Thứ Ba, 5 tháng 1, 2016

NGƯỜI ĐẾN SAU



Nồng Nàn Phố


Tặng những ai muốn xây lại ngôi nhà trên nền đất đã cũ

Khi đến bên trái tim hai đứa vỡ rồi
Những mảnh ghép cấu vào đau mãi
Vậy mà vì tin nhiều thành ra ở lại
Quấn chân nhau bằng lo sợ chia lìa


Đã nhàu nát một đời trong vụng dại đam mê
Lần đầu biết yêu cũng là lần đầu nếm nhạt
Bão giông nổi đầy trời mà khạo khờ hứng mát
Ngờ đâu hứng đủ một đời chiêm bao

Gia tài gom chung chỉ là nỗi đau
Nhạy cảm gấp trăm lần lứa đôi tìm thấy nhau lần thứ nhất
Khát thèm, bình yên, nhớ nhung, ngọt mật
Hi vọng cũng gấp đôi nên hạnh phúc quý giá gấp triệu lần

Em mang đến cho anh hai dòng sông ngân
Anh đặt vào lòng tay em đôi bàn chân mỏi
Chén canh chắt từ yêu thương nên chẳng bao giờ tạnh nguội
Vòng xe trông mong quay về nên mệt mỏi nhanh tan

Rồi anh sẽ lại làm chồng cừ khôi, em lại là vợ ngoan
Gia tài hai đứa mình chung nhau khổ đau, hạnh phúc
Có quá khứ, tương lai, cả nhạt phai và thương hết mực
Có riêng và có chung hai đứa giàu có hơn người

Chẳng thể xóa bỏ kí ức được nữa người ơi
Nên hãy cứ vẽ chồng lên thật nhiều yêu, nhớ
Đừng cắn đắn, ghen tuông vì mình đã làm chồng làm vợ
Lần thứ hai đã là quá nhiều cho một cuộc đời đau

Không được làm người đến trước thì hãy làm người đến sau
Bởi bàn chân bước sau sẽ vững vàng hơn trước muôn ngàn sóng gió
Hai mảnh gương vỡ sẽ soi tỏ
Tận cùng những xao xuyến trong nhau

... Hãy tin nương tựa được vậy rồi đã là nhiệm màu
Tình ạ!

P/s: Đã bỏ qua để bước tiếp, mong lắm sự an nhiên trong lòng

Thứ Hai, 4 tháng 1, 2016

VINH DANH ÔNG NGUYỄN GIA KIỂNG - KIỆN TƯỚNG NÓI XẤU CỦA PHONG TRÀO DÂN CHỦ VIỆT NAM




Muốn trở thành một nhà dân chủ thành công ở nước Việt, anh phải thông thạo nhiều kĩ năng. Ngoài kỹ năng biểu tình, viết status và xin tiền ra, quan trọng không kém phần là kỹ năng nói xấu.

Kỹ năng nói xấu lại có nhiều loại. Trước tiên, phàm là nhà dân chủ, anh phải biết cách nói xấu chính thể mọi nơi mọi lúc, càng nói lớn tăng Like càng mạnh, Like càng mạnh càng dễ xin fund. Đây là cách làm giàu bằng hoạt động dân chủ dễ nhất, bởi chừng nào chỉ nói mà không làm gì hết, thì chừng đó, anh còn được xem là một tiếng nói ôn hòa, khách quan và trung lập vì các giá trị dân chủ, nhân quyền. Mọi bè đảng, bang hội đều sẽ thân hiện với anh, vì cái mồm của anh có lợi cho mọi cánh và có thể bị lợi dụng bởi mọi cánh. Thêm nữa, kì thực chính quyền chỉ diệt những lực lượng chống đối có tổ chức và liên hệ với tình báo ngoại quốc thôi, chứ ngày nay chẳng ai bắt anh vì tội chửi chế độ.


Nhưng nếu anh đã vào bang hội, bè đảng rồi thì tình hình hơi khác. Bây giờ, chửi chế độ là không đủ, anh còn phải thành thạo cách chửi nhau. Nghĩa là nói xấu các nhà dân chủ khác, cả đối thủ lẫn đồng đội, để giành giật danh tiếng, tài chính và uy quyền. Những cuộc lời qua tiếng lại giữa Mẹ Nấm và No-U, rồi giữa cánh miền Nam và miền Bắc trong CLB Nhà Báo Tự Do bản chất là như thế.

Nhưng nói xấu thế là còn quá lộ liễu và thô thiển. Kiện tướng nói xấu của phong trào dân chủ phải là ông Nguyễn Gia Kiểng cùng các con nhang đệ tử trong Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên. Họ phi thường ở chỗ biết nói xấu đối thủ bằng một giọng đức cao vọng trọng, bằng một thái độ đau đời của bậc sĩ phu ưu thời mẫn thế, dưới cái danh nghĩa "xả thân nói thật vì đại cục", đến nỗi giấu được hết cái thâm tâm hằn học và độc địa của mình. Nếu nhân vật Triệu Chính Nghĩa trong truyện Cổ Long được biết ông Nguyễn Gia Kiểng của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, hẳn ông này phải xem ông kia là hiện thân xứng đáng.

Giờ hãy điểm qua vài nạn nhân của ngài kiện tướng nói xấu Nguyễn Gia Kiểng.

Thứ nhất, phải kể đến đảng Dân Chủ của các ông Hoàng Minh Chính, Nguyễn Sĩ Bình và Nguyễn Tiến Trung. Hồi đảng này mới lập nên, băng ông Kiểng nguy to vì gặp phải một đối thủ cạnh tranh vừa ôn hòa, vừa có học, vừa chính danh, vừa có nền tảng trong nước và được lòng giới trí thức. Họ lập tức tung ra một chiến dịch truyền thông khéo léo và dai dẳng, để vu đàng Dân Chủ là một "đảng cuội" do Cộng Sản lập, ông Nguyễn Sĩ Bình là một điệp viên được Cộng Sản đào tạo, ông Nguyễn Tiến Trung là một thanh niên bồng bột được Cộng sản chủ ý thổi lên, ông Hoàng Minh Chính là một cụ già lẩm cẩm bị Cộng sản lừa và bị Sĩ Bình bắt cóc... Ông Kiểng cùng bộ sậu thành công, đảng Dân chủ nhanh chóng bị cánh hải ngoại cô lập. Không lâu sau đó, khi cánh hoạt động hải ngoại và trong nước quay lại nghi kị và cô lập lẫn nhau, chính quyền thừa cơ bắt Trung, đưa đảng Dân chủ và cơ hội cải cách lớn nhất kể từ sau thập kỉ 80 vào dĩ vãng.

Thứ hai, phải kể đến đông đảo giới trí thức trong nước. Nhà "dân chủ đa nguyên" Nguyễn Gia Kiểng đạt đến đỉnh cao mới của sự trịch thượng và độc tài, khi ông đòi áp đặt cho từ "trí thức" một định nghĩa mới toanh. Bằng vài chục bài viết mà các lập luận và khẩu hiệu chính lặp lại y nguyên từ năm này qua năm khác, ông Kiểng không ngừng rao truyền rằng trí thức không phải là lớp người có hiểu biết và năng lực trí tuệ, mà là lớp người... nhận thức được và thực hiện được những nghĩa vụ chính trị mà tập thể giao phó cho mình. Theo ông, trí thức là một khái niệm chính trị, và không làm chính trị thì không phải là trí thức!

Dù ông Kiểng đã tốn nhiều nước bọt để tỏ ra chống Khổng giáo và chống độc tài, định nghĩa trí thức của ông thực ra khá tương đồng với định nghĩa Nho sĩ của Khổng Tử và định nghĩa "trí thức xã hội chủ nghĩa" của các chính thể Cộng sản. Cả ba đều phủ nhận tính cá thể, độc lập của người trí thức, và chỉ coi trí thức là công cụ phục vụ cho các tính toán chính trị của bản thân. Cả ba đều khinh thường trí tuệ và sáng kiến, nên dần đánh mất trí tuệ và sáng kiến trong lực lượng của mình. Phải nói rằng trong tiến trình chia tách các trí thức trong nước khỏi hoạt động đối lập, để từ đó ngu hóa, cực đoan hóa và hải ngoại hóa các hội đoàn chống Cộng còn sót lại hiện nay, về công tác tư tưởng mà nói, thì ông Kiểng là người chiến sĩ tiên phong và có công lớn nhất.

Nạn nhân đáng kể thứ ba của ông Kiểng là ông Nguyễn Tấn Dũng - đương kim thủ tướng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong nhiều bài trình bày trước đám đông, ông Kiểng vẫn thường khoe lặp đi lặp lại rằng ông "rất thân" với một vị cố vấn của Dũng, tới mức từng được ông này đến thăm và dùng bữa nhân chuyến công tác ở Pháp. Chuyện này đương nhiên là phóng đại hoặc hư cấu, bởi phong cách coi trọng sự bảo mật và thực tiễn của Nguyễn Tấn Dũng vốn đối nghịch với bản chất của ông Kiểng và Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên - một tập hợp những cái mồm đít vịt ưa phao tin đồn, ra vẻ nói chữ và khoe khoang. Với Dũng, quan hệ với hạng người như Kiểng chẳng khác nào tự sát. Dũng đương nhiên chẳng có lí do để làm vậy khi đang nắm giữ đỉnh cao quyền lực. Dầu vậy, tin đồn mà ông Kiểng "buột miệng" loan đi hết lần này đến lần khác, như thể nằm trong kế hoạch, hẳn đã gây nhiều rắc rối cho Dũng trong cuộc đấu quyền lực ở cấp trung ương.

Cái tài của Nguyễn Gia Kiểng - kể chuyện phiếm vu vơ mà đạt hiệu quả còn hơn nói xấu - đã bộc lộ rõ nhất trong những chiến dịch thế này.

Cùng một phương thức như trên đã được dùng lại trong vụ nhập nhằng tên tuổi giữa "Câu lạc bộ Phan Chu Trinh" - tiền đồn tuyển người của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên - với Quỹ Phan Chu Trinh của cánh Nguyên Ngọc trong nước.

Còn những vụ lặt vặt, như nói xấu người đồng đội Nguyễn Thanh Giang sau khi ăn chia không đều, thì đã là chuyện thường ngày, kể ra không hết.

[Nhà Dân Chủ]

Sự Nhập Nhằng của Ngữ Nghĩa: Giải Thuyết, Giả Thuyết, và Giả Thiết




Trong ngôn ngữ trao đổi, dù ở bất cứ ngôn ngữ trong bất cứ thời điểm nàom một từ được dùng trong nhiều lãnh vực khác nhau, bởi nhiều giới người khác nhau, sẽ có những hàm nghĩa và chủ ý khác nhau. Nó gây ra nạn ngữ nghĩa nhập nhằng (semantic obfuscation) Ngay từ thời xa xưa, Khổng tử cũng đã than:
Luận Ngữ : "Cô bất cô, cô tai, cô tai" , , (Ung dã ) Cái cô mà không có cạnh góc thì sao gọi là cái cô! Sao gọi là cái cô! § Ghi chú: Cô vốn là cái bình đựng rượu có cạnh góc. Tới đời Khổng Tử, người ta biến đổi nó, bỏ cạnh góc đi, nhưng vẫn giữ tên cũ. Khổng Tử chỉ trích thói đương thời hữu danh vô thực, nhất là trong chính trị
Và ngay như trong Đạo Đức Kinh, hay Nam Hoa Kinh, nhiều từ được dùng với tầm tư duy triết giải sâu khác với hàm nghĩa quần chúng thường dùng ngay như từ ĐẠO và ĐỨC, và từ KINH cũng được dùng khác nghĩa!
Trong Anh ngữ cận đại, một từ gây nhiều ngộ nhận cũng như cố tình lạm dụng trong tranh luận là từ THEORY, hiểu tổng quát chung là LÝ THUYẾT. Nhưng khi được dùng trong giới hàn lâm nghiên cứu khoa học cũng đã có nghĩa và hàm ý khác với thói quen thường dùng của đa số. Giáo sư Sinh Học Richard Dawkins đã buộc phải giải trình bằng một bài viết khi nhóm tôn giáo lạm dụng từ THUYẾT này để "xí xóa" giữa tín lý GIẢ thiết niềm tin của họ và GIẢI thuyết về tiến trình của sự kiện khoa học với bằng chứng, sau khi một GIẢ THIẾT đã được chứng minh.


1- Theory như một GIẢI THUYẾT (Theory, Sense 1: A scheme or system of ideas or statements held as an explanation or account of a group of facts or phenomena; a hypothesis that has been confirmed or established by observation or experiment, and is propounded or accepted as accounting for the known facts; a statement of what are held to be the general laws, principles, or causes of something known or observed.
2- THEORY như là một GIẢ THIẾT - cái không thật, chưa thật, nhưng cần thiết để làm đích nghiên cúu chứng minh (hypothesis) hay giả định (assumptions- cứ tạm xác định cho cái giả này là có trước) -A hypothesis proposed as an explanation; hence, a mere hypothesis, speculation, conjecture; an idea or set of ideas about something; an individual view or notion.
-
Ngay cả hai định nghĩa căn bản nền tảng này cũng không thể BAO HÀM ĐẨY ĐỦ tiến trình thí nghiệm, thực nghiệm của MỘT GIẢI THUYẾT KHOA HỌC, trong đó có những phần hay phần lớn đã trở thành qui luật chặt chẽ (Law, không phải pháp luật- lại một từ đa dụng bị nhập nhằng); và nó tiếp tục gây tranh luận lạm dụng.
Trường hợp GIẢI Thuyết TIẾN HÓA nên được gọi cho đúng là SỰ KIỆN TIẾN HÓA- TIẾN TRÌNH TIẾN HÓA chứ không còn là một GIẢI THUYẾT chung nữa... Vì người ta đã tận dụng chứng nghiệm thực hiện SỰ KIỆN này hàng ngày với sinh vật cây cỏ người ta trồng cấy, pha giống chiết cành, phủ vòm kính, ép Bonsai v.v TỨC LÀ MỘT MÔI TRƯỜNG MỚI để có một cây mới theo Ý MUỐN, và NGAY CẢ BẢN THÂN của mỗi người chúng ta khi sống thay đổi chỗ ở, thổ ngơi , thức ăn nhà cửa, thay đổi chế độ chính trị, nó cũng làm người ta THAY ĐỔI - TÂM LÝ NGAY ĐẾN NHÂN DẠNG- THEO ĐỂ SINH TỒN! Đặc biệt thế hệ con cháu của họ đã gần như khác hẳn với con cháu của anh chị em ruột thịt còn ở lại "tổ cò cũ" từ nhân dạng đến nếp tư duy nhận thức, cũng đã minh chứng TIẾN HÓA là một SỰ KIỆN CỤ THỂ.
Người Bắc Hàn và Nam Hàn đã khác nhau xa- nhân dạng và tư duy- từ khi chia đôi đất nước. Người Việt từng khác nhau xa giữa NAM và BẮC, giữa Bắc di cư và Bắc còn lại- sau 1975 khi giao thương chung đụng môi trường gần cân bằng thì sự khác biệt giảm dần. Và một số Viêt Kiều càng cách xa Việt rặt đậu phọng đỏ! Người Anh khi qua 13 lục địa Mỹ, giờ đây khác hẳn Anh "chính gốc" v.v
Bản chất thiếu khuyết của ngôn ngữ không thể bắt kịp với đà tăng trưởng của sự vật, càng chậm hơn với sự việc, và càng khó bắt kịp tốc độ của ý tưởng tư duy- nói chung gọi là ngữ nghĩa nhập nhằng (semantic obfuscation) đã là một vấn đề. Nhưng não trạng TÍN LÝ về một GIỐNG NÒI THUẦN CHỦNG BẢN SẮC và do THƯỢNG DẾ CHÚA GIỜI TẠO RA -không cho phép bộ óc của tín đồ chấp nhận MỘT SỰ KIỆN mà ngay bản thân của họ là bằng chứng hiển nhiên mới là một vấn đề lớn! Nó đẩy vấ nạn ngữ nghĩa khó rõ ràng trở nên tồi tệ hơn!
TÔN GIÁO, thần quyền hay thế quyền nhà nước cũng hủy hoại khả năng chất vấn, lý giải, thừa nhận SỰ KIỆN như nhau mà thôi!
===
Is it a Theory? Is it a Law? No, it’s a fact.

Nov 30, 2015


 

by Richard Dawkins
I once tried to persuade an American atheist conference that the slogan, “In God We Trust”, on banknotes was a cosmetic trivium. We should stop bellyaching about it and concentrate our fire on more substantive issues such as the tax free status of churches. I was kicked around the room by the admirable Edwin Kagin, unfortunately now dead. It really matters, he said, not only because it’s unconstitutional but because many Americans, ignorant of history (the phrase was added as late as 1957) actually point to “In God We Trust” as evidence that America was founded in Christianity.
Our habit of referring to the “theory” of evolution is similarly used to mislead. Huge numbers of people are bamboozled by the phrase “Only a Theory.” This essay is designed to remove confusion by abandoning the word theory altogether, when talking to creationists.
Today the dominant reply to the creationist “only a theory” bleat is to explain that the meaning of “theory” in science is different from everyday usage, which is synonymous with “hypothesis”. In The Greatest Show on Earth I quoted two definitions from the Oxford English Dictionary:

Theory, Sense 1: A scheme or system of ideas or statements held as an explanation or account of a group of facts or phenomena; a hypothesis that has been confirmed or established by observation or experiment, and is propounded or accepted as accounting for the known facts; a statement of what are held to be the general laws, principles, or causes of something known or observed.
Theory, Sense 2: A hypothesis proposed as an explanation; hence, a mere hypothesis, speculation, conjecture; an idea or set of ideas about something; an individual view or notion.The party line among scientists arguing for evolution is to promote Sense 1, and I have followed it until today. But now I want to depart from the party line. I now think that trying to clear up this terminological point about the meaning of “theory” is a losing battle. We should stop using “theory” altogether for the case of evolution and insist, instead, that evolution is a fact.

Philosophers, I am aware, can be relied upon to cloud even the word “fact”. A fact can never be more than a hypothesis on probation, a hypothesis that has so far withstood all attempts to falsify it. The more strenuous those attempts, the closer we come to endowing the accolade of fact. I am fond of Stephen Jay Gould’s way of putting it. “In science, ‘fact’ can only mean ‘confirmed to such a degree that it would be perverse to withhold provisional assent. I suppose that apples might start to rise tomorrow, but the possibility does not merit equal time in physics classrooms.” Courts of law, newspapers, and all of us in everyday life use the word “fact” in a way that few have difficulty in understanding. It is a fact that New Zealand is in the Southern Hemisphere (Barack Obama is the US President, it is now raining in Oxford, grass is green etc). It is this everyday usage of “fact” that we should be concerned with when we advocate evolution to lay audiences. We are failing to get across “Theory, Sense 1”. Let’s dump it and talk frankly of evolution as a fact, from which it would be perverse to hold assent.

Our failure to get across Sense 1 is partly blamed on an everyday tendency to leap straight to Sense 2: theory as tentative “mere” hypothesis. But we must admit that scientists themselves use “theory” in a way that might strike the poor layman as confusingly inconsistent. “String Theory” has elements of Sense 1. It is indeed a “scheme or system of ideas or statements” but it is very far from being “confirmed or established by observation or experiment”. It isn’t even clear how anyone might set about testing it by observation or experiment. Yet it is always called String Theory, not String Hypothesis. “Theory of games” is not something that can be “confirmed or established”: it is, rather, a technique of reasoning which, originating in the mathematical study of games, has proved useful in a variety of different fields. Marxist Theory is definitely “a scheme or system of ideas, held as an explanation or account” of human economics and sociology (and as a normative recipe for politics) but again you have to ask “held by whom?”

Charles Darwin made frequent reference to his “theory”, and in his time it was a theory in Sense 2: a hypothesis whose supporting evidence at the time persuaded some scientists but by no means all. In the succeeding century and a half it has moved from Sense 2 to Sense 1, indicating that there is a continuum, in this case historically traceable, between Sense 2 and Sense 1. Nowadays no knowledgeable scientist has any doubt of the fact of evolution: it is an indisputable fact that we share common ancestors with our cousin gorilla, and with our more distant cousin kangaroo.

Some scientists speak of the fact of evolution, as distinct from Darwin’s hypothesis of its mechanism (natural selection). They would relegate natural selection, but not evolution itself, to a Sense 2 theory. Others feel that natural selection is so well established as the only known mechanism for producing adaptive evolution that its historical progression from Sense 2 to Sense 1 is now almost as complete as that of evolution itself.

In our tussles with creationists it is evolution itself rather than natural selection that bears the brunt of their attacks. So we can set aside the status of natural selection and concentrate on the fact of evolution as something so firmly established by evidence that to deny it would be perverse. It is a fact, beyond all reasonable dispute, that if you trace your ancestry and your dog’s ancestry backwards you’ll eventually hit a common ancestor. It is a fact, beyond reasonable dispute, that when you eat fish and chips you are eating distant cousin fish and even more distant cousin potato.

Confusion of a different kind is introduced by those who agree to abandon “theory of evolution” but try to replace it by “law of evolution.” It is far from clear that evolution is a law in the sense of Newton’s Laws or Kepler’s Laws or Boyle’s Law or Snell’s Law. These are mathematical relationships, generalisations about the real world that are found to hold true when measurements are made. Evolution is not a law in that sense (although particular generalisations such as Dollo’s Law and Cope’s Law have been somewhat dubiously introduced into the corpus of Darwinian theory).

Moreover, “Law of Evolution” conjures up unfortunate associations with grandiose overgeneralisations linking biological evolution, cultural evolution, linguistic evolution, economic evolution and evolution of the universe. So please, don’t make matters worse by turning evolution into a law.

Let’s simply give up on trying to explain the special scientific meaning of “theory”. It is begging to be misunderstood by laymen eager to misunderstand, and even scientists are not consistent in their usage. The ordinary language meaning of “fact” (it is a fact that New Zealand is in the Southern Hemisphere) and the scientific meaning (the evidence for evolution is so strong that to withhold assent would be perverse) are close enough to obviate confusion in the mind of all but the most doggedly pedantic philosopher. By all means postpone for another day the question of whether natural selection is also a fact. For now, when arguing with creationists, let’s sweep confusion aside by means of a strategic retreat from the word “theory”. Let’s sacrifice a pawn for strategic advantage and hammer home a clear message that everyone can understand, and which is undeniably true in the everyday sense. Evolution is a fact.

Evolution is a fact.

Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2016

Làm ăn hay làm người?




Nghề quan trọng nhất trên đời này, theo nhà tư tưởng vĩ đại thời khai sáng Jean Jacques Rousseau, là “nghề làm người”. Một khi đã làm được người thì không gì là không thể làm được!

Không biết từ bao giờ, hễ nhắc đến “kinh doanh” nhiều người lại thường liên tưởng tới “buôn gian bán lận”?! Và người ta cũng đề cập đến “kinh doanh hướng thiện” như là một mong muốn, đòi hỏi bức xúc của xã hội đối với những người làm nghề kinh doanh.

Theo tư tưởng của Rousseau, vấn đề được giải quyết một cách rất đơn giản: Mỗi người kinh doanh trước hết phải là một con người đúng nghĩa và chỉ cần như vậy! Nói cách khác, mấu chốt của vấn đề nằm ở chỗ liệu mỗi người có làm tốt trước hết cái nghề được xem là “nghề gốc”, nghề quan trọng nhất của mọi nghề: NGHỀ LÀM NGƯỜI hay không.

Từ con người đúng nghĩa…

Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây có những giá trị chung về con người mà hàng ngàn năm không thay đổi. Đó là đã là con người thì phải “vô hại” và “hữu ích”, tức là không hại người và phải có ích với người.

Đó là những giá trị căn bản nhất mà vĩ nhân nào, dân tộc nào, thời đại nào cũng dạy cho con người ta. Khổng Tử, một người thầy lớn trong lịch sử phương Đông, khuyên: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều gì mình không muốn thì cũng đừng làm cho người khác).

Còn người phương Tây thì quan niệm: “Hãy đối xử với người khác theo cách mà bạn muốn người khác đối xử với mình”. Tuy có khác nhau về tâm thế (thụ động hay chủ động) nhưng tựu trung lại đều hướng tới giá trị của con người: sống thì phải hữu ích và vô hại.

Để có thể là con người đúng nghĩa thì cần phải có “năng lực làm người” hay còn gọi là “nền tảng văn hóa”. Đó là phải có cái đầu có khả năng phân biệt phải-trái, tốt-xấu, giả-chân, thiện-ác, cái gì đáng trọng-cái gì đáng khinh…, biết phân biệt ai là ai, cái gì là cái gì và mình là ai, và đặc biệt là biết sống vì cái gì. Đó còn là phải có trái tim giàu lòng trắc ẩn, biết rung lên trước cái đẹp, biết thổn thức trước nỗi đau, và biết phẫn nộ trước cái ác.

Những khả năng này hình thành nên một cái gọi là “hệ điều hành” cuộc đời, mà nếu như được cài đặt vào con người thì cuộc sống sẽ ít thù oán, bạo lực, chém giết, chiến tranh; kinh doanh sẽ không còn chỗ cho bất lương, gian lận… Và giáo dục (bao gồm giáo dục ở nhà trường, giáo dục trong gia đình và giáo dục ngoài xã hội) chính là công cụ để cài đặt “hệ điều hành” này cho mỗi người.



Đến làm ăn lương thiện

Doanh nhân là một con người có năng lực làm người thì sẽ có một doanh nghiệp tử tế và lương thiện. Tuy nhiên, điều này chưa đảm bảo một cách bền vững cho một nền kinh doanh lương thiện vì thường một người tử tế nếu kinh doanh trong môi trường chộp giật thì dần dần cũng sẽ trở nên chộp giật.

Ngược lại, họ không tử tế nhưng vào môi trường đàng hoàng thì dần dần cũng trở nên đàng hoàng. Ví dụ, một doanh nhân thuộc diện rất “có vấn đề” trong làm ăn ở một quốc gia kém phát triển nào đó, nhưng nếu sang Mỹ hoặc sang Nhật làm ăn thì họ sẽ phải đàng hoàng tử tế hơn.

Nếu như mỗi cá nhân và doanh nghiệp tử tế là điều kiện cần thì thể chế, cơ chế và môi trường kinh doanh là điều kiện đủ để có một nền kinh doanh hướng thiện. Ở cấp độ vĩ mô, nhà nước cần phải có những biện pháp để mọi doanh nhân và doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp nước ngoài đang đầu tư làm ăn tại Việt Nam, đều phải coi trọng và nỗ lực hướng thiện, coi đó là chuyện sống còn của doanh nghiệp mình.

Với doanh giới, ngoài việc mỗi doanh nhân thực thi trọn vẹn “nghề làm người” thì cả cộng đồng doanh nghiệp cũng cần có thái độ rõ ràng đối với những kẻ “buôn gian bán lận”, làm hàng giả, hàng nhái, hàng độc hại…

Những câu chuyện đau lòng trong xuất khẩu tôm, cá ba sa, hay thanh long… mấy năm trước là minh chứng cho việc một số “con sâu” làm rầu “nồi canh”. Không chỉ các nước sở tại lên án, tẩy chay những doanh nghiệp bất lương đó mà chính cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cũng phải tiên phong trong chuyện này để bảo vệ hình ảnh và thanh danh của nghề kinh doanh.

Tuy nhiên, cũng có những ngoại lệ. Theo lẽ thường, người ta gần mực thì đen, gần đèn thì sáng nhưng có những người đặc biệt, có nền tảng văn hóa tốt, có “hệ điều hành” tốt và đủ mạnh thì “gần mực không đen” hay nói cách khác “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Nghĩa là với những doanh nhân có nền tảng văn hóa vững chắc, những người có bản ngã thì bất kể kinh doanh ở môi trường nào, họ vẫn giữ được phẩm cách của mình, vẫn là những doanh nhân làm ăn đàng hoàng, tử tế.

“Thật thà thẳng thắn thường thua thiệt”, đúc kết chua chát của dân gian có lẽ cần phải được đính chính lại thành “Thật thà thẳng thắn thường thắng to”. Trong kinh doanh, sẽ không thể “thắng to”, “thắng lâu” và được xã hội thực sự nể trọng nếu chỉ bằng ảo ảo, lọc lừa và gian dối. Ngược lại, với lương tâm và thiện tính, thời nay, một người bán rau cũng có thể trở thành triệu phú đô-la nếu như anh ta giải quyết được vấn đề rau “tử tế” cho hàng triệu người dân thành thị.

Tiền tài, địa vị và danh vọng là rất quan trọng, nhưng có những thứ còn quan trọng hơn, đó là, rốt cuộc “mình sống vì cái gì?”. Như cổ nhân đã dạy, “mục đích lớn nhất và quan trọng nhất của con người sinh ra trên đời, đó là sống cho ra một con người!”, và như vậy “làm người” quan trọng hơn “làm ăn”!

Giản Tư Trung

MỘT CHUYỆN TÌNH CỦA BIỂN

Nghiêm Tới



Biển yêu em
Biển nằm chờ đợi
Trải lòng mình vời vợi trăng sao
Gọi tên em trong muôn lớp sóng gào
Em yêu biển
khát khao về với biển
Rồi một ngày bão đời ập đến
Mưa sỏi buồn, cát mịn oan khiên
Nàng giẫy giụa trên sa mạc chết
Đôi môi mềm đọng vết mơ hoang:
Ước gì biển cạn một gang
để em cõng sóng
dẫm cát vàng biển khơi
ướp mình thấm tháp mặn mòi
giữa mênh mông thả nhỏ nhoi bồng bềnh
Ước gì giữa cõi mông mênh
Em là duy nhất, một mình trong anh!
Biển chờ
không thấy bóng hình...
Sóng thần nổi trận lôi đình
nhớ thương
Anh đi đã gần hết nẻo đường hiu hắt
nhớ em nhiều se thắt nôn nao:
“Em thách anh lên trời hái sao
nhảy xuống biển nhốt mây vào rọ
và cứ yêu em như thế đó...”
Tiếng lòng em cọ cứa tim anh
Khi hoàng hôn rực rỡ ánh vàng
anh lang thang mơ màng trên cát
miền thùy dương mịn mát nhung yêu
nghe miên man trong ngọn gió chiều
tiếng ru biển hay em yêu?
Ngày ấy
"Đêm nay, anh ngủ ngon?
Trong mơ có hình em?
Trùng dương đang giận hờn
Biển yêu thương của em
Đừng giận em nghe anh!
Đừng dở dang nghe anh!
Lỡ mai ngày thân lạnh
em không còn ru anh
lỡ phai nhạt nắng chiều
hoàng hôn chìm trong đêm"
Ước gì Em hát dài thêm
ru anh, lính biển những đêm nhớ nhà
Hồn em về với bao la
cái nơi kỉ niệm hai ta chung tình
Biển xanh
biển của chúng mình.

Thứ Bảy, 2 tháng 1, 2016

15 SUY NGẪM SÂU SẮC VỀ THẾ SỰ NHÂN SINH






1. Thể diện rốt cuộc bao nhiêu tiền một cân? Tại sao chúng ta phải để tâm đến cách nhìn của người khác.

2. Có một ngày bạn sẽ hiểu, lương thiện khó hơn thông minh nhiều. Thông minh là một loại tài năng thiên phú, còn lương thiện lại là một sự lựa chọn.


3. Không nghe không hỏi không nhất định là đã quên, song chắc chắn là đã xa cách. Cả hai trầm lặng quá lâu, đến chủ động cũng cần có dũng khí.

4. Đừng nên dùng những lời tuyệt tình để làm tổn thương đến người mà bạn yêu vào lúc tâm tình tồi tệ nhất.

5. Có những lúc, không có lần sau, không có cơ hội bắt đầu lại. Có những lúc, bỏ lỡ hiện tại, vĩnh viễn không còn cơ hội nữa.

6. Hãy dùng thái độ cam tâm tình nguyện để sống một cuộc sống an ổn.

7. Tất thảy mọi vấn đề đều là vấn đề của bản thân.

8. Đôi khi, rõ ràng chúng ta đã tha thứ cho người ta, song lại không thể thực lòng vui vẻ, đó là bởi vì, chúng ta quên tha thứ cho bản thân mình.

9. Có sinh sẽ có tử, song chỉ cần bạn vẫn đang có mặt trên đời này, thì phải sống bằng cách tốt nhất. Có thể không có tình yêu, không có đồ hàng hiệu, song không thể không vui vẻ.

10. Họ tốt đến đâu không quan trọng, bởi những thứ đó thuộc về họ. Họ tốt với bạn thế nào mới quan trọng, bởi những thứ đó thuộc về bạn.

11. Thứ không cần, có tốt đến đâu cũng là rác.

12. Nếu bạn không mù, thì đừng dùng tai để hiểu tôi.

13. Sự lợi hại thực sự không phải là bạn quen biết bao nhiêu người, mà là vào lúc bạn gặp hoạn nạn, có bao nhiêu người quen biết bạn.

14. Những chuyện không cần giải thích kia, vào giây phút bạn nói ra, bạn đã thua.

15. Những phiền não trong cuộc đời được gói gọn trong 12 chữ: Không buông được, nghĩ không thông, nhìn không thấu, quên không nổi!

- ST -

Thứ Năm, 31 tháng 12, 2015

Thế giới ảnh khỏa thân của Dương Quốc Định: Phương Đông huyền bí ( beauty of Vietnamese women )



Trong hàng nghìn năm qua, phương Đông luôn là một vùng đất bí ẩn và đầy quyến rũ, mời gọi những bước chân lữ hành lên đường khám phá…

Đó là vùng đất của những minh triết cổ xưa, những kho báu vô giá, và không thể thiếu những mỹ nhân mang vẻ đẹp chim sa cá lặn.

Cảm nhận điều này qua các tác phẩm do nghệ sĩ Dương Quốc Định thực hiện:





























































Chúng ta đã thực sự tin nhân dân?


Chúng ta đã thực sự tin nhân dân?

 Tiến sĩ Lý Lê Kiên Thành

.Nhưng người Cộng sản không được phép quên rằng, Đảng sinh ra là từ dân tộc này, tồn tại được cũng nhờ dân tộc này, vinh quang được cũng là nhờ dân tộc này, thành công này cũng là do cả dân tộc cùng đồng lòng trả bằng xương bằng máu.
.Vượt lên trên dân tộc là điều không bao giờ được phép!



Chỉ còn chưa đầy một tháng nữa, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII sẽ diễn ra. Đến thời điểm này, Đảng đã tròn 85 tuổi, với 70 năm lãnh đạo đất nước.

Là con trai của một người Cộng sản đã hy sinh cả cuộc đời mình cho đất nước, tôi có một khao khát tột cùng, là Đảng sẽ thực sự vững mạnh, sẽ thực sự là Đảng của dân tộc, của nhân dân, quên mình vì lợi ích của dân tộc, của nhân dân…

Nhưng những đêm vắt trán nằm suy nghĩ về đất nước, tôi hiểu chúng ta còn thiếu và sai nhiều. Một trong những cái sai đó là chúng ta chưa thực sự biết tin dân!

Ở châu Âu, Thụy Sĩ là một quốc gia nhỏ bé, không giáp biển, không tài nguyên thiên nhiên. Đất nước Thụy Sĩ không có ngôn ngữ chung: 40% nói tiếng Pháp, 30% nói tiếng Đức, 20% nói tiếng Italia và một số nói thổ ngữ…

Nhưng nước Thụy Sĩ có thịnh vượng không? Rất thịnh vượng!

Vì sao nước Thụy Sĩ thịnh vượng, với hoàn cảnh đất nước phức tạp như thế?

Đó là vì cái gì họ cũng trưng cầu dân ý. Mọi quyết định lớn nhỏ của đất nước giàu có đó, đều được Chính phủ Thụy Sỹ thực hiện trưng cầu dân ý, hỏi ý kiến nhân dân.

Khi Chính phủ trưng cầu dân ý có nên hạn chế lương của người giám đốc công ty chỉ được cao hơn 12 lần so với lương của công nhân không? Người Thụy Sĩ bảo không. Họ nói người tài đã ít, chúng ta muốn giàu thì phải tôn trọng người tài!

Khi Chính phủ hỏi nhân dân, người Pháp làm 35 giờ một tuần, chúng ta có nên làm theo không? Người Thụy Sĩ nói không, nước mình nghèo nên mình vẫn phải làm 40 giờ một tuần…

Nhờ đó, Chính phủ Thụy Sĩ biết nhân dân cần gì, muốn gì. Mọi quyết định hệ trọng của đất nước đều được sự góp ý và đồng thuận của nhân dân.

Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan khi sang gặp Tổng thống Thụy Sĩ, đã từng được Tổng thống Thụy Sĩ tiếp đón trong một bốt bưu điện, với chỉ một cái giường, một cái bàn, hai cái ghế.

Theo luật, Tổng thống nước họ không được ở khách sạn mà phải ở nhà của bưu điện. Và người làm Tổng thống của họ không có quyền hành gì ghê gớm mà là do các Bộ trưởng thay nhau làm tổng thống trong vài tháng.

Tổng thống chỉ đơn thuần sẽ có vai trò báo cáo lại với nhân dân. Nghĩa là ở đất nước đó, người dân giám sát chính phủ một cách gần như tuyệt đối và có quyền đồng ý hay phủ quyết với mọi việc chính phủ làm.

Đó chính là ví dụ rõ nét nhất về sự giám sát và làm chủ của nhân dân.

Đó là lý do khiến Thụy Sĩ trở thành quốc gia được cả thế giới tôn trọng về những thành tựu đã đạt được.

Việc thừa nhận vai trò của người dân và lắng nghe ý kiến của người dân là bài học mà chúng ta phải học từ đất nước này!

Năm 1284, khi quân Nguyên Mông mang 50 vạn quân xâm lược nước ta lần thứ hai, nhà Trần đã biết tổ chức Hội nghị Diên Hồng, để hỏi ý kiến nhân dân về việc chủ hoà hay chủ chiến.

Nhờ nhân dân cả nước đồng lòng đánh giặc, nhà Trần đã đánh bại đội quân hùng mạnh nhất thế giới khi đó.

Nghĩa là từ cả nghìn năm trước, những người đứng đầu đất nước ta thời kỳ đó đã biết hỏi ý kiến nhân dân, biết tin nhân dân, và biết cách để quân dân trên dưới một lòng trong những quyết định lớn lao của dân tộc.

Và thực tế đã chứng minh, khi có được sự đồng lòng, thì một dân tộc nhỏ bé cũng có thể trở thành vĩ đại. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta cũng mang vóc dáng đó, và cũng vì thế mà ta đã chiến thắng được Mỹ.

Nhưng ngày hôm nay, Đảng còn tin vào sự sáng suốt của dân như đã từng tin trong quá khứ hay không?
Tôi vẫn thường nghĩ đi nghĩ lại, là tại sao, Đảng Cộng sản Việt Nam chọn con đường theo tư tưởng của Karl Marx, lấy giai cấp công nhân là nòng cốt, ngay từ thuở ban đầu chưa có thành công gì mà lại có thể hấp dẫn quần chúng nhân dân ở một đất nước nông nghiệp như nước ta thuở trước?

Điều đặc biệt là Đảng đã thu hút được những người tinh túy nhất của xã hội vào trong lòng nó, hấp dẫn được cả dân tộc tham gia vào sự nghiệp đó.

Năm xưa, khi bà mẹ miền Bắc gửi con vào miền Nam đánh giặc, khi bà má miền Nam đào hầm nuôi giấu bộ đội, họ – những người phụ nữ ấy, chẳng thể hiểu thế nào là Chủ nghĩa Xã hội, cũng chẳng biết ông Karl Marx, ông Lenin là ai.

Nhưng họ vẫn theo Đảng, theo Bác Hồ. Không phải họ chọn chúng ta vì lý thuyết đó, mà vì thời điểm ấy, ngay khi ra đời Đảng đã đặt mục đích của giai cấp, mục tiêu của giai cấp nằm trong lòng mục đích, mục tiêu của dân tộc.

Chưa bao giờ ở thời đó Đảng đặt vị trí của giai cấp, vị trí của Đảng lên cao hơn mục đích, lý tưởng của cả dân tộc này.

Và khi biết đặt mục đích của dân tộc, của đất nước lên cao, không phải vì một nhóm người nào, Đảng đã quy tụ được những người ưu tú nhất vào trong hàng ngũ của mình và có được sự ủng hộ mãnh liệt nhất của cả đất nước này.

Suốt một thời gian dài, Đảng gần như dựa hết vào người dân, người dân nuôi, người dân bảo vệ, người dân ủng hộ. Người Cộng sản có thể gửi gắm cả tính mạng mình cho nhân dân khi bị kẻ thù uy hiếp.

Nhưng khi sự nghiệp lớn đã thành công, những người Cộng sản trở thành những người lãnh đạo đất nước, họ dần dần trở thành giai cấp cầm quyền và có lúc “nhìn xuống” nhân dân của mình.

Bác Hồ nói “người lãnh đạo là người đầy tớ của nhân dân”. Nhưng một số người Cộng sản, khi đã trở thành quan chức, khi đã đi xe hơi, ở nhà lầu thì họ không còn nhìn thấy phần “đầy tớ” thực thụ của họ trước nhân dân.

Tôi cho anh quyền ở cái nhà này, đi cái xe này, nhưng anh phải làm như trâu như ngựa cho tôi. Đó mới là thân phận thực sự, là ý nghĩa thực sự, bản chất thực sự của hai từ “đầy tớ”.

Cũng có nghĩa là, anh chỉ là người lái xe ôtô, còn người chủ thực sự là tất cả những người mua xe đó, ngồi trong xe đó, và bất kể anh muốn lái chiếc xe đó đi theo con đường nào, lái nhanh hay lái chậm, đều phải có được sự đồng thuận từ chủ nhân thực sự của nó, là nhân dân.

Người lãnh đạo ở Thụy Sĩ hiểu một điều, nếu người dân không đồng ý thì anh sẽ không được nắm quyền. Quyền đó là người dân trao cho anh, chứ không phải tự anh sinh ra đã có.

Người Cộng sản Việt Nam cũng phải hiểu điều đó!

Nhưng tôi vẫn lo sợ rằng, cách mà chúng ta đang điều hành bây giờ có thể đó đây phần nào đã làm lu mờ đi vai trò của nhân dân với tư cách “làm chủ”.

Những cụm từ “Đảng soi đường”, “Đảng chỉ lối”, “Đảng dẫn dắt” mà chúng ta vẫn hay dùng, vô hình trung đã khiến cho tất cả chúng ta đều có cảm giác Đảng đang vượt lên cả dân tộc và làm cho vai trò rất lớn của nhân dân phần nào bị lu mờ đi.

Tôi rất lo sợ, qua năm tháng, chính những câu chữ đó cũng đã tạo ra sự ngộ nhận cho chính những người trong Đảng.

Nhưng người Cộng sản không được phép quên rằng, Đảng sinh ra là từ dân tộc này, tồn tại được cũng nhờ dân tộc này, vinh quang được cũng là nhờ dân tộc này, thành công này cũng là do cả dân tộc cùng đồng lòng trả bằng xương bằng máu.

Vượt lên trên dân tộc là điều không bao giờ được phép!

Năm nay là tròn 70 năm Đảng lãnh đạo đất nước, nhưng theo tôi nhớ chúng ta chưa một lần trưng cầu ý dân.

Phải mãi đến ngày 25/11/2015, đúng một tháng trước, sau rất nhiều lần nâng lên đặt xuống, Luật Trưng cầu dân ý mới được Quốc hội chính thức thông qua, trong khi đó đáng lẽ là điều phải làm từ lâu lắm rồi!

Lẽ nào đất nước mình tốt đẹp đến mức, hùng mạnh đến mức không còn bất cứ vấn đề nào cần thiết để trưng cầu ý dân?

Tất cả chúng ta đều biết sự thật không phải vậy! Những người đứng đầu Đảng và Nhà nước đã báo động về sự tồn vong của Đảng, sự tồn vong của dân tộc trước sự tha hoá của một bộ phận không nhỏ đảng viên.

Những ai thẳng thắn nhất, sòng phẳng nhất đều phải đối diện với sự thật này.

Một đảng cộng sản đã từng được nhân dân che chở từ những ngày đầu, nhờ nhân dân mà trở nên hùng mạnh, nhờ dân tộc mà trở thành Đảng lãnh đạo, không có lý do gì lại không nhờ nhân dân hiến kế để sửa chữa những vấn đề của mình.

Nếu không làm được việc này, chỉ có thể là vì chúng ta đã chưa thực sự tin vào nhân dân và không hiểu được đến tận cùng sức mạnh của nhân dân. Mà, muốn tin nhân dân, thì phải có trí tuệ, phải có lòng dũng cảm.

Tôi mãi băn khoăn một điều, tại sao ở nước ta, hình thức bầu cử là “Đảng cử, dân bầu” mà không phải là “Đảng cử, dân cử, dân bầu”, để nhân dân cũng được quyền trực tiếp đề cử và lựa chọn những người lãnh đạo mà họ thực sự mong muốn?

Tôi cũng mãi băn khoăn một điều, khi Quốc hội – cơ quan đại diện cho nhân dân giám sát Đảng và Nhà nước mà lại có đến 90% là đảng viên thì mình sẽ hình dung được cách làm của Quốc hội như thế nào?

Khi một cơ quan của dân và không nhiều người dân ở trong đó đến như vậy, thì chúng ta đã tin dân hay chưa? Tất nhiên Quốc hội đang phấn đấu thay đổi tỷ lệ này trong khóa tới.

Với những chính sách ràng buộc khiến 90% đại biểu Quốc hội là đảng viên, vô hình trung, chúng ta đã khiến Quốc hội không còn là cơ quan nói lên tiếng nói của dân. Mà cơ quan dân cử phải là của dân, đó là lẽ đương nhiên.

Những sự ràng buộc đó chỉ chứng tỏ rằng bản thân chúng ta không tự tin vào sự sáng suốt của người dân, chúng ta không đủ dũng cảm để tin vào người dân như chúng ta đã từng tin trong quá khứ.

Trước đây sự sống còn của Đảng là do người dân, và tất cả những đảng viên đều hiểu điều đó. Vậy mà giờ đây, khi vận mệnh của Đảng đang khó khăn như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói, chúng ta lại không dám hỏi ý kiến dân.

Trước đây khi chúng ta muốn nói điều gì với dân, chỉ dùng một tờ truyền đơn là người dân tin.

Trong khi đó hiện chúng ta có đến khoảng 800 đầu báo mà chúng ta lại lo sợ nhân dân sẽ hiểu sai về Đảng khi đọc những tiếng nói trái chiều trên những trang báo lề trái. Đó là điều phi lý mà tôi không cắt nghĩa được.

Lẽ nào chúng ta không đủ tự tin vào sự nhận thức của nhân dân? Vào khả năng phân biệt đúng sai của nhân dân trước những luận điệu đó?

Thật ra có lẽ điều đáng sợ nhất hôm nay, điều mà người Cộng sản nên lo lắng nhất hôm nay, không phải là những bài viết mà chúng ta quy kết là “phản động”, là “chống phá” trên mạng xã hội. Điều đáng sợ là tại sao người dân bây giờ lại ít mua báo?

Ngày xưa những bài báo làm nức lòng người nhất là trên báo Nhân Dân, ngược lại ngày nay những tờ báo như vậy hầu như không bán được ở sạp, vậy mà không lãnh đạo nào để ý, hay cảm thấy lo lắng, khi mà điều đó đã đánh động rằng, tiếng nói của Đảng và dân đang ngày càng cách xa nhau.

Thế giới đang thay đổi theo từng giờ, từng ngày.

Mọi thứ đều phải đổi mới, đương nhiên dòng sông không chảy thì sẽ thành một vũng nước, con chim không đập cánh thì sẽ trở thành một bộ xương ở gốc cây và cá nhân một người Cộng sản, mặc dù vẫn là con người ấy, chính thể ấy nhưng vẫn phải đổi thay từng bước.

Ngày hôm nay, Đảng Cộng sản cũng cần phải thay đổi để tránh những nguy cơ ấy.

Đầu tiên, có lẽ là học cách tin vào sự sáng suốt của nhân dân!

————–

http://antgct.cand.com.vn/So-tay/Chung-ta-da-thuc-su-tin-nhan-dan-377799/

Biểu hiện của người có văn hóa



Thế nào là người có văn hóa? Nhiều khi có những kẻ “chữ nghĩa đầy mình” lại hành xử vô văn hóa. Ngược lại, có những người dù ít học nhưng luôn hành xử tinh tế và lịch thiệp. Dưới đây là những đặc điểm của người có văn hóa.

Họ trân trọng cá tính con người, vì vậy luôn độ lượng, nhẹ nhàng và nhường nhịn… Họ không nổi đóa lên khi không vừa ý.

Họ bỏ qua những câu chuyện lúc ầm ĩ, lúc lạnh lùng. Bỏ qua những sai sót của người khác, những câu châm chọc, sự có mặt của người lạ trong nhà.

Họ có lòng trắc ẩn không chỉ với những người ăn mày, hay những con mèo. Tâm hồn họ đau đáu cả với những điều mắt thường không trông thấy được.

Họ tôn trọng tài sản của người khác, và vì vậy luôn nỗ lực trả hết các khoản nợ.

Họ trung thực và sợ sự dối trá như sợ lửa. Họ không nói sai cả trong những điều vặt vãnh. Nói dối là xúc phạm người nghe và hạ thấp người nói trong mắt người nghe.

Họ không phô trương, hành xử ở nơi công cộng như ở nhà, không phỉnh phờ lớp người trẻ tuổi… Họ cũng không ba hoa, không giãi bày tâm sự những khi không được hỏi đến. Tôn trọng người khác, họ thường im lặng.

Họ không tự hủy hoại mình để khơi dậy lòng cảm thông và sự chăm sóc, giúp đỡ của kẻ khác. Đó là việc làm của kẻ yếu đuối, hay mất phương hướng.

Họ không phù phiếm. Họ chẳng quan tâm đến những trò hư vinh, như việc quen biết các nhân vật danh tiếng, lời thán phục của đám tha nhân, làm trung tâm ồn ào nơi quán rượu…

Nếu họ có tài năng, thì họ biết trân trọng nó. Vì nó họ hi sinh những chuyện rượu chè, bài bạc, những việc lăng nhăng…

Họ cần sự tươi mới, tao nhã, sắc sảo nên không đánh giá cao đối tác ở khả năng giường chiếu. Họ không phải là con heo, hay ngựa…

Để hoàn thiện bản thân, họ luôn học hỏi, tìm tòi, suy ngẫm… Họ trân trọng thời gian đến từng phút từng giây.

Sưu tầm

Thứ Ba, 29 tháng 12, 2015

Tại sao Phật giáo gần như biến mất khỏi Ấn Độ


Philippe Cornu -Hoàng Phong dịch

Lời giới thiệu của người dịch : Ông Philippe Cornu là đương kim Chủ tịch Đại học Phật giáo Âu châu, Giảng sư tại Viện Quốc gia Ngôn ngữ và Văn minh Đông phương (Inalco) của Pháp. Ông cũng là một học giả uyên bác về Phật giáo, dịch nhiều kinh sách từ các tiếng Tây Tạng, Trung Hoa..., đồng thời ông cũng trước tác, viết báo và giảng dạy về Phật giáo. Một trong những công trình đáng kể của ông là quyển Tự điển Bách khoa Phật giáo.



Sau đây là một bài báo ngắn do nữ ký giả Cathérine Golliau phỏng vấn ông, đăng trên một tờ tạp chí lớn của nước Pháp là Le Point (số ngoại lệ với chuyên đề về nên Văn minh Ấn độ, số 3 tháng 7 và 8, năm 2008).
Báo Le Point: Có phải đấy là một phản ứng chống lại đạo Bà-la-môn hay không?

P. Cornu : Đức Phật xuất hiện vào một thời điểm mà các bản kinh Vệ-đà của đạo Bà-la-môn bị chỉ trích là chỉ biết chú trọng đến nghi lễ, một số người không chấp nhận khía cạnh ấy của đạo Bà-la-môn đứng ra soạn thảo các kinh điển mới gọi là Upanisad, các kinh này quan tâm nhiều hơn đến sự giải thoát cá nhân. Con đường của đức Phật nằm trong bối cảnh diễn tiến đó của kinh điển Upanisad, tuy nhiên tính cách đặc thù trong luận lý và kinh nghiệm của đức Phật khác hẳn các hình thức cải tiến của đạo Bà-la-môn qua các kinh điển Upanisad như vừa kể.

Báo Le Point : Đâu là những khác biệt chính yếu cho thấy những điểm trái ngược giữa hai trào lưu đó?

P. Cornu: Trọng tâm trong những lời giáo huấn của đức Phật là tính cách vô thường của tất cả mọi sự vật, sự kiện không hề có một “cái ngã” trường tồn, và những gì mà thông thường người ta gọi là sự tương liên hay là sự tương tạo dựa vào nhiều điều kiện, nguyên tắc ấy cho thấy mọi hiện tượng chỉ có thể hiện hữu bằng cách liên đới với nhau, những hiện tựơng này làm điều kiện giúp cho những hiện tượng khác hiện hữu.

Tham vọng muốn kiểm soát mọi vật thể và lòng ước mong chận đứng, bằng bất cứ giá nào, những chuyển động của vô thường, sẽ làm phát sinh những hiểu biết sai lầm về thế giới này và do đó chỉ đem đến khổ đau mà thôi.
Tại sao lại như thế?

Bởi vì tất cả những hành vi của chúng ta đều nhắm vào ý đồ kiểm soát thế giới này và mọi sự hiện hữu, và sự căng thẳng đó nhất thiết sẽ tạo ra một hố sâu khổng lồ ngắn cách một bên là những gì chúng ta mong muốn được nhìn thấy và tin rằng những thứ ấy là hiện thực, và bên kia là bản thể đích thực của hiện thực.

Báo Le Point : Tuy thế Phật giáo và Ấn độ giáo đôi khi lại sử dụng một số ngôn từ giống nhau…

P. Cornu : Đúng thế, nhưng ý nghĩa thì lại khác nhau. Hãy lấy thí dụ chữ “karma” (nghiệp) (1). Trong đạo Bà-la-môn thuộc hệ thống kinh điển Vệ-đà, karma tượng trưng cho một hành vi mang tính cách nghi lễ giúp hội nhập với thế giới thiêng liêng. Đối với Đạo Bà-la-môn cải tiến trong hệ thống kinh điển Upanisad, thì chữ karma lại mang ý nghĩa về luân lý : tùy theo hành vi mang phẩm tính thiện hay ác, sẽ tạo ra một loại khả năng tiềm tàng, và chính khả năng ấy sẽ chín muồi khi tái sinh trong một kiếp sống thuận lợi hay bất thuận lợi về sau.
Ngoài ra, Ấn Độ giáo lại chủ trương một hình thức định mệnh: chẳng hạn khi rơi vào một giai cấp nào thì phải tùy thuộc vào giai cấp ấy và không thể nào thoát ra được, bởi vì karma đã quyết định như thế.
Trong khi đó đối với Phật giáo, karma là một hành vi, và trước hết là một ý đồ trong tâm thức. Phật giáo phân biệt rõ rệt karma nguyên thủy làm nguồn gốc và hậu quả phát sinh sau đó từ karma, đấy là hai thứ khác nhau không thể lầm lẫn được. Sự phát sinh của hậu quả không thể tránh khỏi, nếu ta không làm gì cả để hoá giải nó, và hơn thế nữa ta còn có thể tinh khiết hoá cả karma trước khi nó chín muồi.
Mặt khác, karma không ép buộc con người phải sống một cách thụ động trong một cấu trúc xã hội đã quy định sẳn : mỗi cá nhân phải tự nắm lấy vận mệnh của mình để tự giải thoát cho chính mình ra khỏi karma, vì đó là một thứ động cơ thúc đẩy gây ra khổ đau, cần phải được khắc phục. Người ta cũng có thể tìm hiểu theo phương cách tương tợ đối với chữ “samsara” (luân hồi). Chữ samsara mang một ý nghĩa giống nhau trong cả hai nền triết học Bà-la-môn và Phật giáo, tức có nghĩa là sự hiện hữu dựa vào nhiều điều kiện.
Nhưng đối với Ấn Độ giáo, con người chỉ có thể thoát ra khỏi samsara khi nào linh hồn hay “cái ngã” (atman) được giải thoát để hội nhập với thể dạng Nhất Nguyên Vĩ Đại.
Trong khi đó đối với Phật giáo, samsara trước hết là một sự quán nhận, phát sinh từ nhiều điều kiện, về một sự hiện hữu do karma và dục vọng của chính mình tạo tác, vì thế mỗi cá nhân phải tự giải thoát chính mình ra khỏi cảnh giới luân hồi.Vì vậy, cần phải định nghĩa trở lại các ngôn từ trong từng trường hợp một.
Vòng quay Samsara (luân hồi)

Báo Le Poìnt: Phật giáo có thu nạp các vị trời (2) của Ấn giáo hay không?

P. Cornu: Có. Toàn bộ hậu cảnh huyền thoại của Ấn giáo đã được thu nạp vào Phật giáo. Nhưng ở đây cũng phải nhắc lại thêm một lần nữa, tuy Phật giáo đã thu nạp nhưng thu nạp với ý nghĩa hoàn toàn khác biệt.

Thật vậy, theo Phật giáo các vị trời đều được xem là thuộc vào cảnh giới samsara (luân hồi). Vi chính các vị trời vẫn còn vướng mắc trong sự lầm lẫn ! Dù cho họ có một đời sống lâu dài đi nữa, nhưng khi karma đã cạn, họ sẽ rơi vào một cảnh giới khác của samsara. Họ không thể thoát khỏi bản chất có tính cách toàn diện của khổ đau.

Báo Le Point : Nhưng tại sao nền triết học ấy chủ trương tìm kiếm sự giải thoát, lại còn cần đến các vị trời?

P. Cornu : Đức Phật không hề tìm cách bài bác bất cứ một thứ gì. Ngài chỉ đơn giản đặt mọi sự vật vào đúng vị trí của chúng. Các vị trời không phải là mục đích cũng không phải là những nhu cầu của Ngài, và đương nhiên không hề là một đối tượng cho sự nương tựa.
Trong Phật giáo người ta nương tựa vào nguyên tắc của Giác ngộ, vào những lời giáo huấn đưa đến Giác ngộ, và vào tập thể những người đã chọn những lời giáo huấn ấy. Đấy là những gì mà người ta gọi là Tam Bảo : Đức Phật, Dharma (đạo Pháp) và Sangha (Tăng đoàn).

Đức Phật là nguyên tắc của Giác ngộ, vì thế Ngài là một vị hướng dẫn; Dharma là những lời giáo huấn và cách thức tu tập mà Đức Phật đã khuyên bảo để giúp đưa đến Giác ngộ ; Sangha là tập thể Tăng đoàn, nhất thiết họ là những tu sĩ, những vị hiền nhân.
Các vị trời được xem như những gì mang tính cách truyền thống lâu đời : người ta kính trọng các vị ấy như những người láng giềng và xem họ là những biểu hiện mang tính cách dân gian, những vị ấy rồi sẽ tự xoá mờ, dần dần từng chút một, trước một mục đích cao rộng hơn. Chính sự bao dung đó đã giải thích sự thành công của Phật giáo. Đó là một nền triết học thật mềm dẽo đủ sức để thích ứng với tất cả mọi nền văn hoá.

Báo Le Point : Phật giáo không chấp nhận giai cấp trong xã hội. Vậy có phải Phật giáo chống lại trật tự xã hội của Đạo Bà-la-môn hay chăng ?

P. Cornu: Từ nguyên thủy, chủ đích của đức Phật không phải là thay đổi trật tự xã hội. Nhưng chỉ để thiết lập một dòng tu sĩ, nhưng vì vị thế tự đứng ra bên ngoài thế giới này, nên dòng tu sĩ ấy đã mở cửa đón nhận tất cả mọi cá nhân, thuộc tất cả mọi nguồn gốc và giai cấp, đúng hơn phải nói là Đức Phật đã tạo ra một sự dứt bỏ.

Báo Le Point: Phật giáo sau đó đã phát triển thật mạnh mẽ trong đế quốc của vua A-Dục. Tại sao Phật giáo đã chủ trương niềm tin về “vô ngã” lại có thể phù hợp được với sức mạnh của uy quyền ?

P. Cornu: Nền triết học đó không hề tìm cách thay đổi một xã hội, nhưng chỉ chủ trương sự biến cải cá nhân trong lòng của mỗi cá nhân : nhưng nếu vì thế mà xã hội có thay đổi đi nữa, thì đó chính là nhờ từng cá nhân đã tu tập để tự biến cải tận đáy lòng của chính họ.
A-Dục là một vị đế vương xuất thân từ dòng dõi võ bị ; triều đại khởi sự bằng chém giết: và chính vào thời điểm đó ông ta đã ý thức được khổ đau là gì và đã quy y.
Nhưng chúng ta cũng không nên lầm lẫn : quả thật có một huyền thoại mạ vàng về sự kiện vua A-Dục quy y làm một phật tử, và đã đem đến thanh bình và hạnh phúc cho toàn cõi đế quốc của ông. Trong đó có một phần sự thật, vì thực tế không hoàn toàn chỉ có màu hồng, dù sao đi nữa vua A-Dục cũng là một vị vua độc đoán...

Báo Le Point :Làm thế nào để giải thích Phật giáo đã chinh phục được cả Á châu lại biến mất ở Ấn độ, trong khi Ấn giáo gần như không bành trướng ra khỏi Ấn độ nhưng vẫn tiếp tục sinh động trên bán lục địa này?

P. Cornu: Phật giáo đối đầu với Ấn giáo, giống như là một hình thức cải tiến của Đạo Bà-la-môn khi Phật giáo tiếp xúc với Đạo này, Phật giáo ăn sâu vào các cấu trúc xã hội và được chính quyền nâng đỡ. Nhưng về sau đã bị các đạo quân Hồi giáo tiêu diệt khi xâm chiếm lãnh thổ Ấn độ.
Phật giáo chủ trương thiết lập những Đại học to lớn, chẳng hạn như Na-lan-đà, gồm hàng ngàn tu sĩ, đấy là nhưng nơi tập trung đông đảo về nhân sự nên dễ bị tiêu diệt. Ấn giáo dựa vào cấu trúc gia đình vì thế khó bị hủy diệt hơn (3).
Cũng nên thẳng thắn mà nói: chính những đạo quân Hồi giáo đã làm cho Phật giáo biến mất ở Ấn độ giữa buổi bình minh của thế kỷ XIII.

GHI CHÚ THÊM CỦA NGƯỜI DỊCH

1- Karma : tức là nghiệp. Kinh sách Tây phương không dịch mà thường dùng thẳng một số ngôn từ có tính cách đặc thù của Phật giáo dưới hình thức chữ Phạn. Chẳng hạn như các chữ Dharma, samsara, nirvana, atman v.v… Kinh sách tiếng Việt quen dùng các từ dịch từ tiếng Hán, và người đọc cũng đã quen với ý nghĩa của các từ ấy. Tuy nhiên người dịch xin giữ lại các từ tiếng Phạn đúng như trong nguyên bản của bài viết này, chỉ thêm từ tương đương gốc tiếng Hán giữa hai dấu ngoặc.
2- Các vị trời ở đây có nghĩa là các thánh nhân, thiên nhân, thần linh, các đấng thiêng liêng, v.v… được tôn thờ trong Đại thừa Phật giáo. Một số có nguồn gốc Ấn giáo, một số phát xuất từ các nên văn hoá địa phương tùy theo quốc gia nơi Phật giáo phát triển.
3- Thật ra Phật giáo đã bắt đầu suy thoái trước đó. Người Hung nô hết sức thù nghịch với Phật giáo, và vào thế kỷ thứ V, các đạo quân của họ xâm chiếm Tây bắc Ấn độ, đã tàn phá tất cả các trung tâm Phật giáo trong vùng này. Chính quyền trung ương Ấn độ cũng bị tan rã, Hoàng triều Gupta xụp đổ. Phật giáo di chuyển dần về các vùng trung tâm trên lãnh thổ Ấn. Các vương quốc phía Nam tuy không thù nghịch hẳn với Phật giáo, nhưng cũng không hổ trợ Phật giáo như các vua chúa của vùng Bắc Ấn.
Sau người Hung nô, các đạo quân Hồi giáo phát xuất từ Afghanistan lại xâm chiếm nước Ấn, họ tàn phá trung tâm Đại học Na-lan-đà vào năm 1199, thiêu hủy thư viện khổng lồ của Na-lan-đà và giết hết các tu sĩ.
Biến cố đó đánh dấu sự chấm dứt cuối cùng của một trang lịch sử vô cùng rực rỡ của Phật giáo kéo dài mười bảy thế kỷ trên đất Ấn.
Nguồn: wwwthuvienhoasen.org