Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2014

“KHÔNG THẦN” VÀ “CÓ THẦN”: HAI ANH, EM THÍCH ANH NÀO?







Trên 600 nhân vật "vô thần" trong đó Tổng thống Lincoln - George Washington - khoa học gia vĩ đại Carl Sagan…


Trần Chung Ngọc



* * *



Nhân đọc bài “Hitler Không Phải Là Người Vô Thần” của John Patrick Michael Murphy đăng trên trang nhà giaodiemonline.com , người viết xin có vài lời bàn thêm để đặc biệt đặt nội dung bài viết của tác giả nước ngoài nầy vào trong bối cảnh tôn giáo tại Việt nam.

Hiển nhiên Hitler không phải là người “vô thần”. Tháng 10, 1933, Hitler tuyên bố: “Chúng tôi tin chắc rằng dân chúng cần đến và đòi hỏi Đức Tin Ki Tô Giáo. Do đó chúng tôi gánh vác việc chống phong trào “vô thần”, và không phải với vài lời tuyên bố lý thuyết: chúng tôi đã dẹp đi phong trào này.” [We were convinced that the people need and require the Christian faith. We have therefore undertaken the fight against the atheistic movement, and that not merely with a few theoretical declarations: we have stamped it out. (October 1933)] Khi đưa ra chính sách tiêu diệt dân Do Thái, Hitler đã từng tuyên bố: “Tôi chỉ thực hiện những điều giáo hội Công giáo muốn từ hơn ngàn năm nay nhưng không thực hiện được.” Và năm 1941, năm tiến quân vào Nga Sô, Hitler nói với tướng Gerhart Engel: “Bây giờ cũng như trước, tôi là một tín đồ Công giáo và sẽ là như vậy mãi mãi.” [And in 1941, the year he rolled into Russia, Hitler told General Gerhart Engel: “I am now as before a Catholic and will always remain so.] Cũng hiển nhiên là Vatican chưa từng tuyệt thông [excommunicate] Hitler. Nhưng bài này không phải là viết về Hitler “vô thần” hay “có thần” mà là thế nào là “vô thần” và “vô thần” khác “có thần” ở chỗ nào.

Những người Ki Tô Giáo thường được tẩy não, nhồi sọ từ nhỏ là những người không tin vào Thiên Chúa của họ là “vô thần”, và vô thần có nghĩa là vô đạo đức của Ki Tô Giáo, nếu Ki Tô Giáo có cái thực sự gọi là đạo đức, và do đó có thể làm tất cả những điều ác vì không còn sợ Thiên Chúa của họ, nếu thực sự có một Thiên Chúa. Nhưng nếu chúng ta đọc lịch sử giới hữu thần và so với giới vô thần, chúng ta sẽ thấy rằng đạo đức của giới hữu thần thực sự thua xa đạo đức của giới vô thần. Lịch sử Ki Tô Giáo đã chứng tỏ như vậy. Tại sao? Bởi vì Ki Tô Giáo tin vào cuốn Thánh Kinh của họ, và trong Thánh Kinh, những điều luân lý đạo đức chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với những phần vô đạo đức, phi luân.

Mỹ là một nước hữu thần hạng nhất trong thế giới ngày nay, vì có tới khoảng 60% Tin Lành, và khoảng 20% Công giáo, những người tin vào sự “thiết kế thông minh” của một ông Thiên Chúa để tạo lên nước Mỹ làm dân của Thiên Chúa (God’s people). Nhưng những tội ác như linh mục loạn dâm, đĩ điếm, cần sa, ma túy, gian manh lừa đảo, giết người, băng đảng xã hội đen v..v.. đều chiếm giải quán quân trên thế giới. Nói có sách, mách có chứng: sau đây là vài con số thống kê của Mỹ:

Thống kê năm 2000: 14 triệu người tuổi từ 12 trở lên dùng ma túy (6.3% dân số).
Năm 2001: 15.980 vụ giết người, 90.491 vụ hiếp dâm. Cứ 2 phút lại có một người bị hiếp (tài liệu của bộ Tư Pháp)
Trên 1 triệu gái mãi dâm hành nghề trên đường phố, nhà tắm hơi (sauna), phòng tẩm quất (massage parlor) và qua điện thoại, trong đó có 300.000 vị thành niên. Thành phố New York tốn $43 triệu mỗi năm để kiểm soát các vấn đề liên quan đến mãi dâm.
14.000.000 người nghiện rượu.
Có 2.200.000 tù nhân Mỹ đang ngồi tù. Cả thế giới có 9.000.000 người đang ngồi tù, Mỹ chiếm 22% trong khi tỷ lệ dân số của Mỹ trên thế giới chỉ có 5%.

Ở Trung Quốc [xứ vô thần] thì cứ trong 100.000 người có 111 người ngồi tù, ở Mỹ [xứ hữu thần] là 686 người, gấp hơn 6 lần trong khi dân số Mỹ chỉ bằng 24% dân số Trung Quốc.
50% các cặp vợ chồng do Chúa kết hợp đi đến ly dị.
Từ 4% đến 10% dân chúng đồng tính luyến ái.
Tới nay đã có 4392 linh mục Công Giáo bị truy tố về tội cưỡng dâm trẻ em phụ tế và nữ tín đồ, chưa kể số Mục sư Tin Lành.. 
 
Đối với giới “Chống Cộng Cho Chúa” [CCCC] thì hai chữ “vô thần” hầu như bao giờ cũng đi liền với hai chữ “Cộng sản” trong những bản văn chống Cộng ở hải ngoại, và ngay cả ở trong nước. Không biết Cộng sản nghĩ sao chứ riêng tôi, mỗi khi tôi đọc đến bốn chữ “Cộng sản vô thần” tôi lại mỉm cười thương hại cho những người có đầu mà không có óc mà cho đến thời buổi này còn viết ra những từ này. Bởi vì, theo một nghĩa nào đó, Cộng sản cũng có thần. Thần của Cộng Sản một thời đã là ông Marx, nay hầu như chỉ còn “vang bóng một thời.” Cũng như Thần của người Âu Châu một thời là Thiên Chúa của nền thần học Do Thái – Ki Tô, nay cũng chỉ còn là “vang bóng một thời”. Những người viết lên nhóm chữ “Cộng Sản Vô thần” thực sự chỉ tỏ ra là mình kém hiểu biết, bởi vì thực ra “vô thần” là biểu hiện của sự tự hào, của danh dự, của sự tiến bộ trí thức. Phần phân tích sau đây sẽ chứng minh luận cứ này.

Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu từ đâu có nhóm chữ “Cộng sản vô thần”. Kết hợp Vô Thần với Cộng Sản nguyên là một thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc xảo quyệt mà Ki Tô Giáo nói chung, đặc biệt là Công Giáo La Mã, dùng để gây hận thù tôn giáo, khai thác sự mê tín và cuồng tín của đám tín đồ thấp kém, trong sách lược chống Cộng trước đây. Sự khai thác lòng sùng tín đượm màu mê tín của giáo dân chúng ta có thể thấy rõ trong sách lược của Giáo hội ngụy tạo ra những màn hiện thân của bà Maria mà điển hình là vụ “Đức mẹ Maria” hiện ra ở Fatima để trao cho 3 đứa trẻ mù chữ những thông điệp chống Cộng gồm 3 điều bí mật: 1) Cảnh tượng của hỏa ngục; 2) tiên đoán Nga Sô sẽ cải đạo theo Công giáo; và 3) một bí mật không được tiết lộ cho đến năm 1960, nhưng tòa Thánh đã dấu kín cho đến cuối thế kỷ 20, và khi John Paul II tiết lộ thì không ai biết đó có đúng là điều giáo hội đã ngụy tạo ra trước hay là mới ngụy tạo ra, nhưng điều chắc là, theo một số chuyên gia về Công giáo, thì điều “bí mật” sau cùng này là điều giáo hội mới nghĩ ra để đánh bóng vai trò của John Paul II trước tình trạng suy thoái hiện thời của giáo hội.

Nhưng thực tế lịch sử thì sao? Chúng ta biết, đã có thời hầu hết các nước theo Ki Tô Giáo “hữu thần” ở Âu Châu đã chịu ảnh hưởng không ít thì nhiều của “Cộng Sản vô thần”: Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Ý, Nam Tư , Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Bỉ, Đan Mạch, một phần nước Đức, và ngay cả trưởng nữ của giáo hội Công giáo: nước Pháp. Điển hình là ở Ba Lan, sau khi chế độ Cộng sản sụp đổ, Ba Lan vẫn “sợ đen hơn đỏ”. Điều này chứng tỏ những người theo Cộng Sản ở Âu Châu cũng như ở khắp nơi trên thế giới không hẳn là Vô Thần.

Chúng ta cũng biết, giáo hoàng John Paul II đã tuyên bố chẳng làm gì có hỏa ngục, hỏa ngục không phải là một nơi chốn trong lòng đất. Sự kiện này đã chứng tỏ những lời mô tả hỏa ngục của Đức Mẹ ở Fatima là do giáo hội bày đặt ra qua hoạt cảnh Fatima do giáo hội dàn dựng trước đây. Và chúng ta cũng đã biết, chính quyền Nga đã ra đạo luật đặt Công giáo ra ngoài vòng pháp luật, cấm Công giáo không cho truyền đạo trong nước, nên không làm gì có chuyện Nga Sô cải đạo theo Công giáo..

Những sự kiện lịch sử trên đã chứng tỏ rằng “Phép lạ Fatima” hay “phép lạ Công giáo” ở bất cứ đâu, như ở “La Vang”, Việt Nam, chẳng hạn, chẳng qua chỉ là những màn lừa bịp những người nhẹ dạ cả tin qua những trò bày đặt của giáo hội hoặc để chống Cộng, hoặc để nuôi dưỡng lòng sùng tín Maria của giáo dân, và nhất là để mang lại những lợi nhuận kinh tế. Thật vậy, những điều bí mật và tiên đoán mà bà Maria tiết lộ cho 3 em bé mù chữ ở Fatima rút cuộc đều sai bét.. Chúng bắt buộc phải sai vì chuyện Đức Mẹ hiện ra ở Fatima hay bất cứ ở đâu đều là chuyện hoang đường, và những lời giáo hội đặt vào miệng Đức Mẹ chỉ là những lời lừa bịp tín đồ vì ngày nay chúng đã chứng tỏ là không có điều nào đúng. Chúng ta cũng còn nhớ chuyện bức tượng của đức mẹ khóc chảy máu mắt vì thương sót nhân loại (Đức mẹ quyền phép vô cùng nhưng chỉ biết khóc đến chảy máu mắt). Chỉ phiền có một điều là người ta đã mang máu mắt của Đức Mẹ đi phân tích DNA và chứng minh được rằng đó là máu của ...đàn ông. Giáo hội mẹ cũng như các giáo hội con không hề quan tâm đến sự kiện khoa học này, chỉ cần làm sao cho tín đồ tin, đổ xô đến lễ bái và … thu tiền là được rồi. Bởi vậy cho nên ngày nay tượng Chúa Giê-su chảy máu, hay tượng Đức Mẹ khóc chỉ có thể xảy ra trong những kém phát triển về kinh tế, người dân còn sống trong khó khăn vật chất, dân trí chưa mở mang đúng mức, chứ không dám xảy ra trong những nước văn minh tiến bộ trong đó người dân có mức sống thoải mái và có tinh thần độc lập như Anh, Mỹ, Pháp, Nhật Bản. Thật vậy, ở Úc trước đây, vụ một linh mục Việt Nam dàn dựng ra cảnh tượng Đức Mẹ chảy dầu đã bị chính giáo hội Công giáo Úc điều tra và phủ bác, coi là ngụy tạo dàn dựng. Thật không biết xấu hổ, thời buổi này mà chúng ta còn thấy những tên bất lương vẫn còn tiếp tục khai thác sự yếu kém tinh thần của đám con chiên một cách bất chính. Nhưng đó hầu như là bản chất của một tôn giáo “mạc khải”, “tông truyền”, “thánh thiện”, là “thân thể của Chúa”, là “hiền thê của Chúa”, một tôn giáo thường tự nhận là “văn minh tiến bộ” nhất thế giới.

Tại sao Ki Tô Giáo lại chống Cộng một cách điên cuồng bất kể thủ đoạn như vậy? Thật là dễ hiểu, vì lý thuyết của Marx đã vạch trần bộ mặt thật của Ki Tô Giáo, kết quả là đưa Ki Tô Giáo vào con đường suy thoái không có cách nào cứu vãn. Hiện tượng này thật là rõ rệt, không những chỉ ở Âu Châu, cái nôi của Ki Tô Giáo, mà còn ở khắp nơi trên thế giới, kể cả Bắc Mỹ. Học giả Công giáo Joseph L. Daleiden đã viết trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition, Prometheus Books, New York, 1994): “Căn nguyên sự thù ghét của giáo hội Công giáo đối với Cộng Sản là giáo hội ý thức được rằng Cộng Sản, về ảnh hưởng, là một địch thủ tôn giáo.” (The root of the (Catholic) Church’s antipathy toward Communism is its realization that Communism is, in effect, a rival religion).

Ki Tô Giáo thường chụp mũ Cộng sản lên đầu tất cả những ai lên tiếng chỉ trích, chống đối, hay bất đồng ý kiến với tôn giáo của họ. Chúng ta hãy đọc một đoạn trong bài thuyết trình của Emmett F. Fields trong Nhà Thờ Thomas Jefferson Unitarian ở Louisville, Kentucky, ngày 19 tháng 10, 1980:

Những người Ki-Tô luôn luôn dùng Cộng sản như là một cái đòn để vùi đập mọi sự chống đối tôn giáo, quyền lực và những mưu đồ của họ. Bất cứ người nào không đồng ý với họ, vô thần hay không, đều bị tố cáo là Cộng sản. [Điều này thật rõ ràng nhất trong những trang nhà chống Cộng rẻ tiền của người Việt hải ngoại, của những kẻ chuyên nghề buôn nón cối.] Ki Tô Giáo hàm ý là có một sự liên hệ không thể tách rời giữa sự độc tài về chính trị - kinh tế của Cộng sản, và sự tự do ra khỏi sự độc tài của tôn giáo gọi là chủ nghĩa vô thần. Ki Tô Giáo cố tình không biết đến là chủ nghĩa vô thần thì lâu đời hơn là Ki Tô Giáo và Cộng sản gộp lại với nhau.

(Christians are constantly using Communism as a club to beat down all opposition to their religion, their power and their schemes. Anyone who disagrees with them, Atheist or not, is denounced as being a "Communist." Religion implies that there is an inseparable connection between the political-economic dictatorship called Communism, and the freedom from religion called Atheism. Religion chooses to ignore the fact that Atheism is older than Communism and Christianity put together.)

Cũng vì vậy mà Ki Tô Giáo, nhất là Công giáo, đã dùng mọi thủ đoạn, khai thác sự cuồng tín và mê muội của tín đồ, gây căm thù trong đầu óc họ đối với Cộng sản mà Ki Tô giáo gán cho hai chữ Vô Thần, hàm ý Cộng sản chống Thần của Ki Tô Giáo. Cùng một sách lược, trước sự phát triển của Phật Giáo ở Tây phương, giáo hoàng John Paul II đã viết cuốn Bước Qua ngưỡng Cửa Hi Vọng trong đó ông ta phê bình: “Phật giáo đại để là một hệ thống “vô thần”” (Buddhism is in large measure an “atheistic” system). Câu viết có vẻ thiếu neuron ở trong óc này chỉ có mục đích đồng nhất hóa “vô thần” của Cộng Sản với “vô thần” của Phật Giáo để giữ đám tín đồ đừng đi theo Phật Giáo. Giáo hội cũng tận dụng mọi phương tiện truyền thông tuyên truyền để tẩy não đám tín đồ thấp kém, cấy vào đầu óc họ một ý niệm là “Vô thần tất nhiên phải xấu, chỉ có tôn giáo “hữu thần” mới là tốt” trong khi sự thực lại trái ngược hẳn lại.

Những người vô thần nổi tiếng từ xưa tới nay đều là những bậc thông thái, có đạo đức, chứ không tàn bạo, ngu đần, vô đạo đức như một số giáo hoàng thờ thần trong cái tôn giáo thờ thần là Công giáo như lịch sử đã chứng minh. [Sẽ được chứng minh trong bài viết về “Lịch Sử Một Số Giáo Hoàng”] Và trong những xã hội Ki Tô Giáo “hữu thần”, tỷ lệ những tội ác như giết người, cướp của, loạn luân, con giết cha mẹ, cha mẹ giết con, ma túy v..v.. đã vượt trội những xã hội “vô thần”.

Thật ra, theo định nghĩa thì, Vô thần chỉ có nghĩa là không tin, từ chối, không chấp nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa (Atheism = Disbelief in or denial of the existence of God). Thiên Chúa ở đây phải hiểu là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo. Vô thần không có nghĩa là chống Thiên Chúa, vì chống một cái không hiện hữu là một chuyện vô ích. Nói cho đúng ra, Vô Thần, nếu có chống, là chống sự mê tín của con người vào một Thiên Chúa do chính con người bày đặt ra.

Khi Marx đưa ra nhận định “Tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng” thì Marx đã nói lên một sự kiện. Người ta thường hiểu lầm và thường xuyên tạc lời nói trên của Marx, cho rằng Marx muốn nói đến mọi tôn giáo trên thế giới. Thực ra, Marx chỉ muốn nói đến Ki Tô Giáo, một tôn giáo mà Marx đã biết rõ vì Marx sinh ra trong truyền thống tôn giáo này. Thật vậy, chúng ta cần biết đến định nghĩa về tôn giáo của Tây phương. Theo tự điển The American Heritage Dictinonary của Mỹ thì định nghĩa của Tôn Giáo là: “Niềm tin và sự kính ngưỡng vào một quyền năng siêu nhiên được biết như là một đấng sáng tạo và cai quản vũ trụ” (Religion = Belief in and reverence for a supernatural power recongnized as the creator and governor of the universe). Lẽ dĩ nhiên, các tôn giáo Đông phương như Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo đều không nằm trong định nghĩa này. Mặt khác, không có bằng chứng nào chứng tỏ Marx đã nghiên cứu hay hiểu biết về các tôn giáo Đông phương trên.

Do đó, bất cứ người nào có đôi chút kiến thức cũng phải hiểu rằng: Cọng Sản là một hệ thống chính trị xã hội – kinh tế (Communism is a socio-economic political system) trong khi Vô Thần là một lập trường đối với các tôn giáo (thần giáo), đặc biệt là Ki Tô Giáo (Atheism is a position taken in respect to religion, especially Western religion.), và Vô Thần đã có từ trên 2000 năm nay, như sẽ được chứng minh trong phần sau, trong khi Cộng sản mới chỉ ra đời cách đây trên 100 năm.

Vì không hiểu rõ chủ trương vô thần của Marx cũng như bản chất của vô thần cho nên ngày nay vẫn còn có những người cuồng tín thiếu đầu óc, kể cả những người gọi là trí thức Công Giáo như nhóm tác giả viết trong cuốn “2000 Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một Số Người Công Giáo”, cũng như mấy ông trí thức tân tòng Tin Dữ như Lê Anh Huy, Phan Như Ngọc, Huệ Nhật, Khuất Minh v..v.., và cả một số trí thức Phật Giáo thiếu trí tuệ, vẫn tiếp tục kết hợp Cộng sản với Vô Thần, làm như Vô Thần là một trọng tội xấu xa cần phải diệt trừ. Họ không đủ kiến thức để hiểu rằng, khi họ kết hợp Cộng Sản với Vô Thần là họ đang thực sự tôn vinh Cộng Sản. Tại sao? Vì ngày nay Âu châu đang trở thành vô thần, như sẽ được chứng minh trong phần sau.

Thật vậy, như Voltaire đã nhận định: “Vô Thần là thói xấu của một số ít những người thông minh” (Atheism is the vice of a few intelligent people) và trên thực tế, Vô Thần là kết quả tiến bộ trí thức của con người, như Frank E. Tate đã tuyên bố như sau:

“Suốt cuộc đời tôi, tôi đã tiến bộ từ một người sùng tín đến một người theo thuyết “bất khả tri” và bây giờ là một người vô thần. Tôi dùng từ “tiến bộ” vì tôi tin rằng đó thực sự là một sự tiến bộ, tiến từ sự chấp nhận mù quáng vào một huyền thoại phi lý đã lỗi thời đến sự nghi ngờ và sau cùng đến sự từ bỏ và không còn tin nữa.

Chính cái huyền thoại đó – cuốn Thánh kinh Do Thái – Ki Tô – là một cuốn ghi chép kinh hoàng về những cuộc đổ máu, dâm dật, và cuồng tín không đếm xỉa gì đến đời sống và sự an sinh của những người nào không bày tỏ niềm tin mù quáng của mình vào những giới luật được trình bày qua những lời lẽ mâu thuẫn và không thể nào xảy ra được”

(During my lifetime I have progressed from being a “believer,” to being an agnostic and now an atheist. I use the word “progress” because I believe it to be true progress to go from blind acceptance of an outdated illogical mythology to doubt and finally to denial and disbelief...

The myth itself – the Judeo-Christian Bible – is a shocking account of bloodshed, lust, and bigoted disregard for the lives and well-being of all peoples who do not profess a blind belief in the precepts presented in such impossible and contradictory terms.)

Có thể những người thờ thần, hay thờ Chúa cũng vậy, muốn biết là một người vô thần có những cảm nghĩ gì? Tôi xin mượn vài tư tưởng của Robert G. Ingersoll. Ingersoll là một nhà tư tưởng tự do nổi tiếng nhất của Mỹ. Tên ông ta có trong lịch sử, trong tự điển. Những tư tưởng của ông đều có trong các thư viện lớn. Tượng đài tưởng niệm ghi công ông khai phóng đầu óc giới trẻ được xây ở Peoria, bang Illinois. Ingersoll phát biểu như sau về cảm nghĩ của một người vô thần. Tôi chỉ xin nêu ra vài tư tưởng trong đó:

“Khi tôi tin chắc rằng Vũ trụ là thiên nhiên – và rằng những thánh ma, thiên chúa chỉ là những huyền thoại, thì những cảm nghĩ, nhận thức, và niềm hân hoan về sự tự do, giải thoát đã xâm nhập vào đầu óc tôi, vào linh hồn tôi, và vào từng giọt máu trong người tôi. Những bức tường của cái nhà tù của tôi [Ki Tô Giáo] đã sụp đổ, ngục tù tăm tối đã được tràn ngập ánh sáng, và tất cả những then cửa, chấn song, gông cùm đã trở thành cát bụi. Tôi không còn là một tôi tớ hèn mọn, một người hầu, hay một nô lệ nữa (Xin đọc trang nhà Mucsu.net: Người Ki Tô Giáo vẫn thường tự nhận là tôi tớ hèn hạ, là người hầu việc Chúa v..v.. ) Tôi đã tự do:

* tự do suy tư, phát biểu tư tưởng

* tự do sống theo ý tưởng của tôi

* tự do tận dụng mọi khả năng, mọi giác quan của tôi

* tự do tìm hiểu

* tự do vứt bỏ mọi tín điều ngu đần và độc ác, mọi sách “mạc khải” mà những người dã man đã tạo ra chúng và mọi truyền thuyết man rợ của quá khứ

* tự do thoát khỏi những giáo hoàng và linh mục

* tự do thoát khỏi những sai lầm được thánh hóa và những lời nói láo mang tính thánh

* tự do thoát khỏi sự sợ hãi về một sự đau đớn vĩnh hằng (đày hỏa ngục)

* tự do thoát khỏi những ma, quỉ và thiên chúa.”



(When I became convinced that the Universe is natural – that all the ghosts and gods are myths, there entered into my brain, into my soul, into every drop of my blood, the sense, the feeling, the joy of freedom. The walls of my prison crumbled and fell, the dungeon was flooded with light and all the bolts, and bars, and manacles became dust. I was no longer a servant, a serf, or a slave...I was free

free to think, to express my thoughts
free to live to my own ideal
free to use all my faculties, all my senses
free to investigate

free to reject all ignorant and cruel creeds, all the “inspired” books that savages have produced, and all the barbarous legends of the past

free from popes and priests
free from sanctified mistakes and holy lies
free from the fear of eternal pain
free from devils, ghosts and gods)

Nhìn vào thế giới ngày nay, ngoại trừ những ốc đảo tối tăm, hầu hết những nơi văn minh tiến bộ đều từ bỏ niềm tin vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa sáng tạo ra muôn loài. Thiên Chúa trong các xã hội văn minh tiến bộ ngày nay chỉ có một giá trị ước lệ, truyền thống, và con người trong những xã hội này thực sự đang sống những cuộc sống như là không có Thiên Chúa, không sợ Thiên Chúa, không tin là Thiên Chúa có thể can dự vào bất cứ khía cạnh nào của đời sống con người, và điều hiển nhiên nhất là không có ai theo những luật của Thiên Chúa [của Ki Tô Giáo].

John Cornwell, một tín đồ Công giáo và cũng là một chuyên gia về Công Giáo và Vatican, tác giả 2 cuốn sách nổi tiếng về Vatican: A Thief in the Night và Hitler’s Pope, đã viết thêm một tác phẩm về Công giáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Công Giáo (Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism), xuất bản năm 2001, trong đó chương đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối Của Công Giáo (A Catholic Dark Age). Trong chương này, tác giả John Cornwell đưa ra tình trạng suy thoái trầm trọng của Công giáo ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, và Pháp. Số tín đồ mang con đi làm lễ rửa tội giảm sút, vì ngày nay người ta nhận thức được rằng chẳng làm gì có tội ở đâu mà phải đi rửa; đám cưới tổ chức không cần đến linh mục, vì hôn phối có thể hợp thức hóa ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất hết ý nghĩa; giới trẻ không buồn đến nhà thờ, vì chẳng thấy gì hấp dẫn trong những lời giảng đi ngược thời gian của các linh mục; số từ bỏ đức tin gia tăng, vì người ta không còn chịu chấp nhận một đức tin mù quáng; từ 1958 đến nay, số vào nghề linh mục giảm đi 2/3 v..v.. Tình trạng ở Châu Âu, trước đây là cái nôi của Công giáo, thật là thê thảm. Ở Tây Âu (Western Europe), từ 30 đến 50% các giáo xứ không có linh mục. Ở Ý, 90% theo Công giáo nhưng chỉ có 25% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm 10% kể từ đầu thập niên 1980, số người vào học trường Dòng giảm một nửa. Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ Công giáo, số người cảm thấy mình được ơn kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970 còn 91 năm 1999, số linh mục được tấn phong từ 259 xuống 43 trong cùng thời gian. Trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu” [nghĩa là sống như là “vô thần”] (At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.) Ở Nam Mỹ, tình trạng cũng không khá hơn. 7000 tín đồ mới có một linh mục. Chỉ có 15% giáo dân đi xem lễ ngày chủ nhật. Theo một hội nghị quốc gia của các giám mục Ba Tây thì mỗi năm có khoảng sáu trăm ngàn tín đồ bỏ đạo (according to the National Conference of Brazilian Bishops, some 600000 Catholics leave the Church each year.)

Âu Châu và nhiều nơi khác trên thế giới đã trở thành “vô thần”. Cho nên, “Thiên Chúa” chỉ còn hiện hữu trong đám người có cái “gen” của Thiên Chúa, cái “gen” này thuộc loại nào, ai cũng đã đều biết. Vậy ngày nay từ “Cộng sản vô thần” chẳng nói lên được điều gì ngoài phản ánh sự kém hiểu biết của đám người cuồng tín, không theo kịp đà tiến hóa và sự tiến bộ trí thức của nhân loại.

Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu thế nào là “vô thần”, vô thần có từ bao giờ và những người vô thần trên thế giới là ai? Chúng ta hãy đọc một đoạn đặc sắc trong bài thuyết trình của Emmett F. Fields, Ibid. Trong bài thuyết trình này, tác giả chủ yếu nói về Ki Tô Giáo nhưng khi thì dùng từ “tôn giáo” (religion) khi thì dùng từ Ki Tô Giáo (Christianity). Đọc phần tiếng Anh chúng ta thấy rõ như vậy. Cho nên tôi đã thay một số từ “tôn giáo” bằng Ki Tô Giáo để cho dễ hiểu.

Bước đầu tiên trong việc tìm hiểu vô thần là phải loại bỏ những lời nói láo và tuyên truyền mà Ki Tô giáo truyền bá để chống vô thần. Vô thần không chỉ là kiến thức về sự không hiện hữu của các thần mà còn hơn nữa, là kiến thức về sự sai lầm hay gian xảo của Ki Tô giáo. Vô thần là một thái độ, một khung trí tuệ nhìn thế giới một cách khách quan, không sợ hãi, luôn luôn tìm hiểu mọi sự việc như là một phần của thiên nhiên. Có thể nói rằng vô thần có một giáo lý là phải đặt nghi vấn và một tín lý là phải nghi ngờ. Đó là trí tuệ con người trong môi trường thiên nhiên, không có gì là quá thánh thiện để không được tìm hiểu, không có gì là quá thiêng liêng để không được đặt nghi vấn. Cuốn Thánh Kinh của người vô thần, có thể nói như vậy, chỉ có một từ: “HÃY SUY NGHĨ”. Vô thần là sự giải thoát hoàn toàn của đầu óc con người khỏi những xiềng xích của sợ hãi và mê tín.

Vô thần tuyệt đối không có gì tiêu cực; sự thật không bao giờ có thể là tiêu cực. Vô thần đòi hỏi chứng minh, hay ít nhất là những bắng chứng hợp lý, và chỉ bác bỏ những gì không đáp ứng được sự đòi hỏi của sự hiểu biết thông thường. Trong suốt lịch sử, mọi tiến bộ trong xã hội có được là từ sự nghi ngờ và loại bỏ những ý tưởng, những tập quán, và những niềm tin cũ kỹ [vì không còn đúng]. Cái cây kiến thức nhân loại chết khi nó đang mọc lớn, với những cành lá mới mọc từ những phần đang chết, và thay thế những phần này với những niềm tin chân thật và tốt đẹp hơn. Nhà Thần học là một con cú, đậu trên một cành cây đã chết của cái cây kiến thức nhân loại, và rúc lên cùng những tiếng rúc cũ kỹ đã từng rúc lên trong nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhưng hắn chưa bao giờ phát ra một tiếng kêu rúc nào cho sự tiến bộ.

Về đạo đức, Vô thần ở ghế thượng phong trên Ki Tô giáo. Sự thất bại lớn của đạo đức Ki Tô giáo bắt nguồn từ ảo tưởng của họ về một đạo đức đứng trên đúng hay sai [vì là đạo đức của Thiên Chúa]. Đầu óc của người theo Ki Tô giáo đã biết là tra tấn và giết người là sai lầm, bạo hành và thù hận là sai lầm, cưỡng bức người khác vào đạo là sai lầm. Ki Tô giáo đã biết những điều đó là sai lầm, nhưng đầu óc của những người theo Ki Tô giáo trở nên tồi tệ vì cái ảo tưởng về một nền “đạo đức cao hơn”, và vì cái ảo tưởng này mà lịch sử nhân loại ngập máu những người vô tội. Nhân danh “thiên chúa” và một nền “đạo đức cao hơn” của họ, những người Ki Tô Giáo đã tiến hành những cuộc thánh chiến để tiêu diệt, đã cướp bóc, tra tấn và tàn sát những người không thể đồng ý với họ, hoặc chưa tùng nghe đến tôn giáo của họ. Nhân danh nền “đạo đức cao hơn” này, những người Ki Tô Giáo đã thù hận, săn lùng, bạo hành, và thiêu sống người “lạc đạo”, người “vô tín”, và người “vô thần”.

Và ngày nay, như đã từ bao giờ, khi tín đồ Ki Tô giáo làm những việc mà ngay hắn cũng biết là sai lầm và vô luân, nhưng cái ảo tưởng của hắn về một “quyền năng cao hơn” [của Thiên chúa] và một nền “đạo đức cao hơn” [của Ki Tô giáo] cho phép hắn trình diễn vài lễ tiết, xưng tội, hay cầu nguyện thì kỳ lạ thay, ngay lập tức, “tất cả tội lỗi của hắn đều được xóa bỏ”, và hắn lại không còn có thắc mắc gì về lương tâm hay hối hận.

Những ảo tưởng điên rồ như vậy không làm cho đầu óc người vô thần thoải mái. Người vô thần biết rằng không có đạo đức nào đứng trên đúng và sai, và con người không thoát ra khỏi được sự cắn rứt của lương tâm và hối hận. Giết người là giết người, ăn cướp là ăn cướp, thù hận và bạo hành là những tội ác chống nhân loại. Về đạo đức, lịch sử cho chúng ta thấy, làm người vô thần thì tốt hơn là làm người Ki-Tô.

Ki Tô giáo cho rằng sự vô đạo đức nẩy ra là vì thiếu vắng Ki Tô giáo, nhưng những sự kiện đã chứng tỏ ngược lại. Ki Tô Giáo chưa bao giờ mạnh như bây giờ, họ có nhà thờ trong mọi cộng đồng, độc quyền chiếm giờ trên đài phát thanh và đài truyền hình để tuyên truyền cho Ki Tô giáo, và họ đã cưỡng nhét Ki Tô giáo của họ vào chính quyền, luật pháp và trường học của chúng ta. Họ đã làm những việc chống với Hiến Pháp của Mỹ, và chống những quyền căn bản và thiêng liêng nhất của mọi người Mỹ khác. Họ đã len lỏi vào nhưng nơi họ không được vào, những nơi không có việc của họ, bịt miệng mọi chống đối, mọi quan điểm khác, bỏ thuốc độc vào cái giếng hiểu biết của chúng ta và làm nguy hại đến những gốc rễ của quốc gia chúng ta.

Ki Tô giáo ngày nay mạnh như vậy, nhưng chúng ta không đạt được một mức đạo đức nào đáng kể trong quốc gia này. Không ở đâu khác cho thấy sự thất bại về đạo đức Ki-tô giáo rõ rệt như ở Mỹ. Trong cùng một thời gian mà Ki Tô giáo trở nên mạnh hơn và giầu có hơn, trong 30 năm qua, vấn nạn dùng các loại ma túy đã trở thành một vấn nạn xấu xa của quốc gia, số tội ác tăng gia nhanh chóng, tỷ lệ ly dị tăng vọt, và trong thời gian này quốc gia của chúng ta bị lôi cuốn vào nhiều cuộc chiến tranh và xung đột thế giới hơn bao giờ hết trong lịch sử. Ngay bây giờ chúng ta có những tỷ lệ dùng ma túy, phạm tội ác, ly dị cao nhất cùng với “tỷ lệ theo Ki Tô giáo” cao nhất chưa từng có trong lịch sử quốc gia này. Ki Tô Giáo có thể nói gì về những sự kiện này và làm sao để chữa chạy chúng. Họ bảo chúng ta là chúng ta cần nhiều đến Ki Tô giáo hơn và cương quyết áp đặt Ki Tô giáo lên chúng ta. Ki Tô Giáo cảm thấy quá mạnh ngày nay và họ đang đi vào chính trị để cưỡng đặt nền đạo đức thất bại của họ trên mọi người Mỹ qua sự Độc Tài của Ki Tô Giáo và một Thời Đại Tăm Tối mới.

Một khi thái độ vô thần đã đạt được, và đầu óc đã thoát khỏi những sự sợ hãi và niềm tin trong Ki Tô giáo đã được cấy vào chúng ta từ khi còn nhỏ; và một khi chúng ta có thể nhìn vào tôn giáo một cách khách quan không thiên vị, thật hiển nhiên là Ki Tô giáo có tất cả những đặc tính của một dạng tâm linh điên rồ. Tùy theo mức độ, người sùng tín Ki Tô giáo phải chấp nhận, và tin, vào một thế giới khác; một thế giới siêu nhiên hay khác thường, một thế giới có đầy những nhân vật tưởng tượng gọi là thiên chúa, quỷ, thánh v..v.. Người ta nói với những tạo vật tưởng tượng này, xin xỏ ân huệ, sự hướng dẫn, những “dấu hiệu”, hoặc phép lạ, và rồi hoặc quy trách hoặc tạ ơn những biến cố thiên nhiên sau đó xảy ra. Nếu không phải là khoác bộ áo tôn giáo thì những niềm tin và những hành động như vậy phải coi là của một người điên, cần phải vào nhà thương điên để chữa trị.
Sự nghiên cứu lịch sử sẽ biện minh thêm cho thuyết Ki Tô giáo là một dạng tâm linh điên rồ. Không có một đầu óc lành mạnh nào lại có thể gây ra những cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu, những cuộc thập ác chinh mà những người bị chinh phục, đàn ông, đàn bà, trẻ con, và ngay cả con nít đều bị giết chỉ vì họ là những người “không tin” hay “lạc đạo”. Những tù ngục tối tăm và những phòng tra tấn của những tòa án thánh xử dị giáo không thể nào bị cai quản bởi những đầu óc lành mạnh. Và phải là loại đầu óc điên rồ, đầu óc Ki Tô giáo, mới trói người phụ nữ vào cột, rồi chất củi thiêu sống vì cái tội không thể nào có là phù thủy. Không có người nào tỉnh táo có thể đọc những chuyện khủng khiếp, hiếp dâm và giết người trong một cuốn sách man rợ mà người ta gọi cuốn sách đó là “Lời của Thiên Chúa”. Và huyền thoại về Giê-su, về một thiên chúa phải xuống làm người và bị giết trước khi có thể tha thứ tội lỗi cho nhân loại, là chuyện điên rồ nhất trong những chuyện điên rồ.

Ngày nay, Ki Tô Giáo cố tình không biết đến, hay giấu kín và phủ nhận cái lịch sử đẫm máu của mình và tự tôn là nền tảng đạo đức của chúng ta, và là nền tảng ngay cả nền văn minh của chúng ta. Ki Tô Giáo tự cho rằng là nguồn hi vọng duy nhất của chúng ta trong tương lai. Nhìn vào lịch sử Ki Tô Giáo, những điều tự nhận như vậy, bản chất chỉ là những lời nói điên dại.

(The first step, then, in understanding Atheism is to disregard all the lies and propaganda that religion has spread against it. Atheism is more than just the knowledge that gods do not exist, and that religion is either a mistake or a fraud. Atheism is an attitude, a frame of mind that looks at the world objectively, fearlessly, always trying to understand all things as a part of nature. It could be said that Atheism has a doctrine to question and a dogma to doubt. It is the human mind in its natural environment, nothing is too holy to be investigated, nor too sacred to be questioned. The Atheist Bible, it could be said, has but one word: "THINK." Atheism is the complete emancipation of the human mind from the chains and fears of superstition.

There is absolutely nothing negative about Atheism; truth can never be negative. The Atheist demands proof, or at least reasonable evidence, and simply rejects whatever does not meet the basic requirements of common sense. Throughout history all progress in society has come from doubting and rejecting old ideas, old customs, and old beliefs. The tree of human knowledge dies as it grows, with new growth growing out of the dead and dying parts, and replacing it with better and truer beliefs. The Theologian is an owl, sitting on an old dead branch in the tree of human knowledge, and hooting the same old hoots that have been hooted for hundreds and thousands of years, but he has never given a hoot for progress.

Morally speaking, Atheism has a great advantage over religion. The great failure of religious morality comes from their illusion of a morality above right and wrong. The religious mind has always known it is wrong to murder and torture, wrong to persecute and hate, wrong to force its beliefs upon others. Religion has always known these things are wrong, but the religious mind suffers from the illusion of a "higher morality," and because of that illusion all history runs deep with innocent blood. In the name of their "god" and a "higher morality," Christians have waged holy wars of extermination, have plundered, tortured and murdered those who could not agree with their religion, or who had never even heard of it. In the name of this "higher morality" Christians have hated, hunted, persecuted, and burned alive the "heretic," the "infidel" and the "atheist."

And today, as always, when the religious person does a thing that even he recognizes as being wrong and immoral, his illusion of a "higher power" and a "greater morality" allows him to perform some ritual, confession, or prayer, and presto, miraculously, "all his sins are taken away", and he is free again from all pains of conscience and regret.

Such foolish illusions do not comfort the Atheist mind. The Atheist knows there is no morality above right and wrong, and no escape from the pains of conscience and remorse. Murder is murder, and robbery, hate and persecution are all crimes against humanity. Morally speaking, then, history tells us it is better to be an Atheist than to be a Christian.

Religion claims that immorality always springs from a lack of religion, but the facts prove just the opposite. Christianity has never been stronger than it is today, Christians have churches in every community, they monopolize radio and television time with religious propaganda, they have forced their religion into our government, our laws, and into our schools. They have done these things against the Constitution of the United States, and against the most basic and sacred rights of all other Americans, rushed in where it was not supposed to be, where it has no business to be, silencing all opposition, all opposing views, poisoning the wells of our knowledge, and endangering the very roots of our nation.

Christianity is that strong today, and yet we have not achieved any respectable amount of morality in this country. Nowhere is the failure of Christian morality more evident than in America. During the same time that Christianity has been growing ever stronger and ever richer, over the past thirty years or so, the use of harmful drugs has became a national scandal, the crime rate has been climbing ever higher and ever faster, the divorce rate has skyrocketed, and during that time our nation has been embroiled in more wars and international conflicts than in any other similar time period in its history. Right to-day we have the highest narcotics abuse rate, the highest crime rate, the highest divorce rate, and the highest 'religion rate' that we have ever had in the history of this nation. What does Christianity say about these facts and how to cure them? They tell us we need more religion and they are determined to force it upon us. Christianity feels so strong today that it is moving into politics to try to force its failing morality upon every American through a Christian Dictatorship and a new Dark Age.

Once Atheism is achieved, and the mind has escaped entirely from the religious fears and beliefs that are put upon us from earliest childhood; and once we can look at religion objectively and impartially, it becomes entirely obvious that religion has all the characteristics of a form of insanity. To one degree or another the religious mind must accept, and believe in, another world; a supernatural or unnatural world, a world filled with all sorts of imaginary beings called gods, devils, angels, saints, demons, etc. These imaginary creatures are talked to, asked for favors, guidance, "signs," or miracles, and then blamed or thanked for natural events that follow. Except for the cloak of religion, such beliefs and actions would otherwise cause an individual to be judged insane, and committed to an institution for treatment.

The study of history will further justify the theory that religion is a form of insanity. No sane and healthy minds could have waged the bloody religious wars and crusades where the conquered were slaughtered, men, women, and children, even infants, all were put to the sword simply because they were "infidels" or "heretics." The dungeons and torture chambers of the Holy Inquisition could not have been run by sane and healthy minds. And it had to be the insane mind, the religious mind, that would tie a woman to a stake, pile wood and fagots around her and burn her alive for the impossible crime of being a witch. No sane person could read of the horrors, rape and slaughter in a savage book and call that book "the word of God." And the Jesus myth, about a god who must become a man and be murdered before he can forgive mankind, is the most insane of all.

Today, Christianity chooses to ignore, or to hide and deny, its own bloody history and to claim that it is the very foundation of our morals, and even of our civilization. Religion also claims to be our only hope and guide for the future. In view of Christian history these claims are, in themselves, sheer insanity.)

Tôi nghĩ rằng vài tài liệu như trên cũng đủ để cho chúng ta phân biệt được thế nào là “vô thần” và thế nào là “hữu thần”. Sau đây chúng ta sẽ thử xem trong lịch sử thế giới những ai là “vô thần”.

Trước hết là Đức Phật, Đức Khổng Tử, Lão Tử ở Đông Phương trong thế kỷ 6 trước thường lịch. Cùng thời với 3 nhân vật vĩ đại của nhân loại trên, chúng ta thấy Simonides, một thi sĩ Hi Lạp. Rồi sau đó là Empedocles, Aristotle, triết gia Hi Lạp; Demosthenes, nhà hùng biện thành Athenes; Epicurus, triết gia Hi Lạp; Lucretius, triết gia La Mã; Statius, Thi sĩ La Mã. Tất cả những nhân vật có tên trong lịch sử trên đều sinh ra trước Giê-su. Trong cuốn Đức Tin Công Giáo, Giao Điểm xuất bản năm 2000, trong phần phụ lục, tôi đã đưa ra danh sách 75 danh nhân trí thức Âu Mỹ có thể xếp vào hạng những người vô thần. Phần này cũng đã được đưa lên trang nhà Giao Điểm.

Bây giờ chúng ta hãy kể vài nhân vật “hữu thần” nổi danh trên thế giới. Hiển nhiên các giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục, linh mục là những người “hữu thần” bậc nhất. Mở danh sách các giáo hoàng ra chúng ta thấy có bao nhiêu giáo hoàng nổi tiếng trên thế giới, thuộc loại “lưu danh muôn thuở” hay “lưu xú vạn niên”.? Lloyd M. Graham đã viết trong cuốn Những Dối Trá và Huyền Thoại Của Thánh Kinh (Deceptions and Myths of the Bible): “Đối với hàng triệu linh hồn bị lạc dẫn...một ngàn năm tội ác và đồi bại (của giáo hội Công giáo) được làm nhẹ đi qua lời giải thích hời hợt là “chỉ có vài giáo hoàng xấu”. Nếu những người giải thích như vậy mà lương thiện, họ phải thừa nhận rằng thật ra chỉ có vài giáo hoàng tốt” (For millions of misguided souls..., a thousand years of crime and corruption are glossed over with the statement, “There were a few bad popes.” Were their informers honest they would admid there were a few good). Sau đây là một thí dụ điển hình: Edward Gibbon (1737-1794), một Sử gia người Anh đã viết: “Những tội nghiêm trọng nhất đã bị dẹp bỏ, Người đại diện của Chúa Ki Tô (Giáo hoàng John XXIII, 1414) chỉ bị kết tội là ăn cướp, sát nhân, hãm hiếp, giao hợp đồng giống, và loạn luân (The most serious charges were suppressed; the Vicar of Christ (Pope John XXIII, 1414) was accused only of piracy, murder, rape, sodomy, and incest.) Một số chi tiết về các giáo hoàng đồi bại này đã được trình bày trong cuốn Đức Tin Công Giáo, chương II, tôi không nhắc lại ở đây nữa. Ngoài ra chúng ta còn phải kể Hitler, Mussolini, Franco, Pétain, MacCarthy, Von Papen, Himmler, Goebbels, Palevich v..v.., tất cả đều là những người “hữu thần”. Nhưng tội ác của họ đối với nhân loại ra sao? Công Giáo “hữu thần”, nhưng Công Giáo đã gây nên bao nhiêu thảm trạng cho nhân loại?

Riêng về Việt Nam thì những ai là “vô thần” theo nghĩa không biết đến, không tin, không công nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa của Ki Tô Giáo? Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Quốc sư Vạn Hạnh, Lý Thường Kiệt, Trần Bình Trọng, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Hồ Chí Minh v...v... Những bậc tiền nhân này đã làm gì cho nước Việt nếu không phải là có công đánh đuổi xâm lăng, bảo toàn chủ quyền, nền độc lập quốc gia, hoặc làm rạng danh nền văn hóa Việt Nam? Còn những kẻ “hữu thần” là ai? Pétrus Ký, Nguyễn Trường Tộ, Paulus Của, Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân, Trần Lục, Ngô Đình Khả, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Hoàng Quỳnh v..v.. Họ là ai? Toàn là Việt gian bán nước, theo giặc chống lại tổ quốc, hoặc cuồng tín, nô lệ Vatican như Ngô Đình Diệm?

Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho sự kiện bán nước của Công Giáo qua văn kiện có tính cách khẳng định sau đây của chính Giám mục Puginier, được trích dẫn trong cuốn Catholicisme et Sociétes Asiatiques của Alain Forrest và Yoshiharu Tsuboi:

"Giám Mục Puginier viết rằng: "Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thật vậy, không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo, người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù; họ sẽ không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ; họ sẽ bị đẩy vào tình trạng không thể hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách nhanh chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện diện của họ sẽ bị nguy hại."

(Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes. La comparaison, pour être triviale, ne manque pas de justesse et de force. En effet, sans les missionnnaires et les chrétiens, les Francais se verraient entourés d'ennemis; ils ne pouraient se fier à personne; ils ne recevraient que de faux renseignements, méchamment donnés pour compromettre leur situation; ils se trouveraient donc réduits à l'impossibilité d'agir et seraient rapidement exposés à des vrais désastres. Leur position ici ne serait plus tenable, et ils ne verraient forcés de quitter un pays où leurs intérêts et leur existence même serait compromis.)

Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho hành động bán nước của linh mục Trần Lục, người dẫn 5000 giáo dân đi tiếp tay, hỗ trợ quân đội Pháp để hạ trung tâm kháng chiến Ba Đình của Đinh Công Tráng? [Xin đọc Thập Giá Và Lưỡi Gươm của LM Trần Tam Tĩnh]

Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho sự kiện là giám mục Lê Hữu Từ đã theo lệnh chống Cộng của giáo hoàng Pius XII, nhận vũ khí của Pháp khi Pháp trở lại Việt Nam, tổ chức những “khu tự trị” (sic) Phát Diệm, Bùi Chu để giết dân ngoại đạo vô tội, đi cướp phá các làng “lương”” dưới chiêu bài chống Cộng sản Vô Thần.

Vậy thì giữa “vô thần” cứu nước và làm rạng danh nước, và “hữu thần” nô lệ ngoại bang, phản bội quốc gia, người dân Việt nên chọn thứ nào? 93% dân Việt đã chọn “vô thần”, còn 7% chọn “hữu thần”. Viết như trên không có nghĩa là tất cả 7% người dân Việt theo Công giáo đều là những người bán nước, phản bội quốc gia. Phần lớn họ là nạn nhân của một nền thần học ru ngủ xảo quyệt, không đủ trí tuệ để nhận ra bộ mặt thật của tôn giáo họ, ham hố một sự “cứu rỗi” không tưởng, tin theo luận điệu bịp bợm của giáo hội như giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, “Cha cũng như Chúa” có quyền tha tội hay cầm giữ tội của họ v..v.., cho nên đã nhắm mắt theo lệnh của những linh mục đầy tớ của Vatican mà không ý thức được những hành động phản quốc của mình. Họ đáng thương hơn là đáng trách. Nhưng chính điều này đã chứng tỏ rằng “hữu thần” hoàn toàn không có gì có thể gọi là đạo đức hơn hay tốt đẹp hơn “vô thần” nếu không muốn nói là còn kém xa.

Sau đây là vài đoạn của James A. Haught trong cuốn “2000 Years of Disbelief: Famous people with the Courage to Doubt”, trang 11-14, về lịch trình phát triển “vô thần” ở Tây phương:

“Những người thông minh, có học thức, thường không tin là có đấng siêu nhiên. Cho nên chẳng lấy gì làm ngạc nhiên nếu chúng ta thấy một tỷ lệ cao những người nghi ngờ tôn giáo (tây phương) trong số những tư tưởng gia, khoa học gia, văn gia, những nhà cải cách, học giả, tiền phong trong dân chủ, và những nhà thay đổi thế giới – những người thường được gọi là danh nhân.

Sự tiến triển của nền văn minh Tây phương đã là một phần của câu chuyện chiến thắng từ từ trên tôn giáo đàn áp (Ki Tô giáo). Sự nổi giậy của thuyết nhân bản đã chuyển trọng tâm của xã hội ra khỏi sự tuân phục các giám mục và vua chúa để đi tới những quyền của cá nhân và điều kiện sinh sống của con người. Phần lớn sự tiến bộ này đã được thúc đẩy bởi những con người, nam cũng như nữ, không cầu nguyện (Thiên chúa), không quỳ trước bàn thờ (trong những nhà thờ), không đi hành hương (các thánh địa của Ki Tô Giáo), không đọc những Kinh Tin Kính.

Nền văn hóa Tây phương đã đi theo một hành trình thất thường. Hi Lạp và La Mã cổ xưa đã đồng hành với sự tìm hiểu trí thức giữa quan niệm tôn giáo đa thần. Thế rồi Thời Đại Đức Tin của Ki Tô Giáo đã mang lại sự tối tăm trong nhiều thế kỷ. Thời đại Phục Sinh đã làm sống lại chủ thuyết cá nhân và quyền suy tư tự do, bay bổng lên trong Thời Đại Lý Trí và Thời Đại Khai Sáng. Với sự nở rộ của khoa học trong thế kỷ 19, nhiều tư tưởng gia đã cho rằng tôn giáo huyền bí (tức Ki Tô Giáo) sẽ phải tan biến, và đại để thì điều này đã xảy ra trong giới trí thức.

Dần dần, lối suy nghĩ khoa học tiến triển, và tôn giáo thoái lui, quyền tự do không tin đã nhô lên ở Tây phương..

Cuối cùng, quyền không tin đã được thiết lập. Tự do suy tư nở rộ trong giới trí thức Âu Châu và Mỹ, đạt tới thời vàng son vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Những người không tin như Robert Ingersoll đã thực hiện những chuyến du thuyết thách đố chủ thuyết siêu nhiên (Ki Tô Giáo). Những nhà báo như H. L. Mencken công khai tấn công “sự mê tín” (của Ki Tô Giáo).

Thật là một điều mâu thuẫn lạ lùng: một phần đáng kể dân chúng khắp thế giới vẫn còn thờ phụng những thiên chúa không ai nhìn thấy, đôi khi còn giết người cho những thiên chúa này – trong khi hầu hết những tư tưởng gia, khoa học gia, văn gia, và những giới trí thức khác, thường là đã loại bỏ đấng siêu nhiên.

Đối với bất cứ ai duyệt qua quá khứ và quan sát thế giới ngày nay, hầu như không thể nào tìm ra được một người có tiếng tăm – ngoại trừ đối với các giáo hoàng, tổng giám mục, vua chúa và các nhà cầm quyền đi kiếm hậu thuẫn của quần chúng - lại có thể nói rằng mục đích của đời sống con người là được “cứu rỗi” bởi một Giê-su vô hình và lên một thiên đường vô hình. Nhưng thật là dễ dàng tìm được rất nhiều người không tin cái tín lý căn bản này trong số những danh nhân.”

(Intelligent, educated people tend to doubt the supernatural. So it is hardly surprising to find a high ratio of religious skeptics among major thinkers, scientists, writers, reformers, scholars, champions of democracy, and other world changers – people usually called great.

The advance of Western civilization has been partly a story of gradual victory over oppressive religion. The rise of humanism slowly shifted society’s focus away from obedience to bishops and kings, onto individual rights and improved living conditions. Much of the progress was impelled by men and women who didn’t pray (to God), didn’t kneel at altars (in churches), didn’t make pilgrimages (to holy places), didn’t recite creeds.

Western culture has traveled an erratic journey. Ancient Greece and Rome teamed with intellectual inquiry, amid polytheism. Then the Christian Age of Faith brought darkness for centuries. The Renaissance revived individualism and free thingking, which soared in the Age of Reason and the Enlightenment. With the flowering of science in the nineteenth century, many thinkers assumed that mystical religion would vanish. Among intellectuals, it largely has done so..

Slowly, as scientific thinking grew and religion retreated, freedom of doubt emerged in the West..

Eventually, the right to disbelieve was established. Freethought blossomed among intellectuals in Europe and America, reaching a heyday at the end of the nineteenth century and the beginning of the twentieth. Doubters such as Robert Ingersoll conducted speaking tours to challenge supernaturalism. Newspaper writer such as H. L. Mencken openly assailed “superstition”...

It is a strange contradiction: A good part of people around the globe still still worship unseen gods, and sometimes even kill for them – yet most Western thinkers, scientists, witers, and other intellectuals generally reject the supernatural.

For anyone scanning the past and surveying the current world scene, it is nearly impossible to find any oustanding person – except for popes, archbishops, kings and other rulers seeking popular support – who says the purpose of life is to be saved by an invisible Jesus and to enter an invisible heaven. But ist is easy to find many among the great who doubt this basic dogma...)

Đúng vậy, Phật Giáo là đạo của trí tuệ nên không mê tín đến độ có thể tin vào một Thiên Chúa sáng tạo ra muôn loài. Đức Phật đã khẳng định như vậy. Do đó Phật Giáo cũng vô thần. Phật Giáo rất hãnh diện là một tôn giáo vô thần, vì vô thần phản ánh sự sáng suốt của trí tuệ. Những người ngày nay còn tiếp tục dùng từ “vô thần” để ám chỉ một điều xấu chỉ chứng tỏ một tâm cảnh cuồng tín của Ki Tô Giáo đã lỗi thời. Ngoài ra nó còn chứng tỏ một trình độ hiểu biết thấp kém, vì đối với các giới trí thức trong những xã hội tân tiến Âu Mỹ, “Vô Thần” là một biểu hiện của tự hào, của danh dự (A badge of honor). James A. Haught đã coi những người vô thần như thuộc đoàn thể của những vĩ nhân. (They are in the company of giants). Nhưng ai là những vĩ nhân? Ngoài một số danh nhân thế giới tôi đã nêu tên trong một phần trên, chúng ta còn phải kể 6 vị Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ và vô số những khoa học gia cùng các trí thức trong mọi ngành. Sau đây, để kết luận, tôi xin liệt kê tên của một số nhỏ những nhân vật có tên tuổi trên thế giới mà tôi cho là quen thuộc nhất đối với chúng ta, trong số 600 nhân vật (lẽ dĩ nhiên vẫn chưa đầy đủ) trong cuốn 2000 Years of Disbelief: Famous People With The Courage To Doubt của James A. Haught, Prometheus Books, 1996, những nhân vật có thể xếp vào trong đoàn thể của những người “vô thần”, theo thứ tự A, B, C:



Lord Acton, John Adams, Ethan Allen, Steve Allen, Aristotle, Isaac Asimov, Sir Francis Bacon, Honoré de Balzac, Charles Baudelaire, Simone de Beauvoir, Ludwig van Beethoven, Hector Berlioz, Georges Bizet, Charles Bradlaugh, Johannes Brahms, Benjamin Britten, Giordano Bruno, Pearl Buck, Albert Camus, Andrew Carnegie, Marcus Tullius Cicero, Auguste Comte, Confucius, Nicolaus Copernicus, Clarence Darrow, Charles Darwin, Claude Debussy, Daniel Defoe, Demosthenes , Charles Dickens, Denis Diderot, Diogenes, Alexandre Dumas , Will Durant, Thomas Eddison, Albert Einstein, George Eliot, Albert Ellis, Empedocles, Euripides, William Faulkner, Richard P. Feynman, Gustave Flaubert, Antony Flew, George William Foote, Anatole France, Benjamin Franklin, Sigmund Freud, Galileli Galileo, Indira Gandhi, Mohandas Gandhi, Giuseppe Garibaldi, Edward Gibbon, André Gide, Johann Wolfang von Geothe, Thomas Hardy, Stephen Hawking, Joseph Haydn, George W. F. Hegel, Martin Heidegger, Fred Hoyle, Victor Hugo, David Hume, Aldous Huxley, Robert G. Ingersoll, Thomas Jefferson, James Joyce, Franz Kafka, Immanuel Kant, Johannes Kepler, Jean de la Bruyère, Pierre Simon de Laplace, William E. H. Lecky, Abraham Lincoln, John Locke, James Madison, Karl Marx, Jules Massenet, Somerset Maugham, Guy de Maupassant, Henry Louis Mencken, Michel de Montaigne, Baron de Montesquieu, Wolfang Amadeus Mozart, Jawaharlal Nehru, Friedrich Nietzsche, Madalyn Murray O’Hair, Thomas Paine, Blaise Pascal, Pablo Picasso, Max Planck, Marcel Proust, Jules Renard, Eleanor Roosevelt, Theodore Roosevelt, Jean-Jacques Rousseau, Carl Sagan, George Sand, George Santayana, Jean Paul Sartre, Arthur Schlesinger, William Shakespeare, Adam Smith, Socrates, Baruch Spinoza, Richard Strauss, Leo Tolstoy, Mark Twain, Voltaire, George Washington, Daniel Webster, H. G. Wells, Zeno, Émile Zola.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét