếc ghế rồi định ngày khai giảng.

Trước hôm khai giảng, Khổng Tử thân đến xem xét. Ngài chê phòng lớn quá, lãng phí. Chỉ yêu cầu dọn cho một phòng bé bằng nửa, kê vừa đúng 50 chiếc ghế thôi. Cừ Viên cứ phải nhất nhất làm theo mà không hiểu ý Khổng Tử định dạy bằng cách nào.

Đúng ngày khai giảng, 100 kẻ xin học tề tựu đông đủ. Khổng Tử thong thả đi đến, dẫn theo cả Tử Lộ. Ngài ghé tai Tử Lộ bảo cứ như thế, như thế… Tử Lộ bèn cầm danh sách, đọc từ trên xuống dưới, lần lượt 50 người vào ngồi kín các ghế. Tử Lộ tiếp tục gọi kẻ tiếp theo. Thấy thế, 50 kẻ còn lại thắc mắc:

“Ghế đã hết rồi. Vậy mà thầy cứ gọi tiếp thì chúng tôi ngồi vào chỗ nào?“.

Tử Lộ bèn trỏ vào 50 kẻ đang yên vị trong phòng bảo:

“Chẳng phải vai họ vẫn còn trống đấy là gì?“.

Năm mươi kẻ còn lại hiểu ngay ra thấy khoái quá, lập tức nối nhau chen vào, cứ thế lần lượt trèo lên vai những kẻ vào trước. Rốt cuộc, cả trăm người đều có chỗ ngồi.

Yên vị xong đâu đấy, Khổng Tử khoan thai bước lên bục, ngồi xếp bằng tròn, nhắm mắt lại rồi ung dung… đánh một giấc. Phía dưới, những học trò phải cõng trên vai kẻ khác lúc đầu vì hăng hái nên chưa cảm thấy gì. Song càng về sau càng thấy nặng, như phải đeo trên cổ một khối đá ngàn cân. Dần dần không thể chịu nổi, người nào người nấy mặt mũi đỏ gay, sùi cả bọt mép, xương sống như muốn rời ra, hai vai tê dại. Những kẻ ấy muốn gào lên mà không dám, sợ thầy quở, đành cứ phải è cổ chịu đựng. Thế rồi cũng đến lúc sức lực có hạn, không giữ lễ nổi nữa, lần lượt từng người, từng người một gục xuống, làm cho những kẻ ngồi trên cũng ngã giúi ngã giụi, va vào nhau bươu đầu mẻ trán. Cả năm chục chiếc ghế gãy đổ liểng xiểng. Lớp học biến thành một đống người, ghế ngổn ngang.

Bầy giờ Tử Lộ mới vào. Thầy ra lệnh cho những kẻ ngồi trên đổi chỗ cho kẻ ngồi dưới, kẻ ngồi dưới lại trèo lên trên, rồi sắp xếp lại trật tự, tiếp tục chờ nghe giảng. Phía trên bục, Khổng Phu Tử vẫn ngưng thần nhập định, dường như còn lâu Ngài mới ra khỏi giấc nồng.

Chẳng mấy chốc thì tình trạng lại diễn ra y như trước, lại ngã giúi ngã giụi, ghế ghiếc lại đổ liểng xiểng. Lớp học một lần nữa biến thành đống người ghế lộn xộn. Bấy giờ Khổng Tử mới từ từ mở mắt ra. Ngài đứng dậy, rũ mạnh tay áo một cái, đoạn quay người bước ra cửa đi thẳng một mạch. Kết quả suốt cả buổi, Ngài im thin thít, không hề hé răng lấy nửa tiếng.

Cừ Viên thấy Khổng Tử đã trở về phòng, liền chạy đến hỏi:

“Bài giảng hôm nay thế nào?“.

Khổng Tử bảo:

“Xong rồi“.

Cừ Viên trợn mắt kinh ngạc:

“Chẳng lẽ học làm quan… nhanh đến thế hay sao?“.

Khổng Tử bảo:

Làm quan cốt ở chỗ phải biết thế nào là kẻ làm dân. Nay chỉ trong vòng một buổi, họ đã tự cho nhau nếm mùi của kẻ làm dân rồi. Khâu này cần gì phải giảng thêm câu nào nữa“.


Phạm Lưu Vũ