Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2015

Ngoại tình, Paulo Coelho – Con sâu nhỏ rồi sẽ hóa thành bươm bướm


“Ah Paulo Coelho! Nhà giả kim!” Hẳn là không ít các bạn bật ra điều đó trong tâm trí ngay tắp lự. Nhưng hãy tạm quên chúng đi vì tôi sắp sửa nói về một cuốn tiểu thuyết hoàn toàn khác của tác giả người Brazil này. Nó mang tựa đề Ngoại tình. Những giá trị tinh thần đã được truyền đạt một cách xuất sắc thông qua cuộc hành trình khủng hoảng mang tính bước ngoặt trong cuộc đời của một người phụ nữ. Rất có thể sau khi đã thưởng thức cuốn sách thì ấn tượng mà nó để lại sẽ khiến câu cảm thán kia kéo dài ra thành “Ah Paulo Coelho! Nhà giả kim! Ngoại tình!”

(Các bạn biết không? Ông ta còn cuốn "Mười một phút" nữa đấy!)

...

Ờm! Mọi chuyện bắt đầu khi nhân vật chính của tác phẩm, Linda, chợt nhận ra rằng cô đang sống một cuộc đời đơn điệu và nhàm chán ghê gớm, cho dù có hàng vạn kẻ ngoài kia mơ ước được giống như vậy - một gia đình êm ấm, một sự nghiệp thành công và đời sống vật chất dồi dào. Cô đang dần đánh mất đam mê với mọi thứ khi ở trong tự tẻ nhạt lặp lại ngày qua ngày. Và Linda đã rơi vào một biến động tâm lý mà nó khiến cô ấy buộc phải hành động để thay đổi, để thoát khỏi vòng lặp của sự đơn điệu và sau đó là vòng lặp của cơn trầm cảm.

Khi một người nhận ra mình đang ở vùng an toàn, ngọn lửa đam mê với cuộc sống đang ngày một tàn lụi, họ chợt thấy mình dần trở nên giống một cỗ máy được lập trình để làm việc hơn là một thực thể sống sinh động. Tiếng nói của linh hồn người ấy càng kéo đến dồn dập hơn nữa để thúc giục kẻ đó đi tìm giá trị sống đích thực cho chính mình. Ban đầu, họ sẽ hoang mang khi chẳng hiểu chuyện gì đang diễn ra ở bên trong tâm hồn mình, rồi đến bất an hàng đêm khi lo sợ ngày mai thức dậy cái máng lợn cũ vẫn ở đó và nếu mọi chuyện cứ tiếp tục tái diễn, họ sẽ rơi vào một vực thẳm đen ngòm không lối thoát. Vì sao? Vì họ vừa sợ thay đổi và vừa sợ không thay đổi.

Nhưng cuối cùng Linda đã dám thay đổi, cô ấy đã lắng nghe tiếng nói của trái tim và tìm đến nơi mà bản thân sẽ lấy lại được niềm cảm hứng sống. Hay nói một cách khác đó là nhân vật chính đã quyết định nổi loạn: Ngoại tình, lên kế hoạch trả thù tình địch, v.v... Những giá trị đạo đức xã hội được thách thức, tòa án lương tâm cũng được một phen điêu đứng khi mà những hành động của người phụ nữ 31 tuổi đầy thành đạt này hoàn toàn dựa theo trực giác. Có thể nói Linda là người có một bản năng sống rất mạnh mẽ: Cô ấy làm mọi cách để có thể đi đến câu trả lời cuối cùng cho chính mình, bất chấp việc trái phép tắc và trái luật pháp. Linda biết rằng chỉ có duy nhất một điều sẽ cứu chuộc chính mình khỏi hố đen của cơn trầm cảm đó là không làm trái tiếng gọi của linh hồn.

Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lựa chọn nhân vật chính là một người nữ với một cuộc khủng hoảng tinh thần chứ không phải một người nam. Vì tính nữ là biểu tượng của trực giác, khả năng lắng nghe tiếng nói bên trong, những phức tạp và vi tế nhất của xúc cảm. Sẽ chẳng còn gì thích hợp hơn việc đi sâu vào thế giới tinh thần ấy thông qua bức tranh nội tâm của một người phụ nữ.

Nói đến đây tôi chợt hiểu ra vì sao người ta có cảm giác nhân vật Naoko trong tiểu thuyết Rừng Na-uy giống như một cái giếng không đáy sâu hun hút khi nàng trong cơn trầm cảm. Vì tác giả của Rừng Na-uy để góc nhìn từ một người khác mà lại là nhân vật nam nên chuyện nắm bắt được Naoko là điều bất khả. Đó là một trong những lý do khiến người đọc bị cuốn tiểu thuyết này ám ảnh và mê hoặc đến mức đắm chìm.

Paulo Coelho đã rất tài tình trong việc mô tả tâm lý nhân vật chính bằng cách để Linda tự kể lại chuyện đời mình, tự nói lên mọi suy tư, xúc cảm của bản thân. Người đọc không chỉ được nhìn ngắm một linh hồn trần trụi để có thêm cơ may thấu hiểu trạng thái của kẻ đó mà còn đang được dạy một bài học về cách đối diện với chính mình trong những giờ phút khó khăn của cuộc đời. Mọi biến cố diễn ra chỉ là để chúng ta quay về với chính mình, khám phá ra những góc phần mà trước kia mỗi người chưa có cơ hội được bước tới. Dù rằng nó có đen tối đến mức nào đi chăng nữa, chúng ta không thể thoái lui được vì ván cờ đã bắt đầu.

Đọc những dòng tâm tư của Linda mà ta chợt thấy rằng mình cũng đã từng có những phút giây như vậy: Đơn độc, hoang mang, dằn vặt, bất an và bị choáng ngợp. Nhưng rồi chính nhờ việc trải nghiệm những trạng thái đó nên người phụ nữ này có thể nhận ra chính xác hành động nào của mình là đúng đắn, vì nó sẽ mang lại cho cô cảm giác về sự bình an trong tâm hồn. Đây chính là điều thú vị nhất mà tôi thấy được ở trong cuốn sách này khi cuộc hành trình trưởng thành của con người được gây dựng dựa trên bản chất nhị nguyên (hay cá nhân tôi vẫn gọi là “quy tắc phần bù”). Linda ngoại tình rồi sau đó nhận ra tình yêu thương vô bờ của người chồng dành cho mình. Cô trải qua sự nhạt nhẽo đơn điệu để tìm lại được cảm giác đam mê nồng nhiệt. Cô đánh mất điểm trụ vào cuộc sống để biết cách bám rễ vào nó sâu hơn bao giờ hết.

Chúng ta rồi cũng cần phải đi qua mọi thái cực để có một cái nhìn trọn vẹn về cuộc sống. Nếu bạn không yêu ai đó với hàng tá điều kiện đính kèm thì bạn sẽ chẳng có cơ may nào để hiểu về tình yêu vô điều kiện. Nếu bạn không điên đảo truy tìm sự bình an thì bạn sẽ không bao giờ biết thế nào là dừng lại cùng với một sự tĩnh lặng vô bờ. Và nếu bạn không lạc lối ít nhất là một lần trong đời thì bạn sẽ chẳng thể tìm lại được con đường dành cho mình. Chúng ta sống ở Trái Đất và làm một con người với không ít những góc phần ích kỷ, yếu đuối, thậm chí là bốc mùi thối tha. Nhưng chỉ khi nào chúng ta dám nhìn vào và chấp nhận những khía cạnh ấy để rồi hiểu ra sự sống đang biểu lộ hết mình ở mọi điểm cực thì chuyện thối hay thơm sẽ chẳng còn quan trọng nữa. Tất cả những gì còn lại là niềm vui sướng hân hoan khi ta có một trạng thái sống đầy trù phú.


“Ban đêm, với mọi vẻ quyến rũ của nó, là một con đường dẫn đến sự khai sáng, cũng như tận đáy giếng sâu có làn nước làm tan cơn khát, những bí ẩn của màn đêm mang chúng ta đến gần hơn với Chúa, màn đêm chứa ngọn lửa có thể thắp sáng linh hồn ẩn giấu trong bóng tối.”


Vậy nên chẳng cần nghe ngóng, hy vọng sách vở hay Thần Phật gì dạy bảo vì họ chẳng biết chúng ta đang ở giai đoạn nào đâu. Điều chúng ta cần làm là lắng nghe tiếng nói của trái tim và cứ thế tiến lên, không cần biết lý trí của mình hay miệng của người khác bảo chuyện đó là sai trái mức nào. Hãy cứ đi vì đến cuối cùng ta sẽ tự biết thế nào là đúng, ta sẽ trưởng thành. Con sâu nhỏ rồi sẽ hóa thành bươm bướm!

Ngoại tình đã mô tả được trọn vẹn cuộc hành trình của một con người tìm đến được khúc ca Khải Hoàn của chính mình. Đó là một sự chuyển tiếp giữa hai giai đoạn phát triển, là điểm nút của quá trình tiến hóa. Linda cần thay đổi, cần phá vỡ cấu trúc cũ để vươn tới một hình hài mới sinh động và tươi mới hơn. Thứ cô cần chính là lửa, là màu đỏ, sự biến đổi gốc rễ. Có rất nhiều trải nghiệm mang sắc đỏ như là chiến tranh, bạo lực, cái chết, tình dục, v.v… nhưng Paulo Coelho đã chọn tình dục để diễn tả cuộc biến đổi của người phụ nữ đầy ý chí ấy. Tình dục sẽ giúp người đọc dễ dàng thấu hiểu được trạng thái của nhân vật hơn khi sự tiếp cận sẽ đến từ cả cảm nhận vật lý và xúc cảm tinh thần.

Paulo Coelho cũng có một tác phẩm về đề tài tình yêu - tình dục mà tôi đã nhắc tới lúc ban đầu, đó là cuốnMười một phút. Cô gái ở trong tiểu thuyết ấy đã thông qua những trải nghiệm về thể xác để vươn đến giá trị tinh thần cho chính mình. Họ đều bứt ra khỏi vùng an toàn để trải nghiệm cuộc sống, để thách thức giới hạn của bản thân. Cả hai nhân vật nữ này khiến tôi nhận ra rằng chỉ có kẻ nào dám sống thì sự sống mới ủng hộ, kẻ nào cất bước đi tìm thì trí tuệ mới soi sáng và kẻ nào thương yêu thì mới được tình yêu che chở.

Cuốn sách thật sự mang lại một nguồn cảm hứng và động lực sống mãnh liệt cho những ai đang rơi vào hoàn cảnh bế tắc hay khủng hoảng tương tự. Nó giúp người ta tin tưởng vào cuộc hành trình mà mình đang đi sẽ mang lại những điều mà kẻ đó cần nhất để trưởng thành. Không quan trọng bạn là ai, miễn là bạn muốn tiếp tục sống thì hãy cứ dấn bước đừng ngại ngần hay lo sợ. Cơn đau có thể vẫn còn phảng phất và cái hố đen thăm thẳm có thể vẫn đang rình rập để kéo bạn trở lại. Nhưng bằng mọi giá bạn không được dừng chân. Vì dừng chân sẽ tương đương với việc bạn tự đi chôn sống mình vậy!

Tôi rất thích những chi tiết cuối cùng của cuốn sách, khi Linda nhảy dù và cô cảm thấy như mình đã thoát ra được khỏi thực tại đen tối. Người phụ nữ ấy thấy một khoảng không gian bất tận đầy mới lạ, một sự giao tiếp tinh thần rõ ràng với thiên nhiên đất trời, một sự bình an tuyệt đối. Nhưng điều quan trọng là khi trở về với mặt đất, Linda đã tìm lại được tình yêu bên trong mình, dẹp bỏ quá khứ thương tổn sang một bên và nâng niu cuộc đời này hơn bao giờ hết. Chuyến nhảy dù đó khiến tôi liên tưởng đến những người rơi vào trạng thái trầm cảm, khủng hoảng tinh thần nên tìm đến những chất kích thích, chất gây nghiện để trốn tránh cuộc đời. Họ không đủ tỉnh táo và sức mạnh để nhận ra rằng trải nghiệm “bay” đó là lời nhắc nhở người đó cần tách ra khỏi vòng lặp cũ chứ không phải là họ thật sự cần “bay” mãi như vậy. Vì quên mất cách yêu cuộc đời này rồi nên người ấy đang muốn về lại với Cha Trời hơn là sống tiếp với Mẹ Đất!

Paulo Coelho viết về đời sống hôn nhân gia đình cùng những cuộc mây mưa ngoài vòng kiểm soát. Nếu bạn lo ngại rằng mình chưa từng trải qua hôn nhân, cũng chưa từng nếm mùi tình dục hay thậm chí còn chưa từng yêu ai bao giờ nên sẽ chẳng thể hấp thụ được cuốn sách này thì bạn đã nhầm to rồi. Tất cả những thứ đó chỉ là cái vẻ về ngoài, là cái cớ. Những giá trị mà cuốn sách truyền đạt nhiều hơn rất nhiều một cuộc ngoại tình. “Có dò là để bắt thỏ, đặng thỏ, hãy quên dò.”

Văn phong của Paulo Coelho rất cởi mở, vững chãi, ngôn từ không hề rườm rà, hoa mĩ. Kết cấu truyện cũng rất đơn giản, dễ nắm bắt, đi thẳng vào vấn đề nhưng khối lượng nội dung thì thật sự đồ sộ. Phần cuối cùng của tác phẩm hiện ra hàng loạt những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng như đại bàng, sông núi, mặt trời, chuyến bay, chân chạm đất, tuyết rơi, năm mới, số 12. Chúng như là những từ khóa đúc kết lại nội dung cốt yếu của toàn bộ tác phẩm về sự bứt phá, rộng mở trong nhận thức tâm linh cũng như sức mạnh nội tại, sự kết thúc một cuộc hành trình, mở ra một cuộc đời mới với nhiều đam mê, sức mạnh và sự lạc quan. Ở đây, Ngoại tình là một câu chuyện kết thúc có hậu!


“Nhưng một điều sẽ mãi mãi để lại dấu vết trong Tâm linh vũ trụ: Tình yêu của tôi. Bất chấp những sai lầm, những quyết định khiến người khác phải đau khổ, và những khoảnh khắc khi bản thân tôi nghĩ nó không tồn tại.”

9/10 là điểm dành tôi cho tác phẩm này.
Chúc các bạn có những cuộc hành trình giàu ý nghĩa. Yeah!

Vũ Thanh Hòa

Những tư tưởng tạo nên bước nhảy vọt kỳ diệu của Nhật Bản





 Fukuzawa Yukichi (1835-1901)
.


Những tư tưởng làm nên bước nhảy vọt của Nhật Bản Fukuzawa Yukichi (1835-1901) là một nhà tư tưởng “khai quốc công thần” có ảnh hưởng sâu và rộng nhất đến xã hội Nhật Bản cận đại. Những tư tưởng về chính trị, xã hội, kinh tế mà Fukuzawa truyền bá đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của Nhật Bản cận đại.

Tài năng và nhân cách Fukuzawa Yukichi thăng hoa cùng với những năm tháng của cuộc cải cách Minh Trị duy tân. Ông đã để lại trước tác với số lượng lên tới hàng vạn trang, trong đó tiêu biểu phải kể đến là“Khuyến học” (Gakumon no susume) được ông viết trong thời gian 1872 – 1876. Khi mới được in lần đầu, cuốn sách này có một số lượng ấn bản kỷ lục là 3,4 triệu bản, trong khi dân số Nhật Bản thời đó chỉ khoảng ba mươi lăm triệu người. Chỉ riêng điều đó đã cho thấy đây thực sự là cuốn sách gối đầu giường của mọi người dân Nhật trong thời kỳ Duy Tân. Kể từ đó đến nay, cuốn sách này đã được tái bản liên tục, chỉ tính từ năm 1942 đến năm 2000, riêng nhà xuất bản Iwanami Bunko cũng đã tái bản đến 76 lần.

  

Trong cuốn sách này, Fukuzawa Yukichi đề cập tinh thần cơ bản của con người và mục đích thực thụ của học vấn. Với các chương viết về sự bình đẳng, quyền con người, ý nghĩa của nền học vấn mới, trách nhiệm của nhân dân và chính phủ trong một quốc gia pháp trị… Khuyến Học đã làm lay chuyển tâm lý người dân Nhật Bản dưới thời Minh Trị. Với tuyên ngôn “Trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra người đứng dưới người”, Fukuzawa Yukichi đã gây kinh ngạc và bàng hoàng – như “không tin vào tai mình” – cho đa số người dân Nhật Bản vốn bị trói buộc bởi đẳng cấp, thân phận, quen phục tùng phó mặc và e sợ quan quyền suốt hàng trăm năm dưới chính thể phong kiến Mạc phủ. Ông khẳng định mọi người sinh ra đều bình đẳng và nếu có khác biệt là do trình độ học vấn.

Về học vấn, Fukuzawa Yukichi phê phán lối học “từ chương” và nhấn mạnh Nhật Bản phải xây dựng nền học vấn dựa trên “thực học”. Nền học vấn thực học phải gắn liền với cuộc sống hằng ngày, phải dựa trên tinh thần khoa học, tinh thần độc lập, tính thực dụng. Việc tiếp thu văn minh phương Tây phải có chọn lọc.

Quan điểm xuyên suốt cuốn sách là “Làm thế nào để bảo vệ nền độc lập Nhật Bản” trong bối cảnh các cường quốc phương Tây đang muốn biến toàn bộ châu Á thành thuộc địa.Với độc giả Việt Nam hiện nay, nhiều tư tưởng của Fukuzawa Yukichi trong Khuyến Học có lẽ không còn là điều mới mẻ gân chấn động lòng người như đối với người dân Nhật Bản ở thời Minh Trị. Tuy nhiên, cách đặt vấn đề của ông thì vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự đối với những quốc gia đang trên con đường hiện đại hóa.

Cuốn “cẩm nang” của người Nhật này cũng sẽ giúp cho độc giả Việt Nam hiểu rõ hơn những đặc điểm về tính cách và tinh thần của người Nhật Bản hiện đại, những người từ thân phận nông nô “ăn nhờ ở đậu”, nhờ có sự khai sáng của những con người như Fukuzawa Yukichi mà đã trở thành “quốc dân” của một đất nước Nhật Bản hiện đại và văn minh như ngày nay.
Xin trích giới thiệu một số trích đoạn của cuốn sách với bạn đọc. Các bạn cũng có thểclick vào đây để download e-book cuốn sách (.PRC file).

Trích cuốn Khuyến Học, Fukuzawa Yukichi (1835-1901)

1. Quốc dân không có chí khí độc lập, không có tinh thần tự do thì Lòng yêu nước cũng hàm hồ, nông cạn, vô trách nhiệm.

2. Nếu như có kẻ gây phương hại đến nguyên tắc (độc lập, tự do) thì dù có phải biến cả thế giới thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ, huống hồ chúng ta phải sợ một số quan chức chính quyền lộng quyền?

3. Đáng buồn là nước ta chỉ có người Nhật mà không có quốc dân Nhật.

4. …đối thủ mà các bạn phải tranh đấu về trí tuệ là những người phương Tây. Nếu các bạn thắng trong cuộc đọ sức tri thức này thì vị thế của nước Nhật Bản sẽ dâng cao trên trường quốc tế. Còn ngược lại, nếu các bạn thua, thì chúng ta, những người Nhật Bản, sẽ mãi mãi thấp kém dưới con mắt người phương Tây.

5. Thử nhìn lại xem, không ít người trong nhân dân dưới thời Minh Trị vô học, mù chữ, cái thiện, cái ác không phân biệt nổi, chỉ biết ăn xong rồi lại ngủ, “vô công rồi nghề”. Không những thế, thường đã ngu dốt lại hay tham vọng, tìm mọi cách lừa đảo, luồn lách pháp luật, không cần hiểu ý nghĩa của luật pháp, không cần biết đến nghĩa vụ của bản thân, chỉ biết đẻ cho thật nhiều con nhưng lại không hề chăm sóc, dạy dỗ chúng.

Những kẻ ngu dốt đó không biết xấu hổ và con cái của họ khi lớn lên cũng chẳng có ích gì cho đất nước, trái lại chỉ là gánh nặng, nỗi khổ cho xã hội. Xã hội mà toàn là những con người như vậy thì có đem đạo lý ra giảng giải cũng vô ích, chỉ còn cách buộc phải làm là dùng sức mạnh để răn đe, để trấn áp những hành động bạo lực, hành vi quậy phá, phá rồi mà thôi. Đó cũng là lý do khiến cho các chính phủ chuyên chế, chính phủ độc tài được thể tồn tại trên thế giới.

6. Nước Nhật chúng ta hiện nay yếu kém, hoàn toàn không thể sánh vai với các cường quốc Âu, Mỹ giàu mạnh. Nhưng về quyền lợi, với tư cách là một quốc gia, thì chúng ta hoàn toàn ngang hàng với họ. Trường hợp nếu các cường quốc phương Tây đi ngược lại đạo lý quốc tế, xâm phạm đến lãnh thổ của chúng ta thì cho dù có phải biến cả thế giới này thành kẻ thù, chúng ta cũng quyết không sợ. Như tôi đã nói ở phần 1, khi đất nước bị làm ô nhục thì tất cả người Nhật chúng ta sẵn sàng xả thân để bảo vệ đến cùng thanh danh của Tổ quốc.

Nhưng, còn tình trạng giàu, nghèo, mạnh, yếu dứt khoát không phải là do mệnh Trời hoặc là do ý Trời mà ta đành phải cam chịu. Mà đó là do con người có nỗ lực hay không chịu nỗ lực mà thôi. Nhờ nỗ lực như thế, không biết chừng mới hôm qua còn là kẻ ngu dốt, nhưng ngày mai đã trở thành người tài giỏi; mới hôm qua còn tự vỗ ngực giàu mạnh, nhưng ngày mai trở nên hèn kém. Từ xa xưa, lịch sử đã nhiều lần minh chứng cho điều này.

7. Nếu như toàn thể quốc dân, ai nấy đều chỉ tìm cách dựa dẫm hay ỷ lại vào người khác, không có tính tự lập thì khi ra xã hội cũng sẽ lại trở thành những kẻ chuyên ăn bám đục khoét tiền của của đất nước, của các tổ chức xã hội. Giữa cá nhân với cá nhân có lẽ cũng chẳng còn ai sẵn lòng giúp đỡ ai. Tất cả đều dửng dưng với nhau, còn nhìn thấy người mù lòa qua đường cũng không có một ai chìa tay ra giúp đỡ…


8. Cổ nhân có câu: “Dân thì phải tuân theo sự cai trị. Còn cai trị thế nào thì dân không cần phải biết”. Câu này có nghĩa là ở trên đời, những người hiểu được đạo lý không nhiều. Chi bằng thiểu số người đó lên nắm chính trị, cai trị nhân dân, bắt dân phai tuân theo chính sách vạch ra là được. Không cần phải thông báo hay giải thích gì cả. Như thế tốt hơn là việc cái gì cũng phải giải thích, phải cắt nghĩa, mà có giải thích xong, cắt nghĩa xong thì đâu lại vào đấy cứ như nước đổ đầu vịt vậy.

Đây là lời răn của Khổng Tử. Nhưng lời răn này thật phi lý, hoàn toàn xa rời thực tế.

Người có năng lực để có thể cai trị được dân chúng thật ra rất ít ỏi. Trong cả ngàn người may ra mới có được một người. Giả dụ, dân số của một quốc gia nọ là một triệu người. Trong số đó chỉ có 1.000 người có tri thức. 990.000 người còn lại là những kẻ một chữ cắn đôi cũng chịu. Cứ cho rằng 1.000 người có trí tuệ đó, cai trị số dân ngu bằng tất cả lòng yêu thương, chăm bẵm họ như chăm bẵm bầy cừu. Và 990.000 người mù chữ này cũng một mực tuân theo lời răn dạy của “cha mẹ dân”, sống trong cảnh ngu si hưởng thái bình. Cứ như thế, dần dần quan hệ chủ nhân và khách ăn nhờ ở đậu. Mà đã là phận khách ăn nhờ ở đậu thì nhân dân (khách) cứ chỉ biết dựa vào chính phủ (chủ nhân). Người dân đâu cần màng tới việc nước, càng không chút mảy may lo lắng vận mệnh quốc gia. Việc quốc gia đại sự đã có chủ nhân lo rồi…

9. Dưới mắt tôi, việc điều hành đất nước không mang lại kết quả cũng có nghĩa là trình độ của chính phủ Minh Trị đại để cũng chỉ như trình độ của chính quyền phong kiến chuyên chế mà chúng ta đã lật đổ. Nhân dân ta vẫn còn trong vòng u mê như xưa, cũng có nghĩa là người dân dưới thời Minh Trị cũng vẫn chỉ là người dân dưới thời Mạc phủ, không hơn không kém. Hãy thử so sánh công lao, sức lực, tiền của mà chính phủ đã bỏ ra với kết quả đạt được thì mới thấy ít ỏi biết nhường nào.

Qua đó tôi muốn khẳng định với mọi người rằng nền văn minh của quốc gia không thể tiến bộ nếu chỉ bằng quyền lực của chính phủ.

10. Trên cương vị cá nhân thì người nào cũng tỏ ra thông thái. Nhưng hễ trở thành quan chức chính quyền thì sự thông thái thường thấy lại biến đi đâu mất. Nhưng khi tập hợp nhau trong tập thể thì cái cảnh “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” thường xuyên xảy ra.

Tôi buộc phải nói rằng chính phủ Nhật Bản hiện nay là một tổ chức của nhiều người có tri thức, tập hợp nhau lại để làm một việc hồ đồ. Có lẽ họ đã không thể phát huy được cá tính vì bị trói buộc bởi nếp nghĩ theo kiểu “chủ nghĩa bình yên vô sự”.

Chính sách của chính phủ không hiệu quả là vậy. Bằng một số kế sách như dùng những lời lẽ hoa mỹ mị dân, dùng quyền lực, áp đặt văn minh…. chính phủ có thể giật dây được dân chúng. Nhưng như thế cũng chỉ là nhất thời mà thôi. Chính phủ trị dân bằng uy quyền thì dân sẽ đáp lại bằng sự giả vờ chấp hành. Chính phủ lừa dối cũng sẽ tạo ra vỏ bọc hữu hiệu. Mà cứ như vậy thì không thể chỉ dựa vào quyền lực để thúc đẩy văn minh xã hội.

11. Từ đời này qua đời khác, người ta chỉ học để làm quan chứ có ai muốn học để làm dân đâu. Làm quan đã trở thành cái đích trong cuộc đời. Ngay cả các bậc tiên sinh danh giá cũng không thoát khỏi ảnh hưởng đó. Tuy nhiên, xu hướng “làm quan” cũng là điều dễ hiểu vì khí chất xã hội đã khiến người ta phải như vậy. Cứ thế, trào lưu “quyền lực là chìa khóa vạn năng” nhiễm sâu vào lòng người. Nên dân ta ai cũng chỉ muốn làm trong công sở chính quyền, rồi tìm cách leo lên hàng quan chức chính phủ để có quyền hành và bổng lộc.

Thí dụ: gần đây trên các tờ báo hiếm thấy bài viết nào có ý kiến ngược lại với ý kiến của chính phủ. Lâu lâu chính phủ đưa ra được một vài chính sách cải cách nho nhỏ, tức thì những bài viết tán dương tâng bốc chính phủ xuất hiện đầy rẫy trên mặt báo. Những bài viết như vậy có khác nào thái độ phỉnh nịnh khéo léo của các cô gái làng chơi để lấy lòng khách mua hoa đâu. Tệ hại hơn nữa, những người viết bài đó lại chính là những thành viên trong nhóm Tây học. Thật khó có thể chấp nhận. họ đâu có phải là “gái làng chơi” và lại càng không phải là những kẻ tâm thần hay thiếu hiểu biết.

Thái độ xu nịnh và suy nghĩ cơ hội đang đầy rẫy trong xã hội Nhật Bản như hiện nay là do đâu? Vì chưa có được một minh chứng thực tế nào chứng tỏ có tự do dân quyền trong xã hội, vì người Nhật Bản đã nhiễm quá nặng bản tính nhu nhược, không còn nhìn ra bản sắc vốn có của mình.

Tóm lại, hiện nay Nhật Bản có chính phủ, có cả dân. Nhưng có lẽ chúng ta mới chỉ có dân mà chưa có “quốc dân Nhật Bản”.

12. Khai hóa văn minh bắt đầu từ việc tự mình bắt tay vào làm và chứng minh bằng thực tế cụ thể, cho mọi người tận mắt thấy việc thực. Làm trước nói sau. Chứ không thể để như tình trạng nước ta hiện nay, hễ định làm gì cứ phải họp bàn, giải thích, thảo luận dài dòng vô bổ. Chính phủ có quyền ban bố chỉ thị, mệnh lệnh. Nhưng hiểu và biến chúng thành hiện thực phải là nhân dân, là khu vực tư nhân. Chính vì thế, song song với việc mở trường tư thục, chúng ta quyết định thực hiện sự nghiệp khai sáng cho dân chúng bằng cách giảng dạy học thuật, làm thương nghiệp, nghiên cứu luật pháp, xuất bản sách, phát hành báo, với tư cách của một người thuộc khu vực tư nhân, không nằm trong chính phủ.

Chúng ta làm việc này trong phạm vi, bổn phận của một quốc dân làm theo luật pháp, không sợ làm mất mặt chính phủ. Nếu chính phủ đi ngược lại lợi ích của nhân dân, với bổn phận của mình, chúng ta sẽ đường đường chính chính kháng nghị, tranh luận với chính phủ cho đến khi chính phủ tỉnh ngộ, giành lại chữ “Tự do Dân quyền”.

13. Trình độ của nền văn minh hiện có ở nước ta là kết quả của bao đời ông cha chúng ta tự lực làm nên, nhưng nếu đem so với phương Tây thì rõ ràng “mình mới bước được một bước thì người ta đã nhảy ba bước”. Đã chậm hơn phương Tây thì đương nhiên phải học, đằng này trong chúng ta lại nảy sinh tư tưởng chỉ biết ngồi bi quan than thở: vì họ chạy nhanh như vậy ta có cố mấy cũng chẳng làm sao mà bằng được phương Tây.

Đến giờ chúng ta mới cảm nhận được môt thực tế là nền độc lập của nước ta sao mà mong manh, yếu ớt đến khi đứng trước sức mạnh của phương Tây.

14. Không thể đánh giá được công cuộc khai hóa văn minh của một nước nếu chỉ nhìn vào diện mạo bề ngoài không thôi. Dù chính phủ Minh Trị có tự mãn đến mấy vì đã xây dựng đợc rất nhiều trường học, nhà máy xí nghiệp, xây dựng lục quân hải quân, thì tất cả những thứ đó cũng chỉ là cái vỏ bên ngoài, chỉ là “phần xác” của một quốc gia văn minh. Để hoàn thiện hình thức bề ngoài thì rất đơn giản vì chỉ cần có tiền. Có tiền là xây được trường học, mua được máy móc, dựng được nhà xưởng, trang bị, súng ống, tàu bè cho quân đội.
Nhưng, có một vấn đề không hiện ra thành hình ở đây. Vấn đề này mắt không nhìn thấy, tai không nghe được, không thể mua bán, không thể vay mượn. Nó liên quan tới hết thảy người Nhật Bản chúng ta. Nó có ảnh hưởng rất mạnh. Không có nó, mọi hình thái của văn minh như những gì mà tôi đã nêu ra ở trên đều không thể phát huy được hiệu quả trong thực tế. Nó là cái quan trọng nhất và phải được coi là “phần hồn” của văn minh. Vậy đó là cái gì?

Đó chính là: “Chí khí độc lập của nhân dân, tinh thần độc lập của nhân dân”!

15. Thời gian qua, chính phủ nước ta ra sức xây dựng trường học, chấn hưng xí nghiệp nhà xưởng, cải cách quân đội và hầu như đã hoàn tất diện mạo bề ngoài, “phần xác” của một nước văn minh trên đất Nhật Bản. Thế nhưng, cái quan trọng nhất mà chúng ta thiếu đó là chí khí, tinh thần của nhân dân để đưa đất nước thực sự độc lập, thực sự bình đẳng với phương Tây. Nhân dân ta cũng không có cả chí khí tinh thần quyết không để đất nước thua kém phương Tây. Và không chỉ nhân dân không có chí khí đó tinh thần đó mà ngay cả những quan chức chính phủ – những người có trách nhiệm phải tìm hiểu phương Tây – cũng thế, chưa tìm hiểu thì họ đã tặc lưỡi buông xuôi, vì chính họ cũng mang tâm lý tự ti, mặc cảm trước phương Tây. Đã tự ti và mặc cảm như vậy thì còn đầu óc đâu để mà tỉnh táo nắm bắt tình hình được nữa.

Vấn đề chính là ở chỗ: nếu không có chí khí độc lập, tinh thần độc lập thì mọi hình thái của văn minh chỉ còn là hình thức, hoàn toàn vô dụng.

16. Chính quyền phong kiến Mạc phủ trước đây, chỉ biết dùng quyền lực để cai trị, còn chính phủ Minh Trị hiện nay, dùng cả sức và trí để cai trị. Chính quyền cũ không biết thủ thuật để cai trị dân, còn chính phủ mới bây giờ thì ngược lại. Chính quyền cũ dùng mọi cách làm tê liệt, làm rã rời sức dân, chà đạp tới tận chân tơ kẽ tóc của dân, quy định cả cách ăn mặc, đi đứng của mọi thành phần trong xã hội, trừng phạt nghiêm khắc mọi sự lẫn lộn. Còn chính phủ hiện nay thì cai trị khéo léo tới mức người dân bị lấy mất cả “hồn lẫn xác” mà cũng không hay. Vì thế, dân ta trước sợ chính quyền như sợ ma quỷ, còn dân ta ngày nay thì tôn chính quyền lên như thần thánh để thờ…

17. … trường học là trường học của chính phủ, quân đội là quân đội của chính phủ. Đường sắt, bưu điện, điện tín, công trình kiến trúc bằng đá, cầu cống bằng sắt thép cũng như vậy. Tất cả đều là của chính phủ.

Người dân suy nghĩ về những việc trên như thế nào? Và dân chúng nói với nhau ra sao? Họ bảo rằng: “Chính phủ hiện nay vừa có sức mạnh vừa có đầu óc, nên chẳng ai có thể đọ nổi. Chính phủ ở trên cao trị quốc, mọi thứ đã có chính phủ lo nghĩ và làm cho rồi. Còn chúng ta là loại dân đen ở dưới, cứ có cái ăn để sống là được. Việc nước là chuyện đại sự, là việc của “các quan trên”, chứ đâu phải là việc của lũ dân đen mình là lo”.

Nếu nhân dân ta không tỉnh ngộ, không nhận ra sự “lầm tưởng” mà cứ thế quen dần với tình trạng như hiện nay, thì chính phủ có đổ công đổ của để hoàn thiện “cái vỏ” văn minh nhiều đến đâu đi nữa cũng chỉ tổ làm cho khí lực trong dân ngày một mất đi và như thế tinh thần – phần hồn của văn minh – cũng suy yếu theo.

18. Cả ngàn năm qua, chính phủ nắm trong tay mọi quyền hành trên đất nước… Nhân dân chỉ còn biết nhắm mắt tuân theo các chỉ thị của chính phủ. Đất nước ta giống như tài sản riêng của chính phủ, còn nhân dân chẳng khác nào như những người ăn nhờ ở đậu vậy… Và thế thì quốc gia cũng chỉ như cái nhà trọ, để người dân tạm dừng chân trong cuộc đời họ mà thôi…

19. Tại sao lũ chí sĩ rởm lại cứ hoành hành mãi vậy? Bọn này hễ cứ mở miệng là đều có cùng giọng điệu… Người thường dễ bị lừa phỉnh bằng vẻ ngoài của chúng. Kỳ thực bọn chúng đều là một lũ chí sĩ rởm cả. Được cất nhắc vào chức vụ cao một chút, ngoài lương bổng, phụ cấp quy định ra, không hiểu sao tiền cứ vào như nước. Hóa ra, kẻ trông coi việc xây cất thì luôn thúc giục chủ thầu phải cống lễ. kẻ trông coi ngân khố thì đòi thị dân phải biếu xén quà cáp mới cho vay tiền. Những chuyện như vậy diễn ra như cơm bữa đến độ trở thành lệ…

20. Người ta thường nói: “Trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra người đứng dưới người”. Kể từ khi tạo hóa làm ra con người thì tất cả sinh ra đều bình đẳng, mọi người đều có tư cách, có địa vị như nhau, không phân biệt đẳng cấp trên dưới, giàu nghèo.

Loài người, chúa tể của muôn vật, bằng hoạt động trí óc và hoạt động chân tay mà biến mọi thứ có trên thế gian thành vật có ích cho bản thân mình. Nhờ thế mà thỏa mãn được nhu cầu ăn, mặc, ở, sống tự do theo ý muốn và không làm phiền, làm cản trở cuộc sống của đồng loại. Con người có thể sống yên ổn, vui vẻ trên thế gian. Đó là ý Trời, là niềm hi vọng của Trời đối với con người.

Vậy mà nhìn rộng ra khắp xã hội, cuộc sống con người luôn có những khoảng cách một trời một vực. Đó là khoảng cách giữa người thông minh và kẻ ngu độn; giữa người giàu và kẻ nghèo; giữa tầng lớp quý tộc và tầng lớp hạ đẳng.

Như thế là tại làm sao? Nguyên nhận thực ra rất rõ ràng.

Cuốn sách dạy tu thân “Thự ngữ giáo” có câu: “Kẻ vô học là người không có tri thức, kẻ vô tri thức là người ngu dốt”. Câu nói trên cũng có thể hiểu: Sự khác nhau giữa người thông minh và kẻ đần độn là ở chỗ có học hay vô học mà thôi.

Trên thế gian có cả việc khó lẫn việc dễ. Người làm việc khó được coi là người quan trọng. Người làm việc dễ thường có địa vị thấp, bị coi thường. Công việc cần sự khổ nhọc về tinh thần được xem là việc khó, còn lao động chân tay là việc dễ. Vì thế học giả, quan chức chính phủ, giám đốc các công ty lớn, chủ trang trại sử dụng nhiều nhân công… là những người có địa vị cao, quan trọng. Và một khi đã là những người có địa vị, quan trọng thì đương nhiên gia đình họ cũng giàu sang sung túc đến mức tầng lớp hạ đẳng nằm mơ cũng không được. Tuy vậy, nếu suy nghĩ kỹ lưỡng gốc rễ của vấn đề thì chỉ có một nguyên nhân. Đó chẳng qua là do có chịu khó học hay không mà thôi, chứ có người nào được trời phú đâu. Ngạn ngữ có câu: “Trời không ban cho con người phú quý. Chính con người tạo ra giàu sang phú quý.” Có nghĩa là Trời nhìn vào kết quả hoạt động, lao động của con người để ban thưởng.

Như tôi đã đề cập: Ở con người vốn dĩ không có chênh lệch sang hèn, giàu nghèo. Vì thế, có thể nói rằng: Người chịu khó học, hiểu biết nhiều sẽ trở thành người quan trọng, sống sung túc; người vô học sẽ trở thành con người thấp kém, nghèo khổ.


21. Thử nhìn vào công cuộc văn minh đang diễn ra trên đất nước ta mà xem, tôi chỉ có thể nói rằng chúng ta đang làm ngược với quy luật.

Ở nước Nhật chúng ta hiện nay, người chủ trương thúc đẩy văn minh, gìn giữ độc lập trước áp lực phương Tây là những người thuộc tầng lớp giữa trong xã hội, là các nhà trí thức và đơn độc chỉ có họ. Nhưng số đó cũng chỉ là thiểu số ít ỏi. Còn đa phần các trí thức đều thiếu con mắt nhận biết thời cuộc. Họ yêu quý và lo giữ chỗ cho bản thân hơn là lo lắng, ưu tư cho đất nước. Đối với họ, gió chiều nào theo chiều đó. Đa số các trí thức kiểu này luôn rình rập tìm kiếm lợi ích trước mắt, săn đón cơ hội leo vào hàng “quan chức”, sa vào các sự vụ quản lý vặt vãnh, tiêu phí thời gian bằng nhưng việc vô bổ, xa rời công việc nghiên cứu, học thuật. Họ thỏa mãn với quyền cao bổng hậu. Tệ hại hơn nữa, họ lại tự cao tự đại: “Uyên bác như chúng tôi đã tập trung hết trong hàng ngũ chính quyền rồi, trong xã hội đâu còn ai?”

Tôi buộc phải nói rừng những người trí thức như vậy là nỗi bất hạng cho công cuộc văn minh đất nước. Lẽ ra phải đảm nhiệm vai trò mở mang, nuôi dưỡng văn minh với tư cách của người trí thức, thì họ lại vùi đầu vào việc kiếm lợi cho riêng bản thân, họ chẳng bận tâm đến sự thoái hóa của tinh thần học vấn trong xã hội, đất nước ra sao họ cũng mặc. Như thế mà vẫn tự cho mình là trí thức được sao?

Đó là một thực tế đáng hổ thẹn.

22. Chúng ta chỉ có một mục đích gánh vai nâng đỡ tinh thần độc lập trong nhân dân.

Chúng ta lẻ loi, đang đứng mũi chịu sào trong cơn cuồng phong, trong dòng nước xiết, chúng ta đang phải gồng mình chống chọi với cả một trào lưu đang làm thoái hóa xã hội. Nhiệu vụ của chúng ta thật khó khăn. Nhưng chính lúc này đòi hỏi chúng ta phải có lòng quả cảm và tinh thần cương quyết.

Dũng khí của con người không sinh ra từ sách vở.

Đọc sách là phương tiện nâng cao học vấn.

Học vấn là phương pháp tiến tới thực tiễn.

Chính kinh nghiệm, sự từng trải sản sinh ra lòng quả cảm.

Hội Keio chúng ta, bất chấp khó khăn, bất chấp gian khổ, nguyện đem hết tri thức kiến thức có được, xây đắp con đường phát triển văn minh. Để đi tới đó, chúng ta không phân biệt, không từ nan bất kỳ lĩnh vực nào, ngành học nào. Chúng ta làm thương nghiệp, khuyến nông, viết sách, dịch sách, phát hành báo, tất cả những gì liên quan tới văn minh.

Mỗi người chúng ta phải suy nghĩ về vai trò, sự đóng góp của bản thân, phải đi tiên phong trong nhân dân. Chúng ta cùng hợp tác với chính phủ.

Sức dân và sức chính quyền có cân bằng thì tiềm lực quốc gia mới gia tăng, nền móng độc lập của quốc gia mới vững chắc, có như vậy nước ta mới mong được bình đẳng với phương Tây.

23. Nhân dân lẫn chính phủ, nếu cả hai phía đều làm trọn bổn phận, trách nhiệm của mình thì chẳng cần phải nói gì thêm cả. Nhưng cũng có những lúc chính phủ đi chệch hướng, thi hành lối chính trị chuyên chế bạo tàn, chạy theo quyền lực vô tri thức. Những lúc như thế, nhân dân buộc phải hành động. Và sẽ hành động theo một trong ba giải pháp như sau. Hoặc từ bỏ khí tiết, khuất phục chính phủ. Hoặc phản kháng chính phủ bằng bạo lực. Hoặc sẵn sàng hiến thân, hy sinh tính mạng chứ không chịu để mất khí tiết.

Tôi xin giải thích rõ hơn.

– Giải pháp thứ nhất: Nếu chấp nhận vứt bỏ khí tiết, tuân theo chính phủ vô điều kiện thì có thể coi đây là giải pháp mù quáng. Tôi đã giải thích ở phần trước: Đạo làm người là tuân theo đạo trời. Nếu vất bỏ đạo lý, khí tiết, đồng lõa với những sai trái bất chính thì tự chúng ta đã làm hỏng vị thế của con người, và tập quán xấu đó sẽ truyền tới đời con, đời cháu. (…)

– Giải pháp thứ hai: cá nhân chống lại chính quyền, là điều không tưởng. Vì thế mà tập hợp nhau, lập nhóm lập đảng gây nên nội chiến, nội loạn. Cách này tôi không cho là cách làm nghiêm túc. Bởi nếu xảy ra nội loạn thì vấn đề phân biệt thiện, ác sẽ bị loại bỏ. Các bên chỉ dựa vào sức mạnh trên chiến trường để giải quyết. Và kẻ thắng sẽ quyết định tất cả. (…)

– Giải pháp thứ ba: giữ trọn đạo lý chính nghĩa, sẵn sàng hy sinh mạng sống trước mọi áp bức của chính quyền. Tức là tin tưởng một lòng một dạ vào đạo Trời, dù phải chịu mọi cực hình của chính quyền chuyên chế, bạo ngược cũng không khuất phục, giữ vững khí tiết, bảo vệ chân lý, niềm tin, hơn nữa không bao giờ sử dụng vũ khí bạo lực, chỉ dùng đạo lý để kháng cáo với chính phủ (…)

24. … Nếu chúng ta chất vấn chính quyền bằng lý lẽ thì những luật pháp tốt hoặc những chính sách tuyệt vời hiện hành trong quốc pháp không bị ảnh hưởng. Thuyết phục bằng lý lẽ, điều đó sẽ thấm dần vào lòng người theo lẽ tự nhiên. Năm nay, thuyết phục chưa được thì sang năm tiếp tục thuyết phục cho tới khi chính quyền hiểu ra. Vì mục đích của nó là ngăn chặn và cải thiện bất chính trong chính quyền. Và một khi chính phủ đã chấp thuận cải thiện chính sách thì việc chất vấn chính phủ cũng sẽ chấm dứt.

Nếu chúng ta dùng sức mạnh đối địch với chính phủ thì chính phủ cũng sẽ đáp lại bằng việc đàn áp, bắt bớ. Quan chức chính phủ dù có là những kẻ bạo chính thì cũng là người Nhật chúng ta cả. Trước những lời lẽ đúng với đạo lý của những người chất vấn chính phủ trong hòa bình và sẵn sàng hy sinh thân mình vì đạo lý đó thì không có lẽ không thuyết phục hoặc không làm lay động được các quan chức chính phủ. Tôi nghĩ rằng họ không thể không hối hận về những lầm lỗi, sai trái của họ và sẽ cải tà quy chính.

25. Nếu khảo sát cụ thể các hoạt động ở mỗi con người thì sự hoạt động đó có thể chia thành hai loại như sau:
Thứ nhất là hoạt động với tư cách của một cá nhân độc lập.
Thứ hai là hoạt động với tư cách của một thành viên trong xã hội con người.

Mưu cầu cái ăn, cái mặc, chỗ ở ổn định dựa vào hoạt động của khối óc và cơ thể là lẽ thường tình ở con người.

(…) Tất nhiên, đối với con người việc tự lập kiếm kế sinh nhai rất quan trọng. Người xưa thường dạy: “Hãy kiếm sống bằng chính mồ hôi của mình”. Thế nhưng theo tôi, cho dù chúng ta có làm đúng theo lời dạy này thì cũng chưa phải là đã làm đúng trách nhiệm và nghĩa vụ với tư cách là con người. Lời dạy này mới dừng lại ở chỗ răn người ta làm người thì đừng để thua kém muông thú và cũng chỉ dạy có thế.

Các loài chim chóc, muông thú, tôm cá, côn trùng… tự chúng không kiếm mồi được sao? Ví như loài kiến chẳng hạn. Loài kiến không những biết kiếm mồi mỗi ngày mà còn biết làm hang, làm tổ, tích trữ mồi trong suốt mùa đông giá rét.
Vậy mà trên đời này, có không ít người, hành vi của họ cũng chỉ ngang với đàn kiến thôi mà cũng tự mãn.

(…) Nhưng, tôi lại hoàn toàn không nghĩ rằng loài người với tư cách là chúa tể của muôn loài – mới có được kết quả nhỏ nhoi như vậy mà đã coi là hoàn tất mục đích đích thực của cuộc đời.

Giải quyết được cái ăn, cái mặc, chỗ ở mà đã mãn nguyện, đã cảm thấy hài lòng rồi thì hóa ra cuộc đời con người trên thế gian này chỉ đơn thuần là được sinh ra rồi chết đi thôi hay sao? Tình trạng lúc anh ta chết đi có khác gì lúc được sinh ra. Tức là quanh quân vẫn chỉ là chuyện sao cho có nhà cửa, có cuộc sống ổn định và có của ăn của để nữa. Vẻn vẹn chỉ có vậy. và nếu đến thế hệ con cháu, cũng lặp đi lặp lại y hệt cuộc sống của anh ta thì dù có trải qua hàng trăm đời, làng xóm thị trấn nơi anh ta đã sống xưa thế nào nay chắc cũng vậy, không chút thay đổi.

Không một người nào nghĩ tới sự nghiệp công ích, công cộng, chỉ quan tâm đến lợi ích cá nhân và gia đình. Ngoài ra thì mặc kệ.

Không một người nào có suy nghĩ là phải làm gì, để lại cái gì cho quê hương khi đang còn sống.

Người châu Âu có câu: “Nếu mọi người ai cũng chỉ mong thỏa mãn và an nhàn cho riêng cá nhân mình, thì thế gian này cũng không có gì khác khi mới có loài người”.

26. Một khi còn sống trên đời, còn giao tiếp với mọi người thì bản thân mỗi con người vẫn còn là một thành viên trong xã hội. Cho nên lẽ đương nhiên là phải có nghĩa vụ với xã hội. Ngay cả học vấn, kỹ thuật, chính trị, luật pháp… không có cái nào là không cần thiết để cho con người sống trong xã hội, tất cả những thứ này sinh ra là vì xã hội con người.

(…)

Con người ta, bất kỳ là ai, hễ có chút ít “sở trường” là đều muốn đem ra giúp ích cho đời. Đó âu cũng là lẽ thường. Nhiều khi tưởng chừng như con người không có ý thức vì xã hội, nhưng rồi không biết bằng cách nào mà con cháu họ vẫn nhận được ơn huệ. Đó là vì trong con người có thiện tâm, nên các nghĩa vụ trong xã hội rồi cũng đều được thực hiện.

Nếu trong xã hội từ xa xưa mà không có những con người như vậy thì chúng ta ngày nay đâu có được hưởng thành quả văn minh đang tràn đầy khắp nơi trên thế gian.

27. Mục đích của học vấn phải đặt ở tầm cao.

Nếu tôi không nhầm thì việc nấu cơm, đun nước cũng là học vấn. Việc bàn luận về quốc gia đại sự cũng là học vấn. Nhưng lo cuộc sống của gia đình thì dễ hơn lo kinh tế, chính trị của một quốc gia. Hơn nữa trên đời này cái gì dễ kiếm thì ít được quý trọng, càng khó kiếm thì giá trị càng cao.

Tôi nhận thấy sinh viên hiện nay có xu hướng né tránh việc khó, tìm kiếm việc dễ.

Dưới thời phong kiến, người học có miệt mài học hành cũng không có chỗ để ứng dụng học vấn, vì trong xã hội đó con người mất tự do. Do vậy cực chẳng đã họ chỉ còn biết học, tự mình tích lũy học thức. Vì thế, sinh viên chúng ta hiện nay khó mà theo kịp họ về tri thức.

Sinh viên hiện nay không bị bất kỳ hạn chế cả. Cứ có học là có thể ứng dụng ngay kết quả học tập vào thực tế. Tôi lấy ví dụ, các sinh viên theo ngành Âu học trong ba năm, họ học lịch sử, học vật lý… Sau khi ra trường họ được tuyển dụng ngay tức thì để làm giáo viên giảng dạy, hoặc đi làm công chức chính quyền nếu họ muốn. Ngoài ra, nhiều người còn tìm cách đơn giản hơn, nhanh hơn. Đó là chỉ cần lùng sục và đọc qua các cuốn sách dịch đang bán chạy, đi đây đi đó để có chút thực tế, tích lũy thêm một ít thông tin trong và ngoài nước, gặp dịp may là được chọn ngay vào làm việc trong các công sở. Thế là họ nghiễm nhiên trở thành một thành viên đắc lực trong bộ máy nhà nước.

Những điều tôi lo sợ là các hiện tượng trên đây nếu trở thành xu hướng, thành trào lưu trong xã hội thì học vấn sẽ mất đi bản chất đích thực và mục đích cao quý của nó.

(…) Chỉ đến khi trên khắp mọi miền đất nước Nhật Ban, nơi đâu cũng gặp những người vừa có tài, vừa có đức, ngày đêm rèn giũa và tích lũy thực lực thì ắt hẳn đến một ngày nào đó, chúng ta sẽ ngang hàng, sánh vai với nền văn minh của các cường quốc phương Tây.

28. Tạm gác sang bên vị trí của cá nhân, nếu chúng ta quan tâm tới nghĩa vụ đối với xã hội, thì trước hết là không làm vẩn đục danh dự người Nhật Bản, tiếp đến là mọi người dân đồng lòng góp sức mang lại vị trí quốc tế trong độc lập và tự do cho Nhật Bản. Như thế mới được coi là làm tròn nghĩa vụ giữa cá nhân và xã hội.

Tôi thừa nhận những người đang toại nguyện với cuộc sống của bản thân họ trong căn nhà riêng của mình là những người độc lập. Nhưng tôi không thể thừa nhận họ là những người Nhật Bản độc lập được. Hãy thử nhìn kỹ xem. Ở thời điểm này, nền văn minh của nước Nhật Bản chỉ có Danh mà không có Thực. Về hình thức thì trông cũng được đấy, nhưng về tinh thần thì thật đáng buồn lòng.

Lực lượng quân sự của Nhật Bản, từ lục quân tới hải quân có khả năng kháng cự với lực lượng quân sự của các cường quốc phương Tây chưa? Hiển nhiên là chưa. Nước Nhật không thể chống chọi được với các thế lực phương Tây trong lúc này.

Thế còn trình độ học vấn của Nhật Bản hiện nay ra sao? Với nền học vấn hiện thời, chúng ta có thể đem rao giảng cho người phương Tây không? Rõ ràng là không có cái gì cả. Ngược lại, chúng ta phải học ở họ mọi thứ. Và không chỉ đơn thuần là cứ học những thứ mà chúng ta chưa có là được…

29. Những hỗn loạn trong buổi đầu du nhập văn minh phương Tây là điều không tránh khỏi. Việc chính phủ Nhật Bản yêu cầu phương Tây viện trợ, cung cấp văn minh cho chúng ta cũng không phải là sai.

Nhưng điều quan trong mà tôi muốn nói là tất cả những gì đang diễn ra trên đất nước ta hiện nay cũng chỉ là giải pháp nhất thời. Chúng ta không thể thuê vĩnh viễn người phương Tây làm thay chúng ta *). Chúng ta ra sức học tập họ, nhưng không nên quá sùng bái, tôn thờ họ. (* – Để học hỏi thể chế chính trị, xã hội và kỹ thuật phương Tây, chỉ riêng chính phủ Minh Trị đã thuê hơn 500 chuyên gia, học giả trong mọi lĩnh vực, đặc biệt là Giáo dục, Luật pháp, Xây dựng, Nông nghiệp và In ấn, sang Nhật Bản làm việc trong suốt thời kỳ Minh Trị duy tân (1868-1912))

Có cách nào để Nhật Bản không phụ thuộc vào quốc gia khác? Làm như thế nào để chúng ta có thể đi trên đất nước mình bằng chính đôi chân của chúng ta? Để đạt được điều này, chúng ta còn phải vượt qua cả một chặng đường vô cùng khó khăn.

Các bạn sinh viên! Chỉ có một cách, đó là các bạn phải ra sức học tập, chờ ngày đem mọi tinh lực ra phục vụ cho đất nước. Chính điều này cũng là trách nhiệm mà các bạn phải gánh trên vai, là trách nhiệm vô cùng cấp bách.

30. Dù thế nào đi nữa thì sự nghiệp khẩn cấp nhất – vì đất nước Nhật Bản hiện này – là mọi quốc dân chúng ta, bất kể người nào cũng phải học tập, phải nghiên cứu. Nhất là sinh viên – những người ý thức rõ nhất nghĩa vụ của công dân – lại càng không thể bàng quan trước sự tình của đất nước. Phấn đấu học tập là công việc quan trọng nhất trong lúc này của các bạn.

Nếu nghĩ được như vậy thì sinh viên hiện nay quyết không thể thỏa mãn với một chút kiến thức học được ở trong nhà trường. Cần phải đặt mục tiêu cao hơn, xa hơn. Cần tìm hiểu cặn kẽ bản chất của học thuật. Cần phải xây dựng được vị trí đích thực. Dù chỉ một mình – không có bạn cùng chí hướng – cũng phải có khí phách để xây dựng đất nước Nhật Bản, tận tâm tận tụy đem hết mọi khả năng đóng góp cho xã hội.

Từ trước tới nay, tôi vốn không ưa lối học của các sĩ phu, các nhà nho tối ngày vùi đầu dùi mài kinh sử, làm thơ phú, câu đối… theo kiểu khoa cử Trung Hoa. Vì với lối học đó, có đỗ đạt ra làm quan, họ chỉ biết cai trị xã hội, cai trị dân chúng hoàn toàn theo cảm tính. Chính vì thế, ngay từ Phần 1, tôi đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của “Thực học”, học các môn tự nhiên, các môn xã hội, ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày, sao cho tất cả mọi người đều có thể gây dựng cuộc sống bằng trách nhiệm và khả năng của mình. Tôi nhấn mạnh tới tầm quan trọng về sự bình đẳng giữa các tầng lớp trong xã hội.


31. Việc tìm kiếm chân lý thường bắt đầu từ sự hoài nghi

Những tiến bộ của văn minh đều ra đời từ sự phát hiện chân lý trong quá trình nghiên cứu mọi sự vật tự nhiên xung quanh ta. Nguyên nhân phát triển của nền văn minh phương Tây cũng xuất phát từ tinh thần hoài nghi. Galile tìm ra thuyết trái đất quay quanh mặt trời vì nghi ngờ thuyết mặt trời quay quanh trái đất. Newton tìm ra quy luật vạn vật hấp dẫn từ việc quan sát trái táo rơi. Watt phát minh ra máy hơi nước do để ý tới hơi khói bốc ra từ phích nước. Tất cả đều đạt tới chân lý xuất phát từ sự hoài nghi trước các hiện tượng, sự vật.

Và không phải chỉ có khoa học tự nhiên, những tiến bộ của khoa học xã hội cũng vậy. Từ chỗ hoài nghi chế độ chiếm hữu nô lệ, nên đã đề xuất Luật cấm buôn bán nô lệ. Và về sau, Thomas Clark đã chấm dứt thảm cảnh này. Hoài nghi về Công giáo Roma, Martin Luther đã thực hiện cải cách tôn giáo. Nhân dân Pháp vì căm giận sự bạo ngược của tầng lớp quý tộc nên đã làm cuộc cách mạng Pháp. Nhân dân mười ba bang Hoa Kỳ đã giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh giành độc lập vì hoài nghi những luật lệ của Anh Quốc. Chưa hết, người Nhật Bản thường nghĩ rằng đàn ông làm việc ngoài xã hội, còn đàn bà trông nom nhà cửa, cơm nước trong nhà. Nhưng Steward Mill đã viết bài “Giải phóng phụ nữ” để xóa bỏ tập quán này. Nước Anh với học thuyết mậu dịch tự do được cả giới kinh tế trên toàn cầu thừa nhận. Nhưng tại Hoa Kỳ, các học giả lại chủ trương học thuyết bảo hộ mậu dịch, thể hiện lập trường coi trọng việc nuôi dưỡng và bảo vệ các ngành sản xuất trong nước.

Tại phương Tây, cứ một học thuyết ra đời thì lại có học thuyết mới phản biện lại. Những cuộc tranh luận với các ý kiến, học thuyết khác nhau diễn ra liên tục không ngừng.

Hãy thử so sánh thực tế đó với tình hình tại các quốc gia châu Á xem sao? Châu Á vẫn trong vòng mê muội. Người ta vẫn tin không một chút nghi ngờ vào lời của những người được coi là thánh nhân từ hàng ngàn năm về trước, vẫn mê tín dị đoan,vẫn tin vào lời nói của các đồng cốt. Chẳng thể nào so sánh, hoàn toàn không thể bàn luận được với người phương Tây.

Tuy vậy, việc mang trong lòng sự hoài nghi, khởi xướng ra dị thuyết, tìm tòi chân lý là một việc hết sức khó khăn, nó giống như muốn giong thuyền ra khơi trong khi gió ngược vậy. Nhưng có khi vận may, gió thuận thì chẳng tốn nhiều công sức, thuyền vẫn tiến thẳng.

Tuy vậy, đừng có ảo tưởng sẽ gặp vận may như vậy trong xã hội.

Có một cách để đạt tới chân lý là phải vượt qua được cuộc phản biện, phải bảo vệ được chính kiến của mình trước mọi ý kiến đối nghịch.

33. Hoài nghi sinh ra chân lý.
– … Học vấn không phải là việc chỉ có đọc và cứ đọc thật nhiều sách là đủ. Bản chất của học vấn phụ thuộc và khả năng ứng dụng. Có học vấn mà không ứng dụng được vào cuộc sống thực tế thì chẳng khác gì vô học.

Nếu nhìn vào thực trạng giờ học ở các trường thành phố thì thấy học sinh có vẻ siêng năng học tập lắm, cứ đà này xem ra tất cả sẽ trở thành học giả. Nhưng nếu thu hết sách giáo khoa và vở chép của chúng, và “trò ở đâu trả về quê đấy” thì sự thể sẽ ra sao? Chắc là khi cha mẹ, bè bạn hỏi đến thì học sinh chỉ còn nước: “Học vấn đề quên tại Tokyo mất rồi”.

Theo như suy nghĩ của tôi, bản chất thực sự của học vấn là phải động não suy nghĩ, chứ không phải chỉ là đọc sách một cách đơn thuần.

Và để ứng dụng sống động suy nghĩ vào cuộc sống thực tế thì cần phải biết trù tính, lo liệu. Tức là phải quan sát sự vật. Phải suy đoán đạo lý của sự vật. Phải đưa ra chính kiến, cách nghĩ cách làm của bản thân mình. Ngoài ra đương nhiên là còn phải đọc sách, phải viết sách. Phải nói lên ý kiến của mình cho người ta nghe. Phải tranh luận. Biết vận dụng tổng hợp các biện pháp như vậy thì mới được gọi là nghiên cứu học vấn.

Quan sát sự vật, suy luận, đọc sách là cách để tích lũy tri thức.

Bàn bạc, tranh luận là cách để trao đổi tri thức.

Viết, diễn thuyết là các để mở rộng tri thức.

Trong các biện pháp trên đây, có cái đạt được bằng sự nỗ lực của chính bản thân mình. Có cái cần có người bàn, người nghe. Đó là khi tranh luận, diễn thuyết. Và như vậy cần thiết phải tổ chức các buổi tranh luận và diễn thuyết.

Hiện nay, vấn đề lo ngại nhất ở nước ta là dân trí quá thấp kém. Khai sáng quốc dân, đưa họ đến tầm cao kiến thức vốn được xem là nhiệm vụ cơ bản của các học giả. Vì vậy, các học giả, khi đã nắm bắt được cách thức nghiên cứu, thì phải nỗ lực làm tròn vai trò này.

Tranh luận, diễn thuyết cần thiết ra sao và có tầm quan trọng thế nào, các bạn đều đã rõ. Nhưng tại sao đến giờ này nó vẫn chưa được thực hiện ở nước ta? Tôi buộc phải nói rằng đó là do các học giả quá lười biếng.

Hành vi, hoạt động của con người thường hướng theo hai phần: trong và ngoài. Cần phải nỗ lực cả hai.

Đa số các học giả hiện nay thường chỉ hoạt động hạn hẹp trong phạm vi cá nhân. Họ e ngại, chây lười không muốn mở rộng ra thế giới bên ngoài. Hãy mau tỉnh ngộ. Chỉ khi nào có kiến thức sâu như vực thăm, tiếp xúc trao đổi với người khác như chim tung cánh mở rộng tự do tự tại trong không trung, mới đúng là học giả thực thụ.

34. Thói xấu xa tệ hại nhất trong xã hội là tham lam. Nguồn gốc của tham lam là ở chỗ trói buộc tự do. Vì thế, ngôn luận phải được tự do. Hoạt động của con người không thể bị cản trở.

Thử so sánh giữa xã hội Nhật Bản và xã hội các nước Âu Mỹ xem sao. Xã hội nào gần giống với tình trạng trong chốn hậu cung (thói tham lam hoành hành) nói trên? Chẳng phải là xã hội Nhật Bản đó sao. Ở dân chúng Anh, Mỹ không phải là không có thói tham lam, xa xỉ, lỗ mãng… Họ cũng không thiếu những kẻ lừa đảo, bịp bợm. Và không phải là cái gì trong phong tục của họ cũng đều tốt đẹp cả.

Nhưng có một điểm không thể nói là giống hệt với tình trạng của xã hội Nhật Bản. Đó là tham vọng. Trong xã hội văn minh người ta không đến nỗi ghen ghét, căm tức trước hạnh phúc của người khác và ngấm ngầm cầu mong cho người khác gặp bất hạnh như con người trong xã hội Nhật Bản.

Hiện nay, trong xã hội Nhật Bản, những người hiểu biết, các thức giả đang lên tiếng đòi tự do xuất bản, tự do ngôn luận, yêu cầu lập viện dân biểu. Vì sao và hoàn cảnh nào hoặc những thức giả phải lên tiếng như vậy?

Xã hội không thể là chốn hậu cung như trước đây. Nhân dân không thể như những cung tần, mỹ nữ. Chỉ có đoạn tuyệt với tham lam, lòng đố kỵ, ghen ghét và được tự do mới có thể giành lại và dấy lên dũng khí ganh đua lẫn nhau. Hạnh phúc hay bất hạnh, danh dự hay nhơ nhuốc… phải làm sao để đó là kết quả đương nhiên từ nỗ lực của mọi cá nhân.

Cản trợ tự do ngôn luận, trói buộc hoạt động của dân chúng đa phần đều liên quan đến chính sách của chính phủ. Và ai cũng đổ hết cho nền chính trị. Nhưng thực ra không hẳn là vậy. Chính trong nhân dân cũng thải ra nhiều thứ độc hại không kém. Nếu chỉ cải cách chính trị không thôi cũng không thể gột sạch những thứ độc hại đó ngay được.

35. Vì sao cứ muốn quan hệ ngoài xã hội phải như quan hệ cha con trong gia đình?

Tôi lấy việc nuôi dạy một đứa con khoảng chín, mười tuổi làm ví dụ.

Khi nuôi con, cha mẹ thường không để ý xem chúng cần cái gì và suy nghĩ ra sao. Cho ăn, cho mặc thế nào hoàn toàn dựa theo cảm tính. Miễn là con ngoan ngoãn biết vâng lời, không làm trái ý mình thì trời lạnh sẽ cho mặc ấm, bụng đói sẽ cho ăn no. Thức ăn, manh áo, chỗ ở giống như của Trời cho, cần lúc nào có lúc đó, con cái không phải lo nghĩ.

Đối với người làm cha làm mẹ, con cái là thứ quý giá nhất. Nếu có chiều chuộng, có yêu thương hay mắng mỏ, có cho roi cho vọt, cũng đều là hành vi xuất phát từ hành vi tình thương chân thực.

Hình ảnh cha mẹ với con cái là một như vậy mới đẹp làm sao! Đương nhiên, trong mối quan hệ này, trên (cha mẹ) vẫn ra trên, và dưới (con cái) vẫn ra dưới. Hoàn toàn không có bất cứ một sự lẫn lộn nào.

Những người chủ trương một xã hội phân thành đẳng cấp, có trên có dưới, luôn ao ước quan hệ xã hội cũng được như quan hệ cha con trong một nhà (không có cai trị bằng “ác ý”). Mong ước đó rất hay nhưng có một vấn đề lớn phải suy nghĩ.

Thực ra, quan hệ cha con chỉ hình thành trong điều kiện cha mẹ là những người lớn, chín chắn và con cái là những đứa trẻ còn non dại. Mà phải là con đẻ mới được. Nhưng cho dù là con mình đẻ ra, khi tới độ tuổi nhất định thì người cha, người mẹ nào cũng cảm thấy chúng bắt đầu khó bảo. Và mối quan hệ cha con bất hòa dần theo thời gian.

Với con cái nhà mình còn khó, huống chi là với con cái nhà người. Bởi thế, quan hệ ở ngoài đời giữa những người lạ – mà đều đã trưởng thành – lại còn khó gấp bội. Vậy phải làm sao để có thể hình thành được mối quan hệ giữa người với người trong xã hội giống như quan hệ cha con trong gia đình? Biến lý tưởng thành hiện thực quả là không dễ.

Hơn nữa, một đất nước, một làng, một cính phủ, một công ty… tất cả những gì mà người ta gọi là “xã hội loài người” cũng đều là xã hội của những người đã trưởng thành, xã hội của những người không có quan hệ huyết thống với nhau. Trước một thực tế như vậy, mà lại mong ước áp đặt quan hệ cha con trong một nhà vào quan hệ người với người ngoài đời thì thật là ảo tưởng.

Nhưng dù biết là khó song ai cũng đều muốn biến trí tưởng tượng thành hiện thực. Con người là vậy. Và đây cũng chính là nguyên nhân dẫn tới đẳng cấp, địa vị trên dưới trong quan hệ giữa người với người, cũng chính là nguyên nhân sinh ra nền chính trị chuyên chế tàn bạo trong xã hội.

Vì thế tôi mới viết đoạn trên rằng: Nguyên nhân chính đẻ tra đẳng cấp, địa vị không xuất phát từ sự ác ý mà xuất phát từ trí tưởng tượng của con người.

Tại các quốc gia Á châu, người ta gọi quân chủ là “vua cha”, gọi dân chúng là “thần dân”, “con đỏ”. Ngoài ra, người ta còn gọi công việc của chính phủ là “mục dân” (chăn dân, trông coi dân). Ở Trung Hoa, người ta còn đặt tên cho các quan cai trị địa phương là “quan châu mục”.

Thực ra cái chữ “mục” ở đây, có nghĩa là chăn nuôi gia súc. Tức là đàn bò, bầy cừu dược người ta chăn dắt vỗ về ra sao thì dân chúng trong vùng cũng được chăn dắt như vậy. Họ công nhiên tán thành dương “chiêu bài” này. Đối xử với người dân như lũ ngựa non, bầy nai tơ. Càng làm vô cùng thất đức, ngạo mạn.

Tuy vậy, như tôi đã trình bày ở đoạn trên, việc họ coi dân chúng như lũ trẻ non dại, như bầy cừu, như đàn bò cũng không phải do ác ý gì. Chẳng qua họ cố gắn việc trị vì một đất nước theo kiểu cha mẹ chăm sóc, nuôi nấng con cái.

Để làm dược như vậy, họ tự tôn quân chủ là “vua cha” vừa có đức, vừa có tài. Tiếp đến, bên dưới lại có các quan đại thân anh minh sáng suốt giúp sức. Họ ra sức truyền bá trong dân chúng, rằng đấng quân chủ và các đại thần có tấm lòng trong như nước, ngay thẳng như “mũi tên”, tình thương bao la, lo cho dân từng bát cơm, manh áo, từng chốn nương thân. Dân đói thì cho gạo, gặp hỏa hoạn thì cho tiền bạc.

Cứ như thế, ơn đức của đấng quân chủ như luồng gió nam mát rượi thổi vào dân chúng. Còn dân chúng tuân phục đấng quân chủ như cờ phướn cuộn bay theo gió, nhũn như con chi chi, vô cảm như sỏi đá. Đấng quân chủ và thứ dân quyện vào nhau. Thế gian yên ổn thanh bình.

Nghe họ ca tụng mà cứ ngỡ là quang cảnh trên thiên đường đang hiện ra trước mắt!

Tuy vậy, thử suy ngẫm hiện thực xã hội sẽ rõ. Quan hệ giữa chính phủ và nhân dân vốn là quan hệ giữa những người lạ với nhau, không phải quan hệ máu mủ ruột thịt. Quan hệ giữa người lạ với người lạ, nhất thiết phải ràng buôc nhau bằng khế ước, hợp đồng. Cả hai cùng phải tôn trọng hợp đồng, điểm nào chưa được thì phải tranh luận dàn xếp rồi thống nhất thực hiện. Luật pháp của một quốc gia cũng được hình thành trên cơ sở đó.

Trên thế gian này, có quốc gia nào có được đấng quân chủ nhân đức, có được các quan đại thần sáng suốt anh minh, có được lữ thần dân nhu mì dễ bảo… không? Đó chỉ là giấc mộng ảo tưởng.

Có trường học nào đảm bảo sẽ đào tạo ra toàn các bậc thánh nhân, toàn người tài đức? Có cách giáo dục nào chắc chắn sẽ sản sinh ra thần dân dễ sai bảo?

Ngay cả Trung Hoa, từ thời nhà Chu, các nhà cai trị đã bao lần đau đầu khổ sở vì ước nguyện đó. Và đã có lần nào họ trị vì dân chúng được đúng như ý nguyện không? Nếu được như thế thì đâu đến nỗi giờ đây cả quốc gia rộng lớn này đang bị ngoại bang giày xéo? (tác giả ám chỉ cuộc chiến tranh Nha phiến xảy ra tại Trung Hoa thời kỳ đó)

Vậy mà họ vẫn cứ rao giảng ra rả lòng dạ quân chủ như biển Thái Bình… Mà họ có muốn ca ngợ thì cứ việc ca ngợi lấy một mình. Bị ngoại xâm giày xéo mà vẫn cứ tiếp tục ca ngợi nền chính trị nhân từ của quân chủ.

Cứ cho là đó chuyện của người ta, nhưng mù quáng nếu như vậy thi chỉ tổ cho thiên hạ chê cười.

Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

VỊ TRÍ CỦA MÔN LỊCH SỬ TRONG NỀN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP






GS. NGND. Vũ Dương Ninh
(Đại học Quốc gia Hà Nội)
( Tham luận tại Hội thảo của Hội sử học Việt Nam về môn Lịch sử trong chương trình giáo dục phổ thông ngày 15/11/2015)
Trong nhiều năm gần đây,việc dạy và học Lịch sử luôn trở thành đề tài được xã hội quan tâm, nhất là vào mỗi dịp thi tốt nghiệp phổ thông hay tuyển sinh đại học. Không ít học sinh chán môn Sử, không thích học Sử và tỏ ra vui mừng khi môn Sử không còn là môn học bắt buộc trong các kỳ thi.
Trăn trở nhiều về hiện trạng này, giới sử học đã có nhiều cuộc hội thảo trên quy mô cả nước hoặc trong phạm vi từng địa phương để tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục. Có nhiều lý do khách quan và chủ quan, dẫu sao những người làm công tác giáo dục lịch sử cũng thấy rõ trách nhiệm của mình, cần có sự thay đổi lớn từ việc xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa đến phương pháp giảng dạy trên lớp và hoạt động ngoại khóa. Nhiều dự định được chuẩn bị cho đợt “cải cách căn bản và toàn diện” của ngành giáo dục nói chung và môn lịch sử nói riêng.
*
Bên cạnh sự nỗ lực của các thày cô giáo giảng môn Lịch sử, không thể không nói đến một lý do vô cùng quan trọng có tác động bất lợi đối với vị trí của môn Lịch sử trong nhà trường. Đó là trong một vài thập kỷ qua, cách đối xử không đúng đắn, thiếu công bằng, có phần tùy tiện của cấp quản lý Bộ Giáo dục đối với môn học này. Không nhớ từ năm học nào, lấy lý do “giảm tải” cho học sinh, môn Lịch sử không còn được coi là môn thi chính thức như các môn học khác trong chương trình thi tốt nghiệp phổ thông.
Số phận long đong của nó bắt đầu từ chỗ quy định Sử và Địa là hai môn thi “luân phiên”– năm nay thi Sử, năm sau thi Địa, rồi lại quay vòng như vậy. Không có một cơ sở khoa học nào cho chủ trương này.
Nhưng chưa dừng lại ở đó. Tiếp theo, môn Lịch sử được quy định là môn “thay thế”,nghĩa là chỉ nơi nào, học sinh nào không thi ngoại ngữ thì có thể thi môn Sử. Thế là số đông học sinh ở các thành phố, các vùng tương đối phát triển chọn thi ngoại ngữ, còn vùng sâu, vùng xa và những học sinh không học hoặc học kém ngoại ngữ mới thi môn Sử. Điều đó có nghĩa môn Lịch sử tuy còn đó nhưng đã mất địa vị của một môn học độc lập, bắt buộc, ngang bằng với các môn học khác.
Vẫn chưa hết, trong những kỳ thi gần đây, Lịch sử được coi là môn “tự chọn” nghĩa là hoàn toàn không bắt buộc. Tuyệt đại đa số học sinh chuẩn bị thi khối A hoặc khối B sẽ bỏ rơi môn Lịch sử, do vậy mới có hiện tượng nhiều hội đồng thi chỉ có một số rất ít em thi Sử, nhà trường vẫn phải lập ban bệ đầy đủ theo đúng quy chế.
Và cho đến hôm nay, dưới danh nghĩa “tích hợp”, môn Lịch sử đã biến mất khỏi chương trình với tư cách một khoa học có chức năng riêng biệt và vô cùng quan trọng. Được giải thích rằng nó được vận dụng vào môn “Công dân và Tổ quốc”. (Quả thật, tôi không biết trên thế giới có nước nào dạy môn học mang tên này không?)
Điểm lại quá trình trên, có thể thấy rất rõ môn Lịch sử đã bị đẩy lùi từng bước, loại bỏ từng bộ phận, và cuối cùng không còn vị thế của một môn học riêng biệt ngang bằng như các môn học khác trong chương trình giáo dục phổ thông của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
*
Trong lời phát biểu trên báo chí tuần qua, vị lãnh đạo Bộ Giáo dục tuyên bố: “ Tôi khẳng định Bộ Giáo dục – Đào tạo không bỏ môn lịch sử, cũng không coi nhẹ môn Lịch sử khi xây dựng môn học mới” (Báo Tuổi trẻ ngày 4-11-2015, tr. 13). Đúng vậy, từ trước đến nay, chưa bao giờ Bộ Giáo dục có một văn bản, một chỉ thị nào coi nhẹ môn Sử hoặc loại bỏ môn Sử.
Nhưng cuộc sống thực tế hoàn toàn khác. Đáng lẽ “học gì thi nấy” thì với chủ trương của Bộ, các trường và cả xã hội đã vận dụng thành “thi gì học nấy”. Bởi vì mục đích của người học là thi đỗ, tiêu chí của nhà trường là tỷ lệ số học sinh đỗ thật cao. Cho nên, các môn thuộc loại thi “luân phiên”, thi ‘thay thế” …, được Ban Giám hiệu các trường chỉ đạo dạy dồn, học dồn để dành hầu hết thời gian cho các môn thi tốt nghiệp, thi tuyển đại học. Vị trí của môn Sử và một vài môn khác bị đẩy lùi dần thành môn phụ trên thực tế và đến nay, nó mất tên chính danh trong chương trình Trung học cơ sở dưới cái vỏ “Công dân và Tổ quốc”. Nó bị lẫn vào môn Khoa học xã hội (tự chọn) trong chương trình cho học sinh theo phân ban khoa học tự nhiên và chỉ còn là môn học chính thức đối với học sinh chọn phân ban khoa học xã hội. Có nghĩa rằng lớp trí thức trẻ tương lai (trừ số ít chọn ngành khoa học xã hội) sẽ không hiểu hoặc hiểu biết lơ mơ về lịch sử của dân tộc mình, về lịch sử của đất nước mình.
Trong khi đó, nhìn sang nước láng giềng Trung Quốc, môn Lịch sử được giảng dạy từ bậc tiểu học cho đến trung học, nuôi dưỡng tinh thần tự hào dân tộc cho thế hệ trẻ một cách cẩn thận, có hệ thống. Môn Lịch sử đã giáo dục niềm tự hào chính đáng về truyền thống văn minh Trung Hoa từ thời cổ đại, về công cuộc xây dựng đất nước Trung Quốc, kể cả khơi gợi nỗi nhục vì một thế kỷ bị phương Tây thống trị. Qua đó, môn Lịch sử đã thức tỉnh tinh thần dân tộc khi bước vào thời đại mới đưa đất nước lên vị thế cường quốc hàng đầu thế giới. Đồng thời, môn Lịch sử cũng gieo mầm tư tưởng bá quyền, nước lớn với địa vị thượng đẳng giữa các dân tộc, các quốc gia. Các nhà lãnh đạo Trung Nam Hải cùng bộ máy tuyên truyền của họ đi đâu cũng nói các đảo ở Biển Đông là thuộc chủ quyền của Trung Quốc từ thời cổ đại. Sách Lịch sử Trung Quốc khai thác về “con đường tơ lụa”, về cuộc hành trình trên biển của Trịnh Hòa và nhiều sự kiện lịch sử khác để gieo rắc vào đầu một tỷ rưỡi người dân của họ về chủ quyền mênh mông của Trung Quốc, về đường ranh giới “hình chữ U”, “hình lưỡi bò” đầy ngụy tạo trên Biển Đông. Các sách sử Trung Quốc đều nói về cuộc chiến tranh năm 1979 như một cuộc “phản kích tự vệ”, một đòn trừng phạt đối với Việt Nam, một bài học “dạy cho Việt Nam”. Rất rõ ràng, môn Lịch sử đã thực sự được sử dụng như một vũ khí tinh thần để phục vụ tiến trình “trỗi dậy”, cho ý đồ bành trướng, bá quyền của Trung Quốc.
Nhưng Việt Nam đã giữ một thái độ im lặng đến khó hiểu về những sự kiện trên. Sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 chỉ được viết về cuộc chiến tranh biên giới vỏn vẹn 12 dòng, nhiều bài viết về cuộc tấn công xâm lược của Trung Quốc năm 1979 được các tạp chí lớn của đất nước từ chối không đăng vì “lý do tế nhị” (?!). Cho đến hôm nay, tình trạng này vẫn không thay đổi nếu không muốn nói là có xu hướng nặng thêm. Và cuộc Hội thảo được tổ chức hôm nay là một minh chứng cho tình trạng đó mà các nhà sử học, với trách nhiệm nặng nề của mình buộc phải lên tiếng.
*
Vào thập niên 50 – 60 của thế kỷ trước, trong điều kiện gian khổ của cuộc kháng chiến, sách in lèm nhèm, đèn dầu tù mù, ăn không đủ no, lại vừa học vừa sơ tán … nhưng môn Lịch sử cũng như các môn học khác được thày dạy, trò học một cách nghiêm túc, hào hứng và có hiệu quả. Từ những tấm gương anh hùng của các sự kiện lịch sử qua hàng ngàn năm đấu tranh vì độc lập, thế hệ thanh niên thời đó đã hăng hái lên đường đi cứu nước. Và đến lượt họ lại nêu lên nhiều tấm gương hy sinh vì nước, hình ảnh của họ lại bước vào “trang sách những em thơ”.
Nhớ lại thời đó, hai vị Bộ trưởng bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên, Bộ trưởng bộ Đại học Tạ Quang Bửu rất quan tâm đến môn Lịch sử. Các vị đã có nhiều buổi làm việc với Hội đồng ngành Sử, luôn nhắc nhở sứ mệnh của việc giáo dục lịch sử, và đã từng đích thân xuống dự giờ giảng môn Sử ở các trường để góp ý kiến. Giáo sư Tạ Quang Bửu – một nhà toán học lỗi lạc đã có sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử và sự quan tâm đặc biệt đối với sử học. Ngay sau Hiệp định Paris, Giáo sư chỉ thị tổ chức ngay một đoàn cán bộ sử học của hai trường Tổng hợp và Sư phạm vào vùng Đông Hà (Quảng Trị) vừa được giải phóng để đi thực tế về cuộc kháng chiến, qua đó suy nghĩ về nâng cao chất lượng giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ. Rõ ràng là dưới sự lãnh đạo của những vị cố bộ trưởng tài cao đức trọng, có tầm nhìn xa rộng và sự hiểu biết sâu sắc, môn Lịch sử đã được dặt đúng vị trí của nó, đã gánh vác trách nhiệm nặng nề và đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
*
Từ những điều trên, có thể đi đến một vài giải pháp thiết yếu sau đây:
Một, khẳng định rằng môn Lịch sử phải là một môn học độc lập, có vị trí ngang bằng với các môn học khác trong chương trình giáo dục phổ thông.
Hai, quy định dứt khoát rằng môn Lịch sử phải là một môn thi bắt buộc trong kỳ thi tốt nghiệp phổ thông. Cần tiến tới coi Lịch sử Việt Nam như một môn thi trong kỳ thi tuyển chọn nhân viên vào các cơ quan, doanh nghiệp… và sẽ trở thành môn thi đối với những người muốn nhập quốc tịch Việt Nam.
Ba, giới sử học cần mạnh dạn cải cách, xây dựng hệ thống chương trình, sách giáo khoa mới, bảo đảm tính khoa học, tính sư phạm, có sức hấp dẫn phù hợp với tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh. Đồng thời bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ các thày cô giáo thực sự có tâm huyết và năng lực trong việc truyền đạt tinh thần và kiến thức lịch sử đến thế hệ trẻ. Nghĩa là làm thế nào để học sinh thực sự yêu thích môn Lịch sử, hiểu biết về lịch sử và vận dụng kiến thức lịch sử vào công cuộc dựng xây đất nước.
Chỉ có nhận thức đúng đắn về vị trí môn Lịch sử và chuyển đổi mạnh mẽ trong cách dạy và học từ cả hai phía – người lãnh đạo, quản lý và người trực tiếp giảng dạy – thì môn Lịch sử mới làm trọn nhiệm vụ trong nền giáo dục nước nhà.
Tháng 11 – 2015

GS. Vũ Dương Ninh

Cành Mai Và Cây Thông Trong Tâm Tư Của Thầy Giác Tâm




Minh Thạnh


Nếu lý giải tác phẩm văn học bằng “hình tượng văn học” theo cách thức thông thường từ trước đến nay, thì bài thơ “Nhớ cành mai xưa” đã đề cập đến vấn đề của Phật giáo Việt Nam hiện đại bằng cách đặt song song hai hình tượng nghệ thuật có tính biểu trưng rất cao là cây thông và cành mai.
Sau dịp lễ hội tôn giáo cuối tháng 12 năm 2014, Thượng tọa Thích Giác Tâm, chùa Bửu Minh, Gia Lai , đã đăng tải trên trang web chùa Bửu Minh bài thơ do thầy sáng tác với nhan đề “Nhớ cành mai xưa ”.

Với tâm tình chia sẻ, đồng cảm với thầy Thích Giác Tâm, chúng tôi có bài phân tích dưới đây sau khi giới thiệu toàn văn bài thơ “Nhớ cành mai xưa” và lời dẫn:




"Trong nước, ngày Noel đã trở thành ngày lễ hội lớn, mọi người đón mừng lễ Noel, ăn Noel, chúc nhau ngày Noel. Các nơi công cộng cũng có cây thông Noel, ông già Noel, với giòng chữ Merry Christmas. Phật tử mình một số, cũng đón Noel, chúc nhau Noel. PG chúng ta thua là thua ở chỗ đó, và nếu PGVN không quyết tâm chấn hưng, thì trong một ngày không xa , PGVN sẽ giống như PG Hàn Quốc.

Bài thơ chỉ là nỗi niềm của một cá nhân.

Ta đã thua rồi trong cuộc chơi.
Nghêu ngao ca hát, cứ quên lời.
Ngoài kia đông đến cây thông thắm.
Hổ thẹn với lòng một cành mai.

Trong cuộc chơi, ta đã thua. Nghêu ngao ca hát đó là trạng thái vui gượng gạo, hát mà quên lời, không biết mình hát gì. Rất nhiều nơi công cộng và có cả một thiểu số Phật tử nữa, mua cây thông về trang trí đón mừng Noel, cho nên cây thông thắm. Hổ thẹn với lòng một cành mai (cành mai đây là cành mai của Mãn Giác thiền sư)



Nhớ cành mai xưa,

http://pgvn.vn/van-hoa/201412/Nho-canh-mai-xua-42302/

Ta đã thua rồi trong cuộc chơi.
Nghêu ngao ca hát, cứ quên lời.
Ngoài kia đông đến cây thông thắm.
Hổ thẹn với lòng một cành mai.
Vesak tưng bừng,
Xá Lợi linh thiêng.
Cờ ngũ sắc tung bay phất phới,
Vẫn không cảm tâm con dân Việt ???
Vì đâu ? Nông nỗi ?
Thế Tôn ơi !
Sư tử trùng, sư tử nhục.
Bỏ thâm tình huynh đệ, chơi với kẻ lạ người dưng.
Những cây thông xa lạ, tuyết giá.
Mang về nhà trìu mến nâng niu.
Chúc nhau những câu, lòng con Phật ngậm ngùi:
“Merry Christmas, Merry Christmas”.
Sĩ Đạt Ta, Gô Ta Ma có phải là người xa lạ ?
Ông Bụt hiền lành, ai nỡ ngoảnh mặt quay lưng.
Phật giáo và Việt Nam.
Phên dậu ngàn năm, cùng hoà chung nhịp đập con tim.
Cùng nhói đau trước bao lần bão tố, ngoại xâm.
Sinh mệnh mất còn dân tộc.
Tôi, anh, chị, em......
Há lẽ nào quên trách nhiệm của mình, trước dòng đời lịch sử !?
Đêm đông nhớ Thế Tôn lòng buốt giá.
Song bất chợt câu thơ Thiền Sư Mãn Giác trở về:
Đừng nói xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một cành mai.

Cao nguyên Pleiku đêm 30/12/2014.
Thích Giác Tâm”.

Nếu lý giải tác phẩm văn học bằng “hình tượng văn học” theo cách thức thông thường từ trước đến nay, thì bài thơ “Nhớ cành mai xưa” đã đề cập đến vấn đề của Phật giáo Việt Nam hiện đại bằng cách đặt song song hai hình tượng nghệ thuật có tính biểu trưng rất cao là cây thông và cành mai. Nhưng cành mai ở đây không phải chỉ là cành mai nói chung, mà là một cành mai cụ thể, cành mai trong bài thơ “Có bệnh bảo mọi người” của tác giả đời Lý, nhà sư Mãn Giác.

Nếu tìm hiểu bài thơ theo lý luận của trường phái hình thức Nga, phủ nhận hình tượng văn học mà đề cao khái niệm “lạ hóa”, thì cách so sánh cành mai/cây thông cũng là một cách diễn đạt rất lạ, có tính biểu trưng cao, độc đáo chuyên chở được nội dung của bài thơ, trình bày dưới một sáng tạo hàm xúc, nhiều ý nghĩa, gợi những suy tư đi vào chiều sâu.

Bài thơ “Nhớ cành mai xưa” là một cách đặt vấn đề thiểu số hóa, vấn đề suy thoái của Phật giáo Việt Nam bằng nghệ thuật ngôn từ, vừa cụ thể bằng hình ảnh cành mai, cây thông, vừa chan chứa tình cảm qua những lời tâm sự chân thành, bộc trực, cảm thán.

Một trong những biểu hiện của Phật giáo Việt Nam suy thoái, Phật giáo Việt Nam thiểu số hóa, là tình trạng mất cân đối trong các lễ hội tôn giáo. Đây là vấn đề nổi lên rất rõ, nhưng có nhiều tu sĩ, tín đồ Phật giáo hời hợt, vô tâm, chẳng hề để ý đến. Hơn thế, trên facebook, điện thoại di động, một số tu sĩ và Phật tử còn gởi nhau lời chúc lễ Noel, rất nhiệt thành và hoan hỷ. Không ít tín đồ Phật giáo trang trí nhà cửa bằng cây thông, hình ảnh Noel, bảng chữ “Merry Christmas”. Người lao động, sinh viên, học sinh gia đình Phật tử vui mừng nghỉ lễ Noel (dù việc cho phép nghỉ Noel được thể hiện dưới một lý do khác)…

Trong lễ hội tôn giáo, Phật giáo đã trở thành tôn giáo thiểu số, hàng hai, với ngày Phật đản được cho là ngày lễ tôn giáo đứng hàng thứ… 5 tại Việt Nam (sau Noel, Phục Sinh, rằm tháng bảy, rằm tháng giêng).

Với những người con Phật nặng tình với đạo pháp và có cái nhìn sâu sắc, thì đây không phải ngày vui chúc tụng hay là dịp ăn uống, trang trí thể hiện sự “hân hoan” đua đòi, lạc điệu, mà đây là dịp suy tư về tiền đồ đạo Phật tại Việt Nam.

Với thầy Thích Giác Tâm, sự suy tư đã trở thành nỗi đau, qua bài thơ “Nhớ cành mai xưa”.

Bài thơ mở đầu bằng lời lẽ bi quan, chán ngán, rã rời, xuôi tay, có phần thất chí, tìm đến cơn say:

“Ta đã thua rồi trong cuộc chơi.
Nghêu ngao ca hát, cứ quên lời.
Ngoài kia đông đến cây thông thắm.
Hổ thẹn với lòng một cành mai”


Bài thơ như xác định kết quả của một cuộc đua tranh, từ đó là ngọn nguồn cho cảm xúc kết thành những vần thơ sau đó. Câu thơ mở đầu cũng là nội dung đặt vấn đề hiện tình Phật giáo bằng hình tượng nghệ thuật, hay trình bày “lạ hóa” giàu chất văn học. Theo dòng đọc, người đọc sẽ càng lúc càng hiểu rõ vấn đề, cũng qua một cách diễn đạt hình tượng:

“Ngoài kia đông đến cây thông thắm.
Hổ thẹn với lòng một cành mai”

Việt Nam không có mùa đông, không có tuyết rơi, cây thông chỉ có ở một số ít nơi khí hậu lạnh. Nhưng con người, với hoạt động tôn giáo, đã đưa mùa đông vào Việt Nam. Thế rồi Việt Nam đâu đâu cũng có mùa đông, có tuyết rơi, có cây thông dù là giả. Cây thông giả mọc lên ngày càng nhiều trong những gia đình Việt Nam.

Với “cây thông thắm”, ngay sau đó là tình cảm của tác giả “hỗ thẹn với lòng”, rất đặc biệt, cành mai xuất hiện.

Đây là một cành mai chung chung, chưa đi vào cụ thể, nhưng đã rất có ý nghĩa, trong sự so sánh với hình ảnh “cây thông thắm”. Vị trí xuất hiện của cành mai như thế đã làm cho người đọc bước đầu hiểu về ý nghĩa của cành mai, ý nghĩa của “cây thông thắm”, ý nghĩa của “cuộc chơi”, ý nghĩa của “ta đã thua rồi”.

Cụm từ “cuộc chơi”, với ý nghĩa hơn thua, giao đấu, đua tranh, thắng bại, làm cho bài thơ có một mở đầu trần gian, thế tục. Càng nặng nề hơn đó là nỗi bi quan của “người thua”.

Nhưng trong đó lại là một cái nhìn sâu sắc và sự diễn đạt tinh tế, giàu tính nghệ thuật. Nhiều người, rất nhiều người trong cuộc chơi đó, nhưng có thể do nhiều lý do, mà trên hết là sự nông cạn, nên không nhận thức về cuộc chơi đó, không biết mình đang trong cuộc, vì thế càng không thể biết mình đang thắng hay thua, không biết những gì đang xảy ra, vô tư trong sự ngây ngô, ngờ nghệch. Ở những người đó thì đừng nói chi có cảm xúc hay suy tư. Đáng thương cho những kẻ bị thua mà không biết mình thua, cứ hồn nhiên vui chơi trong lễ hội tôn giáo mùa đông.

Những người như vậy không thể hiểu, không thể cảm đến tầng bậc nghệ thuật của bài thơ này, càng không thể hiểu cành mai là gì, cây thông là gì, cùng những nỗi khắc khoải, trăn trở đến mức “hổ thẹn”, “nghêu ngao ca hát, cứ quên lời”.

“Nghêu ngao ca hát” trong một cuộc thua đã là điều rất nặng nề. Càng nặng hơn khi “nghêu ngao ca hát, cứ quên lời”. “

“Quên lời” cũng là biểu hiện nỗi đau. “Quên lời” nhưng vẫn “nghêu ngao ca hát” là nỗi đau đến cùng tột. Hát mà quên lời, nhưng vẫn hát. “Nghêu ngao” “quên lời” trở thành những tiếng kêu vô nghĩa trong nỗi đau.

Nỗi đau của tác giả quả thật là khó chia sẻ. Một nỗi đau được giăng kết bằng ngổn ngang cảm xúc, qua những hình ảnh đối lập chằng chéo.

Ở đây cũng là một nỗi đau rất Việt Nam, vì vậy, trong đó là tinh thần dân tộc. Cây cối là những biểu tượng quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Ngày trước Nguyễn Trãi cũng đưa cây tùng, cây trúc, cây chuối… vào thơ ca để gửi gắm lòng mình. Vì vậy, dùng hình ảnh cây thông và cành mai trong sáng tác, thầy Giác Tâm đã lại đi trên con đường hình ảnh quen thuộc, của thơ ca dân tộc, nói lên tình tự dân tộc. Khổ thơ đầu có thể còn hơi khó hiểu, vì chỉ là hình ảnh cây thông, cành mai, những ghi nhận hành động, những suy tư đột khởi chưa giải thích. Vì vậy, phải cần đoạn sau, nơi dòng thơ là lời giải thích có tính chất chính luận.

Nếu khổ thơ đầu mang tính hình tượng rất cao, thì đoạn thơ sau đi vào lời giải thích chi tiết, cụ thể. Đoạn thơ diễn giải cho người đọc “cây thông thắm” mùa đông và cành mai là gì, tại sao tác giả lại nói ta đã thua rồi, đó là “cuộc chơi gì”, tại sao đến nỗi “nghêu ngao ca hát cứ quên lời”…

Hiện trạng suy thoái của Phật giáo Việt Nam trong sự so sánh đã được ghi nhận một cách khá rõ ràng. Vấn đề chính yếu đã được xác định.

Trong khi lễ hội Vesak “Vẫn không cảm tâm con dân Việt ???”

Và xa hơn là câu hỏi về nguyên nhân: “Vì đâu? Nên nỗi?”.

Bài thơ từ những cảm xúc, hình ảnh biểu trưng đột ngột trở về với tư duy chính luận, tuy vẫn theo mạch hình ảnh.

Hồi tưởng lại lễ hội tôn giáo tháng 12 mới thấm thía với vấn đề mà tác giả đặt ra. Việt Nam đã như thành một nước khác trên đường phố, trong công viên, trước bệnh viện trường học và trên cả phương tiện truyền thông chính thức của nhà nước. Đâu đâu cũng là hình ảnh lễ hội tôn giáo khác, lời chúc tụng trong cung cách một tôn giáo khác. Phật giáo dường như không còn vị trí, không còn hiện diện, thậm chí không còn dấu vết, không còn gì lưu lại ở Việt Nam. Trong chuyện này, ngoại trừ những người theo tôn giáo khác, thì mọi người Việt Nam đều có trách nhiệm, nhất là những người Phật giáo. Tính chính luận của bài thơ đi vào chiều sâu, và có ý nghĩa khái quát rộng lớn hơn khi bài thơ đặt vấn đề:

“Sinh mệnh mất còn dân tộc.
Tôi, anh, chị, em....
Há lẽ nào quên trách nhiệm của mình, trước dòng đời lịch sử !?”

Nếu bài thơ dừng ở đây, thì cũng đã là một bài thơ hay. Nhưng sẽ là một bài thơ bi quan, thua cuộc, phần nào trần tục hơn thua trong “cuộc chơi”, dù vẫn là một phát hiện sâu sắc, có ý nghĩa, có giá trị.

Nhưng bài thơ đã vượt lên tầm “đã thua rồi”, vượt lên sự bi quan, buồn nản, vượt lên nỗi hổ thẹn cũng như so đo trần tục.

Vì trong đoạn cuối, hình tượng cành mai đã được nâng lên. Không phải chỉ là một cành mai bình thường, mà là cành mai trong bài “Có bệnh bảo mọi người” thiền sư Mãn Giác:

“Đừng nói xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một cành mai.


Cành mai thiêng liêng, thoát tục, bừng nở lạc quan đã thay đổi tính chất bài thơ, đưa bài thơ đến tầm cao của nhãn quan đạo Phật.

Dù hiện trạng hôm nay là như thế, vẫn cần được ghi nhận, lưu tâm, thậm chí phản ứng nặng nề, khắc khoải, ưu tư, nhưng hình ảnh cành mai giác ngộ trong thơ thiền sư Mãn Giác đã đưa người đọc thoát khỏi sự ngột ngạt, tấm tức của thực trạng.

Hai câu thơ kết bài “Có bệnh bảo mọi người” của Mãn Giác Thiền sư dùng làm câu kết bài thơ “Nhớ cành mai xưa” tạo cho bài thơ hiện nay dáng dấp lạc quan của bài thơ của Thiền sư Mãn Giác, vận dụng vào trường hợp hiện tại.

Vì vậy, có thể nói, “Nhớ cành mai xưa” là một dạng bài thơ “Có bệnh bảo mọi người” trong thời hiện tại.

Trong lý luận văn học hiện đại, có quan niệm “văn chương như là một quá trình dùng điển” thì bài “Nhờ cành mai xưa” là một dạng thức “dùng điển cố”, tập thơ cổ khá tiêu biểu.

Bài thơ mở đầu khá bi quan, trọn bài tràn ngập bi quan, nhưng lại kết thúc lạc quan, hy vọng, mà không hề gượng ép, khiên cưỡng, không có dấu vết của sự vớt vát, cố gắng cứu vãn.

Vì tác giả đã đưa vào bài thơ tinh thần đạt đạo của tác phẩm bất hủ “Có bệnh bảo mọi người”.

Đoạn giữa mang tính chính luận của bài thơ có hạn chế là giảm tính chất thi ca, có phần nặng về văn xuôi, nhưng bài thơ cơ bản vẫn đạt giá trị nghệ thuật cao trong cái tứ thơ “Đêm qua sân trước một nhành mai”.

Bài thơ có sự cân đối cần thiết giữa ghi nhận hiện thực và thoát tục vượt lên hiện thực, giữa bi quan và lạc quan, giữa cảnh báo và nhìn nhận bản chất, giữa nỗi đau và niềm tin tưởng, hy vọng.

Minh Thạnh
http://nguoiphattu.com/van-hoa/van-hoc-tuy-but/8299-canh-mai-va-cay-thong-trong-tam-tu-cua-thay-giac-tam.html

Trí thức và thói háo danh




Vương Trí Nhàn

Trí thức là một thành phần quan trọng, đóng vai trò định hình tư tưởng, dẫn dắt xã hội. Tuy vậy, theo nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn, không phải toàn bộ nhưng ít nhất một bộ phận trong số họ có những nhược điểm cố hữu. Xin giới thiệu một số bài viết của ông về chủ đề này với mục đích tự nhìn lại mình, phản tư để thấu hiểu và thay đổi chính mình.
Thói háo danh và vĩ cuồng của trí thức
Giới thông thái chân đất
Truy tìm căn nguyên thói “háo danh” của trí thức

Thói háo danh và vĩ cuồng của trí thức
Thói háo danh và căn bệnh vĩ cuồng, từ xưa trong hoàn cảnh nhược tiểu nhiều người đã mắc, tới nay trong hoàn cảnh chớm hội nhập với thế giới, bệnh lại trầm trọng hơn trong một bộ phận trí thức.

Bệnh sùng bái danh hiệu, chức vụ... trong giới trí thức vừa được Đặng Hữu Phúc xem như một quốc nạn.  Chỉ có thể chia sẻ với một khái quát như thế nếu người ta nhận ra những gì đứng đằng sau cái căn bệnh có vẻ dễ thương đó là sự liên đới của nhiều “chứng nan y“ cùng là sự tha hoá của giới trí thức cũng như của nhiều lớp người khác.

Bài viết Tôi chỉ là Ashkenazy! Hay quốc nạn loạn chức danh, học vị gợi tôi nhớ tới một câu chuyện trong sử cũ.

Nhìn người bằng... chức danh
Nửa cuối thế kỷ thứ XVII, có một trí thức Trung Quốc là Chu Thuấn Thuỷ trên bước đường chống Thanh phục Minh nhiều lần đến Việt Nam. Lần ấy, khoảng 1657, nghe Chúa Nguyễn có hịch chiêu mộ những ai biết chữ để giúp vào việc nước, Chu ra trình diện. Nhưng ông cảm thấy chung quanh không hiểu mình, không thi thố được tài năng, lại bị làm phiền, nên bỏ sang Nhật. Sau ông đóng góp rất nhiều vào viêc phát triển xã hội Nhật.

Chu không phải là loại người đọc sách xa lánh sự đời. Một học giả Nhật đã viết về Chu “Cái học của tiên sinh nhấn mạnh về "kinh bang tế thế". Giả sử nếu cần biến một vùng đất hoang thành phố thị, phải tập hợp sĩ nông công thương, thì một tay tiên sinh có thể cáng đáng để xây dựng nên phố thị. Thay vì “ thi thư lễ nhạc” tiên sinh thích nghiên cứu và tìm hiểu sâu sắc về cách canh tác ruộng nương và cách xây dựng nhà cửa, cách làm rượu làm tương... Tiên sinh có thể dạy người ta bất cứ việc gì”.(1)

Riêng chuyện bộ máy chính quyền Đàng Trong không thể chấp nhận một người như trên, đủ cho ta hiểu trình độ của bộ máy đó là như thế nào.

Trong tập ký sự của mình, Chu Thuấn Thuỷ kể khi trình diện nhà cầm quyền địa phương, gặp chuyện buồn cười là người Việt Đàng Trong bắt ông ứng khẩu ngay một bài thơ rồi viết trên giấy. Tiếp đó câu đầu tiên bị hỏi là “Cống sĩ với cử nhân và tiến sĩ, bên nào hơn?”.

Khi biết Chu chỉ là cống sĩ, viên quan địa phương có ý xem thường, cho học lực của Chu không thể nào đọ được các vị khoa bảng nhà mình.

Từ câu chuyện về Chu Thuấn Thuỷ tới câu chuyện về nghệ sĩ Nga Vladimir Ashkennazy mà Đặng Hữu Phúc vừa kể, như là có sự nối tiếp. Hoặc có thể nói cả hai phối hợp với nhau làm nên một đôi câu đối khá chỉnh. Một bên thì không thể hiểu người nổi tiếng lại không có một chức danh nào, còn bên kia thì không cần biết trước mặt mình là người đã được hoàng đế nhà Minh mời ra giúp nước, chỉ nghe cái bằng cống sĩ đã bĩu môi chê bai - giữa người ngày xưa với người ngày nay, sao mà có sự ăn ý đến thế!

Từ háo danh tới vĩ cuồng

Đặng Hữu Phúc đã nói tới cái khó chịu khi phải nghe đám người “mở miệng là họ nói tới chức tước “ - tức đám người háo danh - trò chuyện với nhau. Ai đã sống trong giới trí thức ở ta hẳn thấy chuyện đó chẳng có gì xa lạ.

Anh A và anh B vốn cùng nghề và cùng cơ quan, họ cùng dự buổi họp nhỏ, chứ không phải đăng đàn diễn thuyết trước bàn dân thiên hạ gì.

Thế mà cứ động phát biểu thì từ miệng anh A, vang lên nào là “như giáo sư B đã nói” (gọi đầy đủ cả tên họ), nào là “tôi hoàn toàn đồng tình với các luận điểm giáo sư B. vừa trình bày“ (Thực ra có luận điểm khoa học gì đâu mà chỉ là mấy nhận xét vụn). Và B cũng đáp lại bằng cách nói tương tự.

Khi phải dự những cuộc hội thảo ở đó cách xưng hô và nói năng giữa các thành viên theo kiểu như thế này, tôi chỉ có cách ráng chịu một lúc rồi lảng. Tôi không sao nhớ nổi họ nói với nhau điều gì. Và tôi đoán họ cũng vậy. Vì mỗi người trong họ có vẻ còn mải để ý xem người phát biểu đã gọi người khác đúng chức danh chưa, hay để sót, chứ đâu có chú ý tới nội dung các phát biểu. Không khí nhang nhác như những buổi họp quan viên trong các làng xóm xưa, mà Ngô Tất Tố hay Nam Cao đã tả.

Tại sao chúng ta khó chịu với lớp người háo danh này? Đơn giản lắm, ta thấy họ ấu trĩ, non dại, thực chất họ thấp hơn cái vị thế mà họ chiếm được, không xứng với chức danh họ nhăm nhăm mang ra khoe.

Ai đã thử quan sát tình trạng tinh thần của đám người mê tín hẳn biết, người càng thiếu lòng tin, thì khi vào cuộc mê tín càng cuồng nhiệt.

Giới trí thức cũng vậy, cái sự thích kêu cho to chẳng qua là một cách để xoá bỏ mặc cảm. Kẻ yếu bóng vía lấy cái mã bên ngoài để làm dáng che đậy cho sự trống rỗng bên trong.

Mấy thói xấu mà Đặng Hữu Phúc nêu lên chỉ đáng để người ta cười giễu, ghét bỏ, thương hại. Song ác một nỗi chính nó lại là dấu hiệu đầu tiên của nhiều chứng nan y khác chẳng hạn căn bệnh mà Cao Xuân Hạo trong một bài viết ở cuốn Tâm lý người Việt nhìn từ nhiều góc độ(2)gọi là bệnh vĩ cuồng ( me’ganomanie).

Cao Xuân Hạo kể một chuyện mà thoạt nghe chắc chẳng ai dám tin. Hàng năm cơ quan lưu trữ nước mình thường phải thanh lý hàng tấn những hồ sơ “sáng kiến phát minh“ gồm toàn đề nghị viển vông do người trong nước ùn ùn gửi tới. Cao Xuân Hạo nói thêm điều đáng lo là ở chỗ phần đông chúng ta khi nghe những điều quái gở ở đây đều thấy bình thường, cùng lắm thì là loại sai lầm dễ tha thứ; còn ai tỏ ý kinh hoàng thì bị mọi người coi là bệnh hoạn vô đạo đức vì đã không tin vào khả năng sáng tạo của những người bình thường.

Cần phải gộp cả thói háo danh và bệnh vĩ cuồng nói trên để phân tích vì giữa chúng có một điểm chung là đều xuất phát từ những người và nhóm người sống trong tình trạng cô lập, không có khả năng tự nhận thức, đứng ngoài nhịp phát triển tự nhiên của thế giới.

Tình hình lại cần được xem là tệ hại bởi nó bám rễ vào bộ phận tinh hoa của xã hội.

Trí thức là bộ phận mũi nhọn của một cộng đồng, của những thể nghiệm làm người của cộng đồng đó. Những nhược điểm của trí thức chẳng qua chỉ là phóng to nhược điểm của cộng đồng. Và nếu như những nhược điểm này đã thâm căn cố, đế trở thành một sự tha hoá, thì tình trạng của người trí thức sẽ là một phòng thí nghiệm hợp lý để nghiên cứu về tình trạng tha hoá nói chung. Phải nghiên cứu kỹ lưỡng thì may ra mới có cơ hội chữa chạy hay ít nhiều cũng giảm thiểu tình hình nguy hại.

Ghi chú:

(1) Chu Thuấn Thuỷ Ký sự đến Việt Nam năm 1657 (An Nam cung dịch kỷ sự), Vĩnh Sính dịch và chú thích, Hội khoa học lịch sử Việt Nam 1999, tr.11
(2) Trung tâm nghiên cứu tâm lý dân tộc -- Tâm lý Người Việt nam nhìn từ nhiều góc độ, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh,2000, tr.82-87

"Giới thông thái chân đất"

Công cuộc phát triển đòi hỏi đất nước phải có một tầng lớp trí thức ngang tầm quốc tế và khu vực, ở đó không thể có sự nửa vời, sự tự hạ thấp tiêu chuẩn để làm dáng.

Nền giáo dục đơn sơ

Nhiều năm qua chúng ta hay nói một cách hồn nhiên rằng dân ta ham học và trong quá khứ ta có một nền giáo dục chẳng kém gì những nước khác. Bản thân tôi ban đầu cũng tin như thế, sau thực tế ngày càng thấy phải nói ngược lại.



Trong một cuốn sách lịch sử giáo dục (1) tôi thấy người ta chỉ ra rằng thật ra giáo dục là chuyện xài sang. Chỉ những đất nước giàu có mới có tiền của để chi cho giáo dục theo đúng nghĩa của nó. Khi nền kinh tế ở trình độ tiểu nông manh mún, thậm chí trình độ hái lượm, con người có mỗi việc kiếm ăn đã không làm nổi, ta chỉ có thứ giáo dục ở dạng đơn sơ, kém cỏi.

Ta hay khoe, người dân quê nào ở nông thôn VN cũng sẵn sàng bớt ăn bớt mặc cho con đến học ở các thầy đồ lấy “năm ba chữ thánh hiền”.

Nhưng hãy nhìn kỹ vào những lớp học đó. Trường sở sơ sài. Sách vở tài liệu không có, đến bữa cơm chắc bụng cho người dạy cũng không có nốt (nhiều truyện tiếu lâm toàn ghi lại chuyện thầy đồ ăn vụng) - thử hỏi sau mấy năm theo học các ông thầy ấy, phần lớn các cậu học trò nhà quê học được gì ? Biết dăm ba chữ để đủ đọc tên mình trong khế ước văn tự thế thôi chứ làm sao hơn được?!

Sự ham học có tính cá nhân nông nổi đó chưa bao giờ kết hợp với nỗ lực của cộng đồng để xây dựng nổi cơ chế giáo dục hợp lý và một nội dung giáo dục lâu dài, có triển vọng.

Đọc lịch sử, đời Lê, sau khi đánh xong giặc Minh, nhà vua lo cầu hiền tài để chọn quan lại ở cấp cơ sở. Chọn như thế nào? Chẳng qua chỉ một số người tinh nhanh đủ chữ ghi chép và … biết làm tính (2).

Theo như cách nói của một tác giả trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật thì một nét đặc thù của trí thức VN trong lịch sử là tính cách lưỡng phân. Ông Nguyễn An Ninh, tác giả bài này giải thích: Họ vừa là kẻ sĩ vừa là nông dân. Khi không thể sống bằng chữ tức bằng nghề của mình, nhu cầu trí tuệ của họ bị giảm thiểu. Những xung lực cho hoạt động trí tuệ ở họ thường xuyên bị kìm hãm. Gặp hoàn cảnh khó khăn , họ dễ bị hư hỏng.(3)

Tính cách lưỡng phân ấy là cả một ám ảnh, như ám ảnh về quê hương nghèo đói. Ta hiểu tại sao một số trí thức tỉnh táo khi đã thành đạt, vẫn không thể quên nguồn gốc của mình, cái nơi mà từ đó mình đi tới. Đây là lời dặn của Nguyễn Khuyến cho con cái:

Các con nối nghiệp cha nên biết
Nghiên bút đừng quên đậu lúa cà


Thế sao những người nông dân một nửa này vẫn miệt mài đèn sách để có ngày lều chõng khoa cử thì sao? Bởi việc nhồi vào óc một ít kiến thức cổ lỗ sở dĩ thu hút được toàn bộ tinh hoa nghị lực của nhiều người vì đó là con đường ngắn nhất để được gia nhập vào hàng ngũ quan chức.

Không có sản phẩm trí thức

Tự hào về nền giáo dục xưa, ta hay đưa dẫn chứng là trong lịch sử, các triều đại đã mở nhiều khoa thi và đã lấy được nhiều tiến sĩ, các bia tiến sĩ đó còn được đặt trong Văn miếu. Nhưng thử hỏi trước tác của các vị tiến sĩ đó là gì hay chỉ là những bài văn mòn sáo sau khi dâng vua thì chính người viết ra nó cũng quên nó luôn.

Có thể chứng minh sự kém cỏi của nền giáo dục cổ ở một khía cạnh khác. Nhân xem xét danh sách các tác gia văn học VN bằng con mắt thống kê, người ta đã phát hiện ra một nghịch lý vui vui.

Đó là nhiều nhà văn nhà thơ VN thời trước nổi tiếng mà không có tác phẩm (đây là nói những tác phẩm dày dặn, có chất lượng đáng kể, được truyền tụng về sau và trở thành một đối tượng mô tả bắt buộc của các bộ từ điển).

Từ điển văn học Việt Nam do Lại Nguyên Ân biên soạn với sư cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường có 276 mục dành cho tác giả trong khi chỉ có 132 mục dành cho tác phẩm. Từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX, tính đổ đồng, mỗi thế kỷ chỉ có 7 tác phẩm; riêng thế kỷ XIX khá hơn, có tới 68 tác phẩm được ghi vào từ điển, nhưng số tác giả cũng lớn hơn, tới 78 người.

Cái hiện tượng cây không trái này (đúng hơn, có thể là toàn những trái chua trái héo, không cần cho ai, đời sau không ai buồn nhớ) càng thấy rõ khi nhìn vào hàng ngũ các ông trạng - chúng tôi muốn nói tới trạng chính thống chứ không phải trạng theo nghĩa dân gian.

Theo Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Kho tàng về các ông trạng VN thì không kể triều Nguyễn không lấy trạng nguyên, các triều đại Lý Trần Lê có tới 47 người được phong trạng. Nhưng phần lớn họ không có tên trong danh sách các tác gia nổi tiếng ở nước ta.

Ngược lại, xét chung các nhà sáng tác thơ văn, từ Nguyễn Du tới Nguyễn Đình Chiểu, từ Nguyễn Gia Thiều Phạm Thái cho tới Tú Xương, nhiều người không thuộc loại đỗ đạt cao. Riêng về biên khảo, một học giả thực thụ như Phan Huy Chú, tác giả của bộ sách đồ sộ, mang tính cách tổng kết lớn, một thứ bách khoa toàn thư là Lịch triều hiến chương loại chí, chỉ đỗ đến tú tài.

Câu chuyện người đỗ không giỏi và người giỏi không đỗ không chỉ tố cáo sự kém cỏi của hệ thống giáo dục mà còn cho thấy một phần thực chất con người của nhiều ông trạng. Họ chính là điển hình của loại học trò thuộc bài, chỉ biết tầm chương trích cú rồi làm theo những khuôn mẫu sẵn có, nói chung là những cá tính tầm thường, không có quan hệ gì tới tư duy độc lập và sự sáng tạo.

Ta đã có tầng lớp tri thức đúng nghĩa?

 


Bước vào giai đoạn hội nhập, gần đây, những cuộc bàn cãi xuất hiện đều đều trên mặt báo ở ta cho thấy vấn đề về giới trí thức đang là mối quan tâm chung của xã hội. Điều này có lý do chính đáng của nó. Sự trì trệ kéo dài hàng ngàn năm mà đến nay ta vẫn lĩnh đủ có một nguyên nhân sâu xa: cộng đồng không hình thành nổi bộ phận tinh hoa (elite) của mình. Một chủ nghĩa bình quân tối đa đã níu kéo tất cả lại.

Tôi muốn đặt vấn đề: liệu trong thực tế lịch sử chúng ta đã có một tầng lớp trí thức đúng nghĩa chưa? Nếu tạm thời chấp nhận là có một tầng lớp như vậy, thì quá trình hình thành của họ có đặc điểm gì? Tại sao họ dễ bị làm hỏng đến vậy? Trước 1945, những Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, các tác giả có bài thường xuyên trên Tri Tân Thanh Nghị… đã có ý kiến về vấn đề này mà chưa ai có dịp tổng kết.

Tuy không nói ra, nhưng có vẻ như với nhiều người, kẻ sĩ Việt Nam chỉ là một loại trí thức chân đất. Một số nhà nghiên cứu gần đây đôi khi còn đi tới những khái quát cực đoan hơn. Trong một bài viết mang tênTâm lý dân tộc với cuộc Cải cách hành chính hiện nay nhà xã hội học lão thành Đỗ Thái Đồng cho rằng xã hội cổ truyền VN thiếu ba chỗ dựa cơ bản:

Không có giai cấp quý tộc trong khi có đông đảo đám quan lại nhất thời.

Không có tầng lớp trí thức để có được các trào lưu học thuật tư tưởng riêng. Rất hiếm thấy cái cốt cách như Lý Bạch“ Thiên tử hô lai bất thượng thuyền”. Học để làm quan, tuyệt đại đa số kẻ sĩ đều mộng làm quan hơn là giữ vai trò thầy đồ… áo rách.

Không có lớp doanh nhân tung hoành về thương mại hay công nghệ trong nước cũng như ngoài nước.

Trong ba đặc điểm tôi cho là được nêu ra chính xác này, cái thứ hai liên quan đến chủ đề trí thức chúng ta đang nói.

Thói háo danh chẳng qua chỉ là dấu hiệu của một tầng lớp trí thức non yếu. Còn mọi thái độ dễ dãi với họ chiều nịnh họ mà không dám yêu cầu cao ở họ cuối cùng chỉ đẩy họ sa đà mãi trong tình trạng bần cùng về trí tuệ và nẩy sinh những căn bệnh mới.
Cũng nên nói thêm, sự dễ dãi này ban đầu có vẻ là một thiện ý hoặc nói như chữ nghĩa thời nay – một sự chia sẻ, nó bắt đầu từ một cảm nhận chung về sức ép của hoàn cảnh.

Nó là cách nghĩ từng ngự trị trong xã hội một thời gian dài. Đất nước lo gồng mình lên để chống ngoại xâm. Cuộc sống khó khăn đến nỗi, khi nghĩ về nhau người ta chỉ thấy những điều tốt đẹp, cốt sao giữ lấy cho nhau niềm tự tin, rồi động viên nhau hợp sức trong việc chống trọi lại các thế lực thù địch từ bên ngoài tới. Tức nó là sản phẩm của những thời đại mà mọi nỗ lực của con người là lo tồn tại, tới mức có thể bảo nền văn hóa của chúng ta là văn hóa để tồn tại.

Còn nếu như đặt vấn đề tồn tại chỉ là chuyện tối thiểu, cái đáng lo hơn, như hôm nay, là chuyện phát triển, chúng ta sẽ phải nghĩ khác về quá khứ và luôn thể nhìn lại khác đi về nhau.

Nay là lúc mọi sự vuốt ve nhau dễ dãi, là không đủ nữa. Công cuộc phát triển đòi hỏi đất nước phải có một tầng lớp trí thức ngang tầm quốc tế và khu vực, ở đó không thể có sự nửa vời, sự tự hạ thấp tiêu chuẩn để làm dáng.

Ghi chú:

(1) Roger Gal Lịch sử giáo dục, bản dịch Lê Thanh Hoàng Dân-- Trần Hữu Đức. NXB Trẻ-- Sài gòn, 1971
(2) Dẫn theo Đại Việt sử ký toàn thư của nhà xuất bản Khoa học xã hội 1983, tập II tr 296
(3) Nguyễn An Ninh - Tính chất lưỡng phân, một nét đặc thù của trí thức Việt nam trong lịch sử - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật 1998, số 1

Chú ý xin đừng lầm với Nguyễn An Ninh (1900-1943), nhà hoạt động xã hội ở đầu thế kỷ XX. Có điều thú vị là nhà trí thức lớn Nguyễn An Ninh trước đây cũng từng nhận xét xứ ta là nơi mà “chỉ với một chút xíu khoa học” người ta đã có thể tự coi mình là nhà thông thái, tương tự như “với hai xu trong túi, người ta đã trở thành những nhà giàu.” Khi lưu ý tình trạng nhiều người “cảm thấy thỏa mãn vừa lòng khi chui rúc trong một túp lều”, hình như ông muốn nói rằng tình trạng thiếu khát vọng và ý chí đã kìm giữ mãi chúng ta trong khung cảnh lạc hậu.



Truy tìm căn nguyên thói “háo danh” của trí thức
 


Không phải người trí thức Việt Nam sinh ra đã ham chức danh như chúng ta thấy. Hoàn cảnh đẩy họ đến chỗ phải làm vậy.

Nói như Cao Xuân Hạo, thói háo danh “có thể tăng rất nhanh theo cấp số nhân và biến thành một bệnh dịch quật ngã hàng triệu người”

Ngành văn chương mà tôi làm việc thuộc khu vực mà người ta hay nhấn mạnh tính bản địa.

Ngoài cái háo danh kiểu vô thức tập thể - cho rằng văn chương nước mình chẳng kém gì thế giới, rồi thường xuyên mũ cao áo dài vái lậy, tôn vinh nhau ngay trong sinh hoạt hàng ngày, còn một lối chạy theo danh vị kín đáo hơn, nhưng chắc chắn hơn. Đó là lo mấy câu thơ của mình được đưa vào sách giáo khoa cho học sinh cả nước học, lo tên tuổi của mình thường xuyên được nhắc nhở trên các phương tiện thông tin đại chúng, nịnh nọt những người được phân công viết văn học sử đương đại, cốt họ dành cho mình vài dòng trong sách và nhờ thế mình sẽ ở lại với vĩnh viễn.

Sự phát triển tính hiếu danh”vượt xa kế hoạch” như thế này có những liên quan đến tình trạng của giới trí thức đương thời cũng như quan niệm của xã hội về họ.

Hệ quả của một thời chiến tranh

Xã hội sau 1945, căn bản là xã hội của tư duy công nông nghĩa là của những người hành động. Mọi sự tính toán xa xôi, những công việc không có lợi ích ngay cho sự nghiệp nếu không bị thù ghét thì cũng không thể được xem trọng như đáng lẽ phải có. Cuộc sống hàng ngày quá ư vất vả, thành ra tuy vẫn hiểu chủ trương lớn là trọng trí thức, nhưng trong thực tế người ta vẫn thành kiến với họ, chí ít là không tôn trọng họ, thấy họ quá kềnh càng phiền phức.

Nên nhớ nét chủ đạo của hoàn cảnh là không khí thời chiến. Chiến tranh cào bằng tất cả. Chiến tranh tước đi những tự do tối thiểu của mọi công dân vì lúc ấy cần phải vậy.

Sự tập trung cho chiến tranh làm nảy sinh trong xã hội VN dăm sáu chục năm nay một tâm lý thường trực, là chỉ tính chuyện ăn ngay trước mắt. Ngay trong thời kỳ 1946-54, một nền giáo dục thời chiến đã được tổ chức để đào tạo nhân tài. Nhưng cũng vì cần phục vụ ngay nên đó là một nền giáo dục mang nặng tính thực dụng, không muốn và không thấy cần đạt tới chuẩn mực cần thiết.

Tình trạng phi chuẩn này còn được kéo dài mãi và trở nên nặng căn thêm bởi lý do sau đây. Khẩu hiệu của cách mạng là giáo dục phổ cập. Nhưng kinh tế thì chưa bao giờ hết khó khăn để đáp ứng nổi nhu cầu của đại chúng về giáo dục. Ngoài cách pha loãng, làm nhẹ, làm giảm thiểu chất lượng, không còn có cách nào khác.

Theo những quy luật đã chi phối kẻ sĩ thời phong kiến, như vậy là tính háo danh và bệnh vĩ cuồng đã có đủ điều kiện để bắt rễ vào tư duy và nếp sống của lớp trí thức mới được đào tạo.

Nhìn vào giáo dục những năm hoà bình 1954-65, cũng như thời chống Mỹ, thấy số năm học ở phổ thông, ở đại học có thể tăng, một số thầy giáo được đi học ở Nga, Trung Quốc và các nước Đông Âu... Nhưng về căn bản, cái hồn cốt của giáo dục vẫn là chắp vá, tạm bợ, không có khả năng hội nhập với giáo dục thế giới. Các bằng cấp của chúng ta chưa bao giờ được đông đảo các nền giáo dục khác công nhận là một bằng chứng về tình trạng cô lập kéo dài đó.

Giai đoạn “phong cấp, phong tước” thời hậu chiến

Đánh dấu bước ngoặt trong ngành giáo dục cũng như trong quan niệm về giới trí thức là năm 1958 và mấy năm sau. Chịu ảnh hưởng của cuộc đấu tranh chống phái hữu ở Trung Quốc, và cuộc đấu tranh chống nhóm Nhân văn bên Văn nghệ, giới Đại học trước tiên là khu vực khoa học xã hội đã có một cuộc “thay máu”.

Các giáo sư nòng cốt như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Trương Tửu và lớp trẻ đầy tài năng như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc... bị cho thôi việc hoặc chuyển sang các viện nghiên cứu, thực tế là chỉ ngồi chơi xơi nước hoặc làm những việc không quan trọng như dịch tài liệu. Lớp người thay thế được chọn ra chủ yếu theo tiêu chuẩn chính trị.

Ban đầu, nhiều người trong số mới lên này nhũn nhặn, tự nhận là mình chỉ đóng vai trò thay thế, không đòi hỏi gì về chức danh, vui vẻ với đồng lương bé mọn mà vẫn chăm chỉ làm việc, và trong thực tế họ đã đóng vai trò thúc đẩy khoa học tiến tới. Tuy nhiên đến khoảng 1973-74 thì có một tình hình mới.

Trong thực tế giảng dạy và nghiên cứu, nhu cầu chuẩn hoá dù không được đặt ra chính thức, song vẫn như một xu thế mà bất cứ nền giáo dục nào cũng phải hướng tới. Ít ra là bề ngoài ta phải có được hình thức cho dễ coi một chút!

Lại thêm những khía cạnh mới trong tình hình xã hội đòi hỏi điều đó. Cuộc chiến tranh giải phóng bước vào giai đoạn kết thúc. Có một phương án sau này không xảy ra nhưng lúc đó được tính tới, đó là những cuộc đối thoại giữa hai xã hội miền Bắc và miền Nam.

Trong cuộc đối thoại đó, không thể bỏ qua tiếng nói của giới trí thức. Ta cần phải có những giáo sư của ta những trí thức của ta chứ! Phải chứng minh cho phía bên kia thấy rõ là miền Bắc không chỉ biết làm chiến tranh mà còn biết làm học thuật. Và thế là nhu cầu phong cấp phong chức nổi lên, nó là đòi hỏi từ hai phía cả từ bên trong bản thân giới học thuật lẫn nhu cầu của xã hội.

Cái cách của xã hội ta xưa nay vẫn vậy. Thấy cần là làm, không đủ điều kiện cũng làm, làm bất kể phép tắc. Và từ chỗ ban đầu còn chặt chẽ nghiêm túc, sự mệt mỏi và nghiệp dư trong quản lý khiến cho công việc càng về sau càng được làm qua loa dễ dãi, chín bỏ làm mười mà có khi chỉ năm sáu thôi cũng đã coi là mười.

Những người cơ hội kém cỏi chỉ chờ có thế. Họ “lẻn” ngay vào những chỗ đất trống (tôi mượn chữ lẻn từ câu Kiều "Đẩy song đã thấy Sở Khanh lẻn vào” ) và từ chỗ xấu hổ, biết điều, quay ra chủ động thao túng tình hình.

Mỗi chúng tôi đã bị làm hỏng như thế nào?


Cách đây khoảng hai chục năm, tôi đọc được trên tấm danh thiếp của anh C. một người quen, bên cạnh tên tuổi có ghi thêm các chức danh sau đây, mỗi chức danh một dòng, tổng cộng chín dòng.


dòng 1: Nghề anh học ở đại học
dòng 2: Nghề anh đang làm
dòng 3: Chủ tịch Hội....
dòng 4: Tổng biên tập báo...
dòng 5: Đại biểu Quốc hội (năm đó anh đang là một ông nghị)
dòng 6: Thành viên Uỷ ban xxx của Quốc hội

Ngoài ra là ba chức danh nữa, tôi không nhớ xuể nhưng hình như là các loại giải thưởng được trao tặng. Thú thực ban đầu tôi cũng thấy buồn cười, nhưng sau thì thông cảm. Hồi ấy anh bạn tôi sau những nỗ lực bền bỉ, từ công việc chuyên môn được ngắm nghía để cơ cấu vào giới quan chức.

Lớn lên từ đám học sinh Hà Nội rồi thành cán bộ nhà nước, chúng tôi đã nếm đủ những đau xót của một bọn người mang tiếng là người làm nghề sáng tạo trong xã hội, luôn luôn cảm thấy mình có tội vì đã coi trọng việc học.

Đó là về tinh thần. Còn vật chất thì sao? Bao giờ đến lượt được mua xe đạp, bao giờ đến lượt được tăng lương, những việc đó chờ đã mỏi cổ, nói chi đến việc có được một cái nhà, xoay được một chuyến đi ngoại quốc?

Không ai tuyên bố chính thức, nhưng tất cả thực tế hình như đồng thanh rót vào tai mình, chỉ có một cách hết nghèo hết khổ là lọt vào tầm mắt của lãnh đạo.

Trở thành quan chức thì tốt nhất. Nếu không thì cũng phải có được những chức danh trong nghề, nó là cái dấu hiệu đánh dấu mình. Dù có phải luồn cúi chạy chọt một chút song vì cuộc sống bản thân và gia đình, hãy ráng mà giành lấy cho mình những danh vị cần thiết.

Tôi đã nói là cần thông cảm với anh bạn C với tấm danh thiếp chín chức danh của mình. Vì hồi ấy sau khi ghé chân quan trường, đoàn thể, anh đang lo xin đất làm nhà.

Một là, tuy biết trên nguyên tắc trước sau làm quan sẽ sớm được chia nhà, nhưng trong thực tế không đơn giản có ghế là có nhà ngay. Muốn được miếng ngon miếng sốt, còn phải cạnh tranh chán với các vị quan khác thì mới được như ý. Hơn nữa, quan trong văn nghệ là do dân cử, có khi chỉ ngồi được vài năm.

Vốn tính thực dụng, anh bạn tôi hoàn toàn hiểu điều đó. Ngồi chưa ấm ghế, anh bắt tay ngay vào việc xin đất. Mà anh làm thật khôn ngoan. Người khác hách dịch công khai huy động cả cơ quan lo chuyện riêng cho mình. Còn C. thì hoàn toàn lặng lẽ tự mình làm hết. Lặng lẽ viết công văn. Lặng lẽ đóng dấu. Lặng lẽ đến các nơi có liên quan.

Chính tấm danh thiếp chín dòng của C mà tôi dẫn ra ở trên xuất hiện trong thời gian đó. Tôi thầm dự đoán anh bạn đã phải loay hoay rất nhiều trong việc soạn ra danh sách các chức vụ để không quên một chức nào. Đây là tôi nói loại người còn đang hiền lành, nhân biết cái danh có thể đổi ra tiền thì lợi dụng nó.

Lại còn loại người thứ hai là điên cuồng săn đuổi danh vị, sau đó mượn danh vị để tiến thân, ngày càng leo mãi lên trong hệ thống quan chức, dù chỉ là trong phạm vi quan chức chuyên môn. So với họ, anh C. của tôi còn tử tế chán.

Nhưng cả loại người này nữa cũng không phải là “từ trên trời rơi xuống”. Mà họ cũng là sản phẩm của một sự thích ứng - thích ứng với cách đánh giá người và dùng người của xã hội. Nhưng đây là vấn đề thuộc về khoa xã hội học quan chức mà tôi chưa có dịp nghiên cứu.

Trong bài này, trong chừng mực nào đó, tôi đã mở rộng ra nói về thói háo danh và căn bệnh vĩ cuồng mà người mình thường mắc, từ xưa trong hoàn cảnh nhược tiểu đã mắc, tới nay trong hoàn cảnh chớm hội nhập với thế giới bệnh lại trầm trọng hơn. Đây là những quan sát bước đầu, cần sự chia sẻ phản bác của các đồng nghiệp.

Để kết thúc, tôi đưa ra hai kết luận cuối cùng:

Một là hãy thông cảm với những người trong cuộc. Không phải người trí thức Việt Nam sinh ra đã ham chức danh như chúng ta thấy. Hoàn cảnh đẩy họ đến chỗ phải làm vậy.

Hai là, bệnh khó chữa lắm. Vì nó chỉ là một biểu hiện của tình trạng tha hóa trí thức cần được nghiên cứu trên quy mô rộng hơn và có tầm khái quát hơn.