Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

Chân Tướng Trần Đĩnh Qua "Đèn Cù"


Kỳ 1: Phương Pháp “Làm Báo” Của Trần Đĩnh

Thiên Lý



Toàn Văn "Đèn Cù" Của Trần Đĩnh - đăng trên Google Tiên Lãng:



-- Phần 1-

-- Phần 2-

-- Phần 3-

-- Phần 4-

-- Phần 5-

-- Phần 6-

-- Phần 7-

-- Phần 8 và hết



Lần đầu, tôi đã đọc một mạch Đèn Cù qua bản PDF lưu hành miễn phí qua internet và đã thấy, thật sự Không cần thiết phải nhiều lời về "tác phẩm" này.

Tuy nhiên, sau khi đọc lần thứ hai qua 8 kỳ đăng tải trên trang Google.Tienlang, nhận thấy "tác phẩm Đèn Cù" của Trần Đĩnh, với bút pháp gian trá, hạ lưu, đê tiện, có thể gây tác hại, như một liều thuốc bả, đối với những bạn đọc vì lý do nào đó, chỉ đọc Đèn cù về mặt văn bản văn học mà không quan tâm, hoặc không nắm vững bối cảnh lịch sử của những câu chuyện rác rưởi mà Ngô Nhân Dụng tung hô là "thâm cung bí sử" trong Đèn cù.

Vì thế, đành mất thời gian vạch trần chân tướng "nhà báo", "nhà văn", và con người "phản chiến" Trần Đĩnh, thông qua chính một vài câu chuyện, sự kiện được Trần Đĩnh đề cập trong Đèn cù. Hy vọng, bài viết này sẽ như một liều thuốc giải hữu ích đối với những bạn đọc vừa đề cập ở trên.

Do bản Đèn cù do G.tienlang đăng tải không đánh số trang, nên các trích dẫn sẽ được ghi chú theo chương, hơi bất tiện cho bạn đọc khi đối chiếu, mong được sự thông cảm.

Kỳ 1: Phương pháp “làm báo” của Trần Đĩnh qua Đèn Cù
Tác giả tự nhận mình là nhà báo tài năng, viết có "thần", có "khí", đã từng viết hàng trăm bài báo, nhưng, trong Đèn Cù, thì Trần Đĩnh chỉ kể cụ thể về quá trình và "thủ pháp sáng tạo" đối với ba bài báo, một về bầu cử, một về tình quân dân và một về Cải cách ruộng đất.

Qua các chi tiết về ba bài báo này, ta có thể hiểu phương pháp “tác nghiệp” của “nhà báo” Trần Đĩnh như thế nào.

Ngay trong chương 1, tác giả kể lại về 2 bài báo mà mình đã viết, như sau:

Bài báo thứ nhất là bài thuật lại sự kiện cuộc bầu cử hội đồng nhân dân xã.

“Không biết bầu cử cụ thể nào, tôi bịa. Nhưng bài báo đặc biệt sinh động, chân thực. Có cả cô gái Tày reo a lúi! trên đầu đẳng nhà sàn. Với tôi lúc ấy a lúi (ớ kìa) là thán ngữ đáng yêu nhất. Ai nói a lúi đều là con gái mặt hoa da ngọc”.

Bài báo thứ hai mà Trần Đĩnh viết, là về tình quân dân.

“Lại tôi. Tôi dựng ra một vùng chiêm trũng giáp vùng địch bị lụt, mùa màng ngập trắng, lúa sắp mọc mầm. Thì bộ đội về. Kỳ tích xuất hiện. Trắng đồng, sạch đồn”.

Đến bài báo thứ ba, về đề tài Cải cách ruộng đất, được kể lại ở chương 5. Không dấu vẻ tự hào, hai lần Trần Đĩnh nhấn mạnh rằng bài báo này là phát pháo mở đầu cuộc cải cách ruộng đất và khai hỏa cải cách ruộng đất, thì:

“Để có phát pháo mở đầu cuộc cải cách ruộng đất, Trường Chinh chỉ thị báo Nhân Dân tường thuật vụ đấu Nguyễn Thị Năm – Cát Hanh Long. Tôi nhận nhiệm vụ. Trường Chinh nói phân công tôi vì cần một bài báo viết nổi bật lên khung cảnh sôi sục, sinh động của cuộc đấu tố để ca ngợi sức mạnh của bần cố nông được phát động, còn tội ác thì tôi cứ theo tài liệu, cáo trạng của đội. Tôi nói tôi không dự đấu tố thì anh bảo tôi khai thác Văn, người cấp dưỡng theo anh tới tận Đồng Bẩm và đã chứng kiến các buổi đấu tố. Sở dĩ báo chí không dự đấu là vì giữ bí mật, ngại Đồng Bẩm cách Hà Nội có vài chục cây số đường chim bay, Pháp có thể nhảy dù xuống đó. Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt.

Thế là tôi viết bài khai hỏa cải cách ruộng đất theo sự pha phách thêm nếm khó lòng tránh khỏi của người cấp dưỡng đáng yêu của tổng bí thư".

Những chữ in đậm, gạch dưới chính là thủ pháp viết báo "số dzach" của "nhà báo" Trần Đĩnh, như Trần Đĩnh tự thú.

Đi sâu hơn một chút, bạn đọc có thể thấy chỉ trong một đoạn văn ngắn nêu trên đã có một loạt những sự vô lý mà Trần Đĩnh “phịa” trắng trợn:

- Vì Đồng Bẩm gần Hà Nội nên sợ lộ bí mật, sợ Pháp nhảy dù. Nên Trần Đĩnh (báo chí) không dự các buổi đấu tố. Thế mà Trường Chinh vẫn bảo Đĩnh viết bài?

- Trong khi đó thì “cấp dưỡng Văn” lại đi dự và nhờ đó Trần Đĩnh mới “pha phách thêm nếm” để có bài báo “khai hỏa”? “Cấp dưỡng Văn” sao không lo việc “dưa muối tương cà” lại đi dự đấu tố?

- Đã sợ Pháp nhảy dù bắt cóc đến mức "báo chí” không dám đi dự thì sự kiện “Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt”, nếu có thật như Trần Đĩnh rêu rao, được giới "dư luận viên" chống Cộng coi là một phát hiện mới và tán thưởng ầm ĩ, thì sinh mệnh của linh hồn kháng chiến là các ông Chủ tịch nước và Tổng bí thư hẳn phải không quan trọng bằng an toàn của anh cu “nhà báo” Trần Đĩnh? (Viết đến đây, tôi bỗng liên hệ với một chi tiết trong "tác phẩm Trăn trối" và phát hiện ra, đối với lãnh tụ kháng chiến, thì sự nguy hiểm của cụ Thảo triết gia (cụ phải đứng cách xa lãnh tụ 3m) hóa ra còn cao hơn cả đại đội lính dù Pháp).

- Và, cuối cùng, nếu “báo chí không dự” thì ông nhà báo Tiêu Lang nào đó ở đâu ra kể lại tỉ mỷ vụ bắn, rồi mua quan tài, rồi mai táng địa chủ Năm một cách ghê rợn...cho tác giả, như Trần Đĩnh viết sau đó mấy trang?

Đến đây, tưởng cũng nên nhắc một chút, việc Trần Đĩnh ba xạo về chuyện bí danh, bút danh làm báo. Tất nhiên, khái niệm bí danh và bút danh là khác nhau, nhưng đối với một "nhà báo chuyên nghiệp" như Trần Đĩnh, thì đâu là ranh giới giữa bút danh và bí danh (?).

Chương 1, Trần Đĩnh khoe “chả hiểu sao tôi dứt khoát không bí bầu gì cho mình cái danh nào cả”

Thậm chí còn viết thư về khoe với mẹ, về việc không bí danh, đồng thời được ở bên cạnh các lãnh tụ cho nên bà cụ mới viết thư động viên “Mẹ rất yêu cái tên Trần Đĩnh cộc. Con được vinh dự ở bên các vì sao sáng, con phải chịu khó, ngoan, vâng lời...”

Chả biết “dứt khoát” được bao lâu, thế nhưng cũng chính “Trần Đĩnh cộc” cho biết, vì mê cô X, nên từng lấy bút danh Hoàng X để viết báo. Rồi ngay ở bài báo “Khai hỏa Cải cách ruộng đất” thì lại “bài báo này tôi ký một tên ú ớ không còn nhớ và sau đó cũng không mó đến nó bao giờ. Chẳng hiểu vì sao”.

Đấy là chưa nói đến việc viết thư về vùng địch khoe mình ở chung với các vì sao sáng (Chủ tịch nước, Tổng bí thư) cũng là một chuyện sẽ bị nghiêm cấm ở nơi gọi là An Toàn khu (ATK).

Như vậy, với cách làm báo "sáng tạo" như trên, có thể tạm kết luận:

Bịa, dựng, pha phách thêm nếm và cộng thêm phét lác, đó là phương pháp viết báo của Trần Đĩnh, không chỉ có từ thời "văn hào" còn ở ATK mà, rõ ràng, giờ đây, phương pháp này đã lại được tận dụng triệt để ngay trong "tác phẩm" Đèn Cù.

(còn tiếp)

@ Thiên Lý

Đã đăng ở

http://googletienlang2014.blogspot.com/2014/11/ky-1-chan-tuong-tran-inh-qua-en-cu.html



Phụ Lục

Phần Giới thiệu của Mõ Làng

Bóc Mẽ "Đèn Cù" Của Trần Đĩnh

Trần Đĩnh là ai?

Sinh năm 1930, Trần Đĩnh tham gia Việt Minh vào năm 1946 lúc mới 16 tuổi, gia nhập Đảng công sản VN năm 1948. Tháng 12 năm 1945 do hoàn cảnh lịch sử, cơ quan ngôn luận của nó rút vào hoạt động bí mật và cho ra đời và xuất bản tờ báo Sự Thật. Trong thời gian này Trần Đĩnh được điều về viết cho báo. Sau đó, ông được đưa qua học 5 năm tại đại học Bắc Kinh, từ 1955 cho tới 1959. Về nước ông làm ở báo Nhân Dân, tham gia nhóm“xét lại chống Đảng” nên bị xử lý vào năm 1967. Không bị bắt như anh ruột ông là Trần Châu cùng nhiều người khác, nhưng ông bị kiểm thảo và buộc phải đi làm công nhân đúc chữ một thời gian, sau đó được quay lại làm báo. Bước ngoặt đó đã làm ông thay đổi hẳn tư tưởng rồi tuyên bố tham gia tranh đấu cho dân chủ cùng một số nhân vật bị xử lý trong vụ“chống Đảng”. Năm 1976, Trần Đĩnh bị khai trừ khỏi Đảng cộng sản, ông tuyên bố mình là một người yêu chuộng tự do dân chủ, ủng hộ những người đang tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam như Thích Quảng Độ, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Đan Quế, Hà Sỹ Phu, Dương Thu Hương…

Trần Đĩnh, như trong tự truyện đã tự nhận mình là người chấp bút tiểu sử của Hồ Chí Minh, viết hồi ký cho nhiều cán bộ cấp cao như Trường Chinh, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh…mặc dù không có tài liệu kiểm chứng, hình như là tự đánh bóng.



Mới đây, bắt chước Huy Đức (chắc thấy Huy Đức kiếm bộn) ông cho xuất bản ở Mỹ cuốn tự truyện “Đèn cù” với nhiều thông tin, tư liệu được giới dân chủ cuội tung hô. Tuy nhiên, hậu sinh khả úy, Huy Đức có cái chất lưu manh hơn qua thủ đoạn "mượn lốt hổ" việc viết hồi ký cho ông Võ Văn Kiệt để đi khắp nơi, kể cả chốn thâm cung để lấy tư liệu, phỏng vấn những nhân vật tai to mặt lớn. Đến khi ông Võ Văn Kiệt chết, Huy Đức trở mặt bán lòng tự trọng của một "ngự sử" lấy đô la.

Đèn Cù viết gì vậy?

Ngót 600 trang “Đèn Cù” là một dạng hồi ký lịch sử kể về đời hoạt động và những sóng gió của đời ông, kể từ khi tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1946 đến nay. Nội dung cuốn sách tập trung vào 5 vấn đề, gắn liền với những thăng trầm của đời Trần Đĩnh. Đó là, thời mở đầu tham gia Việt Minh ở chiến khu; Cải cách ruộng đất; Đi học đại học báo chí ở Trung Quốc; Tham gia trong nhóm “xét lại chống Đảng” và những tháng năm sau khi bị khai trừ khỏi Đảng vào năm 1976.

Từ đầu cuốn sách cho đến kết thúc là chuyện kể về quan hệ, ảnh hưởng, tương tác của nhiều nhân vật chủ chốt của Đảng, Nhà nước, trí thức, văn nghệ sỹ nổi tiếng đối với Trần Đĩnh qua hàng chục năm cùng sống, cùng làm việc, cùng hoạt động, cọ xát.

Đèn Cù được viết như thế nào?

Như cách tự giới thiệu, Trần Đỉnh cho rằng đấy là một “tự truyện”, một thể loại nửa nạc, nửa mỡ mà nếu người đọc không có hiểu biết về phương pháp sáng tác thì rất khó nhận biết đâu là thật, đâu là hư cấu, đâu là tư liệu lịch sử, đâu là sáng tạo văn học. Bằng chứng là suốt cả quyển sách ngot 600 trang tuyệt nhiên không có một dẫn chiếu tài liệu kiểm chứng nào (như cách viết của Huy Đức trong “Bên Thắng cuộc”). Hoặc, chi tiết có tính "văn học" ở chiến khu Việt Bắc, cụ Hồ đi đái, Trần Đĩnh đi theo bị cụ mắng, khi đứng đái Trần Đĩnh cố liếc nhìn cái ấy của cụ thì chỉ thấy một đám đen đen, hồng hồng. Những người đọc nhầm tưởng với loại hồi ký lịch sử, tin vào tư liệu trong sách là thật thì rất dễ bị nhầm lẫn, đánh lừa. Thủ pháp này được vận dụng với hầu hết nhân vật trong sách của Trần Đĩnh.

Với số lượng đồ sộ về nhân vật, những cái tên xuất hiện trong “Đèn Cù” hầu như đầy đủ các gương mặt chóp bu của chính thể Việt Nam. Từ những bậc tiền bối nh cụ Hồ Chí Minh, Huỳnh Thúc Kháng, Trường Chinh, Nguyễn Lược Bằng, Lê Duẫn, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ… cho đến các tầng lớp kế tiếp đều được Trần Đĩnh điểm tên, điểm mặt, phác họa tính cách. Với thủ pháp “đồng hiện” xen lẫn giữa cái hiện thực với cái quá khứ, xen lẫn chép sử với hư cấu, Trần Đĩnh đã đưa hết họ vào sách của mình, bắt chước “Chiến tranh và hòa bình” của Tônxtoi. Chỉ có điều, những nhân vật của Trần Đĩnh hiện ra chủ yếu là những mặt xấu, trừ người thân của Đĩnh như cô Hồng Linh.

Mỗi con người, mỗi số phận nhân vật xuất hiện trong “Đèn Cù”, nhất là những nhân vật phản diện theo dụng ý của Trần Đĩnh đều có những tính cách na ná nhau, thủ đoạn, nhẫn tâm, thực dụng, dục vọng… Trần Đĩnh không ngại ngần xếp cả những nhân cách đáng kính của dân tộc như cụ Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh… vào tuyến đó. Cách mô tả họ của Trần Đĩnh là nói ít về ưu điểm, nói nhiều về nhược điểm khiến họ méo mó. Chẳng hạn, Khi nói về ông Văn Tiến Dũng hay ông Đỗ Mười “Dũng thợ may gần công nhân hơn Thái. Hay sau này Đỗ Mười thợ sơn, thợ hoạn lợn thì ưu tú hơn đứa được học cao” (tr93) đoạn mô tả Tố Hữu và Xuân Diệu ở chiến khu thế này: “Tố Hữu một trưa dậy ra suối giặt quần đùi. Ca cẩm với Kim Lân: - Xuân Diệu nó mó máy mà tuột bu nó mất xích, mệt quá! Mà hai hôm nay lại cơm ăn toàn với măng.” (tr30). Nhiều chỗ lắm, đọc kỹ mới thấy cái nham hiểm của Trần Đĩnh.

Ý đồ của “Đèn Cù” là gì vậy?

Hạ bệ thần tượng, gây thù hận. có vậy thôi.

Ngón hạ bệ thần tượng thì xưa nay nhiều kẻ vẫn làm, phương pháp chủ yếu vẫn là moi móc những chuyện đời tư, hư cấu những chuyện không có thật mà không dễ kiểm chứng, tiếu lâm để vẽ chân dung nhân vật. Qua bàn tay nhào nặn của họ, những con người đáng kính bỗng chốc trở thành méo mó, tầm thường.

Khác với những cây bút chống cộng cực đoan, cơ hội chính trị hiện tại, Trần Đĩnh có lối bôi nhọ bạo liệt hơn. Trần Đĩnh không ngại ngần khi động chạm đến những nhân vật ở tầng nguyên thủ quốc gia mà lâu nay vẫn được dân chúng mến mộ, tôn thờ. Trong Đèn Cù, nếu dẫn ra đây thì nhiều lắm, sợ làm mất thời gian của bạn đọc, tôi chỉ nói đến một trường hợp mà cả dân tộc Việt Nam, thậm chí là thế giới tôn vinh, đấy là cụ Hồ Chí Minh. Đến cả cụ Hồ mà Trần Đĩnh cũng bôi tro, trát trấu bằng những chi tiết “vô đạo”như cụ cùng ông Trường Chinh đi dự buổi xử tử bà Nguyễn Thị Năm - Cát Long Hanh“Cụ Hồ bịt râu đến dự một buổi và Trường Chinh thì đeo kính râm suốt”.(tr82) Còn đời tư thì vợ này vợ nọ, nhân tình, nhân ngãi như cô X, cô Y ở Cao Bằng, Móng Cái… Có đoạn, Trần Đĩnh viết thế này: “Một dạo Phan Kế An ngày ngày đến vẽ Cụ Hồ. Một chiều về sớm hơn, An nói: À, cái P.M. (Phương Mai) tự nhiên mang ba lô, chăn chiếu đến chỗ Ông Cụ, tớ được xua về sớm. Vài tháng sau, An lại về muộn. Hỏi vì sao thì An nói không thấy P.M. (Phương Mai) đến nữa. Chắc máy cụ yếu, giải đáp thuần túy sinh học. Không tính đến sở thích, gu của cụ”. (tr28)

“…Xin nói rõ chuyện như thế này: hồi đó, có ý kiến là ông Hồ cần có vợ để việc “giải quyết sinh lý” được điều hòa thì tốt cho sức khỏe. Và sau Hiệp định Genève 1954, người ta chọn một người “kháu” nhất trong số nữ cán bộ trẻ, đó là chị Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Thanh Hóa và đưa chị từ Khu Bốn ra Hà Nội để tiến cử lên ông Hồ". (tr30)

Cứ thế, mọi nhân vật đều trở nên méo mó, bé mọn, bất chấp việc tối kị là vu cáo những con người được nhân dân “phong thánh” như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp…

Để gây thù hận, Trần Đĩnh đã xát muối, đục khoét vào những vết thương vốn đã liền da như “Cải cách ruộng đất”, “Xét lại chống Đảng”… Cái thâm hiểm của Trần Đĩnh là tung những vấn đề “có thật”, ngụy tạo thêm chi tiết để “đánh bã” lớp trẻ, những người không có thông tin xác thực đối chứng. Điều này được phơi bày qua cách viết ngụy tạo bằng chứng lịch sử, bóp méo sự thật, thổi phồng hậu quả.

Chỉ dẫn ra một chi tiết, khi viết về cải cách ruộng đất, Trần Đĩnh đã dùng cách hư cấu văn học để mô tả cho bằng được cái ác. Trần Đĩnh kể là đã viết một bài báo về vụ tử hình bà Cát Long Hanh (nhưng không nhớ nó là bài gì), trong đó có chi tiết “Mình được đội phân công ra Chùa Hang mua áo quan, chỉ thị chỉ mua áo tồi nhất… Mua áo quan được thì không cho bà ta vào lọt. Du kích mấy người bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi nhảy lên vừa giẫm vừa hô: “Chết còn ngoan cố này, ngoan cố nổi với các ông nông dân không này?” Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám chạy, sợ bị quy là thương địa chủ. Cuối cùng bà ta cũng vào lọt, nằm vẹo vọ như con rối gẫy vậy...”(tr8). Cái chi tiết mua áo quan và dẫm cho xương gẫy răng rắc thật hữu dụng.

Còn tệ hơn, ở chi tiết đấu tố cụ thân sinh ông Phan Đăng Lưu. Trần Đĩnh viết “Chu Văn Biên ký lệnh xử tử bất kỳ ở đâu. Chính hắn sai trói gô bố đẻ của Phan Đăng Lưu là Phan Đăng Tài, lùa ông cụ vào đòn ống khiêng lên trại tù rồi sau cụ chết mất xác. Khi bị khiêng đi, cụ cứ chửi chúng mày khốn nạn, thằng Lưu kia, mày theo cộng sản để cho đàn em cộng sản của mày đối xử với tao thế này à? Du kích khiêng ông cụ lại đánh đá ông cụ... cụ chết trong tù” Sự thật, Trần Đĩnh đã phịa ở chi tiết "bố đẻ của Phan Đăng Lưu là Phan Đăng Tài". Cụ Phan Đăng Tài mãi sau này, những năm 1980, vẫn còn biên soạn sách. Trong đó, có thể kể đến những bộ về ca dao tục ngữ. Cụ Phan Đăng Tài là cha ruột của nhạc sĩ Hồng Đăng. Và đồng thời, cũng là cha ruột của một phóng viên ở báo Nhân Dân (cơ quan cũ của Trần Đĩnh và Bùi Tín). Cụ Phan Đăng Tài chỉ là ngang hàng với cụ Phan Đăng Lưu. Là anh em, không phải cha/chú/bác của Phan Đăng Lưu.

Còn cái câu cụ chửi khi bị lùa vào đòn ống, khiêng đi: “chúng mày khốn nạn, thằng Lưu kia, mày theo cộng sản để cho đàn em cộng sản của mày đối xử với tao thế này à?”.Sự thật, cải cách ruộng đất diễn ra những năm 50, còn ông Phan Đăng Lưu đã hi sinh năm 1941.

Còn quá nhiều những chi tiết trong Đèn Cù kiểu như vậy, Trần Đĩnh cứ say sưa với mục đích kích động thù hận đến bất chấp sự thật lịch sử mà ai cũng biết. Đấy là cái sự ngu.

Còn nhiều lắm những thứ rác rưởi trong Đèn Cù, nhưng thôi, chỉ làm mất thì giờ của bạn đọc. Tôi chỉ có một lời khuyên thế này: Đừng mất thời gian với những rác rưởi ấy.

Mõ Làng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét