Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2014

“KHÔNG THẦN” VÀ “CÓ THẦN”: HAI ANH, EM THÍCH ANH NÀO?







Trên 600 nhân vật "vô thần" trong đó Tổng thống Lincoln - George Washington - khoa học gia vĩ đại Carl Sagan…


Trần Chung Ngọc



* * *



Nhân đọc bài “Hitler Không Phải Là Người Vô Thần” của John Patrick Michael Murphy đăng trên trang nhà giaodiemonline.com , người viết xin có vài lời bàn thêm để đặc biệt đặt nội dung bài viết của tác giả nước ngoài nầy vào trong bối cảnh tôn giáo tại Việt nam.

Hiển nhiên Hitler không phải là người “vô thần”. Tháng 10, 1933, Hitler tuyên bố: “Chúng tôi tin chắc rằng dân chúng cần đến và đòi hỏi Đức Tin Ki Tô Giáo. Do đó chúng tôi gánh vác việc chống phong trào “vô thần”, và không phải với vài lời tuyên bố lý thuyết: chúng tôi đã dẹp đi phong trào này.” [We were convinced that the people need and require the Christian faith. We have therefore undertaken the fight against the atheistic movement, and that not merely with a few theoretical declarations: we have stamped it out. (October 1933)] Khi đưa ra chính sách tiêu diệt dân Do Thái, Hitler đã từng tuyên bố: “Tôi chỉ thực hiện những điều giáo hội Công giáo muốn từ hơn ngàn năm nay nhưng không thực hiện được.” Và năm 1941, năm tiến quân vào Nga Sô, Hitler nói với tướng Gerhart Engel: “Bây giờ cũng như trước, tôi là một tín đồ Công giáo và sẽ là như vậy mãi mãi.” [And in 1941, the year he rolled into Russia, Hitler told General Gerhart Engel: “I am now as before a Catholic and will always remain so.] Cũng hiển nhiên là Vatican chưa từng tuyệt thông [excommunicate] Hitler. Nhưng bài này không phải là viết về Hitler “vô thần” hay “có thần” mà là thế nào là “vô thần” và “vô thần” khác “có thần” ở chỗ nào.

Những người Ki Tô Giáo thường được tẩy não, nhồi sọ từ nhỏ là những người không tin vào Thiên Chúa của họ là “vô thần”, và vô thần có nghĩa là vô đạo đức của Ki Tô Giáo, nếu Ki Tô Giáo có cái thực sự gọi là đạo đức, và do đó có thể làm tất cả những điều ác vì không còn sợ Thiên Chúa của họ, nếu thực sự có một Thiên Chúa. Nhưng nếu chúng ta đọc lịch sử giới hữu thần và so với giới vô thần, chúng ta sẽ thấy rằng đạo đức của giới hữu thần thực sự thua xa đạo đức của giới vô thần. Lịch sử Ki Tô Giáo đã chứng tỏ như vậy. Tại sao? Bởi vì Ki Tô Giáo tin vào cuốn Thánh Kinh của họ, và trong Thánh Kinh, những điều luân lý đạo đức chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với những phần vô đạo đức, phi luân.

Mỹ là một nước hữu thần hạng nhất trong thế giới ngày nay, vì có tới khoảng 60% Tin Lành, và khoảng 20% Công giáo, những người tin vào sự “thiết kế thông minh” của một ông Thiên Chúa để tạo lên nước Mỹ làm dân của Thiên Chúa (God’s people). Nhưng những tội ác như linh mục loạn dâm, đĩ điếm, cần sa, ma túy, gian manh lừa đảo, giết người, băng đảng xã hội đen v..v.. đều chiếm giải quán quân trên thế giới. Nói có sách, mách có chứng: sau đây là vài con số thống kê của Mỹ:

Thống kê năm 2000: 14 triệu người tuổi từ 12 trở lên dùng ma túy (6.3% dân số).
Năm 2001: 15.980 vụ giết người, 90.491 vụ hiếp dâm. Cứ 2 phút lại có một người bị hiếp (tài liệu của bộ Tư Pháp)
Trên 1 triệu gái mãi dâm hành nghề trên đường phố, nhà tắm hơi (sauna), phòng tẩm quất (massage parlor) và qua điện thoại, trong đó có 300.000 vị thành niên. Thành phố New York tốn $43 triệu mỗi năm để kiểm soát các vấn đề liên quan đến mãi dâm.
14.000.000 người nghiện rượu.
Có 2.200.000 tù nhân Mỹ đang ngồi tù. Cả thế giới có 9.000.000 người đang ngồi tù, Mỹ chiếm 22% trong khi tỷ lệ dân số của Mỹ trên thế giới chỉ có 5%.

Ở Trung Quốc [xứ vô thần] thì cứ trong 100.000 người có 111 người ngồi tù, ở Mỹ [xứ hữu thần] là 686 người, gấp hơn 6 lần trong khi dân số Mỹ chỉ bằng 24% dân số Trung Quốc.
50% các cặp vợ chồng do Chúa kết hợp đi đến ly dị.
Từ 4% đến 10% dân chúng đồng tính luyến ái.
Tới nay đã có 4392 linh mục Công Giáo bị truy tố về tội cưỡng dâm trẻ em phụ tế và nữ tín đồ, chưa kể số Mục sư Tin Lành.. 
 
Đối với giới “Chống Cộng Cho Chúa” [CCCC] thì hai chữ “vô thần” hầu như bao giờ cũng đi liền với hai chữ “Cộng sản” trong những bản văn chống Cộng ở hải ngoại, và ngay cả ở trong nước. Không biết Cộng sản nghĩ sao chứ riêng tôi, mỗi khi tôi đọc đến bốn chữ “Cộng sản vô thần” tôi lại mỉm cười thương hại cho những người có đầu mà không có óc mà cho đến thời buổi này còn viết ra những từ này. Bởi vì, theo một nghĩa nào đó, Cộng sản cũng có thần. Thần của Cộng Sản một thời đã là ông Marx, nay hầu như chỉ còn “vang bóng một thời.” Cũng như Thần của người Âu Châu một thời là Thiên Chúa của nền thần học Do Thái – Ki Tô, nay cũng chỉ còn là “vang bóng một thời”. Những người viết lên nhóm chữ “Cộng Sản Vô thần” thực sự chỉ tỏ ra là mình kém hiểu biết, bởi vì thực ra “vô thần” là biểu hiện của sự tự hào, của danh dự, của sự tiến bộ trí thức. Phần phân tích sau đây sẽ chứng minh luận cứ này.

Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu từ đâu có nhóm chữ “Cộng sản vô thần”. Kết hợp Vô Thần với Cộng Sản nguyên là một thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc xảo quyệt mà Ki Tô Giáo nói chung, đặc biệt là Công Giáo La Mã, dùng để gây hận thù tôn giáo, khai thác sự mê tín và cuồng tín của đám tín đồ thấp kém, trong sách lược chống Cộng trước đây. Sự khai thác lòng sùng tín đượm màu mê tín của giáo dân chúng ta có thể thấy rõ trong sách lược của Giáo hội ngụy tạo ra những màn hiện thân của bà Maria mà điển hình là vụ “Đức mẹ Maria” hiện ra ở Fatima để trao cho 3 đứa trẻ mù chữ những thông điệp chống Cộng gồm 3 điều bí mật: 1) Cảnh tượng của hỏa ngục; 2) tiên đoán Nga Sô sẽ cải đạo theo Công giáo; và 3) một bí mật không được tiết lộ cho đến năm 1960, nhưng tòa Thánh đã dấu kín cho đến cuối thế kỷ 20, và khi John Paul II tiết lộ thì không ai biết đó có đúng là điều giáo hội đã ngụy tạo ra trước hay là mới ngụy tạo ra, nhưng điều chắc là, theo một số chuyên gia về Công giáo, thì điều “bí mật” sau cùng này là điều giáo hội mới nghĩ ra để đánh bóng vai trò của John Paul II trước tình trạng suy thoái hiện thời của giáo hội.

Nhưng thực tế lịch sử thì sao? Chúng ta biết, đã có thời hầu hết các nước theo Ki Tô Giáo “hữu thần” ở Âu Châu đã chịu ảnh hưởng không ít thì nhiều của “Cộng Sản vô thần”: Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Ý, Nam Tư , Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Bỉ, Đan Mạch, một phần nước Đức, và ngay cả trưởng nữ của giáo hội Công giáo: nước Pháp. Điển hình là ở Ba Lan, sau khi chế độ Cộng sản sụp đổ, Ba Lan vẫn “sợ đen hơn đỏ”. Điều này chứng tỏ những người theo Cộng Sản ở Âu Châu cũng như ở khắp nơi trên thế giới không hẳn là Vô Thần.

Chúng ta cũng biết, giáo hoàng John Paul II đã tuyên bố chẳng làm gì có hỏa ngục, hỏa ngục không phải là một nơi chốn trong lòng đất. Sự kiện này đã chứng tỏ những lời mô tả hỏa ngục của Đức Mẹ ở Fatima là do giáo hội bày đặt ra qua hoạt cảnh Fatima do giáo hội dàn dựng trước đây. Và chúng ta cũng đã biết, chính quyền Nga đã ra đạo luật đặt Công giáo ra ngoài vòng pháp luật, cấm Công giáo không cho truyền đạo trong nước, nên không làm gì có chuyện Nga Sô cải đạo theo Công giáo..

Những sự kiện lịch sử trên đã chứng tỏ rằng “Phép lạ Fatima” hay “phép lạ Công giáo” ở bất cứ đâu, như ở “La Vang”, Việt Nam, chẳng hạn, chẳng qua chỉ là những màn lừa bịp những người nhẹ dạ cả tin qua những trò bày đặt của giáo hội hoặc để chống Cộng, hoặc để nuôi dưỡng lòng sùng tín Maria của giáo dân, và nhất là để mang lại những lợi nhuận kinh tế. Thật vậy, những điều bí mật và tiên đoán mà bà Maria tiết lộ cho 3 em bé mù chữ ở Fatima rút cuộc đều sai bét.. Chúng bắt buộc phải sai vì chuyện Đức Mẹ hiện ra ở Fatima hay bất cứ ở đâu đều là chuyện hoang đường, và những lời giáo hội đặt vào miệng Đức Mẹ chỉ là những lời lừa bịp tín đồ vì ngày nay chúng đã chứng tỏ là không có điều nào đúng. Chúng ta cũng còn nhớ chuyện bức tượng của đức mẹ khóc chảy máu mắt vì thương sót nhân loại (Đức mẹ quyền phép vô cùng nhưng chỉ biết khóc đến chảy máu mắt). Chỉ phiền có một điều là người ta đã mang máu mắt của Đức Mẹ đi phân tích DNA và chứng minh được rằng đó là máu của ...đàn ông. Giáo hội mẹ cũng như các giáo hội con không hề quan tâm đến sự kiện khoa học này, chỉ cần làm sao cho tín đồ tin, đổ xô đến lễ bái và … thu tiền là được rồi. Bởi vậy cho nên ngày nay tượng Chúa Giê-su chảy máu, hay tượng Đức Mẹ khóc chỉ có thể xảy ra trong những kém phát triển về kinh tế, người dân còn sống trong khó khăn vật chất, dân trí chưa mở mang đúng mức, chứ không dám xảy ra trong những nước văn minh tiến bộ trong đó người dân có mức sống thoải mái và có tinh thần độc lập như Anh, Mỹ, Pháp, Nhật Bản. Thật vậy, ở Úc trước đây, vụ một linh mục Việt Nam dàn dựng ra cảnh tượng Đức Mẹ chảy dầu đã bị chính giáo hội Công giáo Úc điều tra và phủ bác, coi là ngụy tạo dàn dựng. Thật không biết xấu hổ, thời buổi này mà chúng ta còn thấy những tên bất lương vẫn còn tiếp tục khai thác sự yếu kém tinh thần của đám con chiên một cách bất chính. Nhưng đó hầu như là bản chất của một tôn giáo “mạc khải”, “tông truyền”, “thánh thiện”, là “thân thể của Chúa”, là “hiền thê của Chúa”, một tôn giáo thường tự nhận là “văn minh tiến bộ” nhất thế giới.

Tại sao Ki Tô Giáo lại chống Cộng một cách điên cuồng bất kể thủ đoạn như vậy? Thật là dễ hiểu, vì lý thuyết của Marx đã vạch trần bộ mặt thật của Ki Tô Giáo, kết quả là đưa Ki Tô Giáo vào con đường suy thoái không có cách nào cứu vãn. Hiện tượng này thật là rõ rệt, không những chỉ ở Âu Châu, cái nôi của Ki Tô Giáo, mà còn ở khắp nơi trên thế giới, kể cả Bắc Mỹ. Học giả Công giáo Joseph L. Daleiden đã viết trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition, Prometheus Books, New York, 1994): “Căn nguyên sự thù ghét của giáo hội Công giáo đối với Cộng Sản là giáo hội ý thức được rằng Cộng Sản, về ảnh hưởng, là một địch thủ tôn giáo.” (The root of the (Catholic) Church’s antipathy toward Communism is its realization that Communism is, in effect, a rival religion).

Ki Tô Giáo thường chụp mũ Cộng sản lên đầu tất cả những ai lên tiếng chỉ trích, chống đối, hay bất đồng ý kiến với tôn giáo của họ. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong bài thuyết trình của Emmett F. Fields trong Nhà Thờ Thomas Jefferson Unitarian ở Louisville, Kentucky, ngày 19 tháng 10, 1980:

Những người Ki-Tô luôn luôn dùng Cộng sản như là một cái đòn để vùi đập mọi sự chống đối tôn giáo, quyền lực và những mưu đồ của họ. Bất cứ người nào không đồng ý với họ, vô thần hay không, đều bị tố cáo là Cộng sản. [Điều này thật rõ ràng nhất trong những trang nhà chống Cộng rẻ tiền của người Việt hải ngoại, của những kẻ chuyên nghề buôn nón cối.] Ki Tô Giáo hàm ý là có một sự liên hệ không thể tách rời giữa sự độc tài về chính trị - kinh tế của Cộng sản, và sự tự do ra khỏi sự độc tài của tôn giáo gọi là chủ nghĩa vô thần. Ki Tô Giáo cố tình không biết đến là chủ nghĩa vô thần thì lâu đời hơn là Ki Tô Giáo và Cộng sản gộp lại với nhau.

(Christians are constantly using Communism as a club to beat down all opposition to their religion, their power and their schemes. Anyone who disagrees with them, Atheist or not, is denounced as being a "Communist." Religion implies that there is an inseparable connection between the political-economic dictatorship called Communism, and the freedom from religion called Atheism. Religion chooses to ignore the fact that Atheism is older than Communism and Christianity put together.)

Cũng vì vậy mà Ki Tô Giáo, nhất là Công giáo, đã dùng mọi thủ đoạn, khai thác sự cuồng tín và mê muội của tín đồ, gây căm thù trong đầu óc họ đối với Cộng sản mà Ki Tô giáo gán cho hai chữ Vô Thần, hàm ý Cộng sản chống Thần của Ki Tô Giáo. Cùng một sách lược, trước sự phát triển của Phật Giáo ở Tây phương, giáo hoàng John Paul II đã viết cuốn Bước Qua ngưỡng Cửa Hi Vọng trong đó ông ta phê bình: “Phật giáo đại để là một hệ thống “vô thần”” (Buddhism is in large measure an “atheistic” system). Câu viết có vẻ thiếu neuron ở trong óc này chỉ có mục đích đồng nhất hóa “vô thần” của Cộng Sản với “vô thần” của Phật Giáo để giữ đám tín đồ đừng đi theo Phật Giáo. Giáo hội cũng tận dụng mọi phương tiện truyền thông tuyên truyền để tẩy não đám tín đồ thấp kém, cấy vào đầu óc họ một ý niệm là “Vô thần tất nhiên phải xấu, chỉ có tôn giáo “hữu thần” mới là tốt” trong khi sự thực lại trái ngược hẳn lại.

Những người vô thần nổi tiếng từ xưa tới nay đều là những bậc thông thái, có đạo đức, chứ không tàn bạo, ngu đần, vô đạo đức như một số giáo hoàng thờ thần trong cái tôn giáo thờ thần là Công giáo như lịch sử đã chứng minh. [Sẽ được chứng minh trong bài viết về “Lịch Sử Một Số Giáo Hoàng”] Và trong những xã hội Ki Tô Giáo “hữu thần”, tỷ lệ những tội ác như giết người, cướp của, loạn luân, con giết cha mẹ, cha mẹ giết con, ma túy v..v.. đã vượt trội những xã hội “vô thần”.

Thật ra, theo định nghĩa thì, Vô thần chỉ có nghĩa là không tin, từ chối, không chấp nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa (Atheism = Disbelief in or denial of the existence of God). Thiên Chúa ở đây phải hiểu là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo. Vô thần không có nghĩa là chống Thiên Chúa, vì chống một cái không hiện hữu là một chuyện vô ích. Nói cho đúng ra, Vô Thần, nếu có chống, là chống sự mê tín của con người vào một Thiên Chúa do chính con người bày đặt ra.

Khi Marx đưa ra nhận định “Tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng” thì Marx đã nói lên một sự kiện. Người ta thường hiểu lầm và thường xuyên tạc lời nói trên của Marx, cho rằng Marx muốn nói đến mọi tôn giáo trên thế giới. Thực ra, Marx chỉ muốn nói đến Ki Tô Giáo, một tôn giáo mà Marx đã biết rõ vì Marx sinh ra trong truyền thống tôn giáo này. Thật vậy, chúng ta cần biết đến định nghĩa về tôn giáo của Tây phương. Theo tự điển The American Heritage Dictinonary của Mỹ thì định nghĩa của Tôn Giáo là: “Niềm tin và sự kính ngưỡng vào một quyền năng siêu nhiên được biết như là một đấng sáng tạo và cai quản vũ trụ” (Religion = Belief in and reverence for a supernatural power recongnized as the creator and governor of the universe). Lẽ dĩ nhiên, các tôn giáo Đông phương như Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo đều không nằm trong định nghĩa này. Mặt khác, không có bằng chứng nào chứng tỏ Marx đã nghiên cứu hay hiểu biết về các tôn giáo Đông phương trên.

Do đó, bất cứ người nào có đôi chút kiến thức cũng phải hiểu rằng: Cọng Sản là một hệ thống chính trị xã hội – kinh tế (Communism is a socio-economic political system) trong khi Vô Thần là một lập trường đối với các tôn giáo (thần giáo), đặc biệt là Ki Tô Giáo (Atheism is a position taken in respect to religion, especially Western religion.), và Vô Thần đã có từ trên 2000 năm nay, như sẽ được chứng minh trong phần sau, trong khi Cộng sản mới chỉ ra đời cách đây trên 100 năm.

Vì không hiểu rõ chủ trương vô thần của Marx cũng như bản chất của vô thần cho nên ngày nay vẫn còn có những người cuồng tín thiếu đầu óc, kể cả những người gọi là trí thức Công Giáo như nhóm tác giả viết trong cuốn “2000 Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một Số Người Công Giáo”, cũng như mấy ông trí thức tân tòng Tin Dữ như Lê Anh Huy, Phan Như Ngọc, Huệ Nhật, Khuất Minh v..v.., và cả một số trí thức Phật Giáo thiếu trí tuệ, vẫn tiếp tục kết hợp Cộng sản với Vô Thần, làm như Vô Thần là một trọng tội xấu xa cần phải diệt trừ. Họ không đủ kiến thức để hiểu rằng, khi họ kết hợp Cộng Sản với Vô Thần là họ đang thực sự tôn vinh Cộng Sản. Tại sao? Vì ngày nay Âu châu đang trở thành vô thần, như sẽ được chứng minh trong phần sau.

Thật vậy, như Voltaire đã nhận định: “Vô Thần là thói xấu của một số ít những người thông minh” (Atheism is the vice of a few intelligent people) và trên thực tế, Vô Thần là kết quả tiến bộ trí thức của con người, như Frank E. Tate đã tuyên bố như sau:

“Suốt cuộc đời tôi, tôi đã tiến bộ từ một người sùng tín đến một người theo thuyết “bất khả tri” và bây giờ là một người vô thần. Tôi dùng từ “tiến bộ” vì tôi tin rằng đó thực sự là một sự tiến bộ, tiến từ sự chấp nhận mù quáng vào một huyền thoại phi lý đã lỗi thời đến sự nghi ngờ và sau cùng đến sự từ bỏ và không còn tin nữa.

Chính cái huyền thoại đó – cuốn Thánh kinh Do Thái – Ki Tô – là một cuốn ghi chép kinh hoàng về những cuộc đổ máu, dâm dật, và cuồng tín không đếm xỉa gì đến đời sống và sự an sinh của những người nào không bày tỏ niềm tin mù quáng của mình vào những giới luật được trình bày qua những lời lẽ mâu thuẫn và không thể nào xảy ra được”

(During my lifetime I have progressed from being a “believer,” to being an agnostic and now an atheist. I use the word “progress” because I believe it to be true progress to go from blind acceptance of an outdated illogical mythology to doubt and finally to denial and disbelief...

The myth itself – the Judeo-Christian Bible – is a shocking account of bloodshed, lust, and bigoted disregard for the lives and well-being of all peoples who do not profess a blind belief in the precepts presented in such impossible and contradictory terms.)

Có thể những người thờ thần, hay thờ Chúa cũng vậy, muốn biết là một người vô thần có những cảm nghĩ gì? Tôi xin mượn vài tư tưởng của Robert G. Ingersoll. Ingersoll là một nhà tư tưởng tự do nổi tiếng nhất của Mỹ. Tên ông ta có trong lịch sử, trong tự điển. Những tư tưởng của ông đều có trong các thư viện lớn. Tượng đài tưởng niệm ghi công ông khai phóng đầu óc giới trẻ được xây ở Peoria, bang Illinois. Ingersoll phát biểu như sau về cảm nghĩ của một người vô thần. Tôi chỉ xin nêu ra vài tư tưởng trong đó:

“Khi tôi tin chắc rằng Vũ trụ là thiên nhiên – và rằng những thánh ma, thiên chúa chỉ là những huyền thoại, thì những cảm nghĩ, nhận thức, và niềm hân hoan về sự tự do, giải thoát đã xâm nhập vào đầu óc tôi, vào linh hồn tôi, và vào từng giọt máu trong người tôi. Những bức tường của cái nhà tù của tôi [Ki Tô Giáo] đã sụp đổ, ngục tù tăm tối đã được tràn ngập ánh sáng, và tất cả những then cửa, chấn song, gông cùm đã trở thành cát bụi. Tôi không còn là một tôi tớ hèn mọn, một người hầu, hay một nô lệ nữa (Xin đọc trang nhà Mucsu.net: Người Ki Tô Giáo vẫn thường tự nhận là tôi tớ hèn hạ, là người hầu việc Chúa v..v.. ) Tôi đã tự do:

* tự do suy tư, phát biểu tư tưởng

* tự do sống theo ý tưởng của tôi

* tự do tận dụng mọi khả năng, mọi giác quan của tôi

* tự do tìm hiểu

* tự do vứt bỏ mọi tín điều ngu đần và độc ác, mọi sách “mạc khải” mà những người dã man đã tạo ra chúng và mọi truyền thuyết man rợ của quá khứ

* tự do thoát khỏi những giáo hoàng và linh mục

* tự do thoát khỏi những sai lầm được thánh hóa và những lời nói láo mang tính thánh

* tự do thoát khỏi sự sợ hãi về một sự đau đớn vĩnh hằng (đày hỏa ngục)

* tự do thoát khỏi những ma, quỉ và thiên chúa.”



(When I became convinced that the Universe is natural – that all the ghosts and gods are myths, there entered into my brain, into my soul, into every drop of my blood, the sense, the feeling, the joy of freedom. The walls of my prison crumbled and fell, the dungeon was flooded with light and all the bolts, and bars, and manacles became dust. I was no longer a servant, a serf, or a slave...I was free

free to think, to express my thoughts
free to live to my own ideal
free to use all my faculties, all my senses
free to investigate

free to reject all ignorant and cruel creeds, all the “inspired” books that savages have produced, and all the barbarous legends of the past

free from popes and priests
free from sanctified mistakes and holy lies
free from the fear of eternal pain
free from devils, ghosts and gods)

Nhìn vào thế giới ngày nay, ngoại trừ những ốc đảo tối tăm, hầu hết những nơi văn minh tiến bộ đều từ bỏ niềm tin vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa sáng tạo ra muôn loài. Thiên Chúa trong các xã hội văn minh tiến bộ ngày nay chỉ có một giá trị ước lệ, truyền thống, và con người trong những xã hội này thực sự đang sống những cuộc sống như là không có Thiên Chúa, không sợ Thiên Chúa, không tin là Thiên Chúa có thể can dự vào bất cứ khía cạnh nào của đời sống con người, và điều hiển nhiên nhất là không có ai theo những luật của Thiên Chúa [của Ki Tô Giáo].

John Cornwell, một tín đồ Công giáo và cũng là một chuyên gia về Công Giáo và Vatican, tác giả 2 cuốn sách nổi tiếng về Vatican: A Thief in the Night và Hitler’s Pope, đã viết thêm một tác phẩm về Công giáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Công Giáo (Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism), xuất bản năm 2001, trong đó chương đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối Của Công Giáo (A Catholic Dark Age). Trong chương này, tác giả John Cornwell đưa ra tình trạng suy thoái trầm trọng của Công giáo ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, và Pháp. Số tín đồ mang con đi làm lễ rửa tội giảm sút, vì ngày nay người ta nhận thức được rằng chẳng làm gì có tội ở đâu mà phải đi rửa; đám cưới tổ chức không cần đến linh mục, vì hôn phối có thể hợp thức hóa ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất hết ý nghĩa; giới trẻ không buồn đến nhà thờ, vì chẳng thấy gì hấp dẫn trong những lời giảng đi ngược thời gian của các linh mục; số từ bỏ đức tin gia tăng, vì người ta không còn chịu chấp nhận một đức tin mù quáng; từ 1958 đến nay, số vào nghề linh mục giảm đi 2/3 v..v.. Tình trạng ở Châu Âu, trước đây là cái nôi của Công giáo, thật là thê thảm. Ở Tây Âu (Western Europe), từ 30 đến 50% các giáo xứ không có linh mục. Ở Ý, 90% theo Công giáo nhưng chỉ có 25% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm 10% kể từ đầu thập niên 1980, số người vào học trường Dòng giảm một nửa. Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ Công giáo, số người cảm thấy mình được ơn kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970 còn 91 năm 1999, số linh mục được tấn phong từ 259 xuống 43 trong cùng thời gian. Trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu” [nghĩa là sống như là “vô thần”] (At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.) Ở Nam Mỹ, tình trạng cũng không khá hơn. 7000 tín đồ mới có một linh mục. Chỉ có 15% giáo dân đi xem lễ ngày chủ nhật. Theo một hội nghị quốc gia của các giám mục Ba Tây thì mỗi năm có khoảng sáu trăm ngàn tín đồ bỏ đạo (according to the National Conference of Brazilian Bishops, some 600000 Catholics leave the Church each year.)

Âu Châu và nhiều nơi khác trên thế giới đã trở thành “vô thần”. Cho nên, “Thiên Chúa” chỉ còn hiện hữu trong đám người có cái “gen” của Thiên Chúa, cái “gen” này thuộc loại nào, ai cũng đã đều biết. Vậy ngày nay từ “Cộng sản vô thần” chẳng nói lên được điều gì ngoài phản ánh sự kém hiểu biết của đám người cuồng tín, không theo kịp đà tiến hóa và sự tiến bộ trí thức của nhân loại.

Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu thế nào là “vô thần”, vô thần có từ bao giờ và những người vô thần trên thế giới là ai? Chúng ta hãy đọc một đoạn đặc sắc trong bài thuyết trình của Emmett F. Fields, Ibid. Trong bài thuyết trình này, tác giả chủ yếu nói về Ki Tô Giáo nhưng khi thì dùng từ “tôn giáo” (religion) khi thì dùng từ Ki Tô Giáo (Christianity). Đọc phần tiếng Anh chúng ta thấy rõ như vậy. Cho nên tôi đã thay một số từ “tôn giáo” bằng Ki Tô Giáo để cho dễ hiểu.

Bước đầu tiên trong việc tìm hiểu vô thần là phải loại bỏ những lời nói láo và tuyên truyền mà Ki Tô giáo truyền bá để chống vô thần. Vô thần không chỉ là kiến thức về sự không hiện hữu của các thần mà còn hơn nữa, là kiến thức về sự sai lầm hay gian xảo của Ki Tô giáo. Vô thần là một thái độ, một khung trí tuệ nhìn thế giới một cách khách quan, không sợ hãi, luôn luôn tìm hiểu mọi sự việc như là một phần của thiên nhiên. Có thể nói rằng vô thần có một giáo lý là phải đặt nghi vấn và một tín lý là phải nghi ngờ. Đó là trí tuệ con người trong môi trường thiên nhiên, không có gì là quá thánh thiện để không được tìm hiểu, không có gì là quá thiêng liêng để không được đặt nghi vấn. Cuốn Thánh Kinh của người vô thần, có thể nói như vậy, chỉ có một từ: “HÃY SUY NGHĨ”. Vô thần là sự giải thoát hoàn toàn của đầu óc con người khỏi những xiềng xích của sợ hãi và mê tín.

Vô thần tuyệt đối không có gì tiêu cực; sự thật không bao giờ có thể là tiêu cực. Vô thần đòi hỏi chứng minh, hay ít nhất là những bắng chứng hợp lý, và chỉ bác bỏ những gì không đáp ứng được sự đòi hỏi của sự hiểu biết thông thường. Trong suốt lịch sử, mọi tiến bộ trong xã hội có được là từ sự nghi ngờ và loại bỏ những ý tưởng, những tập quán, và những niềm tin cũ kỹ [vì không còn đúng]. Cái cây kiến thức nhân loại chết khi nó đang mọc lớn, với những cành lá mới mọc từ những phần đang chết, và thay thế những phần này với những niềm tin chân thật và tốt đẹp hơn. Nhà Thần học là một con cú, đậu trên một cành cây đã chết của cái cây kiến thức nhân loại, và rúc lên cùng những tiếng rúc cũ kỹ đã từng rúc lên trong nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhưng hắn chưa bao giờ phát ra một tiếng kêu rúc nào cho sự tiến bộ.

Về đạo đức, Vô thần ở ghế thượng phong trên Ki Tô giáo. Sự thất bại lớn của đạo đức Ki Tô giáo bắt nguồn từ ảo tưởng của họ về một đạo đức đứng trên đúng hay sai [vì là đạo đức của Thiên Chúa]. Đầu óc của người theo Ki Tô giáo đã biết là tra tấn và giết người là sai lầm, bạo hành và thù hận là sai lầm, cưỡng bức người khác vào đạo là sai lầm. Ki Tô giáo đã biết những điều đó là sai lầm, nhưng đầu óc của những người theo Ki Tô giáo trở nên tồi tệ vì cái ảo tưởng về một nền “đạo đức cao hơn”, và vì cái ảo tưởng này mà lịch sử nhân loại ngập máu những người vô tội. Nhân danh “thiên chúa” và một nền “đạo đức cao hơn” của họ, những người Ki Tô Giáo đã tiến hành những cuộc thánh chiến để tiêu diệt, đã cướp bóc, tra tấn và tàn sát những người không thể đồng ý với họ, hoặc chưa tùng nghe đến tôn giáo của họ. Nhân danh nền “đạo đức cao hơn” này, những người Ki Tô Giáo đã thù hận, săn lùng, bạo hành, và thiêu sống người “lạc đạo”, người “vô tín”, và người “vô thần”.

Và ngày nay, như đã từ bao giờ, khi tín đồ Ki Tô giáo làm những việc mà ngay hắn cũng biết là sai lầm và vô luân, nhưng cái ảo tưởng của hắn về một “quyền năng cao hơn” [của Thiên chúa] và một nền “đạo đức cao hơn” [của Ki Tô giáo] cho phép hắn trình diễn vài lễ tiết, xưng tội, hay cầu nguyện thì kỳ lạ thay, ngay lập tức, “tất cả tội lỗi của hắn đều được xóa bỏ”, và hắn lại không còn có thắc mắc gì về lương tâm hay hối hận.

Những ảo tưởng điên rồ như vậy không làm cho đầu óc người vô thần thoải mái. Người vô thần biết rằng không có đạo đức nào đứng trên đúng và sai, và con người không thoát ra khỏi được sự cắn rứt của lương tâm và hối hận. Giết người là giết người, ăn cướp là ăn cướp, thù hận và bạo hành là những tội ác chống nhân loại. Về đạo đức, lịch sử cho chúng ta thấy, làm người vô thần thì tốt hơn là làm người Ki-Tô.

Ki Tô giáo cho rằng sự vô đạo đức nẩy ra là vì thiếu vắng Ki Tô giáo, nhưng những sự kiện đã chứng tỏ ngược lại. Ki Tô Giáo chưa bao giờ mạnh như bây giờ, họ có nhà thờ trong mọi cộng đồng, độc quyền chiếm giờ trên đài phát thanh và đài truyền hình để tuyên truyền cho Ki Tô giáo, và họ đã cưỡng nhét Ki Tô giáo của họ vào chính quyền, luật pháp và trường học của chúng ta. Họ đã làm những việc chống với Hiến Pháp của Mỹ, và chống những quyền căn bản và thiêng liêng nhất của mọi người Mỹ khác. Họ đã len lỏi vào nhưng nơi họ không được vào, những nơi không có việc của họ, bịt miệng mọi chống đối, mọi quan điểm khác, bỏ thuốc độc vào cái giếng hiểu biết của chúng ta và làm nguy hại đến những gốc rễ của quốc gia chúng ta.

Ki Tô giáo ngày nay mạnh như vậy, nhưng chúng ta không đạt được một mức đạo đức nào đáng kể trong quốc gia này. Không ở đâu khác cho thấy sự thất bại về đạo đức Ki-tô giáo rõ rệt như ở Mỹ. Trong cùng một thời gian mà Ki Tô giáo trở nên mạnh hơn và giầu có hơn, trong 30 năm qua, vấn nạn dùng các loại ma túy đã trở thành một vấn nạn xấu xa của quốc gia, số tội ác tăng gia nhanh chóng, tỷ lệ ly dị tăng vọt, và trong thời gian này quốc gia của chúng ta bị lôi cuốn vào nhiều cuộc chiến tranh và xung đột thế giới hơn bao giờ hết trong lịch sử. Ngay bây giờ chúng ta có những tỷ lệ dùng ma túy, phạm tội ác, ly dị cao nhất cùng với “tỷ lệ theo Ki Tô giáo” cao nhất chưa từng có trong lịch sử quốc gia này. Ki Tô Giáo có thể nói gì về những sự kiện này và làm sao để chữa chạy chúng. Họ bảo chúng ta là chúng ta cần nhiều đến Ki Tô giáo hơn và cương quyết áp đặt Ki Tô giáo lên chúng ta. Ki Tô Giáo cảm thấy quá mạnh ngày nay và họ đang đi vào chính trị để cưỡng đặt nền đạo đức thất bại của họ trên mọi người Mỹ qua sự Độc Tài của Ki Tô Giáo và một Thời Đại Tăm Tối mới.

Một khi thái độ vô thần đã đạt được, và đầu óc đã thoát khỏi những sự sợ hãi và niềm tin trong Ki Tô giáo đã được cấy vào chúng ta từ khi còn nhỏ; và một khi chúng ta có thể nhìn vào tôn giáo một cách khách quan không thiên vị, thật hiển nhiên là Ki Tô giáo có tất cả những đặc tính của một dạng tâm linh điên rồ. Tùy theo mức độ, người sùng tín Ki Tô giáo phải chấp nhận, và tin, vào một thế giới khác; một thế giới siêu nhiên hay khác thường, một thế giới có đầy những nhân vật tưởng tượng gọi là thiên chúa, quỷ, thánh v..v.. Người ta nói với những tạo vật tưởng tượng này, xin xỏ ân huệ, sự hướng dẫn, những “dấu hiệu”, hoặc phép lạ, và rồi hoặc quy trách hoặc tạ ơn những biến cố thiên nhiên sau đó xảy ra. Nếu không phải là khoác bộ áo tôn giáo thì những niềm tin và những hành động như vậy phải coi là của một người điên, cần phải vào nhà thương điên để chữa trị.
Sự nghiên cứu lịch sử sẽ biện minh thêm cho thuyết Ki Tô giáo là một dạng tâm linh điên rồ. Không có một đầu óc lành mạnh nào lại có thể gây ra những cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu, những cuộc thập ác chinh mà những người bị chinh phục, đàn ông, đàn bà, trẻ con, và ngay cả con nít đều bị giết chỉ vì họ là những người “không tin” hay “lạc đạo”. Những tù ngục tối tăm và những phòng tra tấn của những tòa án thánh xử dị giáo không thể nào bị cai quản bởi những đầu óc lành mạnh. Và phải là loại đầu óc điên rồ, đầu óc Ki Tô giáo, mới trói người phụ nữ vào cột, rồi chất củi thiêu sống vì cái tội không thể nào có là phù thủy. Không có người nào tỉnh táo có thể đọc những chuyện khủng khiếp, hiếp dâm và giết người trong một cuốn sách man rợ mà người ta gọi cuốn sách đó là “Lời của Thiên Chúa”. Và huyền thoại về Giê-su, về một thiên chúa phải xuống làm người và bị giết trước khi có thể tha thứ tội lỗi cho nhân loại, là chuyện điên rồ nhất trong những chuyện điên rồ.

Ngày nay, Ki Tô Giáo cố tình không biết đến, hay giấu kín và phủ nhận cái lịch sử đẫm máu của mình và tự tôn là nền tảng đạo đức của chúng ta, và là nền tảng ngay cả nền văn minh của chúng ta. Ki Tô Giáo tự cho rằng là nguồn hi vọng duy nhất của chúng ta trong tương lai. Nhìn vào lịch sử Ki Tô Giáo, những điều tự nhận như vậy, bản chất chỉ là những lời nói điên dại.

(The first step, then, in understanding Atheism is to disregard all the lies and propaganda that religion has spread against it. Atheism is more than just the knowledge that gods do not exist, and that religion is either a mistake or a fraud. Atheism is an attitude, a frame of mind that looks at the world objectively, fearlessly, always trying to understand all things as a part of nature. It could be said that Atheism has a doctrine to question and a dogma to doubt. It is the human mind in its natural environment, nothing is too holy to be investigated, nor too sacred to be questioned. The Atheist Bible, it could be said, has but one word: "THINK." Atheism is the complete emancipation of the human mind from the chains and fears of superstition.

There is absolutely nothing negative about Atheism; truth can never be negative. The Atheist demands proof, or at least reasonable evidence, and simply rejects whatever does not meet the basic requirements of common sense. Throughout history all progress in society has come from doubting and rejecting old ideas, old customs, and old beliefs. The tree of human knowledge dies as it grows, with new growth growing out of the dead and dying parts, and replacing it with better and truer beliefs. The Theologian is an owl, sitting on an old dead branch in the tree of human knowledge, and hooting the same old hoots that have been hooted for hundreds and thousands of years, but he has never given a hoot for progress.

Morally speaking, Atheism has a great advantage over religion. The great failure of religious morality comes from their illusion of a morality above right and wrong. The religious mind has always known it is wrong to murder and torture, wrong to persecute and hate, wrong to force its beliefs upon others. Religion has always known these things are wrong, but the religious mind suffers from the illusion of a "higher morality," and because of that illusion all history runs deep with innocent blood. In the name of their "god" and a "higher morality," Christians have waged holy wars of extermination, have plundered, tortured and murdered those who could not agree with their religion, or who had never even heard of it. In the name of this "higher morality" Christians have hated, hunted, persecuted, and burned alive the "heretic," the "infidel" and the "atheist."

And today, as always, when the religious person does a thing that even he recognizes as being wrong and immoral, his illusion of a "higher power" and a "greater morality" allows him to perform some ritual, confession, or prayer, and presto, miraculously, "all his sins are taken away", and he is free again from all pains of conscience and regret.

Such foolish illusions do not comfort the Atheist mind. The Atheist knows there is no morality above right and wrong, and no escape from the pains of conscience and remorse. Murder is murder, and robbery, hate and persecution are all crimes against humanity. Morally speaking, then, history tells us it is better to be an Atheist than to be a Christian.

Religion claims that immorality always springs from a lack of religion, but the facts prove just the opposite. Christianity has never been stronger than it is today, Christians have churches in every community, they monopolize radio and television time with religious propaganda, they have forced their religion into our government, our laws, and into our schools. They have done these things against the Constitution of the United States, and against the most basic and sacred rights of all other Americans, rushed in where it was not supposed to be, where it has no business to be, silencing all opposition, all opposing views, poisoning the wells of our knowledge, and endangering the very roots of our nation.

Christianity is that strong today, and yet we have not achieved any respectable amount of morality in this country. Nowhere is the failure of Christian morality more evident than in America. During the same time that Christianity has been growing ever stronger and ever richer, over the past thirty years or so, the use of harmful drugs has became a national scandal, the crime rate has been climbing ever higher and ever faster, the divorce rate has skyrocketed, and during that time our nation has been embroiled in more wars and international conflicts than in any other similar time period in its history. Right to-day we have the highest narcotics abuse rate, the highest crime rate, the highest divorce rate, and the highest 'religion rate' that we have ever had in the history of this nation. What does Christianity say about these facts and how to cure them? They tell us we need more religion and they are determined to force it upon us. Christianity feels so strong today that it is moving into politics to try to force its failing morality upon every American through a Christian Dictatorship and a new Dark Age.

Once Atheism is achieved, and the mind has escaped entirely from the religious fears and beliefs that are put upon us from earliest childhood; and once we can look at religion objectively and impartially, it becomes entirely obvious that religion has all the characteristics of a form of insanity. To one degree or another the religious mind must accept, and believe in, another world; a supernatural or unnatural world, a world filled with all sorts of imaginary beings called gods, devils, angels, saints, demons, etc. These imaginary creatures are talked to, asked for favors, guidance, "signs," or miracles, and then blamed or thanked for natural events that follow. Except for the cloak of religion, such beliefs and actions would otherwise cause an individual to be judged insane, and committed to an institution for treatment.

The study of history will further justify the theory that religion is a form of insanity. No sane and healthy minds could have waged the bloody religious wars and crusades where the conquered were slaughtered, men, women, and children, even infants, all were put to the sword simply because they were "infidels" or "heretics." The dungeons and torture chambers of the Holy Inquisition could not have been run by sane and healthy minds. And it had to be the insane mind, the religious mind, that would tie a woman to a stake, pile wood and fagots around her and burn her alive for the impossible crime of being a witch. No sane person could read of the horrors, rape and slaughter in a savage book and call that book "the word of God." And the Jesus myth, about a god who must become a man and be murdered before he can forgive mankind, is the most insane of all.

Today, Christianity chooses to ignore, or to hide and deny, its own bloody history and to claim that it is the very foundation of our morals, and even of our civilization. Religion also claims to be our only hope and guide for the future. In view of Christian history these claims are, in themselves, sheer insanity.)

Tôi nghĩ rằng vài tài liệu như trên cũng đủ để cho chúng ta phân biệt được thế nào là “vô thần” và thế nào là “hữu thần”. Sau đây chúng ta sẽ thử xem trong lịch sử thế giới những ai là “vô thần”.

Trước hết là Đức Phật, Đức Khổng Tử, Lão Tử ở Đông Phương trong thế kỷ 6 trước thường lịch. Cùng thời với 3 nhân vật vĩ đại của nhân loại trên, chúng ta thấy Simonides, một thi sĩ Hi Lạp. Rồi sau đó là Empedocles, Aristotle, triết gia Hi Lạp; Demosthenes, nhà hùng biện thành Athenes; Epicurus, triết gia Hi Lạp; Lucretius, triết gia La Mã; Statius, Thi sĩ La Mã. Tất cả những nhân vật có tên trong lịch sử trên đều sinh ra trước Giê-su. Trong cuốn Đức Tin Công Giáo, Giao Điểm xuất bản năm 2000, trong phần phụ lục, tôi đã đưa ra danh sách 75 danh nhân trí thức Âu Mỹ có thể xếp vào hạng những người vô thần. Phần này cũng đã được đưa lên trang nhà Giao Điểm.

Bây giờ chúng ta hãy kể vài nhân vật “hữu thần” nổi danh trên thế giới. Hiển nhiên các giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục, linh mục là những người “hữu thần” bậc nhất. Mở danh sách các giáo hoàng ra chúng ta thấy có bao nhiêu giáo hoàng nổi tiếng trên thế giới, thuộc loại “lưu danh muôn thuở” hay “lưu xú vạn niên”.? Lloyd M. Graham đã viết trong cuốn Những Dối Trá và Huyền Thoại Của Thánh Kinh (Deceptions and Myths of the Bible): “Đối với hàng triệu linh hồn bị lạc dẫn...một ngàn năm tội ác và đồi bại (của giáo hội Công giáo) được làm nhẹ đi qua lời giải thích hời hợt là “chỉ có vài giáo hoàng xấu”. Nếu những người giải thích như vậy mà lương thiện, họ phải thừa nhận rằng thật ra chỉ có vài giáo hoàng tốt” (For millions of misguided souls..., a thousand years of crime and corruption are glossed over with the statement, “There were a few bad popes.” Were their informers honest they would admid there were a few good). Sau đây là một thí dụ điển hình: Edward Gibbon (1737-1794), một Sử gia người Anh đã viết: “Những tội nghiêm trọng nhất đã bị dẹp bỏ, Người đại diện của Chúa Ki Tô (Giáo hoàng John XXIII, 1414) chỉ bị kết tội là ăn cướp, sát nhân, hãm hiếp, giao hợp đồng giống, và loạn luân (The most serious charges were suppressed; the Vicar of Christ (Pope John XXIII, 1414) was accused only of piracy, murder, rape, sodomy, and incest.) Một số chi tiết về các giáo hoàng đồi bại này đã được trình bày trong cuốn Đức Tin Công Giáo, chương II, tôi không nhắc lại ở đây nữa. Ngoài ra chúng ta còn phải kể Hitler, Mussolini, Franco, Pétain, MacCarthy, Von Papen, Himmler, Goebbels, Palevich v..v.., tất cả đều là những người “hữu thần”. Nhưng tội ác của họ đối với nhân loại ra sao? Công Giáo “hữu thần”, nhưng Công Giáo đã gây nên bao nhiêu thảm trạng cho nhân loại?

Riêng về Việt Nam thì những ai là “vô thần” theo nghĩa không biết đến, không tin, không công nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa của Ki Tô Giáo? Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Quốc sư Vạn Hạnh, Lý Thường Kiệt, Trần Bình Trọng, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Hồ Chí Minh v...v... Những bậc tiền nhân này đã làm gì cho nước Việt nếu không phải là có công đánh đuổi xâm lăng, bảo toàn chủ quyền, nền độc lập quốc gia, hoặc làm rạng danh nền văn hóa Việt Nam? Còn những kẻ “hữu thần” là ai? Pétrus Ký, Nguyễn Trường Tộ, Paulus Của, Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân, Trần Lục, Ngô Đình Khả, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Hoàng Quỳnh v..v.. Họ là ai? Toàn là Việt gian bán nước, theo giặc chống lại tổ quốc, hoặc cuồng tín, nô lệ Vatican như Ngô Đình Diệm?

Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho sự kiện bán nước của Công Giáo qua văn kiện có tính cách khẳng định sau đây của chính Giám mục Puginier, được trích dẫn trong cuốn Catholicisme et Sociétes Asiatiques của Alain Forrest và Yoshiharu Tsuboi:

"Giám Mục Puginier viết rằng: "Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thật vậy, không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo, người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù; họ sẽ không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ; họ sẽ bị đẩy vào tình trạng không thể hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách nhanh chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện diện của họ sẽ bị nguy hại."

(Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes. La comparaison, pour être triviale, ne manque pas de justesse et de force. En effet, sans les missionnnaires et les chrétiens, les Francais se verraient entourés d'ennemis; ils ne pouraient se fier à personne; ils ne recevraient que de faux renseignements, méchamment donnés pour compromettre leur situation; ils se trouveraient donc réduits à l'impossibilité d'agir et seraient rapidement exposés à des vrais désastres. Leur position ici ne serait plus tenable, et ils ne verraient forcés de quitter un pays où leurs intérêts et leur existence même serait compromis.)

Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho hành động bán nước của linh mục Trần Lục, người dẫn 5000 giáo dân đi tiếp tay, hỗ trợ quân đội Pháp để hạ trung tâm kháng chiến Ba Đình của Đinh Công Tráng? [Xin đọc Thập Giá Và Lưỡi Gươm của LM Trần Tam Tĩnh]

Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho sự kiện là giám mục Lê Hữu Từ đã theo lệnh chống Cộng của giáo hoàng Pius XII, nhận vũ khí của Pháp khi Pháp trở lại Việt Nam, tổ chức những “khu tự trị” (sic) Phát Diệm, Bùi Chu để giết dân ngoại đạo vô tội, đi cướp phá các làng “lương”” dưới chiêu bài chống Cộng sản Vô Thần.

Vậy thì giữa “vô thần” cứu nước và làm rạng danh nước, và “hữu thần” nô lệ ngoại bang, phản bội quốc gia, người dân Việt nên chọn thứ nào? 93% dân Việt đã chọn “vô thần”, còn 7% chọn “hữu thần”. Viết như trên không có nghĩa là tất cả 7% người dân Việt theo Công giáo đều là những người bán nước, phản bội quốc gia. Phần lớn họ là nạn nhân của một nền thần học ru ngủ xảo quyệt, không đủ trí tuệ để nhận ra bộ mặt thật của tôn giáo họ, ham hố một sự “cứu rỗi” không tưởng, tin theo luận điệu bịp bợm của giáo hội như giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, “Cha cũng như Chúa” có quyền tha tội hay cầm giữ tội của họ v..v.., cho nên đã nhắm mắt theo lệnh của những linh mục đầy tớ của Vatican mà không ý thức được những hành động phản quốc của mình. Họ đáng thương hơn là đáng trách. Nhưng chính điều này đã chứng tỏ rằng “hữu thần” hoàn toàn không có gì có thể gọi là đạo đức hơn hay tốt đẹp hơn “vô thần” nếu không muốn nói là còn kém xa.

Sau đây là vài đoạn của James A. Haught trong cuốn “2000 Years of Disbelief: Famous people with the Courage to Doubt”, trang 11-14, về lịch trình phát triển “vô thần” ở Tây phương:

“Những người thông minh, có học thức, thường không tin là có đấng siêu nhiên. Cho nên chẳng lấy gì làm ngạc nhiên nếu chúng ta thấy một tỷ lệ cao những người nghi ngờ tôn giáo (tây phương) trong số những tư tưởng gia, khoa học gia, văn gia, những nhà cải cách, học giả, tiền phong trong dân chủ, và những nhà thay đổi thế giới – những người thường được gọi là danh nhân.

Sự tiến triển của nền văn minh Tây phương đã là một phần của câu chuyện chiến thắng từ từ trên tôn giáo đàn áp (Ki Tô giáo). Sự nổi giậy của thuyết nhân bản đã chuyển trọng tâm của xã hội ra khỏi sự tuân phục các giám mục và vua chúa để đi tới những quyền của cá nhân và điều kiện sinh sống của con người. Phần lớn sự tiến bộ này đã được thúc đẩy bởi những con người, nam cũng như nữ, không cầu nguyện (Thiên chúa), không quỳ trước bàn thờ (trong những nhà thờ), không đi hành hương (các thánh địa của Ki Tô Giáo), không đọc những Kinh Tin Kính.

Nền văn hóa Tây phương đã đi theo một hành trình thất thường. Hi Lạp và La Mã cổ xưa đã đồng hành với sự tìm hiểu trí thức giữa quan niệm tôn giáo đa thần. Thế rồi Thời Đại Đức Tin của Ki Tô Giáo đã mang lại sự tối tăm trong nhiều thế kỷ. Thời đại Phục Sinh đã làm sống lại chủ thuyết cá nhân và quyền suy tư tự do, bay bổng lên trong Thời Đại Lý Trí và Thời Đại Khai Sáng. Với sự nở rộ của khoa học trong thế kỷ 19, nhiều tư tưởng gia đã cho rằng tôn giáo huyền bí (tức Ki Tô Giáo) sẽ phải tan biến, và đại để thì điều này đã xảy ra trong giới trí thức.

Dần dần, lối suy nghĩ khoa học tiến triển, và tôn giáo thoái lui, quyền tự do không tin đã nhô lên ở Tây phương..

Cuối cùng, quyền không tin đã được thiết lập. Tự do suy tư nở rộ trong giới trí thức Âu Châu và Mỹ, đạt tới thời vàng son vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Những người không tin như Robert Ingersoll đã thực hiện những chuyến du thuyết thách đố chủ thuyết siêu nhiên (Ki Tô Giáo). Những nhà báo như H. L. Mencken công khai tấn công “sự mê tín” (của Ki Tô Giáo).

Thật là một điều mâu thuẫn lạ lùng: một phần đáng kể dân chúng khắp thế giới vẫn còn thờ phụng những thiên chúa không ai nhìn thấy, đôi khi còn giết người cho những thiên chúa này – trong khi hầu hết những tư tưởng gia, khoa học gia, văn gia, và những giới trí thức khác, thường là đã loại bỏ đấng siêu nhiên.

Đối với bất cứ ai duyệt qua quá khứ và quan sát thế giới ngày nay, hầu như không thể nào tìm ra được một người có tiếng tăm – ngoại trừ đối với các giáo hoàng, tổng giám mục, vua chúa và các nhà cầm quyền đi kiếm hậu thuẫn của quần chúng - lại có thể nói rằng mục đích của đời sống con người là được “cứu rỗi” bởi một Giê-su vô hình và lên một thiên đường vô hình. Nhưng thật là dễ dàng tìm được rất nhiều người không tin cái tín lý căn bản này trong số những danh nhân.”

(Intelligent, educated people tend to doubt the supernatural. So it is hardly surprising to find a high ratio of religious skeptics among major thinkers, scientists, writers, reformers, scholars, champions of democracy, and other world changers – people usually called great.

The advance of Western civilization has been partly a story of gradual victory over oppressive religion. The rise of humanism slowly shifted society’s focus away from obedience to bishops and kings, onto individual rights and improved living conditions. Much of the progress was impelled by men and women who didn’t pray (to God), didn’t kneel at altars (in churches), didn’t make pilgrimages (to holy places), didn’t recite creeds.

Western culture has traveled an erratic journey. Ancient Greece and Rome teamed with intellectual inquiry, amid polytheism. Then the Christian Age of Faith brought darkness for centuries. The Renaissance revived individualism and free thingking, which soared in the Age of Reason and the Enlightenment. With the flowering of science in the nineteenth century, many thinkers assumed that mystical religion would vanish. Among intellectuals, it largely has done so..

Slowly, as scientific thinking grew and religion retreated, freedom of doubt emerged in the West..

Eventually, the right to disbelieve was established. Freethought blossomed among intellectuals in Europe and America, reaching a heyday at the end of the nineteenth century and the beginning of the twentieth. Doubters such as Robert Ingersoll conducted speaking tours to challenge supernaturalism. Newspaper writer such as H. L. Mencken openly assailed “superstition”...

It is a strange contradiction: A good part of people around the globe still still worship unseen gods, and sometimes even kill for them – yet most Western thinkers, scientists, witers, and other intellectuals generally reject the supernatural.

For anyone scanning the past and surveying the current world scene, it is nearly impossible to find any oustanding person – except for popes, archbishops, kings and other rulers seeking popular support – who says the purpose of life is to be saved by an invisible Jesus and to enter an invisible heaven. But ist is easy to find many among the great who doubt this basic dogma...)

Đúng vậy, Phật Giáo là đạo của trí tuệ nên không mê tín đến độ có thể tin vào một Thiên Chúa sáng tạo ra muôn loài. Đức Phật đã khẳng định như vậy. Do đó Phật Giáo cũng vô thần. Phật Giáo rất hãnh diện là một tôn giáo vô thần, vì vô thần phản ánh sự sáng suốt của trí tuệ. Những người ngày nay còn tiếp tục dùng từ “vô thần” để ám chỉ một điều xấu chỉ chứng tỏ một tâm cảnh cuồng tín của Ki Tô Giáo đã lỗi thời. Ngoài ra nó còn chứng tỏ một trình độ hiểu biết thấp kém, vì đối với các giới trí thức trong những xã hội tân tiến Âu Mỹ, “Vô Thần” là một biểu hiện của tự hào, của danh dự (A badge of honor). James A. Haught đã coi những người vô thần như thuộc đoàn thể của những vĩ nhân. (They are in the company of giants). Nhưng ai là những vĩ nhân? Ngoài một số danh nhân thế giới tôi đã nêu tên trong một phần trên, chúng ta còn phải kể 6 vị Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ và vô số những khoa học gia cùng các trí thức trong mọi ngành. Sau đây, để kết luận, tôi xin liệt kê tên của một số nhỏ những nhân vật có tên tuổi trên thế giới mà tôi cho là quen thuộc nhất đối với chúng ta, trong số 600 nhân vật (lẽ dĩ nhiên vẫn chưa đầy đủ) trong cuốn 2000 Years of Disbelief: Famous People With The Courage To Doubt của James A. Haught, Prometheus Books, 1996, những nhân vật có thể xếp vào trong đoàn thể của những người “vô thần”, theo thứ tự A, B, C:



Lord Acton, John Adams, Ethan Allen, Steve Allen, Aristotle, Isaac Asimov, Sir Francis Bacon, Honoré de Balzac, Charles Baudelaire, Simone de Beauvoir, Ludwig van Beethoven, Hector Berlioz, Georges Bizet, Charles Bradlaugh, Johannes Brahms, Benjamin Britten, Giordano Bruno, Pearl Buck, Albert Camus, Andrew Carnegie, Marcus Tullius Cicero, Auguste Comte, Confucius, Nicolaus Copernicus, Clarence Darrow, Charles Darwin, Claude Debussy, Daniel Defoe, Demosthenes , Charles Dickens, Denis Diderot, Diogenes, Alexandre Dumas , Will Durant, Thomas Eddison, Albert Einstein, George Eliot, Albert Ellis, Empedocles, Euripides, William Faulkner, Richard P. Feynman, Gustave Flaubert, Antony Flew, George William Foote, Anatole France, Benjamin Franklin, Sigmund Freud, Galileli Galileo, Indira Gandhi, Mohandas Gandhi, Giuseppe Garibaldi, Edward Gibbon, André Gide, Johann Wolfang von Geothe, Thomas Hardy, Stephen Hawking, Joseph Haydn, George W. F. Hegel, Martin Heidegger, Fred Hoyle, Victor Hugo, David Hume, Aldous Huxley, Robert G. Ingersoll, Thomas Jefferson, James Joyce, Franz Kafka, Immanuel Kant, Johannes Kepler, Jean de la Bruyère, Pierre Simon de Laplace, William E. H. Lecky, Abraham Lincoln, John Locke, James Madison, Karl Marx, Jules Massenet, Somerset Maugham, Guy de Maupassant, Henry Louis Mencken, Michel de Montaigne, Baron de Montesquieu, Wolfang Amadeus Mozart, Jawaharlal Nehru, Friedrich Nietzsche, Madalyn Murray O’Hair, Thomas Paine, Blaise Pascal, Pablo Picasso, Max Planck, Marcel Proust, Jules Renard, Eleanor Roosevelt, Theodore Roosevelt, Jean-Jacques Rousseau, Carl Sagan, George Sand, George Santayana, Jean Paul Sartre, Arthur Schlesinger, William Shakespeare, Adam Smith, Socrates, Baruch Spinoza, Richard Strauss, Leo Tolstoy, Mark Twain, Voltaire, George Washington, Daniel Webster, H. G. Wells, Zeno, Émile Zola.

Thế nào là VÌ DÂN VIỆT?



Thế nào là VÌ DÂN VIỆT
Vì Dân Việt đương nhiên vì tất cả những gì thuộc về Dân Việt.
1). Thuộc về Dân Việt gồm có : Đồng Bào Việt, Quốc Gia Việt, Tổ Quốc Việt, Dân Tộc Việt, Văn Hóa Việt, v.v…
2). Trong số những thành phần thuộc về Dân Việt trên đây, quan trọng nhất là Đồng Bào Việt. Bởi vì, Đồng Bào thì cụ thể trước mắt, nhìn thấy được và dễ hiểu; trong khi Tổ Quốc, Dân Tộc, Quốc Gia thì mơ hồ, trừu tượng, khó hình dung.

Vì Đồng Bào Việt trong hiện tại thì cũng chính là vì Đồng Bào Việt trong tương lai, tức nhiên là vì Dân Tộc Việt, kéo theo đó là vì Quốc Gia Việt và vì Tổ Quốc Việt.

Bởi vậy, VÌ ĐỒNG BÀO VIỆT là cụ thể, là thực tế, là dễ hiểu nhất và là bao trùm tất cả những thành phần mơ hồ trừu tượng khác của VÌ DÂN VIỆT như là Vì Dân Tộc Việt, Vì Văn Hóa Việt, Vì Quốc Gia Việt, Vì Tổ Quốc Việt, v.v…

Nói rằng, Vì Đồng Bào Việt là cụ thể, là thực tế và là dễ hiểu nhất của phạm trù Vì Dân Việt, nhưng thực tế không phải là dễ hiểu đối với trình độ dân trí Việt hiện nay. Thực vậy, ngay cả những khoa bảng Việt cao nhất như Tiến Sĩ, Luật Sư, Bác Sĩ, … cũng không thể hiểu được đầy đủ thế nào là Vì Dân Việt ! Thí dụ :

* Có nhiều Tiến Sĩ, Luật Sư, Bác Sĩ, ... nói rằng Vì Dân Việt nhưng lại lập luận hay a-dua để triệt hạ kinh tế VN, không gởi tiền về VN, không dùng hàng hóa và dịch vụ VN, v.v…! Há quý vị khoa bảng này lại ngớ ngẩn đến độ không biết rằng làm như thế là gây khó khăn cho đời sống Đồng Bào Việt, là thiệt hại cho tương lai của Đồng Bào Việt, kéo theo đó là gây hại cho Dân Tộc Việt, là gây hại cho Tổ Quốc Việt ?

* Không hề biết cách giải quyết bế tắc “Các đảng phái trong các nước nghèo như VN sẽ bị các thế lực ngoại bang mua chuộc để trở thành tay sai, rồi bán nước và kết cục là mất nước”, nhưng nhiều khoa bảng VN ở cấp cao như Tiến Sĩ, Luật Sư, Bác Sĩ, … cũng vẫn cứ kêu gào “Phải Dân Chủ hóa bằng đa đảng”

Các thí dụ trên cho thấy : Khoa bảng VN bằng cấp cao không có nghĩa là thuộc về thành phần dân trí cao, thậm chí nhiều khi ngược lại. Cho nên, thực tế cho thấy không nên tin cậy nhiều ở lý lẽ của khoa bảng VN, nhưng vấn đề chính cùa VN hiện nay phải là : Nâng cao TRÌNH ĐỘ DÂN TRÍ VN

Hi vọng, mọi thành viên của diễn đàn mang tiếng là VÌ DÂN VIỆT hiểu được rõ THẾ NÀO LÀ VÌ DÂN VIỆT và giải pháp nào nâng cao TRÌNH ĐỘ DÂN TRÍ VN hầu tránh những bế tắc hay mâu thuẫn gây nguy hại cho Đồng Bào Việt.

Khách Quan.





Chống Cộng Cuối Mùa





Ở Mỹ hầu hết chúng ta, kẻ cả truyền thông, đều gặp nạn chống Cộng cuối mùa. Nếu chỉ có tuyên ngôn tuyên cáo, truyền đơn, ký tên chống tòa lãnh sự vv .... chúng ta đều tự vỗ về cách rất tội nghiệp,

Thôi chống Cộng cúôi mùa kiếm quảng cáo chẳng qua là "miếng cơm đau khổ" còn thì tất cả đều đánh võ mồm. Không ai nghe ai, không ai chịu ai, không ai bảo ai được. Từ báo giấy đến báo mạng đều một ruột như nhau, miễn sao có chống Cộng vung xích chó là được rồi.

Câu nói vang lừng của Chu Tất Tiến từ lâu nhưng chẳng qua chỉ là gà trống gáty "Theo CS để giữa đạo, diệt CS để cứu đạo" thật là một câu nói khíếp đảm quá. Như thế bọn chống gậy nấp bóng chống Cộng sẽ về cầm quyến đến đít rồi. CS sẽ không biết chạy đâu , chắc lại phải mua bến, mua thuyền của những tổ chức vượt bỉên qúa. Mong họ ra đi an tòan, như chúng ta đã ra đi.Mai này chỉ còn "lái báo", cộng đồng hải ngọai sẽ đấu tố nhau, sẽ chụp mũ nhau, Lịch sử cứ quay đi quay lại hòai. Nên đón tiếp CS vượt biên như Mỹ đã đón tíếp chúng ta.

Còn việc giáo hội La Mã xưng tụng CSVN là sách lược đãi môi ngọai giáo thôi, nhằm xin một chổ ở cố định cho khâm sứ, chứ để khâm sứ lưu động (homeless) , mất mặt bầu cua cá cọp quá!
caohuutam1939@gmail

Những điều lạ trên thế giới - tệ nạn xã hội



Tệ nạn xã hội gồm đủ mọi giai tầng ở trong nước như thế n(xin xem gần cuối chuỗi điện thư!)?

Nếu có ai tài ba lỗi lạc, đạo đức đầy mình, kinh luân quán thế v.v... thì hãy nên viết cẩm nang mô tả, đề nghị những biện pháp khả thi, và về Việt Nam lãnh đạo, hầu sẽ đưa đất nước đến bến bờ phồn vinh thịnh vượng, không có các tệ nạn xã hội nữa, và chống giặc Tàu cho chúng què giò hết luôn.

CSVN mà ngăn chận một người có tài đầy hứa hẹn và lý tưởng như trên thì là ngu.

Bằng như chỉ có viết chê, chửi thì là nói phét.

Mượn xã hội CSVN để vòng vo đá giò lái:

"51.- Vào chùa giàu , lạy sư quốc doanh tại điện , nhưng phòng riêng sư quốc doanh toàn phim chéo , phim tục." ?

Những tệ nạn ma cô buôn thần bán thánh, và gian dâm, đồi trụy, hãm hiếp trẻ vị thành niên tràn lan trong nhiều quốc gia? Tại hải ngoại, hãy hỏi Vatican! Hỏi Ủy hội Nhân quyền Liên Hiệp quốc! Hỏi những ông "sứ thần" của thành Rom chết vì bệnh liệt kháng "cao gấp 4 lần những người thường"!

Giết người hàng loạt, xả súng vào thầy giáo, vào bạn học thì không đâu khủng khiếp cho bằng tại Hoa Kỳ là nước siêu cường giàu có. Hiếp dâm rồi giết chết hàng chục, hàng trăm phụ nữ trước khi sa lưới pháp luật thì cũng lại là xứ sở Hoa Kỳ. Cuồng tín tôn giáo như Cổng Thiên Đàng giết tập thể hàng chục, hàng trăm mạng người tại Hoa Kỳ? Cuồng tín tôn giáo không cho tiếp máu trong lúc giải phẩu, để cô Phạm Thị Bích Phượng bị chết oan tại Mỹ là "quy luật" vô lương tâm! Quyền "tự do tín ngưỡng" như thế là man rợ! Và v.v... Tuy nhiên cái đó, con người không thể đổ vấy cho một xã hội không còn có ai là lương thiện!

Ngay cả trước năm 1975, tại Nam Việt Nam, những tên giang hồ du đãng khét tiếng như Mã Thầu Dậu, Tín Mã Nàm, Điền Khắc Kim,... thì chúng ta cũng không thể đổ thừa hoàn toàn cho VNCH:

Mã Thầu Dậu:
http://www.nguoiduatin.vn/giang-ho-sai-gon-truoc-1975-trum-du-dang-ma-thau-dau-a56823.html

Tín Mã Nàm:
http://www.nguoiduatin.vn/tin-ma-nam-noi-kinh-hoang-o-cho-lon-a57000.html

Điền Khắc Kim: http://ngoisao.net/tin-tuc/thoi-cuoc/hinh-su/truyen-ky-ve-tuong-cuop-da-tinh-lung-lay-dat-sai-gon-2863660.html

Và,

Năm Cam sau năm 1975:
http://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_%C3%A1n_N%C4%83m_Cam_v%C3%A0_%C4%91%E1%BB%93ng_ph%E1%BA%A1m

mà luật pháp không nghiền nát thì ai mà chịu cho nổi?

Không cần phải đợi xứ nghèo vì quá khứ bị chiến tranh tàn phá khốc liệt, ngay tại hải ngoại này đây cũng có những sự việc rất đáng lên án:
- Police chận xe thổi rượu bị tài xế giang hồ đưa súng bắn vào đầu nhân viên công lực đó;
- tài xế lưu manh đổ xăng rồi cho xe dzọt, không chịu trả tiền;
- mẹ nhốt con trẻ vào xe, khóa cửa, cho xe lao xuống biển;
- cha chở con dừng lại trên cầu,
- xách hai chân đứa trẻ thả rớt xuống sông sâu, vì ghen vợ ly dị và có bạn trai mới;
Tại hải ngoại, "bác sĩ tử thần...", bác sĩ "dê" bậy bạ cũng đều có đủ v.v...

Cho nên, nếu đảo một vòng rồi quay đá giò lái vào PG như "quốc doanh", "phim chéo", phim tục" là trò hề lố bịch!

Đây, không đâu cho bằng cái ổ, không những dâm dục mà còn là loạn luân này:

- Dâm loàn & loạn luân:
http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_07a.php
- Mua quyền bán chức, xâu xé quyền lực và dâm đãng, loạn luân:

http://www.sachhiem.net/index.php?content=showemail&id=507

- V.v...

Trần Quang Diệu
- Phim Tài Liệu Lịch Sử : Tội Phản Bội Từ Vatican

________________________
Date: Tue, 21 Jan 2014 20:12:46 -0800
From: govap69@yahoo.com
Subject: Re: Kính chuyển...!FW: [DiendanDanToc] FW: Abridged summary of vietquocdao@googlegroups.com - 1 Message in 1 Topic

Việt Nam có những điều lạ trên thế giới :

1.- Hể nhà bị cháy là rụi ( vì xe cứu hỏa hết nước hay hết xăng giữa đường )
2.- Khi xe máy đụng nhau , là rút dao đâm nhau đến chết .
3.- Khi cầm “ alo “ ra ngoài đường là bị giật .
4.- Khi đi xe taxi là bị cướp
5.- Khi bị Công an bắt vào đồn , là bị treo cổ tự vận
6.- Khi được Công an thả ra , về nhà là bị bể gan chết
7.- Khi điều tra hình sự , thì tên tội phạm chánh trốn mất từ lâu
8.- Khi ngũ hotel , sáng thức dậy chỉ còn cái quần lót về nhà.
9.- Khi đi nhậu , trước sau cũng dính rượu độc .
10.- Chậm trả nợ là bị tạt a xít .
11.- Khi cho mượn tiền , thì luôn luôn bị giật .
12.- Khi để xe máy đi tiểu dưới gốc me là bị mất.
13.- Khi bị triều cường ngập nhà , là tủ lạnh bị hư
14.- Đỗ xăng ngoài đường , thường bị cháy rụi xe
15.- Khi ăn rau xanh thì dính giun sán 100 %
16.- Khi uống cà phê , thì là bắp rang khét
17.- Khi đi xem xi nê thì dính kim Sida vào mông
18.- Khi nuôi chó , trước sau gì cũng bị bắt làm thịt
19.- Khi mướn ô sin , trước sau gì cũng bị trói gô , tủ sắt cạy mất tiền .
20.- Khi chơi hụi , trước sau cũng bị vỡ hụi.
21.- Lảnh nhiều tiền ở ngân hàng , trước sau gì cũng bị thiếu .
22.- Khi đi xe đò , trước sau gì cũng bị lọt xuống khe núi
23.- Khi xe tàu cao tốc, trước sau gì tàu cũng bị cháy rụi , phao cứu hộ không xài được
24.- Khi đi phi cơ tại Việt Nam , trước sau gì cũng bị mất đồ .
25.- Khi đi tour du lịch , trước sau gì cũng bị bõ nữa chừng .
26.- Lấy vợ tại Việt Nam , trước sau gì cũng bị ly dị.
27.- Khi chống Tàu Cộng , trước sau gì cũng bị Công an Việt đập bể đầu .
28.- Khi chống tham nhũng , trước sau gì cũng bị tội phản quốc.
29.- Khi nằm bệnh viện khẩn cấp , nếu không đủ tiền chung cho cò , trước sau gì cũng bị
nằm ngoài hành lang .
30.- Khi khám bệnh thường niên , trước sau gì cũng bị ghi bệnh nặng cần mỗ gấp.
31.- Khi bác sỉ cho toa , nếu không có tiền cò , trước sau gì cũng hết thuốc.
32.- Khi ăn thịt cá, khen ngon , trước sau gì cũng biết thịt cá đều bị sình thối từ lâu.
33.- Khi lấy tiền tứ máy ATM , trước sau gì máy cũng báo hư , hết tiền .
34.- Khi thưa kiện một ai , Tòa cũng đều nói nhân chứng và vật chứng chưa đũ kết tội .
35.- Căn nhà đẹp , ai cũng khen , trước sau gì cũng bị quy hoạch , nhà nước mua rẽ.
36.- Ăn trái cây khen ngon , trước sau gì cũng biết cây trái tẩm hóa chất chế người.
37.- Việt Nam có rất nhiều luật hơn rừng, khi xử đều dùng luật rừng .
38.- Lái xe máy ra ngoài đường , trước sau gì cũng bị Cảnh sát Giao thông gọi phạt.
39-. Lái xe máy ra đường cao tốc , trước sau gì cũng bị xe vận tải ép chết .
40.- Giấy tờ mang theo , nếu bị chận xét , nếu không có tiền cò , trước sau gì cũng bị ghi
là giã.
41.- Nhà ở trên lầu , nếu có mưa trước sau gì cũng bị điện cao thế giật chết .
42.- Nấu cơm bằng lò gas , trước sau gì cũng bị nổ lò ga.
43.- Uống nước lọc tinh khiết, trước sau gì cũng biết nước ấy từ vòi công cộng mà ra.
44.- Nhai khô mực , trước sau gì cũng biết khô mực ấy từ nhựa dẽo mà ra.
45.- Khoái dê gái tơ , trước sau gì cũng dính Sida.
46.- Ngũ hotel lầu cao , trước sau gì cũng chết vì bị liệng xuống đất.
47.- Bỏ tiền xây dựng nhà máy , trước sau gì cũng bị đình công , công nhân đốt nhà máy
trả thù.
48.- Tiêm ngừa cho trẻ em , trước sau gì thuốc tiêm ngừa quá hạn , chết ngắc.
49.- Đi sửa sắc đẹp , trước sau gì cũng bị liệng xuống sông mất tích .
50.- Đi viếng chùa cổ , đồ cổ thấy rất mới cái gì cũng Made in China .
51.- Vào chùa giàu , lạy sư quốc doanh tại điện , nhưng phòng riêng sư quốc doanh toàn
phim chéo , phim tục.
52.- Nhà ở cao ốc , tầng lầu cao , mọi người trong nhà phải biết nhảy dù , vì thang xe cứu hỏa chỉ lên đến lầu một là hết thang.
53.- Nhà nước nói có , toàn dân đều hiểu là không .
54.- Toàn dân nói nhóm ở cấp trên tham ô , tham nhũng , thì nhà nước nói là nhóm tư lợi 55.- Tổng bí thư VN nói : “ Muốn kinh tế VN tiến nhanh , thì phải từ từ “.
56.- Ghe đánh cá ra khơi , trước sau gì cũng bị tàu lạ đụng . Nếu nói là tàu Trung Cộng thì bị Công an bắt bỏ tù vì nói xấu nước bạn không có nhân chứng , vật chứng .




Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ và quan hệ CIA-quân đội Mỹ



 VOV.VN xin giới thiệu phần lược dịch bài viết của trung tá John D. Johnson, sĩ quan lục quân Mỹ biệt phái sang Văn phòng Quân vụ của CIA. Ông Johnson từng phục vụ ở Afghanistan, Iraq, Hàn Quốc và Đức cũng như ở Mỹ.

Kể từ khi Tổng thống Mỹ Harry S. Truman tạo ra Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) bằng việc ký Đạo luật An ninh Quốc gia vào năm 1947, cơ quan này và Bộ Quốc phòng Mỹ đã hợp tác với nhau để đạt mục tiêu chung là bảo vệ an ninh quốc gia Mỹ.

Trong các năm qua, kết quả của sự hợp tác giữa CIA và Bộ Quốc phòng Mỹ có lúc hiệu quả có lúc không. Thi thoảng, quan hệ giữa đôi bên rất tích cực, nhưng lại có những lúc văn hóa của hai cơ quan này xung khắc với nhau và sĩ quan của hai tổ chức vẫn tìm cách dè phòng nhau.


Biểu tượng của CIA trên nền sảnh bên trong trụ sở CIA (ảnh: opednews) Tuy nhiên, sau cuộc chiến tranh Vùng Vịnh và đặc biệt sau sự kiện 11/9, hợp tác cũng như sự hiểu biết lẫn nhau giữa CIA và Bộ Quốc phòng Mỹ đã gia tăng ở nhiều nơi xảy ra xung đột, từ chiến tranh chính quy và nổi dậy ở Iraq và Afghanistan cho tới chiến tranh phi quy ước chống lại nạn khủng bố liên quốc gia. Điều này đặc biệt đúng với mối quan hệ giữa CIA và các lực lượng đặc nhiệm của quân đội Mỹ.

Cuộc đột kích thành công vào khu nhà ở phức hợp của Osama bin Laden ở Abbottabad, Pakistan vào tháng 5/2011 có lẽ là ví dụ rõ ràng nhất hiện nay về hợp tác CIA-Bộ Quốc phòng. Cuộc đột kích đó cũng chỉ rõ bản chất bổ sung lẫn nhau giữa hai tổ chức này, mỗi bên có ưu thế riêng.

CIA và quân đội Mỹ cần hợp tác với nhau kể cả sau khi Mỹ rút dần quân khỏi Afghanistan, và trong cuộc chiến chống lại các mối đe dọa không quy ước ở các khu vực như là Nam Á, Bắc Phi và Trung Đông. Theo các chuyên gia, điều quan trọng là quân đội hiểu được các sứ mệnh, cơ cấu tổ chức, và các năng lực của CIA, cũng như sự khác biệt giữa CIA và quân đội Mỹ.

1. Sứ mệnh của CIA

CIA là một cơ quan chính phủ độc lập chịu trách nhiệm về cung cấp thông tin tình báo an ninh quốc gia cho các nhà hoạch định chính sách cao cấp. Đạo luật An ninh Quốc gia 1947 thiết lập hành lang pháp lý cho cơ quan này tiến hành 3 hoạt động chính sau: Thu thập thông tin tình báo hải ngoại; phân tích tình báo; và thực hiện các chức năng nhiệm vụ khác theo chỉ đạo của tổng thống Mỹ, “ở những chỗ mà vai trò của chính phủ Mỹ sẽ không rõ ràng hoặc không công khai thừa nhận”, nói cách khác là hoạt động mật.

>> Xem thêm: Mỹ và cơn ám ảnh tình báo

2. Tổ chức

Để hoàn thành sứ mệnh của mình, CIA được chia làm 4 thành tố: Cục Hoạt động Ngầm (NCS) – cục này vẫn có tên Cục Tác chiến cho đến năm 2005; Cục Tình báo (DI); Cục Khoa học và Công nghệ (DS&T); và Cục Hậu cần (DS). Mỗi cục có vô số những đơn vị nhỏ hơn nữa ở cả tổng hành dinh CIA và ngoài thực địa. Ngoài ra còn có bộ phận tham mưu gồm các phòng chuyên môn phụ trách vấn đề công, vấn đề quốc hội, và vấn đề quân sự.

Sứ mệnh của NCS là tăng cường an ninh quốc gia và các mục tiêu đối ngoại thông qua hoạt động thu thập tình báo bằng con người và các hành động ngầm. NCS bao gồm chủ yếu là các sĩ quan thực địa có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo nước ngoài, qua việc thu nạp các đầu mối được tiếp cận với các thông tin tình báo có giá trị. Các sĩ quan NCS có lẽ là nhóm mà mọi người hay nghĩ tới nhất khi liên tưởng đến CIA: một nhân vật kiểu James Bond.

Trong khi đó DI bao gồm các sĩ quan phân tích thông tin tình báo thu thập từ vô số nguồn, như là các báo cáo tình báo do bên NCS cung cấp, tình báo tín hiệu, tình báo hình ảnh (vệ tinh), tình báo quân sự, tình báo thu thập từ nguồn mở… Kết quả của việc thu thập và phân tích này là các báo cáo tình báo thành phẩm dành cho tổng thống, thành viên nội các, và các vị lãnh đạo quyết định chính sách an ninh quốc gia.

Cục DS&T gồm các sĩ quan chuyên tạo ra, chỉnh đổi, phát triển và vận hành các hệ thống thu thập kỹ thuật, đồng thời áp dụng công nghệ vào việc thu thập, phân tích, và xử lý thông tin. Họ phát triển các công cụ và công nghệ cần thiết để thu thập thông tin tình báo nước ngoài và hỗ trợ các hoạt động CIA trên “chiến trường”. Một ví dụ tiêu biểu về công nghệ ở đây là chiếc kẹp cà vạt đóng vai trò của một máy ghi hình thu nhỏ.


 
CIA có công lớn trong việc tạo cớ để quân đội tiến đánh và xâm lược Iraq vào năm 2003 (ảnh: AP) Cuối cùng, các sĩ quan DS sẽ cung cấp mọi thứ mà CIA cần để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Các sĩ quan hậu cần thường là các nhân viên đầu tiên được gửi tới các khu vực hoạt động khó khăn và chịu trách nhiệm thiết lập các chức năng hỗ trợ chính như là liên lạc, chuỗi cung ứng, các thiết bị, các dịch vụ tài chính và y tế.

3. Cục và trung tâm

Ngoài 4 cục nói trên, CIA còn quản lý vài trung tâm chức năng mà bên quân đội thường xuyên tương tác. Những trung tâm này bao gồm Trung tâm Chống khủng bố, Trung tâm Tác chiến Thông tin, Trung tâm Chống Phổ biến vũ khí giết người hàng loạt, Trung tâm Tội phạm và Ma túy, Trung tâm Nguồn mở, Trung tâm Hoạt động Đặc biệt, và Trung tâm Phản gián.

Khác biệt chính giữa các cục và trung tâm của CIA nằm ở chỗ các trung tâm kết nối người của các cục, và bao gồm cả nhân viên đến từ các cơ quan tình báo khác, như là Cơ quan An ninh Quốc gia, Cơ quan Tình báo Địa không gian Quốc gia và Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI).

4. Các khách hàng và sản phẩm của CIA

Trong khi quân đội tìm kiếm các nguồn tin tình báo con người ở cấp độ chiến thuật và chiến dịch để đáp ứng các đòi hỏi tình báo ưu tiên của sĩ quan chỉ huy, thì CIA trong phần đa công việc của mình lại tập trung vào các nguồn tin tình báo con người ở cấp độ chiến lược. Tất nhiên các thông tin tình báo của NCS được cung cấp cho bên quân đội qua hình thức phân phối điện tín mật.

Tương tự, DI hướng các hoạt động phân tích tình báo nguồn mở của mình vào các vấn đề mà tổng thống và các quan chức cao cấp của Mỹ quan tâm. Cục DI đóng góp vào sản phẩm tình báo chất lượng cao của cộng đồng tình báo - đó là bản thông báo hàng ngày dành cho tổng thống. Nhiều sản phẩm của DI cũng được cung cấp cho quân đội thông qua website mật của CIA – Tạp chí Tình báo Toàn cầu.

Các sản phẩm CIA khác không thuộc diện mật là World Fact Book thường niên; danh bạ trực tuyến được xuất bản đều đặn về các nguyên thủ và thành viên nội các các chính phủ nước ngoài; và các đoạn trích không thuộc diện mật lấy từ tạp chí Tình báo học – tạp chí chuyên ngành của CIA.

5. Hành động mật

Đạo luật An ninh Quốc gia 1947 cho phép CIA thực thi các chức năng và nhiệm vụ khác khi được tổng thống chỉ đạo như vậy (ví dụ các hoạt động ngầm).


CIA hỗ trợ cho các phiến quân ở Libya lật đổ ông Gaddafi (ảnh: BRQ network) Tổng thống chỉ đạo CIA hoặc các cơ quan chính phủ khác thực hiện các hoạt động ngầm thông qua một cơ chế có tên gọi là phát hiện của tổng thống.

>> Xem thêm: CIA đạo diễn cuộc đảo chính tại Iran

Hoạt động mật khác với các hoạt động khác của CIA và Bộ Quốc phòng Mỹ ở chỗ: sự dính líu của chính quyền Mỹ không được thừa nhận công khai trong một chiến dịch tình báo nào đó.

6. Bảo vệ nguồn tin và các phương pháp nghiệp vụ

Cũng như Bộ Quốc phòng và các cơ quan tình báo khác, CIA nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc bảo vệ các nguồn tin tình báo và phương pháp thu thập. Do đó nhiều tin tức tình báo nhạy cảm của CIA được phân loại cao độ, nên chỉ các cá nhân có nhu cầu và được đưa vào một chương trình nào đó thì mới được tiếp cận thông tin. Quân đội được đưa vào các chương trình của CIA khi thích hợp, nhưng thường thì, các sĩ quan CIA không được phép chia sẻ với bên quân đội thông tin về một chương trình CIA nào đó bởi vì chương trình này được bảo mật cao.

7. Trưởng trạm

Ngoài thực địa, CIA quản lý các hoạt động của mình thông qua một mạng lưới các trạm hải ngoại. Sĩ quan cao cấp của CIA tại mỗi trạm này gọi là trạm trưởng. Trạm trưởng đóng vai trò khá giống với một chỉ huy quân sự. Trạm trưởng giám sát các nỗ lực thu thập tình báo đối ngoại của trạm, liên lạc với các đối tác của cơ quan tình báo đối ngoại, và quản lý việc tránh xung khắc giữa các hoạt động mình với các hoạt động của các thể chế khác của chính phủ, bao gồm Bộ Quốc phòng Mỹ.

8. Cấp bậc và quan hệ

Trong khi hầu hết các sĩ quan CIA có nhận thức nhất định về cấp bậc trong quân đội thì bản thân CIA lại là một tổ chức ít chú ý đến cấp bậc hơn bên quân đội. Quân đội Mỹ đề cao cấu trúc tôn ti hơn, xưng hô theo họ và lon, trong khi đó bên CIA ít nặng về hình thức hơn, xưng hô chủ yếu theo tên riêng. Tuy nhiên, sự khác biệt còn bao gồm cả đồng phục, biệt ngữ, quy định về đầu tóc, tuổi tác, giáo dục, tỷ lệ giới, lương, ngân sách và số lượng nhân sự.

9. Lãnh đạo và quản lý

Một khác biệt văn hóa nữa giữa CIA và quân đội Mỹ là ý tưởng về lãnh đạo và quản lý. Quân đội Mỹ thiên về lãnh đạo, điều này thể hiện rõ trong chương trình đào tạo quân nhân chuyên nghiệp. Ngay từ đầu sự nghiệp của mình, các sĩ quan quân đội đã được phát triển theo hướng trở thành lãnh đạo. Quá trình huấn luyện lãnh đạo tiếp diễn trong suốt sự nghiệp của một sĩ quan.


 
CIA thường phối hợp hoạt động thực địa với lực lượng đặc nhiệm quân đội Mỹ, đặc biệt là lực lượng biệt kích SEAL tinh nhuệ của hải quân Mỹ (ảnh: britannica) Trái lại, CIA có nhiều tầng quản lý, từ cấp tổ, nhánh, nhóm và phân bộ cho tới cấp cục và cấp toàn cơ quan. Hơn nữa, CIA phát triển nhân viên của mình trước hết thành sĩ quan thực địa, sĩ quan tình báo kỹ thuật, và chuyên viên phân tích. Chỉ sau bước phát triển này, các sĩ quan CIA mới có cơ hội trở thành quản lý, tiêu biểu là ở cấp độ GS-13/15. Như vậy các sĩ quan CIA có định hướng trở thành các chuyên gia đối với các vấn đề cụ thể. Trong khi đó, các sĩ quan quân đội thiên về trở thành các “nhà khái quát”, hoán đổi vị trí giữa chỉ huy và tham mưu, và từ khu vực địa lý này sang khu vực khác.

10. Hoạt động quân sự của CIA

Có nhiều kênh để quân đội Mỹ tương tác với CIA và ngược lại. Tại trụ sở CIA, Văn phòng Quân vụ có nhiệm vụ điều phối, lên kế hoạch, thực thi và duy trì các hoạt động toàn cầu hỗ trợ cho sự hợp tác giữa CIA và Bộ Quốc phòng Mỹ dựa trên các ưu tiên do giám đốc CIA đặt ra nhằm đạt được các mục tiêu an ninh quốc gia.

Ngoài thực địa, bên cạnh các trạm tình báo đã nêu ở trên, CIA còn bố trí các đại diện của mình bên trong các cơ cấu chỉ huy tác chiến của Bộ Quốc phòng Mỹ và các cơ sở giáo dục quốc phòng. CIA cũng thi thoảng cấy các đội của mình vào các bộ chỉ huy quân sự để hỗ trợ sự điều phối chiến dịch giữa hai bên ngay tại chỗ, tránh các va chạm giữa đôi bên.

Thành công trong vụ đột kích tiêu diệt Osama bin Laden năm 2011 đại diện cho mặt hiệu quả cao trong quan hệ giữa CIA và Bộ Quốc phòng Mỹ.

Theo tác giả Johnson - sĩ quan quân đội Mỹ biệt phái sang Văn phòng Quân vụ của CIA, điều quan trọng là CIA và quân đội Mỹ phải hiểu nhau, tôn trọng các khác biệt về tổ chức và văn hóa để có thể bổ khuyết cho nhau nhằm đạt hiệu quả chung trong việc bảo vệ nước Mỹ./.

Xem thêm:

>> Tình báo Mỹ tạo cớ để phát động chiến tranh Iraq 2003

>> Chủ nghĩa can thiệp Mỹ

>> Hậu khủng bố 11/9, Mỹ tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa
 
Trung Hiếu/VOV.VN Lược dịch từ Armed Forces Journal

Lê Văn Lang tự trào

He he..Kể ra khuyển Lang con bỗng nhiên có hiếu với Ba. Ba đăng tấm hình nào có phải là Lê Nam Cảnh nhưng cũng nhờ con mà Ba có tấm hình Lê Nam Cảnh thật để khoe với bà con Làng G+. Xem ra lần này khuyển Lang con quyết chí cắn đứt dái thằng em Lê Nam cảnh. Cũng phải thôi bởi giờ con vốn đang đói, lại vừa tự hoạn nên làm sao con nhìn thằng em Lê Nam Cảnh tung tăng đào Môn Làng G+ chứ!








Lê Văn Lang




Lê Nam Cảnh



Lẳng lặng mà nghe Lang khuyển hô
Công tử rừng phong vốn Mẽo nô
Dân chủ giả cầy chuyên Bắt Cụ
Bám Váy đàn bà khéo liếm bô !

Lẳng lặng mà xem chó gâu gâu
Khuyển Lang nhăn dái Nam Cảnh nhàu
Môn lùi khoái khẩu cùng giao hảo
Lang hóa Chồn Lùi nên cắn nhau

Lẳng lặng mà nghe chó xướng danh
Khuyển Lang quân tử đặng hùng anh
Nhăn dái Nam Cảnh giành Trịnh thị
Ngậm máu phun người quyết chí tranh

Lẳng lặng mà xem Chó hăm he
Bắt Cụ Cộng Sản kết phái bè
Ngờ đâu chủ Mẽo buôn Vũ khí
Khuyển nô nanh gảy mõm máu me....

Ha ha....

Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

Không đề 129




Xuân này em có cùng tôi
Ngắm hoa mai trắng nở giữa lưng chừng
Tiếng chuông chùa đổ- chiều buông lửng thửng
Giấc yên bình đậu lại vành mi

Xuân này em nguyện điều chi
Có cùng tôi khấn lời cầu tự
Hoa mãng cầu thoảng hương tư lự
Mắt em cười ấm cả hoàng hôn

Xuân này em có đặt môi hôn
In cánh thiệp hồng mừng ngày hội tụ
Duyên trời phận đất ngàn thu
Kết đôi chắp cánh chu du xuân tình

Chân Tướng Trần Đĩnh Qua "Đèn Cù"


Kỳ 1: Phương Pháp “Làm Báo” Của Trần Đĩnh

Thiên Lý



Toàn Văn "Đèn Cù" Của Trần Đĩnh - đăng trên Google Tiên Lãng:



-- Phần 1-

-- Phần 2-

-- Phần 3-

-- Phần 4-

-- Phần 5-

-- Phần 6-

-- Phần 7-

-- Phần 8 và hết



Lần đầu, tôi đã đọc một mạch Đèn Cù qua bản PDF lưu hành miễn phí qua internet và đã thấy, thật sự Không cần thiết phải nhiều lời về "tác phẩm" này.

Tuy nhiên, sau khi đọc lần thứ hai qua 8 kỳ đăng tải trên trang Google.Tienlang, nhận thấy "tác phẩm Đèn Cù" của Trần Đĩnh, với bút pháp gian trá, hạ lưu, đê tiện, có thể gây tác hại, như một liều thuốc bả, đối với những bạn đọc vì lý do nào đó, chỉ đọc Đèn cù về mặt văn bản văn học mà không quan tâm, hoặc không nắm vững bối cảnh lịch sử của những câu chuyện rác rưởi mà Ngô Nhân Dụng tung hô là "thâm cung bí sử" trong Đèn cù.

Vì thế, đành mất thời gian vạch trần chân tướng "nhà báo", "nhà văn", và con người "phản chiến" Trần Đĩnh, thông qua chính một vài câu chuyện, sự kiện được Trần Đĩnh đề cập trong Đèn cù. Hy vọng, bài viết này sẽ như một liều thuốc giải hữu ích đối với những bạn đọc vừa đề cập ở trên.

Do bản Đèn cù do G.tienlang đăng tải không đánh số trang, nên các trích dẫn sẽ được ghi chú theo chương, hơi bất tiện cho bạn đọc khi đối chiếu, mong được sự thông cảm.

Kỳ 1: Phương pháp “làm báo” của Trần Đĩnh qua Đèn Cù
Tác giả tự nhận mình là nhà báo tài năng, viết có "thần", có "khí", đã từng viết hàng trăm bài báo, nhưng, trong Đèn Cù, thì Trần Đĩnh chỉ kể cụ thể về quá trình và "thủ pháp sáng tạo" đối với ba bài báo, một về bầu cử, một về tình quân dân và một về Cải cách ruộng đất.

Qua các chi tiết về ba bài báo này, ta có thể hiểu phương pháp “tác nghiệp” của “nhà báo” Trần Đĩnh như thế nào.

Ngay trong chương 1, tác giả kể lại về 2 bài báo mà mình đã viết, như sau:

Bài báo thứ nhất là bài thuật lại sự kiện cuộc bầu cử hội đồng nhân dân xã.

“Không biết bầu cử cụ thể nào, tôi bịa. Nhưng bài báo đặc biệt sinh động, chân thực. Có cả cô gái Tày reo a lúi! trên đầu đẳng nhà sàn. Với tôi lúc ấy a lúi (ớ kìa) là thán ngữ đáng yêu nhất. Ai nói a lúi đều là con gái mặt hoa da ngọc”.

Bài báo thứ hai mà Trần Đĩnh viết, là về tình quân dân.

“Lại tôi. Tôi dựng ra một vùng chiêm trũng giáp vùng địch bị lụt, mùa màng ngập trắng, lúa sắp mọc mầm. Thì bộ đội về. Kỳ tích xuất hiện. Trắng đồng, sạch đồn”.

Đến bài báo thứ ba, về đề tài Cải cách ruộng đất, được kể lại ở chương 5. Không dấu vẻ tự hào, hai lần Trần Đĩnh nhấn mạnh rằng bài báo này là phát pháo mở đầu cuộc cải cách ruộng đất và khai hỏa cải cách ruộng đất, thì:

“Để có phát pháo mở đầu cuộc cải cách ruộng đất, Trường Chinh chỉ thị báo Nhân Dân tường thuật vụ đấu Nguyễn Thị Năm – Cát Hanh Long. Tôi nhận nhiệm vụ. Trường Chinh nói phân công tôi vì cần một bài báo viết nổi bật lên khung cảnh sôi sục, sinh động của cuộc đấu tố để ca ngợi sức mạnh của bần cố nông được phát động, còn tội ác thì tôi cứ theo tài liệu, cáo trạng của đội. Tôi nói tôi không dự đấu tố thì anh bảo tôi khai thác Văn, người cấp dưỡng theo anh tới tận Đồng Bẩm và đã chứng kiến các buổi đấu tố. Sở dĩ báo chí không dự đấu là vì giữ bí mật, ngại Đồng Bẩm cách Hà Nội có vài chục cây số đường chim bay, Pháp có thể nhảy dù xuống đó. Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt.

Thế là tôi viết bài khai hỏa cải cách ruộng đất theo sự pha phách thêm nếm khó lòng tránh khỏi của người cấp dưỡng đáng yêu của tổng bí thư".

Những chữ in đậm, gạch dưới chính là thủ pháp viết báo "số dzach" của "nhà báo" Trần Đĩnh, như Trần Đĩnh tự thú.

Đi sâu hơn một chút, bạn đọc có thể thấy chỉ trong một đoạn văn ngắn nêu trên đã có một loạt những sự vô lý mà Trần Đĩnh “phịa” trắng trợn:

- Vì Đồng Bẩm gần Hà Nội nên sợ lộ bí mật, sợ Pháp nhảy dù. Nên Trần Đĩnh (báo chí) không dự các buổi đấu tố. Thế mà Trường Chinh vẫn bảo Đĩnh viết bài?

- Trong khi đó thì “cấp dưỡng Văn” lại đi dự và nhờ đó Trần Đĩnh mới “pha phách thêm nếm” để có bài báo “khai hỏa”? “Cấp dưỡng Văn” sao không lo việc “dưa muối tương cà” lại đi dự đấu tố?

- Đã sợ Pháp nhảy dù bắt cóc đến mức "báo chí” không dám đi dự thì sự kiện “Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt”, nếu có thật như Trần Đĩnh rêu rao, được giới "dư luận viên" chống Cộng coi là một phát hiện mới và tán thưởng ầm ĩ, thì sinh mệnh của linh hồn kháng chiến là các ông Chủ tịch nước và Tổng bí thư hẳn phải không quan trọng bằng an toàn của anh cu “nhà báo” Trần Đĩnh? (Viết đến đây, tôi bỗng liên hệ với một chi tiết trong "tác phẩm Trăn trối" và phát hiện ra, đối với lãnh tụ kháng chiến, thì sự nguy hiểm của cụ Thảo triết gia (cụ phải đứng cách xa lãnh tụ 3m) hóa ra còn cao hơn cả đại đội lính dù Pháp).

- Và, cuối cùng, nếu “báo chí không dự” thì ông nhà báo Tiêu Lang nào đó ở đâu ra kể lại tỉ mỷ vụ bắn, rồi mua quan tài, rồi mai táng địa chủ Năm một cách ghê rợn...cho tác giả, như Trần Đĩnh viết sau đó mấy trang?

Đến đây, tưởng cũng nên nhắc một chút, việc Trần Đĩnh ba xạo về chuyện bí danh, bút danh làm báo. Tất nhiên, khái niệm bí danh và bút danh là khác nhau, nhưng đối với một "nhà báo chuyên nghiệp" như Trần Đĩnh, thì đâu là ranh giới giữa bút danh và bí danh (?).

Chương 1, Trần Đĩnh khoe “chả hiểu sao tôi dứt khoát không bí bầu gì cho mình cái danh nào cả”

Thậm chí còn viết thư về khoe với mẹ, về việc không bí danh, đồng thời được ở bên cạnh các lãnh tụ cho nên bà cụ mới viết thư động viên “Mẹ rất yêu cái tên Trần Đĩnh cộc. Con được vinh dự ở bên các vì sao sáng, con phải chịu khó, ngoan, vâng lời...”

Chả biết “dứt khoát” được bao lâu, thế nhưng cũng chính “Trần Đĩnh cộc” cho biết, vì mê cô X, nên từng lấy bút danh Hoàng X để viết báo. Rồi ngay ở bài báo “Khai hỏa Cải cách ruộng đất” thì lại “bài báo này tôi ký một tên ú ớ không còn nhớ và sau đó cũng không mó đến nó bao giờ. Chẳng hiểu vì sao”.

Đấy là chưa nói đến việc viết thư về vùng địch khoe mình ở chung với các vì sao sáng (Chủ tịch nước, Tổng bí thư) cũng là một chuyện sẽ bị nghiêm cấm ở nơi gọi là An Toàn khu (ATK).

Như vậy, với cách làm báo "sáng tạo" như trên, có thể tạm kết luận:

Bịa, dựng, pha phách thêm nếm và cộng thêm phét lác, đó là phương pháp viết báo của Trần Đĩnh, không chỉ có từ thời "văn hào" còn ở ATK mà, rõ ràng, giờ đây, phương pháp này đã lại được tận dụng triệt để ngay trong "tác phẩm" Đèn Cù.

(còn tiếp)

@ Thiên Lý

Đã đăng ở

http://googletienlang2014.blogspot.com/2014/11/ky-1-chan-tuong-tran-inh-qua-en-cu.html



Phụ Lục

Phần Giới thiệu của Mõ Làng

Bóc Mẽ "Đèn Cù" Của Trần Đĩnh

Trần Đĩnh là ai?

Sinh năm 1930, Trần Đĩnh tham gia Việt Minh vào năm 1946 lúc mới 16 tuổi, gia nhập Đảng công sản VN năm 1948. Tháng 12 năm 1945 do hoàn cảnh lịch sử, cơ quan ngôn luận của nó rút vào hoạt động bí mật và cho ra đời và xuất bản tờ báo Sự Thật. Trong thời gian này Trần Đĩnh được điều về viết cho báo. Sau đó, ông được đưa qua học 5 năm tại đại học Bắc Kinh, từ 1955 cho tới 1959. Về nước ông làm ở báo Nhân Dân, tham gia nhóm“xét lại chống Đảng” nên bị xử lý vào năm 1967. Không bị bắt như anh ruột ông là Trần Châu cùng nhiều người khác, nhưng ông bị kiểm thảo và buộc phải đi làm công nhân đúc chữ một thời gian, sau đó được quay lại làm báo. Bước ngoặt đó đã làm ông thay đổi hẳn tư tưởng rồi tuyên bố tham gia tranh đấu cho dân chủ cùng một số nhân vật bị xử lý trong vụ“chống Đảng”. Năm 1976, Trần Đĩnh bị khai trừ khỏi Đảng cộng sản, ông tuyên bố mình là một người yêu chuộng tự do dân chủ, ủng hộ những người đang tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam như Thích Quảng Độ, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Đan Quế, Hà Sỹ Phu, Dương Thu Hương…

Trần Đĩnh, như trong tự truyện đã tự nhận mình là người chấp bút tiểu sử của Hồ Chí Minh, viết hồi ký cho nhiều cán bộ cấp cao như Trường Chinh, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh…mặc dù không có tài liệu kiểm chứng, hình như là tự đánh bóng.



Mới đây, bắt chước Huy Đức (chắc thấy Huy Đức kiếm bộn) ông cho xuất bản ở Mỹ cuốn tự truyện “Đèn cù” với nhiều thông tin, tư liệu được giới dân chủ cuội tung hô. Tuy nhiên, hậu sinh khả úy, Huy Đức có cái chất lưu manh hơn qua thủ đoạn "mượn lốt hổ" việc viết hồi ký cho ông Võ Văn Kiệt để đi khắp nơi, kể cả chốn thâm cung để lấy tư liệu, phỏng vấn những nhân vật tai to mặt lớn. Đến khi ông Võ Văn Kiệt chết, Huy Đức trở mặt bán lòng tự trọng của một "ngự sử" lấy đô la.

Đèn Cù viết gì vậy?

Ngót 600 trang “Đèn Cù” là một dạng hồi ký lịch sử kể về đời hoạt động và những sóng gió của đời ông, kể từ khi tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1946 đến nay. Nội dung cuốn sách tập trung vào 5 vấn đề, gắn liền với những thăng trầm của đời Trần Đĩnh. Đó là, thời mở đầu tham gia Việt Minh ở chiến khu; Cải cách ruộng đất; Đi học đại học báo chí ở Trung Quốc; Tham gia trong nhóm “xét lại chống Đảng” và những tháng năm sau khi bị khai trừ khỏi Đảng vào năm 1976.

Từ đầu cuốn sách cho đến kết thúc là chuyện kể về quan hệ, ảnh hưởng, tương tác của nhiều nhân vật chủ chốt của Đảng, Nhà nước, trí thức, văn nghệ sỹ nổi tiếng đối với Trần Đĩnh qua hàng chục năm cùng sống, cùng làm việc, cùng hoạt động, cọ xát.

Đèn Cù được viết như thế nào?

Như cách tự giới thiệu, Trần Đỉnh cho rằng đấy là một “tự truyện”, một thể loại nửa nạc, nửa mỡ mà nếu người đọc không có hiểu biết về phương pháp sáng tác thì rất khó nhận biết đâu là thật, đâu là hư cấu, đâu là tư liệu lịch sử, đâu là sáng tạo văn học. Bằng chứng là suốt cả quyển sách ngot 600 trang tuyệt nhiên không có một dẫn chiếu tài liệu kiểm chứng nào (như cách viết của Huy Đức trong “Bên Thắng cuộc”). Hoặc, chi tiết có tính "văn học" ở chiến khu Việt Bắc, cụ Hồ đi đái, Trần Đĩnh đi theo bị cụ mắng, khi đứng đái Trần Đĩnh cố liếc nhìn cái ấy của cụ thì chỉ thấy một đám đen đen, hồng hồng. Những người đọc nhầm tưởng với loại hồi ký lịch sử, tin vào tư liệu trong sách là thật thì rất dễ bị nhầm lẫn, đánh lừa. Thủ pháp này được vận dụng với hầu hết nhân vật trong sách của Trần Đĩnh.

Với số lượng đồ sộ về nhân vật, những cái tên xuất hiện trong “Đèn Cù” hầu như đầy đủ các gương mặt chóp bu của chính thể Việt Nam. Từ những bậc tiền bối nh cụ Hồ Chí Minh, Huỳnh Thúc Kháng, Trường Chinh, Nguyễn Lược Bằng, Lê Duẫn, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ… cho đến các tầng lớp kế tiếp đều được Trần Đĩnh điểm tên, điểm mặt, phác họa tính cách. Với thủ pháp “đồng hiện” xen lẫn giữa cái hiện thực với cái quá khứ, xen lẫn chép sử với hư cấu, Trần Đĩnh đã đưa hết họ vào sách của mình, bắt chước “Chiến tranh và hòa bình” của Tônxtoi. Chỉ có điều, những nhân vật của Trần Đĩnh hiện ra chủ yếu là những mặt xấu, trừ người thân của Đĩnh như cô Hồng Linh.

Mỗi con người, mỗi số phận nhân vật xuất hiện trong “Đèn Cù”, nhất là những nhân vật phản diện theo dụng ý của Trần Đĩnh đều có những tính cách na ná nhau, thủ đoạn, nhẫn tâm, thực dụng, dục vọng… Trần Đĩnh không ngại ngần xếp cả những nhân cách đáng kính của dân tộc như cụ Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh… vào tuyến đó. Cách mô tả họ của Trần Đĩnh là nói ít về ưu điểm, nói nhiều về nhược điểm khiến họ méo mó. Chẳng hạn, Khi nói về ông Văn Tiến Dũng hay ông Đỗ Mười “Dũng thợ may gần công nhân hơn Thái. Hay sau này Đỗ Mười thợ sơn, thợ hoạn lợn thì ưu tú hơn đứa được học cao” (tr93) đoạn mô tả Tố Hữu và Xuân Diệu ở chiến khu thế này: “Tố Hữu một trưa dậy ra suối giặt quần đùi. Ca cẩm với Kim Lân: - Xuân Diệu nó mó máy mà tuột bu nó mất xích, mệt quá! Mà hai hôm nay lại cơm ăn toàn với măng.” (tr30). Nhiều chỗ lắm, đọc kỹ mới thấy cái nham hiểm của Trần Đĩnh.

Ý đồ của “Đèn Cù” là gì vậy?

Hạ bệ thần tượng, gây thù hận. có vậy thôi.

Ngón hạ bệ thần tượng thì xưa nay nhiều kẻ vẫn làm, phương pháp chủ yếu vẫn là moi móc những chuyện đời tư, hư cấu những chuyện không có thật mà không dễ kiểm chứng, tiếu lâm để vẽ chân dung nhân vật. Qua bàn tay nhào nặn của họ, những con người đáng kính bỗng chốc trở thành méo mó, tầm thường.

Khác với những cây bút chống cộng cực đoan, cơ hội chính trị hiện tại, Trần Đĩnh có lối bôi nhọ bạo liệt hơn. Trần Đĩnh không ngại ngần khi động chạm đến những nhân vật ở tầng nguyên thủ quốc gia mà lâu nay vẫn được dân chúng mến mộ, tôn thờ. Trong Đèn Cù, nếu dẫn ra đây thì nhiều lắm, sợ làm mất thời gian của bạn đọc, tôi chỉ nói đến một trường hợp mà cả dân tộc Việt Nam, thậm chí là thế giới tôn vinh, đấy là cụ Hồ Chí Minh. Đến cả cụ Hồ mà Trần Đĩnh cũng bôi tro, trát trấu bằng những chi tiết “vô đạo”như cụ cùng ông Trường Chinh đi dự buổi xử tử bà Nguyễn Thị Năm - Cát Long Hanh“Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt”.(tr82) Còn đời tư thì vợ này vợ nọ, nhân tình, nhân ngãi như cô X, cô Y ở Cao Bằng, Móng Cái… Có đoạn, Trần Đĩnh viết thế này: “Một dạo Phan Kế An ngày ngày đến vẽ Cụ Hồ. Một chiều về sớm hơn, An nói: À, cái P.M. (Phương Mai) tự nhiên mang ba lô, chăn chiếu đến chỗ Ông Cụ, tớ được xua về sớm. Vài tháng sau, An lại về muộn. Hỏi vì sao thì An nói không thấy P.M. (Phương Mai) đến nữa. Chắc máy cụ yếu, giải đáp thuần túy sinh học. Không tính đến sở thích, gu của cụ”. (tr28)

“…Xin nói rõ chuyện như thế này: hồi đó, có ý kiến là ông Hồ cần có vợ để việc “giải quyết sinh lý” được điều hòa thì tốt cho sức khỏe. Và sau Hiệp định Genève 1954, người ta chọn một người “kháu” nhất trong số nữ cán bộ trẻ, đó là chị Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Thanh Hóa và đưa chị từ Khu Bốn ra Hà Nội để tiến cử lên ông Hồ". (tr30)

Cứ thế, mọi nhân vật đều trở nên méo mó, bé mọn, bất chấp việc tối kị là vu cáo những con người được nhân dân “phong thánh” như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp…

Để gây thù hận, Trần Đĩnh đã xát muối, đục khoét vào những vết thương vốn đã liền da như “Cải cách ruộng đất”, “Xét lại chống Đảng”… Cái thâm hiểm của Trần Đĩnh là tung những vấn đề “có thật”, ngụy tạo thêm chi tiết để “đánh bã” lớp trẻ, những người không có thông tin xác thực đối chứng. Điều này được phơi bày qua cách viết ngụy tạo bằng chứng lịch sử, bóp méo sự thật, thổi phồng hậu quả.

Chỉ dẫn ra một chi tiết, khi viết về cải cách ruộng đất, Trần Đĩnh đã dùng cách hư cấu văn học để mô tả cho bằng được cái ác. Trần Đĩnh kể là đã viết một bài báo về vụ tử hình bà Cát Long Hanh (nhưng không nhớ nó là bài gì), trong đó có chi tiết “Mình được đội phân công ra Chùa Hang mua áo quan, chỉ thị chỉ mua áo tồi nhất… Mua áo quan được thì không cho bà ta vào lọt. Du kích mấy người bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi nhảy lên vừa giẫm vừa hô: “Chết còn ngoan cố này, ngoan cố nổi với các ông nông dân không này?” Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám chạy, sợ bị quy là thương địa chủ. Cuối cùng bà ta cũng vào lọt, nằm vẹo vọ như con rối gẫy vậy...”(tr8). Cái chi tiết mua áo quan và dẫm cho xương gẫy răng rắc thật hữu dụng.

Còn tệ hơn, ở chi tiết đấu tố cụ thân sinh ông Phan Đăng Lưu. Trần Đĩnh viết “Chu Văn Biên ký lệnh xử tử bất kỳ ở đâu. Chính hắn sai trói gô bố đẻ của Phan Đăng Lưu là Phan Đăng Tài, lùa ông cụ vào đòn ống khiêng lên trại tù rồi sau cụ chết mất xác. Khi bị khiêng đi, cụ cứ chửi chúng mày khốn nạn, thằng Lưu kia, mày theo cộng sản để cho đàn em cộng sản của mày đối xử với tao thế này à? Du kích khiêng ông cụ lại đánh đá ông cụ... cụ chết trong tù” Sự thật, Trần Đĩnh đã phịa ở chi tiết "bố đẻ của Phan Đăng Lưu là Phan Đăng Tài". Cụ Phan Đăng Tài mãi sau này, những năm 1980, vẫn còn biên soạn sách. Trong đó, có thể kể đến những bộ về ca dao tục ngữ. Cụ Phan Đăng Tài là cha ruột của nhạc sĩ Hồng Đăng. Và đồng thời, cũng là cha ruột của một phóng viên ở báo Nhân Dân (cơ quan cũ của Trần Đĩnh và Bùi Tín). Cụ Phan Đăng Tài chỉ là ngang hàng với cụ Phan Đăng Lưu. Là anh em, không phải cha/chú/bác của Phan Đăng Lưu.

Còn cái câu cụ chửi khi bị lùa vào đòn ống, khiêng đi: “chúng mày khốn nạn, thằng Lưu kia, mày theo cộng sản để cho đàn em cộng sản của mày đối xử với tao thế này à?”.Sự thật, cải cách ruộng đất diễn ra những năm 50, còn ông Phan Đăng Lưu đã hi sinh năm 1941.

Còn quá nhiều những chi tiết trong Đèn Cù kiểu như vậy, Trần Đĩnh cứ say sưa với mục đích kích động thù hận đến bất chấp sự thật lịch sử mà ai cũng biết. Đấy là cái sự ngu.

Còn nhiều lắm những thứ rác rưởi trong Đèn Cù, nhưng thôi, chỉ làm mất thì giờ của bạn đọc. Tôi chỉ có một lời khuyên thế này: Đừng mất thời gian với những rác rưởi ấy.

Mõ Làng

Vượt khó thành… nông dân triệu phú


Tại TP.HCM ngày càng xuất hiện nhiều tấm gương nông dân vươn lên thoát nghèo, làm giàu trở thành triệu phú. Trong giới trồng mai ở TP.HCM không ai không biết đến ông Nguyễn Văn Bay (phường An Phú Đông, quận 12) vì ông là người thành công trong việc trồng mai ghép, thậm chí nhiều người còn gọi ông là “vua mai”. Ước tính mỗi năm ông thu nhập từ 200 – 400 triệu đồng từ tiền bán mai và chăm sóc mai.

Ông Trương Văn Phượng (xã Hưng Long, huyện Bình Chánh),
một trong những nông dân giỏi thoát nghèo vươn lên của TP.HCM.
Ông Bay cho biết trước đây gia đình ông rất khó khăn, hàng ngày ông đi cuốc đất làm vườn, còn vợ ông bán xôi bắp. Nhờ bạn hỗ trợ nên ông đã chuyển cây trồng giá trị thấp trong vườn sang trồng mai. Sau 3 năm, ông đã trồng thành công và không ngừng mở rộng vườn mai của mình. Đến nay vườn mai nhà ông có hơn 1.000 gốc và hàng ngàn gốc mai do khách hàng gửi.

Còn ông Đào Văn Hôn (xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn) cho biết trước đây ông cũng phải làm thuê, làm mướn. Khi phong trào nuôi bò sữa xuất hiện tại thành phố cách đây hơn 20 năm, ông bắt đầu chuyển hướng sang nuôi bò sữa. “Vợ chồng tôi phải tích cóp từng đồng, mất mấy năm trời mới mua được con bò đầu tiên về nuôi. Sau đó cứ làm lời được bao nhiêu thì tích cóp tiếp mua con thứ 2, 3… ” - ông nói. Đến nay trại bò nhà ông đã có 200 con, trong đó hơn 80 con đang cho thu hoạch sữa, mỗi năm cho thu nhập 1,8 tỷ đồng.

Trong khi đó ông Vũ Đình Tứ (xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh) trước khi trở thành “vua” bưởi da xanh đất Sài Gòn thì cũng từng trải qua quá trình lặn lội gian khổ. Trước đây ông đi bán hoa kiểng dạo, cuộc sống vẫn thiếu trước hụt sau. Thấy tại địa phương đất rộng nên ông đã thuê 1ha đất trồng bưởi da xanh. Sau đó thấy cây này mang lại hiệu quả và phù hợp với thổ nhưỡng, ông lại thuê thêm đất trồng cây. Đến nay ông đã có trang trại bưởi da xanh hơn 3ha. Mỗi năm trừ chi phí ông thu lợi trên 600 triệu đồng.

Điểm đáng quý ở những nông dân này, sau khi đã thành triệu phú đã không quên những người từng giúp đỡ mình, quay trở lại giúp đỡ cho xã hội, nhiều nông dân khác được giàu như mình. Như ông Đào Văn Hôn, ai cần bí quyết nuôi bò và vốn làm ăn, đến hỏi ông đều chỉ dẫn tận tình, giúp đỡ. Ông còn tích cực đóng góp ủng các hoạt động từ thiện, tương thân tương ái tại địa phương với hàng trăm triệu đồng/năm chăm lo cho người nghèo. Tương tự ông Nguyễn Văn Bay, ông Vũ Đình Tứ cũng truyền đạt kinh nghiệm trồng trọt, chia sẻ cây giống cho hàng trăm nông dân có nhu cầu.

Mỹ lại bắt tay với Cộng Sản- Mỹ và Cuba thông báo bình thường hóa quan hệ song phương



RFI


Một quan chức Mỹ, hôm nay, 17/12/2014, cho AFP biết Hoa Kỳ sẽ có một động thái mang tính « lịch sử » : Đó là xích lại gần Cuba và đặc biệt là tái lập quan hệ ngoại giao song phương, giảm nhẹ trừng phạt kinh tế đối với La Habana, vốn được áp dụng từ năm 1962.


Vẫn theo nguồn tin trên, trong vài tháng tới, Hoa Kỳ sẽ thiết lập sứ quán tại La Habana.

Ngày hôm qua, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã điện đàm với Chủ tịch Cuba Raul Castro. Thời gian điện đàm hơn 45 phút. và trong ngày hôm nay, vào lúc 19h, giờ quốc tế, cả hai nguyên thủ, ông Obama từ Washington và ông Castro từ La Habana, sẽ có những phát biểu về hồ sơ quan hệ song phương.

Theo nguồn tin Hoa Kỳ, ông Fidel Castro không can dự vào việc này.

Mặc dù chỉ cách nhau có 150 km, qua eo biển Florida, nhưng Hoa Kỳ và Cuba không có quan hệ ngoại giao chính thức từ năm 1961.

Cuba thả công dân Mỹ

Hôm nay, chính quyền Cuba đã trả tự do cho ông Alan Gross, công dân Mỵ, bị cầm tù ở Cuba từ 5 năm qua. Năm nay 65 tuổi, ông Gross làm việc cho tổ chức USAid, đã bị La Habana kết án tù với tội danh làm gián điệp.

Ông sẽ trở về Mỹ trong ngày hôm nay. Việc trả tự do cho ông Gross là một sự kiện chính trị.

Việc ông Alan Gross được tự do gây ngạc nhiên. Từ lâu, Mỹ đã đòi Cuba phải trả tự do cho ông vì lý do sức khỏe. Đổi lại, ba người Cuba đang bị giam giữ tại Mỹ sẽ trả tự do. Đây là ba trong số 5 người đã bị bắt trong những năm 1990 và bị tòa án Miami kết tội làm gián điệp và khủng bố, tuyên án phạt tù nặng nề. Từ tháng Tư, Cuba đã đề nghị có sự trao đổi này.

Với việc thả ông Alan Gross, Cuba và Hoa Kỳ sẽ tiến hành đàm phán tiến tới bình thường hóa quan hệ song phương, bởi vì, cho đến nay, Hoa Kỳ vẫn nói rằng việc giam giữ ông Alan Gross ngăn cản hồ sơ bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.

( theo RFI)