Thứ Bảy, 22 tháng 7, 2017

Phật Giáo Chưa Bao Giờ Có Ảo Tưởng, Ảo Giác, Nói Chi Tới Thời Thượng -





Phật Giáo Sẽ Giúp Mở Cửa Bản Thể Như Thế Nào?

Trần Ngẫu Hồ


LTS: Tòa soạn đăng bài này chỉ vì có liên quan đến một bài chúng tôi đăng trước đây để tự cảnh giác về việc dẫn chứng một vài câu nói được truyền tụng sâu rộng, thích hợp với lời dạy của Đức Phật: "03. Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền." Ngoài ra chúng tôi không có ý kiến về nội dung khác trong triết lý Phật giáo. (SH)



Cuối tháng 5 vừa rồi, xuất hiện hai bài viết liên can tới Phật Giáo, một của nhà văn Đông La (ĐL), bài: “Đạo Phật Bị Lộn Ngược Theo Con Mắt Thịt Của Trần Mạnh Hảo” mà ông ĐL đã viết để chỉnh sửa ông nhà văn Trần Mạnh Hảo (TMH) về những nhận xét sai lạc của ông ta về Phật Giáo (PG), và khi đọc kỹ thì tôi lại thấy ông ĐL đã giơ cao mà đánh khẽ, tôi thấy ông ĐL vẫn còn giữ lòng nhân, chưa nêu hết cái thiếu tri thức về Phật giáo của ông nhà văn đã vô tình hay cố ý làm giảm giá trị của PG này. Tôi sẽ phân tách những sự không hiểu biết về Phật giáo của ông nhà văn này qua những dòng dưới đây.

Còn bài kia là bài: “Phật Giáo Với Những Ảo Tưởng Thời Thượng” của tác giả Trần Trọng Sỹ. Vừa đọc tựa đề của bài này, tôi cảm thấy hơi có gì quá đáng trong đó, nhưng khi đọc kỹ nội dung của toàn bài, thì thấy ông này không có ý dè bỉu, chê bai gì Phật Giáo cả, mà ngược lại tác giả còn bầy tỏ sự trân trọng với Phật Giáo nữa là khác. Nôi dung của bài viết cho thấy ý của tác giả muốn kêu gọi những trích dẫn nhận xét của những nhà khoa học lớn trên thế giới về những giá trị của Phật Giáo cần phải thận trọng và cần có dẫn chứng nguồn đường hoàng, chứ không nên nhắm mắt dẫn chứng đại, khi chính mình chưa đưa ra được nguồn một cách rõ ràng.

Nếu tôi hiểu đúng ý tác giả là như vậy, thì tựa đề là: “Phật Giáo Với Những Ảo Tưởng Thời Thượng” lại có vẻ bao quát, thâu gồm và ám chỉ toàn thể những gì thuộc về Phật Giáo, mà lẽ ra với nội dung của bài viết để kêu gọi sự trích dẫn cần thận trọng hơn, thì chỉ nên đề là: “Phật Tử Với…” hay những “Hành Giả Phật Giáo Với Những Ảo Tưởng Thời Thượng…”, thì có vẻ thích hợp hơn. Có lẽ tác giả muốn gây sự chú ý cho người đọc chăng?

Với thiện ý kêu gọi sự thận trọng này của tác giả, cá nhân tôi, thấy đây là một thái độ đúng đắn của một người viết trí thức. Thế nên, tôi là một Phật Tử bình phàm, cũng mong có được sự góp ý để làm sáng tỏ thêm cho vấn đề.

Cũng như cố giáo sư Trần Chung Ngọc (TCN), và giáo sư sử học Nguyễn Mạnh Quang (NMQ), sự đóng góp tri thức của tác giả Trần Trọng Sỹ về những bài viết về sự thật của Catô Lích, về thời sự, về giá trị của Phật Giáo là những vốn kiến thức rất đáng trân trọng, rất cần thiết và rất quý báu cho cộng đồng đọc sách ở hải ngoại cũng như quốc nội. Xin được tuyên dương thiện ý của nhà phê bình Trần Trọng Sỹ trong những công tác nêu lên những sự thật thời sự, lịch sử này.

Thế nên, để góp ý với tác giả Trần Trọng Sỹ, và cũng để gây sự chú ý của người đọc, bằng cách lật ngược chủ đề, song song với việc để mong làm sáng tỏ giá trị của Phật Giáo đối với khoa học với chủ đề:

“Phật Giáo Chưa Bao Giờ Có Ảo Tuởng, Ảo Giác, Nói Chi Tới Thời Thượng?”

Bài viết này của tôi không có ý đối nghịch gì với tác giả Trần Trọng Sỹ cả, và trong ý nghĩa góp ý này, nếu có sự thiếu sót, mong có sự chỉ dậy từ các vị thức giả, xin được cám ơn trước.

Đồng thời tôi cũng muốn giới thiệu một phần bài nói chuyện của Tiến Sỹ Nguyễn Tường Bách mang tựa: “Khi Vật lý Gõ Cửa Bản Thể Học”.

Trong bài này có một vài đoạn tôi cũng muốn phân tách, vì bài viết rất hay của ông, và cũng vì nó cũng có liên hệ tới chủ đề tôi muốn nói hôm nay. Bằng những sự phân tách mang tính xác định, với chủ đề:

“ Phật Giáo Sẽ Giúp Mở Cửa Bản Thể Như Thế Nào? ”.

Trước hết, xin được nêu rõ tà ý của nhà văn Trần Mạnh Hảo, bằng sự lạc dẫn những giá trị của Phật Giáo.

Phần 1: Nhà văn Trần Mạnh Hảo đã lạc dẫn dư luận về giá trị của Phật Giáo như thế nào khi diễn giải sai ý nghĩa, giá trị của dục lạc trong Phật Pháp?

Tôi đã đọc kỹ bài: “Thời Đức Phật, nhiều người tin rằng tình dục rất thánh thiện” (http://www.nguoiduatin.vn/thoi-duc-phat-nhieu-nguoi-tin-ran…), thì nhận thấy sự đối thoại những vị này với nhau về những lời dậy của Phật trong vấn đề tình dục rất chừng mực, rất trôi chảy và khai thông, nghĩa là không có những nhận xét cực đoan nào trong đó, nhưng ông TMH đã dẫn chứng chỉ một đoạn cực đoan trong câu hỏi và che lấp toàn bộ câu hỏi của nhà báo, xong lại phân tách sai lạc về vấn đề tình dục theo cái hiểu nông cạn, và rồi dẫn tới kết luận luôn là: “…Cho nên về nguyên tắc DỤC KHÔNG THỂ DIỆT vì DỤC là bản năng con người, chỉ có thể TIẾT DỤC mà thôi…”

Câu hỏi của nhà báo, mà chính ông ta, người hỏi, cũng biết, là để dành cho những người thoát ly gia đình, đi theo con đường giải thoát giác ngộ của đức Phật, câu trả lời cho người ký giả Mỹ của nhà Sư cũng theo chiều hướng đó. Và trong đó, nhà Sư có nhắc nhở rằng với những dục lạc thế gian của thường nhân thì Phật Giáo không cấm đoán.



Nhưng khi trưng dẫn, ông TMH cố tình để sát câu hỏi và câu trả lời ngay kế cận nhau, sau khi đã gọt hết những ý đã giải thích chúng:

Với mục đích để cho người đọc (TMH) thấy Phật Giáo là một tôn giáo bất bình thường, quá quắt, không đáng để nương tựa vào, cố tình hướng dẫn độc giả tới kết luận, Phật Giáo đã xem dục tình thế gian là cái gì ghê tởm qua ý trích dẫn của ông TMH.

Xin đọc kỹ trưng dẫn và ý tưởng cố tình bóp méo khi trưng dẫn của ông nhà văn này: <Trích>:

“Đọc kinh Phật ta thấy một số điều cực đoan, quá trớn được cho là lời Phật dạy… Ví dụ như câu nói về diệt dục rất cực đoan, rất dung tục sau đây lại được gán cho lời Phật dạy:

Ký giả Mỹ Simon Alex hỏi vị sư Tích Lan Bhante Gunaratana câu nói dưới đây có phải lời Phật dạy không: “Thà rằng đưa dương vật vào miệng một con rắn độc hay một con rắn hổ mang kinh tởm có lẽ còn tốt hơn là đưa nó vào một người đàn bà". Nhà sư thường đi giảng kinh Phật trên khắp các đại học danh tiếng trên thế giới thừa nhận rằng đúng là lời này có ghi trong kinh Phật.

(Trích bài :'Thời Đức Phật, nhiều người tin rằng tình dục rất thánh thiện' (http://www.nguoiduatin.vn/thoi-duc-phat-nhieu-nguoi-tin-ran…) (Ký giả Simon Alev của tờ "Giác ngộ là gì" (What is Enlightenment) của Hoa Kỳ phỏng vấn một nhà sư Tích Lan, ngài Bhante Gunaratana về chủ đề Phật giáo và tình dục.)

Dục nghĩa là ham muốn, mà ham muốn lớn nhất trong dục là ái dục, tức tình yêu trai gái. Dục (ham muốn) là bản năng của sinh vật nói chung, con người nói riêng. Khát nước đòi uống là dục, đói đòi ăn là dục, ham muốn ái tình là dục, thở khí oxy vào để sống là dục, tham giàu là dục, tham chức quyền là dục (nằm trong bản năng thống trị kẻ khác của sinh vật), tham sống sợ chết là dục, ham muốn được giải thoát, được giác ngộ cũng có thể được coi là dục…

Nói tóm lại, DỤC phần lớn là bản năng tự nhiên, sinh ra đã có trong con người. Cho nên về nguyên tắc DỤC KHÔNG THỂ DIỆT vì DỤC là bản năng con người, chỉ có thể TIẾT DỤC mà thôi. Ngay đến cả Đức Thích Ca Màu Ni sau khi giác ngộ thành Phật lúc 35 tuổi, cho tới khi Ngài viên tịch năm 80 tuổi vẫn còn bị DỤC đeo đẳng; vì Ngài vẫn chưa thoát khỏi vô thường đói ăn khát uống, còn phụ thuộc vào các hành như phải thở, phải ăn, phải uống, phải làm các hành vi trao đổi chất của con người, thì sao lại đề ra tiêu chí DIỆT DỤC cực đoan như thế? Nên nhớ là Đức Phật tổ năm 80 tuổi đã viên tịch vì ngộ độc thức ăn; chính Ngài khi tại thế cũng chưa thoát khỏi vô thường… Sau khi viên tịch, Ngài nhập Niết Bàn. Còn Niết Bàn là gì, ở đâu, tồn tại trong dạng thức nào thì Phật không nói. Chúng sinh phải tự tìm ra Niết Bàn trong tâm mình khi đã giác ngộ thoát khỏi tham, sân, si, đạt tới cõi từ bi hỉ xả…

Việc một số kinh sách được gán cho là lời Phật dậy (ngụy tạo) có thái độ lên án gay gắt, thậm chí phỉ nhổ, nguyên rủa hành vi tính giao của con người là một sự vô lối, một ứng xử thiếu văn hóa người, mà thiếu văn hóa người thì cũng thiếu văn hóa Phật…Thử hỏi ai trong chúng ta, kể cả Đức Thế Tôn không được sinh ra bởi hành vi giao phối giữa cha và mẹ mình?” <Hết trích>

Đọc kỹ tôi thấy trong đoạn văn trên của ông TMH là đã giảng giải sai lạc giá trị của Phật giáo hơn là làm sáng tỏ vấn đề giải thích về Dục Lạc của đời thường, hơn nữa ngay cả một người Phật Tử trung bình, ai ai cũng đều biết Phật đã dạy ngũ giới, và nhấn mạnh nhiều tới lý nhân quả để răn dậy, cảm hóa chúng sinh Phật Tử.

Lý nhân quả và ngũ giới là những pháp chừng mực, thăng bằng trong Phật Pháp nhưng ông TMH hoàn toàn không nhắc tới, ông chỉ trích dẫn theo kiểu “đoạn chương thủ ý” và giải thích Phật Giáo theo cái thấy hạn hẹp, lạc dẫn, bôi bác nên tôi kết luận là tà ý vì thế.

Đã có kiến thức hạn hẹp, giới hạn về Phật Giáo, ông TMH lại cố với để giải thích những ý nghĩa cao xa của Phật Giáo bằng những nhận định cẩu thả, tô vẽ một cách kém cỏi,về đức Phật. Về đức Phật, ông TMH viết: <Trích>:

“Ngay đến cả Đức Thích Ca Màu Ni sau khi giác ngộ thành Phật lúc 35 tuổi, cho tới khi Ngài viên tịch năm 80 tuổi vẫn còn bị DỤC đeo đẳng; vì Ngài vẫn chưa thoát khỏi vô thường đói ăn khát uống, còn phụ thuộc vào các hành như phải thở, phải ăn, phải uống, phải làm các hành vi trao đổi chất của con người, thì sao lại đề ra tiêu chí DIỆT DỤC cực đoan như thế? Nên nhớ là Đức Phật tổ năm 80 tuổi đã viên tịch vì ngộ độc thức ăn; chính Ngài khi tại thế cũng chưa thoát khỏi vô thường…Sau khi viên tịch, Ngài nhập Niết Bàn. Còn Niết Bàn là gì, ở đâu, tồn tại trong dạng thức nào thì Phật không nói. Chúng sinh phải tự tìm ra Niết Bàn trong tâm mình khi đã giác ngộ thoát khỏi tham, sân, si, đạt tới cõi từ bi hỉ xả…<Hết trích>.

Viết như thế này thì ông TMH chẳng những đã tỏ ra mình thiếu tri thức Phật pháp thấy rõ, và lại còn quá liều lĩnh nữa. Vì với chỉ một người vừa mới thoát ly gia đình theo Phật để mong tìm đến giải thoát khỏi tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới), và cuối cùng để thành Phật để được tự do tự tại, thì cũng đã được giáo dục bằng cả rừng kinh điển với những lời giảng của chính đức Phật, từ đơn giản đến những uyên áo, thâm sâu. Song song với việc tiết độ bằng cả hàng trăm những giới luật khe khắt, người tu sĩ được giáo dục ngay từ đầu rằng, phải xem những nhu cầu như ăn, uống, ngủ nghỉ chỉ là những phương tiện và phải giảm thiểu để vừa đủ để tồn tại, và càng đơn giản những nhu cầu này thì càng tốt. Người tu sĩ, nam cũng như nữ chỉ khởi đầu giữ bên mình với ba y (y phục thay đổi) và một bát (để ăn và uống).

Điều chính là phải thực tập thiền định để đạt được trí tuệ từ đó. Trí tuệ là giá trị chính của các thiền sinh sơ cơ mới gia nhập Phật Giáo.

Về cái ăn thì không bao giờ được biến nó thành cái dục ăn, không những vậy, những vị xuất gia này phải không được dùng ngũ vị tân, tức hành, tỏi, tiêu, dấm, ớt hoặc bất cứ thứ gì với ý định để làm cho đĩa đồ ăn thành hương vị thơm, ngon hơn bình thường. Nhất là không được sát hại sinh vật để biến thành thức ăn khoái khẩu cho mình.

Thời đức Phật và cũng có lẽ ngay hiện tại trong một vài tông phái, người tu sĩ chỉ ăn một ngày một bữa, và sau đó chỉ là lao động, học tập và thiền định.

Bia rượu, và những chất kích thích thì cấm tuyệt. Với một người sơ cơ, mới gia nhập vào gia đình Phật Giáo còn phải vậy, huống chi bậc đại thánh đã giải thoát, giác ngộ như đức Phật, được xem như một vị thầy của các loài Trời và loài Người. Hiểu như vậy ta mới thấy cái sự thiếu tri thức của ông TMH khi dám cả gan đặt bút viết: Cho tới khi Ngài viên tịch năm 80 muơi tuổi vẫn còn bị dục đeo đẳng!?!

Ông TMH tuyệt đối không hiểu Niết Bàn là gì khi viết: “Sau khi viên tịch, Ngài nhập Niết Bàn. Còn Niết Bàn là gì, ở đâu, tồn tại trong dạng thức nào thì Phật không nói.”

Thật ra, chẳng phải ngài nhập Niết Bàn sau khi viên tịch như ông TMH hiểu, mà ngài đạt trạng thái Niết Bàn ngay sau sát na nhìn thấy sao mai xuất hiện trên bầu trời ở sau canh 4, sau khi đã đắc lậu tận thông và sau sự từ chối quyết liệt hành vi mời mọc dục lạc của 3 nàng con gái đẹp tuyệt trần.

Từ sau sát na đại ngộ đó, ngài bước khỏi tọa cụ và tuyên xưng trước nhân loại ngài là Phật đã thành.

Vì ngài đã Niết Bàn lúc còn thân người nên kinh sách gọi đó là trạng thái Hữu Dư Niết Bàn,

Thế nên trong lúc đi giảng pháp hóa độ chúng sinh ngài luôn luôn hoặc xưng là “Ta” hoặc “Như Lai”. Từ Như Lai được giải thích như sau: “Lai là tới, Như là Đại Định Vô Sanh”. Người tới từ Đại Định Vô Sanh chính là người đang ở trong Đại Định Vô Sanh vậy.

Nếu không đạt được Hữu Dư Niết Bàn - giải thoát ngay trong hiện đời, hành giả sẽ không thể thể nhập Vô Dư Niết Bàn khi không còn thân mạng, tức đã qua đời.

Đây là điểm tích cực và thực tế của Phật Giáo mà không một tôn giáo nào có.



Đại Định Vô Sanh là trạng thái không còn sinh sinh, diệt diệt trong tâm, là trạng thái lúc nào cũng ở trong thiền định, là trạng thái sạch hoàn toàn tham, sân, si, và các lậu uẩn vi tế, là trạng thái thường xuyên rỗng lặng và sáng suốt với trí giác (Như Như), Phật Tánh với lòng đại bi. Đại Định Vô Sanh chính là trạng thái Niết Bàn Hữu Dư, chính là giải thoát, là trạng thái các chư Phật nỗ lực đạt tới.

Trong tác phẩm: “Tuyên Ngôn Về Thể Trạng Vũ Trụ Tiền Big Bang” (Từ đây xin được viết tắt là TNVTTVTTBB), vừa mới được xuất bản tháng 02/2017, tôi đã giải thích một cách đơn sơ nhưng tạm đầy đủ những vấn đề như Niết Bàn, thiền định, Đại Định Vô Sanh, hoặc sự yên lặng của đức Phật về những vấn đề siêu hình như:

Sau khi ngài nhập diệt là còn hay mất? Vũ Trụ có tạo ra, và cai quản bởi vị Thượng Đế nào không? Vũ Trụ là hữu hay vô hạn, thế giới Big Bang Sinh Diệt này từ đâu mà ra? Còn nhiều vấn đề phi hữu hóc búa khác cũng được giải thích trong tác phẩm này. Mong ông Trần Mạnh Hảo tìm mua và đọc, ông có thể mua sách ở địa chỉ email này: TheTrangVuTru@yahoo.com.

Trong cuốn: “Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II”, trang 265 ,Giáo Sư Trần Chung Ngọc đã viết:

“Ken Tanaka, một giáo sư của viện Phật học Berkeley phát biểu rằng: Rõ ràng là Giáo Hoàng không chịu làm bài tập, nghĩa là không chịu tìm hiểu cặn kẽ, và đã trình bày một quan điểm quá đơn giản về Phật Giáo.”

Tôi cũng thấy ông Trần Mạnh Hảo có quá ít kiến thức về Phật Giáo mà lại với quá cao, khi nhận xét về những vấn đề uyên áo của Phật Giáo như Niết Bàn, sự Giải Thoát của Đức Phật, sự im lặng của Đức Phật, thì thật là khôi hài và thật là tội nghiệp.

Sau cùng, tôi đề nghị ông Trần Mạnh Hảo sau này muốn viết về Phật Giáo thì nên trang bị cho mình những kiến thức căn bản về Phật Giáo, nhất là nếu có thể được, ông TMH nên thực hành thiền tánh không của Phật Giáo trước khi viết về Phật Giáo, chỉ để đỡ lộ những khiếm khuyết của chính mình, và cũng để dư luận, người đọc đỡ phải đọc những lời diễn giải lạc dẫn, ngớ ngẩn, bôi bịa của ông về Đức Phật và Phật Giáo mà thôi. Cám ơn ông nhiều lắm.

Phần 2: Phật Giáo chưa bao giờ có ảo giác, ảo tưởng, nói chi tới thời thuợng?

Tôi là một người có trong số những nguời trích dẫn những nhận định của các nhà khoa học nhận xét về Phật Giáo, trong bài: http://www.daophatngaynay.com/vn/dien-dan/doi-thoai/3529-Phat-giao-Ki-to-giao-doi-chieu-qua-nhung-nhan-dinh-dien-hinh-cua- danh-nhan-tri-thuc-the-gioi.html.

của ông GS Trần Chung Ngọc.

Và trong tác phẩm: “Tuyên Ngôn Về Thể Trạng Vũ Trụ Tiền Big Bang”, tôi đã dùng bài trích dẫn được cho là của Einstein và của Egerton C.Baptist này, trong đó 2 vị này tuyên bố như sau:

Einstein: “Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi ý nghĩa về Thượng Đế và tránh nói đến những giáo lý và thần học. Tôn giáo ấy sẽ bao quát tất cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên cơ sở đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể mà không rời nhất thể. Phật giáo đáp ứng được những yêu cầu ấy. Nếu có một tôn giáo nào có thể đương đầu được với những nhu cầu hiện đại của khoa học thì đó là Phật Giáo”.

[The religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend personal God and avoid dogma and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense arising from the experience of all things natural and spiritual as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that could cope with modern scientific needs it would be Buddhism.] (trang 175 TNVTTVTTBB).

Và của Egerton C. Baptist: “Phật giáo bắt đầu ở nơi khoa học chấm dứt”. (Tr.141 TNVTTVTTBB).

Nên tôi nghĩ mình có nhiệm vụ góp ý với những phê bình về điều này.

Tháng trước, tôi gặp lại anh bạn đã mua ủng hộ tôi tác phẩm “TNVTTVTTBB” của tôi ở SJ, anh Tiến Sỹ Trần T, trong lúc ngồi nói chuyện tôi có nhắc tới trích dẫn nhận xét của nhà bác học Einstein về Phật Giáo, nhưng anh bạn tôi ngắt lời tôi và nói trong tâm trạng như thất vọng: “Báo cho anh một tin buồn là điều mà anh trích dẫn nói là của Einstein thì người ta khám phá ra là tin giả rồi!”. Tôi cười trả lời anh: “Tin đó là giả hay là thật, thì đối với thực tế không có gì là quan trọng cả, vì như anh đã nhận xét, cuốn sách của tôi là một cuốn sách đầu tiên anh đã đọc từ đầu tới cuối một cách liên tục, trong vòng một ngày, trong khi đó, anh tự nhận là một người đọc chọn lựa và khó tính mà?

Nếu Einstein, hoặc những nhà khoa học nào đó, có những nhận xét như vậy về Phật Giáo, thì chứng tỏ là họ có hiểu sâu về Phật Giáo, và như vậy thì tốt cho họ, vì họ chẳng những là những người toàn triệt, đã giỏi về khoa học lại còn rành rẽ về đạo học, bản thể học. Còn nếu họ hoặc ông Einstein không tuyên bố như vậy, thì giá trị của Phật Giáo cũng vẫn thế, nghĩa là chẳng thay đổi gì cả”.

Vâng, đúng vậy, sở dĩ tôi trích dẫn hai lời nhận định như trên từ bài viết: http://www.daophatngaynay.com/vn/dien-dan/doi-thoai/3529-Phat-giao-Ki-to-giao-doi-chieu-qua-những-nhận-dinh-dien-hinh-cua-mot-so-danh-nhan-tri-thuc-the-gioi.html”

Trong bài này, trừ phần đầu, GS TCN đã phê bình, nhận xét về Catô Lích, còn phần sau, GS TCN đã trích dẫn tóm tắt những nhận xét rất tích cực của hàng mấy chục các nhà khoa học, trí thức, cả những người chức sắc Catô Lích nữa về Phật Giáo, tất cả đều bày tỏ sự ngưỡng mộ chân thành, cảm phục cao độ của họ về những giá trị chân thật của Phật Giáo, và vì thế nên tôi thấy sự ngưỡng mộ của các khoa học gia, trí thức tây phương với Đức Phật và Phật Giáo là có thật.

Nhưng điều cốt yếu nhất là người trích dẫn có tư duy sâu xa đủ để thấy, hiểu những trưng dẫn của mình là đúng với giá trị của Phật Giáo hay chăng? Xin được nhấn mạnh, những điều đó được đưa ra để nhận định có đúng với giá trị thật sự của Phật Giáo hay chăng? Chứ không phải là nhờ những nhận định của những nhà khoa học đó mà Phật Giáo trở thành có giá trị, và tôi thấy hai nhận định của 2 vị trên đây với giá trị Phật Giáo là chính xác.

Phần trích dẫn của hai vị này được đặt ở chương cuối của cuốn sách.

Trang 7 của TNVTTVTTBB dẫn lời của Phật trong kinh Viên Giác, trang 8 lời nhận định tóm lược của tác giả Trần Ngẫu Hồ:

“Cuối cùng chỉ còn một sự thật này: Chỉ có cái bất sinh diệt ‘Vô Sanh’, và cái sinh sinh, diệt diệt mà thôi”.

Việc đặt những nhận định của những vị trí thức trong lãnh vực khoa học này ở gần sau cùng của cuốn sách cho thấy, người viết không dựa vào đó để làm sáng tỏ những điều mình viết, tôi đã chứng minh sự hiện hữu của Vũ Trụ Thực Hữu, Phi Hữu trước Big Bang bằng giải thích tâm thành tựu của hai vị Phật đầu tiên của nhân loại là ngài Phật Thích Ca Mâu Ni và Phật Ma Ha Ca Diếp. Tâm đó là tâm rỗng lặng hồn nhiên, là tâm trong trạng thái Đại Định Vô Sanh.

Tôi sẽ tóm lược những chương chính trong tác phẩm để chứng minh Vũ Trụ là một Đại Định phi hữu, thực hữu.

Chương 4 (TNVTTVTTBB trang 55), nêu 2 nhận định của 2 nhà khoa học Eisenberg và Trịnh Xuân Thuận cho rằng Vũ Trụ Thế Giới của chúng ta, bao gồm cả con người đều ra từ Big Bang, Trang 58 của TNVTTVTTBB, trưng dẫn lời nhận định của GS Trịnh Xuân Thuận như sau:

“Tôi (TXT) muốn thêm vào: “Khoa học đã phát hiện ra một khía cạnh khác, mối liên kết của vũ trụ này: Tất cả chúng ta đều được sinh ra từ Big Bang…”

Và trang 65 của TNVTTVTTBB viết: <Trích> …“Tóm lại, vì: Trong mỗi chúng ta, vừa mang một lịch sử của sự khởi đầu, chúng ta đã biến đổi, kết hợp, chập lên nhau và tiến hóa từ những hạt bụi đầu tiên (tức là trong mỗi chúng ta đều có dấu ấn của Big Bang, sinh ra từ Big Bang, tức khởi đầu của sinh diệt, chúng ta sẽ làm rõ nghĩa, chính chúng ta hàm chứa Big Bang ở những trang sau).

Và nay, trong mỗi chúng ta lại đều có hàm chứa một cái trước khởi đầu. Đó là Đại Định Vô Sanh, thì rõ ràng Đại Định Vô Sanh chính là Vũ Trụ Đại Định, tức là cái vũ trụ trước khi có vũ trụ sinh diệt hay theo cách gọi của những nhà khoa học là Big Bang.

Đại Định Vô Sanh là nỗ lực và đích đến của Đức Phật Thích Ca. Và cũng là của tất cả con người chúng ta về sau.

Chúng ta là từ Big Bang mà ra, thế hệ sinh sinh, diệt diệt biến hóa từ Big Bang, sinh sinh, diệt diệt không ngừng nghỉ kể từ sau Big Bang, trong tất cả con người chúng ta lại có cái không sinh diệt là Đại Định Vô Sanh, vậy thì quá rõ ràng trước Big Bang là một Vũ Trụ Đại Định (Đại Định của tất cả con người gộp lại), thật là dễ hiểu, như chuyện bày trước mắt.” <HếtTrích>

Như vậy, thể trạng của Vũ Trụ là một Đại Định Phi hữu, nhưng thực hữu đã có từ trước đức Phật, đã có từ trước khi Big Bang xảy ra, điều còn lại là chứng minh đuợc điều đó.

Và tôi đã chứng minh một cách đơn giản như sau:

Con người đã nhận biết thế giới Big Bang qua cái thức của con người, không có cái thức của con người thì thế giới sinh diệt Big Bang không thể nhận biết, nên nơi trang 64 TNVTTVTTBB đã viết:

“Vì thế nên con người, vừa là đại diện sinh động của sinh diệt (tức Big Bang) và đồng thời cũng lại là gốc tích sau cuối của sinh diệt, lại vừa đóng vai trò chính thức, tiền phong và rõ nét của tiến hóa.

Và nay, ta lại đồng ý với nhau trong mỗi con người đều có thể đạt được Đại Định Vô Sanh, và sống trong Đại Định Vô Sanh để giải thoát ra khỏi sinh diệt khi đang sống trong sinh diệt (tức Big Bang) .

Chúng ta có thể thấy sự kiện này qua những trường hợp đại diện rõ ràng như ngài Phật Thích Ca, ngài Ma Ha Ca Diếp, và các vị tổ của thiền tông. (Tuy vậy, theo thực tế, như sự xác định và sự chỉ dậy của đức Thích Ca thì Đại Định Vô Sanh hay Phật Tánh đều đã có sẵn trong mỗi con người sinh diệt là chúng ta).

Và các ngài đã sống trong Đại Định Vô Sanh khi đang còn mang thân xác hữu hình (Thân xác sinh sinh diệt diệt). Thì rõ ràng là trước Big Bang (Hay trước các sinh diệt) phải là một Vũ Trụ Đại Định.

Hay nói khác đi, Đại Định Vô Sanh là mẫu số chung cho tất cả các chúng sinh cùng tướng trạng trên trái đất chúng ta” …

Tôi nghĩ, sự luận trình như vậy đã rõ ràng và đầy đủ để thấy là trước Big Bang là một Vũ Trụ Đại Định, và muốn thể nhập vào Vũ Trụ đó, thì con người chúng ta phải đạt được trạng thái Đại Định Vô Sanh, là trạng thái mà đức Phật thích Ca đã nỗ lực đạt được.

Vậy Đại Định Vô Sanh là gì? Đó là trạng thái thường xuyên trong thiền, khi nào tâm ta không có những tạp niệm mà nhà Phật gọi là những tư tưởng sinh sinh, diệt diệt (nổi lên, rồi lại chìm xuống) trong tâm ta, thì đó là trạng thái thiền, đó là trạng thái rỗng lặng, hồn nhiên, như như và trạng thái này chính là bản thể của Vũ Trụ trước khi Big Bang xảy ra.

Tình cờ, tôi đọc bài: “Khi Vật Lý Gõ Cửa Bản Thể Học” của Tiến Sĩ Nguyễn Tường Bách (NTB), viết năm 2013, và sau khi đọc kỹ bài này, tôi cảm thấy luận trình về thể trạng của Vũ Trụ trước Big Bang là một Đại Định rỗng lặng là đúng.

Ông NTB viết: <Trích> “Lấy ví dụ, cái bàn này là một hạt hạ nguyên tử, nó không nằm yên. Khi nào chúng ta nhìn nó thì nó mới xuất hiện, nếu chúng ta nhìn nơi khác thì nó không có mặt. Nếu dùng thước để đo, ban đầu chúng ta đo, nó dài 3m, nhưng sau đó, chúng ta đo lại thì chỉ còn 2,5m, lần sau nữa thì lại 3,5m. nó xuất hiện có vẻ ngẫu nhiên, không tuân thủ theo quyết định luận của Newton.

Dĩ nhiên, tính ngẫu nhiên này chỉ xuất hiện trong mức độ nhỏ nhất của vật chất. Mức độ này rất nhỏ, chúng ta không thể tưởng tượng được, mức độ đó phải được cộng thêm với 17 con số 0 nữa mới thành một centimet. Đó là mức độ nhỏ nhiệm nhất của vật chất, với mức độ đó, người ta hy vọng nếu khám phá được quy luật vật chất thì sẽ khám phá được thế giới, bởi nó là viên gạch cuối cùng của ngôi nhà vụ trụ, nhưng người ta không ngờ đến mức đó, hành tung của vật chất lại không như chúng ta chờ đợi. Do đó hàng loạt vấn đề triết học được đặt ra về tự tính của thế giới. Heisenberg nói: cái thiên nhiên, cái nature dường như xuất hiện theo cách chúng ta hỏi nó. Bởi vì khi thì nó xuất hiện theo dạng từng hạt, lúc thì xuất hiện theo dạng sóng, về mô hình, hai dạng này không tương thích với nhau. Nhưng nếu chúng ta mở một thí nghiệm khảo sát hạt thì nó có vai trò của hạt thật. Nhưng nếu chúng ta đo để xem vật chất có phải là sóng hay không thì nó cũng là sóng thật. Thiên nhiên là gì thì chưa biết, nhưng dường như nó trả lời theo cách mà chúng ta hỏi nó. Thế thì ý thức con người có ảnh hưởng gì lên thiên nhiên?

Ngày trước, người ta nói thực tại là gì không biết, nhưng nó luôn tồn tại độc lập, không bị ý thức con người ảnh hưởng lên nó. Con người dù có chết đi nữa thì thực tại vẫn là thực tại. Nhưng bây giờ, ở hạ nguyên tử thì ý thức xem ra có thể tác động lên được. Dường như thực tại là cái gì đó “nói chuyện” với ý thức, và có những nhà khoa học đi xa hơn, họ nêu lên vấn đề: phải chăng khi ý thức khảo sát thực tại thì chính lúc đó ý thức “tạo tác” ra thực tại, phải chăng thực tại là một sản phẩm do ý thức bày ra. Cho nên ngày nay mối quan hệ giữa thực tại và ý thức đã được đặt ra…<Hết Trích>.

Nhưng tận cùng của vật chất là Không, đúng như với lời dậy của đức Phật cho ông Anan trong kinh Lăng Nghiêm:

“Này ông Anan, nếu ông lấy một vi trần (Một hạt bụi nhỏ nhất bay trong không khí, chỉ thấy được qua khe nắng) chẻ ra làm 7 lần ông sẽ có một cực vi, ông lại lấy 1 cực vi này chẻ ra làm 7 lần ông sẽ có một siêu vi, nếu ông chẻ 1 siêu vi này làm 7 lần thì ông sẽ có một lân hư trần, và nếu ông chẻ lân hư trần này 7 lần thì sau cùng sẽ là hư không (cái không).”

Tôi sẽ triển khai, giải thích cái Không này chính là Bản Thể ở những trang sau.

Trong bài: “Khi Vật lý Gõ Cửa Bản Thể Học”, Ông Tiến Sỹ NTB viết: “…Khi nào chúng ta nhìn thì nó mới xuất hiện, nếu chúng ta nhìn đi nơi khác thì nó không có mặt..”.

Xin được mạn phép thêm thắt làm sáng tỏ hơn những câu của T/S NTB theo cách thế của Phật Pháp xem sao nhé:

“Khi nào chúng ta nhìn nó (với cái tâm đi tìm xem nó là gì?) thì nó sẽ có mặt”

“Khi nào chúng ta không nhìn nó (tương đương với tâm không: không nhìn thì với vật đó tâm ta là tâm không đi tìm) thì nó không có mặt”

“Khi nào chúng ta tìm nó (với sự chăm chú) thì nó sẽ là hạt cho chúng ta đo.”

“Khi nào cúng ta tìm nó với tâm hăm hở, ào ạt, hồ hởi thì chúng sẽ là sóng”

Như vậy, vật chất chẳng phải là hạt, cũng chẳng là sóng (mà đúng thật là không). Nhưng chỉ vì tâm của hành giả, lúc đi tìm nó như thế nào mà nó trở thành hạt hay là sóng.

Cũng vậy, chẳng phải là vật chất lúc đo được 3m (theo thí dụ của T/S NTB), lúc sau lại đo được 2m5.

Mà là tâm của hành giả lúc đo (Đang ở trạng thái sinh diệt: Tư luơng, tìm hiểu) nó khác nhau nên thành ra lúc 3m, lúc 2m5.

Có giống không? Sự kết luận của ngài Lục Tổ (638-713) năm nào, cách nay tới hơn 13 thế kỷ?

Tôi thấy giống lắm, ngài nói khi nghe 2 ông Tăng tranh cãi gió động, hay phướn động khi nhìn thấy cờ bay:

“Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động. Mà do tâm hành giả động”.

“Phải rồi, vì do tâm của hành giả động nên đã quyết đoán và tranh cãi gió làm chủ tể, hay phướn làm chủ tể.

Hãy đưa cho ta xem cái gì được gọi là gió? Cái gì là phướn? Cái cột, cái dây treo hay miếng vải là Phướn? Cái Không khí hay sự chuyển động của không khí là Gió? Đi tìm ngay chính chúng cũng đã chưa ra chủ tể, sao các ông lại tranh nhau (cái tưởng là) chủ tể của chúng mà làm gì?

Vã lại, chúng chỉ nương nhau mà tạm có thôi. Gió chẳng nổi lên sao phướn lay động? Cũng nhờ phướn lay động nên gió thành “thấy được rõ đang động” (cây, cỏ, vật chất lay cũng trong phạm trù của phướn). Cũng vì Tâm của các ông động nên không thấy được cái gốc không động của vấn đề, chứ tuyệt nhiên (chia chẻ tận cùng) thì chúng chỉ là không mà thôi.

Càng tranh luận, càng giành phần đúng về mình thì tâm càng động”.

Cũng thế, tận cùng của vật chất là Không, vậy mà các ông (Khoa Học Gia) cố tìm nó nên “tâm sinh diệt đi tìm” của các ông đã tương tác (mạnh) lên nó, cái không đó, nên nó thành ra hạt hay sóng cho các ông đo. Tâm tương tác mạnh lên nó (hăm hở nhiều, hồ hởi nhiều) thì nó thành sóng, tâm tương tác yếu lên nó thì nó thành hạt. Chứ các ông khi không nhìn (Tương đương với không đi tìm, sinh diệt) thì nó có hiện ra đâu? Nó là Không mà các ông đo đạc cái gì đây?

Trong TNVTTVTTBB tôi viết: Giữa tâm sinh diệt và phi hữu có một lằn ranh mong manh, mơ hồ. Nay ta thấy rõ tâm đi tìm của ta có thể ảnh hưởng lên nó (cái lân hư này, tức cực vi) nên nó lúc là hạt, lúc là sóng như bản báo cáo của T/S NTB.

Nhưng tới phạm vi vi mô, phạm vi hạt thì thấy tâm sinh diệt rõ hơn. Trong bản báo cáo của Tiến Sỹ NTB, (xin được cám ơn Tiến Sỹ Nguyễn Tường Bách).

Và với sự giải thích như trên, chúng ta đi tới giải trình và kết luận về Bản Thể như sau:

Bản thể là sự thật sau cùng, sự thật này chính là “Cái Không” sau cùng của vật chất. Cũng là cái Không không xuất hiện, trong sự không nhìn của các Khoa Học Gia, trong bài viết của ông NTB. Cái Không này cũng là cái Không mà Đức Thích Ca dậy cho ông Anan, cũng chính là cái Không (rỗng lặng, hồn nhiên) mà ngài đã “kiến tánh” ở ngay sau sát na nhìn thấy sao mai hiện trên bầu trời, mà sau này tôi đặt là Kiến Tánh Vô Sanh, rồi sau đó ngài hợp Kiến Tánh Vô Sanh với Đại Định để trở thành Đại Định Vô Sanh, tức trạng thái thường xuyên không rời Thiền, trạng thái rỗng lặng hồn nhiên thường xuyên để trở thành Phật.

Ngang đây, chúng ta hãy thử dùng những giá trị của Phật Giáo để giải trình Bản Thể và Thực Tại:

Kinh Kim Cang, lời Phật dậy: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng, phi tướng ắt kiến như lại”. Câu này đã được giải thích nhiều trên dư luận bởi các thiền giả. Nhưng xin được mạo muội giải thích theo cái “thấy” của tôi như sau:

“Những gì thuộc về hình tướng, có hình tướng, đều là giả hữu (giả có) mà thôi. Nếu ai mà thấy được cái không tướng (phi tướng - tướng thật) trong cái tướng, thì là thấu triệt (hiểu) được Đại Định Vô Sanh.

Lai là đến, Như là Đại Định Vô Sanh. Vậy nên, thấy (kiến) như lai, là thấy được Đại Định Vô Sanh. Người đến từ Đại Định Vô Sanh là người đang trong Đại Định Vô Sanh vậy.”

Xin được nêu vài thí dụ để hiển lộ giá trị của không tướng trong thế trần (để dễ hiểu hơn về cái phi tướng trong kinh Kim Cang):

Tôi khoe bạn một bộ ly uống trà từ đầu đời Lý, mà tôi mới sưu tầm, mua được. Tôi và bạn đều trầm trồ những đường nét vẽ trên cái ly, và hoàn toàn không quan tâm tới cái gì chứa được nước trà để mà mình đem lên miệng uống?

Sự cột tâm, chạy theo những nét vẽ trên ly là sự chạy theo hữu tướng, không để ý tới, quan tâm tới cái gì đựng nước trà cho ta uống là không biết tới cái phi hữu của cái ly, đúng không? Chính cái chỗ không của cái ly mới giúp cho chúng ta uống được trà, chứ nếu cái không của cái ly bị đặc, bị chiếm hữu, chúng ta đâu còn xử dụng cái ly đó được nữa? Ngay cả chỉ một chút dơ, đất bám trên cái vành ly, tức cái không của ly đã bị xâm phạm, ta cũng không muốn uống nữa là huống chi.

Cái không của cái tách trà đời Lý, cái không của cái ly bằng thủy tinh rẻ tiền thì cũng chẳng khác nhau, cái không của tách bằng thủy tinh thì cũng giúp ta uống được trà vậy.

Từ cái Không của cái tách trà, ta suy rộng ra những thứ khác cũng vậy thôi, ta cũng nương sống vào cái Không của cái chén ăn cơm, đôi giầy, cái bàn, cái ghế, cái nhà, cái xa lộ. v..v.. Buổi sáng lái xe ra xa lộ, không cần biết hôm đó xa lộ đông xe bao nhiêu, miễn xa lộ còn cái Không của xa lộ là ta chạy xe được. Cái Không của xa lộ chỉ cần bị chiếm đóng một chút, bởi một cái tai nạn nào đó là cả xa lộ kẹt cứng, hoặc mưa lớn, đất chuồi, hoặc ngập lụt một đoạn nhỏ là cái Không của xa lộ xem như bị chiếm đóng, thế là cả xa lộ coi như hết xài. Chỉ sau khi khai thông những thứ này, thì cái Không của xa lộ mới xài lại được.

Con người chúng ta cũng có cái Không này, bao tử, bọng tiểu mà chẳng Không thì làm sao mà có “tinh thần” ăn uống?

Kinh mạch chẳng Không thì máu huyết sao lưu thông? Lỗ mũi, lỗ tai chẳng Không làm sao hít thở, nghe ngóng?

Thế nên nói vạn vật đồng nhất thể, là ở cái thể Không này, hay cái Phi Tướng (Vô Tướng) trong kinh Kim Cang.

Cái Không này không thể bị hủy diệt bởi bất cứ thứ gì, căn nhà của ta có bị cháy tiêu nhưng cái Không của căn nhà làm sao mà cháy được? Bằng cớ là dọn sạch tro tàn của căn nhà cháy đi, thì căn nhà mới lại có thể được cất lên ngay tại cái chỗ cháy đó và ta vẫn nương vào cái Không của căn nhà mà sống đó thôi. Bom Nguyên Tử cũng chẳng tiêu hủy được cái Không (Nhưng có điều phải đợi cho phóng xạ tan đi thì cái Không ở đó mới xử dụng lại được, rồi phóng xạ cũng phải tan, nhưng cái Không thì chẳng bao giờ tan). Cái Không có thể kéo cho dài tới đâu cũng được, như xa lộ 101 nối dài các tiểu bang miền Tây nước Mỹ, cái Không có thể nhét vào căn nhà xinh xắn, tủ, chai, lọ. Cái Không có thể uốn nắn theo cầu đường, chẳng những vậy con người còn có thể ép cái Không sát nhau, mà cái Không chẳng dòn gẫy: Bỏ 05 bộ quần áo vào cái bao nylon rồi lấy máy hút hút hết không khí ra, cái Không như dính sát vào nhau, tới nơi, lấy quần áo ra, cái Không lại xuất hiện nơi bộ quần áo, và chúng ta lại mặc vào người lại được.

Cái Không dung chứa cái sống là thế, cái sống nương vào cái Không để mà tồn tại là thế, cái Không không thể bị tiêu hủy bởi bất cứ cái gì. Kể cả thời gian cũng không tiêu hủy được nó. Cái Không lại có trong tất cả chúng ta và vạn vật. Cái Không chẳng bao giờ thay đổi, chẳng mới, chẳng già.

Vậy thì cái Không đấy là Bản Thể của vạn vật, chứ còn cái gì có thể là Bản Thể được nữa?

Nhưng kỳ diệu thay, tất cả chúng ta có thể thể nhập vào cái Vô Tướng này, bằng chính tâm Không của chúng ta (Xin xem trong TNVTTVTTBB). Bản Thể đơn giản, dễ thấy như ngay trước mắt vậy.

Không biết lối giải thích đơn giản của tôi, bạn đọc đã thấy, và hiểu và công nhận Bản Thể chỉ là cái Không đơn sơ đó chưa?

Bây giờ chúng ta giải thích thực tại.

Trong TNVTTVTTBB, tôi đã giải thích thực tại như sau: Nếu nói thực tại là bây giờ thì là không sai, nhưng chỉ đúng trên mặt chữ nghĩa, hiện tượng, chứ chưa hoàn toàn đúng một cách rốt ráo. Vì nói bây giờ là nói tới thời khắc này khác với thời khắc đã qua, như vậy vẫn còn trôi lăn. Trôi lăn sao là thực tại được?

Thực tại phải không còn trôi lăn, không quá khứ, không hiện tại, không tương lai.

Đức Phật Thích Ca sau khi nhập được vào định phi tưởng, phi phi tưởng xứ định, thì ngài vẫn thấy chúng sinh trong cõi đó còn trong luân hồi, khi xuất định ngài hoang mang cùng cực, vì khi vào cái định cao nhất mà vẫn chưa được rốt ráo, còn trôi lăn, luân hồi. Thì đâu là nơi không còn luân hồi, trôi lăn?

Ngài sau đó nhất quyết đi tìm câu trả lời cho vấn đề này. Và như kinh sách đã tường thuật, sau 49 ngày đêm, và sau khi phát hiện sao mai mọc trên bầu trời, thì ngài đại ngộ Vô Sanh.

Nghĩa là thấy (kiến) được cái rỗng lặng, đại định phải ở ngay trong con người mình, chứ chẳng phải từ ngoài đi vào Định như những ngày xưa nữa, nói rõ hơn là phải thường xuyên ở trong Định, ngay cả khi đối cảnh, tức lúc tiếp xúc với các sinh hoạt, cảnh trần xung quanh mình, muốn vậy, tâm phải không sinh, diệt chạy theo cảnh khi tiếp xúc với cảnh, sự kiện này gọi là “kiến tánh”. Kiến Tánh thường xuyên khi đối cảnh thì gọi là Kiến Tánh Vô Sanh. Rỗng lặng thường xuyên khi đối cảnh, và cả lúc không đối cảnh thì gọi là Đại Định Vô Sanh (Định với Kiến Tánh Vô Sanh), Đại Định Vô Sanh là trạng thái không rời thiền.

Với kết quả đó nên Ngài tuyên xưng ngài là Như Lai, là người đã giải thoát (khỏi luân hồi khổ đau), là người thường xuyên trong Đại Định Vô Sanh (lai là đến đây, như là đại định vô sanh. Đến từ Đại Định Vô Sanh để giảng pháp cho các ông tức phải là đang ở trong Đại Định Vô Sanh vậy).

Vậy Thực Tại là trạng thái không rời thiền định, là Đại Định Vô Sanh, trạng thái rỗng lặng thường xuyên. Là trạng thái sống với không trôi lăn, cuốn hút bởi hữu tướng, luôn luôn thấy cái phi tướng. Không bị ảnh hưởng bởi thời gian.

Cái không trôi lăn, phi thời gian này chính là Thiền.

Sống trong bản thể rỗng rang là sống với tánh không, cái sống này vĩnh cửu không còn bị hủy diệt bởi bất cứ cái gì. Như đã giải thích đơn giản ở trên: Cái Không của căn nhà không bị hủy diệt, khi căn nhà bị hủy diệt, thì cái Không của con người sống với thực tại, với tánh không lại bị hủy diệt được sao? Sống trong tánh không là sống trong cái tâm vô sanh, rỗng lặng, là cái sống phi hữu, nhưng thực hữu, uyên nguyên, trầm mặc, mới là cái sống thật sự vĩnh cửu.

Sự chết theo cách gọi của thế gian chỉ là sự chấm dứt cái duyên sống của thân họ với cái sống sinh sinh, diệt diệt hữu vi mà thôi, khi đang sống với tánh không thì cái tâm vô sanh của họ như thế nào, thì khi chấm dứt cái duyên của thân mạng thì tâm của họ vẫn vậy, không chạy theo hữu tướng sinh diệt, thế nên mới gọi là giải thoát. Khi nào thân mạng của họ chấm dứt họ sẽ vẫn trong cõi Vô Sanh, còn gọi là Vô Dư Niết Bàn, hay Vũ Trụ Đại Định, Bản Thể Vĩnh Cửu.

Vậy xin kết luận: Sống với Thực Tại hay Hiện Tiền chính là Thiền Định, cũng là đang sống mà không rời thiền định, phi thời gian, phi không gian (phi tướng), phi biến đổi, sống lặng lẽ, rỗng rang, hồn nhiên, như như.

Trong bài viết: “KHOA HỌC LÀ TỪ ĐÂU, VÀ Ở ĐÂU TRONG CUỘC SỐNG?”

Gởi đăng ở Blog Đông La, thứ 4, ngày 01/03/2017, tôi nhận định về thiền định như sau:

“ … Các thế hệ chúng ta đều được biết, Einstein đã cất công đi tìm một lý luận để nối kết tất cả các lý luận mà người ta gọi là trường thống nhất, nhưng ông ta đã thất bại. Làm sao mà tìm được sự thống nhất khi đang trong sinh diệt? Mọi sự trong sinh diệt đều trôi lăn, cái mà ta gọi là hiện tại, bây giờ, cũng đang trôi thành cái dĩ vãng, dù chỉ một sát na cũng đã khác rồi. (Điều này thấy rõ, trong cái kết quả khác nhau trong công việc đi tìm đo hạt trong bản báo cáo Vật Lý: “Khi Vật lý Gõ Cửa Bản Thể Học” của Tiến Sỹ NTB).

Không biết sau này người ta có thể tìm ra một sự thống nhất không? Nhưng trong TNVTTVTTBB, tôi đã lý luận để giới thiệu sự thống nhất đó, nhưng đúng nhất, thì tôi chỉ làm rõ, giới thiệu một cách của Phật Giáo để đi vào sự thống nhất:

Đó là thiền tánh không, còn có thể gọi là khoa học thiền định cũng đúng.

Trong từng con người đều có thể thực hiện Đại Định Vô Sanh, để đi vào Vũ Trụ Đại Định, vào cái Bản Thể Vĩnh Cửu, mà căn bản của nó là từ thiền định. Nên trong một nghĩa nào đó thì giá trị của thiền là giá trị của Bản Thể Vô Sanh.

Khi nào các vọng tưởng vắng lặng thì trạng thái thiền xuất hiện, ở lâu trong trạng thái này thì vào định. Vào định quen thuộc, ở lâu trong trạng thái định đó là đại định, phối hợp với Kiến Tánh Vô Sanh (trạng thái rỗng lặng hồn nhiên vô sanh lúc đối cảnh trong đi đứng nằm ngồi) thì gọi là Đại Định Vô Sanh.

Đây là trạng thái giải thoát, trạng thái của niết bàn hữu dư, trạng thái đồng bản thể với vũ trụ đại định. Trạng thái của vũ trụ lúc trước Big Bang xảy ra.

Vì sao thiền tánh không lại là cách sau cùng thống nhất con người lại với nhau? Vì trong thiền ấy có 4 đặc tính là: Thường, Lạc, Ngã, và Tịnh. Dầu chỉ nhập được vào thiền ấy 05 phút, thì ta cũng có những đặc tính đó trong người.

“Thường” là sự thường hằng, tâm như như, không biến đổi, không sinh diệt, không bị chi phối bởi bất cứ gì chung quanh.

“Lạc” là sự khinh an, thoải mái, an lạc trong thanh dịu, nhẹ nhàng.

“Ngã” là sự tự tại, tự tánh, độc lập, không bị lệ thuộc vào bất cứ gì cả.

“Tịnh” là sự thanh tịnh, vô nhiễm; từ sự thanh tịnh, lòng bi mẫn thật sự, tình thương vô vị lợi, lòng đại bi phát sinh tới muôn loài, muôn vật.

Với 4 đặc tính này, thấy được giá trị của thiền, mới thấy được vai trò thống nhất của nó, thiền mới là phương cách đem con người lại với nhau, không nghi kỵ nhau, chống báng nhau, nên sẽ dễ dàng cùng nhau hợp tác phát triển xã hội, làm việc cộng đồng. Dường như ở Nhật người ta có áp dụng thiền vào chương trình giáo dục?

Khoa học gia có trí tuệ từ thiền định, sẽ hiểu được những gì thuộc về phi hữu mà những phuơng trình, những bài toán của mình chưa với tới được, biết đâu nhờ thiền định, khoa học gia sẽ tìm ra được sự liên kết giữa thế giới hữu vi (hữu) và vô vi (phi hữu)?

Các vị lãnh đạo có trí tuệ từ thiền định mới khiến họ thương dân, thương nước với lòng từ bi thật sự, họ sẽ cần mẫn với nhiệm vụ, sẽ không còn mơ màng tới tham nhũng, mánh mung tư lợi nữa.

Thế nên trong nhà thiền có câu: “tri không không giác hữu” tức là: “biết không rồi biết có” là vậy.

Giá trị của thiền là cái dễ nhất có thể đem áp dụng cho mọi con người, không cần phải thông minh quán thế gì cả, mà ngay một người ít thông minh cũng có thể thực hành được. Thế nên thiền là phương pháp thống nhất con người lại với nhau. Là tôn giáo tương lai của nhân loại.

Với Kiến Tánh Vô Sanh, có được trí tuệ từ thiền định, tiến tới Đại Định Vô Sanh, để sau cùng thể nhập Vũ Trụ Đại Định, cũng là Niết Bàn Vô Dư, Bản Thể Vĩnh Cữu, bất diệt.

Trên đây, tôi đã dùng những giá trị của Phật Giáo để mà giải trình Bản Thể và Thực Tại, nêu rõ giá trị của Thiền Định, và thiền chính là cách nối kết con người ngồi lại với nhau, an hòa thật sự.

Vậy thì, câu: Einstein tuyên bố (Xin tóm tắt) “Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu… Phật Giáo đáp ứng được nhu cầu ấy, nếu có một tôn giáo nào có thể đương đầu với những nhu cầu hiện đại của Khoa Học thì đó là Phật Giáo”

Và câu: Egerton C. Baptist (Tóm tắt) “Phật Giáo bắt đầu ở chỗ Khoa Học chấm dứt”.

Mà nếu đúng là quý ông này đã nhận định, tuyên bố như trên thì đó là những nhận định trí thức vừa khít với giá trị của Phật Giáo. Chứng tỏ họ là những người có trí tuệ, vừa giỏi về Khoa Học lại vừa tiến gần đến sự rốt ráo, thấu triệt Bản Thể, Thực Tại sau cùng.

Còn nếu họ không có những nhận định như vậy, mà ai đó đã gắn những câu tuyên bố đó cho họ, thì chính họ, là những người đã được hời quá, với một mùa bội thu cho trí tuệ, tư duy và danh tiếng của họ, chứ họ có mất mát gì đâu?

Trần Ngẫu Hồ

Thứ Sáu, 21 tháng 7, 2017

Ý nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự Ðề tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm




Nhân dịp đầu năm mới, vua Lê Thánh Tông mặc thường phục vi hành để xem xét tình hình dân chúng. Ði tới đâu, nhà vua cũng thấy la liệt những câu đối ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị, trong lòng vui mừng lắm. Riêng nhà nọ, chẳng treo đèn, kết hoa mà cũng chẳng thấy đối liễn gì hết.


Vua lấy làm ngạc nhiên, rẽ vào hỏi. Chủ nhà trả lời rằng: “ Chẳng giấu gì bác, nhà cháu làm cái nghề hèn hạ quá, nên chẳng dám khoe khoang gì với ai cho thêm tủi!”.
Vua ngạc nhiên, hỏi: “ Sao lại có nghề gì là nghề hèn hạ?”.


Chủ nhà thưa: “ Dạ, nhà cháu chỉ chuyên đi… mót phân người để bán thôi ạ!”.


Nghe xong, vua cười nói: “ Nếu vậy nhà bác đây là sang trọng bậc nhất, mà nghề của bác cũng là vẻ vang bậc nhất. Câu đối của bác nếu dán lên cũng hay bậc nhất, việc gì mà lại kêu là hèn!”.


Nói đoạn, vua lấy giấy bút, đề giùm cho một đôi câu đối như sau:


Ý nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự
Ðề tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm


Tạm dịch:


Khoác một áo bào, đảm đang khó khăn thiên hạ
Cầm ba thước kiếm, tận thu lòng dạ thế gian





Khách qua lại, nhìn thấy câu đối ai cũng kinh ngạc trầm trồ.


Vua Lê Thánh Tông đã ứng xử đúng theo phong cách của một vị minh quân, đức độ sáng ngời. Câu đối của vua vừa tài hoa, tràn đầy khí phách, cũng vừa rất hợp cảnh, hợp tình, quả đúng là tuyệt vời.


“Đảm đang khó khăn thiên hạ”, “Tận thu lòng dạ thế gian”… đều là những việc làm của bậc quân tử, chẳng ai có thể nghĩ đó là lời ví von cho công việc của một anh chàng gánh phân!

TỰA VÀO TỬ NIỆM SƠN KHÊ





Em đi tìm mãi bờ vai để tựa
cho vô tình ong bướm đậu khát khao
ngày trang trải bằng niềm tin nhũng nhão
đêm dâng đầy hương đỡ lá gầy hao


Em gom cả mùa thu vào ánh mắt
câu thơ tôi vàng héo hắt sầu tương
con đường em qua nát nhàu kỹ vật
trầy xước con tim thổn thức yêu thương

Tôi nào dám mệnh danh vững chải
chỉ với đôi tay hứng lá tàn phai
tôi nhặt ngày bằng nỗi niềm sợ hãi
thao thức  gọi đêm ấp ủ tương lai

Tôi mang tình phơi trên giấy trắng
thấm máu tim vào nỗi nhớ không tên
mùa thu rớt lá lênh đênh
con thuyền hạnh phúc dập dềnh sông mê

Tôi dừng lại chân quê
đợi thời gian chết mùa thu quay về
tựa vào tử niệm sơn khê
bờ vai sinh nở nhân duyên luân hồi

Thứ Năm, 20 tháng 7, 2017

ĐỐT ÁNH TRĂNG VÀNG SƯỞI ẤM THU





Trút cạn lòng xanh hứng lá rơi
trời đổ đa mang đất đổi màu
gió se sẽ lạnh choàng vai áo
thu rớt u sầu quấn chân côi

Con đường về cội đầy sám hối
ai nhặt chút tình tội lỗi tôi
giấu vào tóc rối mùi hương biết nói
lời tàn phai nhè nhẹ bên tai

Hồn lắc lay đời rung nỗi nhớ
âm thanh đợi chờ sợ hãi bay
nắng lọt khe ngày đêm khờ dại
đốt ánh trăng vàng sưởi ấm thu

Chủ Nhật, 16 tháng 7, 2017

Nguyễn Lương Ngọc và quan niệm "Thơ lập thể"



Mọi hành động sáng tạo đầu tiên đều là hành động hủy diệt”.


Lê Hồ Quang

Với ba tập thơ (Từ nước - 1990, Ngày sinh lại - 1991, Lời trong lời - 1994), Nguyễn Lương Ngọc nổi lên như một gương mặt đầy cá tính của thế hệ nhà thơ Đổi mới. Đắm đuối với thơ ca, đồng thời cũng hết sức say mê Hội họa và Mỹ thuật, ông am hiểu khá rộng về các lĩnh vực nghệ thuật vốn có quan hệ chặt chẽ như Hội họa, Âm nhạc và Văn học… Đây là điều kiện tích cực giúp nhà thơ sớm hình thành một quan niệm hiện đại về thơ, về hoạt động sáng tạo.
Trong Hội họa lập thể, bài thơ được xem như một tuyên ngôn nghệ thuật của tác giả, Nguyễn Lương Ngọc viết:
Khi mắt đã no nê
Những quy tắc lên men
Khi sự thật bị thay bằng cái giống như sự thật
Có gì không ổn
Có gì như bệnh tật
Khi mồ hôi vẫn ê a thiên chức nghệ sỹ
Anh không muốn nhìn những gì mình đã vẽ
Chính nước mắt, hay máu tứa ra từ cái nhìn bền bỉ
Đã cho anh chiếc lăng kính này đây
Để anh đủ sức đập vụn mình ra mà ghép lại
Nung chảy mình ra mà tìm lõi
Xé toang mình ra mà kết cấu

Em tặng anh cát
Đây nó là thủy tinh
Em tặng anh dòng sông
Đây nó là ánh sáng
Em tặng anh chính anh mà em vừa tìm được
Đấy là em
Thực chất, với Nguyễn Lương Ngọc, nói về hội họa chính là để nói về thơ, về việc cách tân quan niệm và thi pháp thơ. Ông đề cao hội họa lập thể (rộng hơn là nghệ thuật hiện đại), trước hết, bởi cái tinh thần cách tân quyết liệt của nó. Chủ soái của phái Lập thể, Pablo Picasso viết: “Mọi hành động sáng tạo đầu tiên đều là hành động hủy diệt”. Phải chăng Nguyễn Lương Ngọc được gợi ý từ ý tưởng này khi ông viết: đập vụn mình ra mà ghép lại/ Nung chảy mình ra mà tìm lõi/ Xé toang mình ra mà kết cấu? Bản thân Picasso, dù rất say mê với hội họa lập thể, không bao giờ cho rằng các phương pháp của phái lập thể có thể thay thế mọi cách miêu tả về thế giới hữu hình và trên thực tế ông liên tục thay đổi phong cách và phương pháp tạo hình của mình. Tôi tin đây cũng là điểm Nguyễn Lương Ngọc hoàn toàn đồng tình với nhà danh họa. Cái đẹp luôn là một ý niệm mang tính lịch sử. Do đó, sáng tạo đúng nghĩa luôn đòi hỏi ở người nghệ sỹ khả năng “gây hấn”, “nổi loạn” (một cách nói hình tượng, nay đã trở nên quá quen thuộc) – với truyền thống, với chính mình - nhằm chống lại những giá trị thẩm mĩ đã trở nên lỗi thời và để xây dựng những chuẩn mực giá trị mới. Điều này đòi hỏi một tinh thần dấn thân quyết liệt, một ý thức và quyết tâm thay đổi tận gốc rễ nhận thức, tư duy. Đổi mới tư duy chính là yêu cầu tiên quyết đối với nghệ sĩ khi đứng trước mục tiêu cách tân nghệ thuật.
Thứ hai, Nguyễn Lương Ngọc chắc chắn đồng tình và đề cao quan niệm mĩ học mới về thế giới và con người của nghệ thuật hiện đại mà Lập thể là một đại diện tiêu biểu. Đó là quan niệm đề cao cái nhìn bên trong, “con mắt tâm trí”. Thế giới nghệ thuật được tạo ra theo/bởi con mắt ấy, theo cách nghệ sỹ hiểu về sự vật, do đó, dù có vẻ tương tự thế giới tự nhiên, nhưng thực chất nó đã được tổ chức, sắp xếp lại bằng tư duy, bằng trí tưởng tượng. Cũng là Pablo Picasso khẳng định: “Tôi vẽ như tôi nghĩ. Không phải như tôi nhìn thấy”. Bản chất sáng tạo của nghệ thuật đòi hỏi nghệ sỹ phải biết vượt lên cái nhìn nệ thực để phát hiện ra cái đẹp ở “bề sâu, bề sau, bề xa” hiện thực. Ấy là cái đẹp “trong trắng/ như đất đá lá hoa như nắng/ thật mình/ dường đơn giản” (Thầy Sáng). Nó tiềm ẩn một sức mạnh khai sáng và “thức tỉnh” lớn lao: Vì cùng với cao xanh người chứng tỏ cao xanh/ cùng nước, bùn, dế, giun, người chứng tỏ mênh mông/ cùng con người ngươi phải đến xòe rộng đôi cánh mạnh mẽ của cái đẹp đang than khóc/ đòi được đánh thức và sẽ thức tỉnh (Bản tin ngắn)…
Thứ ba, chắc chắn nghệ thuật hiện đại và họa phái lập thể đã có những gợi ý tích cực cho nhà thơ về nhãn quan và bút pháp tạo hình. Đó là nhãn quan mô tả theo hướng giản lược và tượng trưng. Đi sâu vào bản chất sáng tạo, Nguyễn Lương Ngọc đề cao “sức gợi”, “những khoảng lặng nhiều tầng lớp thanh âm đầy quyền lực huyền bí”, “ít kí hiệu mà giàu khoảng trống”, “những ký hiệu của một chu trình đang còn dằng dặc”1. Đi cùng với việc phát huy cao độ tính chủ quan và trí tưởng tượng, trong thế giới thơ này, sự vật có thể bị “bóp méo”, “xô lệch”, “chồng chéo” lên nhau để đồng hiện trên cùng một không/ thời gian trong những dáng vẻ, chiều kích, sắc màu khác lạ, đầy bất ngờ. Đó là kết quả của một kiểu tư duy “lập thể” đa tầng và biến ảo. Trực giác, liên tưởng, tưởng tượng phóng túng… là những yếu tố không thể thiếu của kiểu tư duy này.
Quan niệm thơ của Nguyễn Lương Ngọc, được trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, qua phê bình hoặc qua sáng tác…, song tất cả đều cho thấy một ý thức cách tân sôi nổi và nhiệt thành của tác giả nhằm hướng đến một chuẩn mực thẩm mĩ mới, theo hướng hiện đại chủ nghĩa. Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ những nguồn sáng tạo văn học, nghệ thuật phương Tây hiện đại, quan niệm này được phát biểu trong cảm hứng đối thoại và phản biện sôi nổi với nhiều quan niệm thơ đương thời.
Với ông, cũng như nhiều nhà thơ cùng thế hệ, “mĩ cảm” vừa là yêu cầu vừa là đích đến đầu tiên trong sáng tạo cũng như tiếp nhận. Nhà thơ trước hết phải hiện diện với tư cách của kẻ hành nghề sáng tạo, một nghề nghiệp có tính đặc thù. Nó đặt lên hàng đầu yêu cầu về tài năng, sự dấn thân và ý thức cách tân triệt để. Bởi vậy, nói theo cách của Nguyễn Lương Ngọc, “khi mồ hôi vẫn ê a thiên chức nghệ sỹ”, khi “những quy tắc lên men”, khi ấy “sự thật bị thay bằng cái giống như sự thật”. Tất nhiên, nhà thơ hoàn toàn ý thức được rằng chức năng thẩm mĩ ở đây không hề tách rời chức năng đạo đức - xã hội. Vấn đề là nghệ thuật, trong đó có thơ, tác động đến đời sống theo cách riêng, qua/bằng các phương tiện thẩm mĩ đặc thù của nó. Trên thực tế, sáng tác Nguyễn Lương Ngọc cho thấy “phản ánh hiện thực” cũng là cái đích tác giả hướng tới. Nhưng đó không chỉ là cái hiện thực “lao động, sản xuất, chiến đấu” mà còn là cái hiện thực nội tâm sâu kín. Việc phản ánh hiện thực ấy đòi hỏi một tư duy, một thi pháp mới (nhà thơ gọi đó là một “cái nhìn”, một “lăng kính” khác). Qua đó, hiện thực không còn là cái được “nhìn thấy”, mà là cái được “cảm thấy”: Em tặng anh cát/ Đây nó là thủy tinh/ Em tặng anh dòng sông/ Đây nó là ánh sáng/ Em tặng anh chính anh mà em vừa tìm được/ Đấy là em…
Những tìm tòi, cách tân này càng đặc biệt có ý nghĩa, nếu ta đặt nó vào thời điểm những năm tám mươi của thế kỉ XX, khi đời sống văn học đang rơi vào tình trạng “chân không” - không thể viết như cũ, song đổi mới như thế nào thì vẫn là một câu hỏi lớn với đại đa số người cầm bút. Tuy nhiên, khách quan mà nói, đây không phải là một quan niệm hoàn toàn đột biến và xa lạ. Trước đó, ngay từ thời Thơ mới, trong các sáng tác của Trường thơ Loạn hay nhóm Xuân Thu Nhã Tập cũng đã xuất hiện những đổi mới theo hướng tượng trưng, siêu thực. Có điều do những yêu cầu lịch sử - xã hội, sau 1945, trong văn học ở miền Bắc, những tìm tòi theo hướng này không có điều kiện tiếp tục. Mặc dầu vậy, vẫn có thể thấy những đổi mới hình thức ấy trong thơ của các tác giả như Nguyễn Đình Thi, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm… Như vậy, những cách tân thi pháp của Nguyễn Lương Ngọc và thế hệ của ông, xét đến cùng, hoàn toàn không đứt rời với mạch ngầm “cuống nhau và chùm rễ” tìm tòi, đổi mới của người đi trước. Đó là sự kế thừa và phát triển mang tính quy luật trong sáng tạo nghệ thuật.
Cách tân trong quan niệm tất yếu dẫn đến cách tân thi pháp. Trước hết, thơ Nguyễn Lương Ngọc trở nên giàu chất nghĩ, theo nghĩa là một phẩm chất của thơ, trong đó, nhà thơ chú trọng hướng đến đến mục tiêu nhận thức hơn là giãi bày xúc cảm. Điều này thể hiện một ý thức thay đổi của nhà thơ: trong một nhãn quan hiện đại hơn, người ta muốn thơ không chỉ sa lầy trong tình trạng “tê mê và rũ liệt” của cảm xúc mà còn là sự cất cánh của tư tưởng, của trí tuệ. Thơ ông, vì thế, đi cùng trữ lượng cảm xúc dồi dào là một năng lực phân tích trực giác bén nhạy. Ở đó, cá nhân luôn tự cảm thấy bản thân trong trạng thái tinh thần đồng điệu với thế giới: Lững thững bờ sông quen/ Nghe gió chảy quanh/ Mình cũng một phần mùa đông/ Lạnh ở đâu ngấu vào nước xanh/ Nhớ ở đâu nổi triền lau sáng/ Sương mờ dâng từ dự cảm nào/ Cho cây đừng thấy cây tàn vắng (Mùa đông)… Một thế giới được mô tả không phải nhằm mục đích giãi bày, thổ lộ xúc cảm, mà để hình dung, để ngẫm nghĩ và xa hơn, để lí giải về cái trạng thái tồn tại của bản thể. Hình tượng con người, do đó, thường hiện lên trong những trạng thái nghiệm sinh khác nhau, vừa mơ hồ vừa xác thực, vừa trừu tượng vừa cụ thể, chẳng hạn: Những ngôi sao từng đôi lên/ Từng đôi chim bay về tổ/ Chiều không ai chiều một mình (Những buổi chiều); Những cúc cúc đã nở/ vàng vàng năm ngày rồi/ chúng sẽ còn nở nữa/ cả khi không còn ai… Những cúc đã nở/ vàng, năm ngày ư? (Những cúc)… Dường như chỉ những nhận thức trực cảm đầy mâu thuẫn ấy mới có thể giúp nhà thơ “ngộ” ra trọn vẹn bản chất của sự tồn tại. Điều này dần dẫn đến những tính chất khá khác biệt ở cái tôi này so với truyền thống: từ cái tôi – cảm xúc sang cái tôi - nhận thức, cái tôi bộc bạch, giãi bày sang cái tôi ẩn giấu, tượng trưng, cái tôi – sử thi đến cái tôi – nội cảm, tâm linh…(Đây cũng là sự chuyển đổi có tính quy luật ở nhiều nhà thơ cùng thế hệ với Nguyễn Lương Ngọc, dĩ nhiên, ở những mức độ, tính chất đậm nhạt khác nhau).
Đi cùng với những đổi mới trong cách nhìn về con người là sự đổi mới trong cách nhìn thế giới. Như có lần nói ở trên, Nguyễn Lương Ngọc không coi nhẹ việc “phản ánh hiện thực” trong thơ mình. Ngược lại, thơ ông “thâu nạp” khá nhiều “chất liệu” quen thuộc của đời sống công trường, nhà máy những năm 80 của thế kỉ XX, chẳng hạn giờ hành chính, hàng tã ai phơi trước lúc đi làm, khói mìn, sắt thép, máy móc bê tông, tiếng xe vượt dốc, giờ giao ban, giọt mồ hôi lẫn bụi đá mỡ dầu, áo bảo hộ đi qua loạt soạt…(ở đây, dấu vết cuộc sống thực tế mà nhà thơ đã trải qua trên công trường sông Đà những năm trẻ tuổi quả thật đậm nét). Dẫu vậy, từ những chất liệu thông thường đó, nhà thơ vẫn muốn, nói theo cách của Goethe, hướng đến một cái gì đó mang tính phổ quát hơn, cao cả hơn. Dường như ông muốn tìm kiếm từ đối tượng của “sự quan chiêm trực tiếp” ấy dấu vết của một cái gì như là quy luật, bản chất sâu xa của đời sống và sự tồn tại. Không dừng lại ở những đề tài thời sự xã hội quen thuộc trong thời điểm ấy, thơ ông hướng tới những chủ đề mang tính nhân sinh – thẩm mĩ rộng lớn hơn, trừu tượng và đậm màu sắc triết học hơn, chẳng hạn sự tồn tại của con người giữa tự nhiên, tình yêu, sự sống và cái chết…
Từ Từ nước đến Ngày sinh lại và đến Lời trong lời là cả một sự vận động, biến chuyển, đổi mới khá rõ về mặt thi pháp. Nếu trong Từ nước vẫn còn bị “trì níu” bởi những ý tứ, tình điệu và lối diễn đạt cũ, có phần dễ dãi và mòn sáo, kiểu như: Anh đợi, đợi em đã từ lâu lắm/ Hiểu vầng dương chưa đủ ấm tim mình; hoặc: Anh hờ hững nhét thư bạn giữa chồng báo cũ/ Trôi qua lòng một áng hoa xa…. thì ở hai tập sau, chủ đích tìm kiếm dường như đã xác định, những dầm dề lãng mạn nhanh chóng được giản lược để tiến thẳng đến những tìm tòi theo hướng hiện đại chủ nghĩa. Những đổi mới về mặt thi pháp trở nên nhất quán hơn, tập trung hơn và dĩ nhiên, thơ cũng trở nên trừu tượng hơn, khó đọc hơn. Ở đây tôi muốn nói đến những bài thơ “hay và khó” của ông, những tác phẩm thể hiện rõ cái “vạm vỡ và bay bổng” của hồn thơ Nguyễn Lương Ngọc, song cũng là những tác phẩm không dễ tiếp cận, lý giải: Con đường Van – Gốc, Hội họa lập thể, Từ nước, Cảm nhận, Đồng hồ vĩnh cửu, Gọi Hạc, Những cúc, Liên bút từ sen Huế…
Hãy thử bàn sâu hơn vào một phương diện thi pháp đặc sắc của thơ Nguyễn Lương Ngọc – cách tổ chức hình tượng. Kiến tạo hình tượng thơ dưới hình thức cuộc tra vấn không ngừng về con người và đời sống là điểm nổi bật đầu tiên. Đây là hệ quả trực tiếp của việc gia tăng chất nghĩ trong thơ mà tôi đã nhắc tới trong phần trước. Nó xuất phát từ ý thức tìm kiếm, tranh biện, lý giải không ngừng nhằm tìm kiếm “diệu lý của thi ca và cuộc đời”. Bởi, như chính ông nói: Trong ánh sáng trong bóng tối/ Cái tưởng rõ ràng, cái chưa thể thấu (Đừng)…Cảm hứng đối thoại, tra vấn đầy ráo riết này xuyên suốt trong nhiều sáng tác của ông, làm xuất hiện phổ biến các hình thức lập luận, phân tích, lý giải, định nghĩa... đầy tỉnh táo và khúc chiết. Thơ ông nhiều khi mang dáng dấp “những câu hỏi lớn không lời đáp”. Bài Lý do là một ví dụ điển hình với những truy vấn nội tâm liên tục, căng thẳng, không ngừng: Chúng ta, tôi, anh, em và ít người, tìm mãi lý do/ Lý do của đất, của bùn, lý do nước sông về biển và biển tan nát mà không tan nát được/ Không, vâng, tìm lý do của cái loài cây, các loại thú, các loại địa y và nấm mốc, tìm lý do của máu, một loài máu tự cho là cao quý bởi thực không gì làm cho nó bẩn được nhưng có thể làm cho nó biến mất/ Cũng như ta chưa bao giờ sinh ra, trên đời… Dẫu vậy, với Nguyễn Lương Ngọc, sáng tạo là hành trình đồng thời của sự nhận thức và tự nhận thức, bởi vậy, cái đích thực sự của cuộc kiếm tìm nhiều khi không phải ở câu trả lời, mà nằm chính trong bản thân hành trình đó. Dễ hiểu vì sao thơ ông không chỉ là sự “độc thoại” mà còn là những bản “hòa thanh” tư tưởng, ngay cả những tư tưởng có vẻ mâu thuẫn, đối lập. Bài thơ Lý do của ông rốt cục kết thúc một cách phấn khích bởi những lý do tột cùng… vô lý (và xiết bao thi vị) như thế này:
Và anh yêu em vì không thể tìm ra lý do, vì không thể không yêu em và vì cuộc đời khốn nạn này thật đáng sống, thật tuyệt chẳng có lý do nào khác. Lý do đất đã mang tôi, nước mang tôi và tôi mang tất cả trên đường về, một tia sáng xanh nhói lên trong ngực, uốn lượn và ôm chặt lấy em. Trên đường về.
Từ xuất phát điểm này, sẽ thấy tư tưởng hóa hình tượng là một xu hướng khá nổi bật trong thơ Nguyễn Lương Ngọc. Điều này thể hiện đặc biệt rõ trong cách ông khắc họa chân dung các nghệ sỹ: Nhà thơ (về nhà thơ Maiakopski), Thầy Sáng (về họa sỹ Nguyễn Sáng), Gió khô (về nhà thơ Hoàng Trung Thông), Với một nhà thơ vừa tắt (về nhà thơ Trần Vũ Mai)… Những chân dung tư tưởng ấy là đối ảnh chân thực của cái tôi tác giả, như chính ông viết - “cái người gọi trăng, ấy lòng ta, cái người gọi mặt trời, ấy hình ta”. Một cái tôi mạnh mẽ, quyết liệt, luôn sẵn sàng “đập vụn”, “nung chảy”, “xé toang” mình trong hành trình nhận thức và sáng tạo.
Kiến tạo hình tượng thơ trong sự chuyển động liên tục của liên tưởng và tưởng tượng là đặc điểm thứ hai, rất dễ thấy trong những sáng tác ở giai đoạn Lời trong lời, chẳng hạn Sóng lăn tăn bình minh, Dòng nước, Bài ca dịu dàng, Liên bút từ sen Huế, Hòa thanh, Đồng hồ vĩnh cửu… Hãy lấy Đồng hồ vĩnh cửu làm ví dụ. Bài thơ văn xuôi này được chia thành nhiều mục, đánh số thứ tự, với lời giáo đầu về một sân khấu cuộc đời đang hình thành, sinh nở bộn bề… Nhưng cái khung có vẻ cứng nhắc và duy lý này không thể gò ép được bức tranh đời sống liên tục biến hóa theo nhiều điểm nhìn. Cũng rất khó để thâu tóm nội dung bài thơ vào vài dòng tóm lược, bởi nó là sự trỗi dậy và nối tiếp liên tục của vô số hình ảnh, cái nọ gọi cái kia theo quy luật liên tưởng, vừa ngẫu nhiên, bất định, vừa biến hóa không cùng. Từ cái đồng hồ ba kim trên sân khấu, đột ngột hiện lên hình ảnh đứa trẻ kêu cứu giữa bể. Tiếp đến, vẫn đứa trẻ ấy, nhưng “toe toét cười phô cái lợi hồng hồng”. Hình ảnh “đôi mầm răng sữa như hai cái mộng hoa” gợi liên tưởng đến đầm sen, “mỗi mùa nở một cách”… Từ sen mà nghĩ đến tiếng chuông chùa, “tôi thỉnh một tiếng chuông, kêu một tiếng chuông”. Xuất hiện hình ảnh vị sư nữ “Nàng nằm, đầu nhớ tóc lênh láng quanh gối”; “đôi vú nàng nhớ đôi môi của đứa con, đôi môi của người tình”. Một tiếng thét. Một con mèo “trèo lên đầu hồi trai phòng, ngồi im phăng phắc”… Quả thực, đấy là một “sân khấu cuộc đời” đầy hỗn độn, ở đó, cái bi và cái hài, cái thanh khiết và cái trần tục, cái vĩnh cửu và cái thoáng qua, cái trật tự và cái phi lý, lộn xộn…, tất cả đan cài vào nhau, không thể tách rời.
Ý tưởng mòn sáo về “sân khấu cuộc đời” được khắc phục, trước hết bởi những “chất liệu” sinh động, cụ thể, thoáng nét nhục cảm. Song yếu tố quyết định tính hiện đại của bức tranh đời sống này chính là nghệ thuật tổ chức hình tượng. Đó là sự kết hợp giữa nhiều thủ pháp thuộc nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau: Điện ảnh (tốc độ chuyển cảnh nhanh, mạnh, ống kính lia gần/ xa linh hoạt…), Sân khấu (sự phân cảnh lớp lang, sự phối hợp chặt chẽ giữa hình ảnh - hành động - âm thanh…), Hội họa (sự “chồng chéo” của các hình ảnh, sự vật, nhằm tạo một cảm giác trừu tượng như trong tranh lập thể…); Đồng thời, bao trùm lên tất cả, sự đứt mạch liên tục của những liên tưởng, cảm giác, những ảo giác, ảo ảnh đột hiện hay những ý nghĩ lan man dị thường, chẳng ăn nhập gì… lại gợi nên, chưa bao giờ gần gũi đến thế, tính chất của một giấc mơ siêu thực. Có một số điểm mang tính nguyên tắc trong liên tưởng, tưởng tượng của Nguyễn Lương Ngọc. Đó là tính bất ngờ, tính độc sáng và tính ảo diệu. Trong những bài thơ cách tân, nhà thơ chủ yếu dựa trên trục liên tưởng – tưởng tượng ấy để xây dựng, kiến tạo hình tượng. Thế giới thơ ông, do vậy, càng ngày chất “siêu” càng nhiều hơn “thực”.
Kiến tạo hình tượng thơ theo những ám ảnh và cảm giác tâm linh chính là đặc điểm nổi bật thứ ba. Không ít người đã nói đến tính “dự cảm” không lành trong thơ Nguyễn Lương Ngọc (có lẽ do sự liên hệ tự nhiên với cái chết quá sớm và đau đớn của ông). Quả thực, ở đây ám ảnh về cõi chết và cái chết thường trở đi trở lại, khi như một ý nghĩ bất chợt, khi như một tiếng nói mơ hồ từ cõi nào thẳm xa. Chúng hiện diện trong những “tiên cảm” u tối, lạnh lẽo: Trong mơ đau thắt ngực/ Hình xưa lững thững về/ Tôi xanh da trời/ Em tôi thì trắng/ Hai anh em tươi/ Sương dâng ngang người (Tiên cảm)… Trong ý nghĩ khi nghe một bài hát: Cuộc sống lạnh lẽo sao/ cuộc chết ấm áp sao (Lời hát). Trong hành động chăm chút cho đứa con bé bỏng: Ai bắt anh chăm chút cái chết ngày mai/ Từ gói kẹo cho con hôm nay (Viết cho mình)… Tuy nhiên, đó chỉ là những biểu hiện bề mặt. Trong sâu xa, nó thể hiện cái khao khát mãnh liệt của nhà thơ trong việc truy tầm và lý giải bản thể của đời sống. Sống và Chết phải chăng chính là hai mặt thống nhất của một bản thể đó? Chẳng phải người ta nhận ra ý nghĩa của sự sống chính nhờ cái chết đó sao?… Chẳng thế mà trong Chỉ một, bài thơ thể hiện cái nhìn hợp nhất giữa sự Sống và cái Chết, giữa đời sống trần tục và cõi tâm linh, giữa cái thoáng chốc, phù du và cái Vĩnh cửu, ông viết:

Cái ở trên đầu giờ tìm vào trong ngực
Chỉ một
Tất cả chúng ta chỉ một

Có lẽ đây mới chính là nguyên nhân căn bản tạo nên những hình tượng tâm linh phổ biến trong thơ Nguyên Lương Ngọc. Từ đây, ta hiểu vì sao nhà thơ có cảm hứng đặc biệt với những mô típ chủ đề đối lập: cái chết và sự tái sinh, ra đi và trở về, con đường và sự ngơi nghỉ… Chẳng hạn trong Từ nước: Từ nước sinh ra/ Mai có nước ta về/ Rồi yên lòng từ nước lại ra đi; trong Trinh nữ: Sám hối cùng rễ cỏ/ Chờ một ngày tái sinh; trong Cảm nhận: Run rẩy như vừa sinh lại… Cách tổ chức hình tượng theo những ám ảnh, cảm giác tâm linh, dĩ nhiên, luôn gắn bó hết sức tự nhiên và chặt chẽ với mạch liên tưởng và tưởng tượng bất ngờ. Hệ quả là thơ Nguyễn Lương Ngọc nhiều khi trở nên hỗn độn, miên man, câu chữ, hình ảnh “díu” vào nhau, như bị cuốn theo dòng chảy tâm linh run rẩy không chủ đích và ta rất khó “cắt” ra những câu hay, chữ “đắt” để bình giảng cụ thể. Song bù lại, chính điều này lại có khả năng tạo ra một trường thẩm mĩ đặc biệt, đầy mông lung, mơ hồ, như được thẩm thấu và rọi chiếu bởi một thứ ánh sáng nội tâm huyền hoặc. Thơ Nguyễn Lương Ngọc, do vậy, bên cạnh tính duy lý, sáng tỏ, còn có một sắc thái thẩm mĩ khác, sâu kín và bí ẩn. Điều này làm tôi nhớ tới thơ Dương Kiều Minh, và, một phần nào đó, thơ Nguyễn Bình Phương. Từ đây, nhiều bài thơ của Nguyễn Lương Ngọc trở thành những biểu tượng phức, giàu trữ lượng biểu hiện, có khả năng lay động nhận thức và xúc cảm mạnh mẽ, chẳng hạn biểu tượng con đường Van – Gốc hay hội họa lập thể trong những bài thơ cùng tên, Hạc trắng trong Gọi Hạc, sen trong Đồng hồ vĩnh cửu, Liên bút từ sen Huế… Sen xuất hiện trong thơ tác giả này như một ám ảnh vừa gần gũi vừa xa xôi, hư huyễn. Sen là “hiển lộ” của quy luật sinh hóa muôn đời của tự nhiên, của vũ trụ, là biểu tượng của đời sống tâm linh bí ẩn phương Đông. Nhưng Sen cũng là một thái độ sống “không lựa chọn”, bình tĩnh, an nhiên tự tại của một cá nhân hiện đại:
- Hoa sen nở không lựa chọn. Giữa đầm, hoa nở. Ven bờ, hoa nở, hái vào nhà cắm vào lọ, hoa nở, và mang bày giữa người thích mặc cả, hoa vẫn nở. Là hoa thì nở, dẫu biết nở là chết.
(Đồng hồ vĩnh cửu)
- Hai bông sen dành cho em, một bông đã nở lúc ban mai
Nhưng em không còn thấy bông nào vì giờ
chúng đã tàn và không nhìn người nữa.
Nhưng em, em có muốn nhìn anh như màu
chiều muộn hừng bên hồ Tịnh Tâm
Dư quang sen còn thầm nhắc lời, anh yêu em…
(Liên bút từ sen Huế)
Ở đây biểu tượng không đơn thuần là phương tiện chuyên chở luận đề tư tưởng. Tính chất đa nghĩa, phức tạp, khó tiếp cận, lí giải cũng cho thấy một sự tồn tại có tính độc lập của chúng.
Áp lực của quan niệm cách tân đã dẫn đến những đổi mới hết sức quyết liệt và tích cực trong thi pháp thơ Nguyễn Lương Ngọc. Dù không phải tìm tòi, thử nghiệm nào của ông cũng thành công, song nhìn chung, sáng tác của tác giả này đã đem lại một tinh thần và cảm hứng sáng tạo thật sự hiện đại, mới mẻ. Điều đặc biệt là trong thơ ông, ở nhiều tác phẩm cụ thể, còn có sự kết hợp nhuần nhị giữa cái mạch lạc sáng rõ của kiểu tư duy phương Tây và cái mơ hồ, bí ẩn của tâm linh phương Đông. Đó là một điểm nhấn độc đáo, khác biệt ở ngòi bút này.
Số phận khắc nghiệt không cho phép Nguyễn Lương Ngọc đi xa hơn trên hành trình sáng tạo của mình. Nhưng những gì để lại cũng đủ để khẳng định ông là một gương mặt thơ cách tân mạnh mẽ. Tinh thần dấn thân tìm tòi và quan niệm cách tân quyết liệt là đóng góp cơ bản và hết sức có ý nghĩa của Nguyễn Lương Ngọc cho thơ, cho sự sáng tạo nghệ thuật. Có lẽ, chính điều này đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho nhiều cây bút cùng thế hệ với ông, góp phần vào việc đẩy nhanh tiến trình đổi mới thơ Việt đương đại.


Chú thích
1. Nguyễn Lương Ngọc, Thơ và người, Tạ Duy Anh (sưu tầm và tuyển chọn), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006, tr. 250.

KÝ ỨC TUỔI THƠ ( Trích : Đất nước tôi- một nỗi buồn)




Tôi sinh ra ở Sài thành
khi đất nước tôi còn phân tranh
tôi đến trường hát bài "Công dân"
về nhà mẹ dạy hát " Tiến quân ca".


Quê nội ngoại tôi vùng biên giới xa
nghe người ta bảo là vùng "xôi đậu"
nên tôi thường khoe với bạn bè cùng lớp
quê nội ngoại tao là vùng "lắm đậu nhiều xôi"!

Rồi
tôi cũng theo mẹ về thăm nội
đến Suối Sâu đã nghe súng nổ vang trời
tôi sợ đến chưa kịp khóc
đã tẻ ra ướt cả quần

Anh tôi đi Biệt động quân
Ba tôi ở tù vì chống chiến tranh
tôi hiểu dần câu " nồi da xáo thịt"
và biết ru em bằng lời ca dao buồn
" Bầu ơi thương lấy bí cùng
tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"

Rồi nội mất
tôi theo ba về quê tiếp quản
mảnh vườn thênh thang hoa trái vô vàn
trường của tôi nhìn thấy núi Bà Đen
nghe tiếng pháo vọng từ lưng chừng núi
bạn mới chưa thân có thằng đã chết
trên đường về chưa đến Cầu Quan

Tôi biết đưa tang ở tuổi lên mười
tôi biết nụ cười chẳng khép trên môi
tôi biết trẻ con chết vì bom đạn
còn nhiều hơn bệnh hoạn đói nghèo
tôi biết cầm đèn đi học ban đêm
biết đào hầm móc ngách chống sập

Tôi biết hít hơi thật sâu đê không còn run lập cập
khi mảnh pháo bay xé toạt hàng cây
tôi biết ghét Tây " mắt xanh mũi lỏ"
và biết : chửi thề" khi thấy lính Mỹ cặp kè gái quê
và biết khóc bên bờ đê
khi nhà bên có tin con tử trận

Thứ Sáu, 14 tháng 7, 2017

VÌ SAO EM CHƯA LẤY CHỒNG ?




( viết cho TTKN)

Bài thơ tứ tuyệt lần đầu tôi viết
là họ tên em mỗi chữ đầu câu
ba mươi năm thương nhớ ăn sâu
từ trong máu thịt nỗi sầu tình đau


Ba mươi năm gần mà vẫn xa nhau
vô tình chạm mặt môi cười gượng gạo
em chưa lấy chồng khiến lòng đau đáu
câu hỏi vì sao cứ bật dậy trong đêm

Ba mươi năm bóng ở bên thềm
cô đơn tôi gửi nỗi niềm lên trăng
ngỡ rằng trăng đi bóng sẽ lặn
nhưng có bao giờ trăng chết được đâu

Câu hỏi vì sao em chưa lấy chồng
để tôi nợ nần ở chốn mênh mông
lang thang cuối bãi đầu sông
thả thương nhặt nhớ vẫn không đủ đầy

Thứ Tư, 12 tháng 7, 2017

Quân đội bàn giao đất ở 13 sân bay






Quân đội Việt Nam đã bàn giao 1.500 ha đất quốc phòng cho mười ba sân bay dân sự ở Việt Nam, truyền thông nhà nước cho hay.
Hôm 12/7/2017, báo VietnamNet dẫn lời lãnh đạo Bộ Quốc phòng Việt Nam cho biết chi tiết về động thái này.


"Bộ Quốc phòng đã bàn giao hơn 1.500 ha đất quốc phòng cho 13 sân bay địa phương mở rộng sân bay, xây dựng hạ tầng phát triển kinh tế," VietnamNetviết.
Vẫn theo nguồn này, tại buổi kiểm tra và làm việc với Tổng Công ty Tân cảng Sài Gòn sáng 12/7, khi đề cập vấn đề sân golf trong sân bay Tân Sơn Nhất, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Quốc phòng cho biết:
"Ngay từ đầu năm đã chỉ đạo dừng toàn bộ các hoạt động xây dựng các dịch vụ xây dựng công trình nhà hàng, khách sạn, biệt thự, căn hộ cho thuê, chứ không phải chờ Thủ tướng chỉ đạo.
"Tôi yêu cầu dừng lại... Nhưng chúng ta cần tính đến lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp đầu tư vào sân golf. Nếu đã thu hồi thì cương quyết không cho phép bất cứ doanh nghiệp khác đầu tư vào khu vực đó", Tướng Lịch được báo điện tử dẫn lời nói về việc sẵn sàng thu hồi sân golf trong phi trường này nếu chính phủ yêu cầu mở rộng Tân Sơn Nhất.
Theo vị Phó bí thư Quân ủy Trung ương của Việt Nam, việc bàn giao đã được Bộ Quốc phòng thực hiện từ năm 2013 và tướng Lịch khẳng định "sẽ rà soát và bàn giao" đất quốc phòng chưa sử dụng cho các địa phương để tạo điều kiện phát triển kinh tế.
"Ông cũng yêu cầu các đơn vị quân đội thực hiện tốt quy định, kiên quyết xử lý nghiêm sai phạm trong việc sử dụng đất quốc phòng," VietnamNet cho biết thêm.


'Giao đất ngay'


Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch nói sẵn sàng thu hồi sân golf trong sân bay Tân Sơn Nhất, theo truyền thông Việt Nam
Hôm thứ Tư, báo Tiền phong cũng dẫn lời Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam nói: 'TP. Hồ Chí Minh bắt tay mở rộng sân bay, Bộ Quốc phòng giao đất ngay'.
Báo này dẫn lời tướng Lịch cho rằng việc chậm trễ giao nhận đất quốc phòng cho chính quyền địa phương ở TP. Hồ Chí Minh không do phía quân đội, ông nói:
"Theo kế hoạch của TP.HCM, việc mở các tuyến đường này cần khoảng 6,65ha đất mà quốc phòng đang quản lý. Việc thực hiện kế hoạch này chậm là do địa phương chứ không phải do bộ. Tôi đề nghị Thành phố cho phóng tuyến làm ngay đi, Thành phố cử đơn vị chuyên môn làm việc cụ thể với Bộ Quốc phòng là chúng tôi bàn giao ngay.
"Được đi trên những con đường rộng thoáng của Thành phố bản thân tôi cũng sẽ rất tự hào."
Theo Tướng Lịch, những năm qua Bộ Quốc phòng đã bàn giao hàng ngàn hecta đất quốc phòng cho các địa phương "để phục vụ phát triển kinh tế và hiện đang tiếp tục rà soát" để bàn giao đất ở những khu vực, vị trí không còn phục vụ nhiệm vụ quốc phòng.
"Riêng những khu vực trọng yếu không thể bàn giao, bộ trưởng Ngô Xuân Lịch đề nghị các địa phương cũng phải hết sức chia sẻ," Tiền phong tường thuật.
Tướng Lịch cũng cho hay "đã chỉ đạo các đơn vị trong toàn quân chấm dứt việc cho thuê bến bãi, với quyết tâm không để việc làm kinh tế mà ảnh hưởng đến uy tín của quân đội, đến hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ," vẫn nguồn cho biết.


Thượng tướng, Thứ trưởng Quốc Phòng Lê Chiêm cho hay việc quân đội ngưng làm kinh tế, kinh doanh, thương mại là một chủ trương của quân đội VN.
'Bước đầu tiên'
Trong một tọa đàm gần đây với BBC Tiếng Việt về khả năng quân đội Việt Nam 'thôi làm kinh tế, kinh doanh', nhà báo tự do, blogger Trương Duy Nhất từ Đà Nẵng cho rằng việc bàn giao đất quốc phòng mà trên thực tế là 'phi quốc phòng' giao lại hết cho phát triển kinh tế là bước đầu để quân đội cải tổ vai trò và hoạt động của mình ở Việt Nam.
Ông nói: "Câu chuyện sân golf Tân Sơn Nhất vừa rồi, đó là đất quốc phòng, tôi gọi đó là đất quốc phòng 'phi quốc phòng', ở một quốc gia đặc thù như Việt Nam, triền miên bao nhiêu chiến tranh, th những khu đất đặc thù lớn, vị trí quan trọng, nhường cho mục tiêu quốc phòng, tôi cho đó cũng là lẽ đương nhiên.
"Nhưng sau 40 năm, gần nửa thế kỷ rồi, nhiều mảnh đất không còn sử dụng cho mục tiêu quốc phòng nữa, nhưng không được giao lại cho phát triển kinh tế, người ta vẫn để đó, để trống và quy quân đội để làm sao không được chuyển quyền sử dụng đất, không được chuyển mục đích sử dụng đất từ mục đích quân sự sang kinh tế, ví dụ như trong chuyện Đồng Tâm sao giao cho Viettel?
"Viettel là một tập đoàn kinh tế, thì nó nảy ra một điểm mà người dân đấu tranh, vì thế cho nên cũng như chuyện sân golf, không thể nói làm golf là mục tiêu quốc phòng được, bao nhiêu năm đó, đất quốc phòng đó cho dù vẫn thuộc Bộ Quốc phòng quản lý, nhưng nó đã là phi quốc phòng rồi, anh phải giao lại cho mục tiêu kinh tế và các mục tiêu phát triển khác.
"Nhưng anh lại không giao, bây giờ anh lại liên doanh với Him Lam, rồi bên kia (Đồng Tâm) anh giao cho Viettel, cái đó tôi cho một vấn đề là cương quyết đất nào gọi là đất quốc phòng, nhưng đã phi quốc phòng rồi thì phải giao hết lại cho phát triển kinh tế.
"Đó là bước đầu tiên trong bước gọi là rút chân dần của lực lượng quân đội ra khỏi trận địa kinh tế."
, Thứ trưởng Quốc phòng Trần Đơn cho rằng quân đội tham gia làm kinh tế là một nhiệm vụ chính trị theo chủ trương của đảng, nhà nước và quân đội VN.


Hệ quả, ảnh hưởng?


Bình luận về tác động có thể có đối với quân đội Việt Nam nếu có thay đổi trong chủ trương quân đội làm kinh tế và kinh doanh thương mại trong thời gian tới, nhà báo Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội nhà báo độc lập Việt Nam nói:
"Nếu mà có chủ trương quân đội không được kinh doanh, không được làm kinh tế mà thực hiện được thì chắc chắn là sẽ có ảnh hưởng, ảnh hưởng tiêu cực tới một bộ phận đặc quyền, đặc lợi không nhỏ ở trong quân đội. Những người trực tiếp, kể cả gián tiếp nắm các cục, vụ, phụ trách về tài chính và trực tiếp nắm các doanh nghiệp, điều hành các doanh nghiệp làm kinh tế của quân đội sẽ bị thiệt hại nặng nhất về vấn đề thu nhập.
"Trong khi đó, tôi không nghĩ là đại đa số binh lính và sỹ quan lại có bị ảnh hưởng gì, vì họ đã có nguồn ngân sách lo rồi. Ngân sách cho quân đội, kinh phí cho quốc phòng ở Việt Nam một năm không nhỏ. Theo các con số từ năm 2013, 2015 tới giờ, một năm cũng phải 13 tỷ rưỡi cho tới 14 tỷ rưỡi đôla, chứ không ít. Như vậy là tương đương với gần 100 ngàn tỷ đồng.
"Mà việc làm kinh tế trong quân đội chủ yếu (mà) trước chúng ta (Việt Nam) trong thời bao cấp gọi là ba lợi ích, thì chủ yếu phục vụ cho một bộ phận 'đặc quyền, đặc lợi', nếu không làm kinh tế nữa thì bộ phận đặc quyền, đặc lợi đó sẽ không còn tiền nữa, hoặc ít tiền đi. Vì thế tôi thấy nó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến bộ phận có thể nói là khá tiêu cực như vậy.
"Cái thứ hai, lại là ảnh hưởng rất tốt, tích cực đối với xã hội, tôi nói ngay tới vấn đề sân golf ở sân bay, bây giờ nếu như các doanh nghiệp quân đội mà không được làm kinh tế, thì điều mà anh Trương Duy Nhất gọi là đất quốc phòng 'phi quốc phòng' sẽ chính thức trở thành phi quốc phòng, do vậy sân bay Tân Sơn Nhất sẽ lộ diện ra là một hợp đồng sân golf vô hiệu, nói theo đúng lời của ông Nguyễn Đức Kiên là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội đã nói.
"Và do vậy sân golf Tân Sơn Nhất, toàn bộ 157 ha đã chiếm dụng từ thời của ông Phùng Quang Thanh cho tới, giờ dứt khoát phải trả lại cho sân bay dân sự Tân Sơn Nhất, có nghĩa là trả lại cho xã hội, có nghĩa là trả lại cho người dân, đó là khía cạnh tích cực mà chủ trương chấm dứt làm kinh tế trong quân đội có thể mang lại được," Tiến sỹ Phạm Chí Dũng nói với BBC.


BBC

Hóa giải mối đe dọa toàn cầu đối với dân chủ






Nguồn: Ngaire Woods, “Confronting the Global Threat to Democracy”, Project Syndicate, 03/06/2016


Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp


Trên khắp thế giới, các nhà dân túy đang thu hút phiếu bầu với lời hứa sẽ bảo vệ dân thường khỏi những thực tế khắc nghiệt của toàn cầu hóa. Để đạt được mục đích này, họ khẳng định giới chính trị gia dân chủ dòng chính là không đáng tin, vì họ còn quá bận rộn bảo vệ những người giàu có – một thói quen mà toàn cầu hóa chỉ tăng cường thêm.


Suốt nhiều thập niên, toàn cầu hóa đã hứa sẽ mang lại lợi ích cho tất cả. Trên phạm vi quốc tế, nó đã tạo điều kiện cho sự phát triển của những “con hổ châu Á” và các nước BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi), giúp tăng trưởng nhanh chóng ở khắp châu Phi, và tạo điều kiện cho sự bùng nổ ở các nước phát triển cho tới năm 2007. Nó cũng tạo ra những cơ hội mới và tăng trưởng ở nhiều quốc gia. Nhưng kể từ cuộc khủng hoảng năm 2008, nhiều nước giàu đã phải thắt lưng buộc bụng; các nền kinh tế châu Á phát triển chậm lại; BRICS trì trệ; và nhiều nước châu Phi trở lại cảnh nợ nần.


Tất cả điều này đã góp phần làm gia tăng bất bình đẳng – “nguồn” nuôi dưỡng của sự bất mãn. Emmanuel Saez và Gabriel Zucman ước tính rằng ở Mỹ, khoảng cách giàu nghèo hiện đang là rộng nhất kể từ cuộc Đại Suy thoái (1929-1933), khi 1% số hộ gia đình giàu nhất hiện đang nắm giữ gần một nửa số tài sản của quốc gia.


Tại Anh, Văn phòng Thống kê Quốc gia báo cáo rằng trong giai đoạn 2012-2014, nhóm giàu nhất chiếm 10% dân số nhưng sở hữu tới 45% tổng số tài sản hộ gia đình. Kể từ tháng 7/2010, nhóm giàu nhất này đã giàu lên nhanh gấp ba lần so với những người thuộc “nửa dưới” của dân số.


Tại Nigeria, mức tăng trưởng kinh tế đáng kinh ngạc, đạt trung bình 7%/năm kể từ năm 2000, có thể đã giúp giảm nghèo ở phía tây nam của đất nước; nhưng ở phía đông bắc (nơi nhóm cực đoan Boko Haram hoạt động mạnh nhất), bất bình đẳng giàu nghèo và nghèo đói đã xuất hiện một cách đáng báo động. Xu hướng tương tự cũng xuất hiện từ Trung Quốc, Ai Cập, tới Hy Lạp.


Cùng với sự bất bình đẳng, sự suy giảm lòng tin của công chúng đã làm dấy lên cuộc nổi dậy chống lại toàn cầu hóa và dân chủ. Ở khắp các nước phát triển và đang phát triển, nhiều người nghi ngờ rằng người giàu đang ngày càng giàu hơn vì họ không tuân theo những quy định tương tự như những người khác.


Không khó để hiểu tại sao. Khi nền kinh tế toàn cầu chậm lại, sự vi phạm lòng tin của những người ở lớp trên của xã hội trở nên rõ ràng hơn. Ở Anh, vào năm 2013, Amazon, Starbucks, và Google gây phẫn nộ lớn khi lợi dụng lỗ hổng [luật pháp] để gần như không phải trả đồng thuế nào, khiến chính phủ Anh đã phải dẫn dắt nhóm G8 đưa ra một tuyên bố nhằm làm giảm tình trạng trốn thuế và tránh thuế. Trong năm 2015, một cuộc kiểm toán đối với Tổng công ty Dầu khí quốc gia Nigeria thuộc sở hữu nhà nước cho thấy có khoảng 20 tỉ USD doanh thu đã không bao giờ được nộp cho các cơ quan dưới thời chính phủ tiền nhiệm.


Vấn đề dường như mang tính hệ thống. Năm nay, Hồ sơ Panama vạch trần cách mà giới nhà giàu trên thế giới tạo ra các công ty bí mật ở nước ngoài, cho phép họ tránh được giám sát tài chính và thuế. Và các ngân hàng lớn nhất thế giới đã phải đối mặt với mức tiền phạt chưa từng có trong những năm gần đây vì hành vi vi phạm luật pháp trắng trợn.


Nhưng, bất chấp dư luận tiêu cực mà các trường hợp như vậy tạo ra, chưa hề có ai đứng ra chịu trách nhiệm. Gần một thập niên sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, chỉ có một giám đốc ngân hàng phải vào tù. Thay vào đó, nhiều chủ ngân hàng lại đi theo con đường tương tự như Fred Goodwin, người đứng đầu Ngân hàng Hoàng gia Scotland của Anh, người tạo ra khoản lỗ chồng chất đến 24,1 tỷ bảng Anh (34,2 tỷ USD), nhưng sau đó đã từ chức và được hưởng một khoản lương hưu hậu hĩnh. Dân thường – chẳng hạn như người cha của ba đứa con đã bị bỏ tù tại Anh vào tháng 9/2015 vì khoản nợ cờ bạc 500.000 bảng – lại không được hưởng “sự trừng phạt” như vậy.


Tất cả điều này giúp giải thích tại sao các phong trào chống các chính trị gia dòng chính (anti-establishment) được đà phát triển trên toàn thế giới. Những phong trào này cùng chia sẻ một cảm giác “bị tước tiếng nói” – cảm giác rằng chính quyền không thể đem đến sự công bằng (a fair shake) cho dân thường. Họ chỉ ra các kết quả bầu cử đã bị “mua” bởi những nhóm lợi ích đặc biệt, chỉ ra các khuôn khổ pháp lý và điều tiết khó hiểu dường như đang gian lận, làm lợi cho những kẻ giàu, chẳng hạn như các quy định ngân hàng mà chỉ có những tổ chức lớn mới có thể đáp ứng, hay các hiệp ước đầu tư được đàm phán trong bí mật.


Chính phủ đã cho phép toàn cầu hóa- và những người giàu có thường xuyên chuyển chỗ ở – vượt mặt họ. Toàn cầu hóa đòi hỏi phải có quy định và quản lý. Nó đòi hỏi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có trách nhiệm. Và nó cũng đòi hỏi sự hợp tác toàn cầu sâu rộng và hiệu quả. Khi các chính phủ thất bại trong việc hợp tác hồi những năm 1930, toàn cầu đã đột ngột dừng lại.


Phải đến khi có một loạt nỗ lực được quản lý chặt chẽ và cẩn thận sau Thế chiến II, nền kinh tế thế giới mới mở cửa và cho phép toàn cầu hóa “khởi động lại” lần nữa. Thế nhưng, dù nhiều quốc gia đã tự do hóa thương mại, kiểm soát vốn vẫn đảm bảo rằng dòng “tiền nóng” không thể vào và ra khỏi các nền kinh tế một cách dễ dàng. Trong khi đó, các chính phủ đã đầu tư lợi nhuận từ tăng trưởng vào giáo dục chất lượng cao, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, và hệ thống phúc lợi xã hội vốn làm lợi cho số đông người dân. Vì công việc của chính phủ càng phát triển, nên nguồn lực đổ vào đầu tư cũng nhiều lên.


Đến những năm 1970, giới lãnh đạo và kinh doanh ở các nước giàu có đã trở nên tự mãn. Họ mù quáng tin vào lời hứa rằng thị trường tự cân bằng, tự kiềm chế sẽ tiếp tục tạo ra tăng trưởng. Đến khi tư tưởng chính thống mới này lan sang lĩnh vực tài chính vốn đầy nợ, thế giới đã bước sang giai đoạn đổ vỡ. Thật không may, nhiều chính phủ đã mất khả năng quản lý những lực lượng mà họ đã tự do hóa, và các lãnh đạo doanh nghiệp thì mất đi ý thức trách nhiệm đối với phúc lợi của xã hội nơi họ trở nên phát đạt.


Trong năm 2016, chúng ta học lại một điều rằng, về mặt chính trị, toàn cầu hóa cần phải được quản lý để không chỉ cho phép kẻ thắng cuộc giành được chiến thắng và còn phải đảm bảo rằng họ không lừa gạt hay bỏ bê trách nhiệm của mình đối với xã hội. Không được có chỗ cho các chính trị gia tham nhũng bắt tay với các lãnh đạo doanh nghiệp tham nhũng.


Khôi phục lại lòng tin của người dân sẽ rất khó khăn. Các lãnh đạo doanh nghiệp sẽ cần phải có được “giấy phép hoạt động” từ xã hội nói chung, và góp phần rõ rệt vào việc duy trì các điều kiện hỗ trợ cho sự thịnh vượng của họ. Họ có thể bắt đầu làm điều đó bằng cách nộp thuế.


Chính phủ sẽ cần phải tách mình ra khỏi các công ty không hoàn thành nghĩa vụ của họ. Hơn nữa, họ phải cải tổ hoạt động của mình, để chứng minh tính công bằng, không thiên vị của họ. Các quy định cứng rắn đòi hỏi phải có sự đầu tư đáng kể để nâng cao năng lực của chính phủ và các dịch vụ pháp lý hỗ trợ.


Cuối cùng, sự hợp tác toàn cầu là rất quan trọng. Toàn cầu hóa không thể bị xóa bỏ. Nhưng với một cam kết mạnh mẽ và có tính chia sẻ , nó có thể được quản lý.


Ngaire Woods là Hiệu trưởng của Trường Blavatnik về Quản trị Chính quyền và Giám đốc Chương trình Quản trị Kinh tế Toàn cầu tại Đại học Oxford.

Quá trình từ bỏ kinh doanh của quân đội Trung Quốc








Tác giả: Nguyễn Thế Phương


Gốc rễ lịch sử của việc quân đội làm kinh tế ở Trung Quốc


Việc quân đội tham gia vào các hoạt động thương mại không chỉ đơn thuần xoay quanh vấn đề lợi ích kinh tế. Mối quan hệ giữa quân đội và các hoạt động kinh doanh nằm trong mối quan hệ tương tác lớn hơn và phức tạp hơn rất nhiều giữa một bên là thiết chế nhà nước và một bên là quân đội, giữa xu hướng chuyên nghiệp hoá và xu hướng thương mại hoá. Vai trò của quân đội là khác nhau trong từng thời điểm lịch sử cụ thể tương ứng với từng thể chế chính trị cụ thể. Hãy cùng tìm hiểu mối quan hệ tuy đơn giản mà phức tạp này tại Trung Quốc.


Kinh tế quân sự Trung Quốc thời kỳ phong kiến


Quân đội là công cụ bạo lực của nhà nước với hai mục tiêu căn bản: bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và đảm bảo cho đất nước có được sự ổn định nhất định về mặt đối nội. Là công cụ bạo lực, tuy nhiên trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, quân đội được cho là cần phải hoàn toàn có thể tự cung tự cấp, hay ít nhất là đảm bảo tự cung tự cấp được một phần các nhu yếu phẩm của mình. Trên thực tế, quân đội phong kiến Trung Quốc rất hiếm khi được nhà nước hỗ trợ hoàn toàn về mặt tài chính. Các cuộc chiến tranh liên miên, thiên tai địch hoạ, cũng như hệ thống thu thuế kém hiệu quả khiến cho “quốc khố” không thể nào gánh vác hết được hoạt động của quân đội, chưa kể tới việc chi dùng tiền thuế cho các hoạt động khác. Thêm vào đó, triết lý cai trị thông thường thời bấy giờ dựa trên nhận định rằng thuế thấp sẽ tốt hơn và là bằng chứng cho tấm lòng nhân từ của hoàng đế.


Để giải quyết vấn đề ngân khố cho quân đội, các hoàng đế Trung Hoa thường áp dụng một trong hai chính sách sau để hỗ trợ cho quân đội phong kiến. Thứ nhất là áp dụng cách tiếp cận của trường phái Pháp Gia với dại diện là Thương Ưởng thời Tần, khi ông đề xuất đưa toàn bộ nền nông nghiệp của quốc gia đặt dưới sự kiểm soát của quân đội (thuế đánh tới 2/3 hoa lợi và chuyển cho các mục đích quân sự). Cách tiếp cận này đặt nền tảng dựa trên một triết lý khác: Phú Quốc Cường Binh, cho rằng an nguy của quốc gia chống lại các mối đe doạ từ bên ngoài sẽ được đảm bảo bởi một nền nông nghiệp mạnh, thông qua đó mọi nguồn lực được huy động cho chiến tranh. Thương Ưởng dẹp bỏ hết các nước phiên thuộc và tái cấu trúc bộ máy hành chính nhà Tần theo hướng quân sự hoá tập trung cao độ phục vụ cho chiến tranh và bành trướng.


Sau đó tới thời nhà Tuỳ-Đường, chính phủ trung ương tiếp tục thực hiện chính sách này nhưng với cách thức khác: chế độ quân điền (均田制度; Jūntián Zhìdù). Nông dân vừa phải tham gia vào quân đội khi cần thiết và đồng thời họ vẫn có thể được hưởng hoa lợi từ các hoạt động nông nghiệp.


Cách thức thứ hai phổ biến hơn là nhà nước phong kiến cho phép quân đội được tham gia vào các hoạt động kinh tế để bổ trợ cho phần ngân sách ít ỏi được triều đình cung cấp hằng năm. Phiên bản hoàn thiện nhất của chính sách này chính là chế độ đồn điền (屯田制度; Túntián Zhìdù), là hình mẫu căn bản của kinh tế quân sự được các triều đại phong kiến áp dụng trong suốt một khoảng thời gian dài. Trong khoảng thời gian đầu, quân đội không được sử dụng đất của nông dân mà chỉ được canh tác trên các khoảng đất của nhà nước. Và tuỳ theo mối quan hệ giữa triều đình phong kiến và quân đội, chẳng hạn khi có chiến tranh, thì phần lợi tức mà quân đội nhận được dao động từ 50 đến 75% tổng lợi tức.


Quân đội và hoạt động kinh tế thời kỳ Mao Trạch Đông


Quan hệ giữa quân đội và ĐCSTQ trong thời kỳ của Mao Trạch Đông có thể được mô tả như một mối quan hệ cộng sinh. Các lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng cũng đồng thời là tướng lĩnh quân đội. Cả hai thiết chế này do đó có quan hệ mật thiết với nhau và không thể tách rời (quyền lực chính trị xuất phát từ nòng súng – theo lời của Mao). Vai trò của Mao Trạch Đông là cực kỳ quan trọng. Khái niệm tự cấp tự túc và quân đội làm kinh tế trở thành đặc trưng căn bản của bộ máy nhà nước-quân đội của Trung Quốc trước khi cải cách mở cửa.


Khi ĐCSTQ tiến hành các hoạt động chiến tranh du kích chống lại Tưởng Giới Thạch, quân đội Trung Quốc khi đó chỉ đơn giản là một đội quân du kích được trang bị tồi tàn, không được huấn luyền đầy đủ và bao gồm nông dân và công nhân tại các khu vực nghèo khó ở phía tây đất nước. Vì nền kinh tế dân sự tại các khu vực này không đủ để hỗ trợ cho quân đội, tự cấp tự túc là chính sách cần thiết và hiển nhiên. Mao Trạch Đông đặc biệt ủng hộ các hoạt động sản xuất kinh tế của quân đội và luôn luôn quan tâm tới chính sách này trong suốt khoảng thời gian cầm quyền của mình. Mao cho rằng tự cung tự cấp không chỉ là cách thức giúp cho quân đội Trung Quốc tồn tại trong khoảng thời gian khó khăn, mà còn mang ý nghĩa chính trị khi quân đội không tạo ra quá nhiều gánh nặng cho người dân. Điều này trái ngược hoàn toàn với quân đội của Tưởng Giới Thạch vốn khét tiếng với các hoạt động cướp phá hay bóc lột cư dân địa phương.


Ba chính sách tự cấp tự túc căn bản của quân đội Trung Quốc trong thời kỳ này bao gồm: (1) tịch thu vũ khí khí tài từ đối thủ, ở đây là quân đội của Tưởng Giới Thạch; (2) tận dụng nguồn lực từ đất đai, thu thuế cao đối với các chủ đất hay với thương dân tại các vùng kiểm soát và (3) chính là tự sản xuất, khi quân đội Trung Quốc được cho phép xây dựng nhà máy, bệnh viện và các xưởng sửa chữa quân trang quân dụng với số lượng ngày càng tăng.


Chiến tranh chống Nhật bùng nổ và nội chiến Quốc-Cộng sau đó khiến cho chính sách tự cấp tự túc được mở rộng hơn nữa do quân đội cần tài nguyên nhiều hơn cũng như Mao Trạch Đông không muốn đặt gánh nặng lên người dân. Từ năm 1938, quân đội Trung Quốc được phép mở rộng các hoạt động sản xuất bao gồm công nghiệp quân sự và chế tạo các mặt hàng tiêu dùng cần thiết cung cấp ngược lại cho phía dân sự. Các tổ hợp sản xuất quốc phòng thời điểm này chính là tiền thân của các tổ hợp kinh doanh quốc phòng sau này của Trung Quốc. Quân đội Trung Quốc trong khoảng thời gian này nắm gần như toàn bộ các hoạt động kinh tế tại các vùng kháng chiến.


Sau khi thống nhất đất nước năm 1949, một trong những nhiệm vụ căn bản của quân đội Trung Quốc là dần dần chuyển biến từ một đội quân du kích trở thành một đội quân chính quy. Và bước đầu tiên chính là chuyển dần dần các hoạt động kinh doanh không cần thiết cho chính phủ dân sự. Với việc sở hữu nhiều kinh nghiệm trong quản lý kinh tế và công nghiệp trong suốt khoảng thời gian trước đây khiến cho nhánh hậu cần của quân đội Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong việc tái thiết nền kinh tế quốc gia sau chiến tranh, đặc biệt trong việc phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm và mạng lưới cơ sở hạ tầng. Các đơn vị quân đội đã chuyển giao hệ thống đường sắt, thông tin liên lạc, sân bay và một số cơ sở hạ tầng khác. Binh lính cũng được điều động tham gia các dự án xây dựng. Quân đội cũng tham gia mạnh mẽ vào hoạt động ngoại thương, đặc biệt với Liên Xô.


Việc quân đội tham gia kinh tế tiếp tục được đẩy mạnh trong các thập kỷ tiếp theo khiến cho số lượng các nhà máy quốc phòng gia tăng chóng mặt. Tuy nhiên điều này cũng gây ra một số hệ luỵ căn bản: (1) hoạt động huấn luyện của quân đội bị gián đoạn khi khoảng 10% nhân lực của quân đội trong khoảng thời gian này bị điều chuyển sang các xí nghiệp hay sang các cơ sở sản xuất nông nghiệp, làm giảm đi khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội; (2) rất nhiều các cơ sở sản xuất, các mỏ do quân đội điều hành hoạt động kém hiệu quả và gây thất thoát lớn; (3) nhiều cơ sở sản xuất hay nông trường quân đội nằm trên đất do chính quyền địa phương quản lý và cũng thường xuyên né tránh các quy định của nhà nước trong một số lĩnh vực, gây ra rạn nứt nhất định trong mối quan hệ giữa quân đội và chính quyền dân sự.


Nói tóm lại, các hoạt động kinh doanh của quân đội Trung Quốc trong giai đoạn sau này (như sẽ được đề cập trong phần sau) xuất phát từ truyền thống quan hệ quân sự-dân sự có góc rễ trong lịch sử gắn chặt với yếu tố tự cấp tự túc. Cần phải nhắc lại rằng mối quan hệ cộng sinh giữa quân đội và ĐCSTQ là bệ đỡ quan trọng giúp quân đội có thể có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển công nghiệp và kinh tế Trung Quốc trong giai đoạn của Mao.


Nghiên cứu về quan hệ giữa quân đội và hệ thống Đảng/chính quyền dân sự đưa ra hai lập luận: xu hướng thương mại hoá gắn liền với sự kiểm soát chặt chẽ của ĐCSTQ đối với quân đội, trong khi đó quá trình chuyên nghiệp hoá sẽ gắn liền với một quân đội Trung Quốc dần có tiếng nói riêng trong việc triển khai các chính sách của riêng mình vốn sẽ được đề cập rõ hơn trong phần sau.


Từ Đặng Tiểu Bình tới Tập Cận Bình: chuyên nghiệp hoá hay thương mại hoá


Chuyên nghiệp hoá và thương mại hoá, hay nói rộng ra hơn là câu hỏi liệu quân đội chỉ nên tập trung vào nhiệm vụ huấn luyện và chiến đấu bảo vệ tổ quốc hay không luôn là một vấn đề thường trực trong quan hệ Đảng-quân đội tại Trung Quốc. Nó liên quan mật thiết tới đời sống kinh tế-chính trị trong nội bộ Trung Quốc, cũng như tới tình hình thế giới và khu vực trong từng thời điểm cụ thể.


Đặng Tiểu Bình và câu chuyện “thương mại hoá” quân đội


Đặng Tiểu Bình trở thành lãnh tụ tối cao tại Trung Quốc sau Đại Cách mạng Văn hoá vô sản và chính thức mở cửa nền kinh tế Trung Quốc. “Bốn hiện đại hoá” được đưa ra như là chính sách cốt lõi để cải cách nền kinh tế cũng như đảm bảo ổn định xã hội, bao gồm: nông nghiệp; công nghiệp; khoa học và công nghệ; quốc phòng. Chiếm vai trò và ngân sách hết sức quan trọng trong hai thập kỷ trước, quốc phòng trong giai đoạn này chỉ đóng vai trò thứ yếu nhường chỗ cho các nhiệm vụ phát triển và mở cửa nền kinh tế.


Có nhiều lý do để Đặng Tiểu Bình khuyến khích quân đội đóng một vai trò kinh tế lớn hơn trong giai đoạn cải cách mở cửa. Ông cho rằng Trung Quốc không gặp phải bất cứ mối đe doạ xâm lăng trực tiếp nào từ Liên Xô hay Mỹ, do đó duy trì một ngân sách quốc phòng quá cao cho quân đội là không cần thiết. Nguồn lực cần được chuyển cho các nỗ lực hiện đại hoá. Và để bù đắp cho ngân sách sụt giảm, quân đội được phép tham gia vào kinh doanh một cách sâu rộng hơn. Bên cạnh đó, truyền thống tự cấp tự túc của quân đội vẫn được nhấn mạnh. Ngoài ra còn có các yếu tố khác như quân đội cần phải thể hiện sự linh hoạt điểu chỉnh so với thời thế; khả năng quản lý được cải thiện; tạo việc làm cho những nhóm lợi ích phụ thuộc vào quân đội; quân nhân làm quen với kỹ năng quản lý dân sự…Cách tiếp cận này được gọi là “xả nước nuôi cá”.


Theo sau chính sách này là một loạt các quy định được ban hành, trong đó nhấn mạnh tới việc các hoạt động sản xuất và kinh doanh của quân đội phải tuân thủ theo chính sách chung của đảng và nhà nước. Ba quy tắc cũng được nhấn mạnh: (1) quân đội được kỳ vọng sẽ tham gia lâu dài vào sản xuất và kinh doanh vì ngân sách dành cho lực lượng này sẽ có thể tiếp tục suy giảm; (2) định rõ vai trò và phân công lao động khi các đơn vị quân đội không được sử dụng quân nhân đang được biên chế hay tài nguyên quốc phòng quốc gia cho mục đích thương mại và (3) chấp nhận phát triển và phân chia lợi ích không đồng đều giữa các đơn vị kinh tế quốc phòng.


Trong suốt giai đoạn từ 1984 đến 1989, doanh thu tới từ các doanh nghiệp cho quân đội dẫn dắt gia tăng nhanh chóng, nhưng đồng thời với đó là tình trạng tham nhũng, lãng phí, rửa tiền, buôn lậu và các hành vi phạm tội khác gia tăng một cách đáng báo động trong hàng ngũ các công ty quân đội. Các công ty này kinh doanh đủ mọi ngành nghề từ nông nghiệp cho tới công nghiệp; từ các ngành dịch vụ cho tới công nghệ; nhà hàng khách sạn cho tới hậu cần. Nhiều giải pháp kiểm tra và giám sát đã được đưa ra nhưng tình trạng này không có dấu hiệu suy giảm. Hơn nữa, sự biến Thiên An Môn nổ ra năm 1989 khiến cho mọi nỗ lực nhằm ngăn chặn suy thoái đạo đức trong nội bộ các doanh nghiệp quân đội phải tạm dừng lại.


Tham nhũng tràn lan đến mức báo động chủ yếu do hai yếu tố. Thứ nhất là sự tham gia hạn chế nhưng hợp pháp của quân đội trong nền kinh tế Trung Quốc lúc bấy giờ. Thứ hai là những yếu tố thể chế, ví dụ như đặc quyền của quân đội trong tiếp cận cơ sở hạ tầng, giao thông, tài nguyên thiên nhiên, các khu vực biên giới và đặc biệt là miễn nhiễm trước các cơ chế giám sát và điều tra của dân sự.


Phải nói thêm rằng, trong giai đoạn này quá trình thương mại hoá quân đội đã hoàn toàn áp đảo quá trình hiện đại hoá với những lý do vừa nêu trên. Đặng Tiểu Bình tập trung quyền lực lớn, cùng với đó là những nhóm lợi ích ủng hộ thương mại hoá trong quân đội mà đứng đầu là Dương Thượng Côn (Chủ tịch nước Trung Quốc giai đoạn 1988-1993, một trong “bát đại nguyên lão”) và Dương Bạch Băng (em trai cùng cha khác mẹ của Dương Thượng Côn, Thượng tướng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị quân đội Trung Quốc giai đoạn 1987-1992). Một thống kê cho thấy tới cuối những năm 1990, có hơn 15.000 công ty quốc phòng hoạt động, tạo ra giá trị hàng tỷ NDT mỗi năm. Hơn 75% trong số này được tạo ra bởi các tập đoàn quốc phòng lớn kiểm soát bởi ba quân chủng lớn của quân đội.


Quá trình “phi thương hoá” quân đội diễn ra sau đó phần nào thể hiện sự đấu tranh quyền lực nội bộ ở Trung Quốc sau khi Giang Trạch Dân thay Đặng Tiểu Bình trở thành người đứng đầu Trung Quốc, và Giang mong muốn tăng cường sự kiểm soát của mình với quân đội. Bên cạnh sự nổi lên của Giang Trạch Dân là sự trỗi dậy của phe ủng hộ “chuyên nghiệp hoá” trong quân đội mà đại diện tiêu biểu là Tư lệnh hải quân Lưu Hoa Thanh và Tổng tham mưu trưởng Trương Vạn Niên. Phe “chuyên nghiệp hoá” chiến thắng trong cuộc đấu khi cả Dương Thượng Côn và Dương Bạch Băng bị ép phải rời khỏi quyền lực. Sự trỗi dậy của xu hướng hiện đại hoá/chuyên nghiệp hoá cũng một phần do quân đội Trung Quốc trong giai đoạn này ý thức được sự cần thiết phải xây dựng một lực lượng chính quy và tinh nhuệ sau khi chứng kiến sức mạnh áp đảo khủng khiếp của Mỹ trong Chiến tranh Vùng vịnh chống lại Iraq. Sự ủng hộ của giới lãnh đạo quân đội theo xu hướng “hiện đại hoá/chuyên nghiệp hoá” đóng vai trò hết sức quan trọng trong giai đoạn này.


Cũng phải nói thêm rằng quá trình “phi thương hoá” trong hai năm 1998-1999 không phải đột nhiên xảy ra. Trước đó đã có một số bước đi lẻ tẻ của bên dân sự nhằm từng bước lập lại trật tự trong các hoạt động kinh doanh của quân đội. Tuy nhiên lý do chính dẫn tới quyết định phi thương hoá của Giang Trạch Dân vẫn chưa rõ ràng, nhưng có hai luồng thông tin đồn đoán khác nhau: (1) Giang Trạch Dân đã đặc biệt giận dữ khi nhận được các báo cáo tham nhũng cực lớn từ 6 công ty của quân đội và công an. Nghiêm trọng nhất trong số đó là hoạt động buôn lậu dầu của quân đội và đã khiến cho hai công ty dầu khí độc quyền nhà nước lớn bị phá sản. Báo cáo cũng chỉ ra rằng hoạt động buôn lậu của quân đội trong thời kỳ khủng hoảng tài chính Châu Á khiến cho chính phủ dân sự thất thoát hàng tỷ NDT và khiến giảm phát trầm trọng hơn; (2) xuất phát từ Thủ tướng khi đó là Chu Dung Cơ. Ông Chu trong một hội nghị chống tham nhũng đã thẳng thừng chỉ trích một doanh nghiệp lớn trực thuộc Tổng cục Hậu cần vì đã không chịu nộp thuế cho nhà nước. Phe quân đội và ông Chu đã cãi nhau kịch liệt và kết quả là Giang Trạch Dân 4 ngày sau phải lên tiếng ủng hộ quan điểm của Chu Dung Cơ.


Quá trình phi thương hoá đã đặt mọi hoạt động sản xuất của quân đội dưới một cơ quan chung thống nhất (Tổng cục Hậu cần); cắt giảm số lượng các doanh nghiệp quân đội xuống chỉ còn 50% so với trước đây; điều chính lại các chứng năng giám sát và quản trị ở từng quân khu; phân tách và phân công lao động rõ ràng hơn…Cho đến năm 1998-1999, một quá trình “phi đầu tư” hoá các doanh nghiệp quân đội giáng cú đòn mạnh mẽ nhất vào xu hướng “thương mại hoá” khi hầu hết tài sản của các tập đoàn và doanh nghiệp lớn (viễn thông, hàng không, cơ sở hạ tầng…) dần dần được chuyển giao cho các tổ chức của chính phủ hay dân sự.


Tập Cận Bình, giấc mơ Trung Hoa và xu hướng hiện đại hoá


Nỗ lực của Giang Trạch Dân và sau đó là Hồ Cẩm Đào tạo tiền đề cho xu hướng hiện đại hoá/chuyên nghiệp hoá trong quân đội Trung Quốc trong giai đoạn của Tập Cận Bình. Quá trình “phi đầu tư” hoá các doanh nghiệp quân đội năm 1998-1999 được đánh giá là lớn nhất từ trước tới nay, giáng cú đòn mạnh mẽ vào xu hướng “thương mại hoá”. Hầu hết tài sản và cơ sở kinh doanh của các tập đoàn và doanh nghiệp lớn của quân đội (viễn thông, hàng không, cơ sở hạ tầng, đất đai có liên quan tới kinh doanh…) dần dần được chuyển giao cho các tổ chức và tập đoàn dân sự nhà nước hay cho chính quyền địa phương. Thậm chí các nhà máy sản xuất và sửa chữa vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng cũng được chuyển giao hết cho tư nhân hoặc dân sự. Quá trình này hoàn thành năm 2001.


Tập Cận Bình lên lãnh đạo một lực lượng quân đội hiện đại hơn và chuyên nghiệp hơn nhiều so với trước đây, với một ngân sách quốc phòng dồi dào. Gia tăng ngân sách quốc phòng đều đặn qua từng năm cũng là một biện pháp thoả hiệp giữa chính phủ dân sự và phe quân đội. Bên cạnh đó, quân đội Trung Quốc vẫn được phép giữ lại một số các công ty và cơ sở kinh doanh nhất định, chủ yếu có lợi ích trong các ngành như nông nghiệp, bệnh viện hay khách sạn nhà nghỉ.


Khái niệm “giấc mơ Trung Hoa” ra đời sau đó như là một dấu ấn trong nhiệm kỳ cầm quyền của ông Tập. Một phần của “giấc mơ Trung Hoa” đề cập tới việc xây dựng một lực lượng quân đội có khả năng và trình độ bắt kịp với các lực lượng quân đội hùng mạnh khác trên thế giới.


Có thể khẳng định rằng xu hướng “chuyên nghiệp hoá” đã thắng thế khi hầu hết các tướng lĩnh quân đội hiện tại ở Trung Quốc là những quân nhân chuyên nghiệp không có nhiều kinh nghiệm chính trị. Họ ủng hộ hiện đại hoá quân đội. Vai trò của Tập Cận Bình cũng đáng lưu ý khi ông được đánh giá là nhà lãnh đạo mạnh nhất Trung Quốc kể từ thời Đặng Tiểu Bình, là một “lãnh đạo nòng cốt” của Đảng có đủ khả năng để dẹp bỏ hầu hết mọi chướng ngại cản trở “hiện đại hoá”.


Nằm trong nỗ lực thúc đẩy hiện đại hoá, có nhiều thông tin cho rằng Chủ tịch Tập trong tương lai gần sẽ cấm hoàn toàn việc quân đội làm kinh tế để tập trung cho một mục tiêu duy nhất là huấn luyện và chiến đấu. Mọi tàn dư còn sót lại theo sau chính sách “phi thương hoá” quân đội của Giang Trạch Dân sẽ bị loại bỏ hoàn toàn.


Tháng 11 năm 2015, ĐCSTQ và quân đội Trung Quốc tuyên bố mọi hoạt động kinh tế tạo ra doanh thu còn lại của quân đội sẽ chấm dứt hoàn toàn vào năm 2018. Các hoạt động này bao gồm khám chữa bệnh tại các bệnh viện quân đội; cho tư nhân thuê lại các nhà kho của quân đội; cho phép các đoàn ca múa nhạc của quân đội tham gia các hoạt động văn nghệ quần chúng có thu phí; thuê ngoài các công ty xây dựng quân đội hay việc cho phép sinh viên ngoài ngành được học tập tại các trường/viện của quân đội. Bước đi này được xem là dấu chấm hết cho xu hướng “thương mại hoá” quân đội vốn đã ăn sâu bám rễ trong cách thức tổ chức quân sự ở Trung Quốc từ trước tới nay.


Trong vòng 3 năm, các đơn vị quân đội và cả các đơn vị công an đang cung cấp những dịch vụ nêu trên không được ký kết thêm hợp đồng mới cũng như dần dần đáo hạn tất cả các hợp đồng đang có bằng cách đàm phán với các đối tác dân sự. Quá trình này đang diễn ra theo đúng như kế hoạch và hầu như không gặp phải bất kỳ cản trở nào, với những lý do đã nêu ở bên trên. Bên cạnh đó, các quy định về kiểm toán trong quân đội cũng được đổi mới và thắt chặt hơn nhằm loại bỏ tham nhũng.


Dự kiến cho tới năm 2018, những gì còn lại của cái gọi là “yếu tố kinh tế” của quân đội Trung Quốc sẽ bao gồm các hoạt động tăng gia sản xuất tự cấp tự túc của các đơn vị quân đội. Dĩ nhiên các sản phẩm này sẽ không được bán ra ngoài thị trường. Ngoài ra, một số dịch vụ được đánh giá là “quan trọng đối với an ninh quốc gia” yêu cầu phải có sự tham gia của quân đội sẽ được điều hành bởi một ban điều hành hỗn hợp dân sự/quân sự và được kiểm soát chặt chẽ bởi các cục có liên quan. Lợi nhuận từ các dịch vụ này nếu có sẽ nộp ngân sách nhà nước. Ngân sách quốc phòng được rót xuống chủ yếu phục vụ mua sắm vũ khí/khí tài, trả lương, bảo hành/bảo dưỡng và cho nghiên cứu và phát triển vốn sẽ được quân đội ký hợp đồng thuê ngoài từ các công ty dân sự.


Đặc trưng quân đội làm kinh tế phụ thuộc lớn không chỉ vào đặc trưng chính trị của mỗi quốc gia, mà còn vào đặc điểm lịch sử và quá trình phát triển của quốc gia đó. Tại phương Tây và đặc biệt là tại Mỹ, quân đội tách hoàn toàn ra khỏi các hoạt động kinh doanh. Mọi hoạt động sản xuất vũ khí và các loại trang thiết bị cần thiết rơi vào tay các tập đoàn tư nhân. Quân đội phương Tây là một bộ phận của chính phủ và nằm dưới quyền điều hành của các quan chức dân sự.
Trong khi đó quân đội ở một số nước đang phát triển và những nước thuộc thế giới thứ ba thường có xu hướng can dự nhiều hơn vào đời sống kinh tế và thu lợi lớn từ các hoạt động kinh doanh. Một phần lý do là bởi sức mạnh của họ trong cán cân quyền lực quốc gia lớn, thường có khi lấn át luôn cả phe dân sự. Trong nhiều trường hợp các chính phủ dân sự cần sự ủng hộ của phe quân đội nên “thả lỏng” và cho phép họ lấn sân sang các mảng chính sách khác, đặc biệt là kinh tế. Trong một số trường hợp khác, ví dụ như Myanmar, ảnh hưởng về mặt lịch sử của quân đội khiến cho con đường “phi thương hoá” không hề đơn giản. Quân đội ở một số quốc gia vốn đã được “thể chế hoá” để đóng vai trò như một trụ cột chính trị và kinh tế khó có thể thay thế.


Có nhiều yếu tố tác động tới khả năng quân đội có thể tách ra khỏi các hoạt động kinh doanh. Dân chủ hoá không nhất thiết dẫn tới quá trình “phi thương hoá” mà còn phải kể tới một số các tương tác khác. Thứ nhất là một chính phủ dân sự đủ mạnh và đủ nguồn lực để đảm bảo các lợi ích của quân đội, ví dụ như đảm bảo đủ ngân sách quốc phòng. Tỷ lệ tham nhũng trong quân đội được kiểm soát tốt hơn cũng khiến cho quá trình tách bạch giữa nhiệm vụ kinh tế và nhiệm vụ quốc phòng an ninh trở nên chậm hơn. Việc các công ty quân đội làm ăn hiệu quả trong bối cảnh các nhóm lợi ích ủng hộ xu thế chuyên nghiệp hoá hoàn toàn vẫn chưa đủ mạnh cũng làm giảm đi tính cấp bách của quá trình phi thương hoá quân đội. Quan trọng nhất là các yếu tố về lịch sử và tư tưởng như đã đề cập ở trên.