Hiển thị các bài đăng có nhãn Sống. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sống. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 9 tháng 7, 2017

“Đạo bất đồng bất tương vi mưu”





Khổng Tử từng đến kinh đô nước Chu, thỉnh giáo Lão Tử về Lễ chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu kéo, lắc la lắc lư tiến vào thành Lạc Dương – kinh đô của nước Chu. Ông đi lần này mục đích là để tham quan “Các nguyên tắc trị nước mà các vị Tiên vương đã dùng”, khảo sát “Nguồn gốc của Lễ Nhạc”, học tập “Các quy phạm đạo đức”, bởi vậy việc ông tới viếng thăm Lão Tử, vị quan tinh thông chế độ Lễ nghi và quản lý thư viện hoàng gia, ấy là an bài tối quan trọng [của Thiên thượng]. Khổng Tử sau khi hoàn thành việc khảo sát lần đó, đã nói một câu lưu truyền đời sau rằng: “Trong số rất nhiều học thuyết trên đời, ta chọn theo [học thuyết của] nhà Chu”. Chế độ Lễ nghi thời đại nhà Chu là phỏng theo Lễ chế thời đại nhà Hạ và nhà Thương làm cơ sở mà đặt định ra, và Khổng Tử chủ trương sử dụng Lễ chế của thời đại nhà Chu. Có thể thấy chuyến đi lần ấy của ông thu được ích lợi không hề nhỏ.

Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.

Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.

Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”

Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.

Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.

Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.

Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.

Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.

Khổng Tử thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu. Lão Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu, e rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.

Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Tham quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử. Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.

Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.

Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.

Bất Danh

Thứ Ba, 13 tháng 6, 2017

Gặp Phật giết Phật?



Đã sang ngày mới, ánh hừng đông đang chậm rãi ló dạng, bóng đêm đang tan dần... Đâu là khoảng cách giữa sáng và tối? Đâu là thời điểm của ngày và đêm?... Những câu hỏi, những hoài nghi chất chứa như thùng thuốc súng đang chực chờ bùng nổ... Thời điểm chưa chín muồi, nước vẫn chưa sôi... Tôi lặng lẽ mở cửa căn phòng, cho sương đêm thấm dần qua tà áo mỏng... Nhìn trời, nhìn tôi, nhìn những hoài nghi miên viễn, vô tận... Lặng lẽ, chậm rãi...


Tiếng Tổ Lâm Tế văng vẳng bên tai "Phùng Phật sát Phật"... Phật là ai? Có thể gặp Phật ở đâu? Giết ai? Giết cái gì? Ai giết? Ai bị giết? Đâu là hành động giết?...




Thế gian vẫn đang say giấc nồng. Trong vô vàn những giấc mơ chập choạng giữa sáng và tối, ai đang mơ những giấc mơ đẹp và mỉm cười mãn nguyện? Ai đang vẫy vùng trong tuyệt vọng với ác mộng vừa đi qua? Thế nào là mộng đẹp? Thế nào là ác mộng? Thế nào là mộng? Thế nào là thực? Thế nào là ngủ? Thế nào là thức? Thế nào là một giấc ngủ chập chờn? Thế nào là chìm sâu vào vô thức không tên?...


Gặp Phật giết Phật? Phật là Thái tử Tất Đạt Đa cắt ái từ thân, xuất gia tìm đạo, giác ngộ và giải thoát? Không, ông ta đã chết từ rất lâu rồi. Làm sao có thể giết một người đã chết? ... Cũng như làm sao giết được người trong mộng? Làm sao giết được một giấc mơ ngay trong cơn mơ?....


Gặp Phật giết Phật? Phật là giáo chủ một tôn giáo. Nhưng Tôn giáo là gì? Chúng phải chăng cũng chỉ như một học thuyết triết học, một đường lối, một quan điểm sống... như bao học thuyết triết học khác, quan điểm sống khác... Vậy Đức Phật khác gì Jesus, Mohamed, Platon, Aristote...? Hay chúng là một tổ chức? Nhưng tổ chức là gì ngoài trò chơi chính trị của những con người trần thế tạo dựng ra, nhằm tranh giành quyền lực, phe phái, địa bàn hoạt động, tín đồ đi theo...?


Gặp Phật giết Phật? Phật là sự tỉnh thức trong mỗi chúng ta. Nếu đó là sự tỉnh thức, thì giết hay không giết, ca ngợi hay chê bai, đả kích hay tán thán... đâu có làm sự tỉnh thức tăng hay giảm, trường tồn hay mất đi... Như mặt trời là mặt trời, đâu vì vài áng mây đen che phủ mà nói mặt trời lặn hay mọc, mất đi hay sống lại?


Hãy nhìn vào đám đông. Trong vô số người tự xưng là đệ tử Phật, bao nhiêu người thực sự hiểu Phật? bao nhiêu người núp bóng Phật để tìm cầu lợi dưỡng? bao nhiêu người đi theo Phật như một đàn cừu ngu ngốc cuồng si? bao nhiêu người như một con vẹt nhại lại tiếng nói của người khác mà tưởng như đã nắm sự thật trong tay? bao nhiêu người đang liếm lại những tàn dư của quá khứ đã được thải ra mà tưởng như sơn hào hải vị?...


Thế nào là hiểu Phật? Phật có cần ta lạy lục Ngài chăng? Phật có khả năng ban cho ta điều gì chăng? Phật có cần ta quảng diễn giáo lý của Ngài như con vẹt chăng? Phật có cần ta khư khư chấp thủ giáo điều để rồi tự hào là vật tế cho chân lý chăng? Phật có cần ta phải hy sinh bản thân chỉ để phân định đúng sai với những người mù về màu sắc chăng?...


Thế nào là Phật tử? Tôi vẫn thấy đâu đó những người khoác áo thầy tu, hoặc thường xuyên đi chùa, hoặc tham gia sinh hoạt các khoá tu, tham gia vào các CLB Phật tử, thân cận và gần gũi chùa chiền.... và đương nhiên nghĩ rằng mình đã là Phật tử. Rồi từ suy nghĩ đó, tự khoác cho mình chiếc áo quan toà, phán xét đúng sai, phán xét phải trái, hả hê khi thấy người này người kia am hiểu giáo lý không bằng mình... Để rồi khi chính mình rơi vào hoàn cảnh bất như ý thì tâm tư, hành động và lời nói cũng chẳng khác chính người mà mình đang chê cười là bao.


Thế nào là tín đồ? Tôi vẫn thấy đâu đó, rất nhiều người, với tâm niệm thành khẩn, với sự kính ngưỡng thiết tha... về chùa tu học. Niềm tin là cần thiết, nhất là giữa vô vàn các cơn gió độc mà cơ thể lại mong manh. Nhưng tin cái gì? Tin vào Phật mà không biết Phật? Tin vào Pháp mà không hiểu Pháp? Tìn vào Tăng mà không biết Tăng... ngoài cái định nghĩa Phật, Pháp, Tăng khô cứng trong sách vở với những lời giảng thuyết sáo rỗng của mấy ông thầy tu? Thà đừng tin còn hơn là cuồng tín. Vì khi người ta chưa tin hoặc không tin, người ta có thể học hỏi, trải nghiệm và khám phá. Còn cuồng tín? Chúng như một thành trì không có cửa. Bít bùng, không lối thoát, sống mãi với đáy giếng tối om và tự tin với bầu trời nhỏ bé. Không có lối thoát nào cho những kẻ cuồng tín. Già mà cuồng tín còn có thể chấp nhận. Trẻ mà cuồng tín thì thật đáng thương.


Thế nào là cuồng tín? Như một đứa trẻ được sinh ra trên một thân cây chuối lênh đênh giữa dòng. Chúng sống với thân cây chuối ấy, chúng ăn và sinh hoạt trên thân cây chuối ấy. Đất liền của chúng là cây chuối, bầu trời của chúng là cây chuối. Cha mẹ của chúng là cây chuối mà bạn bè của chúng cũng là cây chuối. Mãi mãi, không bao giờ chúng có thể chấp nhận một khái niệm "đất liền" khác ngoài cây chuối, vì chúng hiểu buông cây chuối tức là chết. Tại sao tín đồ phần đa là cuồng tín? Vì ngay từ khi sinh ra, chúng đã được tiêm nhiễm những quan điểm như vậy, giáo điều như vậy, lý luận như vậy... và chúng tự tin rằng những điều chúng đã biết là tất cả bầu trời, là tất cả vũ trụ. Ai xâm phạm cái biết ấy là xâm phạm bầu trời của chúng, làm tổn hại đến niềm tin tín ngưỡng của chúng, đe doạ sự sinh tồn của chúng. Chúng phải bảo vệ những điều chúng đã biết, vì điều đã biết là tất cả những gì mà cuộc sống của chúng được đặt tên.


Đã ba mươi năm học Phật, tôi chưa từng có ý niệm mình là một Phật tử. Vì tôi không biết Phật, không hiểu hết về Phật... nên đâu dám lạm xưng mình là con Phật. Không gì bất hiếu hơn việc ngay cả con mà không biết cha mình là ai. Và cũng không gì bất hạnh hơn cho người cha, khi ngay cả đứa con của mình cũng không hiểu mình. Để tránh cho tôi và cũng để tránh cho Phật, tôi chỉ coi mình là người tìm kiếm. Tìm kiếm cái gì? Tìm kiếm điều chưa biết.


Thế nào là cái đã biết cần phải vượt qua? Vì khư khư nắm giữ cái đã biết tức là tự coi cái đã biết là tất cả thiên hà vũ trụ. Không gì kiêu căng ngạo mạn hơn là tự coi mình biết tất cả mọi thứ trên đời. Vượt qua cái đã biết là chính là bản chất của sự khiêm cung, không phải là dăm ba lời lẽ nhún nhường sáo rỗng và giả tạo. Vượt qua cái đã biết, nghĩa là không khư khư cho cái đã biết của mình là duy nhất đúng, nghĩa là sẵn sàng đối thoại với tất cả những chiều hướng đối lập, nghĩa là cái đã biết chỉ là một chặng đường rất nhỏ trong hành trình dài tít tắp, vô tận. Thấu hiểu rằng cái đúng của ngày hôm qua chưa chắc đã là cái đúng của ngày hôm nay, cũng như cái sai của ngày hôm nay chưa chắc là cái sai của ngày mai... Ta mở lòng đón nhận tất cả mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi hành động thuận hay nghịch với cái ta đã biết.


Thế nào là tìm kiếm điều chưa biết? Là sẵn sàng quăng mình vào những trường hợp đối lập, để suy tư, để trải nghiệm, để sáng tạo, để khám phá... Đúng và Sai chỉ là tương đối, chân trời nhận thức cần được mở rộng, lắng nghe mà không phán xét, quan sát mà không để tư kiến xen tạp. Nhìn, ngẫm và cho phép mình thử để sai, thử để tìm tòi cái đúng. Một người luôn luôn và sẵn sàng dung nạp điều chưa biết, kể cả điều đó có khác biệt, thậm chí đối lập với lý tưởng, ước mơ hoặc quan điểm mà mình có cảm tình... là người không bao giờ dừng lại ở bất kỳ chặng đường nào. Tất cả mọi chặng đường đều chỉ là "hoá thành", cái thấy của Phật Thích Ca hơn 2000 nghìn năm trước cũng rất có thể chỉ là một "hoá thành" thử nghiệm sự tìm kiếm trong ta mà thôi.


Phật không cần ta giết, nhưng giáo lý trong sách vở của Ngài cần phải thử nghiệm. Sự thật của quá khứ không có nghĩa là chân lý của hiện tại. Thời gian, không gian, hoàn cảnh, con người, môi trường đã thay đổi... thì giáo thuyết ấy cần phải vượt qua. Khư khư nắm giữ những gì trong kinh điển để lại, chưa chắc đã là một Phật tử ưu tú. Vì sao? Vì ai trong chúng ta dám cho rằng mình đã thấu hiểu được tri kiến Phật? Nếu không hiểu Phật, mà khư khư chấp thủ giáo lý, giáo luật... có trong sách vở tưởng như là của Phật thì cùng lắm cũng chỉ gọi là kẻ thủ thư xuất sắc, nếu không muốn nói là loài mọt vô tri.





Đồng hồ đã điểm bốn giờ sáng, tiếng chuông chùa ngân nhẹ giữa căn phòng tịch liêu. Tôi lặng lẽ pha trà, cho tiếng nhạc bổng trầm đưa tôi về với dòng sông của người lái đò Tất Đạt. Tôi vào vai người khách qua sông, lắng nghe Tất Đạt - người lái đò - nói với Thiện Hữu - anh chàng sa môn cần mẫn - giữa những âm ba của con nước thuỷ triều khi thăng khi giáng:
Kiến thức có thể truyền được nhưng trí tuệ thì không. Người ta có thể tìm thấy nó, sống trong nó, được thêm sức mạnh vì nó, làm nên những phép lạ nhờ nó, nhưng người ta không thể truyền dạy nó được. Tôi đặt nghi vấn về điều này từ hồi còn trẻ, và chính nghi vấn đó đã làm cho tôi xa lánh mọi thầy học. Có một ý tưởng tôi suy ra, Thiện Hữu, mà có lẽ bạn cũng lại cho là một trò đùa hay một sự điên rồ nữa: ấy là trong mọi sự thật, điều ngược lại cũng đúng không kém. Chẳng hạn, một sự thật chỉ có thể diễn tả và gói trọn trong danh từ nếu sự thật chỉ có một mặt. Mọi điều, nếu được suy tưởng và diễn tả thành danh từ thì đều là phiến diện, chỉ là nửa phần sự thật, nó thiếu hẳn tính cách toàn vẹn, tròn đầy, nhất thể. Khi đức Phật dạy về thế giới, Ngài phải phân chia thành Khổ đế và Niết Bàn, thành Vọng và Chân, thành khổ đau và giải thoát. Người ta không thể làm khác hơn, không có phương pháp nào khác cho những người giảng dạy. Nhưng thế giới tự nó, ở trong ta và xung quanh ta, thì lại không bao giờ phiến diện. Không bao giờ một người hay một sự việc lại thuần khổ hay thuần lạc, không bao giờ một người lại thuần là thánh thiện hay thuần tội lỗi; chỉ dường như thế bởi vì chúng ta bị mắc phải một ảo tưởng rằng thời gian là một cái gì có thực. Thời gian không thực có, Thiện Hữu. Tôi đã luôn luôn trực nhận điều này. Và nếu thời gian không thực có, thì đừng tưởng tượng ngăn chia cõi đời này với cõi vô cùng, ngăn chia thiện và ác, hạnh phúc và đau khổ, tất cả cũng chỉ là một ảo tưởng …
Nước đang đi về 100 độ, làn khói mỏng bay cao như báo hiệu dòng nước đang chuyển hoá sang thể hơi. Tôi nhấc nhẹ ấm nước, pha vào bình trà nhỏ. Ngồi yên, nhắm mắt, ... Một ly trà nóng vào buổi sáng sớm đang chờ tôi, cũng có thể tôi đang chờ trà tan đều trong ấm trà nóng hổi...



Read more: http://www.suynghiem.vn/2017/06/gap-phat-giet-phat.html#ixzz4jwoj5J2w

Thứ Tư, 7 tháng 6, 2017

CHIẾC BÈ





A Lan Nhã

Một người đang đi trên con đường xa dài, đến một vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi. Vùng nước dài rộng, nhưng không có thuyền để vượt qua, và cũng không có cầu bắc từ bờ này qua bờ bên kia.

Anh ta suy nghĩ: “Đây là vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Nay ta hãy thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá, cột lại thành chiếc bè, và dựa trên chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân, có thể vượt qua bờ bên kia một cách an toàn”.

Nghĩ rồi, rồi anh ta bèn thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá cột lại thành chiếc bè, và nhờ chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Khi qua bờ bên kia rồi, anh ta suy nghĩ: “Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy đội chiếc bè này trên đầu hay vác nó trên vai, và đi đến chỗ nào ta muốn”.

Và, tri ân chiếc bè như thế, không ngần ngại, anh ta đội chiếc bè trên đầu và tiếp tục cuộc hành trình của mình, mặc người đời xì xào, bàn tán!

(Kinh Trung bộ, tập I, kinh Ví dụ con rắn - Alagaddùpama sutta. HT.Thích Minh Châu Việt dịch)

Bàn thêm:

Tri ân là điều đáng quý, nhưng tri ân theo kiểu anh chàng trong câu chuyện kể trên thì thật ngốc. Bởi, sở dụng của chiếc bè là đưa người qua sông, qua vùng nước để đến bờ bên kia - đáo bỉ ngạn.

Bờ bên này là chỉ cho thân kiến, sự chấp chặt vào bản ngã, tham đắm các dục - các dục vui ít, khổ nhiều, đầy chướng ngại, hiểm nguy và kinh hãi. Bờ bên kia là Niết bàn, tịch tịnh an vui, đoạn trừ tham ái chấp thủ. Chiếc bè là pháp tu, là Bát chánh đạo.

Người tu tập rõ biết vô minh, tham ái, chấp thủ chính là đầu mối của khổ, là nguyên nhân của sinh tử luân hồi. Cần phải chân chính nhận rõ cái “tôi”, cái “của tôi” và “tự ngã của tôi”, diệt trừ tham ái, chấp thủ. Các pháp tu chính là phương tiện giúp chúng ta có được cái nhìn chân chính ấy. Nhưng khi chúng ta đạt được mục đích cũng chính là lúc chúng ta từ bỏ phương tiện, vì còn nắm giữ (dù là pháp hay phi pháp), cũng đều là trạng thái chấp thủ, bất an và kinh hãi như Đức Phật đã dạy.

Trong nhà thiền phân biệt hai cách tu: một là dùng pháp, và hai là pháp dùng.

Dùng pháp tức là nương vào các phương pháp tu tập (phương tiện) để tu trì, như tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật, ăn chay, giữ giới v.v… để đoạn trừ tham ái, chấp thủ, vô minh, thấu rõ được các pháp vốn là giả hợp, tự tại trước vô thường, trút sạch được cái “tôi”, đạt đến cứu cánh niết bàn. Cái tôi và cái của tôi được trút sạch, không còn bám giữ, tức “xả pháp”, thì cũng đâu còn bám vào phương tiện.

Còn pháp dùng, tức cũng giống kẻ ngu đội chiếc bè trên đầu kia, bị phương tiện trói buộc, không thể đạt đến cứu cánh. Bởi tự thân các phương pháp tu tập không phải là mục đích, nó là “ngón tay chỉ trăng” chứ không phải “mặt trăng”. Người tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền… mà còn nghĩ mình làm thế để được làm Phật là người bị pháp dùng chứ không phải dùng pháp. Người dùng pháp phải hiểu rõ rằng đó chỉ là những phương tiện để chúng ta thấy rõ được bản tâm của mình. Một khi còn bị cái “tôi” sai sử trói buộc, tức chúng ta còn đầy dẫy những sự mê lầm, không thể có được cái nhìn chân chính.

Chúng tôi xin mở ngoặc để đưa ra một ví dụ dễ hiểu. Như ở đời, người ta dùng tiền làm phương tiện trao đổi. Nỗ lực "chánh mạng" làm ra tiền để phục vụ cho đời sống là dùng tiền. Còn khi vì bất chấp thủ đoạn, lường gạt, chèn ép để đạt được tiền bằng mọi cách, hay vì tiền mà làm bất kỳ điều gì là bị tiền dùng, bị sai sử bởi đồng tiền. Người như thế thật đáng thương!

Chúng ta vẫn thuờng nghe: Được cá thì quên nơm, được ý thì quên lời, nên phải nương nơi lời mà đạt ý. Đạt ý mà vẫn còn chấp lời thì chưa thể gọi là liễu ngộ. Đức Phật vì muốn diễn bày thật nghĩa nên phải dùng vô số phương tiện; chúng ta phải nương theo phương tiện để ngộ lẽ chân thật chứ không phải khư khư ôm lấy phương tiện và mắc kẹt vào đó. Những người chỉ biết đem phương tiện (pháp) ra để hý luận, tranh cãi mà không biết nương vào đó để tu tập thì không những không đạt được chút ích lợi nào, mà ngược lại còn bị vướng vào muộn phiền, khổ não.

Do đó, Phật dạy: Pháp còn phải bỏ huống hồ phi pháp!

Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017

THẾ NÀO LÀ THÔNG MINH





Người thông minh, trí tuệ không phải là người điều gì cũng biết, điều gì cũng muốn phô trương, thế hiện. Mà người thông minh là người biết sử dụng khả năng của mình đúng lúc, đúng chỗ và với đúng người.

Có câu chuyện kể rằng:

Tiều phu cùng học giả đi chung một chiếc thuyền ở giữa sông. Học giả tự nhận mình hiểu biết sâu rộng nên đề nghị chơi trò đoán chữ cho đỡ nhàm chán, đồng thời giao kèo, nếu mình thua sẽ mất cho tiều phu mười đồng. Ngược lại, tiều phu thua sẽ chỉ mất năm đồng thôi. Học giả coi như mình nhường tiều phu để thể hiện trí tuệ hơn người.

Đầu tiên, tiều phu ra câu đố: “Vật gì ở dưới sông nặng một ngàn cân, nhưng khi lên bờ chỉ còn có mười cân?”. Học giả vắt óc suy nghĩ vẫn tìm không ra câu trả lời, đành đưa cho tiều phu mười đồng. Sau đó, ông hỏi tiều phu câu trả lời là gì.

“Tôi cũng không biết!”, tiều phu đưa lại cho học giả năm đồng và nói thêm: “Thật ngại quá, tôi kiếm được năm đồng rồi”. Học giả vô cùng sửng sốt, không nói được lời nào.

Khôn ngoan và trí tuệ không phải bạn học cao hay thấp, càng không do bạn có ít hay nhiều kiến thức, nó thực sự ở thái độ của bạn đối với tri thức như thế nào. Chúng ta đều biết rằng, khoa học hiện nay là sự tiến bộ dần dần, con người không ngừng nhân thức lại mới, tìm kiếm những tri thức mới. Chỉ khi có những điều mới mẻ được tạo thành thì xã hội mới phát triển được. Nhưng cũng có những người, cho rằng mình đã “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý” mà không chịu tiếp nhận, họ cứ muốn ôm giữ mãi những thứ cũ rích mà họ có được rồi tự ảo tưởng rằng mình trí tuệ hơn người.

Chẳng phải khi Darwin đưa ra thuyết tiến hóa, rằng tổ tiên của con người là loài vượn cổ, đã có rất nhiều người phản đối và lăng mạ ông, con người thời bấy giờ đều cho rằng điều đó là vô lý và không thể chấp nhận nổi. Nhưng ngày nay thì sao, thuyết tiến hóa đã nghiễm nhiên trở thành chân lý của nhân loại. Rất có thể, sau một thời gian, nó lại không còn đúng nữa, và con người lại đón nhận một “tổ tiên mới”. Ai có thể chắc chắn được điều gì chứ?

Hay như câu chuyện về Galileo với câu nói bất hủ “Dù sao thì Trái Đất vẫn quay” thì sao? Chẳng phải nó cũng “đi ngược” chân lý mà con người tôn sùng từ rất lâu rồi hay sao?

Những điều bạn cho là đúng ngày hôm nay, rất có thể ngày mai lại không còn đúng nữa. Vậy nên con người cần có một tâm thái rộng mở để đón nhận những cái mới và khiêm tốn học hỏi, đó mới là người trí tuệ.

Như vị học giả kia, tự cho rằng mình có khả năng, thông tường tri thức, mà xem thường người tiều phu, không ngờ lại tự làm trò cười.

Có câu “kiến thức của con người chỉ là một giọt nước trong biển cả mênh mông”, thế nhưng có nhiều người không hiểu được điều đó, thường hay cho rằng mình có khả năng và trí tuệ hơn người mà thích thể hiện và phô diễn.

Người xưa đã dậy rằng: “Sông càng sâu càng tĩnh, người càng hiểu biết càng khiêm nhường”

Nước sâu chảy không nghe một tiếng động, nước nông, nước cạn sẽ chảy thành tiếng róc rách. Người nông cạn, khoa trương sẽ giống như nước cạn, chỉ nghe thấy ồn ào mà không có nội hàm bên trong. Còn người cao minh, khiêm nhường sẽ giống như một nguồn nước sâu, lặng lẽ mà uyên bác. Vậy bạn muốn mình là nguồn nước sâu hay là một dòng nước cạn?

nguổn : Đại Kỷ Nguyên

Thứ Sáu, 2 tháng 6, 2017

THA THỨ...

Đây quả thật là một câu chuyện hy hữu chấn động tâm can, xúc động lòng người…




THA THỨ...


Tha thứ cho bản thân mình có lẽ là một việc không mấy dễ dàng khi người ta cứ dằn vặt và đau khổ mãi về quá khứ đau thương. Câu chuyện xúc động dưới đây sẽ cho bạn hiểu, ai cũng có thể thay đổi nếu chưa trút hơi thở cuối cùng.
Vào những ngày cuối năm 2002, trên các trang báo của Ý đã xuất hiện một thông báo tìm người rất đặc biệt:


Ngày 17/5/1992,
Ở bãi đậu xe đường số 5, khu thương nghiệp
thành phố Avenue, một người phụ nữ da trắng bị một chàng trai da đen cưỡng hiếp. Không lâu sau, người phụ nữ kia đã sinh ra một bé gái da đen. Hiện tại cô bé bị bệnh máu trắng, cần phải làm phẫu thuật cấy ghép tủy gấp, ba ruột của cô bé chính là niềm hy vọng duy nhất để cứu sống cô, hy vọng người năm xưa sau khi đọc được lời nhắn này, hãy mau chóng liên hệ với bác sĩ Adrew làm việc tại bệnh viện Elizabeth.
Bản tin đã nhanh chóng tạo ra một chấn động trong dư luận.
Đây là một câu chuyện có thật, và nó sẽ có kết cục như thế nào? Đối diện với một kẻ cưỡng bức… Bạn có tha thứ cho anh ta không? Xin hãy xem tiếp…
Cô bé bị bệnh máu trắng liên quan đến một bí mật …


Ở một khu dân cư thuộc thành phố Foyer nước Ý, Marda 35 tuổi là người phụ nữ luôn bị mọi người xì xào bàn tán, bởi cô và chồng cô Peter đều là người da trắng, nhưng trong hai đứa con của họ lại có một đứa là da đen.
Điều này đã khiến cho những người hàng xung quanh không khỏi cảm thấy tò mò, Marda luôn cười nói với họ rằng, do bà nội của mình là người da đen, ông nội là người da trắng, nên đứa con gái Monica mới xuất hiện sự lại giống như vậy.

Và bí mật đã không thể che đậy được nữa…
Mùa thu năm 2002, cô bé da đen Monica bị chẩn đoán mắc bệnh máu trắng, biện pháp chữa trị duy nhất là làm phẫu thuật cấy ghép tủy. Hết thảy những người thân họ hàng hai bên đều đến bệnh viện làm xét nghiệm nhưng không có ai thích hợp cả.
Một buổi tối, bác sĩ Andrew đang trực ban thì có tiếng gõ cửa, là vợ chồng Marda. Và ông đã được nghe bí mật mà hai vợ chồng họ chôn giấu bao năm nay.

“Chuyện xảy ra vào tháng 5/1992, lúc đó là 10h tối, trời mưa rất to. Marda vừa tan ca làm. Khi cô đi ngang qua một bãi đậu xe bị bỏ hoang, Marda nghe thấy sau lưng có tiếng bước chân; cô sợ hãi quay đầu lại nhìn, là một chàng trai da đen đang đứng phía sau cô. Anh ta tay cầm một khúc cây, đánh cô ngất đi, và làm nhục cô. Không lâu sau đó, Marda phát hiện mình đã mang thai. Họ đã vô cùng sợ hãi, lo sợ rằng đứa con này chính là của người da đen kia. Marda muốn phá bỏ cái thai, nhưng Peter đã ngăn cản cô bởi anh vẫn hi vọng đứa bé trong bụng chính là con của họ.

Cứ như vậy, họ đã thấp thỏm chờ đợi…
Tháng 3/1993, Marda hạ sinh một bé gái, là da đen. Họ đã hoàn toàn tuyệt vọng, và quyết định sẽ đem đứa bé cho cô nhi viện, nhưng mỗi lần nghe thấy tiếng khóc của nó thì lại không nhẫn tâm. Và cuối cùng họ quyết định sẽ nuôi nấng cô bé này như con gái….
Mắt Peter bắt đầu nhòe đi, anh tiếp tục nói:
Dù sao thì Marda cũng đã mang thai nó, đứa bé không có tội gì cả. Nó xứng đáng được sống và yêu thương.
Sống mũi bác sĩ Andrew cũng đã cay cay, ông im lặng một lúc rồi cuối cùng mở lời: “Ông bà phải tìm được cha ruột của Monica, nói không chừng tủy xương của anh ta, hoặc tủy xương của con cái anh ta có thể thích hợp với Monica”.
“Nhưng… ông bà có bằng lòng để cho anh ta xuất hiện trong cuộc đời mình lần nữa hay không?”
Marda nói: “Vì Monica, chúng tôi bằng lòng tha thứ cho anh ta, nếu như anh ta chịu bước ra để cứu đứa bé, tôi hứa sẽ không khởi tố”.
Bác sĩ Andrew không khỏi chấn động sâu sắc bởi tấm lòng lòng thương con của người mẹ này.
Marda và Peter suy nghĩ hết lần này đến lần khác, quyết định dùng hình thức giấu tên, để đăng một bản tin tìm người trên báo.

Tháng 11/2002, trên hầu hết các tạp chí thành phố Foyer đều đăng một bản tin tìm người. Nhưng trong biển người mênh mông, huống hồ chuyện đã nhiều năm như vậy, biết đi đâu để tìm tên cưỡng dâm năm xưa?
Tình mẫu tử cảm động lòng người đã tình cờ giúp đỡ nhiều bệnh nhân bất hạnh…..
Câu chuyện này đã làm cảm động rất nhiều người, một làn sóng hiến tủy lan khắp cả nước, không ít người tự nguyện làm xét nghiệm tủy để xem mình có thích hợp hay không. Và điều đó đã cứu được rất nhiều bệnh nhân bị bệnh máu trắng, nhưng Monica lại không nằm trong số những người may mắn.
Bản tin cũng truyền đến tai những tội phạm da đen năm đó. Rất nhiều người đã tự nguyện trình báo để làm xét nghiệm xương tủy, hi vọng có thể hiến tủy cho Monica. Cả những tù nhân da trắng cũng bị cảm động trước tình mẫu tử của Marda, họ bày tỏ sự quan tâm chân thành đến cô và cung cấp nhiều manh mối hỗ trợ cảnh sát và gia đình tìm ra kẻ cưỡng gian năm xưa.

Nhưng đáng tiếc thay, họ vẫn không thể tìm ra cha ruột của Monica. Hơn hai tháng trôi qua, người đàn ông da đen kia vẫn không xuất hiện… Marda và Peter vẫn hồi hộp lo lắng chờ đợi phép màu sẽ đến với con gái của họ.
Người đàn ông bí ẩn…dần hé lộ
Sau khi bản tin tìm người này xuất hiện trên trang báo ở thành phố Napoli, trong lòng ông chủ của một nhà hàng cao cấp là Achlia bắt đầu dậy sóng.
Ngày 17/5/1992, trong cuộc đời anh đã trải qua một đêm gió bão bùng tựa như ác mộng, anh rất có thể là người được nhắc đến trong câu chuyện trên.
Không ai có thể ngờ được rằng triệu phú Achlia của ngày hôm này từng là một người rửa chén thuê trong một nhà hàng ở thành phố Foyer. Cha mẹ mất sớm, anh phải nghỉ học, lăn lộn kiếm sống ngoài xã hội. Trớ trêu thay, ông chủ của anh lại là một kẻ phân biệt chủng tộc. Dẫu anh có cố gắng làm việc chăm chỉ thế nào thì vẫn luôn phải chịu sự đánh đập chửi mắng từ ông ta.
Đó là sinh nhật lần thứ 20 của Achlia. Anh dự định sẽ nghỉ làm sớm để đón mừng sinh nhật của mình, không ngờ trong lúc loay hoay đã vô tình làm rơi một cái đĩa, ông chủ túm chặt lấy cổ anh bắt anh phải nuốt hết những mảnh vỡ đó. Achlia phẫn nộ cho ông ta một đấm, rồi xông ra khỏi quán.
Anh quyết tâm báo thù người da trắng. Buổi tối hôm đó trời mưa tầm tã, trên đường dường như không có một bóng người đi lại, trên bãi đậu xe anh gặp Marda, căm phẫn dâng trào trong anh về sự phân biệt chủng tộc, lòng căm thù đối với người da trắng đã khiến anh phạm phải tội ác lớn nhất trong cuộc đời mà đến tận bây giờ anh vẫn không thể tha thứ cho chính mình: anh đã cưỡng bức người phụ nữ vô tội đó.

Hối hận vô cùng, anh đã mua vé xe lửa đến thành phố Napoli, rời xa khỏi thành phố này trong đêm hôm đó, hi vọng có thể quên đi cảm giác tội lỗi mà anh đã gây ra.
Về sau, Achlia đã tìm được công việc thuận lợi ở nhà hàng của một người Mỹ, đôi vợ chồng đó rất quý sự cần cù của anh, còn đem cô con gái Lina gả cho anh, về sau còn giao cho anh quản lý toàn bộ công việc kinh doanh của nhà hàng.
Mấy năm trở lại đây, anh đã phát triển nhà hàng thành một nhà hàng cao cấp sang trọng. Anh và Lina cũng có với nhau ba đứa trẻ vô cùng đáng yêu. Đối với mọi người, Achlia thật sự là một ông chủ tốt, người chồng tốt và người cha tốt.
Achlia vẫn không sao quên được tội ác năm xưa. Anh luôn cầu nguyện Thượng Đế, xin Người hãy phù hộ người phụ nữ đã từng bị anh làm hại kia, hy vọng cô có thể bình an vô sự sống một cuộc sống hạnh phúc, và không bị tổn hại bởi tội lỗi anh đã gây nên. Nhưng anh trước giờ chưa từng đem bí mật trong lòng này nói với bất kỳ ai.
Buổi sáng hôm đó, Achlia đã đọc đi đọc lại bản tin đó đến mấy lần, trực giác mách bảo rằng anh chính là kẻ cưỡng gian được tìm trên tờ báo đó. Anh không bao giờ nghĩ rằng, người phụ nữ đáng thương đó đã mang thai và đã nuôi dưỡng đứa con vốn không thuộc về mình.
Cả ngày hôm đó, Achlia đã gọi điện thoại cho bác sĩ Andrew mấy lần, nhưng điện thoại còn chưa quay xong anh liền vội cúp máy. Trong lòng anh đang giãy giụa đau đớn. Nếu như đứng ra thừa nhận tất cả, mọi người sẽ biết được quá khứ xấu xa của anh, những đứa con sẽ không còn yêu thương anh nữa, anh sẽ mất đi gia đình hạnh phúc và người vợ xinh đẹp, cũng sẽ mất đi sự tôn trọng của xã hội đối với mình. Anh đã rất khó khăn để có một cuộc sống như ngày hôm nay, anh không thể để hạnh phúc tuột mất được.
Bữa tối hôm đó, mọi người trong nhà đều bàn luận về những tin tức có liên quan đến Marda trên báo chí như những lần trước. Người vợ Lina nói:
“Em thật sự rất khâm phục người phụ nữ này. Nếu như đổi lại là em, em sẽ không đủ can đảm để nuôi dưỡng con gái đã được sinh ra vì bị cưỡng hiếp. Em càng khâm phục chồng của cô ấy, anh ta quả thật là một người đàn ông đáng được tôn trọng, có thể chấp nhận một đứa con như thế”.
Achlia im lặng hồi lâu rồi hỏi: “Vậy em nhìn nhận kẻ cưỡng hiếp đó như thế nào?”
Lina căm phẫn nói: “Em tuyệt đối không thể tha thứ cho hắn ta được. Năm xưa đã làm sai rồi, vào thời khắc then chốt của bây giờ, hắn ta lại rụt cổ trốn tránh. Hắn ta thật đúng là quá đê tiện, quá ích kỷ, thật là quá ghê tởm! Hắn ta là con quỷ hèn nhát!”
Nghe Lina nói vậy, Achlia càng không dám nói ra sự thật với vợ. Anh trằn trọc suốt đêm không sao ngủ được, cảm giác bản thân như bị đày đọa dưới địa ngục, những khung cảnh trong đêm mưa gió tội ác đó không ngừng xuất hiện trước mắt. Anh dằn vặt tự hỏi: “Mình rốt cuộc là người tốt, hay là người xấu?”

Mấy ngày sau, Achlia không cách nào im lặng được nữa, tình thương của người cha đã bùng lên từ nơi sâu thẳm trong tâm hồn anh, anh muốn cứu con gái mình. Anh đã phạm sai lầm một lần rồi, bây giờ không thể phạm sai lầm tiếp nữa. Anh gọi cho bác sĩ Andrew bằng điện thoại công cộng.
Cũng trong tối hôm đó, anh lấy hết can đảm để nói với vợ tất cả. Lina bật khóc, cô không thể nào có thể chấp nhận được người chồng rất mực yêu thương cô lại chính là một tên tội phạm. Cô chạy ào ra khỏi cửa, lái xe đi suốt đêm trong vô vọng, cô chưa từng trải qua đêm nào khủng khiếp như vậy trong cuộc đời. Sau một đêm dằn vặt đau khổ, cô đã quyết định trở về. Achlia ra mở cửa, hai mắt đỏ hoe. Lina kiên định nói: “Achlia, anh hãy đến chỗ bác sĩ Andrew! Em sẽ đi cùng với anh!”
Trong tuyệt vọng luôn xuất hiện ánh sáng hy vọng….
Ngày 8/2/2003, vợ chồng Achlia đã đến bệnh viện Elizabeth và làm xét nghiệm ADN, kết quả anh thật sự chính là cha ruột của Monica.
Khi biết được người đàn ông da đen từng làm nhục mình cuối cùng đã dũng cảm bước ra, những giọt nước mắt hạnh phúc không ngừng lăn dài trên má Marda. Cô đã căm hận trong suốt 10 năm, nhưng thời khắc này đây cô vô cùng cảm động.

Tất cả đều được tiến hành cực kỳ bí mật, bệnh viện đã không tiết lộ thân phận của người trong cuộc cho báo chí mà chỉ thông báo với ký giả rằng đã tìm được cha ruột của Monica. Thông tin này đã khiến người dân cả nước quan tâm, họ không ngừng gọi điện thoại và viết thư cho bác sĩ Andrew, nhờ ông gửi sự tha thứ và lòng tôn kính của họ đến người da đen này: “Anh ấy từng là tội nhân, nhưng giờ đây anh ấy là một anh hùng!”
Ngày 18/2, dưới sự sắp xếp bí mật, Marda gặp Achlia trong phòng khách của bệnh viện. Khi nhìn thấy Marda, bước chân Achlia nặng nề, sắc mặt tái nhợt. Marda và chồng bước đến, nắm chặt lấy tay anh, ba người nhìn nhau khóc không thành tiếng, nước mắt hòa lẫn vào nhau.
Rất lâu sau, Achlia nghẹn ngào nói: “Xin lỗi, xin lỗi, xin hãy tha thứ cho tôi! Câu nói này tôi đã chôn sâu trong lòng suốt hơn 10 năm nay rồi, hôm nay cuối cùng đã có cơ hội để nói với chị. Tôi thực sự hi vọng Monica và anh chị sẽ sống hạnh phúc bên nhau. Tôi rất cảm ơn Monica, con bé đã cho tôi một cơ hội để chuộc tội và có thể sống thanh thản trong nửa đời còn lại. Đây chính là món quà mà con bé đã ban tặng cho tôi.
Marda nói: “Cảm ơn cậu đã có thể bước ra. Cúi xin Thượng Đế phù hộ, tủy xương của cậu đã cứu sống con gái tôi!”
Ngày 22/2/2003, thời khắc mà mọi người chờ đợi từ lâu cuối cùng đã đến, xương tủy của Achlia được cấy ghép vào trong thân thể của Monica. Một tuần sau đó, Monica khỏe mạnh xuất viện. Vợ chồng Marda đã hoàn toàn tha thứ cho Achlia…

Đây quả thật là một câu chuyện hy hữu chấn động tâm can, xúc động lòng người…


Có lẽ bạn cũng đã từng làm sai, đi lầm đường, nhưng chỉ cần có lòng sửa lỗi thì bạn có thể “bình thản mà đối mặt với tương lai”. Bởi chỉ khi ta thành thật với bản thân mình, dũng cảm chấp nhận con người mình dù là những điều xấu xa nhất, chúng ta mới có thể nhìn thấy ánh sáng của sự tốt đẹp. Trong tận cùng của cái ác chính là bản tính lương thiện bị che giấu. Đừng ngại ngần đối diện với nó mà vươn lên, đó mới là sự tốt đẹp chân chính và vĩnh hằng trong cuộc đời.
Tham khảo Cmoney
Linh An

Thứ Hai, 10 tháng 4, 2017

Triết lý sống còn



Loài người từ trước đến nay dù sống dưới hình thức, chế độ, xã hội khác nhau, vẫn có chung một ước vọng thiêng liêng; đi tìm một nguồn sống, một tinh thần sống ngày một thích đáng hơn. Cơ chế khoa học phát triển nhanh chóng, đời sống vật chất con người theo đó cũng phát triển không ngừng. Vì sự phát triển không ngừng đó nên càng ngày con người lại càng đánh mất đi chính mình và chỉ biết trước mắt là tạo ra càng nhiều của cải càng tốt, bất chấp mọi thủ đoạn xảo trá, cốt chỉ có lợi cho mình là được còn lại mặc xác không quan tâm. Sự mặc xác đó tạo ra một tiền đề mà chính bản thân người tạo luôn cảm thấy khổ sở trong sự ích kỷ của tham lam và hận thù, để rồi lương tâm bị giày vò cắn rức sầu khổ trong tội lỗi bởi lòng tham của si mê.
Việt nam chúng ta luôn tự hào là một dân tộc có một nền văn hóa nếp sống tình cảm sâu đậm thắm thiết giữa con người và con người, con người và mọi loài. Đời sống thanh đạm đơn giản làm nên một cốt cách riêng cho người Việt, nhìn vào chiếc áo tràng lam mỗi lần chúng ta mặc vào lên chùa lễ phật cũng đủ nói lên điều đó! Rất quý phái nhẹ nhàng sang trọng.


Đứng ở góc độ bây giờ ,khi mà xã hội tây phương đã chán ngán với cuộc sống xô bồ nhu cầu vật chất thì họ lại muốn tìm về đông phương để học hỏi và trau dồi đời sống tâm linh thanh bình, mà chính phật giáo lại giúp cho họ có những giây phút an lạc thảnh thơi.


Charles T. Gorham nhận định rằng: “Chắc chắn từ miền Ðông Phương huyền bí, nơi đất mẹ mầu mỡ của tôn giáo, cho chúng ta sự khám phá trung thực ,nơi Phật giáo từ khi tôn giáo này cho chúng ta biết nền đạo đức huy hoàng và sự thanh khiết tiềm ẩn sâu xa trong bản tính tự nhiên của con người không cần đến một thần linh nào khác mà bản tính này vốn tiềm ẩn trong tâm của con người và thức tỉnh họ biến thành cuộc sống vinh quang.”
Còn Albert Einstein nhà khoa học lỗi lạc về thuyết tương đối nghĩ: “Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo chung cho cả vũ trụ. Tôn giáo đó vượt ra ngoài ý tưởng một đấng thiêng liêng nào đó, các tín điều và lý thuyết. Tôn giáo đó bao trùm cả thiên nhiên và tinh thần, phải căn cứ vào ý niệm đạo giáo phát sanh từ những thực nghiệm của mọi vật, thiên nhiên và tinh thần như một sự thuần nhất đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo đáp ứng được các điều đó.”


Ngược lại người á đông nói chung và người Việt chúng ta nói riêng đang dần dần đánh mất đi nết đẹp văn hóa đông phương để rồi chạy theo vết ngựa lầy lội tây phưong hóa đã đi qua. Trên quan điểm này chúng ta cần phải đánh một hồi chuông thức tỉnh để mọi người biết dừng lại trước những gì mà mình đang có và nên cảm thấy hạnh phúc trước những cái mà mình có, đừng để những giây phút hạnh phúc mình có đi qua rồi lại hối tiếc.


Nghĩa là chúng ta phải tập sống sâu sắc trong từng ngày, từng giờ, từng cử chỉ trong lúc làm việc, lúc ăn, lúc giao tiếp với mọi người …đăc biệt; nên cảm nhận sự có mặt của những người thân thương xung quanh, đừng để thời gian vô thường, từng người thương bỏ ta đi về lại cát bụi rồi ta mới chợt nhớ cả đời sống chưa bao giờ ta nhìn thấy rõ mặt người thương (có mà như không), hay nói một lời hay ý đẹp đến người mình thương. Ta chớ có tưởng người thương sẽ có mặt bên ta mãi mãi. Không! Không bao giờ có như vậy, đụng chuyện thì sự ăn năn hối hận chỉ là muộn màng mà thôi. Bao lâu cho một kiếp người? Hẳn trong mỗi chúng ta không ai biết để trả lời câu hỏi này. Ta chỉ biết số mạng con người có hạn, cho nên ta phải tập sống và sống như thế nào để biết thưởng thức những mầu nhiệm của cuộc sống mà tạo hóa đã ban tặng cho ta là một điều thiết yếu.
Quả thật, khoa học và kỹ thuật có mang lại một vài tiện nghi vật chất lẫn tinh thần tạm bợ cho đời sống, nhưng chúng đã làm cho đời sống con người bất an, xáo trộn mọi hệ thống sinh hoạt thường nhật của xã hội. Nếu có ai hỏi rằng: “Con người chúng ta có hạnh phúc nhiều hơn ông cha ta trong quá khứ không?” Câu trả lời là “không”. Vì Trong quá khứ ông cha ta đã biết áp dụng “Triết lý sống còn” nghĩa là triết lý “Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Còn chúng ta bây giờ hễ thấy lợi nhuận là chui vào rồi hối hận chui ra không kịp. Nói như vậy không phải là phũ phàng lên án xã hội bây giờ mà nói để chúng ta có một nhận định rõ ràng về cuộc sống sâu sắc hơn trong thế giới đầy biến đổi của thiên tai hoạn nạn này.
Có câu “Bon chen cho lắm trắng tay cuối đời”*. Dù bạn có giàu cỡ nào tôi không quan tâm, hay bạn nghèo cỡ nào tôi chả chú ý, mà cái quan trọng là xem bạn sống như thế nào, điều đó mới là cốt tủy của lẽ sống.


“Một ngày ngày đã qua
Ôi một ngày ngày chóng qua
Một chiều một ngày âm thầm đã
Đã ra đi không còn gì…
Một ngày ngày đã qua
Ôi từng ngày từng xót xa
Một chiều một ngày tay người đã
Thả mây bay cho đường dài…
Người hãy nhớ mang theo hành trang
Qua khoảng trời vắng chân mây địa đàng
Người hãy nhớ hãy nhớ hoài
Người hãy nhớ hãy nhớ đời
Người hãy nhớ hãy nhớ người…”
(Trịnh công sơn)


Hãy là chính mình khi bạn còn đủ sức khỏe và khối óc suy luận trong sáng minh mẫn, một ngày đi qua là một ngày bạn có cơ hội để sống có nhiều ý nghĩa, nhiều niềm vui, đầy tình thương và hơn cả có thời gian để ta quay lại chính ta. Ngồi bên chén trà trong khoảng lặng thanh vắng bao la của vũ trụ, ta lắng nghe tiếng nói thổn thức từ nội tâm, nhìn thấy rõ bản chất của sự sống tỏa chiếu khắp mọi vật. Có như vậy, một ngày đi qua ta chẳng có gì hối tiếc vì ta đã sống thực với cuộc sống đầy mầu nhiệm và linh thiêng này.


Nhìn những mùa thu đi …
Bốn mùa thay lá bốn mùa thay hoa …
(Trịnh công sơn)


Tất cả những giây phút trôi lăn không ngưng nghỉ là vĩnh cữu của thời gian.


Hồng Bối

Thứ Hai, 13 tháng 3, 2017

19 câu để đời của Lão Tử dùng làm kim chỉ nam cho cuộc sống






Lão Tử là một nhân vật chính yếu trong Triết học Trung Quốc. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông sống ở thế kỉ 6 TCN. Nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống ở thế kỉ 4 TCN, thời Bách gia chư tử và thời Chiến Quốc.
Lão Tử được coi là người viết Đạo Đức Kinh - cuốn sách của Đạo giáo có ảnh hưởng lớn. Lão Tử được công nhận là Khai tổ của Đạo giáo.
Cái tên "Lão Tử" là danh xưng kính trọng. Lão (老) có nghĩa "đáng tôn kính" hay "già". Tử (子) dịch theo nghĩa đen là "chú bé", nhưng nó cũng là một thuật ngữ chỉ một đẳng cấp quý tộc tương đương với Tử tước, cũng như là một thuật ngữ tỏ ý tôn kính được gắn với những cái tên của những bậc thầy đáng kính trọng. Vì thế, "Lão Tử" có thể được dịch tạm thành "Bậc thầy cao tuổi".


Lão Tử là bậc tu đạo hơn 3.000 năm trước, được cho là người đầu tiên thuyết về vũ trụ, ông để lại câu: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo” với ngụ ý Đạo nếu định nghĩa được thì không còn là Đạo, Lão tử không thể giảng rõ hơn được, vậy rốt cuộc Đạo là gì?
Phải chăng cái Đạo, chân lý mà ông muốn đề cập là điều to lớn, không ai có thể nói chính xác đó là gì, hay con người không xứng để nghe?
Ông để lại nhiều câu khiến người đời và hậu thế phải nghiêng mình khâm phục, người đọc tùy hoàn cảnh mỗi lần xem lại đắc thêm ý mới, có tác dụng dẫn dắt con đường tâm linh, dẫn chứng cho ý ông nói, thế nhân ai muốn định nghĩa Đạo mà ông giảng, sau một thời gian nhìn lại cũng tự thấy mình “lạc hậu”, nên không thể định nghĩa được là vậy.
1. Lo thắng người thì loạn, lo thắng mình thì bình.
2. Nếu muốn được tất cả, phải từ bỏ tất cả.
3. Hiểu người là khôn, hiểu được mình mới là khôn thật sự.
4. Nếu biết vạn vật đều thay đổi, thì bản thân không nên cố nắm giữ điều chi.
5. Ai vội vàng tiến lên phía trước đều không thể đi xa.
6. Ai muốn hiển thị mình sẽ tự làm lu mờ bản thân.
7. Ai muốn chứng thực bản thân sẽ không tự biết bản thân mình là ai.
8. Ai muốn ước chế người khác thường không tự ước chế bản thân mình.
9. Không còn sự đối chọi, ma quỷ tự tiêu tan.
10. Nếu biết nhìn vào tâm mình, anh có thể tìm thấy tất cả các câu trả lời.
11. Nhu thắng cương, tĩnh thắng động.
12. Hãy để mọi chuyện tùy kỳ tự nhiên.
13. Nếu người muốn co lại, trước hết hãy cho phép nó duỗi ra. Nếu người muốn từ bỏ, hãy cho phép nó nhảy xuất ra. Nếu người muốn có điều gì, trước hết phải cho đi thứ đó.
14. Những khởi đầu tốt đẹp thường được ngụy trang thành một đoạn kết bi thảm.
15. Chú tâm đến sự công nhận của người khác rồi người sẽ trở thành tù nhân của chính họ.
16. Nếu một người có thể nhận ra mình không thiếu thứ gì, cả thiên hạ đã thuộc về người đó.
17. Vô hình vô tướng là niềm an lạc nhất.
18. Bậc trí tuệ là người biết những gì mình không biết.
19. Khi bạn hài lòng đơn giản là chính mình, không so sánh hay cạnh tranh với ai, tất cả mọi người sẽ tôn trọng bạn.
Nguồn: Tinh hoa
Theo http://www.chungta.com/

Thứ Năm, 16 tháng 2, 2017

Cần lắm một người bạn tri kỷ trong cuộc đời







Cuộc sống thì muôn hình vạn trạng, vậy nên cảm xúc của con người cũng biến đổi muôn vàn. Ngoài tình yêu, tình bạn và tình thân chúng ta vẫn còn một thứ tình cảm là kết tinh của cả ba tạo thành đó gọi là: tri kỷ. Trong cuộc sống, tìm được người mình yêu thương, tâm đầu ý hợp đã khó, tìm được một người bạn tri kỷ còn khó hơn gấp nghìn lần. Mất người yêu, mất chồng hay mất vợ, ta buồn… buồn lắm, nhưng rồi sau này ta vẫn còn có thể có cơ hội gặp gỡ và tìm được một người yêu mới, chồng mới hay vợ mới… còn bạn tri kỷ một khi mất đi, ta sẽ đau hơn gấp nghìn lần và sẽ buồn… buồn cả một đời.








Bạn tri kỷ, đó là một thứ tình tâm giao vừa ấm áp như tình yêu, lại vừa nâng giữ như tình thân. Ranh giới khiến người ta đôi khi có thể ngộ nhận tri kỷ và người yêu thành ra mong manh tới mức không phải người nào trong cuộc cũng có thể tỉnh táo mà tránh né. Quá một chút thôi có thể là sẽ mất.



Bạn tri kỷ luôn là người hiểu ta nhất. Chỉ có người ấy mới biết được ta nghĩ gì , buồn gì, vui gì, thích gì, ghét gì... dù ta không cần nói gì hết.

Bạn tri kỷ là người ta mong tìm đến nhất mỗi khi gặp chuyện khó khăn, đau khổ, bất hạnh… Và sau khi được tâm sự, được dựa vào vai bạn để khóc, những muộn phiền ưu tư sẽ nguôi ngoai… ta bỗng thấy nhẹ lòng hơn.

Bạn tri kỷ là người ta có thể nói thật nhất mọi ý nghĩ của mình ngay cả những chuyện thầm kín không bao giờ có thể chia sẻ cùng ai… kể cả vợ hoặc chồng.

Bạn tri kỷ là người dám phê bình những khuyết điểm của ta, những sai lầm của ta mà chẳng sợ ta khó chịu hay giận dỗi…Và bao giờ sau đó cũng cho ta những lời khuyên rất chân thành, có lợi nhất cho ta.

Bạn tri kỷ là người luôn kiên nhẫn lắng nghe ta kể lể đủ điều, nhất là về những điều phiền muộn, khó chịu, những ước mơ hoài bão tưởng chừng như viển vông, hão huyền của ta mà chẳng bao giờ chế giễu, nhạo báng ta hay thấy sốt ruột vì mất thời gian của họ.

Bạn tri kỷ là người âm thầm lặng lẽ mang đến cho ta những hạnh phúc giản dị nhưng chẳng bao giờ kể công.

Tất cả những người yêu ta đều có thể rời bỏ ta ra đi, chỉ có bạn tri kỷ vẫn luôn ở bên ta, họ cho ta mượn một bờ vai ấm áp để tựa, lẳng lặng nghe ta tâm sự cho vơi nỗi buồn, động viên, dỗ dành ta… Dù ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào, bạn tri kỷ cũng luôn ở bên ta, giúp ta vượt qua mọi khó khăn, sóng gió trong cuộc sống.

Nhiều người cứ lầm tưởng rằng đã là bạn tri kỷ thì phải cùng đồng hành trên tất cả những chặng đường đời, phải thường xuyên hẹn hò với nhau như hình với bóng, hay phải buôn chuyện điện thoại với nhau mấy tiếng đồng hồ…Thực ra không phải như vậy. Có khi cả năm chẳng có cơ hội gặp nhau lần nào, cả năm chẳng đi chơi riêng với nhau bao giờ, thi thoảng có gọi điện thoại cũng chỉ nói ngắn gọn vài câu. Ấy nhưng mà mỗi lúc ở cạnh nhau, không cần ai phải nói nhiều, cả hai đều đọc được suy nghĩ của người kia và hiểu hết mọi tính cách của nhau. Đôi khi chỉ là bạn thấy có bài hát, bản nhạc không lời nào hay và gửi cho ta để cùng thưởng thức. Khi nghe những bài hát ấy, bản nhạc ấy, ta cũng dường như cảm nhận được tình cảm của bạn mình gửi gắm ở trong đó.Đôi khi, bạn đi chơi xa, chỉ mua về tặng ta một chiếc vòng đeo tay rất bình thường, không có giá trị về kinh tế nhưng ta lại luôn trân trọng, yêu quý món quà đó hơn cả những chiếc vòng vàng đắt tiền, luôn đeo chiếc vòng đó bên tay cho đến khi chẳng may nó bị vỡ mới thôi. Đôi khi, chỉ cần nghe bạn nói cần tìm mua một giỏ hoa Phong Lan rừng tặng bạn thân, ta sẵn sàng lấy ngay giỏ hoa Phong Lan rừng mà mình yêu thích nhất để mang cho bạn đi tặng người khác. Không phải là chỉ là giúp đỡ chính bạn tri kỷ của mình mà ta còn sẵn sàng giúp đỡ hay làm vui lòng cả những người bạn thân của họ, làm không vì mục đích gì hết, đơn giản là lòng ta cảm thấy vui. Đôi khi, ta được bạn tri kỷ tặng cho một giỏ hoa Phong Lan rừng-Loài hoa mà ta yêu thích nhất. Bạn thì cất công tìm bằng được đúng loài hoa ta yêu thích dù có khó tìm đến mấy, còn ta sẽ cố gắng chăm sóc giỏ hoa đó hằng ngày để đền đáp tấm lòng của bạn. Dường như tình cảm tốt đẹp giữa hai người bạn đều đã được gửi gắm qua giỏ hoa ấy. Đôi khi, bạn đi công tác xa về, mua cho ta một ít hải sản, một hộp bánh Bía, một chai mật ong, một ít khoai lang hay một túi long nhãn… Những món quà đơn giản nhưng chứa chan tình cảm và cả tấm lòng của bạn dành cho ta. Đôi khi, mấy tháng không gặp nhau, không điện thoại, không thư từ liên lạc nhưng chỉ cần nhận được một tấm ảnh chụp chung giữa hai người nhân một dịp nào đó do bạn gửi cho ta, ta cũng cảm thấy ấm áp vô cùng và cảm nhận rằng bạn cũng đang nhớ đến ta chứ không hề lãng quên ta. Đôi khi, ta có bài viết được đăng báo, chỉ đơn giản là gửi tặng bạn một tờ báo có đăng bài viết của ta, ta cũng muốn bạn đọc bài của ta, bạn cũng thích được đọc báo có bài của ta, trân trọng từng tờ báo của ta tặng. Một tờ báo không có gì quý giá nhưng đều thể hiện tình cảm quý mến giữa hai người. Đôi khi, ta có dịp lên vùng biên giới- nơi bạn sống và làm việc để đi công tác. Khi về, ta bị cơn đau dạ dầy hành hạ, bạn không yên tâm để ta đi xe khách một mình nên đã tự lái xe đi cả đoạn đường dài mấy trăm cây số trong đêm đông giá rét, đầy sương mù để đưa ta về Hà Nội. Trời mưa, không nhìn thấy kính, đi đêm buồn ngủ đến mức hai mắt cứ trùng xuống nhưng bạn vẫn phải cố gắng thức để lái xe. Trời gần sáng đưa ta về đến Hà Nội xong thì bạn lại vội vàng lái xe quay về cửa khẩu ngay. Dù sau này, có thể mãi mãi không còn có cơ hội gặp lại nhau nữa, không còn có kỷ niệm nào như thế nữa, một người ở tận biên giới xa xôi, một người ở mãi Hà Nội, nhưng hai người bạn vẫn luôn nhớ về nhau, tình cảm trong nhau vẫn luôn còn nguyên vẹn. Cả hai đều đã có gia đình, dù không thể cùng đồng hành trên mỗi chặng đường đời nhưng họ vẫn luôn nhớ về nhau. Có những ngày mưa, có một người ở tận biên giới, sương lạnh trắng xóa, không ai nhắn tin, gọi điện cho ai nhưng cả hai đều biết rằng người kia cũng đang ngồi ngắm mưa rơi và nhớ tới một người bạn ở phương xa giống như mình. Có lẽ, giữa những người có tình cảm thực sự với nhau thì dù ít có cơ hội gặp nhau, dù ít có thời gian gắn bó bên nhau, dù khoảng cách địa lý có xa xôi đến mấy nhưng trong lòng họ luôn dành những tình cảm tốt đẹp nhất cho nhau, luôn nhớ đến nhau với những điều thiêng liêng nhất, luôn đặt nhau ở vị trí trang trọng nhất trong trái tim mình.

Theo lý thuyết, người hạnh phúc thì không cần có tình nhân nhưng con người muốn hưởng hạnh phúc trọn vẹn thì vẫn cần có thêm một người bạn tri kỷ.

Vợ hoặc chồng có chung với ta nhiều thứ: chung nhà, chung giường, chung con, chung cả đường đi lối về…Nhưng có khi ta vẫn cảm thấy mình cô đơn với trái tim lạnh ngắt trong chính ngôi nhà của mình. Còn bạn tri kỷ chẳng có gì chung với ta, ngoài kỷ niệm chung, sở thích chung. Nhưng ta luôn cảm thấy ấm áp khi nghĩ về họ.

Ta thường tự tay nấu món ăn ngon chồng thích ăn, mất bao nhiêu công sức và tâm huyết để nấu xong bữa cơm nhưng khi ăn, chồng chẳng bao giờ nói được một câu khen nào dễ nghe, hoặc là không khen hoặc là chê hết cái này đến cái kia.Trong khi, ta chẳng bao giờ nấu ăn cho bạn tri kỷ. Giỏi lắm mới hẹn đi ăn ngoài cùng nhau được một bữa. Nhưng bạn luôn chủ động gọi đủ các món ta thích ăn nhất và hỏi xem ta ăn món này có ngon không, có thích gọi thêm món khác nữa hay không?

Vợ hoặc chồng có thể bỏ ra nhiều tiền để mua những món quà có giá trị tặng ta nhưng ngày lễ tình yêu, ngày quốc tế phụ nữ, ngày sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới…có khi lại không nhớ. Còn bạn tri kỷ chẳng bao giờ mua tặng ta những món quà đắt tiền. Nhưng đi đâu cũng nhớ mua một món quà nhỏ tặng ta làm kỷ niệm, nhân dịp lễ nào cũng gửi tin nhắn hay gọi điện chúc mừng ta đầu tiên trong ngày.

Rõ ràng là bạn tri kỷ luôn hiểu ta nhất, luôn ở bên cạnh ta, luôn giúp ta vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, luôn có ý nghĩa quan trọng trong trái tim ta nhưng tại sao ta lại không chọn họ làm người yêu hay cùng họ nên duyên vợ chồng?Có lẽ vì vợ chồng là nợ nhưng bạn tri kỷ là duyên. Vợ chồng là định mệnh mà định mệnh thường mù quáng bởi định mệnh chọn người theo thời điểm. Bạn tri kỷ là bí mật trong tim, dịu dàng và đẹp đẽ như ánh sáng có khả năng chữa lành mọi vết thương.

Bạn tri kỷ là người mà chúng ta có thể làm đủ trò với họ như một người bạn, có thể lãng mạn như một người yêu và lại là nơi tìm về sau những vấp ngã như một người thân. Cái tình cảm ấy vô cùng thiêng liêng khi vượt trên tình bạn và cũng không cần tính đến cái giới hạn của tình yêu. Bởi giữa tri kỷ với nhau, một cái ôm chân thành, hai bàn tay siết chặt và cùng làm những điều nhỏ nhặt cũng đã đủ thấy vui. Chẳng cần nói, cũng chẳng cần cười, chỉ cần nhìn vào mắt nhau và cảm nhận cũng đủ để hiểu được suy nghĩ của đối phương. Bạn tri kỷ là một người mà không phải ai cũng có thể tìm được, họ ẩn rất sâu như chính bí mật của riêng mỗi người. Vậy nên khi có một ai đó cầm được chìa khóa, mở được chiếc hộp bí ẩn kia để chạm sâu vào từng ngóc ngách của tâm hồn, thì hẳn đó là bạn tri kỷ. Bởi đôi khi giữa những người yêu nhau vẫn còn có sự riêng tư cần phải giữ, nhưng với bạn tri kỷ thì nắm rõ từng suy nghĩ dành cho nhau.

Nếu như bạn đang có một người tri kỷ như thế, hẳn là bạn rất may mắn trong cuộc đời này. Bởi vì tri kỷ là thứ tình cảm vô định hình... Cái mà ta gọi là trên tình bạn nhưng lại thi vị hơn cả tình yêu.

Ai từng nghe qua tích Bá Nha Tử Kì, hẳn sẽ biết câu: “Cao sơn lưu thủy, tri kỷ khó tìm”. Đối với một kiếp nhân sinh, trong đời chỉ cần có được một người tri kỷ cũng là hạnh phúc lắm rồi. Chúc tất cả mọi người sẽ tìm thấy cho riêng mình một người bạn tri kỷ và sống một cuộc sống hạnh phúc viên mãn trọn vẹn.



(Thân tặng bạn Hoàng Thu Phương-Giảng viên Tiếng Anh, Khoa Sau đại học,Viện Đại học Mở Hà Nội)

Hà Nội, ngày 01 tháng 7 năm 2015

Th.s Vũ Thị Minh Huyền

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

Bắt Đầu Và Kết Thúc Từ Một Mùa Xuân






Dương Như Tâm




... mùa xuân dân tộc, ngày tết cổ truyền của Việt Nam không phải là dịp để rãnh rang đi du lịch hay tụ họp ăn uống hoặc khoe khoang sự giàu sang giả ảo; mà là dịp để người thân, con cháu trong gia đình đoàn tụ với nhau. (DKT)

Nhớ tính triết lý của bộ phim Hàn Quốc "Xuân Hạ Thu Đông rồi Xuân" trước đây chắc rằng ai cũng đã từng một lần xem qua. Nếu nói cho tròn câu để tựa đề bộ phim thêm hấp dẫn là "Xuân Hạ Thu Đông" thì có thể sẽ không gây thắc mắc. Thêm một từ "Xuân" nữa vào có lẽ những người thực hiện không đơn giản ý niệm rằng không chỉ là thêm mà là khằng định quy luật tất yếu cõi nhân gian. Với triết lý nhà Phật, chuyện xuân hay không xuân chẳng có gì là ý nghĩa, tất cả do cuộc sống mà ra và đương nhiên từ cuộc sống mà diệt. Chẳng có chi là quan trọng.


Vậy nên, nếu chúng ta chấp nhận theo nghĩa sống thế gian, thì các nhà làm phim thêm chữ xuân ấy vào thì cũng nên hiểu nó khác với chữ xuân đầu.






Con người ta vì thế chọn mùa xuân là mùa của sự sống, của hy vọng tốt đẹp. Năm qua mình sống vui buồn sướng khổ đan xen nên xuân lại đến với chúng ta lại mang một màu áo mới. Có ai đó thầm ước nguyện năm cũ mau qua cho năm mới lại về, gởi vào đó tất cả những hy vọng, hoài bảo tốt đẹp và yên bình nhất cho cuộc sống. Và cứ thế, mùa xuân cứ lặp đi lặp lại bằng những điệp khúc gian nan chốn nhân gian ấy. Vậy thì nói "đời là bể khổ" thì có gì sai đâu ! Mình vui buồn sướng khổ do chính nghiệp dĩ của mình ấy thôi.


Tất nhiên, mùa xuân của mỗi người mỗi khác, ví như những vui buồn sướng khổ của từng người đều khác biệt. Nói theo ngôn ngữ nhà Phật là biệt nghiệp mỗi một chúng sanh đều khác nhau. Cho nên mùa xuân với anh thì bắt đầu nhưng mùa xuân với tôi thì kết thúc. Kết thúc một chuyện đời, một phần nghiệp dĩ đã gian nan thực thi nhiệm vụ trả hết cho người suốt năm qua !


Nghĩ về mùa xuân, ngày tết dân tộc Việt Nam.


Người học phật chúng ta may mắn nhận ra được những điều đó nên xuân đến xuân đi thì cứ như lẽ tự nhiên, không hững hờ mà cũng chẳng nồng nhiệt làm chi với mớ lo toan, mệt mỏi rồi cho đó là mùa xuân. Có đáng nói chăng là từ trong ý niệm chốn nhân gian này, mùa xuân gắn liền với nền tảng dân tộc, với cuộc sống đầy ước vọng, luôn muốn được vươn lên của chốn tối tăm nghèo đói. Mùa xuân được trân trọng từ ý niệm đó. Và khi nền tảng dân tộc được trường tồn bằng sức sống văn hóa đặc trưng, thì chuyện mùa xuân ở đây lại trở nên thiêng liêng cao cả, mang ý nghĩa thiết yếu trong đời sống hiện tại và mai sau của cả một dân tộc.


Một chàng sinh viên, một chị làm nghề Osin hay những nghề lao động chân tay thì mong ước mùa xuân về để làm thêm tăng thu nhập gởi về cho gia đình. Trong khi đó một người làm dâu trong một gia đình phong kiến thì lại mong mỏi mùa xuân đừng về để khỏi bị nhà chồng sai khiến mệt lừ ba ngày tết ! Ngoài ra còn có những tư tưởng lợi dụng nền tảng kinh tế, nông nghiệp chen vào yêu cầu ăn tết tây, bỏ tết ta, thực chất chỉ vì những người, này cảm thấy khó chịu trước những tập tục dân tộc ngày tết mang ý nghĩa nhân văn rất cao..v..v.. Đó là khái lược tổng hợp các diễn đàn vừa qua báo chí mở ra để tranh thủ ý kiến bạn đọc. Trong đó có một ý kiến ngắn mà cũng là khằng định đúc kết rằng "những ai muốn bỏ ngày tết dân tộc, hay muốn ngày tết ngắn lại, đó không phải là người Việt Nam".


Mỗi người trong chúng ta, khi bước lên đường, hòa nhập vào dòng chảy thời gian, dù có mang màu sắc khác biệt dân tộc nơi xứ người, đều mang theo trong hành trang một gia tài quý giá của dân tộc, xuất phát từ cuộc sống gia đình. Rất không may cho các thế lực u minh chống phá ngày tết - mùa xuân dân tộc, ngày tết cổ truyền của Việt Nam không phải là dịp để rãnh rang đi du lịch hay tụ họp ăn uống hoặc khoe khoang sự giàu sang giả ảo; mà là dịp để người thân, con cháu trong gia đình đoàn tụ với nhau. Chính cái nét đẹp ấy giúp cho ngày tết dân tộc Việt Nam có ý nghĩa sống động, lung linh nhất mà khắp nơi đều hết lời ngưỡng mộ và ca ngợi. Ngày tết Việt Nam dù trong hoàn cảnh chiến tranh, nghèo khó hay trong hạnh phúc sum vầy vẫn chỉ có một gam màu đoàn tụ rất đẹp ấy. Lúc ngặt nghèo thì một hai đòn bánh tét, bánh chưng dâng cúng ông bà ba ngày tết cũng đâu có mất ý nghĩa; còn khi giàu thì lễ nghĩa tươm tất hơn , hiếu hỷ mừng tuổi nhau, lì xì cho các cháu nhỏ, góp thêm nét đẹp vốn đã đẹp quá chừng rồi của ngày tết dân tộc chúng ta.


Mùa xuân hằng năm có ngày tết dân tộc thêm rạo rực là vậy. Bởi vì mùa xuân mới là sự bắt đầu của một hành trang mới bước vào những ngày tháng chờ đợi phía trước, bỏ lại sau lưng những ưu phiền năm cũ, trong đó có mùa xuân cũ đã qua.


Trong chốn nhân gian, từ hiện tượng duyên sinh của đất trời, con người đã định vị được ngày tháng và bốn mùa luân chuyển và đặt tên cho đó những xuân hạ thu đông. Để con người có chỗ mà vịnh vào đó để sống, để đấu tranh với nghịch duyên và để tồn tại. Vì thế, thêm một từ xuân vào vòng xoay bốn mùa như bộ phim nói trên là Xuân Hạ Thu Đông rồi Xuân âu cũng đâu có gì sai biệt hay mất đi ý nghĩa mà cũng do chính con người đã biết dùng đến trí khôn từ thuở khai thiên lập địa đến tận bây giờ .
Vâng! Tất cả phải bắt đầu từ mùa xuân để rối chính mùa xuân cũng là điểm ta phải đến, phải kết thúc.





Xuân Đinh Dậu 2017





Dương Như Tâm

CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ ĐIỂM CUỐI.


Có một bậc thầy Tây Tạng khai thị cho mọi người: “Học để biết chết như thế nào, tức là học để biết sống như thế nào. Mà học để biết sống như thế nào là học cách để hành động, không những trong kiếp này mà còn trong nhiều kiếp sắp đến. Để chuyển hóa bản thân thật sự, và để được tái sinh như là một người được chuyển hóa để giúp đỡ những người khác, là thật sự giúp đỡ thế giới một cách có tác động mạnh nhất.”

CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ ĐIỂM CUỐI.

Bởi vì người thế gian thường nói sống chết, rồi hiểu sống là điểm khởi đầu và chết là điểm cuối của cuộc đời. Nghĩa là cho chết là hết, là điểm cuối, là xong cuộc đời. Do nghĩ như vậy nên người khi sống lo tranh thủ hưởng thụ để chết không kịp, cũng từ quan niệm đó khiến người tạo nhiều nghiệp dữ không thể lường được.

Nhưng trong Phật pháp thì không phải vậy, dạy người tu hành luôn nhớ chết để rồi sống, chứ không phải chết là hết. Nghĩa là chết đời này để sống một đời kế tiếp, tức đời này được coi như là một trạm chuyển tiếp chứ không phải là điểm cuối cùng, rõ ràng là như vậy.

Chính cuộc sống của chúng ta hiện tại đâu phải đây là lần đầu tiên có mặt trên cuộc đời này. Cuộc sống hiện tại của chúng ta hiện nay là tiếp nối của quá khứ. Như vậy, cuộc đời hiện tại là trạm chuyển tiếp, từ trạm này chuyển tiếp qua trạm vị lai. Nếu như đời quá khứ con người không có chết thì làm sao có đời hiện tại này, cũng như đời hiện tại này không có chết thì làm sao có đời vị lai. Thấu rõ được lẽ thật đó, thì chết là để sống chứ không phải là điểm cuối cùng.

Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải chết như thế nào để sống không có hối tiếc, bởi đã biết rõ sự chết của ta không phải là điểm cuối cùng. Thiền sư Từ Đạo Hạnh ở Việt Nam, khi sắp tịch Ngài có bài kệ để nhắc nhở môn đồ:

Thu lai bất báo nhạn lai qui,
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi.
Vị báo môn nhân hưu luyến trước,
Cổ sư kỷ độ tác kim sư.

DỊCH:

Thu về chẳng hẹn nhạn cùng bay
Cười lạt người đời luống xót vay.
Thôi! hỡi môn đồ đừng lưu luyến
Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay.

Khi Ngài sắp tịch thì môn đồ buồn khóc lưu luyến vì phải mất thầy, nên Ngài nhắc nhở.

“Thu về chẳng hẹn nhạn cùng bay” Mỗi lần mùa thu về thì đâu có hẹn nhạn bay cùng, tuy không hẹn mà nó cũng đến. Cũng như cái chết khi đúng thời điểm thì nó phải chết chứ không thể hẹn được.

“Cười lạt người đời luống xót vay” Người đời không biết được lẽ thực đó cho nên thấy chết thì buồn xót, thương khóc.

Vì thế, Ngài nhắc nhở: “Thôi! hỡi môn đồ đừng lưu luyến, Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay.” Bởi vì không phải mới lần đầu thầy chết, mà thầy đã hóa biết bao lần như thế rồi. Lần này chỉ là một lần trong bao lần mà thầy hóa lại thôi. Cái chết hiện giờ rồi sẽ lại hóa nữa, nào phải là lần đầu thầy chết. Ngài nhắc nhở khuyên môn đồ đừng lưu luyến, buồn khóc.

Hiểu như vậy thì khi chết đừng có buồn, bởi chết là để sống mà!. Còn người cứ nghĩ chết là hết, là cuối cùng, là mất hết cả cuộc đời cho nên buồn tiếc, thương khóc đủ thứ, đây chúng ta hiểu chết để sống thì không phải lo mất.

Thế nên, khi Lục Tổ báo tin Ngài sắp tịch, thì môn đồ đều khóc lóc, chỉ có ngài Thần hội là không khóc. Lục Tổ bảo: “Tiểu sư Thần Hội lại được thiện ác bình đẳng, chê khen chẳng động, buồn vui chẳng sanh, ngoài ra thì đều chẳng được”. Tức là ngài Thần Hội lúc đó còn trẻ cho nên Tổ gọi là Tiểu sư, và khen là được thiện ác bình đẳng, khen chê, buồn vui gì cũng chẳng có động, còn mọi người thì không được vậy.

Tổ bảo tiếp: “Vậy thì mấy năm nay ở trong núi trọn tu đạo gì? Nay các ông buồn khóc là lo cho ai, nếu lo cho ta chẳng biết chỗ đi thì ta đã tự biết chỗ đi, nếu ta không biết chỗ đi thì trọn chẳng báo trước cho các ông. Các ông buồn khóc bởi vì chẳng biết chỗ đi của ta, nếu biết chỗ đi của ta tức chẳng nên buồn khóc”. Lục Tổ quở là mấy ông ở trong núi tu đạo gì mà đến giờ vẫn giống như người thế gian cũng buồn khóc. Mà các ông khóc vậy là khóc cho ai? Nếu mà khóc cho ta, lo cho ta, sợ ta chết không biết chỗ đi, thì chính ta đã biết chỗ đi nên báo trước cho các ông là ta đi, vậy thì các ông buồn khóc cho ta thì không phải rồi! Như vậy chính là các ông thiếu tu. Tức là nhắc nhở mọi người phải khéo tu hành, đừng giống như người đời.

Bởi người đời không thấu được nghĩa thật của sự chết sống, nên khi cái chết đến là buồn khóc lưu luyến, còn hiểu được nghĩa này thì đâu có buồn khóc như vậy, đó là nhắc cho mọi người khéo gắng tu hành thêm. Như vậy, hãy nhớ cái chết không phải là điểm cuối cùng, và chết không phải là hết, mà chết là để sống, đó là ý nghĩa chân thật.

Nguồn : Thư viện Hoa Sen

Thứ Ba, 17 tháng 1, 2017

Phong – Hoa – Tuyết – Nguyệt




Cuộc đời thực thực hư hư, thoáng một cái tuổi xuân đã trôi qua. Và thế là cũng đã hết cả một đời người. Có những tiếc nuối, có những hư hao, có những lưu luyến, có những cuộc chia li không chờ được đến ngày tái ngộ để cuối cùng vẫn là buồn nhớ xót xa! Có những nỗi buồn kết đọng lại thành những khúc ca bi lụy để người đời sau còn hoài vấn vương…

Chuyện kể rằng: Vào một đêm trăng sáng, trong cái lạnh giá của mùa đông trên núi, với gió, với tuyết rơi lất phất trắng xóa tứ bề, có một lữ khách phiêu bạt giang hồ lâm trọng bệnh. Ông ta vốn từ lâu sống ẩn dật trên núi, xa lánh cõi trần tục. Trong cái tiết trời lạnh lẽo buốt giá và tàn nhẫn của mùa đông, dường như chẳng có một sự sống nào tồn tại nổi, những phút giây đau yếu khiến người đàn ông phiêu bạt từng trải bỗng nhiên thấm thía cái nỗi cô độc tận cùng của mình. Bất chợt, ông bỗng nhớ đến người thiếu nữ ngày xưa thương nhớ. Chỉ vì định mệnh, ông và người con gái ấy đã không thể ở bên nhau.Suốt bao nhiêu năm tháng xa lánh trần gian, xa lánh thế tục cùng tình ái con người, ông vẫn chưa bao giờ nguôi đau đáu về hình bóng thuở trẻ trai. Giờ phút này, chỉ còn ông với trăng, với gió, với hoa cỏ oằn mình trong lạnh giá và với những cơn mưa tuyết cứ rơi không ngừng… Trong cái ngao ngán của kiếp người, ông lão tự than thở một mình rằng: “Phải chăng cuộc đời quá ngắn ngủi để thưởng thức Phong Hoa Tuyết Nguyệt?” Cùng lúc đó, có một người khách lỡ độ đường đi ngang qua, ghé vào xin tá túc cho qua cơn mưa tuyết đêm khuya. Nghe thấu câu chuyện của ông lão tội nghiệp. Anh ta đã dùng cây sáo của mình hòa tấu lên một khúc trong bộ tứ Phong – Hoa – Tuyết – Nguyệt. Quả thực, trước mắt đấy, là phong, là hoa, là tuyết, là nguyệt, là một bức tranh hoàn mỹ của thiên nhiên. Chỉ có điều, lòng người với những ưu tư, sầu muộn ngổn ngang nên vẫn ngỡ rằng mình không thể thấu trọn vẻ đẹp thanh tao kia!


St

Thứ Năm, 12 tháng 1, 2017

Tình yêu thương vô điều kiện







Một ngày kia, khi những người trong tổ chức thiện nguyện đa quốc gia đang sửa chữa, xây cất một chuồng bò thì họ trông thấy trong góc nhà có một cái ổ chuột. Họ bèn dùng khói đuổi mấy con chuột trong đó chạy ra. Một hồi sau quả thật có chuột chạy ra, từng con, từng con một…

Sau đó mọi người nghĩ rằng chuột đi hết rồi. Nhưng khi họ vừa mới bắt đầu dọn dẹp thì thấy hai con chuột nữa đang chen nhau ra khỏi miệng ổ. Sau một hồi cố gắng, cuối cùng hai con lọt ra được. Điều lạ là sau khi ra ngoài ổ, hai con chuột không chạy đi liền mà đuổi nhau ở gần lối ra, dường như con này đang muốn cắn đuôi con kia.

Mọi người kinh ngạc lại gần coi thử, thì họ thấy: một con bị mù, không thấy gì cả, còn con kia đang cố gắng để cho con mù cắn đuôi nó, để nó kéo con mù đi tẩu thoát.


Sau khi chứng kiến sự việc xảy ra, ai nấy đều xúc động, không nói nên lời. Tới giờ ăn, nhóm người ngồi quây quần và bắt đầu bàn luận về những gì xảy ra giữa hai con chuột.


Một viên chức La Mã nghiêm nghị nói: “Tôi nghĩ mối quan hệ giữa hai con chuột đó cũng giống như giữa: vua và quan“. Những người kia nghĩ một hồi rồi nói: ”Thì ra thế!” – Viên chức La Mã rất lấy làm hãnh diện.

Một người Do Thái khôn ngoan lên tiếng: ”Tôi nghĩ mối quan hệ giữa hai con chuột đó giống như là :vợ với chồng“. Mấy người kia ngẫm nghỉ một hồi nữa, ai cũng thấy có lý, đồng tán thành. Nói xong, mặt người Do Thái lộ vẻ mãn nguyện.

Một người Việt Nam, quen với truyền thống hiếu thuận với cha mẹ, nói: “Tôi nghĩ mối quan hệ giữa hai con chuột kia cũng giống như: tình nghĩa mẹ con“. Những người kia lại nghĩ một hồi nữa, cảm thấy điều này có lý hơn. Họ tỏ ý tán thành lần nữa. Gương mặt người Việt Nam lộ ra nét khiêm tốn.

Lúc đó, một người hay làm phúc, đầu óc đơn thuần đang ngồi dưới đất chống tay lên cằm, nhìn mấy người kia với vẻ hoang mang: “Hai con chuột kia sao lại phải có quan hệ với nhau chứ?”
Thời gian bỗng như ngừng lại, cả toán vẻ mặt sững sờ, nhìn về phía người kia, không nói một lời. Viên chức La Mã, người Do Thái, và người Việt Nam, ba người lên tiếng lúc nãy đều cúi đầu trầm ngâm, không thể trả lời.

Tình thương vô điều kiện không dựa vào lợi lộc, tình bạn, sự thủy chung hay huyết thống. Thật ra nó không cần một quan hệ nào cả!


Ricky1990

Thứ Năm, 22 tháng 12, 2016

SÔNG & NGƯỜI ...





SÔNG CÀNG SÂU CÀNG TĨNH , NGƯỜI CÀNG HIỂU CÀNG BIẾT KHIÊM NHƯỜNG

Nước sâu chảy không một tiếng động, nước nông, nước cạn sẽ chảy róc rách. Người nông cạn, khoa trương sẽ giống như nước cạn vậy. Còn người có đủ tĩnh khí, khiêm nhường, biết mình sẽ giống như một nguồn nước sâu. Bạn muốn mình là nguồn nước sâu hay là một dòng nước cạn?

Walter Raleigh (1552 – 29 .10. 1618) là nhà chính trị, nhà sử học, nhà thơ nổi tiếng của Anh thời kỳ văn hóa phục hưng từng sáng tác một bài thơ về tình yêu. Trong đó ông đem tình cảm mãnh liệt ví như dòng nước chảy.

Ông viết: “Nước cạn chảy róc rách mà nước sâu lại chảy không phát ra một tiếng động. Một người nếu luôn nói lời đường mật thì trong lòng sẽ là “hư tình giả ý”

Kỳ thực, trong cuộc sống, sự thành thật và lương thiện cũng giống như nước chảy vậy, cũng không cần phải tận lực khoa trương, ca ngợi. Con người chỉ có tâm thái bình tĩnh và tường hòa mới có thể đạt được cảnh giới tư tưởng cao thượng.

Ở một ngôi làng nọ, có hai cha con người đàn ông trung niên sống cùng nhau. Một hôm trời đẹp, người cha rủ con trai đi vào rừng dạo chơi. Cậu con trai vô cùng cao hứng đi cùng bố. Hai cha con đi đến đoạn đường uốn lượn thì dừng lại.

Trong một phút trầm lặng ngắn ngủi, người cha hỏi con: “Con trai! Ngoài tiếng chim đang hót ra, con còn nghe được thấy tiếng gì khác không?”

Cậu bé sau một hồi lắng nghe liền trả lời cha: “Cha ơi, con còn nghe được cả tiếng xe ngựa nữa ạ!”

Người cha lại hỏi tiếp: “Đúng rồi! Đó là một chiếc xe ngựa trống, không chở gì cả.”

Cậu con trai ngạc nhiên hỏi lại: “Chúng ta con chưa nhìn thấy nó, sao cha lại biết đó là chiếc xe ngựa trống rỗng?”
Người cha đáp: “Từ âm thanh con có thể dễ dàng nhận ra đó là một chiếc xe trống không. Xe ngựa càng trống rỗng, thì âm thanh sẽ càng to.”

Về sau này, cậu con trai trưởng thành, là một người thông minh, giỏi giang và thành đạt. Mỗi lần cậu chứng kiến một ai đó dùng lời lẽ ba hoa, lỗ mãng để nói chuyện, tự cho là mình đúng, tự cao tự đại, hạ thấp người khác thì cậu đều nhớ đến lời nói của cha vẫn như đang văng vẳng bên tai mình: “Xe ngựa càng trống rỗng thì âm thanh sẽ càng to.”

Những người đã từng qua sông cũng biết rằng, trước khi qua sông, người ta thường lấy một hòn đá ném nó xuống nước để phỏng đoán độ sâu của con sông. Bọt nước bắn lên càng cao thì chứng tỏ nước sông càng cạn, càng nông. Trái lại, nơi nào không có bọt nước bắn lên, không nghe thấy âm thanh lớn thì chứng tỏ chỗ ấy nước càng sâu, thậm chí sâu không thể đo được…

Nước càng sâu, chảy càng không có tiếng động. Xe ngựa càng trống rỗng thì tiếng động càng lớn. Làm người cũng nên như vậy!
Người có thể dùng tâm thái bình tĩnh, “bình tâm tĩnh khí” để nói chuyện với người khác thì sẽ trách được việc khắc khẩu, cãi vã giữa đôi bên. Người như vậy cũng sẽ càng học được cách lắng nghe người khác, mà lại không cường điệu, khoa trương chính mình!

Source Internet

Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

MỸ NHÂN UỐNG RƯỢU

















Tôi đọc “Đàn bà uống rượu” của Nguyễn Việt Hà chẳng nhớ là năm nào. Chỉ nhớ câu tôi cho là rất đúng “Mỹ nhân là Mỹ tửu”.

Tuy nhiên nếu khi hai thứ hoà quyện vào nhau sẽ như thế nào thì rất hiếm người cảm nhận được. Đặc biệt là chính những người phụ nữ đó!

Trong bài này tôi không nói là phụ nữ uống rượu nhé. Phụ nữ uống rượu thì nhiều lắm nhưng mỹ nhân uống rượu thì chỉ đếm được trên đầu ngón một bàn chân mà thôi.

Tôi có may mắn là biết khá nhiều mỹ nhân uống rượu.

Phải thừa nhận khi mỹ nhân và mỹ tửu hoà quyện vào nhau trong một khoảnh khắc nào đó họ bừng sáng lung linh, cái đẹp rực rỡ dễ làm xiêu lòng cánh đàn ông vụ lợi. Hơn ai hết, ngay lúc đó đám này hiểu rõ rằng “ta đang có cơ hội lên giường với cô này đây”!

Thực tế phải thừa nhận rằng có khá nhiều mỹ nhân uống được nhiều rượu. Họ uống được rất tốt theo như suy nghĩ của họ và theo như sự tấm tắc của cánh đàn ông diều hâu.

Tôi cũng hay nhậu, vì tính tôi thích giao bang, thích vui vẻ mặc dù tôi không uống được nhiều. Nhưng tôi không hay say. Suốt hai mấy năm biết uống rượu tôi chỉ say một, hai lần(theo nghĩa không kiểm soát được). Vợ cũ biết tôi và ở với tôi tổng cộng đến gần hai chục năm chưa bao giờ phải phàn nàn chuyện tôi uống rượu, thậm chí còn khoái chí vì mỗi khi uống rượu tôi hay vui tính hơn. Nguyên nhân để tôi không say chẳng có gì cao siêu, chỉ đơn giản là nếu tôi thấy mình đã đủ tôi sẽ không uống nữa. Thế thôi!

Quay lại chuyện mỹ nhân uống rượu,

Thường thì hại nhiều hơn lợi. Vì dù bạn có uống giỏi đến đâu(theo suy nghĩ của bạn, và phần nhiều là do lời tâng bốc có chủ đích của đám đàn ông) thì bạn cũng khó mà bằng một góc của đàn ông. Điều này tôi đã chứng kiến quá nhiều. Nếu lâu lâu uống một hai trận thì có thể bạn còn trụ được. Nhưng nếu triền miên thì phụ nữ không thể theo nổi cánh đàn ông chúng tôi. Phụ nữ cần nhiều thời gian hơn để hồi phục.

Phụ nữ biết uống rượu không xấu, nhưng dại nhất là tỏ ra mình biết uống rượu. Vì vô tình bạn đã trở thành mục tiêu của nhiều kẻ “bất lương” đáng yêu như chúng tôi. Cái đáng yêu của chúng tôi là nếu bạn khẳng định bạn uống được dăm ly thì chúng tôi cũng chỉ mời bạn uống bảy, tám ly mà thôi. Và sau mỗi ly bạn vừa dốc vào chiếc miệng xinh xắn kia là những lời đường mật mang thương hiệu kotex white* cứ từ từ luồn lách vào chiếc lỗ tai đang ửng hồng đê mê của bạn.

Mà các bạn chớ có coi thường đàn ông.

Đàn ông chúng tôi lúc bình thường có thể là loại động vật ngu ngơ đến tội nghiệp, nhưng khi cần nịnh đàn bà đẹp thì tự dưng trí thông minh ở đâu ùn về chất hàng đống to thù lù như vú hoa hậu Việt hết nhiệm kỳ.

Tôi đã từng chứng kiến những thằng bạn xấu trai, ù ờ, cả ngày có khi chẳng nói được một câu cho ra hồn. Họp hành phát biểu như hóc xương… Nhưng cứ có đàn bà đẹp là khác hẳn. Nó lột xác hoàn toàn. Nó linh hoạt, lém lỉnh, ga lăng và hiểu biết sâu sắc tất tật tật những gì các nàng đang quan tâm…

Vả lại, bao nhiêu năm kinh nghiệm tôi nhận ra rằng “rượu chính là tác nhân vô cùng hiệu quả để xoá tan mọi rào cản nghi ngờ”. Khi những phân tử cồn đã ngo ngoe vật vã trong huyết mạch bạn cũng chính là lúc bạn lơ là cảnh giác nhất. Bạn nhìn quanh ai cũng đáng yêu, ai cũng thân thương, chân thành đến lạ!

Rồi chính bạn, bạn sẽ len lén thò bàn tay ngọc ngà còn vương chút hơi men vào sâu trong lòng mình và tháo chiếc nút thắt đang ẩn mình đâu đó suốt bao ngày…

Bạn cởi lòng!

Mà suy cho cùng cởi lòng với ai chứ với những thằng đàn ông đáng yêu như chúng tôi thì cũng đâu có gì là sai, đâu có nguy hại gì cho cam!

Bạn bạn cứ đê mê như vậy, ngất ngây như vậy, cứ cởi, cứ mở mãi như vậy cho đến khi nếu bạn không còn sức để cởi nữa thì đến lượt chúng tôi, những thằng đàn ông đích thực rất mực đáng yêu, rất mực trách nhiệm với phụ nữ đẹp. Những thằng đàn ông luôn trân trọng bạn và luôn lo lắng rằng “Nếu khi bạn tỉnh lại, nhìn xuống thấy xiêm y vẫn chỉnh tề thì liệu bạn có cảm thấy bị xúc phạm hay không?” sẽ cởi nốt giùm bạn những gì còn vương lại trên cơ thể mỹ miều của bạn mặc dù…

…hắn có thể chẳng làm gì???


Phạm Phú Quảng

Thứ Ba, 13 tháng 12, 2016

Ba « cái tôi »








Quay vào nội tâm của mỗi người, đa số hành vi của con người có thể được hiểu qua lăng kính của ba "cái tôi" khác biệt :


1) Cái tôi phi hữu,

không còn hiện hữu trong hiện tại. Nó là cái tôi "đã là" hay "sẽ là".
Thí dụ : một ông bộ trưởng thời trước 75, chạy tỵ nạn qua Mỹ, thất nghiệp. Vợ dạy : « đi làm bồi bàn kiếm ăn ! ». Ông bảo : tôi đường đường là một bộ trưởng không lẽ lại làm bồi bàn ?
Thí dụ khác : một ông công chức làng nhàng thời nay không biết đấu hót sao đó, nghĩ mình sắp lên bộ trưởng. Vợ sai : « sách giỏ đi chợ ! » Ông bảo : ta đường đường là một bộ trưởng tương lai, không lẽ ...


2) Cái tôi thường hữu :

Là cái tôi bị quy định. Nó là cái nó là, không thể là gì khác. Như tảng đá là tảng đá, cây ổi là cây ổi, Đạt Lai Lạt Ma là Đạt Lai Lạt Ma. Có nhiều yếu tố quy định cái tôi ấy, như : di truyền, văn hóa, giáo dục, môi trường sinh sống, tương quan xã hội v.v... Thí dụ : Đạt Lai Lạt Ma (DLLM) lúc nào cũng mang một bộ mặt, một giọng nói, thậm chí nội dung những gì ông nói, chỉ nghe vài chữ đầu là biết ngay phần còn lại. DLLM không thể làm cho chúng ta ngạc nhiên. Y hệt như anh lính gác lăng cụ Hồ. Mọi cử chỉ động tác của anh ta, cách đi qua đi lại, nâng súng hạ súng, vung tay đá chân, v.v... đều đã được quy định từ trước.


3) Cái tôi tự hữu :

Không bị quy định. Nó « là cái nó không là và không là cái nó là ». Nó hiện hữu tự nó. Một ông bộ trưởng mặc quần xà lỏn áo thung ngồi nhậu ở quán cóc đầu đường chẳng hạn. Hay DLLM lên sân khấu nhảy rock, hát nhạc Mickael Jackson ... Tính Nhân Bản nằm ở cái tôi này : cục đá, con chó, cây ổi, không thể trở thành cái gì khác, con người thì có thể làm chuyện ấy. Vì thế, trong giao tiếp thường ngày, khi DLLM nói đùa một câu, người ta lập tức thấy ông dễ mến. Các kênh truyền thông rất ít nói đến những giảng giải đạo lý hoàn toàn máy móc của ông ta, mà rất thích phát lại những câu khôi hài ông ứng khẩu nói ra. Tương tự như vậy, khi một bác sĩ nói đùa vài câu với bệnh nhân, hay tán chuyện bóng đá, chính trị, tình duyên mấy cô ca sĩ ... thì ông ta thể hiện "cái tôi" này, tức khía cạnh nhân bản của một con người, không chỉ đóng vai một ông bác sĩ, với những hành vi "bác sĩ" đã bị quy định sẵn. Bệnh nhân sẽ cảm thấy điều ấy, và sẽ trả lại cho ông ta mảnh tình người mà ông ta đã trao cho họ.

« Cái tôi » như một sự trình diễn


Nếu từ nội tâm nhìn ra ngoài, thì có thể nhận xét là « cái tôi » cần được cảm nhận bởi người khác, cần được mang ra trình diễn trên sân khấu của cuộc đời.

Lý do vì :


Một mặt, tôi không thể thấy được « cái tôi thường hữu » bị quy định bởi những yếu tố mà chính tôi không thể biết, nên tôi cần đến cái nhìn của người khác về tôi.

Mặt khác, « cái tôi tự hữu » tuy là một câu chuyện được tôi kể cho chính tôi trước tiên, nhưng cần sự thừa nhận của người khác, rằng đó chính là câu chuyện « của tôi » (tôi là con người « như thế »).

Thật ra, sự thừa nhận của người khác về tôi cũng chỉ là một ý tưởng chủ quan, vì không ai biết được nội tâm của người khác. Điều này cho thấy một sự « mù tối nhân đôi » : tôi không biết về tôi đã đành, mà cũng không biết điều người khác biết, hay nghĩ, về tôi ! Tức là trở lại phát biểu của Montaigne đã nói ở trên : « chúng ta hoàn toàn không có một tương thông nào với hiện hữu » …


Dù sao, sự chờ đợi phản hồi về tôi, từ người khác, cho ra hai khuynh hướng :


- Một là tự đồng hóa mình với một vai trò, một hình ảnh phổ quát trong xã hội. Người ta quan niệm xã hội như một sân khấu với các diễn viên được ấn định sẵn, và tìm cách chui vào một trong những sự trình diễn ấy. Một cách rộng rãi hơn, các vai trò này có thể hội nhập vào hệ thống giai cấp, thứ bậc, trong xã hội. Người ta tìm cách để được thừa nhận mình thuộc về một giai tầng, một thể loại nào đó, như thuộc giới « có học », « trí thức », tối ngày khoe sách vở, giới « có tiền », xu hào rủng rỉnh, trang phục, nhà, xe, đắt tiền, giới « giác ngộ tâm linh », phì phò thiền quán, bàn chuyện chân tâm, thường đạo, giới « giác ngộ chính trị », thường trực phẫn nộ, đấu tranh vung vít, v.v…


- Khuynh hướng thứ hai là thái độ « bất cần đời », thích gì làm nấy, phô bày một lối sống, lối cư xử, bị coi là lố lăng, ngoài những quy ước xã hội, như muốn ném vào mặt người khác sự kém cỏi, hẹp hòi, phù phiếm, vô nghĩa, của họ.


Cả hai khuynh hướng này, trong thực tế, đều đặt trọng tâm nơi « cái tôi », trong sự lệ thuộc vào nhãn quan của người khác. Chúng đều là sự phô bày chính mình, như « cái tôi không phải là tôi » (vì chỉ là một sự trưng bày), che dấu những căng thẳng, những ước mong và nuối tiếc, kể cả trong sự tìm kiếm « cái tôi » thực sự.

Việc truy tìm « cái tôi » thực sự ấy, với những hy vọng và thất vọng của nó, nối dài trong thời gian, không là gì khác hơn chính … « cuộc sống » !


Nguyễn Hoài Vân

Sai lầm như một điều kiện của sự sống - Bàn về một đoạn văn bí hiểm của Nietzsche





(...) Gạt bỏ một phán xét sai lầm cũng là từ chối chính sự sống. Thấy được rằng trong phủ định sự thật, có những điều kiện của cuộc sống chắc chắn là một phương cách nguy hiểm để đi ngược lại quan điểm giá trị thông thường, và một triết lý dám chấp nhận rủi ro ấy, mặc nhiên đã đứng ở bờ bên kia của sự phân biệt thiện - ác.
(Nietzsche - Par dela le bien et le mal)

Đoạn trích này của Nietzsche hơi "bí hiểm". Để rộng đường dư luận, xin đề nghị vài ý kiến như sau :

1) Nietzsche coi triết học trước ông như những phóng chiều về thực tại, những thiên kiến, nhận định chủ quan, được các triết gia bày vẽ ra, rồi, sau đó, mới xây dựng lý thuyết để biện minh cho chúng. Những luận điểm về "sự thật" ấy xa rời thực tại của cuộc sống, và chạy theo chúng, là xa rời sự sống.

2) Các quan điểm "đúng - sai" thuộc về phạm trù khái niệm. Chúng ta sống với thực tại, không sống với các khái niệm, nên kẹt trong những phạm trù "đúng-sai" là xa rời thực tại của cuộc sống.

Bạn có thể bảo : chúng ta có đặt vấn đề "đúng-sai" trong cuộc sống thực tế chứ ! Thưa không, trong thực tế, bạn không tự hỏi sự hiện hữu của cái ghế tôi đang ngồi trên đó là đúng hay sai, nhưng bạn tự hỏi Thiên Chúa, tình yêu, hạnh phúc, linh hồn, tự do, Tư Bản Chủ Nghĩa, Xã Hội Chủ Nghĩa, v.v... là đúng hay sai, tức là những thứ thuộc về thế giới của khái niệm.

3) Các luận điểm về hiện hữu, đều đúng trong sự phủ định và sai trong sự khẳng định.
Lại một câu nói bí hiểm ? Xin giải thích : khi bạn nói con chó "là" thế này thế khác, bạn không bao giờ mô tả được con chó nói chung một cách hoàn toàn, lại càng không mô tả được con chó đang vẫy đuôi trước mặt bạn. Như thế : tập hợp những khẳng định của bạn là ... sai. Ngược lại, nếu bạn liệt kê những gì "không phải con chó", như nó không có vòi dài 1 thước rưỡi, cổ không cao một thước, không có cánh, không kêu meo meo ... thì tất cả những phủ định ấy đều đúng. Nếu từ chối những phủ định, bạn chỉ còn lại những khẳng định mơ hồ về thực tại.
Cũng có thể nghĩ là vì các khẳng định đều sai, nện những phủ định chúng dần dần đưa ta mỗi lúc mỗi đến gần thực tại hơn.

Mặt khác, muốn nhận ra một con cừu đen trong một đàn cừu trắng, bạn không phải thông qua những khẳng định : con cừu 1 trắng, cừu 2 trắng, cừu 3, 4 ... 106 trắng v.v... cho đến khẳng định : con cừu 107 đen ! Trong thực tế, bạn nhận ra ngay con cừu "không" trắng.

4) Thuyết Trung Quán của Phật Giáo chủ trương phủ định tất cả, rồi phủ định luôn cả sự phủ định. Như thế, thuyết Trung Quán không thể bị phủ định, vì không bị ràng buộc vào bất cứ một lập trường nào, không khẳng định một luận điểm nào. Ích lợi của Trung Quán ở chỗ nó là một phương pháp tinh tẩy trí tuệ. Sau khi đã phủ định tất cả, người ta có thể lọc lựa lại trong những gì mình đã phủ định, mà tùy duyên sử dụng cho những mục tiêu thực tế, giúp đời. Trung Quán như lưỡi cày, đẩy sang một bên cái « không hiện hữu » - tức là hư vô - và sang bên kia cái « hiện hữu tự thân », để đào ra luống đất trong đó các hạt giống cuộc cuộc sống thực có thể đâm chồi nẩy mộc, cho ra lúa gạo thơm ngon !

Nguyễn Hoài Vân

Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2016

Một Câu Nói Ngây Thơ Của Đứa Trẻ Đã Làm Thay Đổi Vận Mệnh Của Cả Nhà







Chỉ một câu nói hết mức hồn nhiên ngây thơ của đứa trẻ đã khiến người cha giật mình suy ngẫm, sau đó vận mệnh nghèo khổ của cả nhà mau chóng được thay đổi. Vì sao lại như vậy?


Cổ nhân nói “quân tử thận độc”, chính là nhắc nhở chúng ta khi đối mặt với chính mình, cần phải chính trực, quang minh, tấm lòng bình thản không lay động. Có một câu chuyện được lưu truyền, kể rằng một gia đình nọ, cuộc sống rất nghèo khó, người cha vì không có tiền, thường lợi dụng ban đêm ra vườn rau nhà người ta hái trộm. Một đêm nọ, anh ta mang theo cả con trai của ông ta đi trộm đồ ăn, lúc này, đứa trẻ thật thà nói một câu, đã cải biến vận mệnh cả nhà cậu.


Ở trong một ngôi làng nọ, có một gia đình nghèo khó bần cùng, người cha vì không có tiền, thường lợi dụng ban đêm lẻn vào vườn rau nhà người ta hái trộm, hôm đó anh ta mang theo cả con trai đi cùng. Khi người cha vừa mới nhổ một cây củ cải, đứa con bỗng nhiên ở sau lưng khẽ kêu:“Cha..cha.., có người nhìn thấy kìa”.


Cha của cậu kinh hãi, ngó nhìn bốn phía, hoảng hốt hói: “Người đó ở chỗ nào?”. Đứa trẻ vừa chỉ tay lên trời, vừa trả lời: “Cha! Cha xem, là mặt trăng đang nhìn cha đó!”.


Người cha này nghe con trai nói vậy, đầu tiên thì cảm thấy sững sờ, tiếp đó lại cảm thấy hối hận vì hành vi của mình. Có chút hụt hẫng nhưng lại có chút vui mừng, vì thế anh lặng lẽ dắt tay con trai đi về nhà. Dọc đường về, anh ta thầm nghĩ: “Trộm cắp là gây nghiệp rất lớn, có lẽ là ông trời từ bi, mượn miệng con trai để giúp mình tỉnh ngộ, từ nay phải sửa sai hướng thiện thôi!”.


Ngạn ngữ có câu: “người đang làm trời đang nhìn, thiện ác khác nhau ở một niệm”. Trong câu chuyện, người cha kia đã suy nghĩ lại, vậy đã xảy ra chuyện gì tiếp theo?


Nguyên là, chủ nhân của vườn rau vì thường bị mất trộm, tức giận vô cùng, đêm hôm đó đã sớm núp ở phía sau để rình bắt kẻ trộm. Lão nghĩ thầm tên trộm này thật đáng ghét, nhất định phải tóm gọn. Khi ông ta nhìn thấy có kẻ trộm lẻn vào, đang định hô hoán bắt trộm thì nghe được câu nói của đứa trẻ, nhất thời cũng sững người.


Ở dưới ánh trăng, ông chủ vườn rau nhìn thấy gương mặt của tên trộm, biết gia đình hắn là nghèo khó trong thôn. Nhìn thấy hai cha con hắn lặng lẽ dắt nhau rời đi, ông ta cũng bất giác ngẩng đầu nhìn ánh trăng mà im lặng không nói gì.


Về nhà ông chủ vườn rau đem chuyện này kể với vợ, vợ ông nói: “Mặt trăng kia chẳng phải cũng đang nhìn ông sao?”.
Cả đêm hôm đó, ông chủ này trằn trọc không sao ngủ được. Đến trưa hôm sau ông ta chạy đi tìm hai cha con ăn trộm kia, nói: “Này anh kia, nhà của ta hiện đang cần tìm thêm người làm, anh có thể làm được không? Ngoài tiền công, còn có thể cho anh một ít đồ ăn mang về nhà”.
Như vậy là một cơ hội việc làm tốt, có thể mang đến no ấm cho cả nhà nay đã được đáp ứng rồi.


Đêm hôm đó, người cha nghèo kia nắm tay con trai, lặng lẽ ngồi ngắm trăng, bỗng đứa trẻ nói:“Ôi.. cha nhìn xem! Là trăng đang cười kìa!”.


Lúc này ở nhà ông chủ vườn rau, ông ta cũng đang cùng vợ ngồi ngắm trăng, ông nói với vợ:“Chưa bao giờ từng cảm giác thấy mặt trăng đang nhìn mình, xem mình đang làm việc gì, hôm nay thử xem sao… Ôi! Bà xem trăng đang cười kìa!”.


Trong lịch sử cũng có một câu chuyện xưa, “Chuyện trong đêm có bốn người biết”. Kể rằng giữa sau thời Đông Hán, triều chính ngày càng hủ bại, quan lại tham ô. Thái thú triều Hán là Dương Chấn khi nhậm chức thái thú Kinh Châu, từng đề bạt tú tài Vương Mật làm quan huyện Xương.


Về sau có một lần Dương Chấn đi ngang qua huyện Xương, Vương Mật vì cảm kích cái ơn đề bạt của ông, ngay lúc nửa đêm đặc biệt đem 10 cân vàng đến để tạ ơn Dương Chấn. Dương Chấn đã cự tuyệt phần hậu lễ này. Vương Mật nói: “Bây giờ đêm đã khuya, sẽ không có ai biết chuyện này đâu, xin ông hãy nhận lấy”. Dương Chấn đáp rằng: “Trời biết, Đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại nói là không ai biết? Ông hãy đem số vàng này về đi”. Vương Mật rất xấu hổ mà đem số vàng này trở về.


Cho dù là ban đêm, bạn đang làm chuyện gì, đừng nghĩ rằng chỉ mình bạn biết, mặt trăng trên bầu trời cũng đang mở to hai mắt đang nhìn bạn đó!

Bảo An, dịch từ NTDTV

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2016

Suy ngẫm về tự do







Tác giả: Nguyễn Văn Trọng


Tôi nhận thấy nhiều người Việt thường hiểu TỰ DO như đồng nghĩa với “muốn làm gì thì làm“; họ cho rằng đòi hỏi TỰ DO giống như đòi hỏi tình trạng vô kỉ luật, vô chính phủ gì đó. Những người này hình như lo lắng nhiều cho tình trạng xã hội hỗn loạn hiện nay, nên biểu lộ một thái độ không mấy thiện cảm với khái niệm TỰ DO. Sự hiểu lầm này trước đây hình như cũng khá phổ biến ở phương Tây nên các tác giả bàn về tự do đều rất cẩn trọng trong định nghĩa khái niệm của mình. J.S. Mill quan tâm đến khoảng không gian riêng tư của cá nhân không trực tiếp ảnh hưởng đến xã hội, vì thế xã hội không nên can thiệp vào.



Ông muốn thiết lập ranh giới cho sự can thiệp chính đáng của xã hội vào cuộc sống cá nhân. I. Berlin thừa nhận tự do là một từ ngữ khá mơ hồ và tăm tối, vì thế mà người ta gán cho từ ngữ ấy vô số ý nghĩa khác nhau. Ông bàn về hai khái niệm khác nhau của TỰ DO: tự do phủ định (negative) và tự do khẳng định (positive). G.P. Fedotov cho rằng thật hiển nhiên là không gian tự do cá nhân trong mối quan hệ với xã hội không thể là vô hạn được vì như thế là triệt tiêu luôn cả khái niệm xã hội như một cộng đồng sinh hoạt có tổ chức. Như vậy cách hiểu TỰ DO như “muốn làm gì thì làm” khiến cho khái niệm TỰ DO trở thành vô nghĩa và G.P. Fedotov cho rằng đó là thủ thuật quen thuộc mà các kẻ thù của TỰ DO ưa sử dụng để bác bỏ quyền tự do.

Đối với tôi thì việc tiếp thu khái niệm TỰ DO thể hiện trên hai bình diện:

Một là: xã hội sẽ không có tự do, nếu mỗi thành viên của nó không biết tôn trọng không gian tự do của người khác. Mỗi thành viên của xã hội phải xem xét hành vi của bản thân mình trong ứng xử đối với tha nhân có vượt quá ranh giới của tính chính đáng hay không, có xâm phạm vào không gian tự do (theo ý nghĩa phủ định) của người khác hay không. Đây là thái độ cần thiết của mỗi người nhằm tạo nên một xã hội văn minh, biết tôn trọng sự khác biệt của người khác trong chừng mực sự khác biệt ấy không xâm hại đến lợi ích xã hội.

Như vậy trước hết nhận thức về tự do đòi hỏi mỗi người có thái độ biết kiềm chế bản thân trong việc can thiệp vào công việc của người khác chứ không phải là “muốn làm gì thì làm“. Ngay cả những người với thiện ý muốn “nhào nặn” người khác theo mẫu hình mà họ cho là tốt đẹp, thì cũng phải tự tra vấn bản thân xem: làm như thế họ có phủ nhận khả năng tự trị của người bị “nhào nặn” và có tự xem mình như Thượng đế hay không, làm như thế họ có vi phạm quy tắc vàng về đạo đức “kỉ sở bất dục vật thi ư nhân”(điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác) như Khổng Tử đã phát biểu hay không.

Hai là: mỗi người nên suy ngẫm về việc sử dụng không gian tự do của mình như thế nào để cho cuộc sống của mình có ý nghĩa, đây chính là nội dung của tự do khẳng định. Hai tác phẩm Tất định luận và tự do lựa chọn (I. Berlin), Con người trong thế giới tinh thần, (Trải nghiệm triết học cá biệt luận) (N.A. Berdyaev) có ý nghĩa quan trọng đối với vấn đề này. Tự do trong ý nghĩa khẳng định hàm nghĩa mỗi người có tự do lựa chọn cứu cánh[1] cho cuộc đời mình và điều này thể hiện phẩm giá làm người.

Đây không phải là việc dễ dàng vì nó đòi hỏi con người phải tự nhận thức được bản thân mình, từ đó xác định một hệ thống giá trị nhân bản như cứu cánh cho cuộc đời mình. Điều này đòi hỏi một hiểu biết[2] nhất định. Không phải bất cứ ai cũng kham nổi gánh nặng này, nên con người thường hay từ bỏ tự do lựa chọn trong ý nghĩa nhân bản để quy phục theo các áp lực nô dịch đến từ các dục vọng bất thiện. Trong tác phẩm To Have or To Be (Sở hữu hay hiện hữu) triết gia Đức Erich Fromm đưa ra hai kiểu mẫu sống: kiểu mẫu sở hữu và kiểu mẫu hiện hữu. Kiểu mẫu sở hữu xem giá trị cuộc sống là ở những gì con người sở hữu và chiếm đoạt được. Kiểu mẫu hiện hữu xem giá trị cuộc sống là ở những phẩm tính tinh thần mà con người đạt được.

Tôi rất chú ý tới nhận xét của N. Berdyaev:”Ý chí vươn tới hùng mạnh, vươn tới ưu thế và thống trị, chính là bệnh cuồng si, đó không phải là ý chí tự do và ý chí vươn tới tự do.” Ham muốn làm ông chủ chính là biểu hiện của tình trạng nô lệ. Tôi có ấn tượng sâu sắc với tiểu luận “John Stuart Mill và những cứu cánh của cuộc sống” của I. Berlin (trong dịch phẩmTất định luận và tự do lựa chọn). I. Berlin đã nhận xét về J.S. Mill như sau:”Đối với ông [J. Mill] con người khác con vật trước hết chẳng phải vì có lí trí cũng chẳng phải vì biết tạo ra công cụ và phương pháp, mà vì con người có khả năng lựa chọn, con người thể hiện mình nhiều nhất trong việc tự lựa chọn chứ không phải được lựa chọn cho [mục đích nào đó], là người cưỡi ngựa chứ không phải là con ngựa, là người tìm kiếm những cứu cánh chứ không đơn thuần là phương tiện, – những cứu cánh mà anh ta theo đuổi mỗi người theo cách riêng của mình…” Sau đó I. Berlin nhận xét tiếp:”Mill tin tưởng rằng con người mang tính tự phát, rằng con người có tự do lựa chọn, rằng con người tự nhào nặn nên tính cách của mình, rằng do kết quả tác động qua lại của con người với tự nhiên và với những người khác mà một thứ gì đó mới mẻ liên tục xuất hiện, và rằng cái mới mẻ ấy đúng là thứ đặc trưng nhất và nhân bản nhất của con người.“

Tự do lựa chọn cứu cánh của cuộc sống trong lịch sử liên quan nhiều đến các phong trào tôn giáo. Tôn giáo về tổng thể là một vấn đề đa chiều và phức tạp. Các nhà nghiên cứu thường chú ý đến một số phương diện nhất định của các phong trào tôn giáo trong lịch sử. Về phần mình, tôi chỉ quan tâm đến tôn giáo về phương diện văn hóa tinh thần – những gì dẫn đưa các thành viên của cộng đồng tôn giáo vào một định hướng tinh thần nhất định.

Tôi không đề cập đến diễn biến của các phong trào tôn giáo đã biết trong lịch sử thông qua hoạt động của các giáo hội, vốn là vấn đề chứa đựng nhiều mâu thuẫn lịch sử rất phức tạp. Tôi chú ý đến định nghĩa tôn giáo của E. Fromm, khi ông cho rằng “tôn giáo” của một cộng đồng là “bất cứ một hệ thống tư tưởng và hành động nào được chia sẻ bởi một nhóm người, cung cấp cho mỗi cá nhân một khung định hướng và một mục tiêu để hiến dâng”. Tôi cho rằng xét về phương diện văn hóa tinh thần thì cuộc sống tôn giáo là cuộc sống cá nhân riêng tư trong thâm nhập vào chiều sâu của nó. N. Berdyaev tự cho mình là tín đồ Kitô giáo nhưng không ràng buộc bản thân với bất cứ giáo hội nào.

Tự do lựa chọn cứu cánh của cuộc sống được khẳng định bởi những người có khuynh hướng triết học hiện sinh, chỉ chú trọng đến thân phận của con người. Họ khẳng định hai phẩm tính đặc thù của con người là chủ thể tính và tự do tính. Chủ thể tính hàm nghĩa con người không phải là một “sự vật” mà là một tiểu vũ trụ có thế giới nội tâm (thế giới tinh thần) không đồng nhất với thế giới tự nhiên của các “sự vật”. Con người không phản ứng lại một cách nhất định như các “sự vật”.

Chủ thể tính gắn liền với tự do tính, khẳng định con người là một nhân vị tự do.[3] Con người có thể tự do lựa chọn đi xuống thấp tới những thang bậc thấp kém nhất của thế giới thú vật, nhưng cũng có thể nâng cao bản thân mình lên tới phạm vi cao cả nhất của thần thánh. Là nhân vị tự do nên con người phải chịu trách nhiệm với lựa chọn của mình. Khi một người chối bỏ tự do (để đổi lấy miếng ăn hay sự an toàn chẳng hạn), thì anh ta cũng mất đi phẩm giá làm người để rơi xuống hàng “sự vật”. Nhưng việc chối bỏ tự do suy đến cùng thì cũng vẫn là một lựa chọn và anh ta phải chịu trách nhiệm với lựa chọn ấy của mình. Nói theo ngôn ngữ Phật giáo thì con người tự tạo nghiệp cho mình bằng những lựa chọn mà anh ta thực hiện trong cuộc đời mình; mọi sinh linh tự quyết định bản chất và hiện hữu cho chính nó bằng các hành động của nó.[4] Hệ quả là: sự đa dạng là bản chất của con người chứ không phải là điều kiện nhất thời.

Các nhà văn lớn của nhân loại có thể khám phá được những tình huống sa đọa khác nhau của con người và qua đó dạy cho con người những bài học nhân bản. Các nhân vật tiểu thuyết của Dostoevsky phạm những tội ác vì những cám dỗ bất thiện, nhưng những cám dỗ ấy được che đậy bởi những động cơ có vẻ bề ngoài thánh thiện. Bi kịch của các nhân vật ấy là trong sâu thẳm của tâm hồn, họ vẫn biết rằng họ đã phạm tội ác và họ trải nghiệm những giày vò khủng khiếp trong nội tâm. Dostoevsky cho rằng cuộc sống đầy những bất an trong tâm như thế chính là địa ngục trừng phạt họ vì những tội ác đã làm.

Tự do lựa chọn cứu cánh của cuộc sống xưa nay vẫn luôn là trách nhiệm làm người đầy khó khăn. Trong xã hội cổ đại việc phân biệt thiện ác có vẻ đơn giản hơn và cuộc sống giản dị về vật chất khiến cho con người có nhiều giây phút tĩnh lặng ở lại một mình với chính mình để đối thoại với lương tâm của mình (cũng tức là đối thoại với Thượng đế của mình đối với những người theo tôn giáo). Cuộc sống hiện đại với đủ thứ ác quỷ đội lốt thánh nhân khiến cho việc phân biệt thiện ác trở nên khó khăn phức tạp hơn.

Nhịp sống hiện đại đầy tất bật hối hả khiến cho con người hiếm khi có được những giây phút tĩnh lặng ở một mình với chính mình và hình như con người hiện đại cũng cố tình lảng tránh những phút giây như thế, rất có thể là do e ngại tình trạng bất an nội tâm xảy ra sau đó. E. Fromm cho rằng nỗi sợ hãi phải ở một mình với chính mình thực ra là cảm giác bối rối cận kề với nỗi kinh hãi phải nhìn thấy con người vừa quen thuộc lại vừa lạ lùng, chúng ta thấy khiếp sợ và bỏ chạy. Phải chăng vì vậy mà con người đương đại thường lựa chọn nhập bọn với lũ người chẳng ra gì để nhậu nhẹt hay tán nhảm, còn hơn là ở một mình với chính mình?

[1] Tôi dùng từ “cứu cánh” theo nghĩa của Từ điển tiếng Việt ( tr. 243, Hà nội, 1992) như là “mục đích cuối cùng”. “Cứu cánh” và “phương tiện” là cặp phạm trù đối lập với nhau.

[2] Erich Fromm (1900-1980) phân biệt hiểu biết (understanding) là phẩm tính đặc thù của riêng con người khôn ngoan (homo sapiens) khác với trí tuệ tài khéo (manipulative intelligence) như một công cụ nhằm đạt được những mục đích thực dụng, là phẩm tính con người có chung với thú vật.

[3] Trần Thái Đỉnh, Triết học hiện sinh, NXB Văn học và Công ty sách Thời đại, 2005, tr. 25-34.

[4] J. Takakusu, Tinh hoa triết học Phật giáo, Tuệ Sỹ dịch, NXB Phương Đông 2008, tr. 49.