Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014

Phẫu thuật cho ai dễ nhất?



Bốn nhà phẫu thuật ngồi tán chuyện với nhau về công việc trong giờ nghỉ giải lao.


Người thứ nhất nói: Tôi thấy phẫu thuật cho nhân viên kế toán là dễ nhất. Mọi thứ bên trong đều được đánh số.


Người thứ hai nói: Tôi thấy phẫu thuật cho thủ thư là dễ nhất. Khi anh mổ phanh ra, tất cả nội tạng đều được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái.


Người thứ ba nói: Tôi thích phẫu thuật thợ điện hơn. Tất cả nội tạng của họ đều được đánh dấu bằng các màu khác nhau.


Người thứ tư nói: Tôi thấy phẫu thuật cho mấy nhà dân chủ là dễ nhất. Họ không có tim hay gan, không có xương sống, mông và đầu của họ có thể thay thế cho nhau. Đặc biệt nhất là nếu anh có lỡ cắt nhầm cái gì thì cũng không cần phải lo lắng, chúng sẽ tự mọc lại.


(Chuyện bịa, chỉ để giải trí, nhân dịp được nghe những huyền thoại về các nhà dân chủ Việt Nam)


Hiệp Sĩ Cưỡi Lừa

Rỗng…



Featured Image: John Holcroft



Liệu bạn có đang sống? Phải chăng bạn nghĩ đây là một câu hỏi ngớ ngẩn và vô vị. Nhưng không bạn ạ, cái tôi muốn hỏi là sống một cách có ý nghĩa, sống trọn vẹn với cuộc đời, sống chứ không phải chỉ tồn tại. Liệu bạn có đang sống như thế, liệu xã hội loài người có đang sống như thế? Đã bao giờ bạn suy nghĩ thật nghiêm túc về những thứ “rỗng” trong thế giới tự nhiên và đời sống con người.

Vậy “rỗng” là gì? Theo từ điển tiếng Việt “rỗng” có nghĩa là không có phần lõi hoặc không chứa đựng gì. “Rỗng” cũng có nghĩa là lỗ hổng. “Rỗng” của thế giới tự nhiên chính là rỗng của vật chất, có thể hiểu là sự thiếu thốn, không đầy đủ về mặt vật chất. Đó là cái “rỗng” mà chúng ta có thể đổ đầy nó bằng một thứ vật chất khác. Nó khác với cái “rỗng” của con người là cái “rỗng” của tinh thần và tâm hồn, là cái “rỗng” về mặt nhận thức và giá trị.

“Rỗng” trong thế giới tự nhiên là tính chất “trung lập” không thể tách rời. Bởi trong cuộc sống này không có thứ gì là hoàn hảo, mười phân vẹn mười cả. Có một sự vật tồn tại ắt có những lỗ ” rỗng” bí ẩn về nó mà ta chưa thể lý giải, ắt có những khía cạnh, khiếm khuyết mà ta cho dù có đối chiếu ở mọi góc cạnh, mọi phương diện vẫn không thể tìm ra… “Rỗng” về vật chất là sự thiếu hụt của một khía cạnh trong đời sống. Nó không tách rời mà tồn tại song song với sự sống. Có sự “rỗng” mới thôi thúc con người không ngừng phát triển và đi lên với khát khao lấp đầy sự “rỗng”. Bởi đó là bản chất của tính chinh phục của con người. Vậy nên theo lý thuyết triết học mới nói rằng “rỗng” của tự nhiên là căn nguyên của mọi vật, để sinh ra năng lượng tạo lên vật chất.

Bởi “rỗng” là trạng thái khởi nguyên của mọi vật, nên câu hỏi đặt ra là: “Rỗng” có giá trị không? Mặc dù “rỗng” là căn nguyên của mọi vật, nhưng những thứ “rỗng” thường không được coi trọng. Bởi con người chỉ quen nhìn mọi vật ở bề ngoài bằng một “đôi mắt rỗng” chứ đâu xem xét từ bản chất của vấn đề, từ mọi góc độ đánh giá.

Có một sự “rỗng” cũng không được coi trọng như vậy, đó là sự rỗng trong tâm hồn con người, là biểu thị cho sự ăn mòn nhận thức và nhân tính. Như vấn đề mà ban đầu tôi đã đặt ra. Liệu bạn có đang sống? Tất nhiên mỗi người có một quan niệm riêng của mình về sự sống. Thế nhưng những ý tưởng sai lầm về nhận thức có thể khiến chúng ta mất đi sự sống thật. Vài người cho rằng cuộc sống chính là những nhu cầu vật chất chúng ta đang nắm giữ, theo đuổi. Có người cả cuộc đời chạy theo những thứ vật chất xa hoa phù phiếm, và cứ nghĩ rằng vật chất tỷ lệ thuận với chất lượng của cuộc sống.

Tôi không phủ nhận những giá trị lợi ích của vật chất nơi cuộc sống hằng ngày, nhưng bạn có hay không nhìn vào mặt trái của chúng. Ngày nay bạn cứ mải miết chạy theo những thứ xe hơi đắt tiền, nhà cửa sang trọng, y phục đẹp đẽ… Bạn cứ chăm chút cho vẻ ngoài hào nhoáng bằng những thứ vật chất xa xỉ phẩm và nghĩ rằng chúng có thể giúp bạn nâng cao giá trị bản thân và ý nghĩa cuộc sống. Nhưng không, nó chỉ biến bạn thành những con người giả dối, những con người sống vì đồng tiền, thứ bạn sở hữu trong tay không phải là giá trị bản thân mà là sự suy đồi về nhân cách.

Chạy theo vật chất, con đường tưởng chừng như tươi sáng ấy lại cũng có thể là lỗ hổng không đáy nuốt chửng đi hạnh phúc của bạn. Cứ mãi lo chạy theo nhưng thứ vật chất ngoài thân thì đến bao giờ bạn mới chịu bắt đầu sống thật? Của cải vật chất chỉ là những dụng cụ và đồ dùng trang bị cho cuộc đời. Nếu cứ mờ mắt mà chạy theo nó chẳng mấy chốc chúng ta lại biến thành nô lệ cho của cải vật chất và là đầy tớ cho những ước vọng bất tận. Trong khi đó sự sống thật sự lại trốn chạy xa và khiến chúng ta cảm thấy cuộc đời thật trống rỗng. Nhưng sự thật là những suy nghĩ, định kiến sai lầm của chính bản thân bạn, chính chúng ta đã tạo ra những sự “rỗng” về tinh thần và mặt nhận thức trong con người mình.

Về quan niệm của sự sống, một số người lại nghĩ: con người ta sống vì cái danh. Điều này đúng nhưng lại không toàn diện. Người ta vẫn nói “miệng lưỡi thế gian” vô cùng đáng sợ. Sống để giữ gìn thanh danh là điều đúng đắn, nhưng nếu ai lại quá đề cao mải mê chạy theo cái danh thì kết quả hoàn toàn ngược lại. Có những người dùng tiền để mua bằng cấp, địa vị, có những người dùng sự giả dối tốt đẹp để che đậy đi bản chất thực bên trong. Con người ta lắm khi vẫn mang trong mình cái “sĩ diện” cái “tôi” cá nhân quá lớn.

Nhiều người lên Facebook để khoe thân, khoe tài sản, số khác thì giả vờ làm người tốt. Có những người khoe khoang sự sung túc, đủ đầy của bản thân mình. Một số bộ phận trẻ hèn nhát, yếu đuối thay vì đối mặt với khó khăn thì lại giãi bày trên các trang mạng xã hội, thay vì thể hiện tình cảm trực tiếp lại viết những dòng mùi mẫn để nhận sự đồng cảm thương xót của những người quen xa lạ. Gặp một vụ tai nạn trên đường thay vì giúp đỡ người bị nạn theo sức của mình thì các bạn lại lôi điện thoại ra quay clip, chụp hình rồi mang khoe với bạn bè bằng những gương mặt giả vờ xót xa đau đớn. Có những nhà từ thiện quảng bá hoạt động ủng hộ của mình trên khắp các phương tiện truyền thông đại chúng, khua chiêng gõ trống, chỉ sợ không ai biết mình là “người tốt”.

Con người hay mang trong mình những chiếc mặt nạ giả dối và tô vẽ cho những ánh màu hào quang chói rực, tự hào cho mình sự “hữu danh vô thực”. Một cá thể đi bằng đôi chân giả sẽ khiến cho cả một cộng đồng người cùng đi bằng đôi chân giả – một xã hội rỗng tuếch! Họ chú trọng bằng cấp, danh hiệu, thích tạo ra những thành tích vô bổ, theo đuổi những kỷ lục tầm thường… – một xã hội quá chú trọng đến vẻ trang sức bên ngoài cộng đồng trong khi cái thực bên trong – phẩm cách của công dân trong cộng đồng không hề tương xứng. Xã hội khi đó sẽ trở thành giả dối, nói như Vũ Trọng Phụng thì đó là cuộc đời “chó đểu”. Sự giả dối ấy sẽ tạo ra một lỗ hổng trong chính nhân cách của con người, bởi một người sống giả thì làm sao có thể mang một trái tim thật.

Trong cuộc sống của mỗi con người sự “rỗng” là cái đáng sợ hơn cả. Không có mục đích hoặc đi với những mục đích sai lầm, họ cứ sống sôi nổi trong đời như “manh rẻ rách trên những dòng sông”. Sự “rỗng” trong đời sống con người thật đáng sợ, bởi nó sẽ bắt chính chúng ta phải trả giá bằng hạnh phúc, bằng cả cuộc đời. Bill Gates đã từng nói rằng:


“Điều đáng sợ trong cuộc sống của một con người là sự rỗng tuếch… Đối với tôi điều quan trọng nhất ở con người là sống như thế nào? Chứ không phải là tồn tại ở trên đời.”

Sống thực đi nhé! Đừng “rỗng” nữa! nhìn thẳng vào chính mình và bắt đầu lại!



Silent Wind

Thứ Tư, 24 tháng 12, 2014

Chữ NHẪN




Trên đầu chữ NHẪN một con dao
Làm việc không NHẪN họa rước vào
Nếu ai NHẪN được qua cơn giận
Việc xong mới thấy chữ NHẪN cao




Trong chữ Hán: chữ Nhẫn được hình thành từ 
心 (tâm) + 刃(nhận) = 忍
Chữ 心 (tâm)
(Nhận) 刃 nghĩa là sự nguy hiểm, mũi nhọn, chém giết.
忍 Nhẫn có nghĩa là nhịn. Như làm việc khó khăn cũng cố làm cho được gọi là kiên nhẫn 堅忍.Nhẫn là lòng khoan dung độ lượng. 
Tại sao chữ nhận 刃 (nhận) nằm trong chữ Tâm 心 gọi là nhẫn. Tức là người tạo chữ muốn nói. Trong cuộc sống hằng ngày tâm mình thường hay tiếp xúc nhiều thứ nguy hại như tham, sân, si, ngã mạn, ganh ty…Chúng ta luôn thức tỉnh những thứ làm nguy hại đến tâm tu hành. Do vậy chúng ta nhẫn nhịn. Sau này người viết chữ thường hay viết chữ Nhẫn như sau: 
心 tâm + đao 刀 + bộ chủ丶thành chữ Nhẫn
đao 刀 nghĩa con dao, là chỉ cho sự nguy hiểm. Nó được ví như tâm sân phiền não có tính chất nguy hiểm đến tâm tu hành. Nó tìm ẩn bên trong cái Tâm.
Người tu chữ Nhẫn cần có 丶(chủ) tức là làm chủ cái nguy hiểm, làm chủ cơn sân giận. Khi viết chữ Nhẫn bộ chủ丶này nằm trên bộ đao 刀. Ý nghĩa này rất hay muốn Nhẫn thì chú ta phải làm chủ cái nguy hiểm (bộ chủ nằm trên bộ đao)
Muốn có được bộ chủ 丶này đòi hỏi chúng ta phải tu tập. Thấy được bản chất của cơn sân giận là nguy hiểm luôn tiềm ẩn bên trong tâm (căn bản phiền não). Nó làm cho tâm con người nổi sân một cách điên rồ. Nên khi gặp hoàn cảnh chướng ngại chúng ta biết “Nhẫn” một chút. Nếu không một khi tâm sân nổi lên thì tình cảm gia đình sứt mẻ, tình bạn bè xa nhau. Chúng ta luôn thấy rằng tâm sân chính là kẻ thù độc hại lớn nhất của tâm. Một khi tâm sân nổi lên đốt hết cả rừng công đức, chỉ cần một ngọn lửa nhỏ có thể đốt cháy cả khu rừng, “nhất niệm sân tâm khởi, bát vạn chướng môn khai”. Vậy làm cách nào để thắng được tâm sân, và thực hành “Tâm nhẫn”. Chúng ta chỉ cần đi tìm 丶(chủ) để bỏ con đao trong tâm 
Muốn có được (bộ chủ)丶này. Chúng ta phải tu tập từ bi quán, thiền định để tâm mình hằng ngày bình thản an lạc. Khi tâm bình thì thế giới bình “tướng tự tâm sinh”. Khi chúng ta thực tập thiền định, tâm vắng lặng thì “trí tuệ” phát sinh (nhân định tức huệ). Khi có trí tuệ rồi chúng ta sẽ làm chủ được con đao刀 (phiền não). Bấy giờ trong bất kỳ nghịch cảnh chướng ngại nào chúng ta cũng làm chủ được cái nguy hại, làm chủ được cái tâm của mình. Ví dụ: tự nhiên ở đâu có người đến mắng chửi nhục mạ mình. Nếu mình không có trí tuệ không làm chủ được sự việc đó, thì tâm sân nổi lên dẫn đến đánh nhau, gây tai hại cả hai. Nếu như mình có trí tuệ làm chủ lúc đó. Mình quán xét sự việc đó, chuyện này ở đâu tự nhiên đem đến. Chắc là do kiếp trước mình đã gieo nghiệp ác thù hận với người này. Nên hôm nay người đó đến đòi nợ. Nhờ mình tu hành có phước, nên chủ nợ đến đòi nợ, mình có nợ thì trả cho họ là xong “Nhẫn” nhịn họ không sao, mọi việc sẽ tốt đẹp. Mình có nợ hôm nay trả hết nợ thì vui, tâm an lac. Nếu họ nổi sân là họ đã tạo nghiệp sai. Mình lại nổi tâm sân y như họ cả hai đều sai. Dẫn đến thù hận đời này sang đời kia biết bao giờ chấm dứt. 
Theo đạo Phật chữ “Nhẫn” là một trong sáu phương pháp tu gọi (Lục độ) của Bồ tát gồm: Bố thí, Trì giới, Tinh tấn, Nhẫn nhục, Thiền định và Trí tuệ. Chúng ta là hành giả đang trên bước đường tu tập. Đừng bao giờ cho mình đã thắng và làm chủ được tâm sân. Khi chúng ta gặp hoàn cảnh chướng duyên phiền não. Nên quán tưởng kẻ thù đó chính là người bạn thân nhất của mình, là thiện tri thức trên lộ trình tu tập của mình. Họ giúp chúng ta có điều kiện để tu “Nhẫn”.

Nói thì dễ lắm nhưng khi thực hành thật là khó. bởi vì hằng ngay chúng ta luôn ôm ấp cái bản ngã của mình, sống ích kỷ, giận hờn, ganh tỵ, đố kỵ. Lúc nào cũng xem mình là trên hết. Đây chính là nguyên nhân ngăn cản chúng ta tu chữ “nhẫn”. Những thứ đó như là đao刀 nằm trong tâm. Như từ trước đến giờ chúng ta luôn sống sai lầm thế này. Thì bây giờ chúng ta suy nghĩ sống tu tập chữ “Nhẫn”. hằng ngày cố gắng tu từ bi quán, thực hành thiền định để tâm được an định bấy giờ chúng ta sẽ có丶(trí tuệ) để bỏ con đao sân giận kia. Cuộc sống chúng ta luôn được an vui. 

Thích Trí Giải

Nhận diện đạo đức con người qua tục ngữ và thơ ca dân gian





Khánh Yên




Đạo đức của con người luôn được mọi thời từ cổ tới kim đề cập tới. Ngày nay, đây cũng luôn là một vấn đề “nóng”. Để giúp mọi người thẩm định, đánh giá một cách chính xác về đạo đức con người, người viết xin được giới thiệu một vài kinh nghiệm của ông cha ta xưa xung quanh vấn đề này.


Trong thực tế và qua thực tế cuộc sống, hẳn bạn đã từng được mắt thấy, tai nghe những câu chuyện về những con người mà dân gian thường nói là “miệng nam mô mà bụng bồ dao găm”. Nhìn vẻ ngoài của những con người này thật bóng bẩy, hào nhoáng; họ nói rất dẻo, hót rất hay, nên nhiều người cứ lầm tưởng rằng, đó chính là“vàng mười đích thực chứ không phải là thau”. Nhưng đến khi có một sự biến nào đó thì, than ôi, “cháy nhà ra mặt chuột”, đó đích thị là “rắn độc cuộn khúc tưởng ra rồng vàng”. Không đến nỗi như hạng người đã đề cập ở trên, nhưng trong cuộc sống cũng không thiếu những con người khi mới chân ướt chân ráo về làm việc ở cơ quan, đơn vị thì tỏ ra rất sốt sắng, nhiệt tình; họ thường tâng bốc bợ đợ những người “bề trên”; nhưng hẳn là “Đường dài hay sức ngựa, nước loạn biết tôi ngay”, “Gặp cơn đại loạn mới hay trung thần”. Và quả là, được một thời gian họ liền bị lộ diện chân dung ngay- họ gây bè, kéo cánh, đấu đá lung tung dối trên, lừa dưới làm cho nội bộ cơ quan đơn vị rối ren. Và chính theo các tác giả của tục ngữ Việt Nam thì trong những thời điểm hòa bình, yên vui, phẩm chất đạo đức của con người ít được bộc lộ. Chỉ trong hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn thì “chất đỏ” và “vết đen” của con người mới được kiểm chứng cụ thể. Không những thế, hàng loạt những công việc, hành động cụ thể khác của con người được tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam lấy làm tiêu chí kiểm định đạo đức. Nhận xét khái quát này thể hiện qua triết luận: “Xem trong bếp, biết nết đàn bà”. Câu ấy có nội dung, ý nghĩa vào loại đơn giản, dễ hiểu nhất. Tác giả của nó muốn diễn đạt: cứ trông trong bếp, nếu thấy gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ thì biết nết lao động, cũng như biết đức hạnh của bà (hoặc chị, cô) chủ là tốt; ngược lại, nhìn thấy bếp bừa bãi, lộn xộn, bẩn thỉu thì biết ngay là chủ nhân của nhà bếp đó thuộc loại người luộm thuộm, phẩm chất có vấn đề và phải được, xem xét. Bài ca dao ngụ ngôn dưới đây cũng lấy việc làm, hành động là tiêu chí kiểm định đạo đức: “Cái Cò, cái Vạc, cái Nông / Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi Cò/ Không không tôi đứng trên bờ/ Mẹ con cái Vạc đổ ngờ cho tôi / Chẳng tin thì ông đi đôi / Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia”. Mẹ con nhà Vạc là kẻ ác, dẫm lúa của người ta lại đổ lỗi đó cho Cò. Những kẻ nhẫn tâm như mẹ con nhà Vạc trong bài ca dao này bị người đời chê trách, lên án gọi là kẻ "gắp lửa bỏ tay người". Và thời nay vẫn còn đầy rấy những kẻ “gắp lửa bỏ tay người” như vậy. Đáng lên án thay. Một khía cạnh khác mà các tác giả của tục ngữ, thơ ca dân gian thường đề cập đến là đạo đức con người phải được thẩm định, đánh giá qua thực tế, từ thực tế và trong thực tế : “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, hay “Có gió rung mới biết tùng bách cứng, có ngọn lửa hừng mới biết thức vàng cao”. Vâng, dù xưa hay nay; dù là người phương Đông hay người phương Tây, đạo đức của con người chỉ bộc lộ và bộc lộ một cách rõ nét nhất qua những gì mà người đó đã hành động, đã làm việc; bởi trên đời này luôn là thế “mọi lí thuyết đều là màu xám, còn cây đời mãi mãi xanh tươi”. Chuyện xưa bên Tàu kể rằng, Trang Tử- một triết gia, nhà tư tưởng lừng danh, đã từng tự mình làm một cuộc thử nghiệm là giả chết để đo sự đoan trang, đức hạnh của người vợ. Kết quả là, ông đã xác minh được phẩm hạnh của người vợ trẻ đẹp - một kẻ miệng nói thủy chung và bao lời hay, ý đẹp về phẩm chất đạo đức, nhưng trên thực tế đã có hành động ngược lại. Thời nay, nếu ai đó bắt chước Trang Tử “giả chết”, thì sẽ nhận ngay được chân giá trị của câu tục ngữ mang đậm tính triết lí dân gian “Chết giả mới biết dạ anh em”- một triết lí mang đậm giá trị đạo đức gia đình, xã hội. Và, không hiểu tôi có phải là người hoài cổ hay không mà sao lúc nào tôi cũng có ý nghĩ rằng, các cô thiếu nữ xưa, dù là hạng người nào, cũng còn sót lại trong mình những chân giá trị đạo đức đáng quí. Không như nhiều cô gái ngày nay, cứ thấy bất cứ chàng trai nào, dù đã có vợ rồi, tán tỉnh- nhất là những người có tiền, quyền và chức, là họ sẵn sàng đổ vào “không cho nó thoát” mà chẳng biết suy luận về chân giá trị đạo đức của “nó” ra sao. Còn các cô gái xưa, họ khác thế lắm. Khi biết một chằng trai đã có vợ, do si tình và giả dối, đã đến “tán tỉnh” mình, bằng cảm nhận trực quan và sự suy luận thông minh, họ đã lên tiếng vạch mặt, chỉ tên rằng : “Vợ anh như trúc, như thông/ Như hoa mới nở, như rồng mới thêu/ Anh còn lưỡng lự trăm chiều/ Gan ai là sắt dám gieo mình vào/ Vợ chồng như ngọc, như ngà. Anh còn ruồng rẫy nữa là thân em”; “Vợ anh như bát cơm xôi/ Anh còn chẳng chuộng nữa tôi cơm hàng/ Vợ anh tay bạc tay vàng/ Anh còn chẳng chuộng nữa nàng tay không...”. Vẫn biết rằng, nhận diện đạo đức của mỗi một con người cần phải có một quá trình. Không thể vội vàng đánh giá về người mà mình vừa mới tiếp xúc, nhất là sự đánh giá về đạo đức của họ. Về vấn đề này, dân gia cũng đã từng răn dạy rằng : “Thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết con người có nhân”. Tuy nhiên, phải công nhận rằng, nhận diện đạo đức, đánh giá về đạo đức của mỗi một con người quả là một vấn đề rất khó, bởi phẩm chất đạo đức của con người- do bản chất của nó, vốn là cái sâu sắc, ẩn kín trong mỗi cá nhân nên trong rất nhiều trường hợp không thể kiểm định được một cách cụ thể. Thực vậy, về vấn đề này, tục ngữ Việt Nam có những triết lý: “Lòng sông lòng bể dễ dò, ai từng bẻ thước mà đo lòng người"; "Sông sâu, sào ngắn khôn dò, người khôn ít nói khó đo tấc lòng”, hoặc “Hoạ hổ hoạ bì, nan hoạ cất / Tri nhân tri diện, bất tri tâm” (nghĩa là: Vẽ được da hổ, khó vẽ được xương hổ/ Biết mặt người, không biết được lòng người). Đặc biệt, đối với những người ma mãnh, tinh ranh, quỷ quyệt, độc ác..., tục ngữ Việt Nam cho rằng, rất khó có thể kiểm tra được đạo đức của họ. Những câu tục ngữ: “Dò sông dò bể dò nguồn, biết sao được bụng lái buôn mà dò”; “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”; “Sông sâu còn thể bắc cầu, lòng người nham hiểm biết đâu mà dò” đã diễn tả sự khó khăn không dễ vượt qua đó. Và có lẽ, đây cũng là lời cảnh báo cho loài người trong đời sống hiện tại và cả trong tương lai rằng : Hãy cảnh giác ! Bởi những kẻ vô đạo đức nhưng lại biết che đậy thường không ngại làm những việc mà có thể gây cho người lương thiện không ít khó khăn, trở ngại; thậm chí, cả sự tổn thất, mất mát lớn nữa. Nhưng, tôi cũng lại tin rằng, mãi muôn đời là vậy : “Cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con”- một triết lí chứa đựng ở nội dung câu khẩu hiệu thời hiện đại : “Ông bà, cha mẹ mẫu mực; con cháu thảo hiền”... Vâng, những cái gì từ nhân dân mà ra, do sức dân sáng tạo thì nó sẽ vô cùng chân chất, giản dị nhưng cũng thật vô cùng quí giá và sâu sắc. Hơn thế nữa, nó còn mang ý nghĩa giáo dục, hướng con người sống lương thiện hơn, chân thành hơn và tốt đẹp hơn. Tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Namlà một loại hình như thế. Và vì vậy, nó muôn đời lấp lánh sáng, lung linh ...

Cuộc chiến bên trong và nỗi khổ của con người


*Featured Image: Vũ Thanh Hòa



Tôi nghe ngoài kia họ lên lớp, truyền tai nhau về cái tốt và cái xấu, họ bảo rằng nghèo đói cần xóa bỏ, chiến tranh cần chấm dứt, thậm chí cái tôi cá nhân cuối cùng cũng nên bị đè bẹp. Cái tư tưởng muốn thay đổi mọi thứ ấy nhan nhản khắp hẻm ngang ngõ dọc khiến một đứa con nít bây giờ cũng đầy ắp trong đầu những suy nghĩ “Thay đổi thế giới”, “Thay đổi chính mình”. Và thế là đứa trẻ đáng thương bắt đầu đi rình rập, bới móc mọi thứ, tranh đấu giữa những cái nó đang là và cái nó muốn trở thành, và rồi khi cuộc tranh đấu thất bại hay không đi được đến hồi kết thì nó đau khổ vật vã. Cuộc chiến bên trong ấy đã châm ngòi cho nỗi thống khổ của hầu hết mọi người.

Vì sao có sự tranh đấu?

Vì sao một người muốn thay đổi một cái gì đó? Vì sao xuất hiện sự phán xét? Câu trả lời là người đó đang bị chia rẽ. Nghĩa là họ quan sát mọi thứ với một thái độ tách rời: Người quan sát và vật được quan sát. Khi đã tách đôi ra như vậy thì phán xét sẽ dễ dàng nảy sinh theo chiều hướng: “Tôi là người quan sát, và tôi nhìn thấy anh không được ổn lắm, tốt hơn là anh nên thay đổi đi… Sao cơ? Anh sẽ không thay đổi á? Vậy thì tôi sẽ làm điều đó giúp anh… Chết tiệt, đồ cứng đầu ngu xuẩn này, tao sẽ giết mày, mày sẽ chẳng còn gì để mà thay đổi nữa, đồ khó thay đổi ạ!”

Sự chia rẽ ấy đẻ ra một cái tôi, và bạo lực kéo đến một cách nhanh chóng như vậy.

Ví dụ như này nhé, anh A nhìn cơ thể gầy gò của mình và cho rằng chẳng cô gái nào sẽ ưa mình nên anh đã quyết định đi tập thể hình. Sau 6 tháng miệt mài, anh chỉ lên được 1kg, anh buồn vì nỗ lực mình không được đền đáp xứng đáng, anh tiếc tiền bỏ ra, và anh lại càng thêm chán ghét cái thân hình khẳng khiu gầy ốm của mình. Tiếp tục đi tập thêm 6 tháng nữa, anh sút 1kg vì quá sức. Kết quả sau 1 năm nỗ lực: Anh chửi rủa chính mình và sinh ra căm thù bọn con gái!

Chị B được dạy rằng hãy chánh niệm, hãy quan sát mọi tư tưởng khi nó nổi lên và không phán xét chúng. Chị về nhà làm theo. Khi suy nghĩ nổi lên, chị thấy nó và tự bảo với chính mình rằng “Ồ, thầy dặn là không được phán xét” và chị không phán xét gì cả. Nhưng chị lại chẳng biết rằng chính chị đang phán xét việc chị có đang phán xét hay không. Khỉ thật! Chị đang tranh đấu với chính mình chứ không phải với những suy nghĩ kia nữa. Chị B không hề biết điều đó vì chị còn đang bận hài lòng với việc chị đã không hề phán xét một suy nghĩ nào trong suốt cả ngày. Kết quả là: Chị thất niệm vì nỗ lực chánh niệm của chính mình.

Và cả những người hay than vãn, bới móc, chửi rủa không chừa một ai, không chừa một cái gì cho đến những người đấu tranh cho hòa bình, tự do, hay cố gắng thay đổi chính mình để được hạnh phúc, họ đều đang lên cơn điên hết thảy. Tất cả đều phân mảnh tứ tung bên trong, họ quan sát thế giới với một cặp mắt đầy sự chia rẽ. Một cây đào chẳng bao giờ chán ghét cành lá của nó hay muốn thay đổi một cây cam sao cho giống nó cả. Tất cả mọi người đều biết đó là hoa đào chứ không phải bất kì loại hoa nào khác. Còn cây đào đơn giản chỉ nở hoa, nó BIẾT chính mình mà không cần bất kì ai trên thế giới này phải biết hộ và đi đặt tên cho nó là Đào! Khi một người nhìn tất cả mọi thứ như nó đang là thì sẽ không có gì cần phải thay đổi, tất cả hòa làm một, không còn ranh giới giữa người quan sát và đối tượng quan sát. Nên không có tranh đấu, không tiêu tốn quá nhiều năng lượng, không có phát điên hay đau khổ.

Người ta chẳng làm được tích sự gì khi chia rẽ và đấu tranh cả, ngoài việc khiến mọi thứ rối tung rối mù hết thảy rồi lại tất bật đi giải quyết mớ hỗn độn đấy. Như Masanobu Fukuoka, tác giả của cuốnThe One – Straw Revolution đã nói rằng:


“Nó giống như một tên khùng nhảy lên mái nhà và làm vỡ vài viên ngói trên mái nhà của anh ta. Sau đó khi trời mưa thì nước bắt đầu thấm và chảy xuống trần nhà, anh ta bắc thang lên và tìm mọi cách để sửa chữa cái trần nhà, và sau đó hớn hở khi tìm được một giải pháp nào đó.”

Vậy làm thế nào để không tranh đấu nữa?

Nếu bạn hỏi rằng làm thế nào để mọi sự tuôn chảy tự nhiên, không còn tranh đấu bên trong nữa, nhìn mọi thứ như nó đang là? Câu trả lời là: CHẲNG LÀM THẾ NÀO CẢ. Vì khi còn hỏi “làm thế nào”“ tức là bạn vẫn đang tách mình khỏi mọi thứ, vẫn còn phân tích, phán xét đúng-sai, ngọn lửa muốn thay đổi vẫn đang bập bùng trong con người bạn. Đến một ngày bạn sẽ bị nó thiêu rụi trong khi vẫn đang mải miết tìm kiếm một cách để tuôn chảy!

“Không làm thế nào cả” không có nghĩa là không làm gì cả, ngồi một chỗ và bảo với tất cả những ai thắc mắc về việc bạn đang chảy thây ra, rằng: “Mọi thứ cứ để tự nó làm việc, ta không cần làm gì hết sất.” Vậy mình cũng xin thưa rằng, một hồ nước không lưu thông là hồ nước chết. “Không làm gì cả” bản chất là không làm những gì chia rẽ, hay tranh đấu, hay chống lại việc “đang là” của mọi việc, mọi người. Bạn vẫn sẽ làm mọi thứ, vẫn ăn uống, ngủ nghỉ, lao động, giao tiếp, suy nghĩ, nhưng với một cái nhìn của sự hòa hợp, tất cả là một.

Người ta cảm thấy việc “không làm gì cả” này quá khó khăn hay ngu xuẩn, vì họ đã xây dựng thói quen “làm” mọi thứ ấy qua bao nhiêu năm tháng cuộc đời rồi, chuyện buông bỏ không phải chỉ diễn ra trong một sớm một chiều được. Họ đã quen bới mọi thứ lên, bóp méo tất cả, chia nhóm nhỏ cho từng loại, sắp xếp phải-trái, xấu-đẹp đâu ra đấy và gọi nó là TRẬT TỰ. Cái trật tự ấy mang đến cho họ sự an toàn và họ tiếp tục xây dựng vương quốc ấy ngày càng lớn mạnh. Khi có một kẻ lang thang vật vờ ở đâu đó tới và bảo rằng hãy đi ra khỏi vương quốc và hòa nhập với tự nhiên, thì phần lớn họ bên trong lòng sẽ thầm nhổ thẳng vào kẻ ất ơ kia, còn ngoài mặt sẽ bảo rằng: “Anh có thể tới sống ở vương quốc này, tôi sẽ sắp xếp cho anh một chốn thích hợp,” và nói nhỏ hơn để kẻ kia không nghe thấy: “Tốt hơn là mày nên bị cai trị!”

Bạn hãy thử nhìn một con mèo xem, chỉ nhìn thôi, bằng toàn bộ trái tim bạn, một cách chăm chú nhất, sao cho đến khi bạn cảm thấy không còn ranh giới giữa mình và con mèo đó nữa. Bạn không thấy mình ở đây và con mèo ở đó nữa, mà bạn thấy mình ở trong con mèo và nó lại ở trong bạn. Đó chính là khoảnh khắc bạn không bị chia rẽ, không có mầm mống chiến tranh, không đau khổ. Bạn thấy một sự bình an và im lặng tuyệt đối. Nhưng nếu lúc đó con mèo bỗng nhảy dựng lên và cào vào mặt bạn thì bạn muốn quan sát sự việc này như thế nào thì tùy!

Bản chất của “bất bạo động” không phải là không sử dụng bạo lực, không manh động, mà là để mọi sự tuôn chảy tự nhiên. Bạn không thể chấm dứt chiến tranh bằng cách tạo ra chiến tranh, bạn chỉ có thể chấm dứt nó bằng cách để hòa bình phát triển. Bạn không thể xóa bỏ một nỗi đau đớn bằng cách át chế hay phủ nhận, nó chỉ ra đi khi bạn chấp nhận và yêu thương.

Bạn bảo rằng khi có chiến tranh thì lấy đâu ra hòa bình mà phát triển, hay khi đang đau đớn thì sao mà chấp nhận và yêu thương được. Bạn đã nhầm to! Khi có đen thì hẳn sẽ có trắng, những ngôi sao sẽ chẳng sáng nổi nếu như không có bầu trời đêm. Luôn có một nơi cho hòa bình, cho tha thứ và thương yêu nếu trên thế giới vẫn còn chiến tranh, thù hằn và sợ hãi. Khi bước chân vào vùng đất hòa bình đó thì bạn sẽ không cần phải đấu tranh cho hòa bình nữa. Chiến tranh sẽ tự chấm dứt và khổ đau cũng tự tiêu tan. Giống như bạn không thể xóa bỏ được tình trạng sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật hay thuốc kích thích tăng trưởng cho rau củ một cách tràn lan hiện nay. Việc bạn có thể làm là tự đi trồng rau sạch hoặc tìm mua rau sạch về mà ăn. Không có than vãn, không có chửi rủa, không có phiền não! Tất cả chỉ có rau sạch. Chấm hết.

Khi quả cầu ánh sáng đủ lớn, nó sẽ nuốt chửng quả cầu bóng tối mà không cần làm gì khác ngoài việc là chính nó.

Tóm lại, nơi nào sự sống được tuôn chảy, nơi đó có hạnh phúc, tự do và trật tự. Còn nơi nào có sự chia rẽ, nơi đó có phán xét, áp đặt, bạo lực và đau khổ. Hãy ngừng tranh đấu ở bên trong và để mọi thứ tự nó vận hành, như gió thổi và nắng chiếu. Còn không thì cứ tiếp tục bới tung mọi thứ lên như bạn đã và đang làm, chúng ta đều có tự do ý chí cả.



Vũ Thanh Hòa

Thứ Hai, 22 tháng 12, 2014

Lưu trú đêm




Anh gọi bóng tối
vẽ gương mặt mình bằng những tiếng ve đêm
để phác họa cho những dị ảnh mơ hồ

hôm qua tháng chạp rơi nghiêng
nỗi buồn anh chới với
tiếng kèn saxophone phát ra từ lồng ngực
réo rắt một khúc ca cuối mùa
rệ rạc

anh bần thần chôn tiếng thời gian vừa thở
như con ốc chôn mình giữa biển khơi
mùa thương cuối cùng
những giọt mưa cũng đắng mình trên lá

đêm hắt hơi đầy tinh tú
lẩm bẩm vài câu nói vô thường
nỗi cô đơn thơm như hoa lài vừa nở muộn

đắm mình bên những dấu đêm mù tịnh
như đắm cơn ngái ngủ
đôi mắt có thể mở toang một giấc chiêm bao trắng
hồn nhiên tìm về những đêm đêm
lưu trú



Kai Hoàn
g

Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2014

Nghe điềm nhiên con mắt







Cơn bão cuộc đời

Nghe tàn phai con mắt

Về cùng tiếng thở dài của mẹ

Chiếc khay trầu ủ thắm lá nhân gian

Nén nhang

Trừ tịch mẹ nỗi buồn

Hương khói cha thanh thản hành trình rơm rạ

Những luống cày cuối ngày hối hả tăm tắp về đâu

Những cơn bão hoành hành nối tiếp nhau xéo nát phận người

Năm ngón ửng hồng trũng sâu con mắt

Cỏ dịu dàng ấp ủ mặt đất hoang tàn màu xanh chân thật

Cát bụi đáy mồ bỗng nhớ tinh khôi

Về cùng mẹ bên thềm nhặt hạt mồ côi cha tiếng chuông gieo lơ lửng bên đồi

Lối cũ bâng khuâng bước tha hương trở về cội rễ

Cơn gió chuyển mùa rón rén len qua khe cửa

Chuỗi bồ-đề an lạc hóa duyên

Cơn bão bụi hồng

Nghe điềm nhiên con mắt

Giao hòa che ngang khuôn mặt

Ẩn mật môi cười.

Trần Quang Phong

Khẩu Phật tâm xà





Huỳnh Trung Chánh


Đời vô thường vô ngã
Người khẩu Phật tâm xà
Nhất Hạnh



Thím Bảy đảo qua lại bên quầy hàng bày bán mắm tôm chua mấy lượt mới cầm một hủ lên xăm xoi, rồi lại để xuống, lắc đầu than nho nhỏ: "Có mấy con tôm nhỏ híu, mà mắc quá hè!". Tiếng than vô tình lọt vào tai bác Tám Cà Mau, ông già gân gan ruột để ngoài da ồn ồn lên tiếng:

- Hứ! Cái thứ tép riu, tép bạc nhỏ nhít nầy mà thiên hạ đại ngôn gọi là mắm tôm, thiệt là khoác lác.

Đang đi chợ buổi chiều, khách cũng le hoe mà nghe nhắc đến con tép bạc, thiếm Bảy chợt nhớ đến câu hát ru em ngày xưa "Phiên chợ đông, con cá hồng anh chê lạt. Buổi chợ chiều con tép bạc anh khen ngon" nên vui miệng đáp theo điệu ấy:

- "Ở Việt Nam, con tôm càng chê lạt. Đến xứ người, con tép bạc cũng khen ngon" mà bác.

- Cái gì xứ người thiếu thốn quí cho phải, chớ tép thì ở xứ Houston nầy quá nhiều mà!

- Thưa bác! Tôm Houston thịt bở lắm không làm mắm tôm được đâu. Cháu đã thử mấy lần đều thất bại. Tôm đỏ hấp dẫn, mà bã ra như bột vậy đó.

- Người ta làm mắm tép cầu kỳ như thế nào tôi không rõ, nhưng "nhận mắm tép" theo phương pháp quê mùa xứ Năm Căn, Cà Mau thì chắc như bắp, trăm lần không sai một.

Thím Bảy mừng rú lên:

- Bác Tám còn có nghề làm mắm, vậy mà con chưa biết?

- Xứ Năm Căn tui, cá tôm lủ khủ ăn không hết thì phải làm mắm. Cá lóc, cá sặc, ba khía, còng hay tép cũng mang ra nhận mắm ráo nạo hết. Trẻ nít còn biết làm mắm, làm khô, huống chi là tui!

- Vậy bác Tám dạy con nghen! Nhà con thích mắm lắm!

- Ơ! nè lại nhà bác lấy mấy hủ về ăn thử. Thích thì bác truyền nghề cho. Dễ ợt hà cháu!

Phương thức làm mắm tôm Năm Căn giản dị đến nỗi thím Bảy tưởng mình nghe lầm. Tuân theo lời chỉ dẫn của bác Tám, thím gò gẫm nhận thử hai hủ, rồi cứ ngay ngáy trông ngóng chờ đến ngày ăn thử. Thím nếm con tép, tự biết đã thành công, nhưng thím vẫn chưa tin được khẩu vị của mình. Thế là thím thấp thỏm chờ đợi chú Bảy đi làm về, phải nghe được tiếng nói của ông xã thì mới chắc ăn. Thật ra, chú Bảy là tay nịnh vợ có hạng, vợ nấu nướng món gì, ngon dở, cũng khen tùm lum hết. Biết rõ ruột gan ông chồng, nhưng thím Bảy vẫn vui sướng nghe mãi điệp khúc ngọt ngào đó.

Sống ở xứ người mà chú Bảy chỉ tương tư những thức ăn thuần túy Việt Nam. Thấy mắm mắt chú sáng lên. Chú chăm chỉ gắp một đủa mắm tôm, kèm với đu đủ bào, rau thơm, giá sống..., nhai chầm chập. Con tôm chắc thịt, vị đậm đà, phảng phất trọn vẹn chất mắm nguyên thủy, chớ không nhão nhẹt, chua òm, biến chất như các loại mua ở chợ. Chú chồm dậy nói lên:

- Đúng rồi! phải rồi! Đây chính là món mắm Cổ Chiên, Trà Vinh thuở nhỏ tôi đã ăn đó mà!

Chú nhai con mắm mà mắt cay cay, cảm giác như có cả mùi chuối chác, khế, đọt xoài, đọa lụa..., hương vị quê hương gần gũi mà cũng xa xôi diệu vợi biết là dường nào. Thấu rõ ruột gan ông chồng, thím Bảy phóng vù ra chợ, xách về mấy bao tôm, rồi ì ạch chuẩn bị "kỹ nghệ mắm tôm". Thế là bao nhiêu chai lọ trong nhà, thím tuôn ra để nhận mắm hết. Rồi thím lại đem lọ, hủ lớn nhỏ ra phơi đầy cả sân trước. Mùi mắm có thoang thoảng sang hàng xóm Hoa Kỳ thì họ ráng mà ngửi đỡ vậy. Phơi được vài nắng, những con tôm đã đỏ au hấp dẫn. Thím Bảy bắt đầu lục lọi địa chỉ đám bè bạn thân cư ngụ ở những vùng thiếu thốn thực phẩm Á Đông để nâng niu gói món quà đượm tình quê hương mặn nồng, biếu họ.

Thông điệp "mắm" gởi đi một tuần lễ, thì thím Bảy nhận lu bù điện thoại khắp nơi. Trừ một thiểu số hội nhập trung thành với hamburger, hot dog xứ người lợt lạt, phần lớn đón nhận gói quà quí giá như đón nhận tình quê hương ruột thịt đậm đà. Có người xúc động cảm tạ thím Bảy đã khơi mở cho họ nhìn lại khung trời quê hương nhớ nhung thấm thiết. Tuy nhiên, "cú" điện thoại thím Bảy mong đợi từ Texarkana, tiểu bang Arkansas vẫn im hơi lặng tiếng. Lo lắng cho số phận hủ mắm gởi cho vợ chồng Mai và Ly bị thất lạc, thím Bảy bồn chồn liên lạc hỏi thăm. Vừa nghe tiếng "A lô" của Ly bên kia đầu giây, thím Bảy mừng rỡ tíu tít:

- A lô! Bích Ly đó hả! Ta nhớ bồ quá đi. Nè! Mùa lễ Tạ Ơn sắp tới, tụi nầy đi Hot Springs chơi, ghé rước bồ cùng đi nhe!

- Ơ! thích lắm nhưng không biết anh Mai có bận gì không?

- Bồ có nhận được hủ mắm tôm chua mình gởi chưa?

Bích Ly chưa kịp trả lời, thì bỗng có tiếng Mai, trong đường giây điện thoại bắt song song, ào ào lên tiếng lấn át giọng vợ:

- A lô! Chào chị Bảy. Hủ mắm tôm tới rồi. Cám ơn chị nhe! Nhưng rất tiếc tụi nầy ăn chay trường rồi, chẳng dám phạm giới đâu?

Đang hí hửng với thành quả mắm tôm, yên chí cô bạn thân mê tít rồi năn nỉ mình truyền nghề, bất ngờ bị ông bạn nhắc nhở giới luật, khiến thím Bảy ngỡ ngàng "xìu" như bong bóng xì hơi, cụt hứng lúng búng cáo biệt.

Ông mã thành Mai là một đại nhân vật tại thị xã Texarkana. Sang Hoa Kỳ năm 1975, nhờ thông minh tài trí hơn người, khởi đầu từ một chân thợ kinh nghiệm yếu kém, chỉ mấy năm đã nghiễm nhiên được đề bạt thành quản lý tại công ty máy cày hiệu con ngựa bay. Địa vị vững vàng, lương bổng hậu, Mai tạo nhà, rồi sang một cửa tiệm hàng thực dụng tại một địa điểm đông khách giao cho vợ trông nom. Cơ hội liên hệ với giới địa ốc hé mở cho Mai thấy được viễn ảnh huy hoàng của dịch vụ buôn bán nhà cửa, nên Mai liền hành thêm nghề tay trái nầy. Đúng lúc Việt kiều đổ xô về định cư tại Hoa Kỳ, rồi họ lại tranh đua nhau tạo dựng nhà cửa. Thế là, Mai một mình một chợ, mặc sức làm giàu. Tiền bạc sung túc thúc đẩy Mai tiến sang địa hạt hoạt động xã hội, đóng góp cho cộng đồng người Việt xứ người. Mai vận động thành lập Hội Người Việt rồi chễm chệ giữ chức vụ chủ tịch. Tiến xa hơn nữa, Mai hô hào đồng bào Phật tử đóng góp công của để xây dựng chùa, dĩ nhiên địa vị Hội Trưởng do Mai gánh vác. Thành thật mà nói, Mai đã hy sinh rất nhiều, đóng góp công của cho Hội khá rộng rãi. Tuy vậy, cũng có kẻ ganh tị xuyên tạc rằng Mai hoạt động xã hội có hậu ý. Mai lợi dụng địa vị để quảng cáo hữu hiệu cho nghề dịch vụ địa ốc, lại vừa có môi trường lý tưởng mà khoa trương đạo đức, biểu diễn tu hành để lòe đời. Nhờ tài tháo vác của Mai, Hội tậu được một ngôi giáo đường cũ kỹ bỏ hoang với giá rẻ mạt, để cải biến thành chùa. Rồi Mai cũng đích thân dò la sưu tầm những vị chân tu, thỉnh về trụ trì. Vị trù trì đầu tiên chỉ lưu lại chùa hơn sáu tháng thì âm thầm ra đi. Những vị kế tiếp cũng lâm vào trạng huống tương tợ: trọng vọng triệu thỉnh rồi cũng cuốn gói ra đi không kèn không trống. Điều "tréo cẳng ngổng" là thoạt mới đến, tăng sĩ nào cũng được đích thân ông Hội Trưởng ca ngợi tôn sùng, mà chỉ mới mấy tháng sau, đã bị ông nặng lời chỉ trích là hạng dốt nát, vụng về, đạo hạnh cạn cợt... Họ tự ý rời chùa cũng là điều hay, tránh cho ông Hội Trưởng khỏi phải nhọc lòng xua đuổi. Mai thường thở than rằng đã đến thời mạt pháp nên đạo đức suy đồi, bậc chân tu thiếu vắng. Trên đời nầy, ngoài vị hòa thượng hiện vẫn mở đạo tràng phát huy thiền tông tại Việt Nam, không tu sĩ nào đáng để Mai kính phục cả. Đúng ra, có lẽ Mai chưa thật sự gần gũi hòa thượng, nếu không e rằng Mai cũng lại đổi thay nhận định mà thôi. Chẳng qua Mai vốn là người "quá ưu tư" cho đạo đức kẻ khác, lúc nào Mai cũng lo lắng soi bói hành vi thiên hạ để chỉ trích hay nhắc nhở họ tu hành. Đối với tu sĩ thì dĩ nhiên Mai còn phải canh chừng họ nghiêm nhặt hơn nữa. Mai thấp thỏm lo quí thầy bị quyến rũ hư hỏng, nên Mai phải kiểm soát rình rập từng li, từng tí không khác gì mẹ chồng soi bói nàng dâu, để mà sửa sai và nhắc nhở chuyên cần tu tập. Mai cũng quan tâm đến sự giao thiệp của thầy. Để ngăn chận những thành phần mà Mai gán là khả nghi, nguy hiểm lung lạc thầy, Mai tự nhận có trách vụ kiểm soát cả việc đi đứng, điện đàm nữa. Mai cũng sắp xếp quán xuyến mọi việc trong ngoài, nhất là việc tài chánh: thu xuất, thùng phước sương..., hầu dành trọn vẹn thời giờ cho thầy chuyên tâm tu tập. Thâm tâm của Mai bất quá là chỉ mong cầu một vị chân tu theo nghĩa là một ông từ giữ chùa, chỉ biết tụng kinh gõ mõ, biết vâng lời và dành trọn quyền cho ông Hội Trưởng tự tung, tự tác thao túng mọi việc. Ôi! Ông Hội Trưởng suốt đời cứ quây quần bận rộn nói chuyện tu, lo lắng dặn dò người khác tu, đến nỗi phần mình thì không còn chút thời giờ thực sự tu tập, lòng hi sinh của người quá ư cao cả.

Không có sư trụ trì thì ông Hội Trưởng đành đảm trách việc lãnh đạo tinh thần cho đồng bào Phật tử vậy. Ông cũng long trọng chủ lễ và đăng đường thuyết pháp mỗi tháng một lần. Ông soạn bài pháp nội dung đầy dẫy giáo lý thượng thừa siêu đẳng. Ông cũng hùng biện và giỏi đóng kịch, nên điệu bộ khá hấp dẫn, và nhờ vậy buổi thuyết pháp có mòi thành công.

Tháng trước, Mai diễn giảng đề tài "Lợi ích của sự ăn chay". Đề tài tầm thường và khô khan, nhưng Mai đã khéo léo trình bày vấn đề từ khoa dinh dưỡng, rồi mới sang lãnh vực tôn giáo. Dựa vào giới cấm sát sanh, thuyết quả báo luân hồi, Mai đã vạch rõ được rằng ăn chay là bước căn bản tu tập của người Phật tử biết nuôi dưỡng hạt giống từ bi và bình đẳng. Cuối cùng, dùng duy thức học, Mai nhấn mạnh rằng cộng nghiệp sát sanh để đưa thế giới lâm vào cảnh chiến tranh tương tàn. Nếu chúng sanh bỏ được nghiệp sát, đương nhiên thế giới hòa bình, nhân dân an lạc. Diễn giả chấm dứt bằng mấy vần thơ:

"Chúng sanh không nghiệp sát

Thế giới hết chiến chinh

Dân gian đồng tu niệm

Lo chi chẳng hòa bình?"

Bài thuyết giảng thành công vượt bực, khiến Ông Hội Trưởng hừng chí "thừa thắng xông lên", khuyên mọi người thực hành ăn chay, rồi tuyên bố, vợ chồng ông đã cương quyết ăn chay trường để làm gương cho hội viên.

Sự kiệân Ông bà Hội Trưởng ăn chay trường là một biến cố trọng đại, đáng lẽ ai cũng phải biết. Thế mà thím Bảy Houston lại "ù ù cạc cạc" gởi biếu mắm tôm thật là quá tệ. Ông Hội Trưởng giận "quạt" cho mấy câu "tịt ngòi" là phải lắm rồi. Lái xe đưa vợ con đi chùa, mà lòng ông phơi phới nhủ thầm: "Phen nầy, nhờ cái miệng phát thanh ồn ào của mụ Bảy rồi đây cả thành phố Houston sẽ đón nhận tin mình ăn chay trường để mà cúi đầu khâm phục".

Hôm nay, Ông Hội Trưởng lại đăng đường thuyết pháp đề tài "Đạo Phật trong đời sống gia đình". Mở đầu bài thuyết giảng Ông Hội Trưởng trình bày rằng đạo Phật không phải là một mớ giáo lý cứng ngắt để tín đồ đọc tụng như con vẹt, mà bao gồm những giáo lý sống động hầu người Phật tử thực hành, ban vui cứu khổ muôn loài nói chung, và tạo hạnh phúc gia đình nói riêng. Kế đó trong phần nội dung. Ông Hội Trưởng đã sưu tầm tỉ mỉ Phật ngôn trong tam tạng kinh điển liên hệ đến tình nghĩa, bổn phận vợ chồng, để đúc kết thành một mẫu Phật tử hoàn mỹ. Và sau cùng thì Ông Hội Trưởng hùng hồn kết luận:

- Để chấm dứt, tôi xin trao truyền quí vị một kinh nghiệm bản thân như một cẩm nang quí giá trong việc tạo dựng hạnh phúc gia đình. Người Phật tử chỉ cần thực thi giáo lý "chúng sanh là Phật sẽ thành", ý thức rằng vợ chồng mình là vị Phật tương lai là đủ. Tâm tâm niệm niệm được điều đó thì vợ chồng chắc chắn phải tương kính nhau, thương yêu nhau hơn bao giờ hết. Bởi lẽ, có ai mà lại có thể càu nhàu, gây gỗ, nặng lời chửi bới, hay đánh đập một Đức Phật vị lai bao giờ. Chiều nay, đi về nhà, quí vị hãy trìu mến chiêm ngưỡng dung nhan của nhau thật lâu để ý thức rõ rệt rằng đây chính là vị Phật mà ta đã có diễm phúc kề cận, chia ngọt xẻ bùi..., nhưng ta lại hồ đồ lảng quên điều đó. Rồi quí vị cứ để tự nhiên cho hạnh phúc tràn ngập lòng mình.

Bích Ly ngồi ở hàng thính giả mê say nghiền ngẫm từng lời châu ngọc của lang quân. Chồng bà tài ba quá! hùng biện quá! Bích Ly khâm phục biết là dường nào. Ngắm nhìn đám thính giả lắng nghe rồi vỗ tay đôm đốp, Bích Ly vui sướng hả hê. Đúng lúc đó, Ông Lê Hà, ngồi cạnh lại cất lời khen ngợi:

- Ông nhà thuyết giảng hấp dẫn vô cùng!

Bích Ly khoái chí, cười toe toét, hãnh diện đáp:

- Dạ! anh ấy Phật pháp cao siêu lắm đó!

- À! tiệm thực dụng của ông bà buôn bán khá không ạ?

- Dạ! tương đối khá, nhưng cũng cực lắm!

- Tôi cũng có ý sang tiệm. Có thể nào bà cho phép tôi đến tiệm quan sát học nghề được không ạ?

- Ồ! Có trở ngại chi đâu! Xin mời ông tùy tiện ghé chơi lúc nào chẳng được.

Bích Ly tiếp tục ôm ấp niềm hạnh phúc tuyệt vời về nhà. Nàng chiêm ngưỡng chồng con, những vị Phật quí báu của nàng, để thầm nhủ rằng những sự hi sinh khổ lụy cho chồng con thật vô vàn xứng đáng.

Lu bu với tiệm thực dụng mỗi ngày 12 giờ, đầu tắt mặt tối suốt tuần, Bích Ly chỉ có thể dành ngày chúa nhật cho chồng con, vì thế thời giờ trong ngày vô cùng quí giá. Bích Ly vội vã phóng ngay ra chợ, chuẩn bị cho hai bữa ăn mặn duy nhất hợp mặt cả gia đình trong tuần. Sau khi quyết định ăn chay trường mấy ngày, thương đám con ăn uống thất thường. Mai hi sinh chọn ngày chúa nhật để ăn uống vui vẻ với con. - Bích Ly lăn xăn chọn lựa thức ăn. Nàng thoạt nghĩ đến món mắm tôm chua giản dị nhanh chóng cho bữa ăn trưa, nhung nhớ đến vẻ mặt kém vui của chồng khi trả lời điện thoại chị Bảy, nên đành nhịn thèm đổi ra món thịt quay. Sau đó, nàng mua đầy đủ thức ăn lẩm cẩm dành cho nồi bún bò Huế thịnh soạn buổi chiều. Tính tiền xong, Bích Ly lật đật chạy rút về nhà, tất tả soạn ngay mâm cơm trưa, rồi hối thúc con thưa thỉnh lang quân dùng bữa. Chễm chệ ngồi vào bàn, Mai trố mắt nhìn dĩa thịt heo quay, thức ăn mà chàng mới dùng tại tiệm cơm Tàu ngày hôm qua đã ngán ngẫm, nên lời lẽ cộc lốc kém vui:

- Sao hủ mắm tôm lại không ăn? Bày vẽ mua món thịt heo quay chi cho tốn kém?

- Dạ! tại mấy đứa nhỏ thích heo quay, vả lại, em cũng nghĩ rằng anh sợ phạm giới nên tránh món mắm tôm.

- Ờ! Thì nói như vậy để chỉ Bảy ngưng sát sanh, chớ hủ mắm nầy bề nào cũng làm rồi, nếu bỏ đi thì lại phụ lòng chỉ.

- Vậy thì tốt quá! mình ăn đỡ mắm tôm với thịt heo quay tạm vậy nhe!

- ƯØa!

Thế là hủ mắm tôm được dọn ra tức khắc. Tuy nhiên, ăn mắm tôm mà thiếu thịt ba chỉ luộc, rau thơm..., thì mất hết năm mươi phần trăm khẩu vị, nên suốt bữa ăn Mai cằn nhằn lải nhải mãi:

- Thứ đàn bà gì hư quá sức! Mắm tôm dọn chung với thịt quay, ăn chẳng ra trò trống gì hết!

Cơm nước xong, con cái vào phòng. Vừa lui cui ủi đồ cho chồng, vừa trông chừng nồi nước lèo trên bếp, mà Bích Ly vẫn không ngừng lưu tâm đến Mai, vẻ mặt vẫn còn cau có không vui. Nàng rụt rè giả lả:

- Anh uống cà phê phin nhé? Em pha nghen anh?

- Không!

- Anh còn giận hờn sao? Bỏ qua đi mà!

- Hứ! Thứ đàn bà gì chỉ có mấy miếng ăn cho chồng mà cũng không nên thân!

Không biết có phải vì bệnh hoạn mệt mỏi, vì những lời cằn nhằn nhức óc suốt bữa ăn, hay vì hiểu không đúng đường lối về bí quyết tương kính thương yêu do đức lang quân vừa thuyết giảng, mà Bích Ly bỗng bực mình, mạnh dạn đối đáp chớ không mềm mỏng nữa:

- Anh nói anh tu cao! Ăn không cầu ngon, mà sao anh lại cằn nhằn thức ăn ngon dở hoài vậy?

Tôi bực là bực lối ăn uống không đúng phép kìa. Mắm tôm thì phải đi đôi với thịt luộc. Chớ việc ngon hay dở thì tâm tôi đâu có phân biệt làm gì?

- Thôi ông ơi! nghe mãi tôi mệt lắm rồi. Ông nói thì lúc nào chả hay, chả đúng. Ông tuyên bố ăn chay trường, mà mới bốn ngày đã viện lẽ chức vụ cao, đem cơm theo ăn bọn Mỹ cười, để tà tà vô tiệm Tàu ăn mặn dài dài. Chiều thì ông rủ rê, ép uổng bè bạn dẫn nhau ra tiệm thù tạc thỏa thích với chiêu bài "vì chiều đãi chúng sanh phải dùng tạm đồ mặn như chay". Ông còn lại ngày nào chay lạt đâu? Ông ăn uống tưng bừng hùng hổ hơn trước, để phục thù cho mấy ngày chay lạt mà!

Bích Ly vốn hiền lành nhẫn nhục chồng. Sự kiện nàng quật khởi phanh phui trách cứ chồng, là diễn tiến ngoài sự tiên liệu của Mai, khiến hắn ta sửng sờ, phản ứng có phần chậm chạp. Hắn hơ hải nhìn quanh quất như sợ có kẻ thứ ba nghe được sự thực. Rồi hắn mới bắt đầu nổi giận, cơn giận bùng nổ như điên khùng. Hắn bỗng hốt hoảng nghĩ rằng uy danh đạo đức mà hắn dày công xây dựng bấy lâu, có thể tiêu thành mây khói, nếu như Bích Ly thóc mách những điều bí mật nầy. "Vậy thì mình phải khóa miệng con nầy ngay mới được", Mai thầm nhủ. Mai vốn là võ sinh huyền đai thái cực đạo, tuy chưa thượng đài nhưng đã sử dụng nhiều lần trị vợ thắng lợi, nên đã quen trận mạc. Do đó, hắn ra tay nhanh, gọn và tàn độc. Trong chớp mắt, thoát đứng dậy thì quả đấm của hắn đã ập vào mắt trái, tiếp liền là ngọn cước đá thốc vào bụng vợ. Bích Ly ngã lăn quay, tạm thời mất thở, mắt trợn trừng mà không rên rỉ nỗi. Hạ đo ván con vợ tức khắc, cơn giận cũng nguôi ngoai, Mai lấy lại bình tĩnh rồi chợt nghĩ, đánh vợ vì hủ mắm tôm rủi lộ ra ngoài thì kỳ cục quá, phải tìm một lý do hợp lý nào khác cho đỡ trơ trẽn mới được.

Bà vợ vừa lấy được hơi thở cất tiếng rên la, thì Ông Hội Trưởng liền hùng hổ điểm mặt vợ la lớn:

- Đồ đàn bà hư! Đàn bà ngoại tình! Tao đánh mầy cho bỏ cái thói lăng loàn.

Bích Ly vốn thực thà đâu hiểu bụng dạ tròng tréo của chồng, bị đánh đập chưa kịp than vãn trách móc, thì lại bị chụp cho cái mũ ngoại tình nên hoảng hốt phủ nhận:

- Em đâu có vậy! Em làm việc tối ngày mà!

- Mầy và thằng Hà. Tụi bây có gì tao biết hết!

- Em có làm gì bậy bạ đâu? Em chỉ biết ông Hà tại chùa thôi mà!

- Hừ! hồi sáng tụi bây hò hẹn với nhau những gì mà cười cợt ra vẻ đắc ý vậy?

Nguyên Bích Ly thật thà chơn chất, nghe người tâng bốc chồng một câu là đã sung sướng hả hê, chỉ nhớ nghĩ đến điều đó, còn những câu hỏi của Lê Hà để học nghề nàng chẳng lưu tâm nên đã quên tuốt luốt. Do đó, nàng chỉ có thể ú ớ đáp:

- Ông chỉ khen anh thuyết pháp hay quá mà thôi!

- Hừ! láo khoét! khen có một câu mà nói nói cười cười vui vẻ quá há?

Tuy chụp mũ vợ để tạo chính nghĩa đánh đập, mà nhắc tới con vợ nói cười với Hà, Mai cũng cảm thấy nóng mặt, thoi vợ thêm mấy cái thì mới dịu cơn.

Sáng hôm sau, Bích Ly nằm liệt giường. Thế nên Mai phải ra tiệm tạm trông nom trong khi chờ đợi gọi được người thay thế. Trước khi rời nhà, Mai cẩn thận gom hết chìa khóa xe, cắt đường giây điện thoại, như là một cách hữu hiệu giam lỏng Bích Ly.

Tiệm thực dụng buổi sáng khách lai rai chán phèo. Đang bực bội cằn nhằn lải nhải một mình thì Mai bỗng thấy Lê Hà lừng khừng bước vào. Giờ thì Mai mới nổi cơn ghen thật sự, hắn than thầm: "Trời ơi! mình chỉ tố giác giỡn chơi mà sao ra trúng vậy kìa? Nhà thằng dịch vật nầy cách xa hàng mươi dặm, nếu tụi nó không tình ý gì thì sao nó đến giờ nầy?". Mai gắt gỏng hỏi:

- Ông đến đây làm gì giờ nầy?

Lê Hà chẳng qua chỉ mong tìm hiểu việc mua bán tại tiệm thực dụng. Hà biết Mai điếm đàng khó khai thác nên tìm cách ngồi gần Bích Ly, khen nịnh ông chồng để bà vợ thật thà chỉ dẫn nghề nghiệp. Để dễ học nghề, Hà chọn giờ vắng khách đến tiệm, bất ngờ lại thấy bộ mặt hãm tài của Mai chầm dầm cho một đống. Lỡ bộ không thể rút lui được, Hà tảng lờ như vô tình, nhưng tinh thần đã sẵn sàng ứng phó. Do đó, Mai gắt gỏng thì Hà cũng sừng sộ:

- Tiệm mở cửa thì ai cũng vào được. Sao ông lại hỏi câu quái gở vậy? Còn tôi đi đâu giờ nào thì mặc xác tôi chớ. Ông lấy quyền gì để điều tra?

Đoạn Hà lừng khừng chọn một chai nước ngọt, trả tiền rồi cười ruồi bỏ đi. Mai tức giận ứa gan mà không làm chi được. Hắn phải bức rức chờ đợi người làm công đến thay thế, mới lái xe phóng về nhà, lôi vợ ra dần cho một trận tơi bời, để hỏi cho ra lẽ chuyện hò hẹn nầy. Đánh đập đã nư rồi, Mai mới sửa soạn đi làm, mà còn hâm dọa sẽ đánh đập dài dài, chừng nào thú nhận hết tội lỗi mới thôi.

Các con đã đi học từ sớm. Nằm rũ riệt một mình, thân thể đớn đau khôn tả, mà Bích Ly vẫn mong mỏi diễn biến hai ngày qua chỉ là giấc mộng. Nhưng dấu vết nguyên vẹn trên thân thể bầm vập nhắc nhở sự thực phũ phàng mà nàng đã gánh chịu biết bao năm rồi. Hồi tưởng lại thời con gái được bao người săn đón, nhưng lòng nàng chỉ yêu thương Mai, có lẽ nhờ Mai khéo tán tỉnh và giỏi chiều chuộng. Do đó, dù mẹ khuyên ngăn, cho rằng Mai kém chân thật, nhưng nàng vẫn cương quyết chết sống vì tình khiến bà phải siêu lòng. Thế nhưng, chỉ thành hôn với nhau chừng ba tháng, từ một điểm bất đồng nhỏ nhoi, Mai đã nổi cơn hành hung vợ rồi. Giận dỗi nàng xách va li về Cai Lậy với mẹ để lo thủ tục ly dị. Mẹ vừa gặp mặt con thì mừng rú lên, nhưng có lẽ thoáng thấy nàng kém vui, mà cũng không thấy mặt rể, nên ngẩn ngơ một chút, rồi hỏi con dồn dập: "Ủa thằng Mai đâu mà để con đi một mình vậy?". Đang vui bỗng bà buồn lo biến sắc. Lòng mẹ bao la không bến bờ, một đời tận tụy hi sinh, thương con quấn quít chẳng rời mà phải ép lòng gả con. Con đã lấy chồng, lòng mẹ vẫn chưa yên, đêm ngày thấp thỏm mong cầu con hạnh phúc, nên chi thấy con cô đơn về nhà đã lo sợ thất thần như vậy. Bích Ly vội ấp úng: "Nhớ má quá con về thăm, mà anh Mai căn dặn con phải trở lên liền, kẻo ảnh nhớ con lắm!". Ôi mẹ thương con như vàng như ngọc, không lời nặng nhẹ, không cái đánh khẽ. Con đau yếu, trầy trụa sơ sài đã cuống quít lăn xăn, ngồi đứng không yên. Nay nếu bà khám phá được rằng đứa con mà bà nâng niu quí giá đó đã bị người ta hành hạ, chửi mắng... như một con vật thì bà sẽ đau khổ biết là dường nào. Thế là nàng đành phải nói láo, phải đóng kịch hạnh phúc cho bà được yên lòng. Mai thấy vợ chỉ xa chồng có một ngày rồi quay về, nắm được nhược điểm nên ngày càng lấn lướt áp đảo vợ. Nhẫn nhịn mãi cũng quen, nàng bản chất sẵn hiền lành dễ dãi, chóng quên..., nên dù bị hành hạ thế nào rồi cũng thứ tha, thương yêu chồng như cũ. Bích Ly thổn thức một mình:

- Sao anh không hiểu lòng em? Sao anh lại muốn giết em vậy anh Mai?

"Nhạn đậu cành sung, dương cung anh bắn nhạn

Con nhạn chết rồi! làm bạn với ai đây?"

Em lỡ chết rồi, anh sẽ làm bạn với ai vậy anh Mai?

Mai gom chìa khóa xe, cắt đường giây điện thoại, để cô lập hóa vợ, mà không ngờ, ngày hôm sau đã có người lò dò đến bấm chuông. Bích Ly ráng lê lết mở cửa, thấy khách nàng lập bập gọi: "Em Xuân Lan!", thì sức đã mòn nên quị xuống.

Xuân Lan nhỏ hơn Bích Ly vài tuổi nên đối xử với bạn như chị ruột. Xuân Lan nóng tánh và thẳng thắn, đã đôi lần lời qua tiếng lại với Mai, nên từ lâu chỉ đến tiệm thăm bạn, chớ không chịu đến nhà. Nhân khi hảng xưởng tạm đóng cửa mấy ngày để kiểm kê tài sản, Xuân Lan rảnh rang đến tiệm thì nghe tin bạn đau, nên tức tốc ghé lại nhà. Nhìn thân hình tiều tụy của bạn, Xuân Lan hoảng hốt la thất thanh:

- Trời đất ơi! sao thân thể chị lại ra nông nỗi như thế nầy?

- Chị!... Chị... té em à!

- Không phải đâu! Chị đừng dấu em! ảnh đánh chị phải không?

- Chị té thiệt mà!

- Không! thằng chả đánh chị. Em phải hỏi thằng chả cho ra lẽ!

Xuân Lan chụp lấy điện thoại, thì Bích Ly lắc đầu, rồi nói tiếp:

- Vô ích em à! điện thoại đã bị cắt giây rồi. Em muốn biết thì chị kể cũng được, nhưng em đừng thố lộ với ai, lọt đến tai ảnh, ảnh sẽ giết chị.

Thế rồi, qua làn nước mắt đầm đìa, Bích Ly kể lể cho bạn đầu đuôi tự sự. Xuân Lan cũng không cầm được nước mắt, tức giận hỏi bạn:

- Vậy, mà chị chịu được sao? Tại sao chị không thưa cảnh sát? Không đệ đơn ly dị ảnh?

- Em ơi! chị mồ côi cha từ nhỏ. Con không cha như nhà không nóc, khổ sở nghèo túng, tủi nhục lắm em ả! Vả lại, thưa bỏ nhau lại làm khổ lây con cái, chúng buồn phiền xấu hổ với bè bạn. Có lẽ cái nghiệp của chị phải gánh chịu nỗi khổ nầy, bổn sư chị đã giải thích như vậy đó!

- Ối! Hơi đâu chị tin mấy thầy. Mấy ổng có bị ai đánh đập đâu mà thấu rõ được nỗi khổ đau của kẻ khác, nên mới bày đặt dạy là nhẫn nhục, từ bi hỷ xả, oan nghiệp..., chớ nếu ai đụng chạm đến mấy ổng thì chưa chắc à!...

- YÙ! Em đừng nóng nói bậy mà mang tội. Nhờ quí thầy dạy dỗ nên chị mới thêm sức chịu đựng mà vơi khổ, bằng không có lẽ chị đã treo cổ từ mười mấy năm trước rồi!

- Thằng chồng chị ác quá! con gái hưởng đức cha. Rồi đây, ba đứa con gái nó sẽ lãnh quả báo, chồng hành hạ đánh đập cho nó biết thân.

- YÙ! Sao em nói nghe ghê quá vậy? Con chị mà bề gì, chắc chị càng khổ gấp bội!

Rồi bỗng nhiên Bích Ly đến bàn thờ Phật, chấp tay thành tâm khấn vái: "Con cầu xin Đức Phật từ bi ban ân điển cho các con của con trọn đời hạnh phúc, còn bao nhiêu gian khổ nhọc nhằn xin để một mình con gánh chịu".

Xuân Lan chỉ biết lắc đầu thở dài: "Chồng đối xử tàn ác như sài lang mà không một lời hờn oán, không thưa không gởi. Với chồng con, chỉ quá là vị bồ tát mà họ đui mù nào có thấy được đâu?".

Đối với kẻ tình nguyện chịu đọa đầy thì đâu còn phương cách gì để bảo vệ họ. Thương sót bạn, ấm ức trong lòng nhưng cuối cùng, Xuân Lan cũng đành từ biệt.

Về nhà, Xuân Lan bực bội đứng ngồi không yên, nên đành phải giải tỏa bằng cách liên lạc vài người bạn chí thân, tỉ tê kể lể mọi chuyện, tuy rất cẩn thận dặn dò tuyệt đối giữ kín câu chuyện. Và dĩ nhiên, những người nầy cũng dặn dò bè bạn "y chang" như vậy. Thế rồi các bà, như một hệ thống truyền tin, cứ đều đặn loan truyền bản tin thời sự nóng hổi ra mãi.

Không bao lâu, thì một tổng đài địa phương tiếp vận nguồn tin sốt dẻo, rồi chuyển ngay đến thím Bảy. Thím không ngờ hủ mắm tôm của mình lại tai hại dường ấy, nên bức rức muốn đích thân hỏi Bích Ly cho biết sự thật. Thím nóng lòng muốn chấp cánh mà bay lên Texarkana ngay, nhưng đành chờ đợi hơn ba tuần, đến ngày lễ Tạ Ơn mới đi được.

Khi chú Bảy lái xe đưa vợ viếng thăm vợ chồng Mai, thì những vết bầm đã lặn nhưng thương đau vẫn ẩn hiện trong thần sắc u ám của Bích Ly. Vốn đặc biệt có cảm tình với chú Bảy vì chú trầm lặng và lắng nghe kẻ khác, nên Mai tiếp đón khách niềm nở. Chú Bảy cũng không lãnh đạm với Mai. Tuy hơi thất vọng về hành vi vũ phu mới đây của y, nhưng chú vẫn tìm thấy Mai là kẻ có lòng, còn việc Mai khoa trương đạo đức, tu nói mà không thực hành không liên hệ gì đến chú, chú chẳng quan tâm. Chủ khách chia ra hai phe nam nữ hàn huyên tương đắc và sau đó khi khách rủ rê đi Hot Springs chơi, Mai liền sốt sắng hưởng ứng. Hai người đàn ông ngồi băng trước thỉnh thoảng trao đổi vài câu chuyện bâng quơ liên quan đến lộ trình, nhưng hai người đàn bà phía sau thì dòn tan như pháo Tết. Từ chuyện quần áo đến thức ăn, rồi chuyển sang vụ động đất Cali, phim ảnh tân nhạc..., chuyện nào cũng hứng thú vô cùng. Từ từ rồi đề tài quen thuộc và ưa chuộng nhất của đàn bà cũng được tuôn ra:

- Chị nghe gì không? Vợ chồng mụ Bê rã đám rồi! - thím Bảy đổi đề mục -

- ƯØa! Mẹ ấy ngựa dàn trời mà! Mới ly dị mấy ngày, thì đã cặp với thằng kép trẻ măng hà!

- Cái con Thúy mới dữ dằn. Nó cắm cả trăm sừng trên đầu chồng, chồng ghen đánh hai tát tay thì nó đã nổi sung thiên lên, gọi cảnh sát còng đầu tức khắc.

Có tiếng tằng hắng ở băng trên, và có lẽ Bích Ly lo ngại vu vơ gì đó nên không trả lời bạn, mà hướng về chú Bảy hỏi to:

- Xin lỗi! Mình đã qua khỏi Little Rock chưa anh Bảy?

- Dạ! mình đi hướng khác, chớ không đi ngang Little Rock đâu chị!

- Hừ! hỏi ngu mà cũng hỏi!, Mai lên tiếng.

Nghe thím Bảy kể chuyện "vợ gọi cảnh sát còng đầu chồng", có lẽ Mai bực mình nên xài xể để trút giận hờn. Đàn bà dốt đường là chuyện bình thường, mà dù ngu thiệt cũng không ai nỡ lòng công khai nặng lời, nên chú Bảy tưởng mình nghe lầm, hoặc Mai chỉ đùa giỡn mà thôi. Chú nhìn Mai, thì thấy mặt mày y nhởn nhơ tự đắc ra chiều thỏa mãn về câu nói quyền uy của mình. Chú Bảy tuy xuề xòa nhưng lại thâm trầm tế nhị. Đối với kẻ lưu manh gian xảo cũng chưa hề nặng nề hạ nhục, huống chi là công khai xỉ vả vợ. Sợ Bích Ly tủi hổ, chú vội pha trò hi vọng phá tan được bầy không khí nặng nề:

- Tôi mới là người ngu nhứt hạng đây. Bà xã tôi cứ chê tôi hoài!

- É! Ai dám chê anh ngu hồi nào? Nói ẩu hoài!

- Ờ thì bà chưa nói ra, nhưng tôi biết bà lầm thầm: "Thằng cha nầy ngu thiệt, nên chả mới chịu cưới mình!".

Rồi chú Bảy cười xòa để giúp mọi người cười theo, trừ Mai vốn giữ thân phận của vị Hội Trưởng, đạo mạo nghiêm trang không cười cợt.

Từ xa lộ 30E, chú Bảy rẽ sang đường số 7N, lộ trình ngoằn ngoèo nầy tương đối khá xa nhưng đi trên con đường làng nhỏ hẹp len lỏi giữa cánh đồng mênh mông như đường về lục tỉnh cũng là điều hứng thú. Đi trên cầu xuyên qua hồ De Gray, nhìn thấy phong cảnh hữu tình, nên chú Bảy đề nghị quày xe tạm nghỉ ngơi. Bãi đậu xe trên một khu đất cao ven hồ, tiếp giáp với rừng cây ngập lá vàng. Những chiếc lá đã hoặc sẽ rụng vào dịp sang thu, mỗi loại có màu sắc riêng, trăm ngàn sai biệt, từ màu đỏ thẩm, tím bầm, rồi nhạt dần đến màu vàng mởn xanh tiếc nuối... đã tạo nên hơi thu bàng bạc. Trời xanh nhạt nhạt, gió mơn man nhè nhẹ, rừng cây xơ xác, hồ nước xanh trong vắt trải dài. Phong cảnh mùa thu có nét quyến rũ, gợi nhớ, gợi buồn kỳ lạ khiến chú Bảy bùi ngùi tình nước. Quê hương chú cũng có cảnh hồ, hồ nước nhỏ nhắn xinh đẹp vây quanh bởi hàng cây sao già cao ngất, nơi chú đã lưu giữ bao kỷ niệm ngày xưa.

- Em à! Cảnh hồ nầy có nhắc nhở em ao Bà Om xứ mình không?

- Làm sao em lại có thể quên được anh Bảy!

- Em còn nhớ chuyện chúng mình ngày xưa chăng?

Thuở ấy em kẹp tóc thề, mặc chiếc áo dài màu mạ non thướt tha, ta đưa nhau đến ao Bà Om...

Chú Bảy vừa nhắc kỷ niệm xưa, vừa đi chầm chậm xuống hồ. Thím bén gót theo sau, mắt lớp chớp, lệ ứa ven mi, thả hồn về dĩ vãng. Rồi giống y như 18 năm về trước, thím siết chặt tay chú đi dài theo bờ hồ, đoạn thím ngồi xuống vẽ hai quả tim xoắn nhau. Ngày xưa cô thiếu nữ nhí nhảnh yêu đời đã cầu Phật Trời cho đôi tình nhân nên duyên chồng vợ. Và lần này, người thiếu phụ "sồn sồn" cầu mong hai vợ chồng già một ngày về với đất nước thương yêu. Phút giây mơ mộng ngưng động tan dần, chú Bảy bảo thím nhìn vợ chồng Mai. Hai người có lẽ cũng đang tìm về thuở ban đầu hoa mộng. Đôi mắt u sầu của Bích Ly, dường như đã tràn đầy niềm tin yêu hạnh phúc. Chú Bảy thì thầm:

- Thiên nhiên có lẽ là vị thầy mầu nhiệm để hàn gắn vết thương lòng. Trong cái tinh khiết của đất trời, giận hờn, bực bội nào rồi cũng phai đi.

- Vậy té ra! té ra! anh gạt em. Anh cố ý nhắc chuyện chúng mình để gợi cho họ nhớ những ngày yêu thương xa xưa mà hòa giải nhau chớ gì?

- Ờ! thì lúc đầu cũng hơi cố ý, mà sau đó anh cảm động thật tình mà!

- Em hổng chịu! Anh phải đền cho em hà!

Thím thò tay véo chú một cái đau điếng, rồi tung tăng chạy đi như một cô gái nhỏ.

- Bích Ly! Kiến cắn bụng rồi! mình kiếm gì ăn nhe!

- Phải rồi! tụi nầy cũng đói bụng. Anh chị định ăn gì đây?, Mai lên tiếng.

Hiểu rõ bụng dạ Mai, nên để tránh cho y ngượng ngập, chú Bảy mời mọc:

- Ở đây chắc không tìm được đồ chay. Xin anh chỉ vị tình vợ chồng tôi ăn mặn đỡ vậy. Nghe đồn bếp núc nhà hàng Hồng Kông khá lắm!

- Thôi thì tạm ăn mặn vậy! Nhất thiết duy tâm tạo, mặn cũng vậy, chay cũng vậy, tâm không động là được. Ngày xưa, Tuệ Trung thượng sĩ trong bữa tiệc của Khâm Từ hoàng hậu, đã gắp đồ mặn xen lẫn với đồ chay mà có sao đâu?

- Mấy ông muốn đi đâu cũng tốt, nhưng phải lấy phòng cho tụi nầy chỉnh sơ lại cái dung nhan tàn tạ mới được!, thím bảy lên tiếng.

Chú Bảy lái xe về thị xã Hot Springs, đến khách sạn Arlington. Tuy đã giao hẹn sẽ đi ngay tức khắc, nhưng đàn bà lúc nào chẳng là đàn bà, chú Bảy phải kiên nhẫn chờ thím gỡ lại mái đầu, dậm thêm tí phấn, kẽ lại nét son..., rồi lại nhắc thím mang theo áo ấm. Khi hai vợ chồng bước ra ngoài, thì thấy Mai đã chờ sẵn, vài phút sau Bích Ly cũng bước ra. Chú Bảy lại nhắc:

- Có lẽ, chị nên mang theo áo ấm kẻo lạnh.

Bích Ly vừa định quay trở về phòng, chợt thấy Mai chờ lâu tỏ vẻ khó chịu, nên đổi ý:

- Cám ơn anh Bảy! Tôi không cảm thấy lạnh đâu!

Nhà hàng Hồng Kông không mấy sang trọng nhưng thức ăn Tàu cũng tạm hợp khẩu. Vừa ăn, Mai vừa đề nghị chương trình viếng khu rừng núi Tây, leo đỉnh tháp núi Đông, ngắm những giòng suối nước nóng đây đó... vào ngày mai, nhưng ăn cơm xong thì phải ngồi xe lừa, theo truyền thống xưa mà dạo quanh thành phố thì mới thú vị. Mùa thu, trời sụp tối nhanh. Cơm nước xong trở về thì thành phố đã lên đèn. Một cổ xe lừa vừa ghé trước cửa khách sạn. Bà nài ong óng cất tiếng mời mọc du khách: "Đây là chuyến chót trong ngày. Xin quý khách nhanh lên kẻo trễ". Mai giục mọi người lên xe ngay. Cổ xe lừa đóng bằng loại gỗ rắn chắc, sơn phết công phu, dài rộng... như một chiếc xe buýt với hai cửa lên xuống rộng rãi, đi đứng thong dong. Xe được kéo bởi hai chú lừa cao lớn, lực lưỡng khác thường.

Khách vừa lên xe mua vé, thì bà nài đã đon đả mở lời:

- Xin chào và xin giới thiệu tên tôi là Litz, và đây là thằng Mike và thằng Joe, hai chú lừa đực.

Bà nài hạ lệnh cho cặp lừa cất bước. Vừa đi bà vừa giải thích không ngừng về những thắng cảnh, di tích địa điểm lịch sử, nơi chốn hấp dẫn... tại địa phương. Trên đường sáng choang, xe cộ dập dìu, mà lại được ngồi êm ái trên một chiếc xe cổ lỗ, cà rịch cà tang theo nhịp điệu lộc cộc của tiếng chân lừa, để ngoạn cảnh quả là điều thú vị. Mọi người đều tỏ vẻ vui tươi thoải mái, trừ Bích Ly hơi co ro bởi cơn gió đã trở thành buốt giá, khiến chú Bảy đôi lần ái ngại nhìn sang. Cổ xe lừa đang nhẹ lướt theo tốc lực thường lệ, bỗng chậm chạp rồi dừng hẳn lại. Mụ nài Litz the thé la hét đôi lừa nhưng không hiệu nghiệm. Xây về phía hành khách, mụ giải thích:

- Cái thằng Mike nầy hay chứng bất tử lắm. Không trị nó không xong!

Rồi mụ Litz lấy roi da quất một cái trót, khiến con lừa nhảy dựng lên, bương bả tiếp tục hành trình. Nhưng chỉ suông sẻ được một khoảng ngắn thì chú lừa cũng tự động dừng lại, khiến mụ nài cứ phải sử dụng roi vọt nữa. Điệp khúc roi vọt làm nao lòng chú Bảy, chú chợt nghĩ có thể trong một kiếp nào đó, chú đã từng là con lừa nhọc nhằn khốn khổ. Chú buông tiếng thở dài, với lời than nho nhỏ:

- Chắc mình không chịu nỗi đâu?

- Cái gì mà không chịu nỗi anh Bảy? Thím Bảy nghe tiếng thở dài và tiếng than của chồng vội lo lắng hỏi dồn.

Chú Bảy chậm rãi:

- Nếu phải làm con lừa kéo cổ xe nặng nề nầy suốt ngày dĩ nhiên là không làm xuể rồi. Mà làm nài, suốt ngày bô bô cái miệng, rồi khi con vật mệt mỏi nổi chứng, lại phải ra tay đánh đập, anh cũng không làm được.

Mai chen vô:

- Cái con mẹ Litz nầy hành hạ súc vật ác độc quá! Để tôi điện thoại thưa với Hội Bảo Vệ Súc Vật cho nó biết thân!

- Thưa thì mụ nài mất việc mình lại tội nghiệp. Thật ra, thấy con thú bị đánh đập tôi nóng ruột than thở, chớ biết đâu chừng giữa người và lừa đã từng có giây oan nghiệp nên mới có cảnh nầy!

- ƯØa đúng rồi! biết đâu kiếp trước "ngựa Mai" nầy từng hành hạ "nài Ly", nên kiếp nầy nài Ly mới đánh ngựa Mai. Mai đánh Ly, rồi Ly đánh Mai, oan oan tương báo mà...

Thím Bảy có tật nói tên tiếng Mỹ không sửa đúng giọng, thím muốn nói Mike và Litz, mà nghe thành Mai và Ly. Sợ hai bạn hiểu lầm, chú đá chân thím nhắc chừng, rồi bùi ngùi than thở:

- Ờ! thì chúng sanh lăn lộn luân hồi, khi thất thế bị người hành hạ, khi thắng thế lại thẳng tay đàn áp người, mà có ai giữ ưu thế mãi đâu? Thời gian ngắn dài nào đó, rồi thì tất cả đều trở về cát bụi để "giũ sổ làm lại", rồi đâu ai biết được ra sao kiếp sau?

Mọi người bỗng nhiên yên lặng suy tư. Chú Bảy thấy Mai lạnh lùng khó hiểu, còn Bích Ly thì xúc động nước mắt lưng tròng. Chú muốn phá tan bầu không khí nặng nề mà bất lực.

Xe lừa dừng bước khách sạn Arlington, thì Mai đã hầm hầm phóng xuống, bước nhanh về phòng riêng mà không nói lời nào. Bích Ly vội vã chào chia tay bạn, rồi quýnh quýu chạy theo chồng, trước cặp mắt ái ngại của bạn. Vừa khép kín cửa phòng, Mai liền chụp ngay đầu vợ, xoắn tóc giở hỏng lên, dộng vào tường mấy cái xính vính rồi tra hỏi:

- Tao đã cấm mầy hở môi, mà tại sao mầy thóc mách với vợ chồng thằng Bảy, để tụi nó bày trò lừa ngựa chửi xéo tao?

- Em đâu có nói với ai! Họ ở Houston thì em làm sao liên lạc được! Chắc họ vô tình, chớ không có ý xiên xỏ anh đâu!

Mai đã cô lập vợ có phương pháp nên khó trách Bích Ly liên lạc với ai được. Tuy nhiên, cơn giận bị người xỉa xói đâu dễ tự nguôi ngoai. Nếu không gây sự được với người ngoài, thì Mai chỉ có cách đổ hết lên đầu vợ mà thôi.

- Hừ! mầy là thứ đàn bà lăng loàn. Mới thấy thằng cha Bảy ngọt ngào chiều chuộng là mầy khoái mê tơi rồi. Trời lạnh lẽo như vầy mà mầy mặc đồ mỏng dánh để bẹo hình bẹo dạng nó. Cặp mắt láo liêng của nó lén nhìn mầy mấy lượt, nhưng làm sao qua mắt tao nỗi!

Tức bực thằng cha Bảy, Mai nổi giận bừng bừng thoi thẳng vào mặt vợ. Bích Ly ngã ngửa nằm lăn lộn trên thảm. Mai bình tĩnh thay đồ rồi nằm ngủ thanh thản như không có việc gì xảy ra.

Thím Bảy, tính hay mềm lòng, chứng kiến cảnh con lừa làm việc cực nhọc suốt ngày còn bị đánh đập, nên cứ trằn trọc không yên. Trong giấc ngủ chập chờn, thím chiêm bao thấy con lừa Mike bỗng nổi chứng đá bà nài Litz một cái bầm cả mặt mày. Dù chỉ là chuyện mộng mị, song thím vẫn khoái chí chuyện con lừa phục hận, nên muốn kể cho chồng nghe, nhưng chú lại đang mải mê đọc báo tường thuật hai trận cầu bóng bầu dục ngày qua. Thím vội trang điểm qua loa rồi phóng nhanh sang phòng Bích Ly dộng cửa ầm ầm để báo tin vui. Chờ đợi một lúc đâu, vừa thấy bóng dáng Bích Ly hé mở cửa, thím liền phát thanh ào ào, cũng với lối nói tên Mỹ không thèm sửa:

- Bích Ly à! Ta vừa chiêm bao vui ghê đi. Ta thấy con ngựa Mai nó quật khởi đá mẹ nài Ly một cái như trời giáng, sưng hết mặt mày vậy đó!

Con bạn êm ru không trả lời khiến thím ngạc nhiên chăm chú quan sát bạn. Thấy mặt mày bầm dập của Bích Ly thím tức khắc hiểu nguồn cơn nên nổi nóng xô cửa bước hẳn vào phòng tìm Mai gây sự. Tuy nhiên khi nhìn thấy Mai ngồi trên ghế, vẻ mặt trang nghiêm đạo mạo, tay lần chuỗi, miệng niệm Phật, thím sửng sờ buồn nôn khựng lại. Phải cố gắng lắm cuối cùng, thím mới nghẹn ngào từng tiếng:

- Trời ơi! sao anh lại có thể đối xử với chị tàn tệ như vậy?

- Có chi đâu? Tôi chỉ hướng dẫn Bích Ly chút ít đạo đức mà thôi!

- Hướng dẫn đạo đức bằng đấm đá, anh nói vậy mà nghe được sao?

- A! về điểm nầy trong Phật giáo gọi là "tùy bệnh cho thuốc". Bệnh nan y thì liều thuốc cũng nặng một chút. Đức Phật có dạy rằng...

Thím Bảy bịt tai lại, chạy tránh ra xa để những lời Phật ngôn phát xuất từ cửa miệng của con người có lòng dạ như rắn rết sài lang khỏi phải xoáy vào tai thím nữa.

Tháng 1.1990



LỜI NGOÀI TRUYỆN

Câu chuyện trên, không rõ mức độ hư thực như thế nào, đã do anh Bảy Houston thuật và tác giả vội ghi chép lại, với vài điều thêm bớt. Tuy nhiên, anh Bảy chỉ thuật đến đoạn xuống xe lừa thì chấm dứt thình lình, nên tác giả đã phải tưởng tượng thêm phần kết. Viết xong, tác giả gởi bản thảo đến anh chị Bảy thỉnh ý, thì chị Bảy cằn nhằn: "ƯØa! Bích Ly quả thật bị đánh nữa đó! nhưng anh kết luận tăm tối quá! Người ác sao cứ để họ hoành hành hoài như vậy được?".

Tác giả hiểu trong thâm ý, chị Bảy mơ chuyện ác nhân ác báo. Tuy nhiên, từ khi nghe chuyện nầy, tác giả cảm thấy bực bội bất an, lời văn vì vậy đã có phần châm biếm và khinh bạc, kể ra cũng tự thấy xấu hổ vì đã không giữ nỗi chánh ngữ, chánh niệm rồi. Do đó, trong khi ông Hội Trưởng vẫn đang sống sờ sờ, tiếp tục mở máy rao giảng đạo đức, thì làm sao tác giả lại dám viết đoạn kết thảm thiết "quả báo nhản tiền" để trù ẻo ông ta cho vừa lòng chị Bảy được.

Thôi thì tác giả cũng ráng gò gẫm viết đoạn kết khác thuần hậu hơn để may ra không bị phản đối nữa. Đoạn kết thứ hai như sau:
*
* *

Câu chuyện oan nghiệp của vợ chồng cha Bảy khiến Mai nhức đầu khó chịu. Cơn nhức gia tăng cường độ đến nỗi khi bước xuống xe, Mai bị xây xẩm mặt mày, phải cố gắng lầm lì lê lết về phòng, buông mình xuống ghế dựa thở dốc. Mai bỗng nhớ mấy tháng trước bác sĩ có báo động chàng về lượng cholesterol trong máu, mà chàng cứ ăn uống tưng bừng chẳng chịu cữ kiêng. "Không lẽ cái miệng ăn mắm muối của cha Bảy lại ứng nghiệm? Mình sắp bị giũ sổ rồi sao?". YÙ niệm mình sẽ chết khiến Mai có cái cảm giác lạnh lẽo cô đơn lạ lùng. Bao nhiêu hùng khí tham đắm lợi danh trong khoảnh khắc đều tan biến. Giờ đây, hình dung lại những lúc lăn xăn khoe khoang đạo đức Mai thấy mình sao hời hợt lố bịch quá! Mai than thầm: "Ngày xưa mình mới đến chùa, thầy dạy lễ Phật để tập tính khiếm cung thì mình chê bai. Mình chỉ cầu danh sưu tầm những giáo lý cao siêu nói năng lưu loát mong được người thán phục, chớ không thực sự tu dưỡng tính tình. Vì cầu danh nên sanh tâm bươi móc nói xấu người hầu đề cao mình. Cứ thế, ngày mình càng khoác lác, càng bịp bợm sử dụng đủ mọi thủ đoạn để tự phô trương đạo đức rổng tuếch, mong mỏi không ai rõ chân tướng của mình. Rồi mình lại sanh ra hiếp đáp vợ để tạo cái ảo tưởng mình đáng được tôn kính, trọng vọng..., người người phải mù quáng tuân theo". Như tỉnh cơn mê, Mai hồi tâm quan sát người vợ gầy gò. Bích Ly đang co ro sợ hãi nép ở góc phòng, không biết ông chồng dã man sẽ trút cơn phẫn nộ lúc nào? Mai ăn năn khôn siết. Chàng đến bên nàng dịu dàng:

- Tội nghiệp em cưng. Anh tu hành lầm lạc gây khổ sầu cho em biết là dường nào!

Rồi Mai ôm chầm Bích Ly, để hai vợ chồng cùng nức nở khóc trong lạnh phúc ngập tràn.

Viết xong, tác giả lại thỉnh ý anh chị Bảy lần nữa. Lần nầy thì anh Bảy chỉ trích:

- Ông viết chuyện không tưởng quá sức! Cái ông Hội Trưởng cao ngạo kiêu căng, ngay như chư tổ sư cảnh tỉnh y còn chưa chắc được, huống chi là thằng Bảy dốt nát, ngu ngơ nầy!

Tác giả ngần ngừ muốn viết lại phần kết luận nhưng cụt hứng đành thỉnh ý một số thân hữu khác góp ý. Tác giả lại càng rối trí hơn nữa, vì mỗi người lại đưa ra một kết luận riêng biệt. Có người nhất định phải cho Bích Ly đi tu, người đề nghị Bích Ly tự tử, và có kẻ nhất quyết gọi cảnh sát 911... Tóm lại, tác giả vẫn phân vân, và do đó, chỉ biết xin bạn đọc tự chọn lấy một kết luận vừa ý.

Sự Chấp trước là nguyên nhân của khổ đau




Nhật Tịnh dịch



Tình yêu cao thượng và sự tự tế rất cần thiết trong thế giới này, được xuất phát từ sự trân quí và tùy hỷ với đối tượng, và mong muốn đối tượng được hạnh phúc, an lạc, nhưng không bám víu chặt chẻ và cũng không sở hữu đối tượng. Bạn đang sống trong một xã hội đầy đủ vật chất mà trong đó lòng tham đắm sở hữu nhiều hơn và lớn hơn như là tổng số tiêu chuẩn cho đời sống hạnh phúc. [...]



Những gì mà bạn sở hữu không phải là vấn đề, mà là thái độ của bạn đối vớisự sở hũu đó. Nếu bạn đang có vật gì và vui hưởng nó, thì là bình thường hoặc đáng mất nó, cũng không sao. Nhưng nếu khi bạn bị mất nó, mà trong tâm rất chấp trước, thì là điều khác. Không nhất thiết đó là vật gì, bởi vì bản thân của đối tượng không thành vấn đề. Sự bám víu trong nội tâm làm bạn lao theo sự vận chuyển đó và mang đau khổ, mới thực là vấn đề. Nếu tâm bạn mở rộng và hãy để cho sự vật bay đi tự nhiên, sẽ không bị khổ. Có đúng không bạn? Rất cần thiết để thực hành điều nầy hàng ngày, để nhận thức được hạt giống của chấp trước trong tâm và dần dần loại hẵn nó.



Có một câu chuyện thú vị về trái dừa, được truyền tại Ấn độ về cách bắt những chú khỉ. Người ta lấy trái dừa và khoét một lổ nhỏ đủ cho tay khỉ thọt vào và cho vô một chất gì ngọt, rồi đóng đinh treo trái dừa vào thân cây. Khi con khỉ đi đến, thấy trái dừa, ngữi thấy mùi ngọt, liền đút tay vào lổ nhỏ đó để lấy. Tay nó bị giữ chặt bời chất ngọt bên trong và bị quấn thành nắm tay. Nhưng vì cái lổ quá nhỏ nên không thể rút tay ra được. Khi những người bẫy khỉ đến, họ bắt con khỉ đó. Dĩ nhiên, các con khỉ làm giống như vậy, đều bị bắt. Không ai nắm giữ con khỉ ngoại trừ con khỉ có hạt giống tham chấp trong tâm. Không ai giữ chúng ta trong bánh xe luân chuyển nầy, tự bạn mang sự chấp trước đó. Bánh xe không có trói buộc, nên bạn có thể thoát ra bất cứ lúc nào. Nhưng vì bạn bị bám víu, nên phải chịu khổ đau mà thôi.





Dịch xong ngày 15.11.2009



Clinging Causes the Pain

by Tenzin Palmo



Genuine love and kindness is desperately needed in this world. It comes from appreciating the object, and rejoicing in the object, wanting the object to be happy and well, but holding it lightly, not tightly. And this goes for possessions too. You are in an extremely materialistic society in which the possession of more and bigger and better is held up as the total criteria for being happy. […]



What we own is not the problem, it's our attitude towards our possessions. If we have something and we enjoy it, that's fine. If we lose it, then that's OK. But if we lose it and we are very attached to it in our heart, then that's not fine. It doesn't matter what the object is, because it's not the object which is the problem. The problem is our own inner grasping mind that keeps us bound to the wheel, and keeps us suffering. If our mind was open and could just let things flow naturally, there would be no pain. Do you understand? We need our everyday life to work on this, to really begin to see the greed of attachment in the mind and gradually begin to lessen and lessen it



There's a famous story of a coconut, which is said to be used in India to catch monkeys. People take a coconut and make a little hole just big enough for a monkey to put its paw through. And inside the coconut, which is nailed to a tree, they have put something sweet. So the monkey comes along, sees the coconut, smells something nice inside, and he puts his hand in. He catches hold of the sweet inside, so now he has a fist. But the hole is too small for the fist to get out. When the hunters come back, the monkey's caught. But of course, all the monkey has to do is let go. Nobody's holding the monkey except the monkey's grasping greedy mind. Nobody is holding us on the wheel, we are clinging to it ourselves. There are no chains on this wheel. We can jump off any time. But we cling. And clinging causes the pain.



--Tenzin Palmo

Lễ nhạc Phật giáo Huế: một loại hình âm nhạc truyền thống độc đáo





Lễ nhạc, cũng như các loại hình nghệ thuật Phật giáo khác, được chi phối bởi hệ thống triết học và quan niệm của tôn giáo này. Nhưng, trên mỗi vùng đất cụ thể, trong quá trình hội nhập tiếp biến, Phật giáo của mỗi vùng đất đã có những cải biến linh hoạt để phù hợp với tâm lý cũng như quan niệm chung của dân chúng trên vùng đất đó. Lễ nhạc Phật giáo Huế cũng vậy, qua thời gian đã tạo riêng cho mình một dấu ấn, với những nét riêng biệt, trong dòng chảy âm nhạc truyền thống của dân tộc.
Ngoài việc kế thừa truyền thống âm nhạc vốn có của Phật giáo, tiếp biến Lễ nhạc Phật giáo Trung Hoa, Lễ nhạc Phật giáo Huế còn khéo léo vận dụng các hình thức âm nhạc vốn có của vùng đất này nhằm mục đích truyền bá, duy trì đạo pháp. Việc kế thừa những khoa nghi, cho đến các bài tán tụng, theo pháp độ và kinh điển mà Phật giáo Trung Hoa đã thiết lập, đó là điều dễ nhận ra trong quá trình diễn xướng Lễ nhạc Phật giáo Huế. Nhưng, âm điệu tán tụng cùng với âm nhạc phù trợ trong Lễ nhạc Phật giáo Huế, trên phương diện ngữ âm, giai điệu và bài bản âm nhạc, thì lại hoàn toàn mang tính truyền thống của vùng văn hoá này. Chính vì thế, Lễ nhạc Phật giáo Huế đã trút bỏ được nhiều màu sắc của Lễ nhạc Phật giáo Trung Hoa, bằng những cải biến linh hoạt của mình.
Có thể nhận thấy, Lễ nhạc Phật giáo Huế dễ dàng dung hợp được nhiều loại hình âm nhạc truyền thống khác, bởi vì đặc tính âm nhạc truyền thống của các dân tộc Phương Đông và Việt Nam nói chung, cũng như âm nhạc truyền thống vùng Huế nói riêng, cho dù đã được ký âm, ghi lại bằng nhạc phổ, nhưng chúng thường có tiết tấu linh hoạt, không chuẩn hoá cao độ và trường độ như âm nhạc Phương Tây, cho nên, mỗi trường phái, hay mỗi người thể hiện, không phải hoàn toàn là phiên bản của nhau. Điều đó, tuỳ thuộc trình độ thẩm âm, sự tài hoa, tâm trạng, của từng người khi thể hiện. Việc vận dụng âm nhạc truyền thống vùng văn hoá Huế, kể cả âm nhạc cung đình, đã được điển chế và trở thành quy tắc bắt buộc đối với các nhạc công, nhưng khi thể hiện trong Lễ nhạc Phật giáo Huế vẫn hài hòa và không có sự phân cách rõ ràng.
Nhạc Lễ Cung Nghinh
Sự linh động của Phật giáo Huế, vì mục đích hoàng pháp lợi sinh, đã vận dụng tối đa những lợi thế âm nhạc vốn có của vùng đất này để chuyển hoá vào trong nghi lễ. Trên chất liệu ca từ không thể vượt ra ngoài giáo lý nhà Phật, việc vận dụng các hình thức âm nhạc truyền thống nhằm tạo nên sự sinh động truyền cảm, thu hút lòng người đến với Phật pháp, truyền bá giáo lý, chuyển hoá nhân tâm là một thành công về Phật sự của các nhà hoằng pháp mà vai trò Lễ nhạc Phật giáo Huế đã được khẳng định là một phương tiện hữu hiệu.
Mỗi một thể loại âm nhạc đều có một đời sống xã hội riêng, một môi trường diễn xướng chuyên biệt và mang một chức năng xã hội nhất định. Đối với Lễ nhạc Phật giáo Huế, âm nhạc gắn bó chặt chẽ với nghi lễ, đó là một thực thể không tách rời. Theo quan niệm của Phật giáo, nghi lễ là phương tiện bày tỏ lòng thành kính tri ân tam bảo, quốc gia, phụ mẫu... đồng thời cũng là phương tiện để cứu độ chúng sinh. Do vậy, Lễ nhạc Phật giáo, khi tham gia vào các nghi lễ trở thành tiếng nói huyền diệu, có khả năng giao cảm với trời đất, thần linh, tổ tiên,... và có sức mạnh lay động lòng người. Âm nhạc được sử dụng trong mỗi một nghi lễ của Phật giáo đều có một chức năng và tác dụng rất cụ thể. Điều đó không chỉ riêng cho người hành lễ mà còn cho cả những người xung quanh tham dự, và có thể tuỳ ứng cho các pháp giới.
Các hình thức âm nhạc trong nghi lễ Phật giáo Huế được vận dụng một cách khá linh hoạt. Có thể nói, Lễ nhạc Phật giáo Huế điểm chính yếu được chú trọng là thanh nhạc, nội dung mà âm nhạc tập trung chuyển tải chủ yếu thông qua các hình thức biểu đạt ý nghĩa của ca từ. Tương ứng với mỗi buổi lễ có các bài tán, tụng, niệm, xướng, dẫn, bạch, vịnh, thỉnh, ngâm, thài... phù hợp. Còn các nhạc cụ chỉ đóng vai trò thứ yếu, bổ trợ cho nghi lễ nhưng nó góp phần làm cho các buổi lễ trở nên trang nghiêm, long trọng, thu hút được lòng người, hướng con người đến với đạo pháp, thâm nhập giáo lý của nhà Phật. Mà trong mỗi cách thể hiện đó, âm điệu, ca từ của kinh sư được hoà cùng với thanh âm của pháp khí, nhạc cụ tạo nên sự hài hoà, hô ứng, bổ trợ cho nhau cùng phát huy tác dụng.
Tính chất hùng tráng, trang nghiêm, cao quý của đại nhạc, tính chất sâu lắng, vui tươi, êm dịu của tiểu nhạc, trong âm nhạc cung đình, được vận dụng vào Lễ nhạc Phật giáo Huế một cách linh hoạt. Đối với các bài bản không có lời ca đi kèm, so với âm nhạc chính thống được điển chế ở cung đình, khi diễn tấu trong không gian nghi lễ Phật giáo hầu như không có sự khác biệt lớn. Những bài bản như: Tam luân cửu chuyển, được tấu lên mở đầu cho một đại lễ, lúc thượng phan sơn thuỷ, dịp khánh hỷ...; Còn Đăng đàn kép, Đăng đàn đơn... được dùng cung nghinh chư tăng, thỉnh sư đăng toà hành lễ, thuyết pháp...; Và Long ngâm (âm) được dùng rất linh động khi chủ sám niêm hương hay đan xen vào những khoảng trống của buổi lễ, khi không có lời ca của các kinh sư...
Điệu múa lục cúng hoa đăng của Phật giáo
Riêng các bài bản có lời ca, ca từ được lấy từ chiết xuất từ các câu kinh, tuyển chọn những bài kệ. Những hình thức ca từ này, mỗi khi được các kinh sư tán tụng trong các nghi lễ đều thể hiện tính nhạc. Những bài bản của âm nhạc cung đình, đặc biệt là bài Bình bán trong Thập thủ liên hoàn (mười bản ngự), được thay đổi cung bậc sao cho phù hợp với các lời ca của các kinh sư trong quá trình diễn xướng. Thông thường điệu thức Bắc của âm nhạc cung đình, mang tính chất trang nghiêm, vui tươi, trong sáng, được gọi là hơi khách hay hơi thiền, dùng để tán dương Phật pháp, ngợi ca công đức của Phật và chư vị Bồ Tát.
Tính chất trầm lắng, man mát buồn, âm hưởng của điệu Nam, hơi ai, được vận dụng trong các bài tán tụng của Phật giáo để chuyển tải triết lý vô ngã, vô thường, những huyễn ảo của cuộc sống, khổ đau của đời người... trong các dịp tang lễ, cầu siêu, cúng linh, chẩn tế cô hồn, giải oan bạt độ...
Bên cạnh đó, những bài bản của âm nhạc dân gian vẫn được đưa vào diễn tấu trong nghi lễ Phật giáo Huế. Chẳng hạn: Thái bình, Cách giải, Tam thiên, Tứ châu, Lai kinh, Tấn trạo,... và ngay cả bài Phần hoá diễn tấu trong lúc đốt vàng mã ở đình, miếu, từ đường, tư gia... và nhiều lễ tế khác trong dân gian cũng được vận dụng. Không chỉ như vậy, những làn điệu hò, lý, ngâm thơ, tuỳ vào từng lúc, cũng được vận dụng một cách triệt để. Tất cả làm cho Lễ nhạc Phật giáo Huế trở nên phong phú đa dạng hơn trong thể hiện.
Đỉnh cao của loại hình âm nhạc này, được tập trung vào các giai điệu của các bài tán. Trong nghi lễ Phật giáo Huế, giai điệu tán rất phong phú, mỗi một bài có thể được tán với nhiều cung bậc khác nhau. Có thể tán theo hơi thiền hoặc hơi ai và có thể tán theo lối tán rơi, tán xấp, tán trạo... Các bài tán chủ yếu dùng những hình thức kệ. Ngoài các lối tán ra, kinh sư có thể dùng lối ngâm, đọc, xướng, dẫn... vẫn phát huy hiệu quả chuyển tải ý nghĩa của nó trong các nghi lễ Phật giáo. Bởi, bản thân các bài kệ, chúng là những bài ca, được đúc rút từ những diệu lý của kinh Phật, hay thể hiện sự chứng ngộ, trải nghiệm của các thiền sư. Trong các nghi lễ Phật giáo Huế dù thể hiện ở phương thức nào cũng trở thành phương tiện hữu hiệu để khai ngộ chúng sinh.
Chư tiên mặc áo mã nạp cung nghinh trong đoàn rước Phật
Âm nhạc và nghi lễ được hoà quyện vào nhau rồi trở thành tiếng nói vi diệu, chuyển hoá lòng người, hướng con người đến với đạo pháp. Âm nhạc trong nghi lễ Phật giáo Huế góp phần đưa con người thâm nhập vào giáo lý từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha... hướng con người đến cuộc sống lành mạnh, hướng thượng, mang lại cuộc sống an lạc, hạnh phúc trong thực tại. Lễ nhạc Phật giáo không chỉ là một pháp môn, một phương tiện của những bậc tu hành, mà còn một loại hình nghệ thuật có mối quan hệ mật thiết với mọi đối tượng thính pháp văn kinh, gắn liền với yếu tố văn hoá tâm linh của con người, một phần cuộc sống tinh thần của người dân xứ Huế. Dẫu, có thể chỉ là vô tình trong lĩnh vực nghệ thuật, nhưng Phật giáo Huế đã tạo nên một dòng âm nhạc độc đáo, không chỉ là một sản phẩm văn hoá phi vật thể đặc sắc của Huế mà còn của Việt Nam.
Lê Đình Hùng