Thứ Ba, 21 tháng 3, 2017

“Tiếng chim hót trong bụi mận gai” - Tiếng ca buồn thương mà đẹp đẽ đến nao lòng



“Bởi vì, tất cả những gì tốt đẹp nhất chỉ có được khi ta chịu trả giá bằng nỗi đau khổ vĩ đại... Ít ra là truyền thuyết nói như vậy".“Truyền thuyết về con chim chỉ hót một lần trong đời, nhưng hót hay nhất thế gian... Có lần nó rời tổ bay đi tìm bụi mận gai và tìm cho được mới thôi. Giữa đám cành gai góc, nó cất tiếng hát bài ca của mình và lao ngực vào chiếc gai dài nhất, nhọn nhất. Vượt lên trên nỗi đau khôn tả, nó vừa hót vừa lịm dần đi, và tiếng ca ấy đáng cho sơn ca và họa mi phải ghen tị. Bài ca duy nhất có một không hai, bài ca phải đánh đổi bằng tính mạng mới có được. Nhưng cả thế gian lặng đi lắng nghe, và thượng đế cũng mỉm cười. Bởi vì, tất cả những gì tốt đẹp nhất chỉ có được khi ta chịu trả giá bằng nỗi đau khổ vĩ đại... Ít ra là truyền thuyết nói như vậy".


Đã từ rất lâu rồi, lời tựa cho cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nữ văn sĩ Colleen McCullough vẫn khiến tôi tự hỏi: “Ta đang kiếm tìm điều gì trong cuộc sống? Hạnh phúc ư? Tình yêu ư? Ta đang mỏi mắt tìm hay cố gắng trốn chạy nó?”. Mỗi lần đọc “Tiếng chim hót trong bụi mận gai”, tôi lại cảm nhận vị mặn chát ở đầu môi. Tôi mơ hồ hình dung những sợi tóc vàng bay trên cánh đồng đầy gió, tiếng chuông ngân dài trong buổi chiều tàn và cây thánh giá lặng thinh nơi thánh đường tĩnh mịch. Tất cả, tất cả đều ám ảnh đến nao lòng…

“Tiếng chim hót trong bụi mận gai” kể về câu chuyện tình của Mecghi xinh đẹp và Cha xứ Ranfơ. Vì thân phận, địa vị, linh mục Ranfơ buộc phải chạy trốn cảm xúc lứa đôi. Tình yêu đối với ông có lẽ chỉ - được - phép dành cho Chúa Trời, đấng vô hình thiêng liêng mà không có chỗ đứng cho nhi nữ thường tình. Mecghi vì cố quên Cha mà đành kết hôn với người đàn ông khác - người đàn ông giống Ranfơ đến lạ lùng! Nhưng định mệnh vốn dĩ vẫn thích trêu ngươi. Tình cờ cả hai gặp lại nhau, ngọn lửa âm ỉ trong lòng bấy lâu lại bùng lên hơn bao giờ hết, họ lại yêu nhau, lại sưởi ấm trái tim nhau và cuối cùng tình yêu hóa thành bi kịch.

Trải bao nỗi đớn đau, ngọt ngào, hiến dâng và kiêu hãnh, tình yêu giúp Mecghi vượt qua định kiến, lễ giáo và cả đức tin ràng buộc con người. Mecghi yêu Ranfơ hơn sự sống, hơn cả bản thân mình! Tình yêu khó kiếm tìm giữa cuộc đời rộng lớn, nếu vụt mất đi có lẽ suốt cuộc đời không tìm lại được. Vậy nên nàng chấp nhận tình yêu không lối thoát. Nàng đã yêu một người không - được - phép - yêu, một người ở thế giới khác, thế giới chỉ có tình yêu quảng đại cho Chúa, Thánh thần và tồn tại những con chiên ngoan đạo. Để bảo vệ giọt máu của Ranfơ, Mecghi đã âm thầm hy sinh và chịu đựng. Phải chăng huyết mạch ấy chính là kết tinh những gì tốt đẹp nhất mà con người ta phải trả giá bằng nỗi đau khổ vĩ đại của đời mình? Cả cuộc đời, cả tuổi xuân cho đến khi khi bóng chiều đổ xuống mái tóc vàng óng ả, nàng cũng chỉ tôn thờ một tình yêu duy nhất. Sự giằng xé nội tâm của cô gái đáng thương với mối tình ngoài tầm tay chợt khiến người đọc quặn thắt cõi lòng…
Nếu có ai đó kể một truyền thuyết về người con gái chỉ yêu một lần trong đời, nhưng yêu bằng tình yêu mãnh liệt nhất thế gian thì trong lòng tôi sẽ xuất hiện hình ảnh nàng – Mecghi xinh đẹp. Con chim chết đi trong bụi mận gai để lại tiếng ca muôn loài ghen tị, Mecghi cũng vượt lên nỗi đau đớn xác thân và linh hồn để chiến thắng Chúa Trời. Nỗi đau cũng chính là niềm kiêu hãnh trong nàng. Bởi có ai dám vì tình yêu mà giành giật cả linh mục – người sinh ra vốn đã thuộc về Chúa? “Chính ta đã xếp đặt số phận của ta như thế, ta không đổ lỗi cho ai và ta cũng không hề tiếc nuối về một phút giây nào trong quá khứ…”.

Giá như Cha Ranfơ chịu hy sinh địa vị, chịu từ bỏ danh phận linh mục hư vô kia để sống thực với lòng mình, thì liệu mối tình ấy có trở thành bi kịch? Dù sao Cha Ranfơ cũng là con người bằng xương bằng thịt, có những lý tưởng riêng của cuộc đời. Dẫu không phải là con chim lao mình vào gai nhọn, để yêu trọn vẹn thể xác linh hồn, nhưng cuộc đời ông ít nhiều cũng đã nếm trải hương hoa của hạnh phúc. Cái cảm giác tỉnh giấc buổi mai bên cạnh người con gái mình yêu thương, thật ấm áp diệu kì. Bình yên và cứu rỗi - đôi khi lại được gởi trao bởi những con người quá đỗi bình thường và từ những điều rất ư giản dị...
Có lẽ, cuộc sống là chuỗi dài của những sự mâu thuẫn. Nó luôn đẩy con người ta vào sự lựa chọn, hoặc cái này, hoặc cái kia, mà không cho phép sự vẹn tròn tồn tại. Nếu có sự lựa chọn vẹn toàn cho tình yêu và danh vọng, đỉnh cao địa vị và hạnh phúc đơn sơ, thì có lẽ thế gian đã trở thành thiên đường... từ rất lâu rồi. Kết thúc một sự lựa chọn cũng là lúc con người tự tạo ra cũi lồng nhốt mình vào đó, với giáo lý, với đức tin, với những điều bác ái tưởng như vĩ đại không cùng. Linh mục Ranfơ phải đối mặt với nỗi cô đơn suốt cuộc đời, cô đơn khi đối diện với bản ngã của mình, cái kết cục cô đơn vì không đủ can đảm vượt thoát xa hơn. Để đổi lấy vị trí đỉnh cao của danh vọng, đôi khi phải trả giá bằng nỗi cay đắng đến tột cùng.

Số phận của loài chim bé nhỏ mải miết kiếm tìm bụi mận gai, số phận cô gái mỏng manh đi tìm cho mình tình yêu đích thực giữa cuộc đời bao la vô tận... Mecghi, hay cũng chính là những người phụ nữ khao khát yêu thương, khao khát hiến dâng dẫu phải chịu ngàn lần cay đắng. Con chim mang chiếc gai của bụi mận cắm vào ngực tuân theo qui luật bất di bất dịch của thiên nhiên; bản thân nó không biết sức mạnh nào đã buộc nó lao vào mũi nhọn và chết mà vẫn hót. Để thế gian ngưng đọng, muôn loài lặng thinh, Thượng đế trên cao phải lắng nghe tiếng ca buồn thương mà đẹp đẽ. Thời khắc ấy tôi chợt nhận ra “lúc mũi gai xuyên qua tim, con chim bé bỏng không nghĩ đến cái chết sắp đến, nó chỉ hót, hót cho đến lúc mất tiếng đứt hơi… Nhưng chúng ta, khi lao ngực vào bụi mận gai, chúng ta biết, chúng ta hiểu. Tuy thế ta vẫn lao ngực vào bụi mận gai. Sẽ mãi mãi như thế!”…
Đình Đình

Nỗi niềm của đất ai hay?


Tiết Thanh minh tháng ba đã đến. Các ngả đường nhộn nhịp dòng người đi tảo mộ như trẩy hội. Ngày xưa mồ mả thường đặt`nơi xa làng, lẻ tẻ trên các cánh đồng, đượng đống. Các chi ngành chia thành từng đoàn vác cuốc, mang dao phát cỏ, gồng gánh lễ lạt nào rượu thịt, xôi, cơm, cùng vàng hương mấy thẻ, trầu cau mấy buộc... tề tựu trên các cánh đồng. Mọi người vừa đắp mộ cầu tổ tiên phù hộ con cháu “nhân khang vật thịnh” vừa nghe những lời giáo huấn. Người mất chuyện còn. Con cháu được rành rẽ tích cũ, chuyện xưa, lấy đó làm niềm tự hào, làm bài học, tấm gương cho gia đình, dòng họ, cho chính mình. Qua đây người ta nhận họ hàng, ngôi thứ, thắt chặt thêm tình máu mủ ruột rà. Khi nén hương tàn chừng phân nửa, là “hoá vàng” tạ ơn “thổ thần thổ địa” bảo vệ mộ phần. Vàng đốt làm bằng giấy bản, giấy rơm in hình đồng tiền chinh có bốn chữ nho cổ… Rồi già trẻ cùng nhau quây quần uống rượu, ăn cơm ngay trên vạ cỏ giữa hương đồng gió nội. Sau quãng đường xa bộ hành, lúc này đúng là ăn “mầm đá” cũng ngon, cũng thú vị làm sao!
Ngày xa ấy, đám trẻ con chúng tôi cứ mỗi độ hoa xoan nở tím trong làng, lại nhắc nhớ nhau: -Sắp được đi tạ mộ rồi...! Tôi là con trai lớn trong nhà, lại thuộc hàng đứng đầu chi ổ, có người tóc muối tiêu, râu dài cũng phải gọi tôi bằng chú, bằng anh; nên thường được theo cha đi nhận mộ. Háo hức trên bờ ruộng, tôi chạy tới những nấm mộ như những chiếc thúng con úp trên cánh đồng phủ lớp cỏ mịn màng xanh mướt, như thấy từ trong đất quê toả ra hơi thở ấm áp của cụ cố, của ông nội, bà nội tôi. Tiếng của bà nội tôi văng vẳng bên tai như người còn đó cầm chiếc roi tre nhỏ gọi tôi khi tôi là thằng bé mải miết rong chơi, tắm lội cùng con trâu đầm trên dòng sông trước cửa làng. Tôi được biết dưới tầng đất sâu ấy là nơi ký thác xương cốt của tổ tiên tôi, của dòng máu họ hàng hang hốc nhà tôi. Tôi thường đứng lặng đằng sau nghe cha tôi khấn vái. Tiếng lầm rầm của ông như thấu đạt tới linh hồn người bên kia, rất rõ. Hình như những nén nhang cũng lay động, ảo mờ những vệt khói lam bay lên, rớt lại mùi thơm nhẹ tận đáy lòng. Những đứa trẻ bọn tôi luôn được đi, bao giờ cũng nhớ mộ tổ họ, mộ ông bà hơn cả người lớn.
Nhưng bây giờ, thanh minh lại khác nhiều lắm. Người ta đi tảo mộ không còn thuần phong như ngày xưa nữa. Vàng mã tốn kém và trào lưu xây mộ lại tràn lan. Thực trạng đó đang như một cuộc chạy đua và khiến người nông dân nghèo mang nỗi lo day dứt. “Sống vì mồ mả, đâu vì cả bát cơm”. Câu nói đó trở thành đầu lưỡi. Nhất là những nhà giàu, hoặc có kiều ngoại, quan chức, những người làm ăn phất to, trúng lớn. Hôm qua còn chạy từng hạt gạo, hôm nay dư ăn dư để, liền chạnh nghĩ đến mồ mả. Họ coi đây là dịp tạ ơn ông bà ông vải vì “mộ phát”, “mộ kết”! Đồ tế lễ thịnh soạn bày ra nào gà chưng, bánh quả, bia hộp bia chai cùng vàng mã rực rỡ. Người đời phóng đặt ra hàng xấp, hàng thỏi giấy hoặc đô la âm phủ cùng đủ thứ vàng mã: ngựa voi đủ màu, hài hia đủ loại, cả ti vi, máy tính, ôtô, xe máy... đốt hoá cháy bùng bùng. Các già làng thắc mắc: “Mùa thanh minh nào con cháu cũng bày vẽ đốt lắm ngựa xanh, ngựa đỏ, voi trắng thế kia, liệu dưới đó các cụ có đủ chuồng, dư cỏ dư mía cho chúng ở, chúng ăn? Riêng khoản vàng mã, dân 8 xã tổng mình cũng đốt vèo hàng trăm triệu bạc không đâu vào đâu trong tiết tháng Ba!
Những năm gần đây, ở các làng quê bỗng dưng có hai mùa xây mộ: tháng hai tháng ba và sau thu hoạch vụ mười. Nhân thời tiết đất trời khô hanh, người ta tranh thủ chuyên chở nguyên vật liệu ra các nghĩa địa xây cất mộ đông vui, nhộn nhịp như công trường xây dựng. Người ở xa thì hoặc tranh thủ về quê, hoặc gửi tiền của đầu tư cho người ở nhà thanh minh, xây mộ. Xe đạp, xe máy, ô tô đậu từng đoàn ngoài các nghĩa địa như đi trẩy hội. Người có tiền khởi xướng đầu tàu kéo theo gia ổ. Kẻ túng thiếu thì vì danh dự o ép mà chặc lưỡi đôn đáo vay mượn, bán thóc lúa, lợn gà để đóng góp, kẻo hổ thẹn. Cốt sao mộ to rộng, cao sang. Cần thiết thì chịu chơi, mua cả đất mộ hàng xóm! Trước đây mộ quây bằng gạch vôi xỉ, nay tháo ra, đổ gạch chỉ Yên Hưng, Giếng Đáy, Hạ Long xuống xây lại cho vĩnh cửu! Trước ghi tên bằng mũi đinh khắc vào xi măng, giờ đặt bia đá, bia in chân dung, thếp chữ vàng, chữ bạc. Nhiều khu mộ trông chẳng khác mấy cuộc triển lãm ngoài trời, hoặc một đô thị vừa cổ vừa kim!
Cái làng nhỏ của tôi cũng có tới ba khu nghĩa địa. Dân để mộ tuỳ hứng vì xã chưa qui hoạch rõ ràng. Mùa xây mộ đến, các cánh ruộng, gò đống ven làng đâu cũng thấp thoáng những đám xây mộ. Thôi thì người nào bóng ấy. Cố giữ mộ kẻo năm trước năm sau dễ lẫn vào thiên hạ, sẽ mang tiếng là nhà mất mộ như chơi! Không ít xảy ra tình trạng tranh giành phần đất, phần mộ, giằng co mang nhau đến Uỷ ban. Chính quyền cũng chịu bó tay vì biết dựa vào luật nào? Khu nghĩa địa phía đông từng xảy ra chuyện con cháu ông chú ở xa về chơi trội xây mộ to cao, mái đao cong vút, ngất ngưởng che sang mộ ông bác. “Gà tức nhau tiếng gáy”. Con cháu bên này không chịu nổi cảnh “thượng long đoạt hướng”, liền gây sự ép bên kia phá đi xây lại. Nếu không sẽ quyết chí xây đè lên!
Đi sâu vào các nghĩa địa Phong Cốc, Phong Hải, Yên Hải... ngỡ như lạc vào một mê hồn trận mồ mả, lạc vào muôn hình khối bê tông! Hộp vuông, hộp dài. Lầu cong, chóp nhọn. Mái bằng, mái bán nguyệt. Tầng hai, tầng ba. Nửa tây nửa ta. Có khu mô phỏng y một con tàu há mồm, một ngôi biệt thự, một toà lâu đài... Tất cả trát xi măng, ốp đá xanh, lát gạch men nội ngoại. Diện tích mỗi mộ hẹp nhất cũng bốn, năm m2, rộng từ mười đến hai chục m2. Rồi hơn nữa, có khu mộ gia đình chiếm cả sào ruộng. Chi phí mỗi mộ thấp nhất cũng từ một vài triệu, cao đến năm, bẩy triệu đồng trở lên. Có khu tới năm, sáu chục, rồi hàng trăm triệu đồng, bằng cả một cơ ngơi nhà ở cấp bốn! Con cháu coi công trình lăng mộ như một niềm tự hào, mãn nguyện. Có hai anh em nhà kia cùng mẹ đẻ ra sẵn sàng tranh giật nhau từng tấc đất đến đổ máu, ra toà, đến nỗi ông bố uất quá, sinh bệnh, liền gọi con lại bảo: “Cha chết, đem mà chôn dọc áo quan để dôi đất cho chúng bay!”. Nhưng họ lại bỏ phí hàng mét, hàng chục mét vuông đất ngoài cánh đồng cho cỏ mọc, cho khối bê tông câm lặng trơ gan, vô ích cùng tuế nguyệt! Gia đình anh Nam đang làm 50 ha đầm thuỷ sản bị mấy cơn bão liên tiếp gây vỡ đầm, nước dâng ngập lụt trút sạch đàn tôm ra biển. Trắng tay, không còn đồng nào để gây lại vụ mới. Đang lo bạc mặt thì nhận được tin của ông trưởng ngãnh họ “bổ đầu” đóng góp và gợi ý chủ đầm “hảo tâm” một khoản để xây dựng mộ các cụ! Vợ anh nửa cười nửa mếu: -Tiếng cả nhà không. Biết làm sao bây giờ?
Năm, sáu năm trước, đi đưa một đám tang ở nghĩa địa Phong Cốc, tôi được nghe một sự tích về một ngôi mộ vừa cất dựng mất trên chục triệu đồng. Đó là ngôi mộ mẹ một ông người làng trước đây đi lính “khố xanh” cho Pháp. Năm 1954, ông ta tản cư vào Nam, bặt hẳn tin tức. Đất nước thống nhất, ông về quê vừa dò hỏi vừa xem bói tìm mộ mẹ, nhưng mãi không thấy. Cuối cùng nhờ ông hàng xóm có sào ruộng nhớ ra: “Thuở ấy đói kém người chết như rạ. Mộ cụ chôn xấp chôn xáo ở góc ruộng, xung quanh đổ toàn vỏ ốc làm dấu tích...” Sau nhiều ngày cất công đào bới, nhận đúng mộ mẹ ngày xưa, ông ôm mặt khóc như một đứa trẻ trước hũ tiểu sành dập vỡ... Sang xong hài cốt mẹ vào bộ “trong quang ngoài quách” bằng đá gralitô, ông chọn thợ xây kiên cố, trang trí ngôi mộ rất cầu kỳ. Ông bảo mọi người: “Khỏi phải băn khoăn, miễn sao cho đẹp, cho bõ ngày cụ tôi còn sống chẳng được hưởng gì! Đã có con cháu bên Mỹ nó tắc về!”... Quanh đó mấy ngôi cũng vừa mọc lên chẳng kém phần đồ sộ. Được biết có tập đoàn lăng mộ ốp lát hoa xuể, mỗi cụ một lầu son, do một đứa cháu làm ăn gặp vận đỏ làm chủ chi, kén hẳn thợ khéo từ Hải Dương, Nam Định về bắc giàn giáo thi công cả tháng trời... Giữa thượng đồng còn nổi lên một ngôi mộ ốp lát đá đen nhánh, vươn lầu cao ngất nghểu. Tới gần hoá ra mộ của một “tướng cướp giang hồ”! Cô vợ vượt biên hồi xưa, giờ cư trú ở nước ngoài gửi đô la về xây mộ chồng... Cách đây hai mươi năm, cánh đồng của làng “dân cả xã lớn” này thẳng cánh cò bay, mượt mà sóng lúa đến tận bờ tre. Nay màu xanh nuôi sống người đã bị bóc đi hàng chục ha nhường chỗ cho “vương quốc Thiên cổ” khô khốc bê tông!
Năm ngoái đi tảo mộ còn thấy những lũng ruộng cấy lúa, trồng rau giữa các gò đống. Năm nay đã bình địa, chi chít các hình khối còn hăng vôi vữa, xi măng. Phải lâu lắm, dễ đến hai giờ đồng hồ, anh em tôi tản ra căn đi căn lại, mới tìm được mộ bà ngoại lấp trong cơ man những ngôi mộ xây chen chúc dày đặc. Ngốt hết cả ruột gan! Phần mộ bà ngoại tôi bị người ta bên cạnh xây đè lên hẳn một vạ tường! Chỉ một tẹm nữa thôi là mộ bà ngoại bị “thôn tính” thành chân móng của họ! Tôi còn đang bùi ngùi thì gặp một đoàn cũng đang dò dẫm giữa “siêu thị” mộ để tìm mộ nhà mình. Một cụ già che ô, chống gậy, thở không ra hơi, than vãn:
- Ngày xưa chỉ vun nấm đất, nấm cỏ thì mộ không sao. Bây giờ thiên hạ đua nhau xây đắp lại đâm mất mộ. Làng nước đua nhau tung tiền ra đồng. Mộ gì mà y nhà nghỉ mát! Nhà nghèo sợ lẫn, sợ mất mộ cũng đành chịu lôi cuốn vào cuộc. Ngữ này ta cũng phải xây thôi, khỏi thấp kém, tủi thân!
- Họ cậy tiền làm to -một cụ cắt ngang -càng có chỗ cho cánh thợ cấy, thợ gặt ngồi nghỉ trưa ăn cơm hoặc ngả lưng đánh giấc.... Một cụ khác hóm hỉnh xen vào: -Có mà tiện cho bọn trai gái, bọn nghiện hút chúng kéo tạt ra đây!... Anh bạn tôi là người từng trải, nhiều lần vào Nam ra Bắc, tỏ vẻ sành sỏi:
- Chưa bằng Hải Phòng, Hạ Long, Nha Trang, Sài Gòn... nghĩa địa của họ còn xây dữ dội, hiện đại hơn nhiều. Nghĩa trang Đèo Bụt, Đèo Khế ven dốc Quốc lộ 18A, như một toà thành La Mã cổ đại thu nhỏ trong thung lũng núi đá. Giờ toà thành này đã quá tải, người ta phải “đóng cửa” và lập ngay một nghĩa địa khác ở khu 7 cho các linh hồn kịp “nhập cư”. Hơn chục năm nay đa số các “hộ khẩu tóc xanh” do nghiện hút, HIV nhập vào ồ ạt! Còn bên Hải Phòng… Nghĩa địa Tĩnh Hải, có nhà bỏ tới bảy, tám trăm triệu xây khu mộ gia đình kén toàn đá Thanh Hoá về thi công, riêng bộ chân móng sâu tới 1 mét, rồi đắp vẽ đủ thứ hoa hoè hoa sói. Người ta còn xí đất mặt đường trong nghĩa địa lo trước cho cả người sống nữa kia… Anh còn cao hứng: -Vừa rồi báo chí đăng dân trong Huế chạy đua xây mộ như một cuộc tái phục kiến trúc thành quách cổ. Có ông khách du lịch ngoại quốc đến thăm cứ lầm tưởng đấy là di tích “Di sản Văn hoá”! Có khu mộ ngốn gần ba, bốn chục nghìn USD trên diện tích 600 m2, ngang với kinh phí và khuôn viên dựng lại đình làng quê ta!... Cũng chưa ăn thua! Còn có khu mộ gia đình xây cất tới tỷ mốt, tỷ hai, thậm chí xấp xỉ 2 tỷ đồng VN nữa kia!...
Ai nghe xong cũng lắc đầu lè lưỡi:
- Thế thì “phố hoá” cho người Thiên cổ đến nơi mất rồi! Mộ thường dân bây giờ còn đặc biệt hơn cả lăng tẩm vua chúa ngày xưa!
Mộ xây gia tăng. Nghĩa địa ngày càng nở ra. Người ta chỉ cốt xây cao to, bền đẹp, chứ ít ai quan tâm đến môi trường, nguồn nước bị ô nhiễm, đến đất đai rồi đây sẽ ra sao? Hoặc biết là nguy cơ mà chưa có cách nào khắc phục được. Không ít kẻ còn bỏ tiền ra mua đất, xây thùng mộ chiếm chỗ trước để phòng hậu sự đất đai lên giá! Ông Dương Miền khi còn là chủ tịch Mặt trận xã từng lo lắng:
- Nếu cứ đà này thì chỉ dăm chục năm nữa, lấy đâu ra đất để ký táng? Tỷ dụ như làng ta đây hiện có 5000 dân? Nghĩa là sẽ có lần lượt 5000 ngôi mộ! Cải táng đặt sít nhau cũng phải mất hơn chục nghìn mét vuông! Trong khi đó làng chỉ có chưa đầy 190 ha canh tác đang như vũng nước co dần! Và ông cũng từng nêu nguyện vọng trong các cuộc họp: -Đã đến lúc Nhà nước ban hành Luật mộ táng để giúp các địa phương quản lý đất đai sinh lợi, bảo vệ tài nguyên nông nghiệp và môi trường sinh thái! Tiếc rằng ý tưởng thì hay, thức thời quá, mà tiếng nói ông như hạt cát trong cơn lốc “hiện đại hoá mộ phần” chưa ai dám ra cản lại!
Qua các cuộc cải táng, trong những lúc chuyện trò, tôi thấy tâm tư của người nông dân cũng bắt đầu những suy nghĩ mới:
- Người đẻ, đất có đẻ đâu! Dân ta cũng cần thay đổi nhận thức và tâm lý về địa táng hiện nay. Nên dần dần thực hiện hoả táng bằng đài hoá thân Hoàn vũ như ở Hải Phòng và một số nơi. Ngoài Cẩm Phả, người ta đã đưa vào sử dụng đài hoàn vũ “An Lạc Viên”, đồ sộ và hiện đại lắm! Đến đó ta như lạc vào cõi tiên cảnh, chả còn gì cảm giác chết! Quê mình đây có muốn đưa người quá cố sang đài Hải Phòng hoặc đài Cẩm Phả cũng không xa mấy! Vừa sạch sẽ, gọn gàng, vừa tiết kiệm mọi mặt, đỡ dềnh dàng bao nhiêu thủ tục cúng bái... Thấy được “nền văn minh hoá thân”, có nhiều cụ già đã phát biểu: tôi cũng chỉ muốn gói ghém xương cốt trong một nắm tro. Ai cũng vậy thì rõ ràng ta để dôi được bao nhiêu đất đai cho đời sau! Nhưng chỉ lo không biết đám con cháu nó có làm theo ý mình không?...
Đứng trên bờ đê nhìn xuống các cánh đồng nhấp nhô nghĩa địa, tôi bâng khuâng suy nghĩ: Rồi đây, 6 vạn nhân khẩu hiện tại ở vùng 8 xã làng đảo quê tôi sẽ theo bước chân nhau về cõi hư vô. 6 vạn ngôi mộ sẽ xếp trên mặt bằng chưa đầy 10 nghìn ha! Chắc chắn thế rồi. Có ai làm khác được đâu! Thì vùng đất cửa sông Bạch Đằng này, không biết các thế hệ sau, sau nữa có kịp“bồng bế nhau lên ở núi non”!? Và nơi đâu, bao làng quê, phố phường cũng san sát “phố mộ”, thì núi non liệu có còn chỗ không?
Thành phố của người chết đang lấn từng thước đất sinh nhai của người sống! Đằng sau cái đẹp “thanh minh vào tiết tháng Ba” và “mộ hoá phố” đang là nỗi niềm xót xa của đất! Ai hay tấm áo xanh của đất đang tiếp tục mỗi ngày bị xé thêm ra?.
Dương Phượng Toại

Chủ Nhật, 19 tháng 3, 2017

AN DÂN



Ernest Aeppli, một nhà tâm lý học Âu châu đã mô tả trạng thái ban sơ ấy của nhân loại như sau: «Người ban sơ ít ngã chấp, sống hồn nhiên, thuận theo thiên lý.» Vì ngã chấp còn ít oi, nên họ sống hầu như hòa mình với đoàn thể, và chính vì thế, trách nhiệm họ cũng được giảm thiểu đến mức tối đa. Lúc ấy, đời sống tri thức họ rất thô sơ, nhưng sức mạnh vô thức họ lại hoạt động rất mạnh. Người thời buổi văn minh ngày nay thường ước mơ trạng thái ấy. Họ muốn trút bỏ trách nhiệm và muốn thoát nợ suy tư. Họ muốn trở lại tình trạng thiên nhiên, và họ tưởng tượng ra một đời sống tiên cảnh, khi mà con người chưa ăn phải trái tri thức đắng đót.
AN DÂN
安 民
Hán văn:
不 尚 賢, 使 民 不 爭. 不 貴 難 得 之 貨, 使 民 不 為 盜. 不 見 可 欲, 使 民 心 不 亂. 是以 聖 人 之 治, 虛 其 心, 實 其 腹, 弱 其 志, 強 其 骨. 常 使 民 無 知 無 欲. 使 夫 知 不 敢 為 也. 為 無 為, 則 無 不 治.
Phiên âm:
1. Bất thượng hiền, sử dân bất tranh. Bất quí nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn.
2. Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc,[1] nhược kỳ chí, cường kỳ cốt. Thường sử dân vô tri vô dục. [2] Sở phù trí giả bất cảm vi dã.
3. Vi vô vi, tắc vô bất trị.
Dịch xuôi:
1. Không sùng thượng hiền tài, khiến cho dân không tranh. Không quí của khó được, khiến cho dân không trộm cướp. Không phô trương những gì kích thích lòng ham muốn, khiến cho lòng dân không loạn.
2. Vì vậy phép trị nước của thánh nhân là làm cho dân: Trống lòng; No dạ; Yếu chí; Mạnh xương. Thường khiến cho dân không biết, không ham. Khiến cho kẻ trí không dám làm gì cả.
3. Làm theo phép Vô vi, thời không gì là không trị.

Dịch thơ:

1. Không sùng thượng hiền tài trần thế,
Cho dân gian bỏ lệ tranh đua,
Không tham vật quí khó mua,
Cho dân hết thiết đi vơ của người.
Mọi vẻ đẹp bên ngoài chẳng thiết,
Cho lòng dân cao khiết trong veo.
2. Trị dân hiền thánh muốn điều,
Ít ham, ít muốn, ăn nhiều uống no.
Bao tơ tưởng làm cho yếu hết,
Nhưng thịt xương sắt thép khang cường. [3]
Tò mò, cớ tưởng vấn vương,
Dân ta ta giữ cho thường vô lo,
Khiến người xảo quyệt mưu cơ,
Sống trong cảnh ấy khó mà ra tay.
3. Sống khinh khoát mảy may chẳng bợn,
Thời muôn điều ngang chướng hết ngay.

BÌNH GIẢNG

Chương này là một trong những chương của Đạo Đức kinh bàn về cách trị dân theo Lão tử. Vậy trước khi bình giải chương này chúng ta nên biết đại khái chủ trương của Lão tử và Trang tử về chính trị.
Chủ trương của Lão tử là muốn cho dân trở lại đời sống thời thái cổ, vì thời buổi ấy dân chúng sống thuần phác hồn nhiên, thuận thiên lý, chưa có chút gì là nhân vi ngụy tạo.
Thời thái cổ ấy đại khái là thời Tam Hoàng - Phục Hi, Thần Nông, Chúc Dung (khoảng 2800 trước kỷ nguyên trở về trước) - hoặc là thời trước nữa: càng mộc mạc, càng thô sơ càng tốt.
Ta có thể mượn lời Trang tử nói trong thiên Khư Khiếp 胠 篋, Nam Hoa kinh mà mô tả thời thái cổ ấy như sau:

Thời thượng cổ là thời đạo đức,
Thời Đại Đình, Lật Lục, Chúc Dung,
Hiên Viên, Lý Súc, Thần Nông,
Hách Tư, Thái Hạo, Hoàng, Trung, Dung Thành. [4]
Thời buổi ấy thanh bình an lạc,
Và chúng dân thuần phác ung dung.
Thắt thừng bện lõi mà dùng,
Ăn ngon, mặc đẹp, chưa từng xốn xang.
Thời buổi ấy lân bang giáp cạnh,
Tiếng gà kêu chó cắn đều nghe,
Tuy không cách trở sơn khê,
Mà không tiếp xúc đi về với nhau.
Thời buổi ấy đâu đâu cũng trị,
Sống yên bình đến thế thì thôi. [5]
Gần đây Ernest Aeppli, một nhà tâm lý học Âu châu đã mô tả trạng thái ban sơ ấy của nhân loại như sau: «Người ban sơ ít ngã chấp, sống hồn nhiên, thuận theo thiên lý.» Vì ngã chấp còn ít oi, nên họ sống hầu như hòa mình với đoàn thể, và chính vì thế, trách nhiệm họ cũng được giảm thiểu đến mức tối đa. Lúc ấy, đời sống tri thức họ rất thô sơ, nhưng sức mạnh vô thức họ lại hoạt động rất mạnh. Người thời buổi văn minh ngày nay thường ước mơ trạng thái ấy. Họ muốn trút bỏ trách nhiệm và muốn thoát nợ suy tư. Họ muốn trở lại tình trạng thiên nhiên, và họ tưởng tượng ra một đời sống tiên cảnh, khi mà con người chưa ăn phải trái tri thức đắng đót. [6]
Lão tử ước mơ cho dân con sống lại những ngày hoàng kim ấy. Đạo Đức kinh chương 80, Lão tử viết:

«Nước ta bé nhỏ dân thưa,
Vài mươi tôi giỏi, ta chưa hề dùng.
Dạy dân sợ chết làm lòng,
Cho nên dân chẳng vẫy vùng phiêu lưu.
Xe kia thuyền nọ đìu hiu,
Nào ai muốn cưỡi, muốn chèo mà chi.
Binh kia giáp nọ ủ ê,
Chẳng ai dở dói nghĩ khoe, nghĩ bày.
Dạy dân trở lại thắt dây,
Sống đời thuần phác tháng ngày tiêu dao.
Cho dân ăn uống thanh tao,
Cho dân ăn mặc bảnh bao, chững chàng.
Cho dân đời sống bình an,
Cho dân phong tục dịu dàng đẹp tươi.
Liên bang nào cách mấy mươi,
Gà kêu, chó cắn đòi nơi rõ ràng.
Tuy rằng gần gũi tấc gang,
Suốt đời dân chúng nào màng tới nơi.

Lão tử cũng như Trang đều cho rằng người xưa vẹn được thiên chân, thiên tính của mình, vì thế nên sung sướng hạnh phúc.
Ngày nay các nhà cầm quyền vì bày vẽ quá nhiều luật pháp, lễ nghi, hình thức, nên đã làm cho dân con mất thiên chân thiên tính, để rồi chạy theo những văn minh, những kiến thức kiến văn giả tạo bên ngoài. Những cái đó không đem lại hạnh phúc, an bình cho con người được; trái lại chúng chính là mầm loạn lạc chia ly.
Trang tử chủ trương đại khái như sau nơi thiên Mã đề 馬 蹄:

«Kìa thiên hạ ung dung tự tại,
Sống đơn sơ vui với muông chim.
Sống đời mộc mạc tự nhiên,
Thung dung cùng đạo một niềm sắt son.
Vì đâu đã mỏi mòn nhớn nhác,
Vì đâu nên tan tác phân ly?
Bày ra nhân nghĩa mà chi?
Để cho thiên hạ suy vi tần phiền.
Gỗ không nát, sao nên được chén,
Ngọc không tan, sao vẹn chương khuê.
Đạo tan đức nát ê chề,
Mới bày ra được những bề nghĩa nhân.
Loạn năm sắc, mới văn mới vẻ,
Rối thanh âm, bày vẽ đàn ca.
Ai làm đạo đức xác xơ,
Lập ra nhân nghĩa vẩn vơ hại đời.
Lập nghi lễ, hình hài trói buộc,
Lập nghĩa nhân, bày chước ủi an.
Lòng người vì thế ly tan,
Khôn ngoan càng lắm, gian ngoan càng nhiều. [7]
Trong thiên Biền Mẫu 駢 拇, Trang tử lại viết đại khái rằng:
«Vậy đừng có suy bì vẽ sự,
Đừng chia phôi quân tử tiểu nhân.
Đã cùng đánh mất thiên chân,
Dù phân biệt hão, cũng ngần ấy thôi.
Đem thiên tính làm tôi nhân nghĩa,
Giỏi Sử, Tăng ta kể như không.
Vì ăn mà tổn tấc lòng,
Du nhi có giỏi, chớ hòng ta khen.
Đem nhã nhạc đảo điên tính khí,
Sư Khoáng kia, nào quí chi đâu.
Tính Trời lệ thuộc năm mầu,
Ly Chu ta cũng trước sau coi hèn.
Ta sau trước chỉ khen đạo đức,
Phục tính trời, chẳng phục nghĩa nhân.
Thông minh chẳng tại kiến văn,
Mà do tìm được cốt căn của mình.
Bỏ căn cốt tông minh đâu nữa,
Đạo Chích [8] kia cũng lứa Bá Di,[9]
Đều là đắm đuối, sân si,
Đều là thiên lệch có gì khác đâu.
Nên ta chẳng tìm cầu nhân nghĩa,
Chẳng mơ màng dâm tị, đảo điên,
Cốt sao giữ vẹn căn nguyên,
Tính trời cốt giữ tinh truyền trước sau...» [10]

Vì thế cho nên theo Lão tử, làm chính trị là phải cố phục hồi trạng thái hồn nhiên nguyên thủy ấy cho dân. Muốn được vậy đại khái sẽ:

1. Không sùng thượng hiền tài, để dân hết tranh dành.
2. Không tham vật quí khó mua, khó chuốc, để dân hết trộm cắp.
3. Không ngó ngàng đến những vẻ đẹp bên ngoài, để cho dân khỏi loạn.
4. Lo cho dân ăn uống no đủ, sống một đời sống khỏe mạnh. (Thực kỳ phúc, cường kỳ cốt.)
5. Không đem kiến văn kiến thức dạy dân. (Thường xử dân vô trị.)
6. Không kích thích thị hiếu của dân, cho lòng dân không bợn ham muốn tư dục, thanh thản hồn nhiên. (Hư kỳ tâm..., thường sử dân vô tri vô dục.)
7. Giữ không cho những người khôn ngoan, tinh quái lũng đoạn tinh thần dân, đời sống dân.
8. Như vậy, dân sẽ sống hồn nhiên, hạnh phúc, thế làm không làm mà vẫn làm được hết mọi sự, vẫn trị được hết mọi sự. (Vi vô vi tắc vô bất vi.)
Trong thiên Khư Khiếp 胠 篋, Trang Tử cũng theo chủ trương của Lão tử, nhưng đã trình bày chủ trương ấy với một luận điệu quyết liệt hơn nhiều. Ông viết đại khái như sau:

... Nên dứt tánh, dứt tình với trí,
Thời cướp ngày sẽ bí lối sinh.
Trầm châu, đắm ngọc tan tành,
Rồi ra trộm cắp lưu manh hết liền.
Phá ấn tín, dân nên thuần phác,
Đập đấu cân, dân gác ghen tuông.
Phá tan thánh pháp, kỷ cương,
Rồi ra dân sẽ rộng đường tới lui.
Vứt đàn sáo, bịt tai Sư Khoáng,
Thời chúng dân sẽ sáng tai ra.
Tung hê mầu sắc văn hoa,
Cho mờ văn vẻ, cho lòa Ly Châu. [11]
Hãy hủy hẳn giây, câu, khuôn, thước,
Tay Công Thùy [12] tìm chước chặt đi.
Sử, Tăng [13] ta hãy khinh khi,
Bịt mồm Dương,[14] Mặc,[15] bịt đi đỡ phiền.
Điều nhân nghĩa đảo điên hãy bỏ,
Bỏ đi rồi, sẽ rõ huyền đồng.
Huyền đồng là chính thần thông,
Hợp cùng đạo cả, thung dung vẹn nghì.
Kìa Tăng, Sử, Công Thùy, Sư Khoáng,
Hạng Ly Chu hay hạng Mặc Dương.
Đều là nhân đức phô trương,
Dốc bầu tinh túy, huynh hoang bên ngoài.
Chính vì vậy gieo tai gieo họa,
Loạn dân tình, loạn cả nước non.
Tưởng là ích lợi ngàn muôn,
Nào ngờ điên đảo, mỏi mòn lòng ai. [16]

Tóm lại, chủ trương của Lão tử, chính là không can thiệp vào đời sống dân, không đem kiến văn, kiến thức dạy dân. Tại sao?

a. Vì con người là một nghệ phẩm tối cao, không được nhào nắn bậy bạ. Đạo Đức kinh chương 29 viết:

Những muốn nặn muốn nhào thiên hạ,
Suy cho cùng chẳng khá được nào.
Lòng người nghệ phẩm tối cao.
Ai cho ta nặn ta nhào tự do?
Lòng người ai nắm giữ hoài,
Già tay nặn bóp bao đời tiêu ma...» [17]
b. Vì thánh nhân chỉ giúp cho vạn vật sống tự nhiên theo thiên chân, thiên lý mà thôi. Đạo Đức kinh chương 64 viết:
Cho nên hiền thánh trên đời,
Chỉ say Đạo cả chơi vơi ngàn trùng.
Của khan, vật hiếm chẳng mong,
Của đời người tế đèo bòng mà chi.
Học là học đạo siêu vi,
Dạy đời lầm lạc hướng đi tuyệt vời.
Giúp ai thanh thả đường trời,
Chứ không chọc nước quấy trời uổng công.
c. Vì đem điều xảo trá, đem kiến văn kiến thức dạy dân, là làm hại dân, làm cho họ trở nên xa Đạo, xa trời, trở nên bất trị, chứ không làm lợi cho họ. Đạo Đức kinh chương 65 viết:

Nên những kẻ am tường đạo cả,
Chẳng đem điều xảo trá dạy dân,
Muốn dân chất phác ôn thuần...» [18]
Đọc thiên Biền Mẫu của Trang tử ta càng thấy rõ chủ trương để mặc cho dân sống theo «tự nhiên» của Đạo Lão. Trang tử viết đại khái như sau:
«Chân nhân biết nhẽ chân thường,
«Thường nhiên», «chí chính» am tường vân vi.
Cũng vì vậy nên chê ngụy tạo,
Ghét những điều đánh tráo, lộn sòng.
Chân liền ngón chạnh, bướu sưng,
Ấy đâu có phải của chung con người.
Cũng một lẽ, hán hài cổn mãng,
Với những điều mô phạm nghĩa nhân.
Cùng là lễ nhạc, gian trần,
Ấy đâu có thuộc chân tâm con người.
Kìa Sư Khoáng vẽ vời tơ trúc,
Nọ Ly, Chu háo hức xiêm y,
Sử, Tăng bày chuyện lễ nghi,
Mặc, Dương biện bác thôi thì trăm khoanh.
Thế đâu phải nhân tình chất phác,
Toàn là điều bôi bác bên ngoài.
Le le cổ ngắn lẽ trời,
Hạc kia dài cổ cũng thời tự nhiên.
Dài hay ngắn bớt thêm đều khổ,
Phá tự nhiên phá vỡ lòng ai.
Keo sơn, qui củ bên ngoài,
Chẳng qua vá víu nhất thời ích chi...

Bình chương này, Duvendak cho rằng về phương diện chính trị, đạo Lão phản văn hóa.[19] Wieger cho rằng Lão tử muốn cho dân chúng trở thành những con vật siêng năng cần cù, dễ bảo.[20]

Những lời phê bình như vậy hơi quá đáng, vì thực ra Lão tử muốn điều hay cho dân, chứ không muốn điều dở cho dân; muốn cho dân sống yên vui chứ không muốn lợi dụng dân.
Trở về lối sống hồn nhiên nguyên thủy, Lão Trang không cho đó là phục cổ, mà là phục hồi lối sống thiên nhiên của con người.
Phục cổ theo Lão trang có nghĩa là đem áp dụng những chính sách, những lễ nghi, những pháp độ của các vua chúa xưa vào đời sống dân ngày nay. Điều đó Lão cũng như Trang và nhất là Trang không hề cổ súy. Trang thì cho rằng «lễ nghi pháp độ biến thiên theo thời gian» nên người nay không thể theo pháp độ người xưa.[21]
Chúng ta chỉ có thể nhận xét rằng từ khi Lão tử chủ xướng những quan điểm trên về chính trị đến nay, chưa có một triều đại vua chúa nào ở Trung Hoa dám đem ra mà áp dụng.
Chẳng những vua chúa không theo nổi Lão tử, mà chính ngay khi đạo Lão cực thịnh vào đầu đời Tam Quốc với những nhà lãnh đạo nổi tiếng như Trương Lỗ 張 魯, Trương Giác 張角, Trương Bảo 張 寶, Trương Lương 張 梁, Trương Tu 張 修, với những vùng đất lớn lao đã được đặt dưới tầm ảnh hưởng như vùng Hán Trung, với một số giáo dân lớn lao, ta thấy các nhà lãnh đạo tinh thần đạo Lão lúc ấy cũng hoàn toàn đi vào hữu vi, hữu tướng với một giáo hội có hệ thống tổ chức, có nhiều loại cán bộ, có binh lực, có lễ nghi, có kinh kệ, có bùa chú, có đóng góp, hội hè, v.v. [22]
Xem thế đủ biết, muốn đem nhân loại ra khỏi trào lưu lịch sử thực là một điều không thể làm được.

[1] Câu: Hư kỳ tâm, thực kỳ phúc 虛 其 心 實 其 腹 nhiều người thường tách ra, để hướng về phía tu dưỡng. Sách Đông du bát tiên 東 遊八 仙 viết: «Phép sống lâu chẳng có lạ gì, lòng phải trống mà bụng phải đặc. Chung Ly nguyên soái hỏi: Xin ông cắt nghĩa cho rành. Ông ấy nói: Trong lòng đừng lo việc gì cả, để cho thư thái như không, ấy là trống lòng. Còn đừng theo việc sắc dục, dưỡng tinh thần, nguyên khí chẳng hao, gọi là đặc bụng.» (tr. 27)
[2] Hoài Nam tử 淮 南 子 (quyển 1, chương 11b) có một đoạn tương tự: «Thị cố chí nhân chi trị dã yểm kỳ thông minh, diệt kỳ văn chương, y đạo, phế trí, dự dân đồng xuất vu công chính, ước kỳ sở thủ, quả kỳ sở cầu, khử kỳ dụ mộ, trừ kỳ thị dục, tổn kỳ tư lự.» 是 故至 人 之 治 也 掩 其 聰 明, 滅 其 文 章, 依 道, 廢 智, 與 民 同 出 于 公 正, 約其 所 守, 寡 其 所 求, 去 其 誘 慕, 除 其 嗜 欲, 損 其 思 慮.
[3] Trước kia tôi dịch mấy câu này theo xu hướng tu dưỡng như sau:
Lối đường hiền thánh khó theo,
Rảnh rang niềm tục, chắt chiu niềm trời.
Bỏ ham muốn thảnh thơi hồn phách,
Lo tài bồi cốt cách thiện lương.
Lưu Nhất Minh 劉 一 明 trong Chu Dịch Xiển Chân 周 易 闡 真, chương Văn Vương Hậu Thiên Bát Quái 文 王 後 天 八 掛, cũng giải như vậy.
[4] Thái Hạo 太 昊 = Phục Hi 伏 羲. Hoàng 皇 = Bá Hoàng 伯 皇. Trung 中 = Trung ương 中 央. Đại Đình 大 庭, Lật Lục 栗 陸, Chúc Dung 祝 融, Hiên Viên 軒 轅, Ly Súc 驪 畜, Thần Nông 神 農, Phục Hi 伏 羲, Hách Tư 赫 胥, Bá Hoàng 伯 皇, Trung Ương 中 央, Dung Thành 容 成.
[5] Nam hoa kinh, chương 10, Khư khiếp 胠 篋, đoạn C.
[6] L’homme très peu conscient de lui-même qui ne se dirige pas dans la vie par ses propres initiatives conscientes, le primitif, enfant de la nature, vit en harmonie inconsciente avec les archétypes. Son moi est cependant très réduit, de telle sorte que toute son individualité n’est pas différenciée de la collectivité. Sa responsabilité en est diminuée pour autant. C’est vers cet état, alors que les forces du moi sont très réduites alors que celles de l’inconscient sont très importantes, que tend souvant la nostalgie de l’homme civilisé. Il voudrait se libérer de ses responsabilités et-dit-il, ne plus être obligé de penser. Il voudrait retourner «à la nature» et il imagine une existence paradisiaque dans laquelle il n’a pas mordu encore au fruit amer de la connaissance. — Ernest Aeppli, Psychologie du Conscient et de l’Inconscient, Payot Paris, 1953, p. 60.
[7] Xem Nam hoa kinh, chương IX, C, D.
[8] Đạo Chích: Tên một người ăn trộm nổi tiếng.
[9] Tên một người hiền cuối đời Ân. Bá Di và em là Thúc Tề không thần phục nhà Chu, đã nhịn đói cho đến chết ở núi Thủ Dương.
[10] Nam hoa kinh, chương VIII, Biền mẫu 駢 拇, C, và D.
[11] Ly Châu 離 朱: tên người thợ vẽ đã nghĩ ra văn vẻ, trang hoàng.
[12] Công Thùy 工 倕: tên của một người giỏi về lễ nhạc.
[13] Sử 史, Tăng 曾: Sử Thu 史 鰍 và Tăng Sâm 曾參, tên hai người giỏi về lễ, nhạc.
[14] Dương: Dương Chu 楊 朱, triết gia thời Xuân thu.
[15] Mặc: Mặc Địch 墨 翟, triết gia thời Xuân thu.
[16] Nam hoa kinh, chương X, Khư khiếp, B.
[17] Xem thêm Nam hoa kinh, chương XI, Tại hựu, B.
[18] Cổ chi thiện vi đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi 古 之 善 為 道 者 非 以 明 民 將 以 愚 之 .
[19] Dans son application politique, le Taoïsme est donc anti-culturel. Duvendak, Tao To King, Adrien Maisonneuse, 1953, p. 9.
[20] Faites des hommes, des bêtes de travail productives et dociles, veillez à ce que, bien repus, ils ne pensent pas, ne sachant rien, les hommes n’auront pas d’envies, ne coteront pas de surveillance, et rapporteront à l’État. -- Léon Wieger, Les Pères du Système Taoïste, Cathasia, 1950, p. 20, commentaires.
[21] Cf. Nam hoa kinh, chương XIV, Thiên vận 天 運, D.
[22] Xem Henri Maspero, Le Taoïsme, Civilisation du Sud S. A. E. P. Paris, 1950, p. 149-184.

Thứ Bảy, 18 tháng 3, 2017

TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG


Phạm Công Thiện dịch




Khắp thế giới không ai còn lạ gì tên tuổi Krishnamurti. Từ nửa thế kỷ nay, Krishnamurti đã đi lang thang cô độc khắp trái đất, đã kêu gọi mọi người giải phóng khỏi mọi nô lệ ràng buộc trong đời sống đau thương này.Tiếng nói của Krishnamurti là tiếng nói lặng lẽ của một con người đã tự giải phóng bản thân, của một con người đã trải qua tất cả mọi đau đớn không cùng, đã sống một triệu mùa ở hỏa ngục, đã tự giải thoát và nhìn thấy được Thực Tại toàn diện của đời sống, ca ngợi giòng đời vô tận, ngây ngất với tiếng cười lặng lẽ của mười triệu năm hư vô trong đêm tối nặng trĩu trái đắng mật đen.


Krishnamurti đã được nhân loại nhận là hậu thân của Phật Thích Ca và Chúa Giê su; Krishnamurti đã được mấy trăm triệu người ở thế giới tôn lên ngôi vị đấng Đạo Sư, bậc Giáo Chủ của nhân loại, thế mà Krishnamurti đã giải tán hết mọi tôn giáo, tổ chức, đã phủ nhận tất cả tín điều, đã phá hủy hết mọi triết lý và ý thức hệ, đã đập vỡ hết mọi thần tượng và, trên năm mươi năm trời đã một mình bước đi lang thang khắp nẻo đường trần gian, không tiền, không bạc, không hành lý, không gia đình, không quê hương, không truyền thống, chỉ một mình và chỉ đi một mình, cô đơn, cô độc, sống tràn trề, sống bất tận, sống vỡ bờ như một thác nước ào ạt, tuôn chảy mãnh liệt nhưng vẫn trầm lặng, nói rất nhiều mà vẫn im lặng, đi rất nhiều mà vẫn tịch nhiên bất động, gắn kết đời sống mà vẫn cưới hỏi sự chết, chết và sống giao nhau trên cung cầm thiên thu, sống và chết giao nhau trong đôi mắt sâu thẳm của Krishnamurti, trong tiếng nói thê thiết của Krishnamurti, một con người đã chết trong sự sống và đã sống trong sự chết, một con người đã không còn là con người nữa, vì đã vượt lên trên con người, đã chìm xuống tận hố thẳm của hư vô và bay cao lên đến tận đỉnh trời để trở về cuộc đời trần thế, tìm thấy Người Yêu mình trên những núi xanh lơ, tìm thấy Người Yêu mình trong dòng nước rực ngời của đại dương, tìm thấy Người Yêu mình trong con suối sủi bọt, tìm thấy Người Yêu mình trong ao nước in trời, tìm thấy Người Yêu mình trong thung lũng mây cao, tìm thấy Người Yêu mình trong cơn khói trời chiều, trong thôn xóm hoàng hôn, trong ngọn cây trắc bá, trong cổ thụ lâu đời, trong bụi cây ôm đất, trong cành lá cheo leo, trong cánh đồng nuôi chim, trong hải ngạn sóng vỗ, trong rặng dương đùa gió, trong bóng chiều mây phủ, trên dòng nước buổi chiều, dưới bóng sao, trong đêm thâu, trong ánh trăng, trong sự tĩnh mịch trước bình minh, trong tiếng ru cây lá, trong tiếng chim kêu buổi sáng…


Chúng ta hãy cùng ca với Krishnamurti bài ca tình yêu :


….Trong những hải đảo xa xôi xanh thẫm
Trên giọt sương mong manh
Trên con sóng vỡ bụi
Trên ánh nước lung linh
Trên cánh chim tung trời
Trên lá non đầu xuân
Người sẽ nhìn thấy nét mặt Người Yêu của ta
Trong đền điện linh thiêng
Trong vũ trường mê đắm
Trên nét mặt thánh thiện của tu sĩ
Trong bước đi lảo đảo của người say rượu
Nơi những gái điếm giang hồ và những trai tân trinh nữ
Ngươi sẽ gặp Người Yêu của ta.


Tôi đã giữ lại một tên người, một tên nổi hẳn lên, đối nghịch lại với tất cả những gì ám muội, khả nghi, hỗn tạp; đối nghịch lại những gì nặng nề sách vở từ chương, đối nghịch lại những gì trói buộc thúc phược; đó là tên Krishnamurti. Đây là một con người của thời đại chúng ta, một người mà chúng ta có thể nói là bậc thầy, đạo sư, người làm chủ thực tại. Ông đứng một mình một cõi. Không thể nào thấy được bất cứ người nào trên đời này đã hy sinh quên mình, từ bỏ, chối bỏ mọi sự, chối bỏ hết như là Krishnamurti đã thể hiện trong đời sống ông, tôi không thể nghĩ ra người nào đã có thể hành động hơn Krishnamurti, ngoại trừ đấng Christ. Căn nguyên nền tảng tư tưởng Krishnamurti rất là giản dị đến nỗi chúng ta có thể hiểu được lý do tại sao những lời lẽ hành động trực tiếp minh bạch của ông đã bị hiểu sai và đã gây ra bao nhiêu hỗn tạp đáng buồn. Loài người vẫn tầm thường như thế, họ luôn luôn chấp nhận một cách miễn cưỡng những gì có vẻ dễ hiểu giản dị. Óc ngoan cố ương ngạnh của họ còn thâm hiểm hơn tất cả mưu mẹo lừa đảo của ma quỷ, vì thế, họ đã bỏ quên, không chịu nhận ra những quyền hạn thiên phú có sẵn trong bản thể họ; họ chỉ đòi hỏi được giải thoát hay được cứu rỗi qua một trung gian môi giới nào đó; họ chỉ mải miết chạy đi tìm kiếm những người hướng dẫn, những kẻ chỉ đường dẫn lối, những vị cố vấn khuyên giải, những kẻ lãnh đạo, lãnh tụ, những hệ thống lập trường, những nghi lễ hình thức tế toái…Họ chỉ thích tìm kiếm những thứ ấy, họ chỉ muốn tìm những sự giải quyết, những đáp số, mà họ không biết rằng tất cả những đáp số đã nằm sẵn trong lòng họ rồi.Họ đặt sự học vấn trí thức lên trên cả sự thông minh tâm hồn; họ đặt quyền thế cường lực lên trên cả tài nghệ biện biệt tế nhị. Nhưng điều đáng lo ngại nhất và đáng nói trước hết là họ không chịu tự mình giải phóng giải thoát cho mình; họ không chịu cứu lấy bản thân mà cứ luôn luôn vờ vĩnh bày đặt chuyện cứu vớt thế giới, thế gian, thế nhân, vân vân. Họ bảo rằng thế giới “thế gian” phải được giải phóng trước đã, rồi mới nói chuyện giải phóng cá nhân.Thế mà biết bao nhiêu lần rồi Krishnamurti đã nhắc nhở rằng vấn đề thế giới chỉ là dính liền mật thiết với vấn đề cá nhân; cá thể và tập thể đều chỉ đồng nhất thể. Chân lý luôn luôn hiện diện, luôn luôn xuất hiện trước mặt chúng ta. Sự vĩnh cửu, bất diệt, thiên thu, vĩnh viễn nằm ngay tại đây, nằm ngay bây giờ, ngay giờ phút hiện tại. Và giải thoát ư ? Ồ, hỡi ngài, ngài muốn giải thoát cái gì ? Giải thoát bản ngã nhỏ bé bần tiện của ngài ư ? Linh hồn của ngài ư ? Diện mục của ngài ? Hãy đánh mất nó đi thì ngài sẽ tìm thấy lại mình. Đừng bận tâm lo nghĩ Thượng Đế – cứ để Thượng Đế tự lo cho Thượng Đế. Hãy tôi luyện những nghi vấn ngờ vực, hãy ôm lấy mọi thứ kinh nghiệm của đời sống, hãy tiếp tục thèm muốn khao khát, cố gắng đừng quên cũng đừng nhớ, hãy luôn luôn đón nhận và thể nhập tất cả những gì mình đã được thể nghiệm trong dòng đời tuôn chảy….


“Con người là kẻ tự giải phóng bản thân”. Phải chăng đó là đạo lý tối thượng của đời sống ? Biết bao nhiêu bậc hiền nhân trác việt đã nhắc nhở và đã thể hiện bao lần giữa lòng đời. Họ là những bậc đạo sư, những con người đã làm lễ cưới với đời sống, chứ không phải với những nguyên tắc, luật pháp, tín điều, luân lý, tín ngưỡng. “Những bậc đạo sư đúng nghĩa thì chẳng bao giờ bày đặt ra lề luật, hay giới luật, họ chỉ muốn giải phóng con người”, (Krishnamurti).


Điều làm nổi bật Krishnamurti và nói lên sự khác nhau giữa Krishnamurti và những bậc giáo chủ vĩ đại trong lịch sử là sự trần truồng tuyệt đối của tâm hồn ông. Ông chỉ giữ lại cho mình một chỗ đứng độc nhất : một con người , với ý nghĩa giản dị đơn sơ của con người.


Mang lấy xác thịt mảnh khảnh của con người, ông nương tựa trọn vẹn vào tâm linh, đồng thời ý thức rằng tâm linh và thể xác chỉ là một, không khác nhau.


Ông chỉ giữ lấy một sứ mệnh độc nhất là tước bỏ con người ra ngoài tất cả những huyền tưởng, ảo giác, phá hủy cho sụp đổ tất cả chống nạng giả tạo của những lý tưởng, những tín ngưỡng, ngẫu tượng, phá hủy tất cả mọi hình thức chống đỡ con người, để trả con người trở lại sự tôn nghiêm trọn vẹn, sức mạnh vẹn toàn của nhân tính. Người ta thường gọi ông là “Đấng Đạo Sư của Thế Gian”. Nếu có người xứng đáng được gọi danh hiệu như thế thì người ấy chính là Krishnamurti. Đối với tôi, điều quan trọng nhất trong thái độ tâm linh của Krishnamurti là ông không bao giờ muốn chúng ta coi ông như là bậc đạo sư, như một bậc thầy, mà chỉ muốn là một con người, với tất cả ý nghĩa đơn giản thông thường của hiện thể.
(Henry Miller)

Thứ Sáu, 17 tháng 3, 2017

TỤC BẠC



Thà rằng sống nghĩa nhân, mà không biết nghĩa nhân là gì, còn hơn nêu cao chiêu bài nghĩa nhân, mà lại sống bất nhân, bất nghĩa.
Thà rằng như đàn cá sống tung tăng trong nước, mà không để ý đến nước là quí, còn hơn là làm đàn cá mắc cạn thiếu nước phải mớm rãi cho nhau để tỏ tình thương nhau.[5]


TỤC BẠC
俗 薄

Hán văn:
大 道 廢, 有 仁 義. 智 慧 出, 有 大 偽. 六 親 不 和, 有 孝 慈. 國 家 昏 亂, 有 忠 臣.
Phiên âm:
1. Đại Đạo phế,[1] hữu nhân nghĩa.
Trí tuệ [2] xuất, hữu đại ngụy.
2. Lục thân [3] bất hòa, hữu hiếu từ.
3. Quốc gia hôn loạn, hữu trung thần.[4]
Dịch xuôi:
1. Đại đạo mất mới có nhân nghĩa,
Trí tuệ sinh mới có dối trá lớn.
2. Lục thân bất hòa, nên có kẻ thảo người lành.
3. Quốc gia rối loạn mới có trung thần.
Dịch thơ:
Đạo cả hết, đạo huyền đồng hết,
Mới lan tràn học thuyết nghĩa nhân.
Trí sinh, trá ngụy sinh dần,
(Dân gian còn biết thiên chân là gì !)
Tình gia tộc một khi suy giảm,
Hiếu từ sinh trong đám cháu con.
Quốc gia gặp lúc ám hôn,
Trung thần xuất hiện, giang sơn ly loàn.

BÌNH GIẢNG

Lão cũng như Trang, chủ trương sống thuận theo tự nhiên «không làm sai thực tính của tính mệnh», không bỏ mất «thiên chân», không bỏ mất lẽ thường nhiên ở đời.
Muốn được vậy phải tránh mọi chuyện hữu vi giả tạo, dầu sự hữu vi giả tạo ấy là lý tưởng nghĩa nhân.
Thà rằng sống nghĩa nhân, mà không biết nghĩa nhân là gì, còn hơn nêu cao chiêu bài nghĩa nhân, mà lại sống bất nhân, bất nghĩa.
Thà rằng như đàn cá sống tung tăng trong nước, mà không để ý đến nước là quí, còn hơn là làm đàn cá mắc cạn thiếu nước phải mớm rãi cho nhau để tỏ tình thương nhau.[5]
Trang tử, trong thiên Mã đề, đã viết như sau: «Thời xưa dân sống tự nhiên, theo tính tự nhiên.» Mọi người đều canh cửi lấy áo mặc, cầy bừa lấy lúa ăn. Họ sống kết thành một hồn khối duy nhất không hề chia ly, thuận theo tính tự nhiên.
Thời buổi tự nhiên thuần túy ấy, mọi người đi lại rong chơi phỉ chí, ngắm cảnh mặc tình, chẳng có phép tắc nào chi phối dáng đi điệu đứng, lối nhìn của họ. Thời ấy, trên núi không có đường ngang, lối ngách, không có hầm hồ; dưới nước không có thuyền, đập. Muôn vật đua sinh, chung sống. Cho nên có thể buộc thú vật dắt đi chơi; tổ quạ, quẹt có thể trèo lên xem mà không hại. Thời ấy, người chung sống với vật và chưa có chuyện kỳ thị quân tử tiểu nhân. Tất cả đều sống hồn nhiên thuần phác, vui theo tính trời.
«Kịp đến thánh nhân cặm cụi làm nhân, tập tễnh làm nghĩa, mà thiên hạ mới mất tự tin; lan man làm nhạc, khúm núm làm lễ, mà thiên hạ mới chia ly...» [6]
Như vậy tức là ở đời «một phép lập, là một tệ sinh». Cũng một lẽ, óc chất càng mở mang, con người càng trở nên sảo trá.
Gia đình có đảo điên thì mới có sự phân biệt ai là hiếu tử, ai là ngỗ nghịch. Quốc gia có hôn loạn, thì mới có sự phân biệt giữa trung thần và nghịch tặc.
Do đó nhà nào có người hiếu tử là dấu hiệu nhà đó đã suy vi, không có tinh thuần; nước mà đã có trung thần tức là nước đã loạn ly, lòng dân đã kẻ Tần người Sở chia phôi.
Như vậy, theo Lão tử, lịch sử loài người đã suy vi dần từ một thời hoàng kim, còn người đã dần dần bước xuống thời bạc, đồng, sắt, thép, loạn ly, ngụy tạo. Chính vì thế mà Hà Thượng Công đã dùng hai chữ «Tục bạc» mà gọi chương này. «Tục bạc» là phong tục một ngày một trở nên phù phiếm bạc bẽo.

Sự sa đọa ấy đã được Trang tử mô tả:

«Thời thượng cổ là thời đạo đức,
Thời Đại Đình, Lật Lục, Chúc Dong,
Hiên Viên, Ly Súc, Thần Nông.
Phục Hi, Hách Tự, Hoàng,[7] Trung [8] Dung Thành.
Thời buổi ấy thanh bình an lạc,
Và chúng dân thuần phác ung dung.
Thắt thừng, bện lõi mà dùng,
Ăn ngon, mặc đẹp chưa từng xốn xang.
Thời buổi ấy làm bang giáp cạnh,
Tiếng gà kêu, chó cắn đều nghe,
Tuy không cách trở sơn khê,
Nhưng không tiếp xúc đi về với nhau.
Thời buổi ấy đâu đâu cũng trị,
Sống yên bình đến thế thời thôi...
Ngày nay, người chạy theo người,
Thoạt nghe hiền thánh, là sôi lên tìm.
Đùm cơm gạo, đi xem cho thỏa,
Bỏ thân tình, bỏ cả việc quan.
Xe xe, ngựa ngựa miên man,
Trước sau nô nức từng đoàn kéo đi.
Thích khôn khéo, thích nghe khôn khéo.
Nên loạn ly trăm nẻo phát sinh,
Càng khôn, càng loạn nhân tình,
Càng khôn ngoan lắm, điêu linh càng nhiều.
Càng cung nỏ, càng điều dò bẫy,
Thời chim trời càng sẩy, càng sa.
Cành nhiều mồi, lưới, đó, lờ,
Thời thôi cá nước những lo cùng phiền.
Càng cạm bẫy, lưới, ken, ke, lẫy,
Thời thú rừng càng thấy lao lung.
Lọc lừa, trí trá càng tăng,
Càng nhiều biện thuyết, nhố nhăng càng nhiều.
Thiên hạ thích tìm điều chẳng biết,
Điều biết rồi lại xếp một bên,
Tưởng là không phải chê liền,
Tưởng là đã phải một niềm chấp nê.
Ấy vì thế sinh bè sinh đảng,
Thế cho nên sinh loạn, sinh ly.
Làm cho nhật nguyệt mờ đi,
Làm cho sông núi tinh huy giảm dần.
Làm sâu bọ phong trần, nhớn nhác,
Làm muông chim ngơ ngác bồn chồn,
Ghê thay là bệnh thích khôn,
Làm cho «thiên ám, địa hôn» cũng vì.
Bỏ «điềm đạm», «vô vi» bỏ hết,
Chỉ ưa điều bép xép, lăng nhăng,
Nào hay bép xép xì xằng
Là nguồn ly loạn, lố lăng xưa rày.» [9]

[1] Phế 廢: bỏ.
[2] Hà Thượng Công và nhiều bản khác viết: Trí huệ 智 惠.
[3] Lục thân 六 親: cha mẹ, chú bác, anh em.
[4] Bản Phó Dịch đổi là «hữu trinh thần» 有 貞 臣. -- Bản Quảng Minh 廣 明 (đời Đường Hi Tông 唐 僖 宗), sau mỗi vế trên, lại có thêm chữ yên 焉; tức là sau các chữ phế 廢, xuất 出, hòa 和, loạn 亂, đều có chữ yên 焉.
[5] Xem Nam Hoa kinh, Nhượng Tống dịch, tr. 245.
[6] Trang tử, Nam Hoa kinh, chương IX, Mã đề, đoạn B, và C.
Xem Nhượng Tống dịch, Nam Hoa kinh, tr. 170.
Xem Wieger, Les Pères du Système Taoïste, tr. 275.
[7] Hoàng: Bá Hoàng 伯 皇.
[8] Trung: Trung Ương 中 央.
Đại Đình 大 庭, Lật Lục 栗 陸, Chúc Dung 祝 融, Hiên Viên 軒 轅, Ly Súc 驪 畜, Thần Nông 神 農, Phục Hi 伏 羲, Hách Tư 赫 胥, Bá Hoàng 伯 皇, Trung Ương 中 央, Dung Thành 容 成.
[9] Phỏng dịch chương Khư Khiếp 胠 篋, Trang từ Nam Hoa kinh, chương 10.

Thứ Năm, 16 tháng 3, 2017

KIỆM DỤC - chương 26 Đạo đức kinh



Thiên hạ mà có Đạo, thì dân chúng an bình, ngựa chiến không còn có việc dùng, phải đem về quê làm việc đồng áng.
Khi nào thì gọi là nước có Đạo? Nước có Đạo là khi trên dưới giữ đúng bổn phận mình, vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con; ai nấy đều lo tu tâm, ăn ở cho xứng đáng với danh nghĩa con người, yêu kính đồng loại, biết trọng nghĩa, khinh tài.

Thế nào là một nước vô Đạo? Một nước vô Đạo là một nước đã mất cương thường, trên chẳng ra trên, dưới chẳng ra dưới, ai ai cũng chỉ vụ danh, vụ lợi mà khinh nhân nghĩa. Người người khi trá lẫn nhau, bóc lột lẫn nhau, chia rẽ nhau. Trong thì cương thường đổ nát, ngoài thì không giữ được hòa hiếu với lân bang, vì thế nên sinh ra chinh chiến.

KIỆM DỤC
儉 欲

Hán văn:
天 下 有 道, 卻 走 馬 以 糞. 天 下 無 道, 戎 馬 生 於 郊. 禍莫 大 於 不 知 足. 咎 莫 大 於 欲 得. 故 知 足之 足, 常 足 矣.
Phiên âm:
1. Thiên hạ hữu đạo, khước tẩu mã dĩ phẩn. Thiên hạ vô đạo, nhung mã sinh ư giao.
2. Họa mạc đại ư bất tri túc.[1] Cữu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ.[2]
Dịch xuôi:
1. Thiên hạ có Đạo, thì ngựa dùng vào việc vun phân ruộng. Thiên hạ không Đạo, ngựa chiến sinh ngoài thành.
2. Không họa nào lớn bằng không biết đủ. Không hại nào lớn bằng muốn được của. Cho nên biết cho mình là có đủ, thời luôn luôn đủ.
Dịch thơ:
1. Trần gian mà có Hóa Công,
Ngựa hay cũng thải về đồng vun phân.
Trần gian mà mất Thiên quân,
Bên thành chiến mã hí rầm ngày đêm.
2. Nguy thay những kẻ bon chen,
(Suốt đời chẳng lửng dạ thèm khát khao).
Hại thay những kẻ vơ vào,
(Vơ vơ, vét vét biết bao giờ cùng).
Ở đời muốn được thung dung,
Nhiều no, ít đủ, ta không phàn nàn.

BÌNH GIẢNG

Thiên hạ mà có Đạo, thì dân chúng an bình, ngựa chiến không còn có việc dùng, phải đem về quê làm việc đồng áng.
Khi nào thì gọi là nước có Đạo? Nước có Đạo là khi trên dưới giữ đúng bổn phận mình, vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con; ai nấy đều lo tu tâm, ăn ở cho xứng đáng với danh nghĩa con người, yêu kính đồng loại, biết trọng nghĩa, khinh tài.
Đó là thời đại hòa, đại thuận. Thời ấy, không còn ai muốn cất giữ những dụng cụ chiến tranh, nên ngựa chiến cũng hóa thành vô dụng.
Vua Vũ Vương đã có thời thả trâu trận, ngựa chiến nơi miền núi Hoa Dương, và miền đồng Đào Lâm tỏ ý sẽ dùng văn mà cai trị, cải hoá thiên hạ, thay vì dùng võ, dùng bạo lực.[3]
Nhưng khi mà nước vô Đạo, thì chinh chiến nhiễu nhương nhân dân đồ thán, mà khi ấy thời ngay bên thành, đã thấy đầy dẫy những chiến mã.
Thế nào là một nước vô Đạo? Một nước vô Đạo là một nước đã mất cương thường, trên chẳng ra trên, dưới chẳng ra dưới, ai ai cũng chỉ vụ danh, vụ lợi mà khinh nhân nghĩa. Người người khi trá lẫn nhau, bóc lột lẫn nhau, chia rẽ nhau. Trong thì cương thường đổ nát, ngoài thì không giữ được hòa hiếu với lân bang, vì thế nên sinh ra chinh chiến.
Chung qui, chinh chiến sinh ra là vì con người không biết kiềm chế lòng dục. Ai cũng muốn vơ vét, súc tích thêm của cải; ai cũng tỏ lỏng lòng tham. Cho nên cái hay nhất cho cá nhân, cũng như cho xã hội là biết vừa lòng với số phận mình, biết vui sống trong hòan cảnh mình.
Đọc chương Đạo Đức kinh bàn về «Tri túc» này, ta lại liên tưởng đến thái độ của nho gia trong Luận Ngữ.
Đức Khổng nói: «Ăn cơm thô, uống nước lã, co cánh tay gối đầu, trong cảnh bần hàn mà vẫn vui sướng. Phú quý do bất nghĩa thì coi như mây nổi.» [4]
Đức Khổng cũng khen Nhan Hồi như sau: «Hiền thay là trò Hồi! Người ở trong ngõ hẹp với một giỏ cơm, một bầu nước. Ở cảnh ấy người ta không ai chịu cực khổ cho nổi. Thế mà trò Hồi chẳng đổi chí vui thích của mình. Hiền thay là trò Hồi.» [5]
Cụ Nguyễn Công Trứ đã hiểu được lẽ «lạc thiên tri mệnh»[6] 樂 天 知 命 hay «an phận lạc thiên» 安 分 樂 天 của Nho và Lão nên đã viết:
«Cảnh cùng thông, ai có bận chi đâu,
Mùi tiêu sái với trần gian dễ mấy.
Thơ rằng:
Hữu danh nhàn phú quý 有 名 閒 富 貴
Vô sự tiểu thần tiên 無 事 小 神 仙
Đấng anh hùng an phận lạc thiên 安 分 樂 天
So trời đất cũng nhất ban xuân ý.» [7] 一 般 春 意.

[1] Bản Hà thượng Công, bản Tống Long Uyên, bản Léon Wieger lại thêm một câu như sau: Tội mạc đại ư khả dục; Họa mạc đại ư bất tri túc; Cửu mạc đại ư dục đắc. 罪 莫 大 於 可 欲; 禍莫 大 於 不 知 足; 咎 莫 大 於 欲 得.
[2] Bản Hà thượng Công và bản Léon Wieger không có chữ hĩ 矣 .
[3] Xem Kinh Thư, Vũ Thành 武 成, tiết 2.
[4] Tử viết: «Phạn sơ tự, ẩm thủy, khúc quăng nhi chẩm chi, lạc diệc tại kỳ trung hĩ. Bất nghĩa nhi phú thả quí, ư ngã như phù vân». 子 曰: 飯 疏 食, 飲 水, 曲 肱 而 之, 樂 亦 在 其 中 矣. Luận Ngữ 論 語, Thuật Nhi 述 而, chương 7, câu 15.
[5] Tử viết: «Hiền tai Hồi dã ! nhất đan tự, nhất biểu ẩm, tại lậu hạng. Nhân bất kham kỳ ưu. Hồi dã bất cải kỳ lạc. Hiền tai Hồi dã.» 子 曰 賢 哉 回 也 ! 一 簞 食, 一 瓢 飲, 在 陋 巷. 人 不 堪 其 憂. 回 也不 妀 其 樂. 賢 哉 回 也. Luận Ngữ 論 語, Ung Dã 雍 也, chương 6, câu 9.
[6] Lạc thiên tri mệnh, cố bất ưu. 樂 天 知 命 故 不 憂 (Thánh nhân vui cái vui trời; bởi hay định mạng nên vui thập phần) Hệ từ thượng, chương 4. Xem Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê, Dịch Kinh Đại Toàn, tập III (Hạ Kinh), tr. 437.
[7] Xem Đàm Xuân Thiều, Trần trọng San, Việt văn độc bản, đệ nhị, tr. 35, bài Hành tàng.

Thứ Tư, 15 tháng 3, 2017

CÂY NGÔ ĐỒNG





Ngô đồng nức nở tháng ba
hồn quê ôm ánh dương tà dưỡng sinh
quên đời tục lụy nhục vinh
đỏ lòng thắp nén thanh minh an lành


Công cha nghĩa mẹ thác sanh
thanh âm lưu giữ trăm năm nào mòn
chân tâm dạ sắt lòng son
thụ linh trời đất ngô đồng báo tin :
" Ngô đồng nhất diệp lạc
thiên hạ cộng tri thu"

Con đường danh lợi phù du
đừng quên nguồn cội lời ru mẹ hiền

MẸ TÔI





Con ngồi chải tóc Mẹ xưa
tóc rơi từng sợi lưa thưa mây chiều
ngẩn ngơ Mẹ chỉ cánh diều
miệng cười như thủa yếm điều váy nâu


Cầm tay Mẹ nghe buốt đau
ngây thơ Mẹ hỏi những câu xót lòng
bây giờ nắng gió bão giông
lẫn trong vóc Mẹ mùa đông cuối trời

Mẹ thành con trẻ thảnh thơi
mà con muối xát rối bời trong tim
rưng rưng nhìn Mẹ lặng im
mà đau như thể muôn nghìn kiếm đao

Đôi lần Mẹ chợt nhớ... sao
phải con của Mẹ năm nào đây không?
con mừng giấu lệ vào trong
hôn trên trán Mẹ trả công ngoan nào!

Mẹ ơi ngày tháng xôn xao
chỉ xin Mẹ nhớ vui vào cùng con
nguyện cầu trời đất nước non
Mẹ tôi cứ thế- trẻ con- tôi mừng

Nga Vũ

Thứ Hai, 13 tháng 3, 2017

19 câu để đời của Lão Tử dùng làm kim chỉ nam cho cuộc sống






Lão Tử là một nhân vật chính yếu trong Triết học Trung Quốc. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông sống ở thế kỉ 6 TCN. Nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống ở thế kỉ 4 TCN, thời Bách gia chư tử và thời Chiến Quốc.
Lão Tử được coi là người viết Đạo Đức Kinh - cuốn sách của Đạo giáo có ảnh hưởng lớn. Lão Tử được công nhận là Khai tổ của Đạo giáo.
Cái tên "Lão Tử" là danh xưng kính trọng. Lão (老) có nghĩa "đáng tôn kính" hay "già". Tử (子) dịch theo nghĩa đen là "chú bé", nhưng nó cũng là một thuật ngữ chỉ một đẳng cấp quý tộc tương đương với Tử tước, cũng như là một thuật ngữ tỏ ý tôn kính được gắn với những cái tên của những bậc thầy đáng kính trọng. Vì thế, "Lão Tử" có thể được dịch tạm thành "Bậc thầy cao tuổi".


Lão Tử là bậc tu đạo hơn 3.000 năm trước, được cho là người đầu tiên thuyết về vũ trụ, ông để lại câu: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo” với ngụ ý Đạo nếu định nghĩa được thì không còn là Đạo, Lão tử không thể giảng rõ hơn được, vậy rốt cuộc Đạo là gì?
Phải chăng cái Đạo, chân lý mà ông muốn đề cập là điều to lớn, không ai có thể nói chính xác đó là gì, hay con người không xứng để nghe?
Ông để lại nhiều câu khiến người đời và hậu thế phải nghiêng mình khâm phục, người đọc tùy hoàn cảnh mỗi lần xem lại đắc thêm ý mới, có tác dụng dẫn dắt con đường tâm linh, dẫn chứng cho ý ông nói, thế nhân ai muốn định nghĩa Đạo mà ông giảng, sau một thời gian nhìn lại cũng tự thấy mình “lạc hậu”, nên không thể định nghĩa được là vậy.
1. Lo thắng người thì loạn, lo thắng mình thì bình.
2. Nếu muốn được tất cả, phải từ bỏ tất cả.
3. Hiểu người là khôn, hiểu được mình mới là khôn thật sự.
4. Nếu biết vạn vật đều thay đổi, thì bản thân không nên cố nắm giữ điều chi.
5. Ai vội vàng tiến lên phía trước đều không thể đi xa.
6. Ai muốn hiển thị mình sẽ tự làm lu mờ bản thân.
7. Ai muốn chứng thực bản thân sẽ không tự biết bản thân mình là ai.
8. Ai muốn ước chế người khác thường không tự ước chế bản thân mình.
9. Không còn sự đối chọi, ma quỷ tự tiêu tan.
10. Nếu biết nhìn vào tâm mình, anh có thể tìm thấy tất cả các câu trả lời.
11. Nhu thắng cương, tĩnh thắng động.
12. Hãy để mọi chuyện tùy kỳ tự nhiên.
13. Nếu người muốn co lại, trước hết hãy cho phép nó duỗi ra. Nếu người muốn từ bỏ, hãy cho phép nó nhảy xuất ra. Nếu người muốn có điều gì, trước hết phải cho đi thứ đó.
14. Những khởi đầu tốt đẹp thường được ngụy trang thành một đoạn kết bi thảm.
15. Chú tâm đến sự công nhận của người khác rồi người sẽ trở thành tù nhân của chính họ.
16. Nếu một người có thể nhận ra mình không thiếu thứ gì, cả thiên hạ đã thuộc về người đó.
17. Vô hình vô tướng là niềm an lạc nhất.
18. Bậc trí tuệ là người biết những gì mình không biết.
19. Khi bạn hài lòng đơn giản là chính mình, không so sánh hay cạnh tranh với ai, tất cả mọi người sẽ tôn trọng bạn.
Nguồn: Tinh hoa
Theo http://www.chungta.com/

Chủ Nhật, 12 tháng 3, 2017

MỘT VÙNG CỎ DẠY TRĂNG MỜ CÒN LAY





Nguyệt Thảo: quê ở An Giang ,sinh 1979 và mất ngày 13.3.2008 .

Khi cây cọ thời gian loang vào toan mùa chút bơ vơ lúc Xuân dần xa về phía cuối đường. Có một gam màu lành lạnh khẽ nhói vào tôi, để chùng xuống tiếng tơ thương về một ngày tháng Ba tê nhói vùng cỏ dại suông nẻo trăng mờ, nơi có một đóa Phù Dung vừa chợt tắt. Em đã đến bên đời, ngân lên những cung bậc yêu thương sầu muộn lắm, để nhẹ nhàng đi mà đuối cho bao hồn nhung nhớ. Tiễn em đi là những giọt lặng thầm rớt lạnh lối chia phôi ...

Thôi tóm lại.
trong bụi bờ là đất
Chẳng oan khiên
ta cũng hóa giun trùng
Có trời biết mình yêu nhau chân thật
Hóa giun trùng
cho lòng hóa khoan dung
Thôi tóm lại
hoa tàn hương cũng tận
tháng ngày đi
đổi lại
nếp nhăn về
tôi/ son phấn/ tẩy bồi/ môi mắt nhận
người tỉnh say/ đàng điếm/ giả/ chân thề
(thôi tóm lại)

Đó là em - Nguyệt Thảo, xuất hiện đầu tiên trong topic Thôi tóm lại, trên thotre.com. Những câu thơ chợt bật lên những cung bậc trầm buồn mang đầy trải nghiệm hoang vu và nước mắt. Nước mắt ấy đã từng ướt sũng trên từng nẻo lòng em qua, rồi se sắt lại, rồi kiệt khô khi đã: tôi / son phấn/ tẩy bồi / môi mắt nhận. người tỉnh say / đàng điếm/ giả/ chân thề, để rồi sau lại trở về giọt giọt rơi cho phai đi những vết u phiền của định mệnh khi em biết Hóa giun trùng/ cho lòng hóa khoan dung giữa tha nhân vốn dửng dưng và bội bạc. Bao dung bởi đời là nẻo tất nhiên phải đi qua, an nhiên là điều cần thiết để tiếp tục hành trình về cái nơi mà ở đó Có trời biết mình yêu nhau chân thật. Ôi! một cái nhìn thậm già, ngờ đâu lại thoát ra trong tâm hồn một cô gái trẻ, một bầu trời của thanh xuân xuất hiện những đám mây u ám, tín hiệu của những điều chẳng lành. Nhưng biết sao, bởi cái phát tiết của Phù Dung đã báo hiệu về một chiều cánh sã, phải chăng em đã nhận ra mình sau những tứ thơ đau:

Run tay rung phím nhạc thừa
ai rơi tiếng nấc xuống vừa khúc nhau
môi khô
ướt đoạn tình nhầu
sol buồn kiếp nọ mi sầu cõi kia
thăng trầm giữa quạnh hiu
khuya
những con chữ nhảy lên bia đá mình
cuống cuồng câu hát lời kinh
vật vờ áo ngủ
phục sinh tôi về
(karaoke buồn)

Yêu và được yêu là niềm khát khao và là hạnh phúc của nhân sinh, đó là những âm thanh đầy quyến rũ. Nhưng khi lọt vào thế giới em chỉ còn lại những âm thừa, nấc lên những cung âm nghẹn ngào đầy hiu quạnh, em đang hát hay là em đang khóc trong tiếng hát khi: môi khô /ướt đoạn tình nhầu /sol buồn kiếp nọ mi sầu cõi kia để đêm khuya bỗng bỗng vỡ òa những con chữ nhảy lên bia đá mình lạnh tê linh hồn xiêm mỏng đang lả xuống cuống cuồng câu hát lời kinh mà níu cõi phục sinh từ hút trời xa vắng trong giấc ngủ vật vờ:

Chiều giường - đo thiếu trăm năm
tôi kê gối lệch tôi nằm nghiêng lưng
chăn thu đắp mảnh lừng chừng
cao / nguyên / nhũ đỏ / thấp / rừng / rũ nâu
nghiêng đèo dốc lượn về đâu
cồn dâng mấy lớp khe sâu mấy tầng
Máu dồn da thịt nghiêng thân
tay nghiêng hứng giọt trong ngần triết / minh
đất trời nghiêng cõi bình sinh
tôi xiêm áo lại nghiêng mình tạ tôi
(Một Mình! Tôi Ngủ Nằm Nghiêng)

Tình một ngày bỏ ra đi, thôi trăm năm đó nói gì buồn vui. Đêm là nơi cõi miền ủ nuôi giấc mơ, là nơi con người được trở về với trạng thái bình yên, tái tạo lại sinh lực cho ngày sau. Đêm cũng là chứng nhân cho bao cuộc tình lãng mạn.... với da ngọt môi thơm và nồng nàn ân ái.
Thế nhưng, đêm với em lại là một cạm bẫy, cái cạm bẫy đã nuối chửng em vào đáy vực cô đơn Chiều giường - đo thiếu trăm năm/ tôi kê gối lệch tôi nằm nghiêng lưng, một không gian em lồng lộng tiếng thở dài, tiếng thịt da réo gào đòi được yêu thương chở che và dâng hiếncao / nguyên / nhũ đỏ / thấp / rừng / rũ nâu /nghiêng đèo dốc lượn về đâu /cồn dâng mấy lớp khe sâu mấy tầng giờ chỉ còn rát lạnh hơi sương đêm bủa buông vào từng ngóc ngách gối chăn . . . tất cả nghiền nát em trong sự quẫy đạp tuyệt vọng vào hoang vu tay nghiêng hứng giọt trong ngần triết / minh . Những câu lục bát vốn bình yên là thế mà bước vào cảnh giới đêm em lại bỗng trở thành những cơn lốc giật tê người. Có ai đó khi đọc những bài thơ em sẽ cho rằng nhiều những câu thơ mang sự dung tục . Thôi thì sao cũng được, tất cả đều do tâm đối cảnh. Với riêng tôi thì không, có chăng chỉ là những phút giây lòng em yếu đuối nhất khi soi mồ côi vào chính mồ côi để bật lên những câu thơ đầy tài hoa, dệt lên một bức vẽ thật đời trong thật thà tiếng nấc bơ vơ đất trời nghiêng cõi bình sinh / tôi xiêm áo lại nghiêng mình tạ tôi. Và:

thổi tro trong nhúm tro tàn
níu hoàng hôn lại trong hoàng hôn phai
lòng theo biển rộng sông dài
giòng tôi từ cõi thừa thai chảy về
chảy về chốn bỏ tôi đi
trời cho có một dậy thì ấy thôi
ơn nhau sống một lần đời
nên yêu cũng chỉ một người .... mà yêu
chút tình còn lại mang theo
chút ghen với họ
chút kiêu với lòng
nhặt ra trong mắt môi chồng
thây hồng nhan bạc phận hồng nhan/ tôi?
đời cho sống một lần thôi
sao không yêu hết / nhỡ rồi . . phải khi
một mai qua dốc xuân thì
muốn yêu nữa biết lấy gì mà yêu
nhặt chiều trong cõi hoang liêu
thấy hoang liêu tận ánh chiều dương tan
nhặt tro trong nhúm tro tàn
thấy tôi ngồi giữa bóng hoàng hôn tôi
(Thổi tro trong nhúm tro tàn)

Lòng người là một thứ dễ vỡ chưa từng thấy , mà đời thì luôn rập rình đánh tráo những yêu tin. Con đường càng đi cành một xa, nhưng đã lỡ làm kiếp người thì làm sao đứng lại. Tôi tiếc cho em đã quá cả tin vào tình đời, ngay cả khi biết đó chỉ là gian dối Hết đổ thừa em/ lại đổ thừa cho Chúa/anh hèn như con chó/ của lão ăn mày điên phải chăng em muốn mang trái tim thật thà để chuộc lỗi thế nhân chăng khi

Chẳng dựng đời nhau được
thì dựng người nhau lên
bằng dựng tình nhau trước
trái tim mình ưu tiên.
(nói với người)

Để rồi sau đó lại ngỡ ngàng khi chợt nhận ra mình bị phụ bạc, nhưng đối ngược với thái độ thường có của thế gian, em vẫn nhẹ nhàng như chẳng thể nhẹ nhàng hơn:

Đừng đổ thừa cho Chúa
cứ đổ thừa cho em
Đừng đổ thừa cho Chúa
cứ đổ thừa cho em
Đừng đổ thừa cho Chúa
cứ đổ thừa cho em . . . !
(cứ đổ thừa cho em)

Bởi em biết người đã cố đi thì chẳng mong quay về, ngày lạc nẻo chỉ còn là đêm tối, em nghe sự ra đi của những cuộc tình như nghe tiếng gió ngàn lay dỗ giấc cây khuya:

Mắt trăn trối: góc thừa vuông da thịt
mảnh tâm hồn/ cửa sổ mở sau lưng
chiều không đáy ngày vơi đi một ít
đêm nửa chừng nguỵệt khuyết bóng mông lung
Môi trăn chối : những vòng tròn vọng phụ
nụ hôn cong che rướn gáy lọc lừa
son phấn mới nhưng nồng nàn vẫn cũ
giấc ngủ vờ / thừa thãi gối chăn / khuya
Tóc trăn trối : rối ren rừng oan nghiệt
lối ngôi mòn về nhánh rẽ xa xăm
em lược trâm vẫn tím vàng da diết
mà gương mờ buồn bã hết trăm năm
(Bài trần tình thứ 5)

Tháng ngày như tấm gương phản chiếu cô đơn em: em lược trâm vẫn tím vàng da diết / mà gương mờ buồn bã hết trăm năm, nhưng khi cô đơn đã đến tận cùng cô đơn thì nó lại chuyển sang một trạng thái khác - Sự nhạy cảm chiều không đáy ngày vơi đi một ít/ đêm nửa chừng nguỵệt khuyết bóng mông lung....son phấn mới nhưng nồng nàn vẫn cũ . Em đã mang tấm gương đó soi ngược lại cô đơn mình để thấy lại những đam mê, những nhạy cảm trên vùng hoang tưởng lạnh, tưởng đã tắt giờ đây lại bời bời nham thạch:

Trùm mền
đắp mảnh thân hư
che tâm ý
tưởng hồn như loã lồ
ngỡ rằng xương thịt hư vô
chạm môi trái cấm sao ngồ ngộ :
đau
Trùm mền
ngăn khoảng đêm thâu
hương xa
gió thôỉ mùi nhau
bỗng thèm
Anh mùa đông cũng rũ mềm
ôm nhau nóng để trùm mền sưởi nhau
(trùm mền)
Nhận ra mình vẫn còn đó những mong chờ :
Người về/ về/ quạnh hiu tôi
bóng che mất bóng hình bôi khuất hình
tôi đi / đi / lặng lẽ mình
nụ sương
giọt rụng
nhuỵ quỳnh
hương rơi
Mộ tình/ Ai/ biệt giam tôi
thanh mi lòi tói
vành môi xích xiềng
mặt trời tịnh / trái tim thiền
tiếng ru tuyệt tự lời nguyền vong âm
Thảo hờn hồn cỏ xa xăm
khoé trăng tận Nguyệt mờ thăm thẳm . . . sầu
(trăng mờ cỏ dại 2)

Một cách tất nhiên, con người luôn hành động theo trái tim mình, dù biết đấy là sự thất bại. Cuộc sống cho biết những ai sống theo tình cảm thường luôn gặp trái ngang, thành công chỉ dành cho những ai làm theo lý trí. Nhưng, con người sinh ra thì đã có sẵn một trái tim rồi, mà đã là trái tim thì nó phải đập, phải bồi hồi ...Sau những gì qua đi, trong cõi trần tình em thổ lộ:

Tia mắt thu chiêu từng toan tính nhỏ
nụ cười quy cách lại những đong đo
với hồn nhiên đã một thời quá độ

tôi ngày xưa / khác hẳn Thảo bây giờ
Cũng chẳng nhớ chuyến đò nào vội vã
chở qua sông / ai / mệnh phụ lên bờ
bỏ sau lưng một đời con gái đã
năm bảy lần . . . khâu vá lại ngây thơ
(Bài trần tình thứ nhất)

Vâng! Em đã trở về khâu vá lại ngây thơ để tìm lại tiếng cười một thời đánh mất. Hạnh phúc, trên một bình diện nào đó không chỉ là yêu thương trong phạm trù cho và nhận. Nó còn là sự lắng nghe tiếng giao hòa những âm thanh cuộc sống chuyển tải vào tâm trạng để nhận dạng thực những buồn vui, rồi tổ hợp vào trong tâm thức, tái biểu hiện vào hành động. Qua những trải nghiệm về hạnh phúc, hẳn em đã thấy cuộc sống còn biết bao thứ đang chờ:

Ngày rộn ràng tôi / bữa tiệc vui
đũa đôi ngồi lại / chén ly cười
lanh chanh môi mắt y áo mới
vuông bếp lòng xanh hoa trái tươi
và ngon như chiếc bánh bông lan
những mũi dao chia miếng dịu dàng
bao nhiêu thơm ngọt vun từ thuở
cha mẹ nuôi đởi nhau chứa chan
(Chúc sinh nhật người hăm sáu)

Tôi đã thấy một Nguyệt Thảo khác hẳn Nguyệt Thảo trong cõi u phiền mộng mị, liêu trai:

Cây buồn vẫy gió buồn theo
hồn ai níu mảnh mây treo ngang trời
gió buồn rung lá buồn rơi
buồn rơi lá có về nơi cội nguồn
thuyền trôi nước đáy sông còn
nhớ bao nhiêu để sóng mòn xô nhau
khôn nguôi tóc ngủ trên đầu
xoa tay vuốt bóng dưới cầu đục trong
người xa / cách một dặm lòng
như đầu sông cách một giòng /cuối sông
chong đèn nhắc lửa thu đông
giữa chăn gối cũ giường không ấm giường
đêm này tôi lại nhìn gương
từ liêu trai có một sương phụ về
(từ liêu trai có một sương phụ về)

Mà ở đó, trong xào xạc gió Xuân reo, trong thơm nồng hương gió sớm, em trở về với em xưa, ngân nga lời hát ru ngày xuân tươi, để tay xuân trổ nụ ngần hoa trắng, nẻo sớm còn mờ hơi sương mà mắt em đã tỏa nắng ngời:

Tóc se ngôi lựa ngắn dài
hương trầm tháng chạp trâm cài tháng giêng
tay mềm chắp ngón bình yên
buồn ơi ! xin một cõi....
riêng ....đi về
Dây choàng áo ngực sân si
lưng vơi đau vết xiết ghì . . non da
thương từ trong ấy thương ra
tình như sóng tận bao la biển về
Ai đi nhặt lá bồ đề
cội trầm luân nhớ
nhánh bề bộn quên
hẹn nhau trứoc cửa môn thiền
nụ hôn nhang / khói

lời nguyên trái / hoa
Mùa xuân vẫn ở đâu xa
bình yên tôi
một món quà : tháng giêng
(Tháng giêng - Áo dây tóc nhuộm đi chùa)

Trong bốn mùa xuân - hạ - thu - đông, mùa xuân là ngắn nhất! Khi mắt người chưa kịp trong veo, khi môi cười chưa tròn nụ thắm, khi những niềm đau vừa mím miệng . . . Thì hỡi ôi xuân đã vụt qua rồi. Hình như ở một nơi nào đó trong mịt mùng tâm thức, em đã linh cảm về một ngày xuân cuối. Cái ngày xuân dành để tiễn đưa em vào giấc Hoa miên. Tôi nghe thảng thốt tiếng em, dù đã kìm nén lắm , vẫn lăn rơi những giọt buồn bên mé chia ly:

Tôi phải đi đây. ngày đã cạn
đêm đã cùng, năm tháng đã thôi
vui đã đủ, giận hờn đã chán
còn nghĩa gì mảnh xác thân hôi !
trời đất rộng, lòng tôi bỗng nhỏ
một nẻo về bốn ngõ quanh co
tàu nguợc - tàu xuôi đều đã lỡ
hồn chạnh buồn như cái chợ trưa
giữa chợ trưa lại ngồi tính sổ
vay trăm năm góp trả một đời
trả một đời tôi còn vẫn nợ
vẫn nợ nguời tôi nợ cả tôi
nên dành dụm mỗi ngày mỗi tối
nên chắt chiu từng phút từng giây
mà thời gian thì qua rất vội
chẳng kịp rồi ! tôi phải đi đây !!!!!!
Chẳng kịp rồi !
tôi phải đi đây
chẳng kịp rồi tôi phải đi đây !!!

Thật tình tôi và em như quen mà cũng chưa quen, chỉ là chút duyên sơ qua những bài thơ trên mạng. Ở đó tôi bắt gặp một Nguyệt Thảo u buồn với những câu thơ tài hoa, những phá cách trong các thể thơ, mà đặc biệt là thơ lục bát, cái cách mà em biểu đạt ... để trở thành một niềm vấn vương trước những bức tranh em vẽ bắng máu trái tim bời bời thiếu phụ.
Một đóa Phù Dung đã rủ vào giấc ngủ.....đã có nhiều tấm lòng chùng lắng hôm qua, đã có những nén hương Thơ ru em vào giấc Hoa miên, dịu lắng đi những nỗi niềm nhân thế. Tôi, vốn ít mượn lời người khác, nhưng trong tâm trạng này ngôn từ tôi bất lực, nỗi niềm xin mượn thơ của Trung niên thi sĩ Bùi Giáng thay cho nén hương lòng thắp tưởng về em:

Áo xanh

Lên mù sương, xuống mù sương
Bước xa bờ cỏ xa đường thương yêu
Tuổi thơ em có buồn nhiều
Thì xin cứ để bóng chiều đi qua
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh

À ơi! Đóa Phù Dung đã ngủ say, Trăng mờ cỏ dại còn lay bên đời...

Từ Linh Nguyên