Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện hay. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện hay. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 12 tháng 2, 2018

TRUYỆN NGẮN: “THOÁT TỤC” CỦA HOÀNG HẢI LÂM








Tôi cố tình bắt chuyến xe cuối ngày, lúc về đến Tĩnh Gia trời đã tối mịt mờ. Thị trấn heo hút sau những ánh đèn. Tôi biết rằng có bấm bụng đèn mới le lói thế. Hai bên đường bạt ngàn lau sậy, nó hiện lên trong trí nhớ tôi. Gió thổi thốc tháo từ lỗ hở tấm kiếng cuốn phăng mảnh rèm rồi rớt xuống sàn xe, ai đó vơ vội nó trùm lên mình cho đỡ lạnh. Trên chặng đường dài, mọi người đều ngủ vì mệt. Tôi thì không, có hơn ngàn năm tôi chưa hề ngủ. Điều đó không có ý nghĩa đối với tôi. Từ lúc rời khỏi nhà cho đến khi ngồi trên xe, tôi bịt mắt lại để che cho phần thịt duy nhất có được trên khuôn mặt mình. Đoạn đường này quá nhiều bụi, nó sẽ làm hỏng mắt và tôi sẽ không còn cơ may tìm kiếm hắn. Người đàn bà ngồi cạnh tôi, lúc tỉnh ngủ thường sửa lại chiếc mũ cho tôi mặc dù đấy là thứ mà tôi không bao giờ để chúng xê dịch. Tôi mặc nhiều áo, toàn những chiếc to dày đắp lên bộ xương để trông giống người bình thường. Ngày sinh tôi ra, người đàn ông hoảng hốt khi nhìn đứa mà ông gọi là con chỉ có duy nhất bộ xương, đôi mắt và mấy thứ nhì nhằng trên cơ thể. Tiếp đó là người đàn bà, vợ của ông ấy, người đã sinh ra tôi. Nhưng tôi không phải là con của hai người này. Tôi sinh năm 44 Sau Công Nguyên, tức họ kém tôi chừng 1900 tuổi. Tôi chạy chọt mãi mới được những suất đầu thai, qua hơn 40 lần chuyển kiếp tôi vẫn là tôi. Cái cửa sinh của người đàn bà và dục vọng của người đàn ông đã không tẩy hết trí nhớ của mình. Nước sông Nại Hà tôi uống trước đó cũng trở nên vô dụng. Tôi vẫn nhớ, nhiều chi tiết liên quan đến cuộc đời mình, nhất là khuôn mặt của hắn. Tôi chỉ mượn tạm đường sinh cho kiếp mình, không ngờ là người ta sợ hãi xương cốt và xem phần thịt là thứ quan trọng nhất ở đời. Cũng có thể, lúc đó cửa sinh của người đàn bà bị rách nát khi cố dùng hết sức đẩy tôi ra. Nhìn vẻ mặt đau đớn của người đàn bà, tôi nói.

- Bình tĩnh lại, tôi không phải là con của ông bà. Đừng buồn vì một đứa con như tôi, tôi sẽ đi ngay sau khi thực hiện xong sứ mệnh của mình.

Họ vẫn cứ buồn, thậm chí ghê sợ khi bộ xương mới sinh ra đã biết nói. Đó không phải là điềm lành, đó là sự quái gở. Tôi giấu nhẹm bí mật của mình, chuyện vì sao tôi tìm hắn và những cuộc đời trước đó của tôi. Thực ra, tôi là con trai của nữ tướng. Năm 43 sau Công Nguyên, ngay khi cầm quân thất thủ, nữ tướng bị dồn đến ngọn núi. Chính hắn đã sai quân lính bắt sống nữ tướng rồi giam bà vào hang động, số quân lính này sau đó bị hắn giết sạch để đảm bảo bí mật. Với nữ tướng, hắn đã cho uống thuốc để bà không còn ý thức được mình. Tôi tượng hình trong bụng mẹ và cảm nhận được sự tàn bạo của hắn đối với nữ tướng, đối với dân tộc này, đối với những người đàn bà ở Tĩnh Gia. Chính hắn đã phát động quân lính tàn sát hết đàn ông ở Tĩnh Gia và cưỡng hiếp toàn bộ đàn bà. Những đứa trẻ sau đó mang hình hài của hắn. Tôi đã không gọi hắn là cha mà gọi cận thần chăm sóc nữ tướng bằng từ thân thuộc đó. Người cận thần chết. Dưới lưỡi dao của hắn, ông ấy nhìn tôi cười trỏn trẻn.

- Ta là một hoạn quan, đời ta chưa hề được nếm thể xác đàn bà. Được con kêu ta bằng cha khi cất tiếng nói đầu đời thế là ta hạnh phúc lắm. Khát vọng được làm cha của ta vẹn toàn, con đừng ân hận vì tiếng gọi cha đó.

Vậy đấy, sự ương bướng của tôi đã gây ra cái chết của một người. Đó là nghiệp chướng để tôi được đầu thai lần đầu tiên. Năm tôi lên bốn tuổi, mẹ tôi bị chính hắn sát hại. Tôi đã không phản ứng gì ngoài đôi mắt nhìn hắn chằm chằm. Bên vách núi, tôi thả lỏng mình xuống biển. Khi chạm mặt nước, tôi đã bước sang thế giới khác. Sau đó có người đón tôi. Sau nữa tôi được người cầm sổ xua trở lại.

- Thiên thần, không có tội, sao lại tới đây?

Mặt nước sáng hôm ấy dập dìu thân xác tôi. Người đứng xa dớn dác, người đứng gần thót tim khi nhận ra đứa trẻ trôi lờ đờ. Con chim kiếc dồn về nơi ấy, tôi vẫn còn nghe tiếng kêu của nó vang lên, đồng thanh rồi đứt quãng. Kiếc! Kiếc! Kiếc! Thanh âm tràn ngập khắp quanh đồi, dưới chân sóng. Loài chim này khi có người chết sông, chúng quần tụ nhau về kêu đến đứt ruột rồi chết. Xác chúng phủ trên xác người. Nghe đồn rằng, người được 100 con kiếc phủ mình sẽ hóa thành tiên. Tôi cũng không còn cơ may kiểm chứng, cũng chẳng quan tâm đến điều đó. Tôi chỉ quan tâm đến hắn. Bởi thế, lúc thấy hắn thấp thoáng bước qua chiếc cầu mỏng tang. Bên dưới cầu là dòng nước đỏ nhờ nhợ. Tôi bắt đầu thấy nhột chân, nếu không kịp tôi sẽ mất dấu vết của hắn. Con sông đùng đục hơi, từng màu trắng sáng bốc lên khi bên dưới sông không thôi tiếng gào thét. Nó là sông gì? Tôi không biết. Tôi chưa hề đến đây lần nào cũng chưa hề đủ thời gian để trải nghiệm những câu chuyện của nhân gian. Người đứng trước mặt tôi gọi nó là sông Nại Hà. Tôi chẳng quan tâm đến điều đó, phía trước tôi là hắn, tôi phải đến đó bằng mọi cách, tôi phải qua sông.

- Ngươi được đàn chim kiếc 200 con phủ mình, sao lại không về cõi tiên?

Tôi lờ đi câu hỏi của người đàn ông, cõi tiên không phải là đích đến của tôi. Tiến sát đến người đàn ông cầm cuốn sổ, tôi hỏi một cách từ tốn.

- Thưa ông, làm thế nào để được đi qua đó?

- Phải có tội mới được đầu thai.

- Tôi có tội.

- Chẳng thấy ai như ngươi cả, trở về đi.

- Tôi đã gây ra cái chết của người hầu.

- Tiếng gọi đầu đời của một đứa trẻ không được khép tội.

- Tôi đã có hành động tự sát, tôi thả mình xuống sông...

Người đàn ông lắc đầu nhìn tôi vẻ không hài lòng. Tôi nhanh chóng bước qua cầu, mấy người vừa rớt xuống sông huơ tay lên phía tôi. Chẳng thể nào chìa cho họ một cánh tay khi hàng trăm cánh tay bấu víu vào nhau nhưng chẳng dài thêm được. Hắn đã đi khuất như làn khói. Xứ sở này sương khói vờn lên nhau, từng luồng không khí buốt giá thi nhau ào đến rồi bất giác hơi nóng ở đâu ùn ùn kéo đến. Đã có nhiều vong hồn không cầm được phải tan vào trong sương. Tôi nhắm hờ mắt lại, cảm nhận cho được bước chân hắn đi. Người nào ở cõi nhân gian mang trong mình nhiều tội lỗi thì bước chân của họ khi trở về đây nặng hơn người thông thường. Chình chịch, chình chịch... tôi lần theo. Bao nhiêu ảo ảnh bủa vây chỉ còn cách nhắm mắt lại mới xác định được mục tiêu. Và mục tiêu của tôi đã lén sang cửa tử khác, hắn cứ chết liên hồi và qua mỗi cửa tử mùi quen thuộc của nó dần nhạt phai. Tôi chạy đua với hắn, lần đầu thai kế tiếp tôi mượn thân xác của loài chó. Chỉ có thể như thế tôi mới đánh hơi được hắn. Trong ngôi chùa, hắn là vị sư, tôi là con chó gác cổng chùa. Nơi đây tôi cũng nhận ra nữ tướng. Giờ linh hồn nữ tướng đã gửi vào cô gái đẹp như bức tranh. Cô gái là người mộ đạo. Được sinh ra trong gia đình khuê các, nhiều người con trai đến dạm hỏi nhưng nàng không ưa. Ngày ngày, nàng lên chùa thắp hương khẩn Phật và quét lá bồ đề. Chiều đến nàng nói chuyện với sư thầy. Tôi mảnh mắt nên thấy khóe mắt sư thầy lung linh như ánh nắng chan xuống lá cây sau trận mưa dài. Đêm ấy trời mưa, trên điện tiếng mõ rớt loạn nhịp. Không phải đợi lâu, tôi biết được sự thể diễn ra ở trên điện. Khi nghiêng đôi tai mình, âm thanh đó réo lên. Kỳ thực, đó là tiếng rên của sư thầy, tiếng rên không lẽ thầy bị đau? Luồng ánh sáng len ra từ cánh cửa bị hở, tôi ghé mắt trông, bát hương cháy rừng rực làm lộ tấm thân của người thiếu nữ. Mẹ ơi! Sư thầy là hắn đấy. Tôi mặc sức tru lên thống thiết. Mẹ đã nghe tiếng rên của thầy, nó khỏa lấp tiếng chó của tôi. Thực lòng, tôi không muốn kêu to. Vì như thế, mọi người sẽ biết, những người ở xung quanh đây sẽ biết. Nên tiếng gọi của tôi từng lúc bị bóp ngẹt đi. Thấy tôi tần ngần không yên từ điện chạy xuống bếp rồi từ bếp chạy lên điện. Chú tiểu nhìn vào mắt tôi rồi lên điện. Chú cạy cửa điện bước vào. Trong đó có tiếng vỡ của vật gì đấy. Tôi nghĩ đó là chiếc bình hoa. Sáng hôm sau tôi không còn nhìn thấy chú tiểu nữa. Chỉ nghe tanh nồng mùi máu ở trên điện, tôi phân loại được đó là mùi máu của cả đàn ông và đàn bà.

Sáng sớm tinh mơ, cây bồ đề đang mùa trút lá. Lớp lớp lá thi nhau rớt xuống mặt đường và tạo nên bức tranh khá lý thú. Tôi hay nhìn lá bồ đề rơi, thích nằm cuộn tròn dưới gốc bồ đề to tướng đợi chút nắng lên sớm mai vừa mát mẻ vừa ấm áp. Chợt tôi nghe tiếng kiếc kêu, tôi cứ ngỡ là trong tiềm thức. Nhưng không, đàn kiếc từ đâu bay về đây mù mịt phủ kín cả ngôi chùa. Chúng đồng thanh kêu lên từng hồi sầu thảm. Tôi biết điều tiếp theo sẽ đến với mình, khi lũ kiếc bay thì Lão Mạt ở cạnh chùa đến dắt tôi đi. Tới đoạn ra khỏi cổng chùa lão nói, kiểu như giả dụ tôi nghe thấy được tiếng người thì hãy tha thứ cho lão. Mà nếu tôi không nghe được thì câu nói vừa rồi của lão sẽ tự tha thứ cho mình. Đó là lòng trắc ẩn của người ăn thịt chó.

- Mày đừng oán hận tao. Hãy oán hận sư thầy. Không, hãy oán hận tiếng tru thống thiết của mày ấy. Hay thật đấy, chim kiếc chỉ kêu khi có người chết nước. Mày là chó cũng được chim kiếc quần tụ tiễn đưa...

Tôi thấy mình mắc nợ lũ kiếc. Tôi đã không cứu được mẹ khi hóa thân thành một con chó. Tôi đã không cứu được mẹ khi trước đó tôi là một con người. Tôi sẽ trả món nợ lớn hơn, đó là món nợ của dân tộc tôi. Suy nghĩ này của tôi bị một con chó khác bẻ lại, bằng một câu tiếng người hẳn hoi. Lúc đó người dắt tôi đi dừng chân ở trên đường.

- Trong tim mi mang cả hai dòng máu, của mẹ mi và của cha mi. Dòng máu thù hằn đó là của cha mi. Chỉ có thế mới dẫn đường cho mi hóa thân thành chó.

- Mi là ai? Tôi nghi vấn, chắc hắn là dạng linh hồn tương ứng với tôi nên mới mảnh mắt như thế. Nó nhìn tôi chếch chếch hàm răng nhọn.

- Cứ cho tao là người con khác của hắn đi. Và cái chết của mẹ tao cũng là vực thẳm chôn mẹ mày. Những ngôn từ tao nói với mày và dòng máu chảy trong người tao cũng tương ứng với mày đấy. Tao chưa hề được chim kiếc tiễn đưa, nhưng nếu có tao cũng không muốn thế. Khi làm tiên phải dứt bỏ mọi hận thù nếu không sẽ bị hủy diệt.

Nó quay đi về phía nhà chùa. Tôi nghe tiếng sủa chói tai vang lên ở điện. Và tiếng thét đau đớn của sư thầy chứ không phải là tiếng rền rĩ. Lúc sau có mấy sư chùa mang gậy ra phang. Tôi nhìn thấy trên mõm hắn máu me bê bết. Hắn còn cắp một vật gì đó lủng lẳng. Tôi nhận ra, đó là bộ phận sinh thực khí. Các sư thầy nháo nhác.

- Hãy đánh chết nó đi, nó đã cắn đứt hạ bộ của trụ trì.

Nó chạy nhanh như chớp nhưng không quên đá ánh mắt về phía tôi. Kiểu, tao đã trả được món nợ trước mắt, rất nhẹ nhàng, cho tiệt cái dòng giống thâm độc của hắn đi. Mày nghĩ xa xôi quá nên không đến đích được.

Tôi khự khự khi nhìn hạ bộ bị cắn đứt của sư thầy. Đấy phải là hai hạt xá lị với cây phương trượng. Chợt nghe lòng hả hê. Như vũ trụ xoay vần và cơn gió hút vào lỗ rỗng. Tôi điềm nhiên dựng mắt và nở nụ cười đầy bí hiểm. Chiếc cầu, nơi tôi đi qua nhiều lần sau đó toàn những người quen. Hắn, sư thầy, con chó khác, lão Mạt, nữ tướng và tôi. Tôi thắc mắc, vì sao nữ tướng cũng ở đây? Phải chăng nữ tướng đã chết? Phải chăng nữ tướng mắc tội nên phải chịu đầu thai? Người đàn ông đứng ở mũi cầu nhìn tôi cười cười.

- Nữ tướng đã không giữ được thể xác cho ngọc nữ.

- Nhưng đó là linh hồn, linh hồn không thể nắm bắt thể xác.

- Linh hồn điều khiển thể xác. Không điều khiển được thể xác thì hãy hóa thành sương để đánh nát linh hồn. Dân tộc ngươi cũng là linh hồn, hàng vạn con dân là thể xác. Nếu linh hồn mang tội thì thể xác là vật đền tội, là vật hy sinh. Hàng ngàn năm nay dân tộc ngươi đã hy sinh cả núi sông thể xác. Đã đến lúc dân tộc ngươi cũng phải đầu thai.

Tôi đã khóc, lần đầu tiên trong đời nước mắt tôi ứa ra. Người mang trên mình nhiều sứ mệnh lại có nhiều tội lỗi đến thế. Nếu đầu thai, nữ tướng sẽ đầu thai thành người như thế nào? Và dân tộc tôi? Lúc tượng hình có phải là bộ xương hốc hác như tôi. Liệu cửa sinh của người đàn bà và dục vọng của người đàn ông có thể tẩy sạch họ? Tiếng trống trận bắt đầu dồn xuống, trên sông Nại Hà nữ tướng vung đao.

Con đường đến mộ nữ tướng lau lách nở trắng đồi. Con số 250 chỉ bậc thang từ dưới chân đồi lên đến nơi nữ tướng nằm xuống. Đó là đền thờ vọng. Thực chất thân xác nữ tướng ở nơi nào cũng chẳng ai hay. Tôi cũng không được biết đến điều này. Ở đây gió thổi vi vu, giữa mùa hè mà gió buốt lên từng lúc tựa vong hồn trở về báo oán. Người đàn bà đi cạnh tôi như một người hầu nguyên thủy. Bà ấy chẳng bị tác động gì đến ngoại cảnh xung quanh. Mặc cơn gió rít, bà ấy vẫn cố giữ tấm áo cho tôi đỡ lạnh. Dù gì thì mẹ vẫn yêu thương con. Bà ấy nói với tôi như thế. Từ sâu thẳm trong đáy lòng đó là tình yêu sáng lung linh đối với đứa con tật nguyền. Tôi nói với bà, bà chẳng cần phải thương tôi đâu, biết đâu đó là tội lỗi, biết đâu đó là hành động chứng minh linh hồn không thể điều khiển được thể xác và bà lại đầu thai. Người đàn bà khóc trên mộ nữ tướng, tôi đứng lặng im. Không phải xúc cảm tận nguồn mà tôi nhớ tôi lúc bốn tuổi, tôi nhớ tôi rơi từ vách núi xuống mặt nước thẳm sâu, tôi nhớ luôn hắn mang hình hài của con rồng hiểm ác. Chẳng tượng trưng cho dân tộc gì cả. Một dân tộc đi áp bức dân tộc khác là dân tộc yếu hèn, đấy cũng là tội lỗi và dân tộc đó sẽ đầu thai. Mấy chục ngàn năm như thế, trên sông Nại Hà người người chen lấn nhau, dân tộc xô đẩy nhau, những suất đầu thai chỉ là để báo oán. Tôi cũng báo oán cho mẹ, cho tôi, cho dân tộc mình. Tôi thề hút hết gió trên trần gian để làm nên trận cuồng phong. Người đàn bà đứng cạnh tôi lại mủi lòng.

- Oán hận biết bao giờ mới hóa giải. Trầm luân khổ luôn vạn kiếp người.

- Câu nói này của nữ tướng, lúc bà tỉnh lại bên động Tiên. Tại sao bà biết câu nói đó? Tôi hỏi người đàn bà.

- Câu này của nữ tướng, ngàn năm còn ghi.

- Nhưng chẳng lẽ nợ không đòi, oán không trả?

Người đàn bà lặng im, gió bắt đầu hú lên giữa đồi hoang và tiếng binh đao như tiếng sấm. Ảo ảnh của một ngày tháng 2 năm 40 trôi về trước mắt tôi. Trên ngựa, nữ tướng xung trận, xác quân thù ngã như cỏ cây. Thù nhà, nợ nước, máu chồng... tiến lên. Đội quân tóc dài được hậu thuẫn bởi hàng vạn binh đao tiến về phía trước. Nữ tướng xưng quyền được ba năm, kinh đô thất thủ. Lớp lớp máu xương rớt tỏm xuống vực sâu. Đêm đen lại bủa vây Tĩnh Gia đến hơn mười thập kỷ. Năm 938, dân tộc lại được đầu thai. Hình thể oai nghiêm trong linh hồn oai khí. Hắn chết thêm lần nữa, lúc đó tuổi mới của hắn là 48 còn tôi mới lên 10. Tôi chấp nhận đẩy người cầm sổ xuống sông Nại Hà để được thêm một suất đầu thai. Tôi gặp hắn, giờ tôi và hắn ở trên mặt nước. Những con thuyền tạo thêm sóng gầm thét giữa đại dương. Người đàn bà níu lấy tay tôi. Ánh mắt tôi đục ngầu.

- Bà điên rồi sao? Thuyền chúng ta có thể bị nhấn chìm, tôi cần giết hắn, chỉ mình hắn là rớt hết hàng vạn binh đao.

- Người đó là cha của con mà.

- Thực ra bà là ai? Tôi sẽ giết bà vì sự phản bội.

- Ta là nữ tướng, thuốc của hắn vẫn ngầm chảy trong máu ta, điều đó nhắc ta nhớ rằng con là con của hắn.

- Không, tôi là con trai của cận thần.

- Đừng chối bỏ điều đó.

- Tôi không chối bỏ, tôi đang điều khiển thể xác của mình.

Biển dậy sóng, đường biên chia mặt nước thành hai phía, lớp lớp sóng đối đầu vào nhau. Đại dương máu nhuộm đỏ nhừ. Trời tối thâm u đến chục ngày có lẽ. Sáng sớm, trong ánh bình minh tôi đi trên bờ biển. Từng mảnh tàu vỡ ngổn ngang xếp chồng lên nhau. Không một bóng người. Chỉ nghe bạt ngàn gió thổi xa tít giữa trùng khơi. Những hình ảnh chạy về trong tôi chóng vánh. Mộ nữ tướng, lau lách, đứa bé rớt từ trên cao xuống mõm đá, đứa bé đầu thai...tôi vẫn truy tìm hắn.

Tịnh An Tự nằm lưng chừng núi, chỉ có sư thầy và tôi. Giờ tôi là chú tiểu, tôi mất đi khả năng nhận biết bằng cách đánh mùi. Tiếng mõ cất lên đều đặn giữa đêm. Mùa đông, sư thầy thường đắp chăn ấm cho tôi. Mỗi sớm mai tôi đều nhận được chậu nước ấm để rửa mặt. Tôi nhìn sư thầy nghi vấn, không lẽ thêm một lần nữa hắn lại trốn vào lớp áo cà sa? Năm 95 tuổi, sư thầy viên tịch. Tịnh An chỉ còn mình tôi coi sóc. Sau khách thập phương đến ngày một đông, Tịnh An đời thứ mười ba có đến hai ngàn đồ đệ. Lúc đó tôi đã về trời. Ở xứ sở trời xanh mây biếc, tôi tìm sư thầy. Không có vị la hán nào tên là Vô Phương. Chẳng lẽ, sư thầy đã cố tình ở lại trần thế?

Một đêm giông, tôi nhìn qua tia sấm. Từ dưới cỏ cây mọc lên ngùn ngụt và lớp mưa bắt đầu rớt lên cánh đồng, lên đồi núi Tĩnh Gia có một người băng rừng, lần lượt, chiếc áo cà sa bị bỏ lại, nụ cười bí hiểm hắt lên. Đoàn chim kiếc chưa kịp bay về trời đã bị cơn gió hút vào lòng đại dương sâu thẳm.

(Nguồn: Báo Văn nghệ)




Thứ Sáu, 8 tháng 12, 2017

Rất người





Ông R là một người cao tuổi có gia sản bề thế, đến thăm một học giả trẻ tuổi là tiến sĩ F. Chuyện trò hồi lâu, ông R nói:
-Robot thì cũng tốt rồi, nhưng có thể nào làm cho khá hơn một chút được không? Ở nhà tôi cũng đã có sử dụng robot từ lâu rồi, nhưng không vừa ý lắm.
Tiến sĩ F bèn hỏi lại:
-Bác không vừa ý về điểm nào ạ? Cháu cũng là một chuyên gia về ngành này, nên cũng muốn biết để tham khảo ạ.
- Nói tóm lại là nhạt nhẽo vô vị. Quả là robot rất chính xác, là một thứ tiện lợi thật đấy, nhưng bảo gì cũng đáp vâng hiểu ạ, rồi chỉ biết làm đúng y như thế. Làm thật đúng một cách máy móc. Tôi hiểu là phải biết ơn thành quả này của khoa học, nhưng vẫn thấy chán làm sao ấy.
Những tưởng sẽ bị phản luận là chỉ được voi đòi tiên, nào ngờ tiến sĩ F gật đầu nói:
-Cháu hiểu được tâm trạng ấy. Từ lâu rồi, cháu đã đoán là thế nào cũng sẽ đến lúc có người đưa ra ý kiến này.
-Thật không ngờ lại được nghe những lời như vậy thốt ra từ một học giả về robot. Cậu nói thế, hẳn là đang nghiên cứu cách giải quyết, phải không?
-Vâng đúng thế. Thật ra là cháu cũng mới chế thử một robot kiểu mới. Và đã cho đi tu tập làm người rồi ạ.
-Tu tập làm người là làm sao? Tôi chưa bao giờ nghe nói tới chuyện cho robot đi tu bao giờ cả. Như thế là thế nào?
Ông R rất đỗi ngạc nhiên, mắt trợn tròn cả lên. Tiến sĩ F bèn giải thích:
-Robot từ trước đến nay khi được chế tạo thì đồng thời cũng được cài sẵn những ký ức cơ bản. Tuy nhiên đó chỉ là những ký ức đủ dùng sau này khi cần đến. Nhưng robot mới lần này thì khác. Bộ phận ký ức được chừa lại một khoảng, rồi cho sống chung với người. Vì thế so với robot từ trước đến nay thì có thêm phần trội hơn này.
-Ra là vậy, nghĩa là robot sẽ mang tính người hơn. Thế kết quả ra sao rồi?
-Dạ, chưa biết có thể nói như thế nào ạ. Là vì robot đi tu vừa mới trở về vào ngày hôm qua. Giai đoạn sắp tới là dùng thử để quan sát xem robot làm trò trống ra sao.
Vừa nghe tiến sĩ F nói xong, ông R đã hăm hở nói:
-Vậy thì cậu cho tôi đem về nhà dùng thử có được không. Tôi sẽ viết báo cáo về cảm tưởng khi sử dụng. Tôi đã chán ngấy, không còn chịu nổi những robot lâu nay, chỉ được mỗi một cái là bảo sao làm vậy. Robot mới này không có gì nguy hiểm chứ nhỉ.
-Về điểm đó thì xin bác yên tâm. Robot này đã được thiết kế để tuyệt đối không làm hại người. Thế nhưng, robot đã lĩnh hội được tính nết gì từ người, thái độ làm việc ra sao, thì hiện hoàn toàn chưa rõ ạ.
-Như thế mới là hay cậu ạ. Cậu cho tôi mượn đi. Nếu phải trả lệ phí sử dụng, tôi cũng xin trả.
Ông R cố hỏi mượn cho bằng được nên cuối cùng cũng khiến tiến sĩ F phải xiêu lòng. Thế là ông mượn được robot của tiến sĩ F và đem về nhà.

-Xem nào..
Ông R vừa buông mình xuống ghế và nói thế, thì robot đã đáp ngay:
-Dạ thưa ngài, có việc gì ạ?
-Xem ra thì chú mày cũng chẳng khác những robot từ trước đến giờ là bao. Nhưng thôi cũng được vậy. Ta muốn uống rượu. Hãy pha cho ta một ly cốc tay Blue Nova. Nếu không biết cách pha thì có trong sách để trên giá đấy.

Nếu là những robot từ trước đến nay thì đã bắt tay vào việc ngay, nhưng robot lần này vẫn cứ đứng yên. Ông R giục:
-Ơ kìa, sao không pha đi hả? Chú mày không pha được à?
-Dĩ nhiên là được ạ. Nhưng uống rượu là không nên. Không tốt cho sức khỏe. Hoàn toàn không có lợi lộc gì cho cả ruột gan lẫn trí óc.
-Không phải lo. Nếu đau dạ dày thì đã có thuốc uống.
-Chính vì thế nên mới là không ích lợi gì cả. Ngài nên bỏ rượu ạ. Dĩ nhiên là nếu ngài không quyết chí bỏ được, thế nào cũng bảo phải pha rượu thì robot tôi sẽ pha thôi.
-Thôi được, ta hiểu rồi. Chú mày làm ta chẳng còn hứng thú đâu mà uống rượu. Để khi nào ta tự pha lấy mà uống vậy. Thôi, thay vì uống rượu, bây giờ lái xe ra ngoại ô dạo mát vậy. Chú mày hãy lái xe cho ta.
Ông R bèn sai việc khác, nhưng robot vẫn đứng ì một chỗ. Ông R càu nhàu thì robot đáp:
-Dạo này tai nạn xe cộ ngày càng tăng, là vì phải chi giao cho robot lái thì an toàn xong vẫn có những người thích tự mình lái xe. Hễ đụng phải những hạng ấy thì không biết làm sao. Ngài nên ở yên trong nhà cho được an toàn. Nếu muốn ngắm cảnh thì xin hãy dùng tivi mầu lập thể. Nếu muốn hít thở không khí mới thì vặn nút thiết bị điều chỉnh không khí. Trừ phi ngài bảo dù có bị tai nạn cũng không sao, cứ lái xe đi thay đổi không khí, thì dĩ nhiên là tôi xin tuân lệnh. Cơ thể tôi thì dù có thế nào cũng không hề gì, không hỏng được.
-Chỉ nói toàn những chuyện dở hơi làm người ta chẳng còn muốn đi đâu nữa. Ta đi ngủ đây. Chú mày hãy dán giấy tường mới cho căn phòng này.
Thế nhưng robot lại đáp:
-Nếu vậy, ngài nên đợi thêm ít lâu nữa thì hơn ạ. Là vì chẳng bao lâu nữa người ta sẽ phát minh ra loại giấy dán tường mới, so với các loại giấy từ trước đến nay thì bền, không bẩn, tuyệt hảo về mọi mặt như màu sắc hay âm hưởng. Nếu thay giấy dán tường bây giờ thì sẽ phí đi, vì rồi sẽ dán lại ngay thôi.
-Chú mày không phải lo về chuyện tiền bạc.
-Dạ vâng. Nếu ngài đã biết rõ là phí phạm vô ích mà vẫn ra lệnh thì..
-Thôi được. Không làm nữa. Chú mày hãy ở đấy mà nghỉ đi.

Ông R chán nản không sai robot làm gì nữa. Ông cũng gọi điện thoại cho công ty sản xuất giấy dán tường để hỏi thử xem sao, thì quả đúng như lời robot, công ty này dự định chỉ trong may mai sẽ bán ra loại giấy mới.

Ngày hôm sau, ông R đem robot đến chỗ tiến sĩ F. Tiến sĩ hỏi:
-Bác dùng thấy thế nào ạ?
-Quả là có vẻ như người, khác với những robot từ trước đến nay. Nhưng lại có vẻ người quá. Hễ mình ra lệnh sai bảo điều gì thì nó lại khuyên bảo mình, nào là không tốt cho cơ thể, nào là nguy hiểm hay vô ích. Như thế cũng là trung thành với chủ đấy, nhưng mà khó dùng quá. Hình như nó đã học được khi đi tu làm người hay ở đâu đấy, cái thói dậy đời thì phải.
-Nhưng mà có cho nó đi tu ở những chỗ hay dậy đời đâu chứ.
-Thế nhưng thực tế là như vậy. Cậu hãy xem kỹ lại cho.

Tiến sĩ F lấy làm lạ, bèn xét nghiệm thật kỹ, rất tốn thì giờ. Ông R tò mò muốn biết kết quả, thì chẳng bao lâu được tiến sĩ F cho biết:
-Ra là vậy, đúng là khác với những robot từ trước đến nay, robot này đã có tính người.
-Chắc là vậy rồi. Nhưng mà, tại sao lại có cả cái thói hay dậy đời thế chứ?
-Thưa bác, đấy không phải là thói dậy đời đâu ạ.
-Thế thì là cái gì?
-Đấy là tính lười, chỉ giỏi nại cớ để trốn việc.

(22/10/2017)
Quỳnh Chi dịch “Ningen teki” của Hoshi Shinichi

Sinh sản vô tính







Một hôm các vì sao trên trời bàn chuyện của người dưới thế.



Đó là chuyện chính phủ của một nước nọ đã nghe lời các chuyên gia của họ, một mực cấm đoán việc giải phẫu cấy ghép nội tạng. Họ e sợ làm như thế sẽ đưa đến việc buôn bán thân xác, coi rẻ tính mạng con người. Nhiều người nghĩ rằng điều này xúc phạm đến sự cao quý của con người. Cũng có người cảm thấy như là các bộ phận trong thân thể cũng có một phần hồn, mà điển hình là như trái tim. Đối với họ, ghép tim người này cho người kia cũng tương tự như chuyện hồn Trương Ba da hàng thịt.



Vì sự cấm đoán này, có một gia đình kia có người bệnh đã phải tạm di cư sang nước khác, nơi mà luật pháp cho phép những cuộc giải phẫu cấy ghép như thế. Nhưng một nước đi tiên phong chấp nhận những điều mới mẻ, thì thường thường họ cũng tiên tiến về mọi mặt. Các bác sĩ của nước này có thể chữa lành bệnh cho hầu hết mọi bệnh nhân. Ai ai cũng có công ăn việc làm nên không mấy ai bị thất nghiệp. Dân chúng của họ đều biết tôn trọng luật lệ. Tóm lại là chẳng dễ gì mà có người chết đột ngột vì tai nạn giao thông, hay vì một vụ nổ súng đánh cướp ngân hàng, hoặc bị giết chết vì có ai đó thất nghiệp sinh hận đời mà gây ra án mạng. Cũng chẳng có ai nhẩy bừa xuống đường tàu tự tử v.v.. Không có ai đang khỏe mạnh mà chết vì một trong những trường hợp như thế để có sẵn bộ phận nội tạng mà giải phẫu thay ghép cho người khác.



Vì phải chờ đợi lâu quá, người bệnh của gia đình ấy lại đành đến một nước thứ ba, nơi thường hay có những nạn nhân thiệt mạng như trong các trường hợp vừa kể, nên có sẵn nhiều bộ phận để cấy ghép cho bệnh nhân hơn. Nhưng người ta đã quên khuấy trình độ và trang bị y tế yếu kém ở nước này. Tai nạn xảy ra khiến bệnh nhân bị thiệt mạng ngay trên bàn mổ. Gia đình của bệnh nhân oán trách chính phủ nước họ cũng vì ở nước của họ thì thiếu gì những trường hợp người chết như vừa kể ở trên, và muốn cấy ghép đâu có khó khăn gì, vì trình độ và thiết bị y tế của họ cũng khá hiện đại..Thật là một cái chết oan uổng !



Ở cương vị nhà trời, dường như người ta cũng khó nêu ý kiến về một vấn đề thật là tế nhị như thế. Vì sao có chòm râu bạc phơ như tiên ông lên tiếng trước tiên:

-Con người phải nhớ giữ gìn cẩn thận những gì Trời đã ban cho trong cơ thể . Đó là một tuyệt tác của Thương đế, lỡ làm hỏng một bộ phận nào rồi thì không dễ gì tìm được phụ tùng thay thế.

Có một vì sao khác còn ra chiều lo âu nhắc nhở:

-Con người đang định dùng nguyên tác của Thương Đế để chế ra phiên bản đấy. Họ đã thử ở động vật, và đặt tên cho tác phẩm làm thử đầu tiên là Dolly. Họ gọi đó là sinh sản vô tính.

Các vì sao chăm sóc các vườn hoa liền lên tiếng đáp lại như thở than :

-Ồ, trong giới thực vật thì họ đã làm chuyện đó lâu rồi. Họ đã dùng phương pháp ấy để tạo ra những củ khoai tây mà củ nào củ nấy giống hệt nhau. Họ nhân giống hoa lan khiến cành hoa nào cũng giống cành nào, chợt nhìn cứ tưởng là hoa nylon !

Lẽ ra phải trân trọng từng gốc hoa lan, chờ nắng gió bốn mùa cho gốc hoa đủ lớn, rồi hàng năm chia gốc, ươm thêm từ từ từng bụi hoa mới. Họ đã quên khuấy rằng những năm tháng chờ mong cũng chính là niềm hạnh phúc. Một ngày nào đó vườn hoa của họ dần dần chẳng còn gì là thơ mộng nữa. Hoa lá gì mà như sản phẩm sản xuất hàng loạt, đại trà !



Cuối cùng, hình như là Thượng Đế, đã ôn tồn lên tiếng.

-Cứ để con người tự do làm theo ý họ. Xưa kia họ cũng đã tự ý ăn trái cấm, từ chối hạnh phúc trong vườn Địa đàng.

Sinh sản vô tính à ?

Trần gian rồi sẽ tràn ngập những con người ích kỷ, bởi từng tế bào trong cơ thể họ đều sinh ra từ một tế bào của chỉ một người, mà không phải là từ một phôi thai kết hợp với tha nhân. Vì vậy, mỗi người sẽ chỉ còn biết có cái tôi của họ mà chẳng biết đến người khác. Con người sinh sản vô tính vẫn có hai tay hai chân mà giống như là chỉ có một, nên họ đi xiêu vẹo về một bên. Tương lai của nhân loại rồi chẳng biết sẽ về đâu nếu người sinh sản vô tính chiếm đa số, bởi đầu óc họ cũng đầy những tế bào thần kinh chỉ biết tiếp thu ý kiến một chiều. Họ sẽ như những con thuyền luôn đi lạc vì chỉ biết chèo về một hướng.



Quỳnh Chi (8/6/2009)

Thứ Hai, 9 tháng 10, 2017

Vọng tình


NGUYỄN NGỌC




Tôi ghét các mạng xã hội, tôi cũng chẳng thích xem ti-vi và đọc những dòng tâm sự của bạn bè mình. Dù cho tôi biết đó là một sự thú vị, nó thể hiện bạn là người có nội tâm sâu sắc thế nhưng tôi vẫn ghét. Cho đến một ngày kia, tất cả những suy nghĩ của tôi điều bị thay đổi; đó là dịp tình cờ khi những dòng chữ chị viết lướt qua tôi. Đọc những dòng chữ ấy tôi như nhìn thấy một người con gái đầy nghị lực, đã có những lúc sống buông mình, sống điên cuồng, nhưng cũng có lúc chị đau đớn tột cùng vì một điều gì đó. Dường như chị chán ghét cuộc đời này giống tôi. Và đó cũng là lần đầu tiên tôi làm một việc mà trước gìơ tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ làm đó là tôi viết thư cho người con gái ấy... Nhưng ngay lúc đó, ngoài cảm giác hào hứng ban đầu ra tôi lại có thêm một cảm giác mặc cảm về một điều gì đó len lỏi. Lần này cũng cùng một cảm giác như lần tôi nghe giọng hát chán nản và tuyệt vọng đến tột cùng của Kurt Cobain. Chả biết có điểm gì giống nhau không, có lẽ là một sự hối hận về những sai lầm, cái chỗ nhầm lẫn cho những xáo trộn ở đời này... nhưng biết làm sao được khi thế giới này chẳng quay theo một quy luật nào cả.

Chị đã trải qua cái tuổi mộng mơ với những điều vớ vẩn, chị đã đi qua những bão tố đến những tháng ngày bình yên. Còn tôi thì luôn chìm đắm trong những màn hư ảo, thật như mơ. Tôi cũng đã từng đến quê chị - miền Trung mang đầy nắng gió, sau một khoảng thời gian lang thang khắp mọi miền đất nước.



Và bạn biết đó, ngày xưa là đâu? Tôi đã từng nghĩ rằng khi tôi đi thì những người bạn của tôi sẽ như những chú gấu ngủ đông, chờ tôi về đánh thức để tiếp tục tháng ngày tươi đẹp ở cuộc đời này. Nhưng mọi người có một hướng đi riêng, có một cách sống riêng cho mình, không ai có thể đứng đó đợi ta được cả.



Tôi đã có những giấc mơ lạ khi trời gần sáng, đó là giấc mơ về một người đàn bà ôm tôi vào lòng như thể tôi là một đứa trẻ bé bỏng... để rồi trong sự ấm áp đó tôi thấy mình bình yên đến lạ, không còn nữa những bộn bề, đam mê vội vã. Với tôi – một người luôn sống thiếu thốn tình cảm, bởi mẹ cha “chia tay” khi tôi lên 7, nên dù là một đứa trẻ chẳng thiếu tiền bạc tiêu xài, nhưng chưa bao giờ cảm nhận được cái hạnh phúc bên gia đình như thế nào cả. Tôi là một đứa trẻ được chiều chuộng, nhưng tôi sống không thật. Đôi khi thấy mình thảm hại đến tàn tạ. Đôi khi trong những giấc mơ đêm, tôi thấy mình lao xuống vực sâu, hay cô độc ở một bóng tối nào đó. Tôi cảm thấy cuộc đời này chẳng còn thiết sống nữa, tôi muốn kết thúc cuộc đời này vào một ngày nào đó gần nhất có thể. Nhưng trước khi từ giã cõi đời này, tôi mong muốn được gặp Chị, người đàn bà cho tôi chút hy vọng dẫu ít ỏi cuối cuộc đời này.

Và cuối cùng tôi đã quyết định đi gặp chị, chờ đợi chị sẽ mang đến cho tôi một điều gì đó kỳ diệu... Nhưng có lẽ, điều đó còn xa vời lắm...

* * *

Tôi vào Sài Gòn một ngày trời ảm đạm. Nó cũng gần như tâm hồn tôi lúc này vậy. Như đã hẹn trước, tôi đến một bar gần nơi chị ở để đợi chị. Bởi mọi đêm tôi có thói quen uống thật say mới về ngủ. Có lẽ thói quen đó bắt nguồn từ việc tôi sợ ở một mình, tôi sợ căn gác trống vắng bóng người, tôi sợ căn phòng lạnh lẽo và chiếc giường thiếu mùi đàn bà. Nên tôi đã làm bạn với rượu, đó cũng là ngừơi bạn thân nhất của tôi.



Và chị đến khi tôi bắt đầu hơi say. Rồi tất cả những gì tôi từng tưởng tượng về chị đều sai hết cả, ngoại trừ giọng nói chị vẫn thế, giọng nói trầm buồn nhưng đầy nhục cảm. Tôi rót mời chị một cóc rượu. Trong giây phút đầu tiên gặp chị, tôi có vẻ ngỡ ngàng với mái tóc dài ngang vai, được uốn lọn nhỏ. Khuôn mặt trang điểm nhẹ, càng tô lên nét sắc sảo và khéo léo trong chị. Bên ngoài chị trẻ hơn trong hình, đằm thắm dịu dàng hơn. Nhưng hình như chị chẳng ngạc nhiên gì khi nhìn thấy tôi, vì vừa mới bước vào quán thì chị đã nhận ra tôi ngay. Có lẽ tôi mang cái vẻ ngoài hoang dại, tôi một con ngựa bất kham giữa dòng thành phố này. Cũng bởi thế mà tôi chẳng bao giờ lạc lõng giữa đám đông cả.

Nhưng vì là quán bar nên càng về khuya quán càng nhộn nhịp hơn, tiếng nhạc cũng càng lúc càng to hơn và rượu thì càng ngày càng ngắm vào tôi hơn. Thỉnh thoảng chị kể tôi nghe những câu chuyện vui làm tôi cười nhẹ. Nhưng rồi khi chị cảm nhận được cái vẻ thất vọng trong tôi thì chị cũng tỏ ra lo lắng và buồn theo. Đôi lúc thì chúng tôi im lặng, hướng ánh nhìn về đám đông đang cười nói ngoài kia. Tôi đứng lên mời chị ra nhảy cùng, chị vui vẻ nhận lời... Chúng tôi quay cuồng theo điệu nhạc, đôi lúc khẽ chạm nhẹ vào nhau, rồi lại nhích ra xa hơn... rồi lại vô tình chạm vào nhau. Chị dùng mùi nước hoa thật lạ, thoang thoảng hương cỏ may, mùi hoa lan, hoa hồng và gỗ nhè nhẹ. Một mùi thật thân quen nhưng cũng khá xa lạ với tôi... mùi vị đàn bà...



Người đàn bà đang trong độ tuổi xuân phơi phới, xung quanh bao người đàn ông vây quanh lại đang ở cạnh tôi. Nhớ lại, thời gian tôi làm quản lý ở một số bar khác nhau ở Hà Nội, lúc đó tôi quen một cô gái được mệnh danh là hoa khôi của lớp múa Cao đẳng sân khấu điện ảnh. Em mang trên người hương của núi rừng, phảng phất hương hoa lê, hoa ban trắng... Vị của một cô thiếu nữ e ấp, của núi sông quê em. Theo thời gian tôi ra Trung làm ăn kiếp sống, và mang theo mùi hương ấy bên mình. Đôi khi nó bị lẫn vào hương đêm ngào ngạt, chút hương nước hoa rẻ tiền của những cô bé bán hoa nằng nặc son phấn.



Khi chị hỏi tôi vì sao tôi đến Sài Gòn này. Tôi trả lời gỏn lỏn: “Là vì chị”. Chị nhìn tôi không có vẻ gì bất ngờ cả. Hình như chị đã nghe rất nhiều người nói với chị như thế. Rồi tôi tiếp tục bảo tôi muốn chết vào một ngày gần nhất có thể, nhưng tôi sợ chết một mình lắm, tôi muốn chết cùng chị. Chị nghe thế cười nhếch môi, có lẽ là chị đang cười khinh bỉ tôi thì phải... dù rằng chị vẫn giữ cái thái độ bình thường qua những lời nói, cử chỉ và hành động đối với tôi.




Người đàn bà đang ngồi đối diện với tôi có một phong cách sang trọng, và mùi nước hoa thật quyến rũ... gần như có một sức hút kỳ lạ toát ra từ con người ấy, một sức hút lạ lùng nhưng khó cưỡng lại... Và chắc chắn với một người đàn ông nào đó thì đây là một sự hấp dẫn lạ kỳ... Còn với tôi, tôi chỉ thấy có một sự xa cách, làm nỗi cô đơn trong tôi ngày càng dày đặc mà thôi.

Và càng ngày cái ý định muốn tự tử, muốn từ giã cõi đời này càng hiện rõ hơn... Những người đàn bà đi ngang đời tôi, cùng sự im lặng giờ đây của chị... khi chị nhìn theo chàng ca sĩ hát ầm ầm trên kia, bỏ mặc tôi với những quay cuồng trong mớ cảm xúc hỗn độn... Tôi càng cảm thấy tuyệt vọng hơn, tuyệt vọng đến kiệt cùng... Người đàn bà cuối cùng mang cho tôi hy vọng ở cuộc sống này lại thờ ơ với tôi đến thế ư?...



Nhìn đồng hồ là 3h sáng. Tôi cùng chị bắt taxi về khách sạn. Vừa về đến nơi, chỉ mở cửa phòng ra là tôi đã nằm vật xuống giường. Mùi nước hoa của chị thoang thoảng bên tôi, một mùi hương là lạ, như chẳng có gì liên quan đến tôi. Tôi cảm thấy mình lạc lõng, mình bơ vơ trong cái thế giới này… Tôi thấy mình là kẻ bất lực trước đàn bà, bất lực cả với cuộc đời của chính tôi…

Đứng dậy, tôi lục lọi tủ lạnh, uống biết biết bao nhiêu là bia, bia rất nhiều bia…Và cả thuốc ngủ nữa… rất nhiều thuốc ngủ….

* * *

Sáng hôm sau, người dọn phòng thấy phòng Khanh có dấu hiệu là lạ… anh đã gõ cửa hơn 4 lần nhưng không có ai ra mở. Nên đạp cửa bước vào, thì trước mắt anh là một cảnh tượng hãi hùng. Khanh nằm đó, toàn thân bất động, trên bàn là vài lon bia anh đã uống cùng hai vỉ thuốc ngủ, chiếc máy tính còn nguyên những dòng tâm sự anh đang viết dang dở… Người đàn bà kia được gọi đến ngay sau đó, chị chẳng thể nào tưởng tượng được là Khanh thực sự muốn từ giã cõi đời này vào đêm qua, những lời nói khi say của Khanh là thực… Người đàn bà ấy đã lo cho Khanh một "hậu sự" tươm tất như cậu mong ước…

Và câu truyện này vẫn sẽ được người đàn bà đó viết tiếp… Nhưng sau đó là một câu chuyện rất buồn…

Chủ Nhật, 8 tháng 10, 2017

HOA HỒNG GAI



Tôi mãi nhớ về em. Một cô gái với trái tim thiên thần. Cô viết truyện ngắn này khi chỉ mới 20 tuổi. Quả là một tài năng hiếm có. Đáng tiếc, cô đột nhiên biến mất
HOA HỒNG GAI

Truyện ngắn : Nguyễn Ngọc(Tinhmuavong)

Cô đang ngồi thẩn thờ bên ô cửa sổ, đôi chân duỗi thẳng tự nhiên, để những đầu ngón chạm nền gạch. Cô cảm thấy thích thích cái cảm giác có một “cái lạnh” nào đó chợt đến ở đầu ngón chân. Cái lạnh ấy chợt xuất hiện, rồi vụt biến mất... cứ xuất hiện rồi lại biến mất khi cô nhịp bàn chân theo giai điệu bài hát “Straight Through My Heart” của Backstreet Boys đang được phát ra thật to. Cô khẽ khẽ lắc đầu theo điệu nhạc. Hương hoa hồng theo cơn gió tràn vào nhà, vương vấn bên cánh mũi xinh xắn của cô.

Dường như hương hoa quá quyến rũ thế nên cô đã ngừng nhịp chân... Cô hơi ngoái người lại, nhìn ra cửa sổ. Bên dưới là vườn hồng. Rồi ánh sáng vàng vọt của buổi chiều tà chiếu vào làm cho mhững đóa hồng như bị ai đó làm thâm tím... hay là vì hoa hồng đang khóc... Cô nhìn kỹ thêm một chút nữa. Ánh sáng ngoài vườn nhạt quá, cô chẳng còn những thấy rõ bên dưới nữa... Bóng đêm như đang vây phủ vườn hồng... Vườn hồng ngày xưa của anh và cô cùng trồng... Vườn hồng với những đóa hồng đầy gai...



Bỗng dưng bái hát tắt phụt, cô ngoáy lại nhìn. Người đàn ông đang đứng cau mày trước mặt cô. Gương mặt nhăn nhúm, làm cô chợt liên tưởng đến những tờ bản thảo mà mình vo tròn rồi vứt vào sọt rác mất phút trước... Trên gương mặt ấy, có cả một sự giận dữ và bất lực.

- Kìa, em đang nghe mà – Cô nói với vẻ mặt lạnh lùng. Cái lạnh cuả nền gạch giờ đây đã lan khắp lòng bàn chân khi cô rời khỏi bệ cửa sổ để đi về phía máy phát đĩa.

- Đã tối rồi, phải để cho mọi người nghĩ ngơi chứ? – Định quay lưng đi, nhưng rồi lại quay lại nhìn cô, cũng gương mặt nhăn nhúm ban nãy. Anh hỏi – Mà em đang làm gì mà ngồi thừ người ngoài cửa sổ vậy? Định cấm đầu xuống dưới chết hả?

Cô nhếch môi, không thèm trả lời. Vì cô đang bận với cái suy nghĩ của riêng mình: “Làm sao mà bản nhạc kia có thể vượt qua khỏi vườn hồng rộng lớn xung quanh nhà cô để đến với nhà hàng xóm được chứ”. Nghĩ thế, cô lại nhấn nút play để bản nhạc có thể được cất lên, lại tiếng Brian dạo đầu, rồi những ca từ mạnh mẽ rót vào tim “Ooh Oh Oh, In the heart of the night. When it's dark In the lights I heard the loudest noise, A gunshot on the floor Oh-oh Oh-oh”.

Thấy thế anh lại và giật ngay phích cắm điện. Không thèm nhìn hay nói cô một lời nào, sau đó anh đi lại giường nằm. Để mình cô đừng đó. Tưởng rằng, ánh sáng từ căn phòng dịu dàng có thể giúp anh xoa dịu sự “phận nộ” đang lớn dần trong cô, nhưng không... không thể được...

- Anh biến đi

- Cái gì.

- Biến đi, biến ra khỏi mắt em – Cô lặp lại từng lời một với giọng lạnh băng.

Cô lôi cái đầu đĩa ra khỏi tủ, không chút bận tâm với mớ dây nhợ lòng thòng. Cô quẳng nó xuống nền nhà... Bỗng âm thanh Rầm... rầm... ầm âm.. khô khốc vang lên. Anh quay lại nhìn cô, vẻ đầy kinh ngạc. Tức giận, anh bước vội xuống giường, lấy đại chiếc áo thun trên thành ghế cạnh bàn trang điểm của cô... Bước qua cô, và buông một câu cọc cằn.

- Cô điên rồi.

Cô vẫn đứng chết lặng ở đó. Căn phòng nhỏ vẫn sáng đèn, thứ ánh sáng dịu dàng và nhẹ nhàng nhưng không hiểu vì sao quanh cô chỉ thầy toàn màu đen. Hương hoa hồng vẫn thoang thoảng trong gió, tỏa ngát cả căn phòng... nhưng nỗi nhớ trong lòng cô không thể dịu dàng cùng hoa được... Trong lòng cô, dâng lên bao cảm xúc ngổn ngang, nó như cào cấu dữ dội trong cô...

* * *

Sáng hôm sau, khi cô đang ở tiệm hoa, thì nhận được tin nhắn từ số điện thoại của anh: “Anh đồng ý em là một cô gái xinh đẹp, và đa cảm. Nhưng em lại là một người không biết thế nào là tình yêu. Đến hôm nay thì anh lại thấy mình nên cảm ơn vì điều đó. Ít ra giờ đây nó làm cho anh không ray rứt khi nói với em rằng. Mình chia tay nhau nhé!”. Đọc xong cô không suy nghĩ nhiều mà nhanh chóng nhắn lại cho anh một từ ngắn gọn mà thôi “Ok!” rồi bình thản cất điện thoại vào túi quần, như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Tình yêu bao giờ cũng chứa đựng những tổn thương nhất định. Những cuộc tình mà cô đã đi qua, dù là nó chân thành hay giả dối thì cũng có những tổn thương hiện hữu. Và kết thúc một cuộc tình nào đó, người chịu đựng tổn thương một là cô, một là người còn lại. Chính vì thế, chẳng rõ từ lúc nào, trái tim cô đã bắt đầu vô cảm với tình yêu.

- Không cần phải bỏ gai đây. Anh cứ gói lại bán cho tôi là xong.

- Loại hồng này gai sắc lắm...

Cô ngước nhìn rồi nói: “Đó không phải chuyện của anh”.

Người bán hoa làm như là chẳng nghe thấy những gì cô nói. Gã cứ ngồi gỡ từng gai một trên những cành hồng cô mua vô cùng cẩn thận. Gã cố bảo đảm rằng mình đã bỏ hết những gai nhọn trước khi xếp chúng sang một bên.

- Anh kia có hiểu tôi đang nói gì không? Đã bảo là đừng cắt gai kia mà.

Gã vẫn bình tĩnh tiếp tục công việc của mình.

- Cô đừng cố tình làm mình đau như thế. Cô nghĩ làm như vậy sẽ được người khác quan tâm hay sao?

Nghe gã nói thế, cô tái mặt. Bởi cô biết gã đang nói về điều gì.

- Anh có thôi đi không?

- Cô biết người ta gọi cô là gì không ? – Bỗng gã dừng công việc đang làm lại, ngước lên nhìn cô với ánh mắt bình thản... Như gã đã biết trước, những lời mình nói sẽ làm đá dội vào trái tim cô... - “.... là đồ ích kỷ?”

Cô cười ha hả... Và bất chợt chột lấy một cành hoa chưa được tỉa gai.... siết thật mạnh. Để những lưỡi gai sắc nhọn đăm vào làn da mền mại, mịn màng của cô... và bắt đầu có những giọt máu đỏ tứa ra từ đó.

- Vậy giờ đây, tôi đang rất đau đó. Anh có quan tâm tôi không – Cô nhếch môi và nói tiếp – Không! Đúng chứ? Vì anh không phải là anh ấy, chưa bao giờ là anh ấy. Nên cũng không có quyền chỉ trích, hay lên mặt với tôi. Hiểu chưa?

Gã nhìn cô, rồi lại nhìn bàn tay đang nắm hoa hồng gai của cô... gã vội buông kéo, chạy đi tìm hộp cứu thương... Cố gắng gỡ từng ngón tay của cô ra, và sát trùng.

- Tôi không phải đang muốn nói đến chuyện đó, nhưng nếu là như thế tôi cũng không muốn nhìn ai đó như thế này đâu. Đừng tưởng làm như vậy mình cô đau thôi, mà cả hoa hồng cũng đau đó.

Cô liếc nhìn gã, trợn tròn mắt kinh ngạc... Cô biết rất rõ gã chàng bán hoa này và Anh là hai anh em. Nhưng gã bán hoa này lại không có được cái tính dịu dàng của Anh. Gã này lạnh lùng và tàn nhẫn hơn rất nhiều. Và một điều nữa mà cô biết chắc chắn đó là giờ đây cả hai anh em họ đều câm ghét cô. Nhưng có lạ gì với điều đó bởi chính cô còn căm ghét mình kia mà.

Gã xếp dụng cụ y tế vào hộp cứu thương, đem nó sang một bên, lại cầm kéo mà tiếp tục công việc của mình.

- Tôi biết cô là cô gái mạnh mẽ, nên trong cô có những suy nghĩ lạ lùng. Nhưng cô cũng nên nhớ rằng ở cuộc đời này có 2 thứ mà không nên đem ra đùa đó là tình yêu và sinh mạng con người.

Cô nhìn gã với ánh mắt rực lửa. Rồi huơ tay, làm những cánh hoa hồng rơi vãi trên sàn nhà.

- Tôi không muốn mua hoa của anh nữa,

- Nhưng tôi vẫn sẽ đem đến đó.

- Vậy thì anh cứ đem đến Thiên đàng hộ tôi.

* * *

Cô nhớ lại một đêm khi cô nói với Anh:

- Giờ em đang muốn viết về sự Chết. Nhưng không biết nó như thế nào để viết nữa. Liệu có cần chết “thử” để viết không anh?

Anh đi đến, vòng tay qua eo cô, dẫn cô ra bệ cửa sổ.

- Nếu mà em muốn biết, anh sẽ đi đến đó, rồi về báo cho em biết nhé!

- Thiệt không vậy anh? Anh dám chứ?

- Thiệt chứ, anh sợ ai nào?

Cô cười khanh khách...

- Thôi, mệt rồi. Em biết bọn đàn ông thường đem cái chết ra để chứng tỏ tình yêu mà. Anh không cần lấy chiêu cũ rích này ra dỗ ngọt em đâu.

Đang cười, nhìn cô, gương mặt anh bỗng trở nên lạnh đi.

- Vậy là em không tin anh.

Cô gật đầu.

Anh thấy vậy, buông ta ra khỏi eo cô, quay mặt nhìn về xa xăm

- Thế thì anh sẽ làm để em tin.

Cô chả thèm bận tâm. Bởi anh là thế, luôn chiều theo những yêu cầu và suy nghĩ kỳ hoặc của cô. Ngay cả cái việc điên rồ như chặt hết cây trong vườn, bỏ hết các chậu hoa để chỉ trồng hoa hồng thôi, thế mà anh cũng làm theo chẳng cần bất cứ lý do nào. Anh chỉ bảo rằng: “Khi nào em muốn hái hoa, phải gọi anh đó nhé. Gai hoa hồng sắc lắm. Nó đâm vào là nhức cả sương đấy”. Lúc đó cô bướng bỉnh trả lời lại: “Ứ! Nhưng em thích thì sao? Vả lại chả lẽ anh phải ở cạnh em suốt đời ư?” – Anh trả lời: “Ừ! Anh sẽ luôn ở cạnh em”.

.... Đang suy nghĩ bâng quơ, thì một cơn gió đêm chợt ùa vào, mang theo chút hương hoa hồng thoang thoảng. Lạ thật, sao hương hoa đêm nay nồng nàn đến thế. Cô thầm nghĩ, giá mà mình có thể đắm chìm vào hương hoa này mà không để vướng bận điều gì thì tuyệt biết bao. Nghĩ là làm, cô leo qua bệ cửa sổ phòng mình, để thỏng chân ra ngoài, nhìn xuống vườn hoa bên dưới, những bông hoa hồng nhung giờ đã chuyển sang màu đen thẫm... Cô buông tay vịn khung cửa sổ, quay lại nhìn anh. Cô dọa:

- Em đi tìm cảm giác thật đây... hihi... Tạm biệt anh.

Anh hoảng hốt, mặt mày tái mét... Nhòa người về phía cô... Nhưng giá như..... Giá như cô không đùa, thì cô sẽ không rơi xuống... Giá như anh không đạp phải cái áo đầm cô vứt trên sàn nhà sáng nay... Giá như chiếc cửa sổ ấy đừng quá rộng.. thì ... thì anh đã không nằm trên thảm hoa hồng đầy gai phía dưới... Anh là người ngu ngốc nhất thế gian này, và cái giá mà anh phải trả cho sự ngu ngốc của chính anh là anh đã vĩnh viễn chìm vào giấc ngủ dài, bởi những chấn thương trong não. Có lẽ anh sẽ sống đời sống thực vật mãi mãi... Cô còn nhớ rất rõ, ngày hôm ấy, cả người anh đều bị xây xước bởi gai hoa hồng đâm cả. Cũng từ ngày hôm đó, trong tim cô như có một chiếc gai hoa hồng đâm vậy... đến giờ vẫn chưa thể nào lành lại được...

* * *

- Cả tuần nay, vì sao cô không đến bệnh viện.

Cô hờ hững cầm đóa hoa đồng tiền trên tay và trong đầu hiện lên suy nghĩ: “Vì sao trên đời này lại có loại hoa sặc sỡ sắc màu mà chẳng có hương vị gì như thế nhỉ”. Khi nghe gã nói, cô bỏ bông hoa xuống, và đáp:

- Vì tôi chán.

Gã nhìn cô:

- Cô thật sự thấy chán sao?

Cô không trả lời, cũng chẳng dám nhìn vào mắt anh, chỉ khi quay mặt đi, cô mới khẽ gật đầu. Gã thấy thế, chùi tay vào túi quần, bước đến chiếc bàn nhỏ.

- Vậy thì đã đến lúc kết thúc tất cả rồi.

Cô nghe thế cau mày:

- Đến lúc cái gì?

- Để tất cả ra đi...

Chợt hiểu ý của anh, cô tái mặt, chạy nhanh đến và giật chiếc điện thoại trên tay gã, dập mạnh xuống bàn.

- Ai cho phép anh làm điều đó? Anh là kẻ máu lạnh mà. Dù gì anh ấy cũng là em trai ruột của anh, vậy mà anh lại có thể giết chết nó.

- Chẳng phải là vì cô chán hay sao? Vậy thì việc gì mà cô phải chịu đựng kia chứ? Cô muốn nó sống đời sống thực vật như thế cho đến bao giờ? Nó chẳng thể nào mở mắt ra nhìn cô thêm lần nào nữa, không bao giờ nó có thể gọi tên cô nữa... Thế thì hãy để nó ra đi còn hơn. Cô mới là người nhẫn tâm, cô nhẫn tâm để nó sống không bằng chết như thế đến bao giờ nữa?

Cổ họng cô như nghẹ đắng, môi cô run rẩy chẳng nói nên lời. Đúng, từ lâu rồi, anh đã không thể gọi tên cô, không thể nhìn thấy cô, không thể ôm eo cô. Anh giờ là một gã đàn ông vô cùng tệ hại. Anh là kẻ nói dối. Anh đã hứa sẽ trở về kể lại cho cô nghe về cái chết. Thế mà... anh đã đi rồi không bao giờ trở lại nữa. Anh mặc kệ cô có bao người đàn ông khác vây quanh....

Gã bán hoa nói tiếp:

- Sao cô không nói gì đi chứ? Nói ra sẽ giúp cô nhẹ nhàng hơn không phải sao? Cô sẽ không cần phải ray rứt khi đến với bất cứ người đàn ông nào khác.

- Không... Không... Tôi không muốn, không thích...

Rồi cô quay người, bỏ chảy... Những bước chân như xô vào nhau... Cô phải chạy thật nhanh về nhà, không thì cô sẽ quỵ trên đường mất.

* * *

Dãy hành lang bệnh viện thật dài. Dù cho cô có đến đây hàng trăm lần, hàng nghìn lần thì cũng vậy. Mỗi lần cô mang trên mình những tâm trạng khác nhau, và bao giờ cô cũng thấy dãy hành lang này dài thêm một chút. Cuối dãy hàng lang là dãy phòng săn sóc đặc biệt. Cô đứng đó, lặng người, nhìn theo cánh cửa phòng... Anh – người cô yêu đang ở trong đó. Cảm giác chết lặng như thế nào bạn nhỉ? Chẳng biết nó có kinh khủng hơn cảm giác một điều gì đó đang bò trong từng thớ thịt của cô lúc nào không? Cô đã từng mơ ước biết bao những trang viết của mình sẽ có một điều gì đó “chân thực”. Cô bướng bỉnh, đòi có những trải nghiệm mà trong đời người này ta chỉ có thể trải qua một lần mà thôi... Và đúng như những người đàn ông đã tiếp xúc với cô, họ luôn đi ra phòng cô sau vài phút. Bởi cô điên rồi.

Cô cố dùng hết sức để đẩy cánh cửa nặng nề kia. Và chợt thấy anh nằm một góc phòng. Vẻ đẹp hiền lành, trong giấc ngủ bình an giữa căn phòng trắng toát. Trên đầu giường có một chiếc tủ nhỏ đựng vật dụng cá nhân, một chậu nhỏ để những đóa hồng vừa mới thay. Cô thầm nghĩ – “chắc là gã”. Rồi cô bước đến, nhìn chầm chầm lên gương mặt anh. Những ngón tay cô mân mê từng góc cạnh trên gương mặt ấy.

- Anh này hư quá rồi đó, để râu ria mọc tùm lum như thế này được sao. Em đã bảo anh bao lần rồi mà, anh không chịu lo gì hết. Thôi để em cạo cho nhé. Một lần nữa thôi đó.

Cô kéo ngăn tủ ra, lắp lưỡi dao cạo vào, thoa kem cạo râu cho anh, tỉ mỉ cạo từng nhát... Cô mỉm cười dịu dàng, nhưng sao nước mắt lại rơi thế này.

- Anh nè, những người đàn ông khác quanh em thật nhạt nhẽo. Chẳng một ai như anh cả, chẳng có ai bằng anh. Không ai xứng đáng ngồi trên những chiếc ghế anh từng ngồi, nằm trên chiếc giường anh từng nằm... Chẳng hiểu sao, mọi lần em nhìn những gã đó ngồi vào những chỗ của anh thì em tức điên lên.

Cô lấy khăn rồi lau một lượt quanh mặt của anh. Cô mân mê những ngón tay của mình trên môi anh. Đôi môi anh giờ lạnh ngắt, khô khốc. Không giống cái lạnh xuất hiện dưới nền gạch cô cảm nhận qua những ngón chân mình mọi khi nhìn qua bệ cửa... Nó ấm áp và mền mại hơn rất nhiều. Cô cúi xuống và hôn lên môi anh.

- Anh nhất định sẽ không bỏ em lại một mình phải không?

* * *

Đêm nay ngoài trời không có gió. Cô ngã người ra bệ cửa, nhìn xuống vườn hoa hồng bên dưới nhưng không ngửi được mùi hương thoang thoảng của hoa hồng.

- Tôi sẽ chỉ cắt gai hoa hồng lần này nữa thôi. Từ nay về sao tôi sẽ không làm điều đó nữa. Bởi hoa hồng không có gai thì đâu phải là hoa đồng phải không? Và tình yêu cũng vậy. Em trai tôi luôn làm những việc ngu ngốc vì nó sợ cô tổn thương...

Gã bán hoa đã nói như thể lần này là lần cuối cùng. Có lẽ vì gã tưởng cô không nghe được câu nói nhỏ cuối cùng của gã.

- Lần sau tôi sẽ cắt nói vì sự ngu ngốc của chính mình.

Cô nghe rõ nhưng cố tình lờ đi, xem như không nghe thấy. Biết làm sao được đây, khi mà cô nhận ra rằng, dù cho có bao nhiêu người đàn ông yêu cô, có bao người theo đuổi cô. Nhưng tự thân cô từ trước cho đến bây giờ chưa biết yêu là thế nào... Cô là một đoá hoa, cũng mang đầy gai, nhưng có lẽ cô không phải là hoa hồng.

Dưới ô cửa sổ, trên thảm hoa hồng, nơi đó có tình yêu của cô, nó cũng đẹp cũng rực rỡ, cũng đầy hương sắc. Cô sẽ chẳng bao giờ biết được cảm giác cái chết như thế nào, còn anh thì sẽ chẳng bao giờ về lại kể cho cô nghe cả. Tình yêu của anh giờ đã hóa thành hương hoa rồi, có chỉ lẫn vào không trung, còn cô thì chẳng thể nào nắm giữ nó được.

- Em sẽ mãi chờ anh tình yêu ạ. Em chờ anh đến trả cho em món nợ, chờ anh về thực hiện lời hứa của mình... Em tin, một ngày nào đó, em sẽ lại gặp anh...

Cô ngước nhìn những ánh sao xa. Trên kia, sau những vì sao ấy là một thiên đường rộng mở, nơi của tình yêu, của sự vĩnh hằng. Và

... Ngày hôm qua, anh đã đến đó

... Ngày hôm qua, cô đã tiễn anh về nơi đó

Bên dưới ô cửa sổ.... thảm hoa hồng đang chuyển động. Còn cô đang nở một nụ cười thật tươi... “Kìa, gió về”

Dường như có một điều gì đó phôi pha trong cô... giờ đây, trong cô chỉ còn anh, tình yêu, và những đóa hoa hồng.


Thứ Tư, 4 tháng 10, 2017

Giàng và ẩn ngôn thời đại







Truyện ngắn: Trần Hạ Tháp





1*

Cuối đông bên một bờ suối Tây nguyên. Hai người: một Kinh, một dân tộc thiểu số. Họ phát hiện đống cành lá ngổn ngang. Một cổ thụ nguyên sinh vừa bị cưa mất trơ ra gốc nham nhở.

Gã dân tộc lưng gùi rau, tay không rời xà-gạc*. Gã giận dữ đi vòng vòng gốc cây. Người Kinh chỉ im lặng quan sát. Hắn mỏi mệt ngồi bó gối trên đá rêu, vai đeo bị rết trong có ít mì tôm và sách vở. Hình như hai người đang cãi cọ. Giọng lơ lớ, người dân tộc hậm hực bằng thứ tiếng Kinh khá sõi:

-Ai ha? Ai ăn căp cây thiêng? Ngươi Kinh hay ngươi dân tôc? Mây noi không biêt. Mây noi lao. Mây không thây ai nhưng ma mây biêt chơ.

Mắt gã rực lên:

-Cai cây ơ vơi chung tao, ơ vơi ban lang lâu lăm rôi. Tư khi ông tao chưa sinh ra kia. Ngươi dân tôc không ăn căp. Nêu ăn căp thi không co cai rưng, không co cai cây thiêng. Ai la thăng ăn căp?

Người Kinh chớp chớp mắt nhìn trời, thở dài im lặng. Gã dân tộc miệng bặm chặt, tay quơ quơ xà-gạc phạt một nhát vào kẻ vô hình trước mặt:

-Co ai lam cai nha cho chung tao ơ không chơ? Chung tao chi co chăt cai cây nho nho lam nha san. Ai ăn căp cây to, cây thiêng đem ban lam giau. Ai ăn căp, noi đi. Ai ăn căp, ha?

Cũng không nghe gì cả, gã cười gằn nheo nheo mắt như chế nhạo:

-Chung tao không cân giau đâu. Không co ăn căp. Chung tao không noi lao. Người giàu không co đô mô hôi thì là ăn cắp. Ăn căp phai nói láo.

Gã người Kinh xốc xốc cái bị rết sách vở, vẫn im lặng. Hắn biết nói ra làm sao? Một khi chỉ có nghe và đồng cảm, ích gì? Nghe cũng đã nghe, đang nghe và sẽ còn nghe mãi… thế thôi. Nhưng rồi gã người Kinh cũng phải mở mồm. Sự thật khôi hài nhưng vẫn là sự thật. Hắn nói câu cũ mèn, nhàu nát:

-Tao biết. Ma Cao, mầy nói đúng. Là cái cây thiêng do người Kinh cưa trộm. Nhưng… không phải người Kinh nào cũng ăn cắp, cũng nói láo. Là lâm tặc. Bọn lâm tặc lộng hành.

Người dân tộc lắc đầu quầy quậy. Hắn không thể hiểu được:

-Cai gi cung tăc tăc... Tăc nhiêu lăm, ha? Đinh tăc, cat tăc, đât tăc rôi lu lut cung tăc, đên thưc phâm co tăc luôn. Vi sao, ha? Con cai tăc nao ghê gơm nưa không? Ở đâu đe ra bon chung chơ?

Gã người Kinh buột miệng:

-Quyền tặc, quốc tặc.

Người dân tộc nhếch mép:

-Bon chung toan đi ăn căp, noi lao. Mây biêt. Mây co đoc sach nhiêu lăm, ha? Tao không đoc.

Gã phì ra bãi nước bọt, chỉ tay vào bị rết:

-Chung tao không muôn gioi, không đoc sach như mây. Co phai mây mang cai sach tăc theo thi vưt đi?

-Không, tao không ưa sách tặc. Tao cũng không giỏi như mầy nói đâu.

Gã người Kinh nhìn xuống đất. Giọng nhỏ dần, bỏ lửng:

-Không, tao không co gioi đâu. Tao…lếu thật nhưng không láo. Tao là thằng quèn nghề hít-bụi-trong-phòng…

-Ê, thăng con trai giup tao lam rây, khi đoi co cai lua ma ăn. Mây cung không chiu cho no bo hoc. Vi sao, ha? Người Kinh đông, nhiêu. Người dân tộc, it nhưng không co tăc. Đoc sach nhiêu lam gi chơ?

Gã hãnh diện, ngúc ngúc cần cổ:

-Nhưng tao biêt noi tiêng Kinh rôi ma. Mây không biêt tiêng dân tôc tao đâu. Tao không ăn căp việc gì noi lao, phải không? Tao không co gioi.

Gã còn nói lại lần nữa:

-Tao và con trai tao, ban lang tao không cân đoc sach.



2*

Gã người Kinh trân trân nhìn gốc cây, hụt hẫng. Như một tập quán lâu ngày, gã đã không cần suy tư nhiều khi đối đãi người dân tộc thiểu số. Nhưng giờ đây… bàng hoàng, chưng hửng. Gã thử nghĩ ngợi ra cái gì đó nhưng thấy toàn chua chát, trống rỗng. Một nỗi cô đơn âm u đùn lên như bóng núi mùa đông. Bi hài kịch…

Gốc cổ thụ thiêng liêng kia loại gỗ gì? vẫn âm thầm ứa nhựa. Rõ ràng chúng đang từ từ tươm ra, bết quánh và dần khô đi trong nỗi chết. Máu của rừng? Hay là loại-máu-thứ-hai của con người lấy nơi đây làm lẽ sống.

Có bao nhiêu vết thương lòng tươm máu? Cội cây và cả con người không khác. Những vết thương lòng cao tuổi-cả-ngàn-năm. Đột nhiên gã dong tay lên trời, nghe ừng ực trong cần cổ loại âm thanh nghẹn tắt…

Người dân tộc thiểu số nhìn theo, dịu giọng gật gù:

-Mây cung tin co Giang* rôi ha? Tôt. Co Giang thât ma. Nhưng thăng ăn căp rôi se bi Giang phat. Ê, mây nhơ chưa, ha? Chi co Giang…

Gã người Kinh thấy người dân tộc chống xà-gạc xuống đất, quỳ một chân bên cội cây và ngửa mặt lên trời. Gã khấn vái thành khẩn:

-Chi có Giang…Chi co Giang…Chỉ co Giang…

Bỗng nhiên gã người Kinh rống lên giữa rừng già âm u. Tiếng dội lại qua bờ cây bụi cỏ:

-Giàng ở đâu? Đâu là Giàng? Chỉ Giàng cho tao. Giàng là ai? Giàng…

Gã dân tộc thả xà-gạc xuống, cả hai tay đưa lên khoắng mạnh vào khoảng không trên đầu để trả lời câu hỏi. Miệng gã vẫn tiếp tục không đổi:

-Chi có Giang. Chi co Giang. Chi co Giang…

Gã người Kinh chợt nín thinh. Hắn hiểu và tôn trọng phút nối kết thiêng liêng của các tộc người thiểu số. Nối kết giữa con người với núi rừng, trời đất, cây cỏ. Giữa tổ tiên khuất mặt với hậu duệ hiện tiền còn khốn quẩn triền miên. Nối kết giữa những ước mơ quá tầm thường với những nghịch cảnh đầy xót xa phi lý… Nối kết giữa cõi trời khô-hoang-lụn-bại với hy vọng còn gượng dậy mỗi ngày để cằn-bò-tồn-tại. Giàng. Ôi, Giàng, trạm trung chuyển cuối cùng giữa những tộc người hoang dã…

Gã người Kinh vùng cười rộ, không còn kiềm hãm nổi. Trong óc hắn hiện ra ý nghĩa bùi ngùi vừa hết sức hoạt kê “ngoài ông Giàng là cái khoảng không sở hữu kia, cuối cùng bọn tặc sẽ nuốt tất để không còn gì nữa cả. Từng thứ, dần dần…từng thứ một. Ê, thế nhưng chúng mầy vẫn cứ hơn tao. Ha ha, chúng mầy còn ông Giàng để vỗ về làm bạn”. Đáy lòng gã dâng trào nỗi niềm khôn tả. Hắn cứ cười khan từng hồi trên đá…

Người dân tộc tỏ ra hài lòng. Gã cũng cười khà khà khi nghe lõm bõm người Kinh kia đều đều một thôi đến mấy chữ Giàng:

-“Chẳng có gì” chỉ có Giàng. “Chẳng có gì” chỉ có Giàng. “Chẳng có gì” chỉ có Giàng. “Chẳng có gì” chỉ có Giàng…

Như một-tình-cờ-bất-khả-thuyết, sâu kín trong ngôn ngữ bình nhật của những người Kinh như hắn, phải chăng? Đã tàng chứa, hoài thai nên bao ẩn ngôn thời đại. Dưới mỗi vết lăn trầm* đi qua, dần phơi bày thứ ẩn ngôn thời đại ấy. Chúng “lái” tâm thức ra khỏi vùng hôn-mê-sâu-sự-thế…



3*

Không biết họ còn nói gì với nhau nữa không? Cho đến khi hai người theo lối mòn trở ra đường lộ. Đã đến lúc chia tay, ai đi đường nấy. Bỗng người Kinh chụp vội tay người dân tộc khiến hắn bực mình cự nự:

-Đi bao uy ban xa phai không. Mây đi nhanh lam gi? Co băt hêt bon lâm tăc không, ha? Tao chan lăm rồi. Co tot gi hơn chơ?

-Không. Ma Cao, tao bảo mầy đi cái khác… Có thêm mầy nữa là ba đứa. Chúng ta uống rượu cần ở nhà Ma Duốn. Đi. Đừng ở đây cãi cọ nhau vô ích.

Người dân tộc trợn mắt chưa tin. Gã ngớ ra giữa đường sau đó gật đầu đồng ý:

-Thê mây không noi như khi giang bai, ha? Lam sao co cai tiên lanh lương?

-Đây mới là tao nói. Chính tao. Giảng bài là cái sách nó bắt nói, không phải tự mình tao ưa thế. Lãnh lương từ tiền thuế người dân đóng góp đấy. Nó không phải ơn huệ ai cho tao, hoặc từ trên trời rơi xuống. Dân cũng như mày và tao vậy thôi, không có thích nghe nói láo. Mầy rõ ràng chưa, hả?

Người dân tộc cười nhe ra răng sún:

-La cai sach nao noi lao mơi la sach tăc chơ? Phải không.

-Đúng, cái truyện khác cái sách. Sách học thì không được nói láo. Nhưng không đọc thì sao biết cái nào tặc hay là không có tặc?

Gã người Kinh vỗ vào vai Ma Cao:

-Con trai mầy phải đọc sách vì thế. Tao không muốn nó bỏ học.



4*

Giữa rừng sâu còn trơ ra gốc cổ thụ. Nước vẫn chảy róc rách bên bờ suối. Cái gốc thiêng, sau nầy đâm chồi lộc hay không? Suối kia cứ thế hay rồi sẽ khô tắt dòng chảy? Câu “mộc bổn thủy nguyên” như một mã khóa còn lại giữa hanh hao, xơ xác.

Vọng lại đâu đó tiếng cồng chiêng khô săn, trần trụi. Thứ tiếng u u giờ đây mang thần-hồn-bải-hoải. Chúng cũng hết trốn tìm, thôi lách luồn qua cõi rộng-tự-ngàn-xưa. Mẹ rừng đâu? Có phải những đứa con ở lại sẽ mồ côi?

Sự tĩnh lặng của rừng già không còn nguyên thủy. Ngay cả đại ngàn mây trắng kia cũng đang trôi dần nhịp phách mênh mang…







Giàng(Yang): ông Trời.

Xà-gạc: vật dụng đặc sắc, đa năng và thiêng liêng của các tộc người thiểu số Tây nguyên.

Vết lăn trầm: một ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn



(Vườn tượng, 12/01/2017)

Trần Hạ Tháp

Thứ Sáu, 11 tháng 8, 2017

QUANH CÁI CHẾT CỦA MỘT CON CHUỘT






Truyện ngắn : Phạm Phú Quãng


Ngồi trong quầy thu ngân, bà chủ tiệm vàng Kim Siêu Tinh lau hai bàn tay nung núc những mỡ bằng một chiếc khăn trắng tinh tươm. Bà lau cổ tay, lau bàn tay, rồi đến các ngón tay. Các ngón tay mập lùn như những quả chuối cau, được thắt ngấn bằng nhiều cái nhẫn, cái thì vàng chóe bằng kim loại, cái thì xanh biếc bằng ngọc thạch. Bà lau rất kỹ. Những chiếc móng tay quét sơn đen bóng trở nên quá nhỏ bé trên các đầu ngón tay mập mạp cũng được bà lau rất kỹ. Bà vừa lau vừa chửi. Bà chửi mấy đứa bán hàng chỉ biết nhấm nháy cái điện thoại nhắn tin đong giai, rồi bà chửi đến lão chồng quý hóa chỉ biết tối ngày nhậu nhẹt say sưa và mang tiền bà đi nướng vào mấy cái chiếu bài. Đó là chưa kể đến một vài lần bà bắt được ông đang nhìn mông, nhìn ngực mấy đứa bán hàng. Bà chửi tất, chửi cả một lũ ăn hại.


***


Chuyện là vậy, là vì cái con chuột nó chết.


***


Nhà bà làm nghề kim hoàn đã bốn đời. Tiền, vàng từ xưa đã nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Cuộc sống sung túc cứ hiển nhiên như là trong chum, trong vại nhà bà. Bà có ném cho ai rồi nó cũng tự tìm đường quay lại.


Thời gian gần đây trong nhà bà xuất hiện một con chuột, loại chuột già rất khó trị. Bà thử đủ mọi cách mà cũng không thành. Nào bẫy, nào keo dính, nào thuốc, đều chẳng ăn nhằm gì, mà bà lại nhất quyết không nuôi mèo. Bà ghét cái thứ luôn luẩn quẩn dưới chân rồi rắc lông khắp nhà. Con chuột thì cứ như con ma nhỏ, thoắt ẩn, thoắt hiện, cắn phá bất cứ thứ gì ăn được. Phàm những hôm nào bà đặt bẫy hoặc bỏ thuốc vào thức ăn thì nó lại cắn thêm của bà vài thứ đồ, như dây quạt, dây nồi cơm điện, giày da, góc sô pha… như muốn trả thù bà. Hết cách, bà đành để mặc, coi như đó là một phần tất yếu bà phải chịu vậy. Để tránh sự phá hoại của nó, hàng ngày bà vứt thức ăn thừa vào góc bếp. Bà không để cho nó đói. Đôi khi bà nghĩ “Dù sao cũng còn đỡ hơn cái lão chồng vô tích sự kia. Từ lúc bước chân về làm rể trong nhà bà, lão chẳng làm nên trò trống gì ngoài việc phá tiền của bố mẹ bà, rồi bây giờ là tiền bà”.


***


Ngày trước bà gặp lão thì lão đang thuộc vào hàng quý hiếm. Lão là vận động viên boxing chưa có lấy một trận thua trên sân nhà, lại đẹp trai, nhất là khoản giường chiếu thì thuộc đẳng cấp súc vật. Bà chết mê, chết mệt lão ở cái khoản này. Bố mẹ bà thì trăm đường ngăn cản, ngay hôm đầu tiên dẫn chàng về ra mắt, khách vừa bước ra khỏi cổng thì bố mẹ bà đã đóng cửa buồng và nói với con gái:


– Thiếu gì đàn ông mà lại rước cái thứ lưng dài đầu ngắn như vậy về làm chồng? Gia đình ta ba đời kinh doanh phát đạt cũng bởi luôn có người đàn ông chịu khó, giỏi giang. Bố mẹ nhìn anh ta không phải là kiểu người đó, con lại là con một.


Bà vẫn cưới lão về làm chồng, cung phụng lão. Giờ nghĩ lại bà thấy bố mẹ bà quả là lõi cái sự đời. Sự nghiệp huy hoàng của chồng bà vụt tắt chỉ sau một vài trận thua, một vài lần bị đối xử bất công, mà trong cái ngành thể thao thì kẻ cầm cân nghiêng nhiều gấp trăm lần người cầm cân thẳng. Uất ức, chồng bà lao vào uống rượu, cờ bạc. Cực chẳng đã, bố mẹ bà lại phải dốc tiền ra trả nợ cờ bạc, rồi dốc tiền ra mua lại hai chữ “công bằng” cho chàng rể quý. Nào ngờ khi đã có hai chữ “công bằng” lận lưng quần, khi không còn sợ bị đối xử bất công nữa thì chồng bà lại không còn nằm trên đỉnh cao của phong độ. Con ma cờ bạc và cụ Lưu Linh đã đưa đường dẫn lối chồng bà sang bên kia dốc đồi. Thua thêm vài trận, chồng bà đã hoàn toàn biến thành một con người khác. Một con nghiện cờ bạc, một kẻ nát rượu. Mà cay đắng hơn cả là cái thứ bà cần nhất, cái đẳng cấp súc vật kia cũng bị cụ Lưu Linh đem làm cái vòi xả rượu mất rồi. Con bò tót hung hãn ngày nào giờ chỉ đáng là con đỉa. Bà lại đang lúc phơi phới xuân thì. Thế rồi không để cho bố mẹ bà buồn, để quên đi cái cục vô tích sự hằng đêm vẫn phả hơi rượu nồng nặc vào mặt bà mà miệng nói mê kêu con Bát sách, con Cửu vạn, bà lao vào học kinh doanh, bà làm tiền. Vậy mà bà quên được thật, bà tìm được niềm vui trong việc kiếm tiền. Chỉ có điều bà làm thì chồng bà phá. Nhưng cũng không sao, bà vẫn kiếm đủ cho lão phá, miễn đừng mèo mả gà đồng, đừng trai trên gái dưới là bà nhắm mắt cho qua.


***


Sắp đến Trung Thu, hôm qua bà đi mua bánh. Còn phải lễ lạt cho ông Quan, ông Đội nữa chứ. Cái thời buổi kinh tế khó khăn này, nghề vàng cũng lao đao lắm, thêm vào đó Nhà nước lại siết chặt. Bà phải xoay sang buôn xanh, buôn ngoại tệ, làm dịch vụ chuyển Đô la, tiền mặt… Làm chui. Vậy nên phải lễ lạt, phải lạy. Bà mua rất nhiều bánh ngon, hiệu Long Đình. Mỗi hộp lên tới gần năm triệu đồng. Về đút thêm phong bì, phong bao rồi cho vào ngăn tủ, định bụng sáng hôm sau sẽ đi phát. Nào ngờ khi đóng cánh tủ, bà không để ý, có một hộp bánh kênh ra ngoài, cánh tủ khép vào không hết.


Sáng ra bà như phát điên khi mở tủ. Các túi quà bị cắn nham nhở, các hộp bánh thượng hạng chẳng còn cái nào nguyên vẹn. Đến các phong bì chứa đầy tờ năm trăm nghìn cũng bị cắn rách tứ tung. Giữa cái mớ hỗn độn đó là một con chuột mắt lờ đờ đang nằm thở thoi thóp. Nó béo nẫn, sạch sẽ, bộ lông mượt mà. Một con chuột nhà giàu. Nhưng nó sắp chết. Bà gọi mấy đứa bán hàng, đứa nào cũng bảo sợ chuột. Chúng nó bảo bà vứt con chuột đi thì mới dám dọn. Bà gọi lão chồng, lão còn bận nhâm nhi cốc rượu suông thay cho việc đánh răng rửa mặt buổi sáng. Lè nhè lão nói:


– Bà tự đi mà làm, việc đ. gì phải mua cả đống bánh về để cho chuột nó ăn rồi lại bắt người khác phải dọn.


Phần thì tiếc của, phần thì tiếc công đi mua, đi chọn. Nén cục tức, bà xé tờ báo, một tay cầm đuôi con chuột, một tay xách chiếc ví tiền. Bà đi vứt. Bước ra khỏi cửa nhà bà là mặt đường Hàng Đào tấp nập người xe qua lại. Ngay trước mặt cửa hàng, xuống hết vỉa hè là chiếc miệng cống đen ngòm hôi hám. Phía bên kia đường, dưới chân chiếc biển chờ xe buýt là chiếc thùng rác công cộng. Một thằng bé gầy gò, lấm lem đang dựa lưng vào đó mà ngủ. Chiếc nón lá thủng lỗ chỗ cũng lấm lem như nó úp trên mặt. Một manh áo rách tơi tả không che được cái bụng dẹp lép đang thoi thóp thở với những cái xương sườn. Tay nó giữ khư khư một chiếc ca nhựa loang lổ bẩn có vài đồng tiền lẻ bên trong. Bà xách con chuột đi qua đường, định bụng sẽ ném nó vào thùng rác. Vừa lúc đang đến giữa đường thì một chuếc xe buýt trờ tới. Mùi khói dầu và hơi nóng của nó phả vào người bà. Liếc nhìn chẳng thấy ai để ý, bà liền vứt con chuột xuống đường rồi vội bước quay lại. Cũng đúng lúc đó hai cô bán hàng bê chiếc chậu đựng những cái bánh Trung Thu thượng hạng bị chuột cắn ra đến đường. Một chút tần ngần rồi đổ ụp xuống miệng cống.


***


Bên kia đường thằng bé đã tỉnh giấc. Mùi khói dầu và hơi nóng của chiếc xe buýt đã đánh thức nó. Gỡ chiếc nón ra khỏi mặt, nó dụi mắt nhìn vào chiếc ca nhựa. Vẫn chỉ có một đồng một nghìn và hai đồng năm trăm nhàu nát nó đã tự bỏ vào từ sáng hôm qua. Mặc dù chịu đói cả ngày, nhưng nó vẫn quyết giữ cho bằng được ba tờ tiền nhàu nát này. Đó là tiền mồi. Sau một thời gian hành nghề, nó biết phải có tiền mồi, phải có cái để cho người ta còn biết là nó xin gì. Phải bôi bẩn, phải ăn mặc rách rưới, phải ngủ ở những nơi tồi tàn nhưng lắm người qua lại. Chỗ này là một nơi lý tưởng, chí ít ra thì sáng hôm qua khi mới tới đây nó cũng nghĩ vậy. Nhất là lại nằm vào giữa khu đông đúc những người giàu có, những cửa hàng to đẹp với bao nhiêu là đèn màu xanh đỏ như thế này. Nhưng có lẽ nó đã lầm. Nó buồn bã nghe tiếng réo rắt của bụng nó xen lẫn với tiếng xe, tiếng người. Nó rời mắt khỏi chiếc ca nhựa, ngước nhìn ra đường. Nó thấy con chuột với cái bụng căng phình nằm giữa lòng đường đang nhìn nó, một cái nhìn yếu ớt. Nó thấy một cặp mông nẫn mỡ đang ngọ ngoạy xa dần sang phía bên kia đường. Thấy hai cô bán hàng đang nghiêng cái chậu bánh xuống miệng cống. Nó vùng dậy hét lên:


– Đừng!


Nhưng đã muộn, cả chậu bánh đã tuồn vào trong miệng cống. Cả thằng bé, bà chủ tiệm vàng và hai cô bán hàng đều giật mình. Nó giật mình vì tiếc chậu bánh. Hai cô bán hàng giật mình vì một điều vụng trộm bị phơi bày. Bà chủ tiệm vàng giật mình vì một lý do khác. Chẳng là khi bà vừa bước chân xuống lòng đường, cái cục tức vẫn còn nằm ngang cổ họng thì bà sực nhớ tới thằng bé ăn xin. Nó đã nằm cạnh cái thùng rác bên kia đường suốt từ sáng ngày hôm qua, bà biết vậy nên bà tránh, bà không đi sang bên kia đường. Vừa rồi giận quá làm bà quên mất, tay bà lại còn cầm ví tiền, bà lại là người giàu có. Chẳng lẽ sang tới đó lại không cho thằng bé lấy một vài đồng. Thật may, đúng lúc chiếc xe buýt xuất hiện, tấm bình phong cho bà víu xuất hiện. Bà liền giả vờ bịt mũi nhăn mặt ném con chuột xuống đường và quay lại. Tiếng hét của thằng bé như nói với bà “Bà đừng giả vờ nữa. Tôi thấy rồi, tôi biết hết rồi”. Bà lấm lét quay lại nhìn. Vẻ mặt thất vọng và ánh mắt tiếc rẻ của thằng bé hướng về cái miệng cống làm bà thấy yên tâm. Vậy là nó tiếc chỗ bánh. Vậy là nó không biết.


Vào nhà, rửa tay thật kỹ rồi bà ra quầy thu ngân. Hình ảnh con chuột với cái bụng căng phình, hơi thở thoi thóp, hình ảnh thằng bé gầy gò ốm yếu với cái bụng cũng dẹp lép và thoi thóp, hình ảnh cái chậu chứa đầy bánh Trung Thu, cứ quay quẩn trong óc bà. Bà lấy tiền ra đếm, rồi bà lấy sổ bán hàng ra xem. Chúng vẫn quay cuồng trong óc bà. Bẩn quá, nhớp nháp quá. Bà dẹp tiền, dẹp sổ, lấy chiếc khăn tay. Bà lau mặt, lau tay. Hồ như muốn lau đi tất cả những hình ảnh cứ quẩn quanh đó. Rồi bà dừng lau, vẻ mặt thoáng chút tiếc rẻ. Không ai biết bà tiếc rẻ điều gì? Chỉ nghe sau đó tiếng bà lanh lảnh. Bà chửi mấy đứa bán hàng, rồi bà chửi lão chồng vô tích sự.


Bên kia đường, thằng bé đã thôi không nhìn vào cái miệng cống. Nó cố quên đi những cái bánh Trung Thu trong cái chậu. Miệng nó tứa đầy nước bọt. Nó nhìn con chuột. Con chuột vẫn nằm đó, vẫn thở thoi thóp. Những chiếc xe vẫn tấp nập qua lại, vẫn chưa một chiếc nào chèn lên con chuột. Thằng bé đứng dậy, úp cái nón rách lên đầu, nhặt mấy đồng tiền lẻ trong ca nhựa đút vào túi quần rồi cầm chiếc ca đi về phía con chuột. Nó định bụng sẽ mang con chuột bỏ vào thùng rác. Vừa được vài bước chân, nó nghe tiếng nổ “bụp”. Một chiếc ô tô vừa chèn qua con chuột. Con chuột bẹp dí như một con khô mực, nhầy nhụa những máu. Xung quanh cơ man nào là trứng, là hạt sen, đậu xanh, thịt mỡ… làm nhân bánh. Thứ bánh thượng hảo hạng của Long Đình. Thằng bé quay mặt, lén nuốt nước bọt rồi đổi hướng chân đi. Ánh mắt nó ngời lên rồi chùng lại.






Một tấn trò đời khốn nạn, một vở diễn thương tâm vừa diễn ra ngay nơi giàu có bậc nhất Thủ Đô, nơi giá tiền một mét đất có thể nuôi sống được cả một gia đình nông dân suốt ba thế hệ. Không một ai xem, chẳng một ai chú ý. Chỉ duy nhất một thứ vẫn còn chú ý. Đó là con chuột, hay đúng hơn là linh hồn con chuột, đang vắt vẻo trên đầu cột biển chờ xe buýt. Nó nhẹ nhàng bay sang tiệm vàng Kim Siêu Tinh, nhẹ nhàng chui vào đầu bà chủ tiệm. Nó gặp và hỏi con Suy Nghĩ:


– Sao bà chủ có vẻ tiếc nuối điều gì?


Con Suy Nghĩ trả lời:


– Bà tiếc vì nếu nghĩ ra sớm thì gọi thằng bé ăn xin vào cho nó chỗ bánh chuột gặm đó rồi bảo nó dọn cho. Vừa không phải bẩn tay lại được tiếng cho người nghèo mà vẫn không tốn tiền.


Linh hồn con chuột lại nhẹ nhàng chui ra khỏi đầu bà chủ tiệm vàng, nhẹ nhàng bay sang đường và chui vào đầu thằng bé ăn xin. Nó lại tìm gặp con Suy Nghĩ và hỏi:


– Sao ánh mắt thằng bé lại sáng lên?


Con Suy Nghĩ trả lời:


– Tại vì thằng bé vừa rút ra được một bài học mới. “Không ăn xin ở nơi có nhiều người giàu”.


Linh hồn con chuột lại hỏi:


– Vậy sao mắt thằng bé lại chùng lại nhanh thế?


Con Suy Nghĩ trả lời:


– Tại vì nó nghĩ đến cái đói.


Linh hồn con chuột lại nhẹ nhàng bay ra khỏi đầu thằng bé, nó đậu lên đầu cột biển báo xe buýt và nghĩ. Nó nghĩ về cái chết của con chuột, kiếp trước của nó. Đến giờ nó vẫn không thể hiểu tại sao nó chết? Chết vì ăn quá nhiều bánh Trung Thu hay vì ăn phải những đồng giấy bạc? Rõ ràng đêm hôm trước nó nghe bà chủ tiệm vàng nói “Các ông Quan, ông Đội thì từng này chứ mười lần thế các ông cũng nuốt hết”, vậy mà nó chỉ mới ăn được có một góc mà đã chết. Nó tự nhủ sẽ tìm gặp cho được ông Quan, ông Đội. Phải hỏi cho được cách ăn, cách nuốt. Vì nó nghe nói rằng nếu biết cách ăn, cách nuốt, lại có sẵn bản chất hay chui lủi, không sợ bẩn của loài gặm nhấm nó sẽ được đầu thai làm ông Quan, ông Đội. Mà làm ông Quan, ông Đội thì còn gì bằng!

Thứ Sáu, 28 tháng 7, 2017

Nơi thời gian dừng lại






Truyện ngắn của Trương Thái Du




. Phải khẳng định tôi là kẻ vô thần. Tôi không tin dị đoan, ma quỷ, tiên thánh. Do đó chiếc xích đu nằm giữa vuông sân trời rộng và kín gió, tôi đặt tên là cỗ máy vĩnh cửu. Chẳng liên tục nhưng thi thoảng chiếc xích đu lại tự đưa đẩy như có người đang ngồi chơi, mà không vì một lý do cơ học rõ ràng nào.


Khu tôi ở vốn đã yên tịnh, vườn cây lưu niên hàng ngàn thước vuông xung quanh càng tách biệt căn nhà với thế giới xung quanh. Những đêm trăng thanh vắng tôi thường không ngủ được vì chiếc xích đu cứ kẽo kẹt mãi. Sân trời cỡ một sảnh khách lớn, ba phía đều có cửa phòng hoặc cửa sổ trổ ra, từ những mảng tường đá rửa hồng xám. Hàng lan can sắt nhìn xuống thảm cỏ bên hông. Bể đất to và sâu kéo dài suốt chiều dọc sân, đầu giáp lan can có bụi hoàng anh già cỗi xù xì leo lên những chiếc lam bê tông trang trí bên trên.


Hoa hoàng anh màu vàng ươm, gần giống hoa loa kèn. Khi lìa cành rơi xuống nó tạo nên những tiếng động tinh tế như bước chân tố nữ. Lá hoàng anh già cũng màu vàng. Đầu mùa khô, các xoáy gió đêm hiếm hoi sẽ khiến lá rụng hàng loạt. Chúng thường mông lung gợi hình tà áo mỏng liêu trai, xoắn xuýt quanh chiếc xích đu.


Thấy tôi đi sớm về khuya, thui thủi một mình, chòm xóm đồn nhà tôi bị ma ám. Họ thầm thì về những tiếng cười xé vải hun hút đêm sâu, tiếng đàn tranh rin rít từng tràng ai oán, tiếng cú rúc, tiếng chim lợn eng éc báo điềm xấu… Họ bảo không bị dớp ấy thì căn nhà đã đổi chủ xoành xoạch mỗi bận bất động sản nóng sốt, y như các khuôn viên xung quanh. Tôi từng đuổi không biết bao nhiêu là cò đất lâu lâu đến quấy rầy, nghe ngóng, dụ dỗ. Người ta không tin tôi, trơ tráo ngả giá mua số điện thoại của chủ nhân thực sự.




. *Tòa biệt thự xưa cũ, xây dựng theo phong cách Mỹ cuối thập niên 1960 mà tôi đang ở là tài sản tôi thừa kế từ người chú ruột quá cố. Chú vốn là sĩ quan quân y chế độ cũ. Cha tôi không thèm nhìn mặt chú. Ông ghét em trai một, ghét em dâu mười. Thím tôi bị gọi là đứa tiểu tư sản õng ẹo đồng bóng. Tập kết về, gia đình tôi ở chung với ông bà nội đã gần đất xa trời. Nhà chú cạnh bên.


Năm 1978 thím dắt con, dứt áo vượt biên cùng bạn tình. Học tập xong, chú tôi bán nhà nơi trung tâm thành phố. Ông lóc cóc đạp xe qua cầu Sài Gòn tìm chốn ẩn mình. Mẹ tôi đoán chú vẫn còn của chìm nhưng giả bộ cuốc đất trồng rau, nuôi gà vịt, sống chay tịnh tự cung tự cấp và cắt hết giao tiếp với xã hội.


Thời gian rong ruổi. Cha mẹ tôi về với tổ tiên. Anh hai tôi thành đại gia tiền muôn bạc vạn. Tôi khù khờ nhút nhát nên được anh lo cho chân thủ thư, sống như một chiếc bóng. Chị dâu hay nửa đùa nửa thật bảo tôi là âm bản, là thái cực cân bằng với thành đạt, thông minh, khôn khéo, thức thời của anh trai tôi.


Giỗ đầu cha tôi, anh hai không hiểu làm cách nào đón được chú đến thắp nhang. Từ đó anh cử hẳn một bà vú già trong gia đình qua chăm sóc chú đến cuối đời. Chú mất, di chúc bắt tôi phải giữ nguyên trạng ngôi nhà trong ít nhất hai mươi năm, sau đó muốn làm gì thì tùy. Chị dâu bực bội hỏi đào đâu ra tiền trước bạ. Tôi bảo anh hai đứng tên nhà cũng được. Anh mắng tôi ngu, anh tin tôi chứ không tin vợ. Tôi phải ký giấy tặng riêng anh phần di sản của bố mẹ, tức nửa căn nhà ông bà nội để lại.


Số là dạo ấy anh chị đang bất hòa. Lâu lâu anh lại dọa chị rằng người xưa đã bảo “Giàu đổi bạn – Sang đổi vợ”. Chị nổi khùng hoài, nhưng dần dần cũng thỏa hiệp được. Anh hai bay nhẩy, trăng hoa kín hơn. Chị ở nhà giả tảng không nghe, không biết, tự tìm thú vui như lễ chùa, tụ tập bạn bè cùng trang lứa.




* Hai người khách tỏ vẻ áy náy rất thật vì làm phiền tôi trong ngày nghỉ cuối tuần. Hóa ra đây là tổ ấm cũ của họ. Bao năm xa xứ họ luôn bị thôi thúc trở về. Cây cối lớn vống lên. Riêng tòa nhà chẳng mấy đổi thay, cứ như một phần tư thế kỷ chỉ là chớp mắt.


Tôi dắt họ đi thăm mọi ngóc ngách. Chỗ nào họ cũng qua loa, chỉ trừ vuông sân trời có chiếc xích đu. Vừa bước qua cửa, bà vợ đã đổ sụp xuống bên bể đất trồng hoa. Ông chồng lặng lẽ gạt nước mắt, cúi mái đầu hoa râm phai thuốc nhuộm đỡ vợ dậy.


Cuối tháng Tư năm ấy, một mảnh đạn pháo lạc từ xa lộ đầu cầu Sài Gòn đã cướp đi đứa con gái bé bỏng vừa qua tuổi dậy thì của họ. Cô gục xuống bên chiếc xích đu sơn màu xanh hòa bình. Cha mẹ cô chỉ kịp gói gém thi thể trinh nữ trong mấy lớp ni lông rồi chôn tạm giữa bể đất, trước khi di tản.


Một lọ hoa, hai chung nước lọc và ba cây nhang cùng không khí đặc quánh xung quanh tạo nên lễ cải táng câm lặng nhưng đầy màu sắc tâm linh thần bí. Chúng tôi không nỡ dùng các dụng cụ đào bới như bay thợ hồ hoặc cuốc và xẻng nhỏ. Ba mươi đầu ngón tay trần cào vơi dần khoảng giữa bể đất để thăm dò. Gần đến đáy xi măng, khối rễ hoàng anh chằng chịt làm bật móng tay ông khách. Máu đỏ thấm ướt đất. Chưa kịp đau đớn, ông đã cuống cuồng hoảng hốt vì không thấy gì.


Mọi người nín thinh, tiếp tục bới, hất hết đất đen ra ngoài.


Điều kỳ lạ chỉ lộ diện khi niềm hy vọng sắp tắt. Chiếc tiểu sành màu da lươn. Xương cốt xếp đặt rất ngay ngắn. Hộp sọ thon nhỏ, có lẽ của khuôn mặt trái xoan. Mảnh đạn pháo hình lưỡi rìu chém vào thái dương vẫn còn kẹt lại.


Nắp cao su dẻo kín nước của chiếc vỏ chai thuốc pênêxilin được cậy ra. Mấy dòng chữ nhòe nhoẹt của chú tôi, mực dầu tái chế, bút Bic chắc đã thay bi mấy lần: Định dùng bể đất làm hồ nuôi cá trê phi thì phát hiện đây là một ngôi mộ. Xin thân nhân người quá cố lượng thứ. Ngày x tháng y năm 1982.




* Hai anh em tôi sống tương đối ít va chạm. Tôi luôn nghe lời anh. Trước kia vài ba lần anh cho tôi tiền xài. Tôi không khi nào nhận. Anh chả cần hỏi cũng biết tôi đơn giản lắm. Không rượu chè, cờ bạc, cà phê cà pháo, tôi chỉ thích sách thì tiền khác nào giấy lộn. Sách trong mấy tầng lầu thư viện, hằng tháng chiêu nạp thêm cơ man bản in lưu chiểu mới nhất, tôi đọc đến kiếp sau cũng chưa hết.


Anh thấy tôi vô duyên trên đường tình nên bổn cũ soạn lại. Anh kiếm đâu ra một cô giúp việc sạch sẽ, trẻ trung gửi vào nhà tôi. Đêm đầu tiên như có ma phá. Chiếc xích đu rên xiết. Cô giúp việc mê ngủ la hét rùm trời. Tôi dậy bật đèn, gõ cửa phòng gia nhân. Cô giúp việc ôm tôi khóc rưng rức. Cô bảo vừa thấy ác mộng cũ.


Học hết phổ thông, một bà cùng quê dỗ ngon dỗ ngọt cô vào Sài Gòn. Gia đình cô đến có ba nhân khẩu. Hai ông bà già lương hưu rất hậu. Cậu út của họ mắc bệnh đao, luôn mặc độc mỗi chiếc quần đùi trễ rốn, rong chơi đầu trên xóm dưới, gặp ai cũng chửi. Mấy năm nay hắn giở chứng, cứ giục mẹ lấy vợ cho.


Đêm đầu tiên cô đến nơi ở mới, cậu kia trần truồng nạy cửa phòng đòi hợp cẩn. Cô gào khóc, cấu véo, cắn xé. Mãi sau mới thấy ông chủ trên lầu hét gọi quý tử. Cô bỏ trốn, tìm chị bạn đồng hương làm tại nhà anh tôi. Cô thật thà bảo anh tôi đã nói trắng rằng tôi không tâm thần, chỉ tội tồ quá, con gái thành phố chẳng để mắt tới. Nếu cô dụ được tôi, anh sẽ lo tất, sẽ tặng bố mẹ cô ngoài bắc một căn nhà mái bằng.


Tôi bảo tôi rất quý cô, mới gặp đã thấy quý. Từ khi dọn đến biệt thự này, trong đầu tôi luôn có cảm giác đã lập gia đình. Ở chung với cô tôi rất ngại. Tôi nhờ ông già bảo vệ nhà Tây thuê cạnh bên kiếm cho cô công việc lau dọn. Lương tàm tạm, đủ để cô tìm một chỗ trọ tồi tàn và hàng tháng giúp cha mẹ chút ít. Chưa đầy năm, cô hớn hở mời tôi dự đám cưới. Chồng cô là lái xe của chủ nhà.


5. Mấy đứa cháu con anh tôi đều du học tự túc ở Mỹ cả. Năm kia tôi nhờ chúng chuyển ít quà cho ông bà Việt Kiều già. Chúng kể họ sống đạm bạc, lẻ loi và cô độc lắm. Ông bà có tất cả bốn người con. Cô hai dính hòn tên mũi đạn. Ngày di tản cậu ba dạt theo bên ngoại, lỡ chuyến. Cuối năm ấy cậu cũng yểu mệnh, chết vì đói và khát trong những ngày lênh đênh vượt biển. Ông bà trách hai người sinh tại Mỹ mất gốc, đã Mỹ hóa hoàn toàn. Cũng vì cả gia đình sống biệt lập ở một tiểu bang không có cộng đồng Việt Nam đông đảo. Ông bà ao ước dăm năm nữa sẽ về Sài Gòn dưỡng già. Họ hỏi cháu tôi năm mươi ngàn Mỹ kim dành dụm của họ có mua nổi một căn nhà tàm tạm không, càng gần tôi càng tốt. Tự lúc nào họ đã thầm xem, thầm ước tôi là con là rể họ.


Anh tôi và chị dâu, nghe bảo hay kể công với đống vàng cạnh cầu Sài Gòn. Cháu tôi không vừa ý, chúng cảnh báo người làm ăn buôn bán nên biết điều với âm hồn trinh nữ trẻ. Theo chúng, căn nhà cũ của ông bà để lại mà anh chị đang cho thuê, mặt tiền một quận trung tâm, cũng chẳng làm họ thiệt thòi. Tôi nào hay biết nhưng đám cháu khôn đáo để, chúng ước lượng nhà của tôi bây giờ giá hàng triệu Mỹ kim. Tôi bảo chú già rồi, tiền bạc không biết tiêu, không biết tính, mai này để lại cho các cháu tất. Chúng cười tôi cả nghĩ xa xôi, bố chúng giàu lắm lắm, tôi không tưởng tượng nổi đâu. Xe cộ, nhà cửa anh tôi sắm cho chúng bên Mỹ, dù chỉ ở tạm mấy năm học, cũng làm cho triệu phú Mỹ phải tròn mắt.




* Từ ngày qui định bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy, tôi đổi chiếc Honda 81 giọt lệ kim vàng lấy một chiếc xe đạp điện Đài Loan. Thế mà hay, quãng đường tôi đến thư viện làm việc thường nhật thành ra có sức sống hơn. Lúc nào thích thì tôi tắt động cơ, nhấn bàn đạp cho săn gân cốt.


Tôi bỗng thấy yêu đời. Những đêm trăng thanh tôi không còn trốn trong phòng và nổi gai ốc vì nghe tiếng xích đu kẽo kẹt nữa. Tôi ra hẳn đấy, vừa đọc sách vừa thưởng trà bắc ủ hoa nhài tươi hái ngay trong bể đất. Có khi tôi thắp một nén hương trầm dìu dịu. Các vòng khói tròn quấn quít bức ảnh khắc đá dán đè lên tường đá rửa. Cô bé có cái nhìn thật lương thiện. Cô bằng tuổi tôi nhưng vẻ thanh xuân mãi mãi dừng lại ở khoảng khắc oan nghiệt năm nào.

Thứ Bảy, 8 tháng 7, 2017

BÊN BỜ VỰC









Từ Thức







Hai người lên tới đỉnh núi lúc trời vừa nhá nhem tối. Gã thanh niên vạm vỡ đứng ôm bụng thở dốc, mồ hôi chẩy trên mặt như giọt mưa. Người đồng hành, một ông già râu tóc bạc phơ, y phục, phong thái đạo sĩ, đứng ung dung ngắm cảnh, nhàn hạ như vừa xong một tuần trà.

Gã thanh niên nhìn vách núi dựng đứng, chân núi thăm thẳm, mất hút trong mây mù, nói, hổn hển :

-Con sợ thầy thực. Leo núi suốt từ sáng mà không biết mệt. Không biết bao giờ con mới tập luyện được như vậy.

Lão trượng vuốt râu, cả cười :

-Cần nhất là đừng sốt ruột. Phải tập luyện mỗi ngày, nhưng không tìm cách đốt giai đoạn. Một ông tướng nổi danh nói với binh sỉ : hãy đi từ từ, chúng ta gấp lắm đẩy.



Trăng lên, sáng vằng vặc. Sâu hút dưới chân vưc là một con sông uốn éo như rắn, chan hoà ánh trăng. Một hai chiếc thuyền neo bên bờ sông, nhỏ bé xinh xắn như những chiếc thuyền giấy của trẻ con. Gã thanh niên cất tiếng ngâm :

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Lão trượng đang nửa tỉnh, nửa thức, ngạc nhiên, hỏi :

-Con biết tiếng Việt ?

-Thầy quên con là một chuyên viên về cổ ngữ ?

Ông già cả cười :

-Quả thực, nhiều lúc thầy quên con đã trưởng thành, đã là một học giả có tên tuổi. Ngày nay, ít ai còn biết tiếng Việt

Thời gian đi vùn vụt.Trong đầu ông già, gã học trò vẫn còn là một chú nhỏ chạy lăng quăng trong sân nhà, hay ngủ gà ngủ gật giữa những buổi học kéo dài trong cái nóng nực của trưa hè. Mới như hôm qua, cái buổi sáng người ta trao cho ông một hài nhi còn đỏ hỏn ai đem bỏ trước cổng nhà từ lúc đất trời choạng vạng.

Một lần trong một thư viện lớn, ông thấy một nhóm sinh viên chúi đầu nghiên cứu, trên bàn cả một đống sách dầy cộm mang tên tác giả là người học trò thân yêu của mình. Ông vừa kiêu hãnh, vừa xúc động, vừa bàng hoàng , ý thức rằng đứa học trò nhỏ ngày nay đã dần dần vuột khỏi tay mình, đã thành một học giả có uy tín.

Ông già nói :

-Câu thơ đẹp quá , nhất là trong cái đêm trăng như đêm nay.

Bắt chước học trò, ông lên tiếng ngâm, giọng sang sảng :

Sao anh không về chơi thôn Vỹ

Nhìn nắng hoàng hôn nắng mới lên

Vườn ai mượt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió lên lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay…

Và tiếp :

-Hồi nhỏ, có lần thầy ghé thăm cái thành phố ngày xưa tên là Huế, thăm thôn Vỹ nhưng Huế không còn là Huế, thôn Vỹ không còn là thôn Vỹ của Hàn Mặc Tử. Vườn ai mượt quá xanh như ngọc đã trở thành những cao ốc kệch cỡm, những cơ sở sản xuất giầy dép, siêu thị của người Tàu. Những cô thiếu nữ trong chiếc áo dài lả lướt ngày xưa đã trở thành những bà vợ Tàu , vợ Đai Hàn buồn bã. Huế bây giờ mang một cái tên Tàu, giống như những thành phố khác của cái nước ngày xưa gọi là Việt nam. Những lâu đài, cung điện biến thành những khách sạn, những tiệm ăn Tầu. Nơi mình đang đứng, có lẽ ít ai nhớ ngày xưa gọi là đèo Ải Vân

Trong đầu ông già, hình ảnh một thành phố ảm đạm. Nước sông Hương lờ đờ , nhớ những câu hò đối đáp. Cầu Trường Tiền lở lói, vắng những tà áo trắng, những tiếng chuyện trò ríu rít của đám nữ sinh.

Ông già nhiều lần nhức nhối đứng trước những tiệm, những cơ sở mậu dịch làm môi giới tuyển đàn bà cho người Tầu. Những thiếu nữ nghèo, đôi khi còn ở tuổi ô mai, đáng lẽ đang ép hoa, bắt bướm, đứng xếp hang chờ tới lượt cởi quần áo cho khách Tàu sờ mó, nắn bóp, coi soát từ trong ra ngoài trước khi mua. Những tấm bảng quảng cáo chữ Tầu bảo đảm hang hóa nếu không ưng ý có thể đổi hay trả lại. Người ta xuất cảng phụ nữ để lấy ngoại tệ, như người Ái Nhĩ Lan xuất cảng thịt cừu, người Argentine xuất cảng thịt bò. Một cái tát vào mặt mà khó dân tộc nào chấp nhận, nếu còn đôi chút tự trọng. Những người cầm quyền đồng lõa làm chuyện bán đàn bà, đồng bào, chị em, con cái của mình để kiếm tiền, sẽ ngần ngại gì khi bán đảo, bán đất, bán rừng, bán nước, nếu lợi nhuận lớn hơn, mặc dù đã tham ô đầy túi .

Ông già nghĩ tới một tài liệu về người abrorigènes ở Úc Châu. Người da trắng đã tập trung hàng trăm ngàn đàn bà aborigènes, chở đi khắp xứ, cho lập gia đình, hay nô lệ tình dục, với người da trắng. Những đứa con đẻ ra là con lai, không biết gì về dân tộc mình, trở thành xa lạ với nguồn gốc của mình đẻ trở thành công dân hạng nhì trên đất nước của tổ tiên. Người Tầu, vì chính sách hạn chế sinh đẻ, chỉ quý và đôi khi chỉ giữ con trai, thiếu hàng trăm triệu dàn bà. Họ nhập cảng đàn bà Việt, bắt cóc hay lấy phụ nữ Việt tại chỗ. Cả một thế hệ con lai không biết gì về văn hoá Việt, sẽ gia tăng đội ngũ người Tầu vốn đã đông đảo trên đất Việt

Gã thanh niên lục trong cái túi cồng kềnh y vẫn đeo sau lưng ra một cái lều vải, lúi húi dựng lều. Ông già không cần lều ; vẫn ngủ ngoài trời, lấy cỏ làm nệm, phiến đá làm gối. Sương, gió, nóng lạnh, ngoại vật không ảnh hưởng gì tới ông

Gã thanh niên đốt lửa , sửa soạn bữa ăn tối, đúng ra là để pha trà, vì bữa cơm rất đơn giản : cả hai đều ăn chay trường, đã gói sẵn trong túi vải.

Một con nai ngơ ngác từ trong bụi cây bước ra, dương đôi mắt to , đen láy, nhìn ngọn lửa, nhìn ông già, nhìn gã thanh niên , dò dẫm, rồi đi lại ,nằm dưới chân lão trượng.

Ông già vẫn nói con vật, ngay cả những con dữ tợn nhất, nếu nó cảm thấy mình vô hại, cảm thấy cái từ tâm của kẻ đối diện, nó trở thành thân thiện. Và cái từ tâm, nếu chân thực, nó toát ra tự nhiên như một hương thơm, như một hơi thở, ngay cả thú vật cây cỏ cũng cảm nhận được. Cây cỏ không biết, nhưng gã thanh niên đã thấy, nhiều lần,những con cọp, báo, gấu nằm cạnh ông già , ngoan ngoãn như những con mèo con.

Sau bữa cơm thanh đạm, gã thanh niên đưng dậy, vươn vai, đi vài đường quyền. Ông già nhìn, hài lòng, thấy đường võ của học trò đã điêu luyện, đã uyển chuyển, không còn cái cứng rắn, cái cố gắng phô diễn sức mạnh của tuổi trẻ. Gã thanh niên đã biết quên cái bản năng háo thắng, cái bản năng chinh phục, muốn đè bẹp đối phương. Y đã quên thân thể mình. Quên cái tôi. Ông vẫn nói đường võ phải đi nhẹ nhàng , như không muốn xô đẩy không gian chung quanh. Phải biết kính trọng cái quân bình ở trong ta cũng như trong vạn vật.

Trăng lên đỉnh đầu. Ông già trầm ngâm :

-Hồi trẻ, thầy mất hàng chục năm học vẽ, mơ thành hoạ sĩ ; nhưng thấy mình bất lực, không diễn tả nổi cái đẹp của thiên nhiên, cái nhiệm màu của đời sống, thầy bỏ vẽ. Mỗi lần đứng trước cảnh đẹp như thế này, vẫn thấy đôi chút ngậm ngùi.

Gã thanh niên cảm động trước lời tâm sự của ông già; bình thường là một người lạc quan, yêu đời, biết thưởng thức từng giây phút của đời sống. Tưới một bông hoa, tỉa một cành lan, ngắm mấy con cá vàng tung tăng trong bể cá, đọc một trang sách, đón nắng hanh vàng đầu hè hay se se người trước cơn gió lành lạnh cuối thu, mỗi hành động nhỏ bé, tầm thường , đối với ông là một nguồn hạnh phúc.

Ông vẫn nói với học trò đừng chạy đuổi, tìm kiếm hạnh phúc ; nó ở trong ta, nó ở trước mặt, trong mỗi cử chỉ, trong từng hơi thở, trong giây phút đang sống. Càng chạy càng mệt , càng đuổi theo càng mất.





Gã thanh ni ên trở lại câu chuyện thơ phú :

-Trước Hàn Mặc Tử hàng trăm năm, hàng ngàn năm, đã có những người nông dân Việt làm những câu ca dao tuyệt đẹp : Hỡi cô tát nước bên đàng. Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ?

Ông già mỉm cười :

- Có người nói câu ấy, nguyên văn ‘’ Hỡi cô bán nước bên đàng, sao cô lại múc trăng vàng đổ đi ? ‘’ là thơ Bàng Bá Lân, nhưng của ai, nó cũng nói lên cái tâm hồn Việt. Có những thi sĩ như vậy, làm thơ như ca dao. Người nông dân bất cứ nươc nào, làm ruộng chỉ mong cho đươc viêc, cho chóng xong. Cái anh nông dân Việt nam, cực khổ trăm chiều, không được ngày hai bát cơm, anh ta vẫn không quên mình là thi sĩ. Cái thắc mắc của anh ta chắc chắn không có một anh nông dân nào khác trên thế giới bận tâm : sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi

-Con nghiên cứu đã nhiều, không thấy người nông dân nước nào có cái tâm hồn ấy. Ngoài ca dao, người dân Việt còn một hình thức diễn tả rất tài tình là tục ngữ

-Nươc nào chẳng có tục ngữ. Đó là cái túi khôn của người dân, những quan sát , những nhận xét về đời sống ghi lại từ đời này qua đời kia.

-Tuc ngữ Việt có hai điểm đặc biệt không đâu có : nó đầy hình ảnh và bao giờ cũng đầy khôi hài tính. Bao giờ cũng là những nhận xét về xã hội hết sức tinh tế, diễn tả bằng những hình ảnh ngộ nghĩnh : như đỉa phải vôi, theo voi ăn bã mía, nằm chờ sung rụng, ăn cơm nhà vác ngà voi, cá nằm trên thớt , gái ngồi phải cọc, lệnh ông không bằng cồng bà, nắm thằng có tóc ai nắm thằng trọc đầu…Những tác phẩm lớn thường có hai đặc điểm : đầy hình ảnh và khôi hài tính . Ngoài tư tưởng, cố nhiên. Không có văn chương Anh nếu không có cái khôi hài đen. Trong văn chương Pháp, ngay cả ở Proust, nhà văn khó nhai vì rất tỉ mỉ dài dòng, vẫn có cái khôi hài kín đáo khiến Proust là Proust .Những bài hát của Jacques Brel, bên cạnh cái xúc động, bao giờ cũng có cái gì tếu tếu. Thơ không có hình ảnh là vè, văn không có hình ảnh là những bản báo cáo hành chánh , những biên bản của thừa phát lại



Ông già gật gù :

-Người Pháp nói : lời nói bay đi, hình ảnh lưu lại. Les paroles passent, les images restent.

-Vâng, đúng vậy. Những người làm nghề quảng cáo thương mại, làm marketing đều biết : một cái spot thành công phải có hai điều kiện : hình ảnh đập vào mắt , bám vào óc và một nét khôi hài khiến người ta mỉm cười. Và tất cả, trong một spot dài 30 giây. Những người nông dân Việt nam đã hiểu điều đó trước mọi ngươi . Không có gì gơi hình và tếu hơn cái cảnh một anh đi vác ngà cho con voi để nói đến một người làm chuyện vô bổ , lo chuyện cho thiên ha , hay cái cảnh một anh nằm dưới gốc sung chờ sung rụng để nói về một người lười biếng.Tất cả tục ngữ Việt nam đều như thế .Và trong bất cứ hoàn cảnh nào, người ta cũng kiếm được một câu nói lên cái cảnh ngộ của mình , những nhận xét, phê phan về người , về vật : cá mè một lứa, cá lớn nuốt cá bé, nó lú chú nó khôn, trứng đòi khôn hơn vit, theo đóm ăn tàn , ăn cỗ đi trước lội nước đi sau, đánh võ miệng, ếch ngồi đáy giếng, cha ăn mặn con khát nước, con nhà lính tính nhà quan , vẽ đường cho hươu chạy. Chỉ trong vài chữ, cả một nhân sinh quan trong một cuốn phim hoạt họa linh động,têu tếu.

- Ít lời nhiều ý là một đặc tính của Á Đông.Thơ haiku của Nhật…

Gã thanh niên cãi , ngạc nhiên thấy mình cãi lại ông thầy :

-Thơ haiku xúc tich, it lời nhiều ý, nhưng nghè không có chất khôi hài, không có nét châm biếm. Người Nhật nghiêm trang, ít cười cợt. Cái khôi hài ,cái đầu óc đầy hình ảnh của người bình dân Việt nam thật hóm hỉnh, thât bất ngờ , thật lý thú .Và thật hữu hiệu. Không có gì hữu hiệu hơn khả năng khôi hài. Những người có tiếng là đào hoa đều đồng ý : một người đàn bà mỉm cười là một người đàn bà đã bị chinh phục một nửa. Tục ngữ Tây phương thỉnh thoảng cũng có câu gợi hình, nhưng rất hiếm, như khi họ nói ‘’ đổ nước tắm, đừng đổ cả đứa nhỏ trong chậu ‘’. Hay người Phi Châu nói ‘’ một người già chết đi là một thư viện vừa cháy, ‘’, ‘’con cừu có bốn chân nhưng vẫn không thể chạy trên hai ngả đường ‘’. Gợi hình, nhưng vẫn thiếu cái têu tếu.

Ông già lợi dụng cơ hội đề cập một đề tài vẫn lẩn quẩn trong đầu từ nhiều năm nay:

-Nói tới đàn bà, thầy vẫn tự hỏi : bao giờ con nghĩ đến chuyện gia thất . Phải nhớ là thời gian qua nhanh

Gã thanh niên hơi lúng túng :

-Con chưa kiếm ra người hợp ý. Có lẽ con không có cái khiếu làm cho phái đẹp mỉm cười.

Chợt nhận ra vẻ ưu tư của ông già, y trấn an :

-Thầy đừng lo, chuyện phải đến thế nào cũng đến.Thầy vừa khuyên hãy đi từ từ.

Ông già không ngờ cái thuyết đi từ từ quay về ngực mình như một cái boomerang , bèn trở lại đề tài bỏ dở, thoải mái hơn là chuyện đàn bà mà chính ông cũng lơ mơ :

-Tai sao một dân tộc như vậy lại biến mất trên bản đồ thế giới ?

-Theo con nghĩ , vận mệnh của một dân tộc, cũng như vân mệnh của một cá nhân, không bao giờ là chuyện ngẫu nhiên. Cái may rủi đối với một cá nhân, cái tình cờ của lich sử đối với một dân tộc là một dữ kiện quan trọng, nhưng không bao giờ là một dữ kiện quyết định. Cái hưng vong của một quốc gia là do dân tộc ấy tạo ra. Không có chuyện tình cờ. Nói theo đức Phật, có cái nhân và cái quả.

Ông già không phải là một học giả, lại ít tìm hiểu về đề tài đang bàn, nhưng ông vẫn nghe nói người Việt nam có nhiều đức tính : hiếu học, cần mẫn,chịu khó, tháo vát, và, như gã hoc trò ông vừa nói, dân tộc ấy nhìn đời với nụ cười thường trực trên môi, nụ cười khiến họ chịu đựng nổi trăm ngàn khó khăn, thử thách, như một bùa hộ mệnh. Nụ cười ấy chứng tỏ một nhân sinh quan rất quân bình, ít dân tộc nào đạt đươc.

Ông cũng nghe nói đến cái hy sinh vô bờ bến của người mẹ, người vợ Việt nam, cái chịu đựng gian khổ không giới hạn của người dân Việt..Tại sao dân tộc ấy không có một đời sống mà họ đáng được hưởng ? Tại sao dân tộc ấy đi đến chỗ giải thể ?

Sương bắt đầu xuống lạnh hai bờ vai. Gã thanh niên chất thêm củi , nướng một trái bắp non ; mùi bắp thơm thoang thoảng trong cái thanh tịnh của đêm trăng. Con nai đã ngủ vùi , đầu gối trên đùi ông già.

Ông già nói, độ lượng :

-Dân tộc nào cũng có cái tốt, cái xấu. Cái tốt cái xấu trộn lẫn nhau, tạo ra cá tính của một cá nhân, một cộng đồng . Phải là thánh nhân mới không có thói xấu.Và không có gì buồn tẻ hơn là những ông thánh

-Có những tính xấu vô hại , có tính xấu đưa đến nạn diệt vong. Cái tính xấu ghê rợn của người Việt là cái thói chia rẽ, đố kị nhau. Mỗi người Viêt như tìm thấy

cái vui trong cái thất bại của người đồng hương , cảm thấy cái thú trong viêc phá phách công cuộc chung. Không có hội đoàn nào tồn tại quá ba bẩy hai mươi mố ngày. Không có tổ chức nào không chia hai, chia bốn. Một hội chơi lan, đá dế cũng đánh nhau bể đầu. Trong y học, người ta nói đến trường hợp những người có khuynh hướng tự huỷ, autodestruction, chỉ tìm thấy lẽ sống trong việc tự huỷ hoại mình. Không lẽ có một dân tộc có khuynh hướng tự huỷ ? Một nhu cầu tự sát tập thể ? Như một đàn cá voi rủ nhau tự sát trên bãi biển ?. Cái quốc tính lạ kỳ ấy ăn sâu vào mỗi người Việt , ngay cả ở tầng lớp trí thức, nhất là ở tầng lớp trí thức. Cũng lạ, với người Việt, học vấn không có ảnh hưởng gì đến tư cách của họ, như nước đổ đầu vịt ( gã thanh niên mỉm cười : ‘’nước đổ đầu vịt ‘’ là một câu tục ngữ Việt ) .Một quốc gia làm sao tồn tại được với một giới trí thức bệnh hoạn như vậy.

- Không phải chỉ có người Việt có cái thói phá nhau. Chẳng có người Pháp nào đồng ý với người Pháp nào về một vấn đề gì .Ngay cả người Do thái , chính họ tự nhận : cứ có hai người Do thái ngồi với nhau lá có ba ý kiến …

-Bất đồng ý kiến không phải là điều xấu.Tranh luận đưa tới tiến bộ. Người Việt ngồi với nhau không phải để tranh luận, nhưng để phá nhau . Không một hội đoàn Việt nam nào tồn tại vài tháng .Không có một nhóm người Việt nào làm ăn với nhau được vài năm . Ngay cả những người có cùng một lý tưởng , thiện chí cùng mình , những người cơm nhà ngà voi , ngồi với nhau ba bẩy 21 ngày là cái bản năng tự huỷ ấy đùng đùng kéo đến . Abdel Nasser nói : tôi rất buồn khi thấy một người Ả rạp nói xấu một người Ả Rạp khác. Nếu ông ta là người Việt nam, Nasser sẽ phiền muộn dài dài. Đập phá nhau là một môn thể thao quốc gia của người Việt, toàn dân tích cực tham dự và hăng say tập luyện ; như basket ball với người Mỹ , football với ngưới Ba tây, sumo với người Nhật, taekwondo với người Cao ly.

Ông già chống chế :

-Nhiều sách báo nói đến tính bao dung của người Việt nam, ngay cả với kẻ thù.

Gã thanh niên gậm trái bắp nướng, ăn ngon lành .Y không mời ông già, biết ông già chỉ ăn một ngày hai lần : giữa trưa và tám giờ tối . Và cứ ba ngày là một ngày không ăn một hạt cơm , để cho thân thể nghỉ ngơi .

-Thầy nói đúng. Đó là một dân tộc rất đại lượng, rất bao dung đối với người ngoại chủng, ngay cả đối với kẻ thù. Nươc Việt một ngàn năm nô lệ giặc Tầu, một trăm năm nô lệ giằc Tây , nhưng khi một ông tướng Tầu chết, họ quên thù oán, lập đền thờ (nghĩa tử là nghĩa tận ). Khi chiến tranh Việt Pháp chấm dứt , họ hết lòng thân thiện với người Pháp , tiếp đón kẻ thù hôm trước như anh em. Không thấy ai đi lùng giết những lính lê dương muốn ở lại . Không thấy có người Việt nào hươi đao chém cổ một người lính Mỹ trước máy truyền hình . Không thấy có người Việt nào ngồi hạch tội người Nhật về những tội ác chiến tranh như bên Tàu. Ông tổng thống nước Mỹ, đi tới nước nào cũng bị la ó , phản đối rầm rộ, không dám thò đầu ra ngoài đường , đến Việt nam dân chúng hồ hởi đổ ra đường chào đón như đi trảy hội. Cả dân miền Bắc , những người đã lãnh hàng triệu trái bom Mỹ trên đầu, lẫn dân miền Nam , những người đã bị Hoa kỳ bỏ rơi không thương tiếc.

Ông già mỉm cười , lạc quan :

-Đó là dấu hiệu một triết lý sống rất cao. Vứt bỏ oán thù, Chúa hay Phật cũng không dạy gì khác

-Phiền một nỗi là là những người đại lương như vậy với người ngoại quốc lại đối xử với nhau một cách cực kỳ tàn tệ, cưc kỳ dã man. Cạn tầu ráo máng. ( Lại một câu tục ngữ Việt, gã thanh niên lẩm bẩm ). Kẻ thắng hành hạ kẻ bại như những con vật .Tôi nhốt anh để anh khỏi lộn xộn, nhưng tôi hành hạ, nhục mạ anh, không phải vì anh là kẻ cựu thù, mà vì anh có cái tội là đồng bào, anh em ruột thịt.



Ngọn lửa lách tách nổ, thơm mùi gỗ thông cháy. Gã thanh niên pha một tách trà, đưa mời ông già. Ông già nhấp một ngụm , hơi nhau mày, nói :

-Nhớ bọc gói trà cho kỹ. Cái giống trà ngon nó khó tính lắm. Hơi một giọt mưa , hơi một ngọn gió là nó giở chứng ngay

Gã thanh niên không quên câu truyện đang bàn, như đã lâu lắm y mới có dịp đề cập một đề tài vẫn luẩn quẩn trong đầu y :

-Con suy nghĩ hoài, không tìm đươc nguyên nhân cái mâu thuẫn lạ kỳ ấy .Tại sao một dân tôc đại lượng như vậy lại thù ghét nhau đến như thế ? Tại sao những con cá voi rủ sau tự sát trên bãi biển ?

Về những con cá voi, ông già đành ngọng, nhưng về cái dân tộc kỳ quặc nọ, ông liều một cách giải thích :

-Có lẽ đó là hậu quả của những cuộc chiến tranh triền miên . Chiến tranh huỷ hoại tất cả, huỷ hoại cả tình người . Lại thêm chính sách chia để trị của kẻ thống trị. Phải nghi kỵ để khỏi mất mạng. Biết bao nhiêu dân tộc, dưới những thử thách một trăm lần ít cay nghiêt hơn, đã biến mất trên bản đồ thế giới. Người Tầu, trong một ngàn năm đô hộ, đã tìm mọi cách chia để trị. Người Pháp khuyến khích dân Việt hút thuốc phiện, rượu chè ; chia nươc Việt ra thành ba , bày ra một trăm thứ ngạch trật, phẩm hàm trong một xã hội vốn đã cực kỳ nhiêu khê, biến mỗi người Việt thành một ông quan, sẵn sàng căm hờn nhau, sẵn sàng giết nhau vì một cái danh hão, một miếng thịt chia không đều. Bỏ được một tệ trạng đâu phải dễ . Hãy nhìn những nước hồi giáo với những hủ tục truyên lại từ 14 thế kỷ

Gã thanh niên ngần ngừ : y ít có thói quen cãi lý với ông thầy mà y kính trọng.



-Nhưng , y nói, người Việt nam là những người có khả năng thích ứng rất nhanh , những tục lệ cũ , nhuộm răng đen , tục đa thê vv.. chỉ vài mươi năm đã biến mất. Nhóm Tư Lực Văn Đoàn đả kích các tệ trạng xã hội An nam, cũng chỉ ít năm sau vấn đề họ nêu ra không còn là thời sự nữa.Thầy có nhớ cái bài thơ của Nguyễn Bính : Hôm qua em đi tỉnh về. Đợi em ở mãi con đê đầu làng ..

Cái gì chứ thơ thì không ai địch nổi ông già . Ông có trí nhớ của một thiếu niên 18 tuổi. Ông đọc vanh vách :

Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng

Áo dài khuy bấm em làm khổ tôi

Nào đâu cái yếm lụa sồi

Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân

Nào đâu cái áo tứ thân

Cái khăn mỏ quạ cái quần nái đen ?

Gã thanh niên ngắt lời, trong khi ông già còn cao hứng :

-Con cháu ông Nguyễn Bính, chắc đã rất bỡ ngỡ trước cái thời trang lạ kỳ của những người chỉ cách họ môt thế hệ. Và nếu con cháu nhà thơ có bồ khăn nhung quần lĩnh rộn ràng, chắc họ cũng khổ tâm lắm, nhưng không phải khổ tâm vì cô bạn quá tân thời mà vì quá quê mùa, cổ hủ. Những người Việt di tản ra nước ngoài chỉ vài năm đã hội nhập với đời sống mới. Họ biết cải tiến rất nhanh, nhưng nhất quyết giữ lại cái quốc tính kia. Cái thói thù ghét nhau, cái thói vọng ngoại đã có từ rất lâu. Đoc sử Việt nam , không biết bao nhiêu những cuôc huynh đệ tương tàn , mỗi lần chiến trận ngã ngũ, thế nào ở trang sau cũng có cái màn cả bên thua lẫn bên thắng chạy ra nước ngoài cầu cống . Cái anh phó thường dân Việt nam, không ai hỏi ý kiến anh ta .

Ông già :

-Dù sao dân tộc ấy đã đương đầu với ngoại xâm hàng ngàn năm, tại sao bị giải thể đầu thế kỷ 21 ?

-Nươc Tầu ngày xưa là một cường quốc thưc dân , nhưng trong nước cũng chia năm xẻ bẩy, thập loạn sứ quân , khó giữ vĩnh viễn một thuộc địa . Sang thế kỷ 21 , Trung Hoa trở thành một trong hai nước mạnh nhất thế giới, cả về kinh tế lẫn chính trị. Một đại cường thống nhất , vươn lên như vũ bão. Hàng hoá Tàu tràn ngập thị trường, họ làm chủ về mặt kinh tế .Về văn hoá ,sách vở Tàu tràn ngâp, trên truyền hình quốc gia chỉ có phim ảnh Tầu. Đàn bà , con gái Việt bị gả bán cho người Tàu để tìm đường sống, để lấy tiền đong gạo, để nuôi gia đình . Nhân công Việt nam , nổi tiếng là chịu khó và không đòi hỏi gì , đi tha phương cầu thực, làm nô lệ ở những nước phát triển hơn .Trungquốc cần dầu lửa, cần thị trường , cần nhiên liệu , ngang nhiên chiếm một vài hòn đảo. Không ai phản ứng gì , hay phản ứng đại khái, họ lấn thêm vài cây số biên giới. Dần dần, họ chiếm trọn Việt nam nhẹ nhàng như trở bàn tay.

-Thế giới không phản ứng gì ?

-Khi Trung Quốc còn là một nước nghèo đói, không ai ho he gì khi họ chiếm

Tây tạng; ai dám lên tiếng khi họ đã trở thành một đại cường ?

-Còn người Việt ?

-Họ còn mải chơi môn thể thao quốc gia. Vả lại, đó là một nước đã vong thân trước khi mất lãnh thổ. Khi sách báo, tuyền thanh, truyền hình tràn đầy những sách báo, phim ảnh Tầu, Hàn, dân tộc đó đã đánh mất mình, chỉ còn là một cái xác không hồn. Mất đảo, mất rừng, có hy vọng chiếm lại, nhưng vong thân...

- Văn hóa phải vươn ra, phải tiếp nhận, nếu không sẽ cằn cỗi.

-Thưa đúng vậy. Người ta nói văn hoá như một cái cây, phải bám chặt rễ để vươn ra thở hít thở khí trời. Nhưng khi cái rễ lung lay, hay tệ hơn, khi không còn rễ, càng vươn ra càng mau đổ. Xâm lăng bằng văn hoá, xã hội, cái mà người ta gọi là “ soft power ”, nó ghê rợn hơn cả xâm lăng bằng vũ lực.

Ông già vươn vai , ngả đầu trên phiến đá ,nói với gã học trò, ôn tồn như một lời an ủi :

-Khuya rồi. Ráng ngủ một giấc. Mai phải đi sớm.Thiên hạ chờ mình đúng ngọ.

Ông già nói xong, nhắm mắt ngủ, dễ dàng, ngon lành như một hài nhi.Gã thanh niên biết là sáng hôm sau ông sẽ thức dậy đúng sáu giờ.Muốn dậy giờ nào,ông giàkhông cần báo thức.Ong chí lẩm nhẩm vài lần trong đầu là sáng hôm sau nhỏm dậy đúng giờ,như một cái máy.







Gã thanh niên nằm thao thức.Trăng sáng ,chan hoà, phí phạm, lai láng ngập đất trời . Y không khỏi nghĩ đến cái anh nông dân thi sĩ . Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi ? Đẹp quá . Một tâm hồn đẹp như vậy không thể tàn rụi. Cái anh nông dân ấy, từ bốn ngàn năm nay anh ta vẫn sống chết bám lấy đất nước . Bao nhiêu người đã phản bội, anh ta vẫn kiên trì bám giữ ruộng đồng. Y muốn tin rằng cái anh nông dân ấy không biến mất, anh ta vẫn lẩn quẩn đâu đó dưới kia. Y chợp mắt, mơ màng, tưởng như nghe thấy, lẫn với tiếng dế kêu , tiếng gió xào xạc trên ngọn cây, tiếng bước chân ai từ dưới thung lũng vọng lên, rậm rịch lên đường.



Từ Thức