Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2016

Hạt mầm



Trong tận cùng giấc mơ cô độc
trước cánh cửa địa ngục tối tăm
tôi chợt nhận ra ánh sáng của một hạt mầm
thứ ánh sáng bình dị của chiếc lá non tơ uống nắng mặt trời
ngậm hạt sương mai lấp lánh
hồn nhiên lắc lư như nụ cười lũ trẻ đùa vui trên cách đống bạt ngàn
gió- cỏ và tự do


Tôi nhận ra món quà cuả Thượng đế
ban cho loài người từ thuở sơ khai...

Tôi nào có dây chuyền vàng
cũng không có nhẫn kim cương
và cũng không có lời nói ngọt ngào du dương
để tặng em làm quà yêu thương

Tôi chỉ có thể tặng em
những cây bonsai mini nhỏ bé
được ươm từ hạt mầm của thượng đế phát ban
được dưỡng nuôi trong mảnh đất quá khứ cỗi cằn
với lòng hằng mong hiện tại nở hoa.

Như một giấc mơ không còn cô độc
với hạt mầm sự sống sơ khai...

Kháng cự Thơ Mới ?




Có một chút gì nông nổi và bồng bột khi những nhà văn, nhà thơ của nhóm Sáng Tạo ở Sài Gòn ngồi lại với nhau vào năm 1960 để mổ xẻ, phê phán "văn nghệ tiền chiến", trong đó có Thơ Mới. Nhiều nhận xét nặng nề, có phần cao ngạo nữa, đã được phát biểu, tuy rằng ít có dẫn chứng được phân tích thấu đáo.

Tô Thùy Yên nói: "Tôi định nghĩa Thơ Mới: sự khai triển lòng thòng của chữ "than ôi". Định nghĩa như thế, tôi không hề có ý dè bỉu sự thất vọng trong thi ca ngày hôm qua mà trái lại, tôi quan niệm mọi sáng tạo nghệ thuật trên đời đều bắt nguồn từ sự thất vọng của con người trước đời sống. Tôi chỉ muốn chê trách những người làm Thơ Mới ở chỗ họ đã than khóc về sự thất vọng của họ mà chưa biết tư tưởng về đối tượng của sự thất vọng đó (...). Thơ Mới ném những hạt bụi cay vào mắt người đọc làm cho hắn tối tăm mày mặt, phải đứng lại giữa dòng sống luân lưu, không còn phân biệt được màu đen với sắc trắng. Nó cô lập người đọc. Nó làm cho người đọc và đời sống càng xa lạ nhau thêm. Nó không phải là hình ảnh đời sống mà là ma quái, đêm nào, hiện lên mê muội người đọc yếu bóng vía" ("Nhìn lại văn nghệ tiền chiến ở Việt Nam", Tạp chí Sáng Tạo bộ mới, số 2, 1960).

Sau đó, khi Lê Huy Oanh khẳng định có sự gặp gỡ giữa Thơ Mới và thơ đương thời, thì Thanh Tâm Tuyền tranh luận: "Tôi giải thích: tại sao bây giờ còn những người cảm được những bài thơ tiền chiến của Xuân Diệu, Huy Cận, một thứ ngôn ngữ tôi xếp vào loại ngôn ngữ đã chết rồi. Lý do giản dị là ở người đọc chứ không phải ở nhà thơ. Nhà thơ đã không vượt được thời đại mà người đọc thì đã sống lùi thời đại mình" ("Nói chuyện về thơ bây giờ", Tạp chí Sáng Tạo bộ mới, số 4, 1960).

Quả là một điều nghịch lý khi cùng trong thời gian đó, ở miền Bắc cuộc phê phán Thơ Mới vẫn diễn ra quyết liệt, từ phía tả. Thơ Mới đứng giữa hai làn đạn và cả hai phía đều muốn chung thẩm nó với bản án rằng "không còn thích hợp với thời đại mới".
Sự nóng nảy của các thành viên nhóm Sáng Tạo khiến cho một người gần gũi về quan điểm nghệ thuật như Võ Phiến, tuy tán thưởng "tinh thần đổi mới đầy tự tin, đầy hứng khởi" của họ, cũng không khỏi trách cứ: "trong lối "khai tử" nền văn học tiền chiến có một cách thế kiêu căng; (...) hoặc hoa hòe hoa sói, kiểu cách ưỡn ẹo, hoặc tối tăm rối rắm" (Võ Phiến, Văn học miền Nam tổng quan, NXB Văn Nghệ, 2000, tr.232).

Nhưng cũng phải thừa nhận rằng đằng sau những phán quyết có phần dễ dãi đó có ẩn chứa những hạt nhân hợp lý. Thời đại mới, con người mới luôn luôn cần những tiếng nói nghệ thuật mới. Trân quý những tiếng nói nghệ thuật cũ không có nghĩa là mãi mãi nằm trong bóng râm và vùng từ trường của nó. Trên thực tế, văn học ở những địa bàn khác nhau của đất nước, từ cuối những năm 50 thế kỷ trước đến nay, đã có những bứt phá và đột phá mà có lẽ lúc đương thời những Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận..., dù đầy tài năng, cũng chưa thể hình dung được.

Trên địa bàn văn học miền Nam diễn ra đồng thời hai thực tế này: trong nhà trường và trong một bộ phận lớn công chúng và văn nghệ sĩ, Thơ Mới vẫn được vinh danh và ưa chuộng; nhưng trong giới sáng tác văn học bắt đầu hình thành những xu hướng cách tân tìm cách kháng cự lại ảnh hưởng của Thơ Mới. Họ từng bước giã từ thể thơ bảy chữ, tám chữ vốn là sở trường của Thơ Mới, để thể nghiệm điệu tâm hồn thời đại trong thơ tự do và thơ văn xuôi.

Ở phương Tây, vào thời chủ nghĩa cổ điển, thơ tự do được hiểu là thơ mà vận luật kết hợp một cách tự do, không cân đối đều đặn, chẳng hạn thơ ngụ ngôn của La Fontaine. Từ cuối thế kỷ XIX, do ảnh hưởng của âm nhạc đối với thơ ca, và từ thực tiễn nghiên cứu thơ tượng trưng, người ta gọi thơ tự do là thơ được giải phóng khỏi những ràng buộc của âm luật và vần thơ, chỉ còn dựa trên nhịp điệu và ý nghĩa. Bài thơ tự do vẫn tạo nên một cấu trúc toàn thể, nhưng đó không phải là cấu trúc của âm luật mà là cấu trúc ngữ nghĩa và được tổ chức nhờ sự phân bổ và liên kết những âm điệu. Nhờ sự kết hợp của những trùng điệp về ngữ âm, thơ tự do hướng đến tâm thức người đọc qua lỗ tai và hơn là qua đôi mắt. Khi những câu thơ liên kết tự do để thành khổ thơ, thì những khổ thơ cũng liên kết tự do để thành bài thơ và chủ yếu dựa trên sự mạch lạc nội tại về ngữ nghĩa.

Thơ tự do là một bước phát triển của thơ Việt nửa cuối thế kỷ XX. Nó mở rộng câu thơ, tứ thơ và làm cho cảm xúc lẫn hình ảnh trở nên khoáng đạt. Cần phân biệt thơ hợp thể với thơ tự do. Thơ hợp thể tuy đa dạng về câu thơ nhưng ít khi có câu quá tám chữ và vẫn chịu quy định về vần, nhất là vần chân. Còn thơ tự do thì không còn nệ về vần và câu thơ có thể dài ngắn không chừng, miễn là trang trải hết cảm xúc. Điều thú vị là những bài thơ mười chữ hay 12 chữ (như thơ Nguyễn Vỹ học tập kiểu thơ alexandrin 12 âm tiết của Pháp) đọc lên thấy đơn điệu, còn những bài thơ tự do đặc sắc, tuy câu thơ dài, nhưng lại đa dạng và sinh động.

Thơ tự do không phải là thành tựu của Thơ Mới, mặc dù phong trào này mở đầu bằng một bài thơ tự do đầy chất văn xuôi là bài Tình già của Phan Khôi và lịch sử của nó từng chứng kiến những nhà thơ thử nghiệm làm thơ hợp thể (Tiếng trúc tuyệt vời của Thế Lữ, Mời say của Vũ Hoàng Chương...) hay thơ văn xuôi (Kinh cầu tự của Huy Cận, Mùa thu đã tới của Hàn Mặc Tử...). Một số nhà thơ mới như Xuân Diệu thậm chí còn dị ứng với thơ tự do, nói chung là thơ không vần. Điều đó dễ hiểu, vì thơ lãng mạn thuộc về phạm trù hiện đại, còn thơ tự do gắn với siêu thực, hiện sinh... đã bước vào phạm trù duy hiện đại. Hình dung Xuân Diệu làm thơ tự do chẳng khác nào tưởng tượng ông đi xe phân khối lớn, mặc quần jeans đến diễn thuyết về thơ tình.

Như ta biết, Nguyễn Đình Thi là người sớm công bố những bài thơ tự do trong Kháng chiến chống Pháp. Ông quan niệm: "Theo tôi, những luật lệ của thơ, từ âm điệu đến vần đều là những võ khí rất mạnh trong tay người làm thơ. Nhưng không phải hễ thiếu những võ khí ấy là trận đánh nhất định thua. Thiếu võ khí ấy, trận đánh gay go thêm nhiều, nhưng người làm thơ vẫn có thể thắng" ("Mấy ý nghĩ về thơ"). Từ lâu, Lý Tử Tấn cũng cho rằng thơ là phải có luật lệ, có thể cách, nhưng "không thể lấy một luật lệ nào để hạn chế, cũng không thể lấy một thể cách nào để giữ lại".

Thật ra, thơ tự do của Nguyễn Đình Thi không hoàn toàn phá bỏ vần thơ, nên gần hơn với thơ hợp thể. Dù vậy, hoàn cảnh lịch sử và thị hiếu của công chúng vẫn không ủng hộ ông. Sau 1954, thơ tự do được các nhà thơ trong nhóm Nhân văn - Giai phẩm ưa chuộng. Nó cũng tìm được môi trường phát triển thuận lợi ở miền Nam với Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Quách Thoại, Nhất Hạnh, Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Du Tử Lê, Nh. Tay Ngàn... và cả những nhà thơ dấn thân như Diễm Châu, Ngô Kha, Nguyễn Quốc Thái, Lê Văn Ngăn... Điều thú vị là, bây giờ đọc lại, thấy thơ tranh đấu ở miền Nam giai đoạn ấy gần với thơ cách mạng của Tố Hữu về cảm hứng, tình điệu, nhưng lại gặp gỡ với thơ phản kháng của Trần Dần, Phùng Quán, Lê Đạt về hình thức hơn là Thơ Mới lãng mạn mà các tác giả từng thuộc lòng trong nhà trường.

Thơ tự do cho thấy ảnh hưởng của Thơ Mới không hẳn bao trùm thơ Việt nửa cuối thế kỷ XX. Và đây không phải chỉ là vấn đề hình thức. Sự liên kết giữa các câu thơ trong một khổ thơ, giữa các khổ thơ trong một bài thơ mới lãng mạn bao giờ cũng làm hiển lộ tính chất lô-gích nào đó. Nhưng sự liên kết đó trong thơ tự do hiện đại chủ nghĩa nhiều khi gây cho ta cảm giác phi lô-gích, hay đúng hơn là lô-gích của cái phi lý. Sự tuyển chọn của nhà thơ không dễ đoán định và nó nổi bật ấn tượng về sự lạ hóa trong sự kết hợp, đôi khi như một bức tranh siêu thực của Salvador Dali:



Đêm giao thừa thế kỷ mưa sao rơi
Mái sáng đường nằm chiêm bao biển giận dỗi
Bàn tay mây mắt trăng môi nhiệt đới
Chiến tranh còn những khoảng đất hoang
Cửa sổ đập lên cao cánh chim én mùa xuân
Ôm vào lòng bãi cỏ vườn hoa bầy sao rụng.

(Thanh Tâm Tuyền, Chim)

Thơ văn xuôi là một bước phát triển của thơ tự do. Nó được tổ chức bằng những câu văn xuôi không hạn định số chữ, liên kết thành một bài văn xuôi hoàn chỉnh. Nhưng nó vẫn không phải là văn xuôi đích thực như tùy bút, vì nó có nhạc điệu và chứa đựng những hình thức thường có ở thơ như điệp ngữ, thủ pháp song song..., những điều giúp cho người đọc dễ cảm nhận tính cấu trúc của bài thơ. Văn xuôi dựa trên nguyên tắc đối thoại, còn thơ văn xuôi là tiếng độc thoại của tâm hồn người viết. Chất nhạc là yếu tố bổ sung của văn xuôi, nhưng là yếu tính của thơ văn xuôi.

Ở phương Tây, thơ văn xuôi xuất hiện từ phong trào giải phóng câu thơ bắt đầu từ thời kỳ chủ nghĩa lãng mạn. Ở Pháp người mở đường cho thơ văn xuôi là A. Bertrand, sau đó là các nhà thơ kế tục: Baudelaire, Lautréamont, Rimbaud, Mallarmé, Maeterlinck, Breton, Michaux, R. Char. Trong khi đó, ở Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn chỉ sáng tạo ra thơ hợp thể, còn thơ tự do và thơ văn xuôi mới là bước thăm dò.

Thơ văn xuôi khác với văn xuôi trữ tình có chất thơ ở chỗ văn xuôi trữ tình không phải là một thể loại riêng biệt mà chỉ xuất hiện trong một số văn bản văn xuôi nhất định. Trong văn xuôi có chất thơ, nhà văn đem lại cho văn bản yếu tố trữ tình, yếu tố nhạc điệu. Chất thơ là khái niệm chỉ yếu tính của thơ ca khi nó thể hiện ở bên ngoài thể loại thơ, trong một bút ký (Ai đã đặt trên cho dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường), một truyện ngắn (Hương cỏ mật, Đỗ Chu), một tiểu thuyết (Thực phẩm trần gian, André Gide), một tác phẩm triết học (Zarathoustra đã nói như thế, F. Nietzsche)... Còn thơ văn xuôi trước hết là một thể thơ mà người sáng tác chọn lựa một cách có ý thức và tạo ra một hình thức ngắn, đóng kín và có tổ chức. Quá trình sáng tác thơ văn xuôi gắn liền với sự hình thành quy luật tạo cho bài thơ một tổ chức nội tại, mặc dù không dễ nói ra một cách rõ ràng những nguyên tắc của cách tổ chức này.

Tuy thơ Việt chưa có nhiều những bài thơ văn xuôi đặc sắc, nhưng thơ văn xuôi đang dần dần khẳng định như một thể thơ đáp ứng được nhu cầu bộc lộ tình cảm và thưởng thức đa dạng của con người. Chính Xuân Diệu, người dè bỉu thơ tự do Nguyễn Đình Thi trong Kháng chiến chống Pháp, đến năm 1964 đã viết hẳn một bài khẳng định thơ văn xuôi với ít nhiều dè dặt: "Trong thơ thế giới, giữa văn vần và văn xuôi, có những thể điệu trung gian: từ bút ký, tùy bút, đến thơ bằng văn xuôi, đến thơ tự do không vần, đến thơ tự do có vần, đến từ khúc, đến thơ đều đặn có vần. Trong lúc vẫn dành ưu tiên cho những điệu dễ vào trong quần chúng nhất, chúng ta cần tạo một dự trữ về hình thức nghệ thuật, đưa một số thể điệu ban đầu chưa quen thuộc dần dần đến quen thuộc với công chúng" ("Vài ý kiến về thơ văn xuôi", Báo Văn nghệ, số 88, 01-01-1965).

Những gì mà cuối những năm 40 - đầu những năm 50 Xuân Diệu phủ nhận, giữa những năm 60 Xuân Diệu xem là "dự trữ về hình thức nghệ thuật", ngày nay đã khẳng định vị trí như một thực thể văn học. Cũng trên tinh thần đó, tiếp nhận ảnh hưởng của thơ ca thế giới, hình thức thơ Việt ngày càng đa dạng với những thể nghiệm mới: thơ hai câu, thơ ba câu, thơ thị giác... Đặc biệt, gần đây xuất hiện thơ tân hình thức (New Formalism) với những tìm tòi thể nghiệm ngày càng xa khỏi những thể thơ truyền thống, với cách chọn từ, ngắt câu khác hẳn với Thơ Mới lãng mạn.

Đó là chưa kể những nhà thơ trẻ hiện nay, không thể nào chịu nổi sự du dương, mượt mà của Thơ Mới, đã không ngần ngại lấy Thơ Mới ra để mà giễu nhại.

Tất nhiên, nhờ nội lực của nó, Thơ Mới không dễ gì nao núng hay rúng động trước sự kháng cự đó. Nó đã từng bị dìm trong biển cả tao loạn, nhưng rồi theo định luật Archimède lại trồi lên. Những người yêu văn học và tiếng Việt ngày nay đọc lạiNhớ rừng, Bên sông đưa khách của Thế Lữ, Ngậm ngùi, Tình tự, Đi giữa đường thơm của Huy Cận, Nguyệt cầm, Thơ duyên, Lời kỹ nữ của Xuân Diệu vẫn thấy hay. Có điều cái hay của những bài thơ đó bao giờ cũng gắn với một đường viền lịch sử và một quầng sáng không gian văn hóa nhất định.

Trong khi đó những người làm thơ chuyên nghiệp thời đương đại không còn dễ hào hứng đặt bút viết những câu thơ có dạng như: Hôm nay lạnh mặt trời đi ngủ sớmhay Tình anh là một cơn mưa lũ... Thậm chí bây giờ họ cũng không thể đặt những nhan đề bài thơ và tập thơ như thời Thơ Mới: Gái quê, Bức tranh quê, Nghẹn ngào, Yêu đương... Điều đó có lẽ chỉ còn nơi thơ của các câu lạc bộ ở quận, huyện. Bởi đó là cái tinh khôi hồn nhiên và độc quyền của những người tiên phong mà những người đi sau, nếu lặp lại, chỉ là sự bắt chước vụng về hay thô thiển. Các nhà thơ mới hầu hết là những tài năng lớn, riêng Hàn Mặc Tử là thiên tài. Nhưng những bài thơ dạng như Em làm dáng, Nhớ chăng?, Em sắp lấy chồng... trong tập Gái quêđấy đủ nhất vừa tái bản, thì có thể bắt gặp trong rất nhiều tập thơ trung bình xuất bản hiện nay.

Đồng thời, những độc giả đương đại, tuy có thể ngâm nga Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương... và cảm nhận vẻ đẹp của nó, nhưng lại sẽ thấy "chối" khi đọc những bài thơ hôm nay đi theo con đường lãng mạn của Thơ Mới. Ý kiến sau đây của Đỗ Lai Thúy thật đáng suy nghĩ: "Thơ Mới dù thành công mỹ mãn đến đâu cũng chỉ là một hiện tượng lịch sử. Thành công của Thơ Mới có ý nghĩa tích cực nhất trong thời của nó. Nhưng sẽ là tiêu cực một khi thời của nó qua đi mà nó vẫn còn chễm chệ ở mặt tiền ngôi nhà văn học với tư cách là một hệ hình tư duy nghệ thuật" ("Thơ Mới thành công và thất bại của thành công", Tạp chíNghiên cứu văn học, số 6, 2012). Quả vậy, những hình thức thơ ca đặc sắc trong bối cảnh ra đời của nó, khi không còn hấp dẫn với hoàn cảnh mới, sẽ biết nhường chỗ cho những hình thức nghệ thuật mới đến thay thế.

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Thứ Tư, 16 tháng 3, 2016

NHỮNG CON ĐƯỜNG KHÔNG CÓ LỀ…


Những con đường không
có lề. tôi đi
đi từng bước rỗng
rang. quên hết trời hết
đất. đi không cần biết
về đâu!


ban ngày nắng chang ban
đêm sương gội. con đường không
sao có được cái lề?
để làm gì? để làm mốc giới chia
bây giờ cùng quá khứ tương lai. một
tương lai không cần kết

nối. tôi chưa đi mà đã
đến rồi! ban ngày nắng chang
ban đêm sương dội. đường đêm
sao ân cần đưa lối. cứ đi đi sẽ đến


một ngày! tôi vẫn đi những bước như
thuở ấu thơ chạy nhảy trên
đồng. mắt láo liên chuồn chuồn
châu chấu. chạy mỏi rồi ngồi
bó gối nhìn quanh. nghe vẳng bên tai
câu đồng dao câu hò câu lý. bên vành nôi
mẹ hát bao lần!


con đường đi đi rồi sẽ đến dù
con đường lề có hay không
tôi dặn dò tôi coi chừng
trái phải đã có từ muôn vạn kiếp xa xăm và


cứ thế tôi bước đi bước tiếp
những con đường
in dấu tiền nhân và trước mắt
chân trời rộng thoáng tôi đã bay lên
bằng cánh
cả trăm lần… chiều đã xuống
dần. trăng sao lên tới.
tôi trở về nhà bằng cả cánh và chân…


những con đường không có lề
ra ruộng. tôi ngoảnh nhìn mình
trẻ lại cả nghìn năm!


những sớm mai xanh những chiều thơ tung lưới
tôi gặt tin vui từ bụi cát
trong ngần? những con đường không lề
tôi đi tới. mừng có ngày
kết tụ bốn ngàn năm…


CAO QUẢNG VĂN





Y Ban với 'trò chơi hủy diệt cảm xúc'...





“Trò chơi hủy diệt cảm xúc” - cuốn tiểu thuyết thứ ba của nhà văn Y Ban đã hút người đọc vào ngay từ những dòng đầu tiên, như cách “chia quân”, “dàn trận” khi tham gia một trò chơi online.

Nhân vật chính đi sâu vào trò chơi được lập trình tinh vi, hoàn hảo: trò chơi Hủy diệt cảm xúc trực tuyến, với số tiền thưởng cho người chiến thắng là 100.000 USD.

Người đàn bà tham gia trò chơi ban đầu chỉ với mục tiêu chiếm lĩnh số tiền thưởng khá lớn. Hóa ra không phải là như vậy, khi mỗi ngày nhu cầu “chơi” lại lớn dần lên, trở thành một thói quen không thể thiếu.

Những lá thư online cứ dày lên, mỗi dòng chữ là một dòng nước trong veo thấm sâu vào những ngõ ngách bí mật nhất của tâm hồn, xoa dịu những vết xước trong trái tim người đàn bà.

Tất cả những buồn khổ, uất ức, sự nén nhịn, chịu đựng… trong đời sống chất chồng lo toan, bon chen của người đàn bà được giải tỏa, thấu hiểu và cảm thông, để có thể yên tâm khóc, cười, chia sẻ trọn vẹn với một đối tượng hoàn toàn không biết mặt.

Cho đến một ngày người đàn bà ấy nhận được bức thư báo tin mừng chiến thắng trong trò chơi Hủy diệt cảm xúc trực tuyến, liền đó là những bí mật của cuộc chơi được giải mã. Hóa ra, người đó đã trao đổi thư từ với một... phần mềm.

Và cảm xúc của người chiến thắng: “Trống rỗng. Tôi không còn một cảm xúc nào. Tôi đã tham gia trò chơi. Tôi đã giết chết những cảm xúc của mình. Tôi không còn phân biệt được đâu là thật đâu là giả. Tôi không còn nhận chân được tôi là ai”.

Tinh tế và (có phần) tinh quái, Y Ban đã dẫn người đọc đi vào một cuộc khám phá nội tâm bằng những phương tiện kỹ thuật đang ngập tràn và ngày càng trở nên thiết yếu trong cuộc sống con người: computer và internet.

Thế giới bắt đầu được dàn phẳng ra với sự hỗ trợ tuyệt vời của công nghệ, nhưng thế giới cũng bị tàn phá bởi những lệ thuộc của con người vào thứ công nghệ đó.

Đặc biệt là cảm xúc – món quà vô giá mà chỉ con người mới được tạo hóa ban tặng, đã và đang bị biến dạng, bị hủy diệt một cách lạnh lùng.

Hơn hai trăm trang sách với 10 chương có độ dài ngắn đầy chủ ý, Y Ban giữ được cho người đọc sự háo hức đến tận dòng kết thúc.

Tuy nhiên, nếu nhà văn tiết chế số lượng câu chữ ở chương thứ 9 (Những bức thư online), đồng thời đẩy đoạn kết đi được xa hơn, chứ không chỉ dừng lại một cách “an toàn” như vậy, có lẽ cảm xúc sau “hủy diệt” sẽ tái sinh mạnh mẽ hơn.

Cù Lu

Y Ban có nhiều ưu điểm, xét theo khía cạnh người cầm bút. Chị thẳng thắn và can đảm (nói ra được sự thật thì phải can đảm). Sách của Y Ban cũng có nhiều ưu điểm. Trò chơi hủy diệt cảm xúc , cũng như nhiều tác phẩm khác của Y Ban, có một điều tôi rất thích, đó là đời sống ngồn ngộn trong đó. Chi tiết sinh động, trực diện: chuyện ngoại tình, chuyện vợ chồng, chuyện cơ quan, chuyện đời… (Y Ban từng nói chị là "nhà văn của chi tiết, không phải của câu chữ"). Người viết phải là người không trốn tránh thì văn mới thẳng đuột như vậy.

Một cuốn sách “bốc mùi”

Nhưng nhiều ưu điểm không phải bao giờ cũng chắc chắn làm nên một cuốn hay.

Trả lời phỏng vấn nhà văn Nguyễn Xuân Thủy về Trò chơi hủy diệt cảm xúc , Y Ban nói, chị "không ngại để văn chương của mình có mùi… thum thủm". Thế nhưng, độc giả thì ngại. Có vẻ như văn Y Ban đã đến mức độ khiến người ta dị ứng. Diễn đạt hơi thô thiển một chút thì Trò chơi hủy diệt cảm xúc cũng là một cuốn sách rất… bốc mùi, theo nghĩa đen.

Nguyễn Huy Thiệp đưa cả phân vào văn, Y Ban cũng đưa phân. Để hủy diệt, xé nát và ném toẹt đi (có thể là ném xuống bồn cầu và xả nước) mọi cảm xúc lãng mạn lâng lâng của đời sống vợ chồng, nhà văn kể… Mà thôi, quá nhiều chi tiết, câu thoại liên quan đến phân, thuật lại lên mặt báo thì hơi mất vệ sinh.

Ngoài phân, Y Ban đưa cái trung tiện vào văn. Một cái, nhưng hiệu ứng lan tràn cả cái chương sách Đám đông mà chị vô cùng tâm đắc. Cái trung tiện là nguyên nhân để đám đông đó tụ tập. Đám đông bàn tán, thảo luận, hít thở… trong bầu không khí đó, (lại) hơi mất vệ sinh. Y Ban còn bảo rất muốn đọc to chương sách này lên. Thẳng thắn thì được, nhưng đây thì là khiếm nhã. Nhưng đoạn cuối, tác giả cho một câu khá được: "Kỳ lạ, đám đông này rất ít đàn bà. Những người đàn bà còn đang mải làm việc".

Tiếp một chương nữa mà nhà văn tâm đắc, Lại đám đông , ngay sau chương Đám đông. Một bối cảnh khác, bãi bia của đám đàn ông, "không phải là đám đông vô tích sự nhất trên đời… nhưng với những người phụ nữ thì đó là đám đông vô tích sự nhất trên đời". Nhưng, không hiểu sao tác giả cố tình để cho người chồng say rượu ở bãi bia có những hành động ve vãn những người đàn ông ngồi cùng bàn nhậu, động tác khá bẩn thỉu (dù chỉ là trong tưởng tượng của người vợ), khiến người đọc có cảm giác người viết hơi… kỳ thị đồng tính.

Thử nghiệm kỹ thuật viết
Trò chơi hủy diệt cảm xúc là một thử nghiệm của Y Ban về mặt kỹ thuật viết. Chị chơi cấu trúc, như rất nhiều nhà văn khác. Một cấu trúc theo kiểu phá phách, không có cấu trúc, hoặc cấu trúc mở, để độc giả tự cảm nhận. Theo tôi là hơi bị lệch, phần tự sự ở đoạn đầu đặc sắc thì lại ngắn, phần "thư ngoại tình" ở đoạn sau dài lê thê thì lại không hấp dẫn.


Kết bài, tôi muốn nhắc đến một đoạn văn rất đẹp trong cuốn sách "thum thủm" này. Đó là đoạn "Hàng ngày tôi đi làm qua một cây cầu" ở đầu sách. Ngày ngày nhân vật tôi đi trong một dòng xe máy "như dòng nước, xuôi xuôi xuôi xuôi". Một hôm, "tôi" nhìn thấy một cụ già ngồi bên thành cầu, nét mặt đau đớn, như khẩn cầu một lời hỏi han. Ý nghĩ "giảm ga và dừng lại" lặp đi lặp lại trong đầu "tôi". Nhưng cuối cùng, "Tôi chảy theo dòng xe cộ". Đoạn này mô tả nội tâm rất mượt và rất buồn. Vẫn rất thẳng, vẫn đau, vẫn tăm tối, nhưng một lần hiếm hoi tôi thấy văn Y Ban duyên dáng.

Mi Ly

Dư Thi Hoàn không biết làm thơ tiếng Việt


Dư Thi Hoàn không biết làm thơ tiếng Việt


Lts:
Chưa bao giờ trong cõi Việt sau thời hậu chiến nồi da xáo thịt tang thương cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI lại xuất hiện một kiểu viết Vô lối phi văn chương, dài dòng nhạt nhẽo gượng gạo như Nguyễn Quang Thiều, cụt lủn vô cảm vô tâm vô tình như Thanh Tâm Tuyền, sơ sài lòng thòng kể lể báo công xu thời như Lê Văn Ngăn, kệch cởm khệnh khạng khô khan như Nguyễn Khoa Điềm, ngô ngọng giả cầy quái gỡ đau ghẻ như Trạm In ra sa ra, tù mù hời hợt uốn éo nông cạn sơ sài như Nguyễn Bình Phương, tắc tỵ như Văn Cầm Hải, hủ nút như Hoàng Vũ Thuật và dục cảm bệnh hoạn như Vi Thùy Linh…



DƯ THỊ HOÀN VÔ LỐI NHỎ - KHÔNG BIẾT LÀM THƠ TIẾNG VIỆT

Đỗ Hoàng

Nhà thơ Dự Thị Hoàn thuộc dân tộc thiểu số, người Hoa lấy chồng Việt cư ngụ ở Hải Phòng có con trai đã vào đại học nhưng đến năm đầu thập kỷ 90 thế kỷ trước tiếng Việt còn bập bẹ. Nhiều người nói tặng chị một đôi ngọc hành chị vẫn vô tư mỉm cười vui vẻ, cứ tưởng ngọc hành là ngọc bích đeo trên cổ Từ Hy Thái Hậu(!). Sau đợt seminar thơ chị ở khóa IV trường viết văn Nguyễn Du là chị bỏ về đi buôn luôn. Từ ấy đến nay chắc chị đã bỏ hẳn văn chương.vì không thấy chị xuất hiện ở đâu.
Thỉnh thoảng có mấy nhà phê bình mậu dịch nhắc chị như là hiện tượng thơ nữ thập kỷ 90 nên tôi cũng viết vài lời phản biện!
Những năm ấy chị ra tập thơ Lối nhỏ và tốn không ít giấy mực ngợi ca chị. Nói cho đúng đó là tập VÔ LỐI NHỎ. Thơ chị rành là Vô lối, nói năng lung tung, tư duy lung tung lang tang, không đầu, không đũa. Xét về mặt thi pháp nghệ thuật thơ thì hầu như chị không biết gì về thơ Việt, tâm lý thưởng thức văn chương, tâm lý tình cảm của người Việt.
Điển hình là những bài khóc của chị. Tôi đã viết về chị với chuyên luân “ Những phác thảo thơ Dư Thị Hoàn” in trong “Tâm cảm gửi cho đời” – Nhà xuất bản Thanh Niên năm 2011
Chị viết bài khóc Nguyễn Tuân, có nhà thơ Vũ Hiển trong ceminer phê bình là: “Đem bài khóc Nguyễn Tuân đặt khóc Nguyên Ngọc thì cũng không sao. Nguyên Ngọc ngồi nghe dưới lớp mặt đỏ như gà chọi phải gượng cười vì chắc cũng thuộc phái lăng xê Dư Thị Hoàn.
Rồi bài “Mười năm tiếng khóc”- bài này nói về nỗi đau của những người Trung Quốc sống lâu đời trên đất Việt phải hồi hương do thế lực chính trị lúc bấy giờ bất hòa với nhau. Nỗi đau của người mẹ ra đi, người con ở lại, nỗi đâu không được thắp hương lên bàn thờ tổ tiên, nỗi đau chia ly, xa cách là có thật. Chỉ có nhà thơ diễn nó ra là không thật, không phải thơ ca người Việt. Nói thẳng ra là rất kém thi pháp!
“khóc cho hết hơi
khóc cho trời sập
khóc cho cột điện đổ
khóc cho tà vẹc vỡ trôi
khóc cho còi tàu im bặt
khóc cho bàn tay lái rời bỏ vô lăng
khóc cho đoàn tàu không dám lăn bánh…”

….
(Mười năm tiếng khóc – Lối nhỏ)

Hơn bảy câu có chữ khóc như dù là khóc thật nhưng chẳng có ai rơi một giọt nước mắt.
Trong khi ca dao Việt không dùng một chữ khóc nào mà muôn đời nghe vẫn rưng rưng:

“Chiều chiều ra đứng ngõ chiều
Nhìn lên mả mẹ chin chiều ruột đau!

(Ca dao Việt)

Rồi bài “Đi lễ chùa” rất được nhiều nhà phê bình mậu dịch thổi kèn ngược khen nức nở: “Trong bài thơ trên, bốn nỗi đau lớn được bốn người đàn bà đặt ra như bốn câu hỏi đang chờ lời giải đáp của mỗi độc giả. Bốn nỗi đau mang bốn gương mặt khác nhau, bốn số phận khác nhau. Bài thơ đặt ra những ý tưởng ở ngoài lời thơ những vấn đáp ở ngoài câu thơ khiến người đọc phải nội suy cái hàm nghĩa mà nhà thơ đã đặt ra…” ((Thi Hoàng & Dư Thị Hoàn – cấu trúc hiện đại với dấu ấn phương Đông – Nguyễn Việt Chiến.)
Đây là bài Vô lối dở hơn cả nói bộ văn xuôi

“Năm người đàn bà cùng ngồi trên xe ngựa/ Tay khư khư ôm đầy vật tế lễ - Câu này là một câu kể văn xuối tuy đúng nhưng rất dở vì chẳng có thông tin gì mới.

Cùng câu kể đi lễ chùa, nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp đã nâng lên thành thi tứ bất tử:

“Sáng nay đi chùa Hương
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy
Em vấn đầu soi gương”

Nó đầy chất nhạc, tính họa, tính thơ, và rất dạt dào. Còn hai câu kể của Dư Thị Hoàn thì khô như ngói, vô tinh vô cảm!
Câu tiếp: Người thứ nhất thở dài:

“Tội nghiệp nhất là người đàn bà không chồng”.

Có thật thế không? Chưa hẳn đúng!
Thời hiện đại phụ nữ không lấy chồng chỉ thích độc thân thì sao? Ngay cả thời xưa người ta coi gái có chồng cũng là cái nợ nần:

Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời gì đây
Mỗi người mỗi nợ cầm tay
Đời xưa nợ ít, đời nay nợ nhiều”

(Ca dao Việt)

Câu thứ tiếp:
Người thứ hai chép miệng:

Vô phúc nhất là người đàn bà không con

Câu này cũng không đúng với người phụ nữ Việt chứ chưa nói người đàn bà Châu Âu họ không muốn đẻ con.

Người Việt coi chồng là cái nợ rồi, nhưng cói con cũng là cái nợ tiếp theo, nếu như con bị trọng tôi, phản quốc thì càng nợ hơn nữa.

“Chồng con là cái nợ nần
Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm!

(Cao dao Việt)

Và tiếp các câu sau đều là nhưng câu nói cố làm ra vẻ triết lý vặt nhưng cái thì không chính xác, cái thì sai hoàn toàn
Việc Dư Thị Hoàn chẻ từng số phận người phụ nữ để nói về từng nỗi đau một là việc làm không nên. Vì nói và kể như thế vừa không đúng, không chính xác, vừa không thể nào kể hết.
Nói về nỗi đau của phụ nữ Thanh Tâm Tài Tử đã nói từ ngàn xưa:

(Nhân sinh nử tử thị tối khổ
Nử tử tối khổ thị kỷ thân”

(Kim Vân Kiều truyện)
Nghĩa là:
Trong cõi thế này người nữ là khổ nhất
Trong giới nữ khổ nhất là kẻ làm đĩ”

Nguyễn Du đã dịch rất hay:
“Đau dớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

(Đoạn trường tân thanh)

Nhiều người khen đứt lưỡi thơ Dư Thị Hoàn bài “Êm đềm trên ghế đá”, nào là hậu hiện đại, là đại cách tân làm mới thơ Việt, nhưng thật ra đó là một bài bẩn thỉu nhất, dung tục nhất của những kẻ du thủ, du thực :anh du côn tám thẹo, gặp chị điếm giang hồ bày da, những anh chị lấy ghế đá làm giường hành lạc, lấy công viên, mặt phố làm phòng ngủ giao hoan!

Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá
Anh không cài khuy áo ngực của em

(Êm đềm trên ghế đá)

Dù cho là ghế đá của nhà mình đi nữa, chưa nói ghế đá công viên và hè phố thì việc lẹo (giao hợp) nhau như các chú cầy đen cầy trắng nhảy tơ lấy đâu tử tế, lịch sự cài khuy áo cho giống cái sau “một phú huy hoàng rồi chập tối”!
Có người biện bác thời ấy các thành phố nhà cửa chật chội, các đôi vợ chồng phải đưa nhau ra công viên làm tình. Việc ấy trong có thể có thật, nhưng trong thi ca thì không nên khái quát nó như vậy đem ra làm bài học đạo đức phê phán giống đực!.
Cha ông ta nói bằng thơ mà nói hay hơn nhiều:

“Trách người quân tử bạc tình
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao”

(Ca dao)
Mà theo bài viết trên là đôi trai gái mới yêu nhau. Thời hiện đại yêu nhau học có thể sống thử như vợ chồng. Nhưng giao hoan trên ghế đá công viên thì chỉ có loài lục súc. Không thể khen và lăng xê những cách viết bẩn thỉu như thế này được!
Sống buông thả, lục súc như trên thì người Việt cũng đã nói và viết lâu rồi. Người ta nói bằng thơ và hay hơn nhiều, kín đáo hơn nhiều:

“Chơi cho thủng trống, long chiêng
Rồi ta sẽ lấy lập nghiêm làm chồng
Chơi cho thủng trống ta bồng
Rồi ra ta sẽ lấy chồng lập nghiêm”

(Ca dao Việt)
Dư Thị Hoàn không biết làm thơ tiếng Việt. Tuy không vô lối dài dòng nhạt nhẽo gượng gạo như Nguyễn Quang Thiều, cụt lủn vô cảm như Thanh Tâm Tuyền, sơ sài lòng thòng gượng gạo báo công xu thời như Lê Văn Ngăn, kệch cởm khệnh khạng khô không khốc như Nguyễn Khoa Điềm, tắc tỵ như Văn Cầm Hải, hủ nút như Hoàng Vũ Thuật và dục cảm bệnh hoạn như Vi Thùy Linh…nhưng cũng thuộc loại Vô lối nhỏ!

Thơ Vô lối thua vạn lần các bản dịch nghĩa thơ nước ngoài.
Nhà thơ hiện đại Pháp Saint John Perse, giải Nobel năm 1960 người chuyên viết về vũ trụ không gian nhưng vẫn gắn với đời thường. Thơ ông là những mảng phiêu diêu nhưng thường dùng những điệp vần và những khúc văn xuôi có nhịp điệu, có chất nhạc nội tâm.
Ngay cả Rene Char nhà thơ Pháp hậu hiện đại nhưng rất chuẩn nhạc điệu:

Chasseur rival tu n’a rien appris
Toi qui sans hâte me dépasses
Dans le mort que je con tredis’

(Oh la toujouis plus rose solitude)
Đỗ Hoàng tạm dịch:

Hỡi ông đối thủ đi săn, ông chẳng được gì?
Ông đừng tất bật vượt qua mặt tôi
Sự chết chóc tôi thường phủ nhận
Ôi nỗi buồn luôn mãi hồng tươi!

Dư Thị Hoàn đã đi vào cõi quên lãng hai mươi, ba mươi năm nay, không ai còn nhắc nữa.
Đáng ra thì không nên viết nhưng tôi có vài lời để thưa với độc giả là bây giờ nhiều tổ chức cả tư nhân cả công quyền lăng xê nhiều sản phẩm phi văn chương và vừa lăng xê lại Dư Thị Hoàn nên phải đành lên tiếng!

Thiết nghĩ các nhà thơ dân tộc thiểu số tiếng Việt còn nói ngọng như Phú Trạm Innasara, Dư Thị Hoàn, Y Phương... thì làm sao là người cách tân thơ Việt được. Quả là khóc hổ ngươi, cười ra nước mắt!


http://vannghecuocsong.com/vi/news/Nghien-Cuu-Ly-Luan-Phe-Binh/Du-Thi-Hoan-khong-biet-lam-tho-tieng-Viet-1636/

Thứ Ba, 15 tháng 3, 2016

Đêm tháng ba



Đêm tháng ba
vầng trăng rệu rả
sau những bó hoa làm quà
tình nhân


Lời tỏ tình rơm rạ
bén lửa thật nhanh
rồi tắt cũng thật nhanh

Gió bay tro bụi ngỗn ngang
còn đâu ngà ngọc trăng vàng kiêu sa

Đêm tháng ba
vầng trăng mù lòa nhợt nhạt
bóng ta say thất thiểu đi đâu?

Cây roi gọi sầu vung lên trừng phạt
cắt vầng trăng còn nửa dấu môi hôn
trời đất dỗi hờn trăng chẳng buồn soi
bóng cũng đi rồi
ta cạn mồ côi...

Thứ Bảy, 12 tháng 3, 2016

BÁT PHỞ BÒ, HAY LÀ CHUYỆN TỰ DO VÀ THƯỢNG ĐẾ









Một buổi sáng cuối năm, trời se se lạnh, tôi ngồi trước một tô phở bò bốc khói nghi ngút, thơm lừng. Chợt cảm thấy hạnh phúc ở đời đôi khi chỉ cần những điều thật là giản dị.

Hạnh phúc của tôi hôm ấy là sự kết hợp tinh tế giữa những sợi phở trắng mềm, nước phở thơm ngọt, một ít húng quế, ngò gai, và tất nhiên không thể thiếu những lát thịt bò nấu khéo.

Đã ăn phở thì tôi chỉ ăn phở bò, và đã ăn bò thì chỉ ăn gầu và nạm. Những miếng thịt mà khi cắn vào lập tức tràn ra thứ chất ngọt đê mê, làm tê dại từ đầu lưỡi đến tận chân răng.

Tất cả kéo dài chừng mươi phút...

Trong lúc chờ tính tiền, tôi mở điện thoại xem nhanh tin tức. Tôi hơi sững lại khi đọc thấy tin một người vừa bị giết hôm qua vì tội ăn thịt bò, ở một đất nước xa xôi nào đó. Tôi bất giác nhìn lại tô phở vừa ăn. Không còn sót lại miếng nào, tất cả đã nằm yên trong bụng. Bỗng nhiên từ dạ dày trào lên cảm giác cồn cào. Đúng hơn một cảm giác căm phẫn, khinh bỉ. Bây giờ là năm nào rồi mà có thể giết nhau vì những lý do ngu xuẩn như thế?

Thật ra, tất cả chuyện này tôi đã biết qua. Đó là một thứ tôn giáo được dựng lên cách đây trên một ngàn năm, ở một nơi vô cùng xa xôi nào đó. Tín đồ đạo này tin rằng thế giới được tạo ra bởi một Đấng tạo hóa tối cao, và, không biết vì lý do gì, họ tin rằng mỗi con bò là một đại diện của đấng tối cao ấy. Bởi thế đối với họ, con bò là một loài vật vô cùng linh thiêng. Những con bò ở đất nước xa xôi ấy được thờ cúng như những vị thần. Xúc phạm đến con bò là xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng nhất của họ. Ai cố tình xúc phạm thì tùy theo mức độ nặng nhẹ mà sẽ bị đánh roi và bắt phải đi phục dịch những con bò ở trong vùng.

Còn ai cả gan dám ăn thịt bò thì sẽ phải chịu một cái chết thảm khốc.

Người ta gọi tôn giáo này là Bò giáo (BG).

Những điều này tôi đã đọc được ở đâu đó từ rất lâu, nhưng tôi chỉ coi nó là một thứ cổ tích hoang đường và quên đi nhanh sau đó. Dù sao thì cũng là chuyện từ cả ngàn năm trước, và ở một nơi quá xa xôi để có thể ảnh hưởng đến tôi.

Cho đến hôm tôi ăn xong tô phở bò và đọc thấy cái tin nực cười nọ. Chuyện cổ tích hoang đường kia xem ra đã vượt qua được bức tường thời gian dày cả ngàn năm để đến thế giới hiện tại.

Tuy nhiên, vẫn còn bức tường không gian. Vụ giết người này xảy ra ở một xứ sở u mê chết tiệt nào đó. Còn tôi thì đang đường hoàng ăn phở bò ở một nước văn minh, dân chủ, pháp trị và thế tục. Tôi ăn thịt bò theo đúng hiến pháp và pháp luật, ai có thể ngăn cản được tôi ? Ngày mai tôi sẽ tiếp tục, tôi sẽ ăn bò kho, và hôm sau sẽ là bò né, cứ như thế...

Và tôi không phải là người duy nhất, tất cả những người xung quanh tôi đều nghĩ như thế. Có thể ăn thịt bò là một sự báng bổ ghê gớm nhất, tồi tệ nhất đối với người BG. So what?

Trong thế giới hiện đại, mọi người đều có quyền có niềm tin tôn giáo. Họ có thể tôn thờ bất kỳ cái gì họ muốn, từ những thứ cụ thể như con bò, ngọn núi, bộ phận sinh dục hay một người đã chết, cho đến những thứ do họ tự tưởng tượng ra như thần linh hay thượng đế. Đó là quyền tự do tín ngưỡng của họ.

Pháp luật bảo vệ bản thân họ, dưới dạng con người, đảm bảo cho họ thực thi quyền tự do tôn giáo. Nhưng pháp luật không bảo vệ những thứ mà họ tôn thờ. Cho dù những thứ đó đối với họ là linh thiêng, bất khả xâm phạm như thế nào đi nữa thì đó cũng chỉ là niềm tin riêng của họ. Sự linh thiêng đó không được pháp luật công nhận, và nó tuyệt đối không được dùng làm lý do để thu hẹp quyền tự do của người khác.

*

Tin tức về một người ăn thịt bò bị giết bởi một nhóm BG cực đoan rốt cuộc cũng không để lại dấu ấn gì nhiều. Một vài tờ báo chỉ nói qua loa trong mục “Chuyện lạ bốn phương”. Phần đông mọi người không quan tâm đến chuyện đó. Phần còn lại thì coi là một chuyện tiếu lâm. Suy cho cùng, ở những đất nước tối tăm ấy, nếu không bị giết vì ăn thịt bò thì người ta cũng có thể dễ dàng bị giết vì vô số lý do khác.

Một số ít người nhìn thấy trong đó một nguy cơ không thể xem thường. Nhưng không ai tin họ cả, và sự việc dần chìm vào quên lãng.

Nhiều năm sau đó, trong nước bắt đầu xuất hiện một cộng đồng BG với quy mô rất nhỏ. Trong một nền Cộng hòa thật sự, nơi mà quyền tự do tín ngưỡng là không thể xâm phạm, thì việc xuất hiện một cộng đồng tôn giáo mới không gây ra bất cứ một sự thay đổi nào trong đời sống xã hội.

Những người BG này phần lớn là người nhập cư từ nơi khác. Họ nói chung là những người khiêm tốn, cần cù, trung thực. Tôn giáo của họ đặt cho họ nhiều điều luật để trở thành những tín đồ tốt, với phần thưởng là sau khi chết được lên thiên đàng sống sung sướng hạnh phúc bên những người đồng đạo.

Cộng đồng BG này cũng rất kín kẽ về mặt tôn giáo. Họ ít khi thể hiện niềm tin của họ với người ngoài, điều đó khiến cho phần lớn người khác không hiểu gì về tôn giáo của họ. Nói đúng hơn là rất nhiều người thậm chí còn không biết đến sự hiện diện một cộng đồng BG, vì quy mô những cộng đồng này quá nhỏ và rải rác.

Nói chung là với sự xuất hiện những cộng đồng BG đầu tiên này, nề nếp xã hội vẫn không có gì thay đổi. Mỗi sáng cuối tuần tôi vẫn ra quán quen đầu ngõ làm một tô phở bò thơm lừng nghi ngút khói.

Nhưng khoảng hai chục năm sau. Mọi chuyện bắt đầu có sự thay đổi.

Nói đúng hơn là mọi việc từ từ biến đổi trong suốt hai mươi năm. Chậm chạp tới mức người ta đôi lúc không nhận ra được rằng mọi việc đang thay đổi.

Bản năng sinh tồn từ hàng trăm ngàn năm khiến con người luôn biết tự thay đổi để thích ứng với hoàn cảnh mới. Nếu sự thích ứng này diễn ra rất chậm chạp và vô ý thức, nó sẽ khiến người ta sẽ không nhận ra là hoàn cảnh đang thay đổi. Họ chỉ nhận ra khi so sánh hoàn cảnh hiện tại với hoàn cảnh trong một quá khứ đủ xa.

Ở thời điểm này, cộng đồng BG, tuy vẫn là thiểu số, nhưng đã lớn hơn nhiều so với hai thập niên trước đó. Hầu như tất cả mọi người đều quen biết một vài người BG. Trong tất cả các lớp học, các doanh nghiệp, các cơ quan đoàn thể đều có sự hiện diện của người BG. Nhiều người BG thành công trong cuộc sống, nhiều người trở thành giáo sư có tiếng, doanh nhân thành đạt, tham gia các đảng phái chính trị, v.v...

Tất nhiên, việc BG xuất hiện khắp mọi nơi bản thân nó không phải là một vấn đề. Những người thuộc tôn giáo khác, hoặc không tôn giáo nào cả, cũng có mặt ở khắp mọi nơi, thậm chí là với số lượng nhiều hơn hẳn. Khi mọi người sống chung với trong một nền Cộng hòa, thì việc một người thuộc tôn giáo này hay tôn giáo khác hay không tôn giáo nào cả không có gì quan trọng.

Cái thay đổi lớn nhất là nhận thức xã hội đối với BG. Từ chỗ hầu như không hiểu gì về BG, bây giờ người ta đã bắt đầu hiểu rằng con bò là loài vật linh thiêng đối với người BG. Và họ đã biết là không nên nói về con bò, thay tệ hơn là thịt bò, trước mặt một người BG.

Nhưng ngoài việc đó ra thì cuộc “sống chung” nhìn chung là vẫn tốt đẹp. Miễn là bạn đối xử đúng mực với người BG thì sẽ không có chuyện gì xảy ra. Bạn sẽ không dọn món thịt bò khi mời một người BG đến nhà ăn tối, và bạn sẽ không nói về niềm đam mê của bạn với món phở bò trước mặt họ.

Về phần người BG, họ cũng đối xử với người khác trong tinh thần tôn trọng. Chẳng hạn nếu được mời đi ăn cưới và trong số các món ăn có món thịt bò, họ sẽ không phàn nàn gì cả, chỉ đơn giản là không đụng đũa vào món thịt bò. Và họ ăn tất cả các món khác như không có chuyện gì xảy ra.

Nhìn chung, người BG hòa nhập rất tốt vào xã hội. Họ đã cho thấy BG là một tôn giáo ôn hòa, hướng thiện, vị tha, và hoàn toàn tương thích với khái niệm Cộng hòa.

Đến thời điểm này, cuộc sống xã hội tuy có nhiều thay đổi, nhưng mỗi sáng cuối tuần tôi vẫn có thể ra quán quen đầu ngõ làm một tô phở bò thơm lừng nghi ngút khói...

*

Lại thêm hai chục năm.

Thế giới lúc này có phần hỗn loạn. Kinh tế sa sút, chiến tranh triền miên. Một số nhà độc tài bị lật đổ, các phe phái nổi lên nội chiến, đất nước tan hoang, khói lửa ngất trời.

Trong các phe phái đang hăng tiết đánh nhau, nổi lên các phe theo chủ nghĩa BG cực đoan. Gọi là “các phe” vì BG không phải là một thể thống nhất, mà gồm nhiều khuynh hướng khác nhau. Tuy tất cả đều dùng cùng một quyển “Bò Thánh Kinh” làm nền tảng, nhưng cuốn kinh này không có một cách diễn giải duy nhất. Mỗi cách diễn giải khác nhau lại trở thành cơ sở để hình thành một khuynh hướng BG mới.

Cách diễn giải của các phe BG cực đoan tuy khác nhau ở một số chi tiết, nhưng tất đều đồng ý với nhau ở một chi tiết quan trọng: bò là một loài vật linh thiêng, là hiện thân của Thượng Đế, bất kỳ kẻ nào ăn thịt bò hoặc cỗ vũ ăn thịt bò đều phải chết. Và lý do của sự đồng thuận này đơn giản là vì điều đó được ghi rất rõ ràng trong cuốn “Bò Thánh Kinh”.

BG lúc này đã là một tôn giáo toàn cầu. Họ có mặt đông đảo ở hầu hết mọi nơi, kể cả ở các nước dân chủ thế tục vốn hoàn toàn không có truyền thống BG. Phần lớn BG trên thế giới theo khuynh hướng ôn hòa, họ chấp nhận sống chung với các tôn giáo khác, và chấp nhận nhìn thấy loài vật linh thiêng của họ bị ăn thịt, miễn là bản thân họ không ăn.

Nhưng những tổ chức BG cực đoan thì không nghĩ như thế, họ gọi những người BG ôn hòa là phản đồ, vì không thực hiện đúng những gì được ghi trong Kinh, cụ thể là trừng phạt những kẻ ăn thịt bò. Các tổ chức BG cực đoan này ra sức tuyên truyền kích động để cực đoan hóa người BG ôn hòa trên khắp thế giới, đặc biệt là tại những nước vô thần, nơi mà họ coi là kẻ thù của BG.

Trong lúc đó, tại nơi tôi đang ở, BG đã mang một diện mạo mới. Đó không còn là một tôn giáo kín kẽ khiêm nhường trước đây. Cộng đồng BG lúc này tiếp tục lớn mạnh hơn rất nhiều. Thay vì chấp nhận sống chung với những người không cùng niềm tin tôn giáo, họ bắt đầu tuyên truyền rằng hành động ăn thịt bò là hành động báng bổ thánh thần, là sự xúc phạm sâu sắc đến tình cảm tôn giáo của họ.

Sự thay đổi thái độ này được thực hiện một cách rất chậm rãi trong suốt mấy chục năm. Rất nhiều người đã thích nghi một cách vô thức với sự thay đổi này. Nhờ đó BG nhận được một sự ủng hộ nhất định từ chính những người không phải BG. Lý do của những người ủng hộ này đưa ra đại khái là cần phải tôn trọng tình cảm tôn giáo thiêng liêng của người khác.

Cuối cùng thì nỗ lực của người BG cũng đạt được một số thành quả. Họ đã gây áp lực để đóng cửa hàng loạt trại chăn nuôi bò và lò giết mổ. Món thịt bò bị loại ra khỏi thực đơn ở các trường học. Các nhà hàng, quán ăn cũng bắt đầu bỏ những món làm từ thịt bò.

Việc ăn thịt bò tất nhiên vẫn được luật pháp cho phép, nhưng dưới áp lực tôn giáo, nó đã trở thành một việc cấm kỵ. Hành động đi ăn phở bò đầu ngõ của tôi bây giờ đã gần như trở thành một việc bất hợp pháp. Thật ra, có muốn cũng không còn được nữa, hàng phở ấy giờ chỉ còn bán phở gà.

Minh họa: Internet

Cuối cùng, chỉ còn một nhà hàng kiên cường bám trụ, đó là “Charlie Hebdo”.

Charlie là một nhà hàng nhỏ, nhưng khá nổi tiếng vì cách chế biến rất táo bạo. Đã có nhiều người đến thử nhưng không ăn được vì không hợp khẩu vị. Nhưng Charlie vẫn có một lượng khách quen nhất định, những người này đương nhiên là rất mê các món ăn ở đây.

Thực đơn của Charlie có tất cả các loại món ăn, trong đó có cả thịt bò. Trong lúc các nhà hàng khác đã loại bỏ món bò thì Charlie vẫn nhất quyết giữ nguyên. Để làm được việc đó giờ đây họ phải tự nuôi bò và tự giết mổ. Nhưng họ vẫn quyết tâm làm, thậm chí không tăng giá tiền, chỉ để thực khách được tự do ăn tất cả những gì họ muốn, kể cả thịt bò.

Từ đó “Charlie Hebdo” thường xuyên trở thành mục tiêu phá hoại của một số kẻ BG. Mắm tôm, sơn đỏ, cứt đái, không thiếu thứ gì. Chủ nhà hàng, Charb, bị một số tổ chức BG cực đoan liệt vào danh sách kẻ thù BG cần phải tiêu diệt.

Nhưng họ vẫn tiếp tục phục vụ tất cả các món ăn, kể cả thịt bò.

Một ngày đầu tháng Giêng, trong lúc chuẩn bị mở hàng, Charb cùng một số đầu bếp và nhân viên bị một số kẻ BG cực đoan đột nhập giết hại dã man.

Đó là một cú sốc vô cùng nặng nề, tưởng chừng Charlie sẽ phải đóng cửa. Như thế sẽ không còn bất cứ nhà hàng nào phục vụ thịt bò nữa.

Nhưng không, ngay sau đó, Charlie lại tiếp tục mở cửa, phục vụ tất cả mọi thứ, kể cả thịt bò.

Một năm sau vụ thảm sát, người ta vẫn còn tranh cãi về “Charlie Hebdo”. Rất nhiều người chê bai Charlie quá dại dột, tự tìm lấy cái chết. Người khác thì bảo tự do nào cũng phải có giới hạn, ăn thịt bò là xúc phạm đến người BG thì không được ăn nữa, không phải cứ cái gì hợp pháp là được ăn. Người khác nữa thì bảo chính những người như “Charlie Hebdo” đã làm cho BG trở nên ngày càng cực đoan. Vân vân.

Với tôi thì Charlie là những người dũng cảm, họ vừa phải một mình chiến đấu bảo vệ cho tự do của tất cả mọi người trước cái thế lực tôn giáo, vừa phải chống đỡ những áp lực từ những người sẵn sàng từ bỏ tự do với hi vọng ngây thơ rằng điều đó sẽ ngăn chặn được chủ nghĩa cực đoan tôn giáo.

Khiêm Nguyễn, từ Paris

Thứ Sáu, 11 tháng 3, 2016

Nghề báo: SỰ NGHIÊM TÚC VÀ LIÊM CHÍNH, ĐỀN THIÊNG CẦN GÌN GIỮ




“Đặc thù nghề nghiệp hoặc những gì liên quan đến nghề nghiệp không cho phép bạn xẻ thân mình làm đôi. Xã hội sẽ vẫn nhìn vào bạn với tư cách là một nhà báo với ảnh hưởng có được bởi hào quang nghề nghiệp mang lại. Sự tự giám sát bản thân khi sử dụng mạng xã hội và sử dụng thông minh hẳn không thừa”.


Bộ phim tôn vinh sự nghiêm túc và xả thân của nghề báo - Ảnh: cảnh trong phim “Spotlight”
Những cuộc điện thoại dồn dập gọi tới phòng làm việc của nhóm phóng viên Spotlight, tòa soạn “The Boston Globe”. Các phóng viên gấp gáp ghi chép lời chứng và các thông tin được cung cấp từ người chứng kiến và cả từ nạn nhân những vụ cưỡng hiếp.

Khi những cảnh cuối bộ phim khép lại thì điện thoại vẫn reo, nối dài mãi như muốn nói rằng cuộc chiến với cái xấu, phụng sự cái đẹp và tìm kiếm sự thật của các nhà báo sẽ vẫn tiếp tục. Dù dai dẳng và khó khăn.

Tôn vinh sự nghiêm túc của nghề báo

Thật ý nghĩa với giới báo chí khi một bộ phim về hoạt động nghề nghiệp như “Spotlight” vừa được trao giải Oscar 2016 cho hạng mục Phim xuất sắc nhất. Xuyên suốt bộ phim là nỗ lực và sự theo đuổi công việc đầy khó khăn của các nhà báo để đưa ra ánh sáng những bí mật, những việc làm xấu xa của người có thần quyền, và hơn hết nó mang lại cơ hội cho nạn nhân, người yếu thế trong xã hội được nói lên tiếng nói của mình.

“Spotlight” là niềm tự hào cho những nhà báo chính trực và chuyên nghiệp đang ngày đêm cống hiến cho nghề nghiệp cao quý này. Nhìn trong môi trường báo chí Việt Nam, liệu bộ phim này có mang lại lời cảnh tỉnh, bài học cho những ai đang làm báo một cách qua loa, tư duy kém, thái độ thiếu lành mạnh và dễ bị cám dỗ trong môi trường báo chí còn nhiều khó khăn của Việt Nam.

Chính trực và chuyên nghiệp ngay từ những status trên mạng xã hội

“Anh này sẽ gặp phiền toái đấy!” (This guy, he’ll be in a big trouble!) - một phóng viên kỳ cựu thốt lên khi đọc được một số phát biểu của vài nhà báo Việt Nam trên trang Facebook của họ khi đưa tin về một vài sự kiện hồi những năm 2000.

Đơn giản, bởi những thông tin và ý kiến của họ ở đó lại khác với thông tin trong bài viết ký tên họ trên mặt báo chính thức. Các thông tin va đập nhau về nội dung, và thông tin trên mạng của họ có thể nóng hổi hơn, hàm chứa nhiều chi tiết rò rỉ bên lề (off the record) nhưng chưa kiểm chứng và khác hoàn toàn thông tin khi họ viết một cách chính thống.

Chẳng biết có phải để câu view, câu likes hoặc vì thông tin của họ bị biên tập cắt gọt không thể xuất hiện trên bài chính thức nên họ tìm đến mạng xã hội để xả, hay với nhiều người khác là để thể hiện.

Tại nhiều tòa báo trên thế giới, phóng viên có thể sử dụng mạng xã hội (để nhận tin, phát tin của tòa soạn, chia sẻ cuộc sống, giao lưu với bạn bè) nhưng được yêu cầu không sa đà hoặc phát ngôn những vấn đề gây tranh cãi. Phóng viên sẽ gặp vấn đề lớn về công việc nếu vi phạm quy tắc nghiệp vụ, nội quy đạo đức nghề nghiệp đã cam kết với tòa soạn. Ít thì bị nhắc nhở, nhiều thì bị sa thải.

Các tòa soạn và phóng viên nghiêm túc thực hiện vì họ hiểu rõ những việc làm trên thể hiện sự thiếu chuyên nghiệp, không tôn trọng cơ quan báo chí nơi họ công tác. Những phát ngôn của một cá nhân có thể làm ảnh hưởng tới uy tín của tờ báo bởi nó có thể bị coi là quan điểm của tòa báo, và rằng tòa báo dung túng cho phóng viên, biên tập viên của mình hành xử như vậy.

Là nhà báo, phải cung cấp thông tin trung thực với sự việc xảy ra. Trên mặt báo, bạn nói A thì trên mạng xã hội, trang cá nhân Facebook bạn cũng phải vẫn cung cấp là A chứ không thể là B đối với cùng một câu chuyện. Chưa kể có những thông tin có được qua rò rỉ off the record mà đã vội thông tin thì tức là bạn đã phá vỡ sự cam kết với nguồn tin và quy tắc kiểm chứng thông tin từ nguồn khác. (Trong những năm qua, rất tiếc là đã có nhà báo bị khởi kiện ra tòa hoặc kết án vì những gì viết ra trên mạng xã hội hoặc trên mặt báo).

 
Cần cẩn trọng ngay từ những status trên mạng xã hội - Minh họa: Internet

Có người sẽ dùng lý lẽ tự do ngôn luận, tự do thông tin để biện hộ cho những phát ngôn bạt mạng trên các mạng xã hội. Nhiều nhà báo cho rằng mình không phải là người nổi tiếng nên họ có thế giới riêng. Họ chửi bới và văng đủ thứ nơi mạng công cộng mà họ lầm tưởng là “thế giới riêng tư” có tên Facebook của họ.

Những gì họ thể hiện rất kém văn minh, khác hẳn con người thật của họ hoặc những gì họ truyền tải qua những bài viết, phóng sự truyền hình. Nhiều nhà báo ngang nhiên thách thức dư luận xã hội, cho rằng họ nhìn đa chiều và trên tầm. Các nhà báo đã nhầm cơ bản!

Với các nhà báo chân chính trên thế giới, không có nhà báo nào tung một câu status trên Facebook hay tweet trên Twitter rồi khi bị công chúng phản ứng thì biện bạch rằng anh ta đùa thôi, hoặc những người như các anh chẳng có óc hài hước gì cả. Bởi họ biết, nếu làm thế chẳng khác gì đổ thêm dầu vào lửa.

Để giải quyết tranh cãi, xung đột, nhà báo sẽ viết rõ ràng để tránh gây hiểu lầm nối tiếp hiểu lầm. Họ sẽ xin lỗi hoặc rút câu nói đó. Bạn sẽ không thấy nhà báo, phóng viên nào ngoan cố khi bị phản ứng thì viết phân trần kèm thái độ ai-đó-cho-là-hài-hước nhưng là sự hài hước đến-mức-lố-bịch được tung hô rộng rãi theo kiểu này: “À vâng, dù đến giờ vẫn chưa có ai thuê, nhưng mình vẫn công khai nhận biên tút bênh sao giá 5 củ đấy. Ai thuê không?”.

Bạn có thể dùng sự hài hước, trào phúng để mỉa mai những điều gai mắt chứng kiến và quan sát thấy trong cuộc sống xảy ra. Trước mỗi phản ứng, hãy bình tâm để nhận ra cái đúng, cái sai của mình. Một nhà báo có tư cách và chính trực không thể tiếp tục tư duy và bao biện nó chỉ sẽ chỉ thể hiện bạn ngoan cố và thiếu thông minh. Tự do ngôn luận không có nghĩa là nói không suy nghĩ. Điều này, các nhà báo Việt Nam hẳn cũng phải học.

Những lời bạn viết “chửi ai đấy, và bênh ai đấy, thời bây giờ đều có giá” có thể phản ánh đúng hiện trạng hiện nay của báo chí Việt Nam. Thật xót xa trước những biến tướng của ngòi bút, của con chữ. Các nhà báo sao lại có thể buông những câu chữ dễ dàng về bênh, về chửi và hơn thế sao lại nói đến chửi và bênh để làm giá? Nhà báo là phụng sự cái đúng, vì cái tốt đẹp bởi như lời một bạn khác nói: “Xấu trong tư duy sao đẹp trong ngòi bút”.

Những nhà báo hẳn sâu trong con người mình biết tôn trọng bản thân, sự liêm chính thì mới có thể viết được câu này: “Chỉ có tư cách là vô giá thôi”.

Sự cần thiết của Bộ Quy tắc Nghề nghiệp

Một phóng viên làm việc cho tòa báo nổi tiếng thế giới tham dự đưa tin về Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi được Đài Truyền hình Việt Nam đề nghị phỏng vấn lấy ý kiến, phóng viên này đã khéo léo từ chối: “Xin lỗi. Tôi không thể phát biểu vì tôi không đại diện cho quan điểm tòa soạn của tôi”.

Điều này cho thấy phóng viên hiểu rất rõ về quy tắc của tòa soạn. Họ làm việc nghiêm túc và tuân thủ các cam kết nghề nghiệp. Họ làm việc dưới uy tín của tòa báo, và họ cũng hiểu họ đại diện về hình ảnh cho tòa báo và cẩn trọng trong những vấn đề có liên quan tới tiếng nói chính thức của cơ quan nơi mình làm việc.

Có rất nhiều kêu ca rằng nhà báo Việt Nam thiếu tính chuyên nghiệp, cả trong nghiệp vụ và hành xử. Điều này không sai. Một lý do khiến nhà báo Việt Nam thiếu chuyên nghiệp chính là việc các tòa báo không đưa ra Bộ Quy tắc Nghiệp vụ và Đạo đức Nghề nghiệp cho phóng viên của chính tòa báo đó. Đây là những cẩm nang rất cần thiết, hơn bao giờ hết dù chỉ là những gạch đầu dòng ngắn gọn hoặc một bảng liệt kê thứ tự điều 1, 2, 3, 4 đã thông qua sự xem xét của luật sư. Nhà báo cũng hiểu rõ và tuân thủ những gì hai bên cam kết.

Cũng chính bởi những điều đó chưa được quy định trong cam kết giữa anh ta và tòa soạn. Nhà báo cần hiểu tiếng nói của anh khác tiếng nói của các cá nhân vô danh khác trong xã hội. Là nhà báo, bạn cũng muốn có thế giới riêng, nhưng đòi hỏi được sống hai cuộc sống đời thật và mạng ảo khác nhau 180 độ cũng là sự xa xỉ.

Đặc thù nghề nghiệp hoặc những gì liên quan đến nghề nghiệp không cho phép bạn xẻ thân mình làm đôi. Xã hội sẽ vẫn nhìn vào bạn với tư cách là một nhà báo với ảnh hưởng có được bởi hào quang nghề nghiệp mang lại. Bạn, với tư cách là nhà báo vẫn đang là hình ảnh, là đại diện cho tòa báo của bạn. Sự tự giám sát bản thân khi sử dụng mạng xã hội và sử dụng thông minh hẳn không thừa.

 
Là nhà báo, mỗi câu chữ bạn viết ra có sức nặng và có thể ảnh hưởng tiêu cực tới một con người... - Minh họa: Internet

Và trong lúc tòa báo của bạn chưa ra được một Bộ Quy tắc Nghề nghiệp cho phóng viên, biên tập viên của mình thì bạn hãy nhìn xung quanh, tìm kiếm những giá trị có thể giúp bạn xác lập sự liêm chính và chuyên nghiệp cho mình. Với nghề báo, một nghề mà mỗi phát ngôn, mỗi câu chữ bạn viết ra có sức nặng và có thể ảnh hưởng tiêu cực tới một con người thì công chúng ai cũng mong lắm các bạn giữ được tư cách làm báo và nhân cách con người.

Và hẳn không thừa khi lắng nghe một tiếng nói độc lập bên ngoài. Lời cảnh tỉnh cũng rất đau. Đau để thấm, để ngấm. Và vì bạn đã chọn đi tiếp con đường này, dấn thân cống hiến cho nghề nghiệp cao quý, phụng sự cho sự tốt đẹp của xã hội, chúc bạn đủ tỉnh táo để giữ được sự liêm chính và tôn trọng bản thân.

“Nghĩ về tương lai của nghề truyền thông với báo chí nước mình cũng thấy chán nhỉ, từ vụ Vingroup nuôi báo chí cho tới Hà Hồ trả tiền cho báo mạng hay facebooker, cứ nhan nhản và ai cũng coi những chuyện thuê viết, đặt hàng bài như thế là bình thường.

Đành rằng ai cũng phải kiếm tiền nhưng đám nhà báo viết bài ăn tiền như thế còn tệ hơn nhiều đám công an đứng đường lấy lộc từ người vi phạm giao thông. Là vì cái họ bán không phải chỉ là tài viết của họ mà chủ yếu là bán lòng tin của công chúng vào tên tuổi của họ hay của tờ báo...

Nghề làm báo trong một môi trường nhộn nhạo như Việt Nam chính ra là một nghề rất khó giữ đạo đức. Chỉ cần hơi có tên tuổi là sẽ có những khoản tiền dễ dàng (không nhất thiết là nhiều nhưng rất dễ), dễ được xu nịnh và mang trong mình một ảo giác về quyền lực và khả năng ảnh hưởng. Khoảng cách giữa một cây bút với một điếm bút nhiều khi cũng rất nhỏ” (FB Vũ Hoàng Linh)

Đỗ Thùy

Phật giáo muốn gì?




Pháp nạn năm 1963 mở đầu cho một sự tham dự trực tiếp của Phật giáo vào tình hình của thời cuộc gây nên do chiến tranh và sự lợi dụng chiến tranh để nắm giữ quyền hành của dư đảng ông Diệm. Lần đầu tiên, tên gọi "Phật giáo dấn thân" xuất hiện trên báo chí. Phật giáo làm chính trị chăng?

Xin bàn một chút về lý thuyết, không ra ngoài phạm vi của đề tài năm 1963. Thế nào là "dấn thân"? Năm 1963 chẳng phải là dấn thân đó sao? Như đã nói, các nhà lãnh đạo Phật giáo hồi đó luôn luôn muốn hành động của mình không rời lý thuyết để không ai. Vì vậy, dấn thân của sự kiện năm 1963 cũng như sau năm 1963 là dấn thân trên mặt trận văn hóa, không phải dấn thân vào chính trị. Dấn thân theo nghĩa đó không mới mẻ gì trong lịch sử Phật giáo. Đó chỉ là tinh thần nhập thế trong đạo Phật. Vậy thì, thế nào là xuất thế, thế nào là nhập thế?



Giáo sư Cao Huy Thuần

Phật giáo xuất thế gian, đúng vậy, nhất là đối với người xuất gia. Chùa chiền thì xây trên núi. Cách sống thì xa lánh cõi trần. "Cạo bỏ râu tóc, làm bậc sa môn, tiếp nhận lấy đạo, thì hãy rời bỏ tài sản thế gian, khất thực vừa đủ, mỗi ngày đứng bóng ăn một bữa, mỗi đêm dưới cây ngủ một lần, thận trọng đừng thêm. Làm cho người u mê tồi tệ chính là ái dục". Phật đã dạy như vậy trong Kinh 42 bài.

Mẫu mực đó đâu phải là của người dấn thân vào những tranh đấu trong xã hội? "Tu " là để giải thoát. Mà người giải thoát là người đã thấy rõ sự vật là vô ngã, vô thường. Thấy rồi thì sinh tâm nhàm chán, cắt bỏ phiền não vô minh, đoạn trừ luân hồi sinh tử. Vậy thì tại sao các ông sư thời 63 biểu tình tuyệt thực? Lý tưởng là diệt khổ, đeo thêm cái khổ chính trị làm chi? Đó là miệng lưỡi của chính quyền trong những năm 1963 để an trí các ông sư trong chùa.

Xuất thế đâu phải vậy! Lấy lý thuyết mà nói, Phật giáo nhìn thực tại dưới hai mặt: một mặt thuộc về tục đế, một mặt thuộc về chân đế, nói nôm na là cái thấy ở cấp dưới và cái thấy ở cấp cao tột.

Ở tục đế, khi chưa giải thoát, ta thấy có sinh lão bệnh tử, có khổ cần phải diệt, có niết bàn để hướng đến. Khi đã giải thoát, khi phiền não đã phá tung, nhận thức thay đổi: những thứ trước đây gọi là khổ, là sinh lão bệnh tử, thì nay được nhận ra không còn là khổ nữa. "Nếu cần sinh ra thì sinh, đến lúc già thì già, nếu phải bệnh thì bệnh, rồi khi chết thì chết". Khổ đã không thấy thì niết bàn cũng không thấy, vì ta đã sống trong đó rồi. An vui, thanh thản, vững chắc trong cái mà trước đây ta gọi là khổ. Ta rời cái thấy về khổ ở tục đế để đạt đến cái thấy về khổ ở chân đế. Và như vậy, niềm vui xuất thế gian không còn là niềm vui đối nghịch với khổ nữa, vì khổ còn đâu nữa mà đối nghịch? Khổ đã không còn thì tất cả đều không còn, kể cả không còn tu. Kinh Bát Nhã nói: "không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không thanh, hương, vị, xúc, pháp" là thế, là tất cả đều không. Sự thật thế gian đã đi sang xuất thế gian. Và vì tất cả đều không nên Kinh nói: giải thoát ra khỏi mọi khiếp sợ.


Nhưng tư tưởng Phật giáo là một tư tưởng biện chứng. Biện chứng cả trong lý thuyết lẫn hành động. Trong lý thuyết, chân đế không rời tục đế. Phải thấy cái khổ ở mức tục đế rồi mới siêu việt cái khổ ở mức chân đế. Không còn thấy cái khổ nữa ở mức chân đế không có nghĩa là không biết có khổ ở mức tục đế. Cái thấy ở xuất thế gian không có nghĩa là không biết cái thấy ở mức thế gian. Có cái này rồi mới biết có cái kia. Khi có cái kia rồi vẫn biết nhân gian còn có cái này. Cho nên xuất thế gian không rời thế gian.


Tư tưởng biện chứng đưa đến hành động biện chứng. Thấy tất cả đều không thì không còn gì là chướng ngại. Ngay đến kẻ thù cũng không còn là kẻ thù. Dưới con mắt của chân đế, kẻ thù chỉ là nạn nhân của khổ mà chính họ không biết. Thì ta phải giải khổ cho họ với lòng từ bi! Căn bản của tranh đấu bất bạo động là như vậy. Thấy kẻ thù không phải là kẻ thù, chỉ là đối phương mà tình thương của ta sẽ làm hóa giải. Không thấy được điều đó thì không hiểu được ngọn lửa Quảng Đức. Thì không thể hiểu được tại sao Vũ Hoàng Chương lại đặt tên cho bài thơ bất hủ của ông về ngài là "Lửa từ bi ". Vì ngài có cái nhìn xuất thế gian nên mới có hành động nhập thế đến mức ấy.


Giữa xuất thế và nhập thế, hai bên qua lại thong dong, không có biên giới. Tôi đọc một đoạn trong kinh Lăng Nghiêm:


"Ngài Trì Địa bồ tát bạch với đức Phật: "Con nhớ xưa làm người xuất gia, bấy giờ đường sá, sông biển, ruộng đất, núi non, tất cả chỗ ấy nơi nào có chi chướng ngại, hại cho sự đi lại và sự chuyên chở, thì con san bằng phẳng, làm cầu cống, lấp hầm hố. Siêng khó như vậy trải qua vô số kiếp. Có ai cần người mang gánh giúp thì con mang gánh trước, đến tận chỗ họ muốn rồi con để xuống, đi ngay, không lấy tiền thuê. Mãi đến thời kỳ đức Tỳ Xá ra đời, bấy giờ thế gian đói khổ lắm, con làm người gánh chở giúp, bất kể xa gần. Chỗ nào xe, đò bị mắc kẹt, thì con rán sức xô đẩy. Quốc chúa nước con lúc đó thiết trai cúng dường đức Tỳ Xá Thế Tôn, con bèn san đắp bằng phẳng đường đi để đón chờ. Khi ngài đi qua, xoa đầu con mà bảo: Hãy bình tâm địa thì thế giới đại địa đều bình".


Đó là nhập thế. Xuất thế ngay lập tức không chướng ngại:

"Nghe lời ấy, tâm trí con tức thì khai ngộ. Con thấy những đan vị cực nhỏ tạo thành thân con cùng với những đan vị cực nhỏ tạo thành vũ trụ đều bình đẳng không sai biệt. Tánh của những đan vị ấy không xúc chạm nhau, cho đến binh đao khí giới cũng đều như vậy, không hề đụng chạm lẫn nhau". Không ở đâu biện chứng xuất thế và nhập thế hiển lộ cụ thể hơn nơi con người Trần Thái Tông và Sư Trúc Lâm. Trần Thái Tông muốn gì khi bỏ kinh đô lên Yên Tử? "Ta suy đi nghĩ lại: chi bằng lui về ở chốn núi rừng, tìm lục Phật pháp để hiểu rõ việc lớn sanh tử, lấy đó để đền đáp công ơn cha mẹ, chẳng hay hơn sao?". Vua nói thêm: "Lại nghĩ sự nghiệp các bậc đế vương đời trước, thịnh suy không tường, cho nên Trẫm đến núi này chỉ cầu làm Phật, chứ không cầu gì khác". Ấy là Trần Thái Tông muốn xuất thế. Và Sư Trúc Lâm, người đã xuất thế rồi, đã ở trên non rồi, khuyên gì nhà vua? Hãy nhập thế! "Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ Hạ trở về, Bệ Hạ không về sao được. Song phải nghiên cứu nội điển, mong Bệ Hạ đừng xao lãng". Nghĩa là hãy nhập thế, nhưng hãy học xuất thế. Nếu ngày nay, ai làm vua làm quan mà biết xuất thế như vậy, cái bả quyền lực phú quý đâu còn ngậm chặt trong lưỡi! Khi vào thì làm đầy tớ cho dân cũng làm như kinh Lăng Nghiêm dặn thế, khi ra thì không vướng ngại, không thấy sai biệt, ra vào với một tâm bình đẳng.

Tôi nhắc một chút lý thuyết như vậy để làm rõ cái ý muốn đanh thép của các vị lãnh đạo phong trào Phật giáo năm 1963. Các vị ấy dấn thân vào một cuộc tranh đấu dù sao cũng dính dáng đến chính trị nhưng họ không muốn vướng mùi bùn chính trị. Trước mắt họ là tấm gương sáng ngời của các vị quốc sư trong lịch sử, vua vời đến để hỏi chuyện chính sự thì nói chính sự, nhưng nói xong thì rút về chốn núi non. Mà chuyện "chính sự" của các quốc sư ấy không phải là thứ chính trị nhỏ nhặt, đó thường là cái thế để giữ nước trường tồn, nghĩa là những nguyên lý mà tính chất văn hóa, đạo lý là căn bản.


Tôi trích vài đoạn phản ánh ý muốn không lay chuyển nói trên có liên quan đến thời sự 1963:

"Tại sao người xuất gia không thể tham gia chính trị và quân sự?

1. Trước hết, dù ở trong trường hợp tự vệ, quân sự cũng vẫn là một hành động trái với nguyên tắc tôn trọng sự sống, huống chi là trường hợp khác. Trong trường hợp tự vệ, vì cái tinh thần vô úy hy sinh sự sống để bảo vệ sự sống, người Phật tử tại gia phải làm, bất đắc dĩ phải làm. Còn người xuất gia thì không thể như vậy vì họ đã là hiện thân của nguyên tắc tôn trọng sự sống của tất cả.

2. Huống chi phương pháp tự vệ không phải chỉ là chính trị và quân sự; chính trị và nhất là quân sự là những điều bất đác dĩ nhất trong tự vệ. Hai người muốn thắng nhau mà phải đánh nhau vẫn là một điều dở. Cho nên người xuất gia, vì lẽ tương quan sinh tồn, nếu có thể, chỉ nên tham gia kinh tế, văn hóa và xã hội mà thôi, còn chính trị và quân sự không những trái với nguyên tắc tôn trọng sự sống, mà còn trái hẳn với nguyên tắc "trên tất cả", không phân biệt chủng tộc, giai cấp của người xuất gia".


Trong một đoạn ngắn mà đã có đến hai lần xác nhận thái độ "bất đắc dĩ". Đấu tranh năm 1963 cũng là bất đắc dĩ mà thôi. Thêm một "bất đắc dĩ" nữa trong đoạn dưới đây:


"Đạo Phật chỉ thừa nhận sự tương quan sinh tồn. Đạo Phật dạy cho người ta thấy ở đời phải tự lập chớ không thể biệt lập. Phật tử không thấy, không tạo nên một đối phương. Vũ trụ là một lò tương quan; không có gì là trung tâm, không có gì là phụ thuộc, hay là ngược lại. Bởi thế cho nên phân ly là tự tạo một ung nhọt, mà chiến đấu (theo nghĩa hẹp) chỉ là tương đối. Chiến đấu phải là một hành động vì bảo vệ sự sinh tồn mà bất đắc dĩ. Nếu biến sự bất đắc dĩ ấy thành sự tuyệt đối cần thiết trong mọi trường hợp, thì chiến đấu sẽ trở thành chiến tranh.


Nhập thế thì chiến đấu hết mình, hy sinh cả mạng sống. Nhưng tuyệt đối phải biết xuất thế để tẩy ngay cả cái khái niệm chiến tranh ra khỏi tâm. Khi bắt đầu khởi động phong trào 63, không mấy ai tin ở thành công. Nhưng bắt buộc chiến đấu thì sẵn sàng chiến đấu, xem thành bại trong chiến đấu giống như thành bại trong công việc hoằng pháp hàng ngày, thành thì tốt, mà bại không chừng lại còn tốt hơn: đó là điều khó hiểu đối với người thường, nhưng đó lại là điều hiển nhiên của hành động trong Phật giáo:


"Chúng ta đã và vẫn sẵn sàng chấp nhận cảnh ngộ khó khăn. Điều đó chúng ta không thiệt, trái lại nữa là đằng khác. Bởi vì việc làm gặp cảnh ngộ dễ dãi thì đó là cảnh ngộ tác thành, chúng ta có công đức gì đâu. Còn nếu chúng ta chỉ biết nỗ lực mà làm thì chúng ta vẫn có công đức; còn việc làm ấy có thành hay bại vì cảnh ngộ chăng nữa, công đức cũng không vì sự thành hay bại ấy mà có hay không có. Ấy là nói về bản thân người làm. Còn nói hậu quả thì thành cố nhiên là tốt, mà bại lại càng tốt hơn. Việc làm nào được gọi là chân chính là phải có sự quy phục của nhân tâm. Mà cảnh ngộ Phật giáo hiện thời, nếu thành thì nhân tâm đã có, mà nếu bại thì nhân tâm lại càng có hơn. Đó là sự thật hiển nhiên".


Hành động trái nghĩa với manh động. Manh động thì rất sợ bại. Mà thường là bại. Nhập thế với cái tâm không sợ bại, vậy mà thường là thắng. Trong hoàn cảnh chính trị và văn hóa cực kỳ khó khăn của năm 1963, mấy ai dám tin vào thành công? Vậy mà Phật giáo vượt qua pháp nạn!


Pháp nạn vượt qua, các nhà lãnh đạo cảnh giác ngay cái bẫy chính trị luôn luôn rình rập các tôn giáo, khẳng định lại lập trường cố hữu của mình với ba nguyên tắc cụ thể:


1. Phật giáo không ủng hộ cũng không chống lại một chính quyền nào; Phật giáo ủng hộ hoặc chống lại các chính sách. Phật giáo ủng hộ chính sách nào tốt. Phật giáo chống lại chính sách nào xấu.


2. Trên tiêu chuẩn nào xét đoán chính sách nào tốt, chính sách nào xấu? Trên tiêu chuẩn phù hợp hay không phù hợp với tiền đồ của Phật giáo và dân tộc. Phật tử không bao giờ chấp nhận các chính sách đưa đến những hậu quả tai hại cho Phật giáo và dân tộc.


3. Phật giáo không nhắm việc nắm chính quyền, dù trực tiếp hay gián tiếp.


Căn cứ trên ba nguyên tắc đó, HT.Thích Trí Quang, lúc đó là Thượng tọa, kết luận: Phật giáo làm hết sức mình để phụng sự tổ quốc và dân tộc, chống lại những ai lợi dụng tôn giáo để tìm cách thống trị chính quyền và dân chúng, và kêu gọi phật tử ủng hộ hết lòng các chính sách tốt và chống lại các chính sách xấu: đó là "sức mạnh" mà người ta có thể tìm thấy trong Phật giáo.


Sức mạnh đó là sức mạnh văn hóa. Đời đời không phải là sức mạnh chính trị mà Phật giáo lánh xa. Bởi vì chính trị không nằm trong bản chất của Phật giáo. "Phật giáo không thích ứng với chính trị mà thích ứng với văn hóa. Phật giáo tồn tại bởi dân tộc, không như tôn giáo khác tồn tại vì chính quyền". Đó là nguyên văn lời khẳng định lặp đi lặp lại bao nhiêu lần trong suốt mùa bão tố 1963 và sau đó. Trước 1963, Hội Phật giáo đã xác định tôn chỉ của mình rõ ràng:


"Vì là một tổ chức tôn giáo, nhất là một tôn giáo dân tộc, hội Phật giáo trung thành với sứ mạng chánh yếu của mình, sứ mạng củng cố và khai thác nền đạo đức của dân tộc. Hội xác nhận rằng điều đó thật là tối hệ trọng đối với dân tộc, vì dân tộc muốn còn là phải còn dân tộc tính, mà dân tộc tính căn bản là nền đạo đức của dân tộc: đó là một sự thực quá rõ ràng bất cứ được nhìn bằng nhãn giới nào".


"Phật giáo và văn hóa của dân tộc": đó không phải là khẩu hiệu suông. Đó là niềm tin sắt đá của người lãnh đạo phong trào 1963. Tin rằng Phật giáo và văn hóa Việt Nam là một. Tin rằng Phật giáo phải luôn luôn tự mình xứng đáng để vẫn là một với Việt Nam. Đạo Phật "nhập thế" là nhập thế vào xã hội, văn hóa, nhắm vào con người mà cho vui, cứu khổ, nhắm vào đạo đức mà phát huy, nhưng đạo Phật "siêu thoát" thế gian, nhất là siêu thoát khỏi chính trị. Đời đời.


Tôi trích dẫn trên đây khá nhiều câu viết của HT.Trí Quang bởì vì lập trường ấy là huyết mạch của phong trào 63. Xuyên qua lập trường ấy, xuyên qua toàn bộ các tác phẩm của vị lãnh đạo này, nổi bật lên một chữ thôi, một chữ tự nó đủ sức cắt nghĩa tất cả tinh hoa mà đạo Phật muốn mang cống hiến cho thời đại: chữ "khác". Trong một thư gửi cho Phật tử Huế, nơi khởi sinh cuộc tranh đấu 1963, chữ ấy là châm ngôn, là lý tưởng của hành động:


"Phật tử Huế phải làm cho đạo mình "khác" đạo kẻ khác, chứ không phải làm cho đạo mình "hơn" đạo kẻ khác - "khác" ở chỗ nêu cao và thể hiện cho được sự khoan hồng và độ lượng của đức tính Từ bi dầu phải thiệt thòi đến cao độ"


Cái chữ "khác" ấy là gia tài văn hóa mà đạo Phật đã để lại trong lịch sử. Thể nhập cái gia tài ấy, Phật giáo Việt Nam tiếp tục viết nên trang sử năm 1963 mà rạng rỡ nhất là ngọn lửa Quảng Đức.

Sự kiện năm 1963 là một khẳng định văn hóa. Tuyệt đối không phải là một phản ứng chính trị.

Giáo sư Cao Huy Thuần

Cuộc chiến sinh diệt



Vùng đất quê tôi có hai mặt trời
một mặt trời mùa nắng và một mặt trời mùa mưa
mặt trời mùa mưa như vị vua nhân từ
chăm sóc thần dân bằng ánh nắng sinh thành
cỏ cây đơm hoa kết trái
mặt trời mùa nắng như gã bạo chúa hung tàn
sẳn sàng hun đốt vạn vật bốc cháy
đem lại nỗi sợ hãi
dẫu tôi chỉ là chiếc bóng tồn tại
như một chứng nhân của cuộc chiến triền miên


Khi những cơn gió lạnh xâm lăng
kéo theo đội quân cúa Hung thần Đông băng giá
đưa Nữ hoàng Xuân phồn thực quyến rũ
khiến vị vua mặt trời nhân từ mê mụ
là lúc gã bạo chúa Mặt trời Nắng tiếm ngôi
trút tia lửa hủy diệt
làm khô hạn những cách đồng
đốt cháy mái tóc, làn da lũ trẻ nghèo hèn
đỏ au và đen sạm
ấn cơn khát bất kham
trừng phạt tâm tưởng muôn loài

Cơn khát ấy chừng như có thể tàn phá vạn vật nếu không có sự xuất hiện của Nữ thần Đêm âm hiểm - kẻ luôn đối kháng mặt trời- đưa chiếc khiêng bóng tối che chắn, xoa dịu và dụ dỗ, biến cơn khát thành tội lỗi của nhân loại đối với Bà mẹ Thiên nhiên

Bà mẹ Thiên nhiên vĩ đại và bao dung
ân sũng vầng trăng hòa giải
ban phát ánh sáng nhiệm mầu cho muôn loài sám hối
đánh thức cơn mê phồn thực của vị vua Mặt trời Mưa nhân từ

Đội quân mưa ái ân ập đến
truất ngôi gã mặt trời hung hãn
dập tắt cơn khát muôn loài
vạn vật sinh sôi
chàng Hoàng tử Hè mạnh khỏe
cùng bầy ve rộm rả hát ca
đón Hoàng hậu Thu thướt tha, dịu dàng
ru nhân loại vào giấc ngủ đam mê thịnh trị

Cho đến khi
cơ gió lạnh dẫn Hung thần Đông băng giá
đưa Nữ hoàng Xuân phồn thực trở về
mê mụ vị Vua mặt trời Mưa
tái hiện cuộc tiếm ngôi của Gã mặt trời Nắng

Tôi chỉ là một chiếc bóng tồn tại hiển nhiên
trong cuộc chiến triền miên sinh diệt...