Thứ Sáu, 2 tháng 5, 2014

Cái chết của chủ nghĩa hậu hiện đại và xa hơn



ALAN KIRBY

 Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009.


Trước mặt tôi là bản mô tả một đơn vị giáo trình tải từ trang web của phân khoa tiếng Anh thuộc một trường đại học của nước Anh. Nó bao gồm những chi tiết về những bài vở phải làm và một danh mục sách đọc hàng tuần dành cho đơn vị giáo trình tùy chọn “Tiểu thuyết Hư cấu Hậu hiện đại”, và nếu danh xưng của trường đại học không được nêu tên ở đây, thì không phải vì đơn vị giáo trình này là đáng xấu hổ, mà vì nó tiện dụng để tiêu biểu cho những đơn vị giáo trình khác hoặc những phần của giáo trình sẽ được giảng dạy trong hầu hết các phân khoa tiếng Anh trong năm học tới trên khắp nước Anh. Nó mặc định rằng chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn còn sống, vẫn đang phát triển và hoạt động tích cực: nó cho biết sẽ giới thiệu “những chủ đề chung của ‘chủ nghĩa hậu hiện đại’ và của ‘tính hậu hiện đại’, bằng cách khảo sát mối liên hệ giữa chúng với văn phong đương đại của tiểu thuyết hư cấu”. Điều này có thể có ý ám chỉ rằng chủ nghĩa hậu hiện đại là đương đại, nhưng thực ra sự so sánh lại cho thấy chủ nghĩa đó đã chết và đã được chôn.

Triết học hậu hiện đại nhấn mạnh vào tính khó nắm bắt của ý nghĩa và kiến thức. Điều này thường được biểu thị trong nghệ thuật hậu hiện đại như mối quan tâm về sự miêu tả và sự tự thức có tính châm biếm. Và luận cứ rằng chủ nghĩa hậu hiện đại là cái đã qua rồi, luận cứ đó đã được thực hiện một cách triết lí. Có người đã khẳng định về cơ bản rằng có một khoảng thời gian chúng ta đã tin vào những ý tưởng hậu hiện đại, nhưng nay không còn tin nữa, và từ nay trở đi chúng ta sẽ tin vào chủ nghĩa hiện thực phê phán. Sự yếu kém trong phân tích này là nó tập trung vào học viện, vào thực tiễn và giả định của các triết gia hoặc có thể hoặc không thể hoặc sắp sửa chuyển đổi lập trường - và nhiều học giả chỉ đơn giản là quyết định rằng, cuối cùng, họ thích tiếp tục nghe theo Foucault [một nhà hậu hiện đại thuộc loại chủ chốt] hơn là chuyển sang bất cứ điều gì khác. Tuy nhiên, có một luận cứ thuyết phục hơn nhiều buộc người ta phải chấp nhận rằng chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết: chỉ cần nhìn ra ngoài học viện để nhìn vào những sản phẩm văn hóa hiện hành.

Hầu hết các sinh viên [hệ cử nhân] theo lớp ‘Tiểu thuyết Hư cấu Hậu hiện đại’ năm nay, đều sinh ra vào năm 1985 hoặc sau đó, và hầu hết những văn bản chính ghi trong đơn vị giáo trình đều được viết ra trước khi những sinh viên đó ra đời. Không hề là ‘đương đại’ chút nào, những văn bản này đã được xuất bản trong một thế giới khác, trước khi các sinh viên đó chào đời: The French Lieutenant’s Woman, Nights at the Circus, If on a Winter’s Night a Traveller, Do Androids Dream of Electric Sheep? (and Blade Runner),White Noise: đây là văn hóa của Mẹ và Cha. Một số văn bản (‘The Library of Babel’) thậm chí còn được viết ra trước khi cha mẹ của họ chào đời. Thay thế kho văn bản này bằng những văn bản ưa thích của những người ủng hộ trung thành của chủ nghĩa hậu hiện đại - Beloved, Flaubert’s Parrot, Waterland, The Crying of Lot 49, Pale Fire, Slaughterhouse 5, Lanark, Neuromancer, cũng như bất kì tác phẩm nào của B.S. Johnson - và sự thể diễn ra vẫn hệt như vậy. Nghĩa là cũng đương đại như The Smiths [ban nhạc rock Anh, 1982], cũng hợp thời trang như những miếng độn vai áo [những năm 1930’s], cũng đang xảy ra như máy ghi hình Betamax [1975]. Đó là những văn bản nhằm đáp trả sự thách đố của nhạc rock và truyền hình; trong hầu hết những văn bản đó thậm chí không có nổi cái mơ ước về tính khả hữu của nền công nghệ và các phương tiện truyền thông đại chúng - điện thoại di động, email, internet, máy tính trong mỗi ngôi nhà đủ mạnh để đưa một người lên mặt trăng - mà sinh viên [hệ cử nhân] ngày nay cho là chuyện đương nhiên.

Lí do tại sao danh mục những sách đọc chính ghi trong những đơn vị giáo trình của những lớp ‘Tiểu thuyết Hư cấu Hậu hiện đại’ ở nước Anh lại gồm những sách quá cũ, nói một cách tương đối, là bởi nó không được trẻ hóa. Hãy thử nhìn vào thương trường văn hóa: mua những tiểu thuyết được xuất bản trong vòng năm năm qua, xem một bộ phim thế kỷ XXI, nghe loại nhạc mới nhất - đặc biệt là ngồi xem truyền hình trong vòng một tuần lễ - và hầu như bạn chẳng hề bắt gặp, dù chỉ thoáng qua, chút gì là của chủ nghĩa hậu hiện đại. Tương tự như vậy, ta có thể đến tham dự các hội nghị văn học (như tôi đã tới dự vào tháng Bảy) và ngồi nghe một tá bài tham luận, không thấy ai đề cập đến vấn đề Lí thuyết [văn học], tới Derrida, Foucault, Baudrillard. Cảm nhận của các nhà hàn lâm về sự phế thải do quá già nua, về sự bất lực và sự không thích hợp của rất nhiều lí thuyết cũng minh chứng cho sự qua đi của chủ nghĩa hậu hiện đại. Những người sản xuất những sản phẩm văn hóa mà những nhà hàn lâm và không hàn lâm đọc, xem và nghe, đã hoàn toàn từ bỏ chủ nghĩa hậu hiện đại. Những văn bản siêu hư cấu hoặc tự ý thức chỉ họa hoằn xuất hiện, lại phải chịu sự tiếp nhận rất đỗi thờ ơ - như cuốn Lunar Park của Bret Easton Ellis - nhưng rồi những cuốn tiểu thuyết thuộc trường phái hiện đại, dù bị lãng quên từ lâu, vẫn còn được viết vào những năm 1950 và thập niên 60. Nơi duy nhất mà chủ nghĩa hậu hiện đại còn tồn tại, là trong các phim hoạt hình như Shrek và The Incredibles dành cho trẻ em, mà các bậc cha mẹ có nghĩa vụ phải ngồi xem với những đứa trẻ mới biết đi của họ, để dỗ dành chúng. Chủ nghĩa hậu hiện đại đã bị đánh chìm tới mức như vậy; một nguồn cung cấp những sản phẩm bị mắc nghẹn ngoài lề trong nền văn hóa đại chúng nhắm vào trẻ em dưới 8 tuổi.

Chủ nghĩa Hậu Hậu-hiện-đại là gì?

Tôi tin rằng đây không phải chỉ là sự chuyển đổi đơn giản trong thời trang văn hóa. Các thuật ngữ mà thông qua chúng, những khái niệm về quyền lực, kiến thức, tính cách của bản ngã, thực tại và thời gian được quan niệm ra sao, thì nay đã đổi khác một cách đột ngột và mãi mãi. Giờ đây có một hố sâu ngăn cách giữa hầu hết những giảng viên và sinh viên của họ, giống như hố ngăn cách đã xuất hiện vào cuối những năm 1960, nhưng không cùng một loại lí do. Sự chuyển đổi từ chủ nghĩa hiện đại sang chủ nghĩa hậu hiện đại không xuất phát từ bất kì sự diễn-đạt-lại một cách sâu xa nào trong những điều kiện của sự sản xuất và tiếp nhận văn hóa; nói cường điệu một cách tu từ, thì tất cả những gì đã xảy ra là loại người từng viết những tác phẩm như Ulysses và To the Lighthouse lại đổi sang viết những tác phẩm như Pale Fire và The Bloody Chamber. Nhưng đâu đó vào cuối những năm 1990 hoặc đầu những năm 2000, sự nổi lên của những công nghệ mới đã tái cấu trúc, một cách dữ dội và mãi mãi, cái bản chất của tác giả, của người đọc và của văn bản, cùng những mối quan hệ giữa chúng với nhau.

Chủ nghĩa hậu hiện đại, giống như chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa lãng mạn trước đó, tôn thờ tác giả [nghĩa là đặt tầm quan trọng lớn nhất nơi tác giả], ngay cả khi tác giả đã chọn lựa sự tự buộc tội hoặc giả bộ xóa bỏ chính mình. Nhưng nền văn hóa ngày nay của chúng ta lại tôn thờ người tiếp nhận văn bản đến mức độ khiến họ trở thành một phần hoặc toàn bộ tác giả của văn bản đó. Những người lạc quan có thể thấy điều này là sự dân chủ hóa của nền văn hóa; những người bi quan sẽ chỉ rõ cho thấy sự tầm thường và sự trống rỗng gây nhức nhối của những sản phẩm văn hóa được tạo ra bằng cách ấy (ít nhất là cho tới nay).

Để tôi giải thích. Chủ nghĩa hậu hiện đại hình dung nền văn hóa đương đại như một cảnh tượng mà con người cá nhân ngồi bất lực nhìn ngắm nó, và trong vòng quang cảnh đó, thì mọi câu hỏi về cái thực đều bị đặt thành vấn đề. Do vậy, nó nhấn mạnh đến truyền hình hoặc màn ảnh. Kế thừa của nó, tôi xin gọi làchủ nghĩa giả-hiện-đại, biến hành động của cá nhân trở thành điều kiện cần thiết của sản phẩm văn hóa. Chủ nghĩa giả-hiện-đại bao gồm tất cả các chương trình truyền hình hoặc truyền thanh hoặc những phần của chương trình, tất cả các “văn bản” có nội dung và động lực được hư cấu hoặc hướng dẫn bởi người tham dự, tức là người xem hoặc người nghe (mặc dù các thuật ngữ sau, do tính thụ động và sự nhấn mạnh của chúng vào sự tiếp nhận, đều là lỗi thời: bất cứ điều gì mà người tham dự bỏ phiếu gọi vào chương trình Big Brother hoặc người hâm mộ gọi vào chương trình bóng đá 6-0-6, đều khiến họ không đơn giản chỉ là đang xem hoặc đang nghe).

Theo định nghĩa, những sản phẩm văn hóa giả-hiện-đại không thể và không từng tồn tại trừ khi có sự can thiệp của con người cá nhân bằng xương bằng thịt. Cuốn tiểu thuyết Great Expectations tồn tại một cách cụ thể, dù có ai đọc nó hay không. Một khi Dickens viết xong và nhà xuất bản phát hành nó, đưa nó vào thế giới, thì “nội dung văn bản mang tính vật thể” của nó [its ‘material textuality’] - sự tuyển chọn những từ của nó - đã được tác tạo và hoàn tất, cho dù ý nghĩa của nó, tức là người ta sẽ diễn giải nó ra sao, là cái mà phần lớn vẫn còn đủ để dành cho mọi người. Riêng về sản lượng vật chất và kết cấu của nó thì đã được quyết định bởi những nhà cung cấp, đó là tác giả, nhà xuất bản, nhà phát hành chương trình nhiều tập, vân vân - chỉ có ý nghĩa của nó là thuộc địa hạt của người đọc. Mặt khác, lấy một văn bản điển hình của văn hóa giả-hiện-đại làm ví dụ, là Big Brother, ta thấy văn bản này sẽ không tồn tại một cách cụ thể nếu chẳng có ai gọi điện thoại bỏ phiếu chống những đối thủ của nó. Do đó, quyền bỏ phiếu là một phần của “nội dung văn bản mang tính vật thể” - nghĩa là chính khán giả gọi điện thoại tự viết ra chương trình. Nếu khán giả không thể viết ra các phần của Big Brother, nó sẽ giống một bộ phim của Andy Warhol một cách kì lạ: một cách trơ lì, những người trẻ tuổi thích phô bày cơ quan sinh dục nhưng mắc chứng loạn thần kinh, luôn miệng dè bỉu và nói năng vu vơ trong phòng hết giờ này sang giờ khác. Nói thế, là để nói rằng những gì làm cho Big Brother là chính nó, đó chính là hành động gọi điện thoại vào của người xem.

Chủ nghĩa giả-hiện-đại cũng bao gồm các chương trình tin tức hiện đại, có nội dung ngày càng gia tăng, bao gồm những emails hoặc tin nhắn gửi tới để bình phẩm những mẩu tin tức. Cả thuật ngữ ‘tương tác’ cũng không phù hợp ở đây, vì không hề có sự trao đổi: thay vào đó, người xem hoặc người nghe tham dự vào - viết một phân đoạn của chương trình - sau đó đi khỏi, trở lại vai trò thụ động. Chủ nghĩa giả-hiện-đại cũng bao gồm các trò chơi sử dụng máy tính, cũng theo cách tương tự là đặt cá nhân trong một bối cảnh mà họ phải bịa đặt ra cái nội dung văn hóa, trong những giới hạn đã được phác họa trước. Nội dung của từng hành vi cá nhân chơi các trò chơi thay đổi tùy theo mỗi cá nhân tham dự trò chơi.

Hiện tượng văn hóa giả-hiện-đại tuyệt hảo là internet. Thao tác chủ yếu của nó là thao tác của một cá nhân nhấn ‘chuột’ để di chuyển qua các trang theo cách không thể lặp lại giống hệt, hư cấu nên một đường dẫn xuyên qua các sản phẩm văn hóa, một đường dẫn chưa từng tồn tại trước đó và cũng sẽ không bao giờ có trở lại. Đây là một cuộc dấn mình vào quá trình văn hóa cuồng nhiệt hơn bất cứ điều gì mà văn học có thể cung cấp, và đem lại thứ cảm nhận (hoặc ảo tưởng) không thể phủ nhận rằng chính cá nhân đó kiểm soát, quản lý, tổ chức, tạo dựng mối quan hệ của chính mình với các sản phẩm văn hóa. Những trang internet là không có ‘tác giả’ hiểu theo nghĩa không ai biết ai là người đã viết ra chúng, hoặc quan tâm tới chúng. Số đông thì hoặc đòi hỏi cá nhân hãy làm cho những trang đó hoạt động, như Streetmap hay Route Planner; hoặc cho phép họ bổ sung vào, như Wikipedia; hoặc qua phản hồi gửi tới các trang web truyền thông, tỉ dụ vậy. Trong mọi trường hợp, thì bản chất nội tại nơi internet là như sau:bạn có thể dễ dàng tự mình tạo dựng nên những trang đó (tỉ dụ như viết các blogs).

Nếu internet và sự sử dụng nó xác định và thống trị chủ nghĩa giả- hiện-đại, thì kỉ nguyên mới cũng chứng kiến sự tân trang các hình thức cũ trong lãnh vực của nó. Phim ảnh trong thời giả-hiện-đại trông ngày càng giống một trò chơi trên máy tính. Những hình ảnh của nó, từng một thời là đến từ thế giới ‘thực’ - được cắt xén, soi sáng, chỉnh âm và biên tập lại bởi những đạo diễn tài ba, nhằm hướng dẫn những suy nghĩ hay những cảm xúc của người xem - thì nay được tạo ra ngày càng nhiều thông qua máy tính. Và họ nhìn nó. Trước đây có những thứ từng là những hiệu ứng đặc biệt vốn được trông chờ là làm cho cái bất khả trông như cái đáng tin, thì ngày nay CGI [Computer-Generated Imagery, hình ảnh tạo bằng máy tính; hoặc Computer Graphics Interface, giao diện đồ họa máy tính] lại thường xuyên [vô tình] hoạt động để làm cho cái khả hữu trông như cái giả tạo, như nhiều cảnh trong phim Lord of the Rings hay Gladiator. Những trận chiến từng có hàng ngàn người tham dự đã thực sự xảy ra; trong khi đó phim ảnh giả-hiện-đại lại làm cho chúng trông như chỉ có thể xảy ra trong không gian mạng [không gian điều khiển học/ môi trường truyền thông điện tử/ thực tại ảo]. Và như thế phim ảnh đã tạo cơ sở văn hóa không chỉ cho máy tính xét như một cái máy phát ra các hình ảnh, mà cho cả các trò chơi trên máy tính xét như mô hình của mối quan hệ giữa phim ảnh với người xem.

Tương tự như vậy, truyền hình trong thời giả-hiện-đại ủng hộ không chỉ truyền hình thu trực tiếp (lại thêm một thuật ngữ không thích hợp), mà còn ủng hộ các kênh truyền hình mua sắm, các sô câu đố trong đó người xem gọi điện thoại đến để đoán ra giải đáp đúng cho những câu đố đó, với hy vọng thắng tiền thưởng. Nó cũng ủng hộ những hiện tượng như Ceefax và Teletext. Nhưng thay vì phàn nàn về tình trạng mới, sẽ là hữu ích hơn nếu tìm những phương cách làm cho những điều kiện mới này thành những đường dẫn tới những thành tựu văn hóa thay vì cảnh trống rỗng rõ rệt như hiện nay. Điều quan trọng ở đây là phải thấy được rằng trong khi hình thức có thể thay đổi (Big Brother có thể khô héo trên cành nho), nhưng các thuật ngữ qua đó những cá nhân gắn liền với màn hình TV - và do đó gắn liền với những gì mà các phát thanh viên trình ra - các thuật ngữ đó đã thay đổi một cách không thể chối cãi. Chức năng cung cấp những gì thuần túy có tính ‘ngoạn mục’ của truyền hình, cũng như với tất cả những ngành nghệ thuật, đã trở thành một chức năng bên lề [thứ yếu]: giờ đây những gì là trọng tâm chính là công việc bận rộn, năng động, tiến về phía trước của con người cá nhân vốn từng được gọi là người tiếp nhận. Trong tất cả các điều này, ‘người xem’ cảm thấy mình đầy quyền lực và thực sự cần thiết; còn ‘tác giả’ theo cách hiểu truyền thống, thì hoặc bị giáng cấp thành người đặt để các thông số trong đó những người khác vận hành, hoặc trở nên hoàn toàn không thích hợp, không được biết tới, đứng bên lề; và ‘văn bản’ được đặc trưng bởi cả tính siêu phù du lẫn tính bất ổn định của nó. Nó được tạo thành bởi ‘người xem’, nếu không phải là trong nội dung của nó, thì sẽ là trong chuỗi liên kết của nó - bạn sẽ không đọc Middlemarch bằng cách nhảy từ trang 118 tới 316 tới 401 tới 501, nhưng bạn có thể đọc Ceefax một cách hay ho và chính đáng theo kiểu đó.

Một văn bản giả-hiện-đại kéo dài một thời gian ngắn rất khác thường. Không giống như Fawlty Towers, tỉ dụ vậy, các chương trình truyền hình thu trực tiếp không thể được lặp lại trong hình thức ban đầu của chúng, bởi lẽ những cuộc điện-thoại-gọi-vào không thể được sao chép, và nếu không thể có những cuộc điện-thoại-gọi-vào thì các chương trình đó trở thành một thực thể khác hẳn và rất kém hấp dẫn. Văn bản Ceefax chết chỉ sau vài giờ. Nếu các học giả ghi lại cái ngày họ tham chiếu trang internet nào đó, là bởi các trang đó sẽ biến mất hoặc được viết lại khác hẳn một cách rất nhanh chóng. Cực kì khó để giữ lại hình thức ban đầu của những tin nhắn và những emails; in những emails ra quả là chuyển đổi chúng thành một thứ gì đó ổn định hơn, giống như một bức thư, nhưng lại là hủy diệt trạng thái cơ bản, điện tử của chúng. Thời hạn sử dụng - của những cuộc điện-thoại-gọi-vào các đài phát thanh, của những trò chơi trên máy tính - là ngắn ngủi, chúng rất mau chóng trở thành lỗi thời. Một nền văn hóa dựa trên những thứ như vậy thì không thể có ký ức - chắc chắn đó không phải là cảm giác nặng nề về một di sản văn hóa trước đó vốn thấm nhuần vào cả chủ nghĩa hiện đại lẫn hậu hiện đại. Không có khả năng sinh sản và lại mau phai mờ, chủ nghĩa giả-hiện-đại do vậy cũng mắc chứng mất trí nhớ: đó là những hoạt động văn hóa [chỉ diễn ra] trong thời điểm hiện tại, chẳng hề có cảm nhận về cả quá khứ lẫn tương lai.

Các sản phẩm văn hóa của chủ nghĩa giả-hiện-đại cũng tầm thường một cách rất khác thường, như tôi đã từng gợi ý như vậy. Nội dung của những bộ phim giả-hiện-đại có xu hướng là chỉ để trở thành các hành vi gây ra và kết thúc cuộc sống. Tình trạng sơ khai ấu trĩ này của kịch bản hoàn toàn trái ngược với sự tinh xảo của những hiệu ứng kĩ thuật điện ảnh đương đại. Nhiều tin nhắn và emails thật nhạt nhẽo khi so với những gì mọi người ở mọi trình độ học vấn cao thấp khác nhau vẫn thường đưa vào những lá thư của họ. Một sự nhàm chán, một sự nông cạn thống trị tất cả. Thời giả-hiện-đại, ít nhất là cho đến nay, là một sa mạc văn hóa. Mặc dù chúng ta có thể trở nên quen với các thuật ngữ mới, làm chúng thích ứng được với sự biểu đạt nghệ thuật có ý nghĩa (và như vậy nhãn hiệu có nghĩa xấu mà tôi đã gán cho chủ nghĩa giả-hiện-đại có thể sẽ không còn phù hợp), nhưng vào lúc này thì chúng ta đang phải đối mặt với cơn bão của hoạt động con người hầu như không sản xuất được bất kì cái gì có giá trị văn hóa nếu không là lâu dài thì ít nhất cũng phải là có khả năng sinh sôi nảy nở - bất kì cái gì mà con người có thể nhìn vào một lần nữa và đánh giá cao trong vòng năm mươi hoặc hai trăm năm tới.

Những gốc rễ của chủ nghĩa giả-hiện-đại có thể được truy nguyên ngược trở lại nhiều năm trước dưới sự thống trị của chủ nghĩa hậu hiện đại. Ca múa nhạc và kỹ nghệ khiêu dâm, tỉ dụ vậy, những sản phẩm vào cuối những năm 70 và 80, thảy đều có xu hướng chỉ là nhất thời, là ngây ngô về ý nghĩa, và là không có tác giả (nhảy nhiều hơn là nhạc pop hoặc nhạc rock). Tất cả những thứ vừa kể còn làm nổi bật hoạt động của chủ thể ‘tiếp nhận’ chúng: nhạc kh- iêu vũ là để được nhảy [theo tiếng nhạc], khiêu dâm không phải để đọc hoặc xem nhưng để dùng, theo cách tạo ra cái ảo tưởng giả-hiện-đại của sự tham gia. Trong âm nhạc, một album là sản phẩm mà nghệ sĩ là người thống trị, nó như một văn bản bền vững, thì nay phải chịu sự thế chỗ giả-hiện-đại như sau: người nghe chọn lựa những bản nhạc trong album đó để tải về chứa trong iPod của mình đồng thời sử dụng những kĩ thuật pha trộn, làm cho các thành tố của những tracks nhạc đó tương thích với nhau [“biên tập” lại], thực ra thì rõ rệt là sự thế chỗ này đã được báo trước qua sự sáng tạo của những người hâm mộ âm nhạc khi họ sưu tập những băng nhạc, là điều mà thế hệ thanh thiếu niên trước đây đã từng thực hiện. Nhưng có một sự chuyển đổi đã xảy ra: điều mà trước đây chỉ là trò tiêu khiển bên lề, không đáng kể của những người hâm mộ, thì nay trở thành phương cách áp đảo và có tính quyết định trong việc tiêu thụ các sản phẩm âm nhạc, khiến cho ý tưởng về cuốn album như một tác phẩm nghệ thuật mạch lạc, một vật thể có ý nghĩa hợp nhất trở thành một ý tưởng lỗi thời.

Đến một mức độ nào đó thì chủ nghĩa giả-hiện-đại chẳng khác nào một sự chuyển đổi được thúc đẩy bởi động cơ là công nghệ để dịch chuyển vào trung tâm văn hóa của một cái gì đó luôn luôn tồn tại (tương tự, siêu tiểu thuyết hư cấu luôn luôn tồn tại, nhưng chưa từng được tôn trọng tới mức mà chủ nghĩa hậu hiện đại đã dành cho nó). Truyền hình luôn luôn sử dụng khán giả đóng vai trò người tham gia, cũng như sân khấu và những loại hình nghệ thuật biểu diễn khác đã làm trước đó; nhưng sự sử dụng đó chỉ là một tùy chọn, không phải là điều cần thiết: còn với những chương trình truyền hình giả-hiện-đại thì sự tham gia của khán giả là yếu tố được cơ cấu hóa từ trước trong cấu trúc của chương trình. Đã có từ lâu rồi, những dạng văn hóa ‘tích cực’, từ lễ hội đến kịch câm. Nhưng không một dạng nào trong số đó lại bao hàm một văn bản viết hoặc một văn bản vật chất nào khác, do vậy chúng chỉ đứng bên lề của một nền văn hóa vốn tôn thờ những văn bản như vậy - trong khi văn bản giả-hiện-đại, với tất cả những tính chất kì quặc của nó, lại có vị trí của dạng trung tâm, áp đảo, mẫu mực của sản phẩm văn hóa ngày hôm nay, mặc dù ở bên lề nền văn hóa vẫn còn có những dạng khác. Cũng không phải là những dạng khác này bị bêu xấu là ‘thụ động’ so với ‘sự hoạt động’ của chủ nghĩa giả-hiện-đại. Các việc đọc, nghe, xem luôn luôn có những kiểu loại hoạt động riêng của chúng; nhưng có một thuộc tính thể chất gắn liền với những hành động của các nhà sản xuất văn bản giả-hiện-đại, và có một điều cần thiết cho những hành động của họ liên quan đến kết cấu của văn bản, cũng như có một sự thống trị đã làm thay đổi cán cân quyền lực về mặt văn hóa (hãy lưu ý để thấy điện ảnh và truyền hình, hai gã khổng lồ của ngày hôm qua, đã phải cúi đầu trước hoạt động của chủ nghĩa giả-hiện-đại như thế nào). Nó thiết lập ra bá quyền về các mặt xã hội, lịch sử và văn hóa của thế kỷ hai mươi mốt. Hơn nữa, hoạt động của chủ nghĩa giả-hiện-đại có nét đặc thù của riêng nó: đó là điện tử, và văn bản, nhưng phù du.

Nhấn vào để thay đổi

Trong chủ nghĩa hậu hiện đại, người ta đọc, xem, nghe, như trước đây. Trong chủ nghĩa giả-hiện-đại người ta gọi điện thoại, nhấp chuột, nhấn phím, lướt mạng, lựa chọn, di chuyển, tải dữ kiện về. Có một khoảng cách với bề rộng là một thế hệ ở đây, chia cách người sinh trước và sau năm 1980, một con số phỏng chừng. Những người sinh ra sau năm 1980 có thể coi những người cùng tuổi với họ là những con người có tự do, tự chủ, sáng tạo, biểu cảm, năng động, quyền hành, độc lập, tiếng nói của họ độc đáo, cất cao và được lắng nghe: còn chủ nghĩa hậu hiện đại và tất cả mọi thứ trước đó thì ngược lại ra cái vẻ mình là tinh tuyển, [nhưng] đần độn, một thứ độc thoại xa cách và có giọng đều đều, áp chế và bưng bít thế hệ sinh sau 1980. Những người sinh trước năm 1980 có thể thấy những người sinh sau không phải là người mà biến thành các văn bản đương đại, luân phiên phô diễn những tính chất sau đây: bạo lực, khiêu dâm, không thật, nhàm chán, nhạt nhẽo, luôn tuân thủ, chỉ biết tiêu thụ, vô nghĩa và không có đầu óc (hãy thử đọc đôi ba điều ngớ ngẩn trên một số trang Wikipedia tỉ dụ vậy, hoặc là thứ không đầu không đuôi vì thiếu ngữ cảnh trên Ceefax). Đối với họ, những gì đến trước chủ nghĩa giả-hiện- đại sẽ ngày càng có vẻ là một thời kỳ vàng son của trí thông minh, sức sáng tạo, tính nổi loạn và tính trung thực. Do vậy tên gọi ‘chủ nghĩa giả-hiện-đại’ cũng bao hàm sự giằng co giữa sự tinh xảo của phương tiện do công nghệ học mang lại, với sự nhạt nhẽo hoặc ngu dốt của nội dung mà phương tiện đó chuyển tải - một thời điểm văn hóa có thể được tóm gọn bằng sự đần độn của người sử dụng điện thoại di động, “Tôi đang ở trên xe buýt”.

Trong khi chủ nghĩa hậu hiện đại bày tỏ sự nghi ngờ đối với ‘thực tại’, thì chủ nghĩa giả-hiện-đại minh xác không chút nghi ngờ rằng cái thực là chính tôi đây, bây giờ, ‘đang tương tác’ với các văn bản của nó. Như vậy, chủ nghĩa giả-hiện-đại gợi ý rằng bất cứ điều gì nó thực hiện hoặc làm ra thì đều là thực tại, và một văn bản giả-hiện-đại có thể làm triển nở cái hình-như- là-thực trong một hình thức không phức tạp: các chương trình truyền hình lồng tư liệu vào các hoạt cảnh đời thường [docu-soap], với máy ảnh cầm tay (trong đó, bằng cách hiển thị những cá nhân ý thức rằng họ được chú ý tới, tạo cho người xem cái ảo tưởng của sự tham gia); The Office và The Blair Witch Project, nội dung khiêu dâm tương tác với truyền hình thu trực tiếp; phim tư liệu mang tính tiểu luận của Michael Moore hay Morgan Spurlock.

Cùng với quan điểm mới này về thực tại, rõ ràng là khuôn khổ trí tuệ chiếm ưu thế đã thay đổi. Trong khi các sản phẩm văn hóa của chủ nghĩa hậu hiện đại đã có được một địa vị trong lịch sử ngang tầm với những sản phẩm của chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa lãng mạn, thì những khuynh hướng trí tuệ của chủ nghĩa đó [hậu hiện đại] (như thuyết nữ quyền, chủ nghĩa hậu thuộc địa, vân vân) lại tự thấy bị cô lập trong môi trường triết học mới. Học viện ngày nay, có lẽ đặc biệt ở Anh, bị tràn ngập bởi các giả định và thực tiễn của kinh tế thị trường, khiến rất không hợp lí để các giảng viên nói với sinh viên rằng họ đang sống trong một thế giới hậu hiện đại, nơi mà vô số các hệ tư tưởng, vô số quan điểm về thế giới và vô số tiếng nói đều có thể được lắng nghe. Mỗi bước đi của họ đều bị săn đuổi bởi kinh tế thị trường, khiến các giảng viên không thể rao giảng tính đa nguyên khi cuộc sống của họ bị chế ngự bởi điều mà trong thực tiễn rốt cuộc lại là sự cuồng tín của người tiêu dùng. Thế giới đã bị thu hẹp về mặt trí tuệ, chứ không phải là được mở rộng ra, trong vòng mười năm vừa qua. Ở nơi mà Lyotard nhìn thấy sự lu mờ đi của Những Đại Tự sự, thì chủ nghĩa giả-hiện-đại lại nhìn ra cái hệ tư tưởng của nền kinh tế thị trường đã toàn cầu hóa được nâng cấp lên thành một bộ điều chỉnh duy nhất và là siêu quyền lực, chi phối tất cả các hoạt động xã hội - độc quyền, nuốt chửng mọi thứ, giải thích mọi thứ, cơ cấu hóa mọi thứ; mỗi nhà hàn lâm đều phải thừa nhận sự thật đó, một cách khó chịu. Chủ nghĩa giả-hiện-đại tất nhiên là có tính tiêu dùng và tính tuân thủ, là vấn đề của sự di chuyển khắp thế giới theo cách mà nó [thế giới] là được trao hoặc bị bán.

Điểm thứ hai, là trong khi chủ nghĩa hậu hiện đại tán thành cái châm biếm, cái biết và cái vui chơi, với những ám chỉ của ba thứ này về kiến thức, lịch sử và thái độ nước đôi, thì các trạng thái trí tuệ điển hình của chủ nghĩa giả-hiện-đại lại là sự ngu dốt, cuồng tín và âu lo: Bush, Blair, Bin Laden, Le Pen và những người giống như họ ở một bên, và bên kia là đám quần chúng đông đúc hơn nhiều nhưng kém mạnh mẽ. Chủ nghĩa giả-hiện-đại thuộc về một thế giới bị chìm đắm trong cuộc đối đầu giữa một bên là một bộ phận tôn giáo cuồng tín ở Hoa Kỳ, [và] một nước Israel chủ yếu là thế tục nhưng rõ ràng là siêu tôn giáo, với bên kia là một phân nhóm cuồng tín Hồi giáo ở rải rác trên khắp hành tinh: chủ nghĩa giả-hiện-đại không được sinh ra ngày 11 tháng chín năm 2001, nhưng chủ nghĩa hậu hiện đại đã được an táng trong đống đổ nát của sự cố đó. Trong bối cảnh này chủ nghĩa giả-hiện- đại kích động một cách cuồng tín nền công nghệ tinh xảo ngõ hầu đeo đuổi thứ chủ nghĩa man rợ thời trung cổ - như trong việc tải lên Internet những băng video quay cảnh chặt đầu người, hoặc sử dụng điện thoại di động để quay cảnh tra tấn trong các nhà tù. Hơn thế nữa, số phận của mọi người khác là phải chịu đựng nỗi lo lắng vì bị kẹt giữa hai lằn đạn của hai bên kình chống nhau. Nhưng nỗi lo lắng có tính định mệnh này vượt xa tầm địa-chính- trị, nó len lỏi vào mọi khía cạnh của cuộc sống đương đại; từ nỗi lo sợ chung về sự sụp đổ của xã hội và sự mất bản sắc, tới nỗi bất an ray rứt về chế độ ăn uống và sức khỏe; từ sự khổ não về sự tàn phá do biến đổi khí hậu, tới những tác động của việc mới nhận ra rằng mình không có khả năng thích hợp và lại không được giúp đỡ, [hiện tượng khá phổ biến và nghiêm trọng] khiến làm phát sinh các chương trình truyền hình về việc làm thế nào để làm sạch căn nhà của bạn, để nuôi dạy trẻ em hoặc làm thế nào để lúc nào cũng ở trong tình trạng không mắc nợ nần. Tình trạng không-có-năng-lực-do-nền- công-nghệ-gây-ra này dứt khoát là sản phẩm của thời hiện đại: các nhà giả-hiện-đại giao tiếp thường xuyên với phía bên kia của hành tinh, nhưng lại cần được chỉ bảo là phải ăn rau để được khỏe mạnh, một thực tế hiển nhiên ở Thời đại đồ Đồng. Nhà giả-hiện-đại đó có thể chỉ đạo phương hướng của những chương trình truyền hình cấp độ nhà nước, nhưng lại không biết làm một món ăn nào đó cho chính mình - một sự tan hòa, tổng hợp đặc trưng của cái non nớt và cái tiên tiến, của cái mạnh mẽ và cái bất lực. Vì những lý do khác nhau, đây là những người không có khả năng “hoài nghi những Đại Tự sự” mà Lyotard đã biện giải rằng những người như vậy chính là những nhà hậu hiện đại điển hình.

Thế giới giả-hiện-đại này, thật đáng sợ và dường như không thể kiểm soát được, nên tất yếu là nó sẽ cung cấp nỗi ham muốn quay trở lại với cuộc chơi thời thơ dại với những đồ chơi của trẻ con, điều này cũng đặc trưng cho thế giới văn hóa giả-hiện-đại. Ở đây, trạng thái cảm xúc điển hình, thay thế một cách triệt để cho siêu ý thức của sự châm biếm, chính là sự hôn mê - trạng thái bị nuốt chửng bởi hoạt động của bạn. Thế chỗ cho chứng loạn thần kinh chức năng của chủ nghĩa hiện đại và tật thích tự ngắm vuốt của chủ nghĩa hậu hiện đại, là chứng tật này của chủ nghĩa giả-hiện-đại: nó làm mất thế giới đi, bằng cách tạo ra một nơi không-có-đâu mới mẻ và không trọng lượng của bệnh tự kỉ lặng lẽ. Bạn nhấp chuột, nhấn phím, bạn được ‘tham gia’, bạn được/bị nuốt chửng, bạn đang quyết định. Bạn là văn bản, không có ai khác, không ‘tác giả’; không nơi nào khác nữa, không thời gian hoặc nơi chốn khác. Bạn được tự do: bạn là văn bản: văn bản được thay thế.

Phạm Kiều Tùng chuyển dịch

Văn chương siêu hư cấu lại bị hắt hủi



Nobel Văn học là đỉnh cao nhưng không phải đỉnh cao nào cũng làm hoan hỉ tất cả mọi người. Việc lựa chọn của viện Hàn lâm Thuỵ Điển những năm gần đây chắc chắn sẽ làm chạnh lòng những ai đã trót yêu thích thế giới văn chương của Kafka, Jorge Louis Borges, Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino…

tranh internet


Vào năm 1967, John Barth tuyên bố “văn chương đã đến hồi cạn kiệt”. Lo lắng của John Barth không phải vô lý, bởi trước mắt nhà văn hậu hiện đại này người ta đã đẩy sự thực hành văn chương đến chỗ mà những người hiện thực chủ nghĩa không thể tưởng tượng được rằng chúng sẽ được gọi là nghệ thuật. Dường như mọi quy ước thể loại đã bị các nhà văn làm xô lệch. Không còn chuẩn mực nào được giữ nguyên trong cấu trúc, diễn ngôn, hình tượng...

Tuy nhiên, những năm gần đây, chủ nhân của các giải Nobel lại không phải là những nhà văn, nhà thơ nằm trong số những người làm cho nghệ thuật văn chương đi đến sự xô lệch nói trên. Nobel Văn học năm 2011 xướng tên Tomas Tranströmer. Trong thế giới thi ca của Toàn tập thơ Tranströmer (Nguyễn Xuân Sanh dịch và giới thiệu, NXB Văn Học 2000), ít có sự đột biến về thi pháp. Nhà thơ hướng mình đi đến sự giản dị, trầm lặng và những xúc cảm ngọt ngào của con người trước thế giới. Tranströmer xếp đặt những điều bình dị bên nhau làm nên điều phi thường, không phải thông qua những cách tân mạnh mẽ về hình thức mà bằng sự sâu lắng tinh tế của một nhà thơ vĩ đại.

Ngày 11.10.2012, một lần nữa Nobel Văn học làm thất vọng những ai muốn đẩy văn chương đi đến những cách tân triệt để khi người được vinh danh là Mạc Ngôn. Không thể phủ nhận được khí lực sáng tạo của Mạc Ngôn khi ông có tầm bao quát rộng lớn về xã hội Trung Quốc có nhiều biến động và sự suy đồi. Tuy đều lấy văn hoá Trung Hoa làm căn nền sáng tạo nhưng có những khác biệt lớn trong lối viết của Mạc Ngôn và Cao Hành Kiện (chủ nhân giải Nobel 2000). Lối viết của Cao Hành Kiện đẩy người đọc đi đến những cách tân táo bạo về mặt hình thức. Trong khi đó, kỹ thuật của văn chương hậu hiện đại không phải là lựa chọn chủ động của Mạc Ngôn. Bao trùm lên các tiểu thuyết của Mạc Ngôn vẫn là lối viết hiện thực. Nhân vật thực, không gian thực, ít có xáo trộn về cấu trúc, lối mô tả hiện thực và tham vọng mô phỏng khách quan vẫn là những yếu tố căn bản. Tất nhiên không thể loại trừ trong thế giới của ông tính chất huyễn ma, huyền thoại... nhưng đây không phải là lựa chọn tối ưu của người viết dựa trên một nền tảng mỹ học và thi pháp huyền thoại rắn chắc. Thậm chí Herta Müller (nhà văn đoạt giải Nobel 2009) cho rằng Mạc Ngôn được vinh danh là “một thảm hoạ, một thất vọng sâu sắc”. Viện Hàn lâm Thuỵ Điển tìm tới Mạc Ngôn bởi vì họ cho rằng văn chương của ông là “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trộn lẫn với những câu chuyện dân gian, lịch sử và hiện đại”. Không phải họ không có lý, nhưng sẽ thuyết phục hơn nếu họ chỉ ra những hạt sạn tồn tại thực sự trong việc Mạc Ngôn cấy ghép yếu tố huyền ảo với cuộc sống hiện đại – trò chơi mà không phải nhà văn nào cũng có thể tìm tới.

Những ai ưa thích lối kể chuyện theo cách cũ một lần nữa vui mừng đón nhận tin chủ nhân của Nobel Văn học năm 2013 là Alice Munro. Người Việt khó có thể có một cái nhìn tổng quan về văn chương Munro bởi cho đến nay ở Việt Nam chỉ duy nhất tập truyện ngắn Trốn chạy của bà được Trần Thị Hương Lan chuyển sang Việt ngữ (Nhã Nam xuất bản năm 2012). Nhưng qua Trốn chạy và những phát ngôn của Munro trên báo chí thì rõ ràng đối với những ai khuyến khích sự cách tân táo bạo mang tính khiêu khích trong nghệ thuật, Munro không phải là món khoái khẩu của họ. Munro từng nói rằng: “Tôi muốn kể những câu chuyện theo cách cũ, điều chắc chắn sẽ xảy ra với ai đó nhưng tôi muốn điều đó được chuyển tới độc giả bằng những cách tiếp cận mới. Tôi muốn người đọc cảm thấy một câu chuyện cũ nhưng vẫn rất đáng ngạc nhiên. Đó là cách mà tôi cảm thấy mình có thể truyền tải tốt nhất qua mỗi cuốn truyện ngắn”.

Phải chăng, viện Hàn lâm Thuỵ Điển đã chán những nhà văn khai phá táo tạo về kỹ thuật khi những năm gần đây họ thường tìm tới những lối viết bình dị, sâu lắng? Dù sao đi nữa thì những tìm tòi, khai phá, những cách tân liều lĩnh của những nhà văn ưa mạo hiểm chơi trò siêu hư cấu một cách có ý thức và có hệ thống hiện nay vẫn là nơi để những người đọc khó tính tìm tới đòi hỏi, nơi để người đọc nhìn thấy những khả thể hư cấu thực sự, nơi để đưa ra những cách nhìn khác về hiện thực khách quan và nhìn thấy những giới hạn của khoa học hiện đại trước sự thăm dò của văn học trong việc khám phá thế giới bên trong của con người. Nghệ thuật siêu hư cấu là một trò chơi, nó tự trình bày cách chơi của mình. Một trò chơi mà nó tự nhìn chính mình và cười chính mình. Bản thân nó không dừng lại ở sự quy chiếu ngoại cảnh mà nó tự lấy nó làm đối tượng... Những nỗ lực cách tân này mới khiến nghệ thuật biến thiên không ngừng, đưa sáng tạo làm tròn bổn phận của nó: làm ra cái mới.

Lê Minh Phong

“Phương Tây - một giấc mơ hời hợt!”

TS. Đặng Hoàng Giang



Nếu đã sống ở nhiều quốc gia khác nhau, chúng ta sẽ thấy không có nơi nào hoàn hảo cả. Xã hội nào cũng có có cái hay và cái dở, nhưng chắc chắn không có nơi nào lung linh như “thiên đường”.

Chẳng hạn, ở phương Tây, “chừng nào lệnh chuyển tiền tự động của bạn vẫn hoạt động, thì không ai quan tâm bạn sống hay chết” - tiến sĩ Đặng Hoàng Giang - Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu phát triển và hỗ trợ cộng đồng (CECODES) chia sẻ về “giấc mơ phương Tây” của người Việt.




Bất ổn mà thú vị
* Là một tiến sĩ kinh tế người Áo gốc Việt, ông đã có một cuộc sống có thể nói là giấc mơ với rất nhiều người tại một quốc gia phát triển hàng đầu Châu Âu. Vì sao ông quyết định về nước?
- Mỗi người có một giấc mơ khác nhau. Người thì mong có một công việc ổn định, thu nhập cao, người lại chỉ muốn leo được lên đỉnh Everest – nóc nhà thế giới. Tôi muốn có một môi trường mới mẻ, gặp được những người thú vị, làm được nhiều điều khác nhau. Tôi ưa thích một tương lai bất ngờ, khó đoán định và không muốn một lộ trình được vạch ra rõ ràng…

* Ông trở về Việt Nam vì muốn tìm một tương lai mạo hiểm hơn?
- Cuộc sống ở Việt Nam nhiều bất ổn hơn, nhưng cũng thú vị hơn nhiều so với cuộc sống ở Châu Âu…

* Ở góc độ nào?
- Bất ổn vì tỉ lệ tai nạn giao thông cao hơn, nền y tế không hiện đại bằng, mua nhà đất thì cũng rủi ro vì chả biết khi nào bị thu hồi … Nhưng ở Việt Nam, người ta có thể thử nghiệm bản thân trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này chỉ có thể làm được trong một xã hội chưa có độ chuyên môn hóa cao.

Ở phương Tây, mỗi người sẽ chỉ có đúng chỗ đứng của mình như một mắt xích trong dây chuyền xã hội. Việt Nam đang chuyển dịch, đang đầy những đứt gãy xã hội, những xung đột về giá trị và văn hoá trong quá trình toàn cầu hoá. Điều này thực sự là thú vị, tuy rằng có thể gây hoang mang.

* Có nghĩa giấc mơ phương Tây sẽ không tròn trịa khi ở trong nó?
- Nếu đã sống ở nhiều nơi, bạn sẽ thấy không có nơi nào hoàn hảo cả. Ở đâu cũng có cái hay và cái dở, nhưng chắc chắn không có nơi nào lung linh như “thiên đường”. Ở đâu thì khả năng bạn không hạnh phúc cũng khá cao.

* Và vì thế, ông sẵn lòng từ bỏ “sự ổn định phương Tây” để về với “sự lộn xộn” của Việt Nam?

- Phương Tây có thể sạch sẽ và giàu có, nhưng không phải thiên đường. Tuần trước, CNN vừa đưa tin là ở một thành phố Mỹ, một người phụ nữ độc thân đã chết trong nhà và tận 5 năm sau, người ta mới phát hiện ra, khi lệnh trả tiền tự động hằng tháng của bà ta không được thực hiện nữa vì tài khoản của bà ta hết tiền. Trong 5 năm đó, không có người thân, bạn bè, hàng xóm nào để mắt tới xem bà ta sống chết thế nào.

Sự lộn xộn, nhếch nhác ở Việt Nam gắn liền với mức phát triển kinh tế của chúng ta, nhưng không phải là đặc thù Việt. Các nước đang phát triển khác cũng lộn xộn, bụi bặm, thiếu quy củ như vậy. Cũng khó mà yêu cầu những người nghèo đang vật lộn hằng ngày phải lịch sự, đi nhẹ nói khẽ và nhường nhịn người xung quanh. Hay thậm chí, những người không còn nghèo nữa thì vẫn mang thói quen từ thời bao cấp đã ăn sâu trong tiềm thức, nên vào resort (khu nghỉ dưỡng) vẫn còn chen lấn nhau khi lấy đồ ăn...

* Ông có vẻ lạc quan về “thói xấu” của người Việt?
- Tôi chỉ muốn đưa ra những phân tích và lý giải. Khi chúng ta hiểu vì sao họ lại xử sự như vậy thì ta cũng dễ yêu thương và thông cảm với mọi người hơn.

Người Việt nên tôn trọng bản thân hơn

* Người Việt mỗi khi bức xúc hay nói: “Ở Tây sẽ khác”. Là người “từ bển về”, ông có đồng tình?
- Không có nền văn hóa nào lại ưu việt toàn phần hơn các nền văn hóa khác. Tôi ngạc nhiên thấy tâm lý sùng bái phương Tây hiện hữu đến vậy ở Việt Nam. Theo tôi, phương Tây đang có những bế tắc trong xã hội, trong quan hệ giữa người và người. Nói một cách thật khái quát thì chừng nào lệnh chuyển tiền tự động của bạn vẫn hoạt động, không ai quan tâm bạn sống hay chết.

* Vì sao ông lại có thể “phật lòng” với phương Tây đến thế nhỉ? Chẳng phải “giấc mơ phương Tây” đang hiện rõ qua khát vọng du học của nhiều người Việt trẻ sao, thậm chí nhiều bậc phụ huynh có thể bán nhà bán cửa nếu cần?
- Giấc mơ này rất mâu thuẫn và hời hợt. Họ muốn con họ có bằng cấp của tây, nhưng nếu chúng thấm nhuần văn hóa và suy nghĩ phương Tây - ví dụ con gái không chịu lấy chồng, hay con trai mà đi học triết học - thì họ sẽ rất hốt hoảng. Người Việt không muốn thành phương Tây đâu, họ chỉ mơ cuộc sống vật chất phương Tây mà thôi. Có thể nói là giấc mơ phương Tây bị mắc kẹt trong cái bảo thủ phương Đông.

* Ngược lại, phương Tây lại khát thèm văn hóa gia đình, bạn bè của người phương Đông?

- Đúng vậy, nhưng không nên cực đoan quá. Phương Tây đặt cá nhân lên trên hết và đôi khi làm con người mất phương hướng. Nhưng người Việt lại quá lo lắng xem tập thể nghĩ gì về mình, khiến họ tự đàn áp cái tôi của mình. Điều này làm thui chột sự sáng tạo và khiến người ta khổ sở.

Người Việt cũng hay rơi vào giữa hai thái cực đoan: Khi thì kiêu ngạo, nghĩ mình là ưu tú hơn hết hoặc lúc thì tự ti, coi mình thuộc loại vô phương cứu chữa.

* Điều gì khiến ông thấy khó chịu nhất khi sống ở phương Tây?
- Họ cao to quá, mình nhỏ bé hơn nhiều (theo nghĩa đen), khi nói chuyện mình cứ phải ngước hết cả lên, mỏi cổ...

Nghiêm túc hơn: Xã hội phương Tây coi trọng thành công vật chất. Xe xịn, nhà to, những chuyến đi đặc biệt… là những khát vọng cơ bản thúc đẩy xã hội phương Tây vận hành. Việt Nam cũng vừa đi lên con đường cao tốc này. Chúng ta đang có hai loại đền thờ. Một là chùa chiền để người ta tới cầu may từ thánh thần. Loại thứ hai là các “shopping mall” thờ chủ nghĩa vật chất, người ta tới chiêm ngưỡng hàng hiệu như một trải nghiệm “gột rửa tâm linh”.

* Để mỗi cá nhân hội nhập thành công, theo ông, yếu tố cốt lõi là gì?
- Nên tôn trọng bản thân, không quá lo lắng xem mọi người sẽ phản ứng thế nào. Hãy coi mình là một cá thể độc lập, trước khi băn khoăn mình có làm mất thể diện của họ tộc nhà mình, làng mình, tỉnh mình, quốc gia mình hay không.

- Xin cảm ơn ông!

Ông Đặng Hoàng Giang tốt nghiệp thạc sĩ công nghệ thông tin, ĐH Kỹ thuật llmenau (Đức) và có bằng tiến sĩ trong lĩnh vực kinh tế phát triển của ĐH Công nghệ Vienna, Áo. Là người Áo gốc Việt, ông sở hữu nhiều kinh nghiệm nghiên cứu trong các lĩnh vực xã hội và kinh tế Việt Nam. Các lĩnh vực chuyên môn của ông gồm kinh tế trong thời kỳ chuyển đổi, quản trị nhà nước và minh bạch cùng khía cạnh văn hóa của công nghệ.

Từ năm 2008, ông là Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Hỗ trợ cộng đồng (CECODES) - một tổ chức phi chính phủ đi đầu ở Việt Nam trong việc thúc đẩy xã hội dân sự, minh bạch và nâng cao tiếng nói của người dân.


TÔ PHƯƠNG THỦY/LAO ĐỘNG

Công bằng xã hội và phân hóa giàu nghèo




Tác giả: Trần Trọng Thức



Trong bất cứ xã hội nào, dưới bất kỳ cơ chế nào thì sự phân hóa giàu nghèo là một diễn biến tự nhiên, chỉ có thể thu hẹp dần khoảng cách nhờ các công cụ điều tiết công bằng xã hội, chứ khó lòng ngăn chặn.

Phân hóa giàu nghèo ở nước ta ngày càng nghiêm trọng và ai cũng nhận ra qua thực tế cuộc sống hàng ngày. Nhiều bài viết cũng như phát biểu của các chuyên gia khi đề cập đến tình trạng này thường dùng những hình ảnh đối chiếu như “giữa đô thị rực rỡ đèn màu về đêm, chen chúc những căn lều xiêu vẹo trong con hẻm tối tăm”, hay “trong khi các đại gia chi tiêu hàng chục triệu đồng cho một buổi tiệc tùng tiếp bạn bè thì có những gia đình không đủ ngày hai bữa cơm”. Phải chăng cái hố sâu giàu nghèo chưa khiến chúng ta đau lòng hay sao mà phải làm đậm nét thêm phần bi thảm, trong khi bất cứ xã hội nào, dưới bất cứ cơ chế nào thì sự phân hóa giàu nghèo là một diễn biến tự nhiên, chỉ có thể thu hẹp dần khoảng cách nhờ các công cụ điều tiết công bằng xã hội, chứ khó lòng ngăn chặn.


Mới đây, tại Diễn đàn Kinh tế thế giới 2014 ở Davos, Thụy Sỹ, Tổ chức Viện trợ và Phát triển toàn cầu Oxfam của Anh công bố một số liệu không có gì ngạc nhiên là 85 người giàu nhất thế giới đang nắm giữ khoảng 1.700 tỉ đô la Mỹ, tương đương tổng tài sản của 3,5 tỉ người nghèo trên toàn cầu.Còn ở nước ta, thống kê đáng tin cậy cho thấy số người có tài sản trên 1 triệu đô la Mỹ đang tăng đáng kể từ 170 người vào năm 2011, hai năm sau đã lên 195 người với tổng tài sản khoảng 20 tỉ đô la Mỹ và Việt Nam được xếp thứ 13 ở châu Á với mức tăng số lượng người giàu có trong năm qua là 14,7%. Mặt trái của hiện tượng này là sự bất công cả về thu nhập lẫn tài sản thủ đắc, là cản ngại của quá trình cải cách, là nỗi nhức nhối và bất mãn của số đông người, là vấn đề mà hệ thống chính trị phải giải quyết .




Hệ thống được xem là tốt khi có khả năng phân bổ hợp lý tài nguyên và quyền lực để có thể tạo ra giá trị cao nhất, và điều quan trọng là hệ thống ấy phải có khả năng giới hạn quyền lực bằng công cụ quản lý là luật pháp, qua đó hạn chế đào thêm hố sâu của sự phân hóa giàu nghèo.


Hệ thống chính trị tốt thường biểu hiện qua việc phân bổ tài nguyên (đồng vốn, tài nguyên thiên nhiên, con người) đúng người đúng việc để với ưu thế vận tốc ban đầu được giao, những con người có năng lực sẽ tạo nên những giá trị gia tăng cho xã hội và đương nhiên họ được hưởng công lao xứng đáng với thành quả mang lại. Đó là sự công bằng, chứ không phải “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” vừa có tính cào bằng vừa không thực tế vì nhu cầu của con người là vô hạn.

Chế độ đãi ngộ về chính sách một thời ban phát đặc quyền cho một số thành phần tưởng chừng như công bằng đã tỏ ra thiếu hiệu quả bởi trong thực tế chẳng khác nào đem tài sản của xã hội chia chác cho các công thần, tạo điều kiện cho tham nhũng và các nhóm lợi ích thu vén.

Giao tài nguyên không đúng người có hai chuyện xảy ra: một là việc sử dụng đồng tiền không hiệu quả, hai là không tạo được nhiều công ăn việc làm thì tính công bằng xã hội càng giảm. Khi được giao tài nguyên thì người ta có điều kiện đi trước và đi xa hơn trên con đường làm giàu, và khi đã ở trên tầng cao nhưng không giúp được gì cho bên dưới thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng nới rộng cũng là chuyện dễ hiểu.
Chưa có thống kê nào cho thấy một cách chính xác có bao nhiêu người giàu lên nhờ chủ trương hóa giá nhà đầy yếu tố ban phát, cấp đất phân lô vô tội vạ, lợi dụng các quy định không chặt chẽ trong cổ phần hóa để mua tài sản nhà nước với giá rẻ mạt… Nhưng chắc là số này không phải ít.

Tất nhiên cũng có không ít người có năng lực làm giàu nhờ nắm vững luật chơi của thị trường chứng khoán, có khả năng dự báo sự đổi thay nhiệt độ của thị trường địa ốc. Cơ chế tốt chính là cái máy hoàn chỉnh, tự nó sàng lọc tìm ra những người có khả năng làm giàu và phân bổ hợp lý tài nguyên xã hội.

Người có tiền thì sẽ có quyền, tiền càng nhiều quyền càng lớn, mà quyền thì đi với lực. Thế cho nên trong một hệ thống mà quyền không có giới hạn thì rất nguy hiểm. Hệ thống được xem là tốt khi có khả năng phân bổ hợp lý tài nguyên và quyền lực để có thể tạo ra giá trị cao nhất và điều quan trọng là hệ thống ấy phải có khả năng giới hạn quyền lực bằng công cụ quản lý là luật pháp qua đó hạn chế đào thêm hố sâu của sự phân hóa giàu nghèo.

——————

Làm giàu đúng nghĩa là biết chấp nhận rủi ro vì chính rủi ro là sự sàng lọc. Rủi ro đồng đều thì xã hội sẽ công bằng, anh nào liều mạng chấp nhận rủi ro cao thì xứng đáng được hưởng thành quả làm ăn của mình, không ai trách cứ gì được.

Khổ nỗi có một thực tế ở nước ta là người làm ăn mà có quyền lực thường không phải đối diện với rủi ro nhờ biết cách len lỏi vào kẽ hở của luật pháp, cũng như không bị sự điều tiết rủi ro của hệ thống, thế là ngày càng trở nên giàu có. Lỗi không phải ở họ mà ở hệ thống. Làm ăn vừa được đứng ở chỗ cao không ai với tới, vừa tách biệt trong một không gian riêng để mặc sức làm giàu thế là không công bằng.

Để có sự công bằng phải sử dụng công cụ điều tiết được mọi người chấp nhận, khi đó người giàu không phải là đối tượng của sự ganh tỵ, xoi mói trong xã hội và khi họ làm tròn nghĩa vụ thì đáng được vinh danh.
Chế độ nào thiết lập được công cụ điều tiết công bằng xã hội thì sẽ duy trì được sự bền vững. Một xã hội được điều tiết tốt là khi tất cả mọi người phải đủ ăn đủ mặc, khi mắc bệnh thì phải có khả năng vào bệnh viện để được chữa trị, trẻ con phải được học hành mọi người đều có cơ hội làm việc, được sống tự do hạnh phúc, là những cái cơ bản phải đạt được. Và khi đó phân hóa giàu nghèo được trả lại vị trí của nó chỉ là sự phát sinh tự nhiên của thời buổi thị trường.
—————————http://www.thesaigontimes.vn/114289/Cong-bang-xa-hoi-va-phan-hoa-giau-ngheo.html

đám mây và dòng sông


Minh Đức Triều Tâm Ảnh


1- đám mây đi qua dòng sông
tôi mất bóng và tôi vỡ ra
dập dềnh trôi xác ma quá khứ
tế bào óc tim tóe lên ánh lửa
bập bùng bên này
leo lét bên kia
bít bùng thế giới đa tri
đường ngược đường xiên
hình học kỷ hà
con người được lập trình
nút “enter” gõ phím
màu chiều thu
không còn mang sắc tím
tia phản quang
gãy góc lưng trời
chú bướm Trang sinh
dẫy chết không-thời
có đạo sĩ phải bỏ non đốt áo
ôi! có một sự thật
gai đau nhức nhối
lấy kính hiển vi xem
kiến thức mù lòa
máu này vô trùng
miễn nhiễm tận ngoài da
nhưng hoại thư đã ăn sâu tròng mắt
ảo tưởng trổ hoa
miền thiêng liêng lên ngôi vật chất
mệt mỏi ước mơ
nhựa độc tứa cành xanh
chỉ còn một nỗi riêng
là hạnh phúc cũ càng
theo vó ngựa
rượt nắng chiều sắc tái
có người đi qua con đường
xác hư vô quến lại
nhặt bóng mình
nửa xám nửa rêu đen
vá víu tình thương
tri kiến đỏ ghèn
bụi ô nhiễm ngược xuôi tất bật
có những cuộc lên đường
bộn bàng trăm ngã
con cá lên non cao tập bơi
chú ngựa già xuống biển sâu tập lội
cõi này rứt lấy niềm tin
cõi kia khoác vội hành trang
những bản ngã no đầy
thèm vương, thích bá
những bản ngã ngật ngầy
kiêu căng, vật thực
hãy nhìn và hãy vỗ tay
bầy kiến khe sâu tha mồi về tổ
đàn gà chợ chiều bới rác kiếm ăn
chẳng có ai loét miệng
chẳng có ai nhăn răng
bút còn, mực còn
run tay chẳng viết
tâm còn, trí còn
va động vách đá vô tri
thổi vào hang đen rỗng ruột
thơ, có lẽ,
là người tình giấu mặt
sợ lấm hoen xác chữ dung phàm
nàng ra đời
chẳng thực tế điểm trang
tìm kiếm mãi
hóa người ngu lẩn thẩn
ôi! xót xa chi
mà con trăng hổ ngươi cúi mặt
ôi! buồn thương chi
mà cái tổ nhện giăng
giăng mắc đầy trời
buổi sớm tiếc cánh hoa rơi
buổi chiều thì sầu vẩn sầu vơ
vì mù sương non xanh quá đẹp
anh và tôi
tiếc là không ngồi chung chiếu văn
em và tôi
tiếc là từ lâu thích đeo mặt nạ
vỗ bụng rỗng
thấy mình vô ngã
lừa dối chi văn hiến mấy nghìn năm
có lần
ngồi đốt lửa dưới cụm núi san hô
giọt sương sao lại rơi ngay vào mắt
mường tượng chống chiếc lá tre qua sông
sào gãy hồi nào chẳng biết
tìm kiếm quanh mình
chỉ còn giun dế kêu rên
con cóc trong hang đâu đó nhảy ra
và con quạ đen
đậu cô đơn
bóng tùng gãy đọt
rồi rừng đen phết thêm họa tiết
buồn con sông trầm ngâm
khổ đau và sự chết
chẳng cũ mòn
chẳng mới mẻ
trôi hoài
trôi hủy mấy nghìn đông!

2- vẫn là đám mây đi qua dòng sông
thả chiếc bóng thức tri hư ảo
có kẻ làm bài toán tâm hồn
không có dấu trừ
chỉ toàn dấu cộng
cộng lợi lộc, cộng công danh
cộng trăm thứ phù phiếm xì xèo
rồi lập nghĩa phương trình
trăm vui một khổ
giảng thuyết ngàn trang
bốc mùi tục đế
hang thẳm Ràgu
chẳng có thánh thần giữ cửa
tha hồ cõng mộng nghêu ngao
có sự sống
chỉ cần tí lửa
một khoảng trời không
thỉnh thoảng thở
và đôi khi tập hú
có sự sống
nuôi tế bào suy nghĩ
sáng tạo một từ thôi
đã hạnh phúc ngất ngây
có sự sống
thiết tha được tách hẳn đàn bầy
muốn cô độc
muốn cô liêu
một vài phút giây rừng sâu tê giác
có sự sống bình an
một chung trà giản dị
cùng nụ cười lặng lẽ tình thâm
có sự sống
được yêu thương
và thèm chút lỗi lầm
để thấy rõ chất người hơn
cùng anh em đồng loại
ai đánh đổi sự sống
bằng xu rau, hào cải
bằng mật mã tính toan ký hiệu gươm đao
xương cốt chất cao
hãnh diện tháp người
dành chỗ đứng, tranh chỗ ngồi
trơ trân, bù nhìn, phỗng đá
nếu chỉ nuốt vật mà no
chỉ no bụng làm sao no óc
nếu tiện nghi, lâu đài, xôi thịt là vinh quang
nhà thơ nhà văn đời này
đâu có miệt mài còng lưng phu chữ
lại đâu có khổ hạnh sư ẩn sĩ
lên non mây ăn lá tầm ma
đây đó vẫn có người
cày xới cánh đồng hoa
vãi mầm xanh, mầm măng lú nhú
cày xới mãi khóc cười ngất ngứ
tác phẩm đem rao bán chợ trời
khách, trăm người qua
có ai ngoảnh lại
phủi từng chữ
che tay
miệng ngáp!
ôi!
nếu văn minh: một bước gót lầm đi tới
thì văn hóa phải hai bước thất thểu quay lui
soi mặt nhau nhập nhọa tối thui
đâu đó chợt thấy mình lạc hậu
nếu bước mãi
càng thụt lùi thêm mãi
sẽ tao phùng
cái thuở chưa sinh!
có một vị sư già tụng một biến kinh
gõ tánh không giữa dập dềnh hương khói
bên này cột
bên kia trói
loay hoay hoài kẹt giữa hai biên
chiếc hố giữa anh và tôi
nhảy mãi hóa điên
cái còn lại
coi chừng va đầu cánh cửa
cái còn lại
coi chừng than lửa
đốt nghi tình
lạnh buốt kiến tri hoang!
ôi! trò chơi đại hóa bất toàn
bình nguyên mật
lũ gấu rừng ăn hết
chữ nghĩa mấy nghìn năm
loạn thư, loạn triết
đống tro tàn khái niệm ba hoa
có kẻ đua đòi tư tưởng Hy-La
học tây phương nhị nguyên thơ trẻ
đi ngược đầu vào cõi nhân sinh
dẫu Nietzscher có đập đổ thần linh
mọi giá trị mù sương phức rối
mớ thuần lý bọc đùm bao nỗi
ảo thuật gia biến hóa lọc lừa
lòng đã tràn mà trời vẫn cứ mưa
lệ còn chảy đầu nguồn cuối bểôi!
bức “chó mây” màu tranh kể lể
cứ vẽ hoài
cứ chưng hoài
ngứa mắt trăng sao
chống trượng Khổng Khâu nhập thế ra vào
Lão Đam cỡi ngược trâu xanh
con đường khói sương để dấu
ôi!
cúi gập người mà ho khan
rơi đau cục đờm tri kiến
ngửa cổ lên trời mà than
phiến đá từ hư không
hốt rơi lổ trán
biết nói gì cát bụi lấm đầy ta
rậm rịt bên sông
lau cỏ quê nhà
lạnh lẽo trăng
lạnh lẽo hư vô
bốn bề còn ai bè bạn
bốn bề nhân tình
lẽ nào khô hạn?

3- vẫn là đám mây đi qua dòng sông
chẳng thấy chân dung
chỉ thấy māyā ảo hóa
đêm mộng mị
mặt đất chao nghiêng
chân trời chao nghiêng
ước mơ
và nỗi đời cũng chao nghiêng
đồng quy, nghịch lực
phận người đi chân đất
lọ mọ dẫm lên hồn chữ hồn văn
những trang sách không còn trăng
gai mọc thành cây thành rừng
nhốt mùa xuân
nhốt tuổi thơ trong từng kẽ lá
cắt mặt thành hai
cắt mặt thành ba
cứ cắt mãi xếp thành diện mạo
tro tiền sử
dính đầy vai áo
hội hóa trang nhảy múa tung tăng
con đường đứng
con đường nằm
ngơ ngác lối về bỏ cuộc
ca dao của mẹ
quay cuồng giữa phố đông,
đèn mờ, hắc điếm
không còn quen lội ruộng, mò ao
cánh cò xưa điện chớp hàng rào
tao nôi nhện giăng
cối xay sàn thúng rế nia
còn thừa củi đốt
điều nhân nghĩa nói hoài miệng nhạt
thương các em nghèo nàn
thiếu vắng giấc mơ
trang giấy học trò bập bè i tờ
truyện phép, truyện hình, hiệp sĩ, đĩa bay,
vệ tinh khạc lửa
lười suy nghĩ,
lười dạo chơi
lười nghịch hoa đuổi bướm
chim ca bên rừng
suối hát ngàn khe
vách núi lặng câm
đêm thỏ khóc trăng
ngày bụi công nghiệp mặt người che kín
nhà thơ đứng giữa phố dài
xem bóng mình tĩnh vật
sâu hoắm nhiều chiều
nhiều kiểu bon chen
bấm đốt ngón tay
ngày này tháng này năm này
chẳng tìm ra quán trọ
chung cư, khách trạm thì dẫy đầy
mà không còn ôxy để thở
dật dờ hồn
dật dờ óc
dật dờ tim...
ghé công viên ngắm cảnh
cỏ cây cũng ủ rủ ưu phiền
lá hoa cũng khô kiệt thiên nhiên
xanh đỏ trắng vàng
ni lông hóa nụ
vật thể hóa mỹ miều vô kể
đi tìm mình lạc giữa bơ vơ
lại lên con tàu từ năm bảy sân ga
lại gẫm suy đời người không bến đổ
cả anh cả em cả tôi cả chị
cả cao sĩ hiền nhân
cả thi gia nghệ sĩ
kẻ xa lạ cuối cùng đã đốt tuổi đốt tên!
lầm lũi ven đường
(biết bao là ven đường)
bọ hung thi cuộc với ốc sên
lỗn ngỗn bò
lêu đêu kiếm rác
hôm qua hôm kia
rác đầy như núi lớn
ô nhiễm tinh thần
ô nhiễm thánh linh
mắt người trí đau
thế gian bác sĩ rập rình
mổ tế bào
chẳng tìm ra mảnh ung, cục bướu
thư pháp chữ tâm
ruộng đồng chữ tư
xóa sạch cả
chẳng ai hoài công
thu nhặt độc tương lai
ôi! mây! mây! mây!
bài hạo ca non xanh sĩ khí
tùng trúc già
cúi mặt
giọt sương đau
ngàn trang văn chương
không nói được khối sầu
vỡ thành hạt
nếm nghe chừng mặn muối
thơ vốn cao sang
khoác mầm xanh tươi rói
từ đống sách nhàu
mối mọt với tàn hương
chữ thắp đèn
chữ vỗ ngực đi đêm
qua mấy khúc sông
qua mấy con đê
qua mấy triền cao dốc đứng
chênh vênh trời
chênh vênh đất
chênh vênh đỉnh mù sa...
bước ngược qua ngày
vào cõi sa-bà
thơ mọc cánh tự do bay mất
có cái gì vô danh
bên bờ ranh sự chết
nhập nhòa sắc màu
đi vào hoang tưởng sơ nguyên
những dòng sông giao nhau
rỗ mặt thung triền
ông già hiền triết đông phương
lỡ khóc lỡ cười
nụ cười phất phơ sương hồng gió trắng
tạc giữa điêu tàn
chiều!
thông điệp yêu thương!
đốt lửa trên non
trêu cợt mộng trường
mai mốt sẽ
ta lại lội trần chân đất
ta lại học thứ tha
lại vui buồn như thật
nếu không được
bèn đưa tay xóa ấn
hốt rơi! hốt tụ! hốt tan!
có cái gì trên tay
câu hỏi? dấu than!

Thứ Năm, 1 tháng 5, 2014

Nụ hôn trầm tích



Từ Sâm



Bãi biển Nha trang chiều muộn. Lũ lượt áo tắm hai mảnh như những con cá heo nhiều màu sắc trôi dạt trên bãi cát.

Bên đường dạo, một khúc gỗ cong queo chỏng chơ. Không phải, một đứa bé trai không đoán được tuổi, tay chân co quắp, miệng đầy nước dãi, khoé miệng như rạch ngang trên má. Những chú ruồi vo ve bu vào mắt, mũi, bu từng đám như đậu đen. Người ta, người tây, quần dài, quần ngắn, đàn bà, đàn ông đều lướt nhanh qua ổ ruồi ấy. Mùi xú uế nồng nặc át mùi nước hoa của mấy ả môi đỏ lòm vừa chén bắp rang vừa vứt vài hạt xuống cát.

Đứa trẻ khò khè như không thở được, nó rơi từ chiếc ghế xi măng màu xám rồi nằm dài trên bãi cỏ mà đêm qua sau một chầu bia các qúi ông làm nơi trút bầu tâm sự. Cánh tay khẳng khiu huơ huơ lên trời như cầu cứu, mặt trắng bạch nhắm nghiền.

- Ai vô phúc bỏ con ra đường vậy ta. Một cụ già lên tiếng.

- Nó lừa thiên hạ đấy, xin con nuôi rồi bẻ tay chân cho quặt quẹo để làm tiền. Một chị nần nẫn tròn lăn thơm mùi tôm hùm nướng bắn một vòi nước bọt cách thằng bé chừng gang tay.

Một vài người, trong đó có ông tây to lớn cúi xuống thả vài tờ màu xám, rồi kẻ 5 ngàn, người 10 ngàn, những tờ bạc như những cánh bướm nhẹ nhàng đậu xuống. Người ta lấy hòn đá chặn để không bị gió cuốn.

Khi chiều đã thẫm màu, một bé gái gầy yếu, đen nhẻm, chân trần, nhớn nhác tìm cái gì đó. Bỗng như con quạ nhắm trúng mục tiêu, nó sà tới nhanh đến nồi lũ ruồi chưa kịp bay, một vài con mắc kẹt trong vòng tay của nó và đứa trẻ tật nguyền kia. Nó bắt đầu hôn, hôn từ đầu đến chân, dùng các ngón tay như xe điếu, xoa mắt xoa tai. Nó ngậm miệng hút trụt một cái, nước dãi trên mũi thằng bé sạch bong, nó không nhổ, nuốt luôn vào họng.

- Tội nghiệp cưng, cưng đi hóng mát chứ đâu phải ăn xin, sao không ai bế cưng lên ghế vậy cà. Lần sau chị mang chiếu cho cưng nằm nhé.

Vừa nói nó vừa nhấc bỗng đứa em như người ta ôm rễ cây vừa bật gốc, khẳng khiu, khô cằn, nửa bồng nửa dắt vật vờ trong hoàng hôn. Túi vé số bên hông vẫn còn đầy.

Đứa em nở nụ cười, mắt vẫn nhắm nghiền, nó đang trải qua cơn đói khủng khiếp.

Khoảng trống còn lại trên bãi cỏ là những đồng tiền, chúng vất vưởng như những miếng giấy lạc loài.

Những con sóng ngàn năm hôn vào bãi cát – những nụ hôn trầm tích.

Ngóng mưa



Nguyễn Đăng Trình



chùm phượng thắp trên cây nỗi nhớ
tháng tư không gọi cũng theo về
mấy mùa xa em ngần ấy mùa xa phố
xa những con đường vàng mướt tiếng ve

mây như bông vắt ngang chiều trắng quá
bóng ta gầy gãy gập xuống thềm rêu
tiếng guitar không dưng trầm lắng lạ
hát về phía ấy một lời yêu

nhánh hoàng hậu tím vài bông nở muộn
em ở đâu trên trái đất này
ngoài cổng trường đời ngược xuôi trăm hướng
ta chờ em như chờ cơ may

ngóng mưa về tưới nhuần đôi mắt mỏi
cơ may và em trốn biệt cõi xa nào
chiều chưa khép mà đêm đã tới
ngấn tình buồn chợt vỡ đắm trăng sao…

Đức Sung phù - Trang tử


A. Lỗ hữu ngột giả Vương Đài, tùng chi du giả, dữ Trọng Ni tương nhược.
Thường quý vấn ư Trọng Ni viết: "Vương Đài ngột đả dã, tùng chi du giả dữ phu tử trung phân Lỗ. Lập bất giáo, tọa bất nghị, hư nhi vãng, thực nhi quy; cố hữu bất ngôn chi giáo, vô hình nhi tâm thành giả da? Thị hà nhân dã?"
Trọng Ni viết: "Phu tử, thánh nhân dã. Khưu dã trực hậu nhi vị vãng nhĩ! Khưu tương dĩ vi sư, nhi huống bất nhược Khưu giả hồ! Hề giả Lỗ quốc, Khưu tương dẫn thiên hạ nhi dữ tùng chi."
Thường quý viết: "Bỉ ngột giả dã, nhi Vương tiên sinh, kỳ dữ dung diệc viễn hĩ! Nhược nhiên giả, kỳ dụng tâm dã, độc nhược chi hà?"
Trọng Ni viết: "tử sinh diệc đại hĩ, nhi bất đắc dữ chi biến, tuy thiên địa phúc trụy, diệc tương bất dữ chi di. Thẩm hồ vô giả, nhi bất dữ vật thiên, mạng vật chi hoa, nhi thủ kỳ tông dã."
Thường Quý viết: "Hà vị dã?"
Trọng Ni viết: "Tự kỳ dị giả thị chim can đảm Sở Việt dã; tự kỳ đồng giả thị chi, vạn vật giai nhất dã. Phù nhược nhiên giả, thả bất tri nhĩ mục chi sở nghi[ii], nhi du tâm hồ đức[iii] chi hòa. Vật thị kỳ sở nhất nhi bất kiến kỳ sở táng, thị táng kỳ túc, do di thổ dã."
Thường Quý viết: "Bỉ vị kỷ, dĩ kỳ tri[iv] đắc kỳ tâm, dĩ kỳ tâm, đắc kỳ thường tâm[v], vật hà vi tối[vi] chi tai?"
Trọng Ni viết: "Nhân mạc giám ư lưu thủy, nhi giám ư chỉ thủy, duy năng chỉ, năng chỉ chúng chỉ[vii]. Thụ mạng ư địa, duy tùng bá độc dã tại. Đông hạ thanh thanh, thụ mạng ư thiên, duy Thuấn lộc dã chính. Hạnh năng chính sinh[viii], dĩ chính chúng sinh. Phù bão thủy chi trưng, bất cụ chi thực; dũng sĩ nhất nhân, hìng nhập ư cửu quân, tương cầu danh nhi năng tự yếu giả, nhi do nhược thị; nhi huống quan thiên địa, phủ vạn vật, trục ngụ lục hài, tượng nhĩ mục, nhất tri chi sở tri, nhi tâm vị thường tử giả hồ? Bỉ thả trạch nhật nhi đăng giả, nhân tắc tùng thị dã; bỉ thả hà khẳng dĩ vật vi sự hồ[ix]?"

DỊCH NGHĨA:

A. Nước Lỗ, có người cụt chân, tên là Vương Đài. Số người theo học ngang với Trọng Ni.
Thường Quý hỏi Trọng Ni: "Vương Đài là kẻ cụt chân, lại cùng Thầy chia hai học trò nước Lỗ. Người ấy, đứng thì không dạy điều chi; ngồi thì không nghị luận việc gì. Thế mà, người học đến thì không có gì cả, mà khi ra về thấy mình đầy đủ. Vậy thì, có lối dạy mà không cần đến lời, mặc nhiên mà cảm hóa được lòng người hay sao? Người ấy là người gì vậy?Nhân
Trọng Ni đáp: "Phu tử là bậc Thánh nhân đấy! Khưu nầy đi sau, chưa thể theo kịp đó. Khưu còn muốn tôn đó làm Thầy, huống hồ là những kẻ không bằng Khưu! Nói chi là một nước Lỗ. Khưu nầy còn muốn dẫn cả thiên hạ mà cùng theo đó."
Thường Quý nói: "Đó là kẻ cụt chân, vậy mà được Phu tử gọi là bậc Thầy họ Vương, tất nhiên người ấy phải có cái gì khác xa với kẻ tầm thường! Như vậy thì, riêng ông ta đã sử dụng cái tâm như thế nào?
Trọng Ni đáp: "Chết sống là việc lớn còn không làm cho đó biến đổi; Trời Đất dù sụp đổ, cũng không làm cho đó sao động. Xét rõ Tính Mạng, mà không để cho vật ngoài dời đổi. Khiến vật hóa sinh, mà giữ lấy phần chủ của vật hóa.
Thường Quý nói: "Như thế nghĩa là gì?"
Trọng Ni đáp: "Có hai cách nhận thức sự vật, nếu đứng chỗ khác biệt nhau mà xem,thì dù như gan với mật cũng thấy cách nhau xa như Sở với Việt; nhưng, nếu đứng chỗ đồng nhau mà xem, thì sẽ thấy vạn vật đều là Một cả. Và nếu được như vậy (tức là biết đứng chỗ đồng nhau mà xem vạn vật) thì đâu cần gì đến sự nhận thức của tai mắt nữa mà để cho lòng mình rong chơi nơi chỗ "hòa" của Đức. Vì vậy mà coi sự mất một chân của mình như một hòn đất bị đánh rơi thôi!"
Thường Quý nói: "Người ta, không ai lại soi mình ở làn nước chảy, mà soi mình ở làn nước đứng. Chỉ có cái "lặng đứng" mới dừng lại được cái lòng mong lặng đứng của người người. Cùng thụ Mạng nơi Đất mà riêng chỉ có cây tùng cây bách là luôn luôn tồn tại: một màu xanh xanh, bất cứ ở mùa nào, mùa hạ hay mùa đông. Cùng thụ Mạng nơi Trời mà riêng chỉ có ông Thuấn là giữ được cái Chính của mình. Cầm đầu thiên hạ mà chính được cái Tính của mình, thì chính được mọi người. Hạng người mà giữ được Bản Tính, thì bên ngoài rất điềm tĩnh, chẳng biết sợ gì cả, như người dũng sĩ một mình xông vào chín vòng quân. Vì hiếu danh mà họ còn dám làm việc ấy, huống hồ hạng người chủ được Trời Đất, chứa được vạn vật thì đối với cái thân này chẳng qua là gởi vào sáu hài, nương vào tai mắt, còn sự hiểu biết của họ thì bao la mà cái tâm của họ chưa từng có chết? Con người ấy chọn ngày để trút bỏ cái giả. Người ta tự chạy theo đấy thôi, chứ tự người ấy đâu có chịu đem mình mà phụng sự cho thiên hạ?"
B. Thân Đồ Gia ngột giả dã, nhi dữ Trịnh Tử Sản[x] đồng sư ư Bá Hôn Vô Nhân. Tử Sản vị Thân Đồ Gia viết: "Ngã tiên xuất, tắc tử chỉ, tử tiên xuất tắc ngã chỉ."
Minh nhật hựu dữ hợp đường đồng tịch nhi tọa. Tử sản vị Thân Đồ Gia viết: "Ngã tiên xuất, tắc tử chỉ, tử tiên xuất, tắc ngã chỉ. Kim ngã tương xuất, tử khả dĩ chỉ hồ? Kỳ vị da? Thả tử kiến chấp chính nhi bất vi, tử tế chấp chánh hồ?"
Thân Đồ Gia viết: "Tiên sinh chi môn cố hữu chấp chính yên như thử tai? Tử nhi duyệt tử chi chấp chính nhi hậu nhân giả dã!
Văn chi viết: "Giám minh tắc trần cấu bất chỉ, chỉ tắc bất minh dã. Cửu dữ hiền nhân xử tắc vô quá. Tử kim chi sở thủ đại giả, tiên sinh dã, nhi do xuất ngôn nhược thị bất diệc quá hồ?"
Tử Sản viết: "Tử ký nhược thị hĩ, do dữ Nghiêu tranh thiện, kế tử chi đức, bất túc dĩ tự phản da?"
Thân Đồ Gia viết: "Tự trạng kỳ quá dĩ bất đương vong giả chúng ; bất trạng kỳ quá dĩ bất đương tồn giả quả. Tri bất khả nại hà nhi an chi nhược mạng, duy hữu đức giả năng chi. Du ư Nghệ[xi] chi cốc trung, trung ương giả, trung địa dã, nhiên nhi bất trúng giả, Mạng dã. Nhơn dĩ kỳ toàn túc tiếu ngô bất toàn túc giả, chúng hĩ. Ngã phất nhiên nhi nộ, nhi thích tiên sinh chi sở, tắc phế nhiên nhi phản bất tri tiên sinh chi tẩy ngã dĩ thiện da? Ngô dữ phu tử du thập cửu thiên hĩ, nhi vị thường tri ngô ngột giả dã. Kim tử ngã du ư hình hài chi nội, nhi tử sách ngã ư hình hài chi ngoại, bất diệc quá hồ?"
Tử Sản thác nhiên cải dung canh mạo, viết: "Tử vô nãi xưng."
DỊCH NGHĨA:
B. Thân Đồ Gia là người cụt chân, cùng với Tử Sản nước Trịnh đồng học với Bá Hôn Vô Nhân. Tử Sản bảo với Thân Đồ Gia: "Ta ra trước thì ngươi ở lại. Ngươi ra trước thì ta ở lại."
Ngày hôm sau, lại cùng một chỗ học, cùng ngồi một chiếu. Tử Sản bảo với Thân Đồ Gia: "Ta ra trước thì ngươi ở lại. Ngươi ra trước thì ta ở lại. Nay ta sắp đi ra, vậy ngươi có thể ở lại chăng, hay là chưa có thể được? Vả ngươi thấy kẻ cầm chính quyền sao không biết tránh qua một bên? Ngươi ngang hàng với kẻ cầm chính quyền ư?
Thân Đồ Gia nói: "ở cửa Thầy đây sao lại có kẻ gọi là cầm chính quyền? Ngươi thích thú với cái việc cầm chính quyền của ngươi mà xem mọi người đều đứng sau ngươi cả! Ta nghe thầy nói rằng: Gương sáng là vì bụi bặm không vướng, bụi bặm mà vướng lên thì mặt gương sẽ lu mờ! ở lâu với bậc hiền giả thì ắt không lỗi lầm. Nay ngươi ở trong cửa Thầy để cầu học cái đại thức, thế sao lại còn thốt ra được những lời như vậy, há chẳng cũng lầm lỗi hay sao?
Tử Sản nói: "Ngươi đã là người (tàn tật) như thế, sao lại còn mong cùng với Nghiêu mà tranh thịên hay sao? Kể về đức của ngươi, không đủ để mà xét lại mình ư?
Thân Đố Gia nói: "Tự che đậy lỗi của mình, cho là không đáng bị hình chặt chân, thì nhiều! Không che đậy lỗi của mình, cho là không đáng còn chân, thì ít. Biết là không thể làm thế nào khác được mà yên lòng chịu nó và cho là số mạng, thì chỉ có người có đức mới có thể làm nổi. ở ngay trung tâm làn tên của Nghệ mà lại thoát khỏi bị tên, đó là Mạng vậy. Những kẻ cậy mình có đủ hai chân để chế nhạo người không đủ hai chân như ta, thì nhiều lắm! Ta nghĩ cũng tức giận, nhưng khi đến học với thầy thì lại bâng khuâng mà trở về, không rõ thầy đã đem cái hay gì mà rửa ráy được lòng ta? Ta ở cùng thầy đã mười chín năm thế mà thầy chưa thường thấy ta là đứa cụt chân! Nay ngươi chơi với ta ở chỗ bên trong của hình hài, mà ngươi lại còn khắt khe với cái hình hài bên ngoài của ta, chẳng cũng lầm lỗi hay sao?"
Tử Sản áy náy, đổi sắc mặt mà nói: "Thôi, đừng nói đến chuyện ấy nữa!"
C. Lỗ hữu ngột giả Thúc Sơn Vô Chỉ, chủng kiến Trọng Ni. Trọng Ni viết:
"Tử bất cẩn tiền, ký phạm họan nhược thị hĩ, tuy kim lai hà cập hĩ!"
Vô Chỉ viết: "Ngô duy bất tri vụ nhi khinh dụng ngô thân, ngô thị dĩ vong túc. Kim ngô lai dã, do hữu tôn túc giả tồn. Ngô thị dĩ vụ toàn chi dã. Phù thiên vô bất phú, địa vô bất tái, ngô dĩ phu tử vi thiên địa; an tri phu tử chi do nhược thị dã!"
Khổng- tử viết: "Khưu tắc lậu hĩ! Phu tử hồ bất nhập hồ? Thỉnh giảng dĩ sở văn."
Vô Chỉ xuất. Khổng- tử viết:
"Đệ tử miễn chi! Phù Vô Chỉ ngột giả dã, do vụ học dĩ phục bổ tiền hành chi ác, nhi huống toàn đức chi nhân hồ?"
Vô Chỉ ngứ Lão Đam viết: "Khổng- Khưu chi ư chí nhân, kỳ vị da? Bỉ hà tân tân dĩ học tử vi! Bỉ thả kỳ dĩ xúc quỹ[xii] huyễn quái chi danh văn, bất tri chí nhơn chi dĩ thị vi kỷ chất cốc da?"
Lão Đam viết:
"Hồ bất trực sử bỉ dĩ tử sinh vi nhất điều, dĩ khả bất khả vi nhât quán giả, giải kỳ chất cốc, kỳ khả hồ?"
Vô Chỉ viết:
"Thiên hình chi, an khả giải."

DỊCH NGHĨA:
C. Nước Lỗ, có người cụt chân, tên là Thúc Sơn Vô Chỉ, khập khễnh đến ra mắt Trọng Ni. Trọng Ni nói:
Ngươi trước đây không cẩn thận nên phải bị tai họa như thế, nay dù có đến đây cũng không sao kịp nữa!
Vô Chỉ nói: "Tôi vì không biết việc nên khinh dụng tấm thân này mà phải bị mất hết một chân. Nay tôi đến đây, còn lại có một chân quý này, thời tôi mong giữ cho nó vẹn toàn. Trời, không gì là không che; Đấtm không gì là không chở, tôi mong xem phu tử như Trời Đất. Nào ngờ phu tử lại đối xử với tôi như thế!"
Khổng- tử nói: "Khưu nầy quả hẹp hòi! Sao ông không vào trong chơi, tôi xin đem những gì đã nghe được mà giảng cho ông nghe!"
Vô Chỉ ra đi. Khổng- tử nói:
Các đệ tử hãy cố gắng lên! Kìa như Vô Chỉ là kẻ cụt chân mà còn mong học để bù lại cái việc làm sai lầm buổi trước, huống chi kẻ mà đức vẫn còn vẹn tòan!
Vô Chỉ nói chuyện với Lão Đam:
Khổng- Khưu hình như chưa phải là bậc chí nhân! ông ta dạy làm gì mà đông học trò thế? Ông lại còn mong được tăm tiếng về những cái học kỳ dị huyễn hoặc, vậy chứ ông không biết rằng đối với bậc chí nhân, đó tòan là những gông cùm cho mình ư?
Lão Đam nói:
Sao ông không bảo thẳng cho ông ta biết rằng Sống và Chết đều là cùng một lẽ, nên và chẳng nên đều cùng là một việc, hầu mở gông cùm cho ông ta có được không?
Vô Chỉ nói:
Trời đã hành tội ông ta, gỡ ra sao được!
D. Lỗ Ai Công vấn ư Trọng Ni viết: "Vệ hữu ác nhân yên, viết Ai Đài Đà, trượng phu dữ chi xử giả, tư nhi bất năng khứ dã, phụ nhơn kiến chi, thỉnh ư phụ mẫu, viết: "dữ nhân vi thê, ninh vi phu tử thiếp giả, sổ thập nhi vị chỉ dã. vị thường hữu văn kỳ xướng giả dã, thường họa nhân nhi dĩ hĩ. Vô quân tử chi vị, dĩ tế hồ nhân chi tử, vô tụ lộc dĩ vọng nhân chi phúc, hựu dĩ ác hãi thiên hạ, họa nhi bất xướng, tri bất xuất hồ, tứ vức, thả nhi thư hùng hợp hồ tiên, thị tất hữu dị hồ nhân giả dã. Quả nhân triệu nhi quan chi, quả dĩ ác hãi thiên hạ, dữ Quả nhân xử, bất chí dĩ ngoạt số, nhi Quả nhân hữu ý hồ kỳ vi nhân đã; bất chí hồ cơ niên, nhi Quả nhân tín chi. Quốc vô tể, nhi Quả nhân truyền quốc yên. Muộn nhiên nhi hậu ứng. Tỵ nhược nhi từ, quả nhân xý hồ tốt thụ chi quốc, vô kỷ hà dã, khứ Quả nhân nhi hành. Quả nhân tuất yên, nhược hữu vong dã, nhược vô dữ lạc thị quốc dã. Thị hà nhân giả dã?"
Trọng Ni viết:
Khưu dã thường sứ ư Sở hĩ, thích kiến đồn tử thực ư kỳ tử mẫu giả; thiểu yên, tuần nhược giai khí chi nhi tẩu; bất kiến kỳ yên nhĩ, bất đắc loạn yên nhĩ! Sở ái kỳ mẫu giả, phi ái kỳ hình dã, ái sử kỳ hình giả dã. Chiến nhi tử giả, kỳ nhân chi táng dã, bất dĩ sáp tư, tắc giả chi lũ, vô vi ái chi, giai vô kỳ bản hĩ. Kim Ai Đài Đà vị ngôn nhi tín, vô công nhi thân, sử nhân thụ kỷ quốc, duy khủng kỳ bất thụ dã, thị tất tài toàn nhi đức bất hình giả dã.
Ai Công viết: Hà vị tài toàn?
Trọng Ni viết: Tử sinh, tồn vong, cùng đạt, bần phú, hiền dữ bất tiếu, hủy dự, cơ khát hàn thử: thị sự chi biến, mạng chi hành dã. Nhật dạ tương đại hồ tiền, nhi tri bất năng quy hồ kỳ thủy giả dã; cố bất túc dĩ hoạt hòa, bất khả nhập ư linh phủ sử chi hòa dự, thông nhi bất thất ư duyệt; sử nhật dạ vô khước nhi dữ vật giai xuân thị tiếp nhi sinh thời ư tâm giả dã, thị chi vị tài tòan.
Hà vị đức bất hình?
Viết: "Bình giả thủy đình chi thịnh dã kỳ khả dĩ vi pháp dã, nội bão chi nhi ngoại bất đãng dã. Đức giả thành hòa chi tu dã, đức bất hình giả, vật bất năng ly dã."
Ai Công dị nhật dĩ cáo Mẫn tử viết:
"Thủy dã ngô dĩ nam diện nhi quân thiên hạ, chấp dân chi kỷ, nhi ưu kỳ tử, ngô tự dĩ vi chí thông hĩ. Kim ngô văn chí nhân chi ngôn khủng ngô vô kỳ thực, khinh dụng ngô thân, nhi vong ngô quốc. Ngô dữ Khổng- Khưu, phi quân thần dã, đức hữu nhi dĩ hĩ."
CHÚ:
Linh phủ: chỗ ở của tinh thần, ám chỉ cái Tâm của mình. í nói những vấn đề thuộc về việc Sống Chết, Cùng Thông, Hiền Ngu, Phải Quấy… chỉ là những sự bất thường, không nên để cho nó làm điên đảo sự yên tĩnh của tâm hồn.
Linh phủ đồng một nghĩa với linh đài mà Trang tử thường dùng ở Canh Tang Sở trong câu "Bất khả nội ư linh đài". ở đây Quách Tượng giải chữ linh đài là ám chỉ cái Tâm.
DỊCH NGHĨA:
D. Lỗ Ai Công hỏi Trọng Ni:
Nước Vệ có một người xấu xí, tên là Ai Đài Đà. Đàn ông nào ở với nó, nhớ không thể bỏ đặng. Đàn bà nào thấy nó, về xin cha mẹ rằng: thà làm vợ bé của nó hơn làm vợ lớn kẻ khác. Số người ấy có đến mười mấy rồi, thế mà cũng chưa hết. Chưa thường nghe nó xướng lên ý gì, chỉ có họa theo ý người mà thôi. Không có địa vị quyền thế gì để cứu người khỏi chết; không có tiền bạc của cải gì để nuôi ai no bụng, lại còn hình thù xấu xí để thiên hạ phải sợ. chỉ có họa mà không có xướng. Trí nó không ra ngoài bốn vách rào làng. Thế mà giống đực giống cái lại xúm xít trước mặt, ấy là kẻ tất phải có cái gì khác lạ hơn người. Quả nhân triệu nó đến xem, thì quả là hình thù xấu xí làm cho thiên hạ đều phải sợ. ở với Quả nhân không đầy một tháng, mà Quả nhân đã để ý đến cách ăn ở của nó. Không đầy một năm, Quả nhân tin nó. Nước không có kẻ cầm quyền chính, Quả nhân giao việc nước cho nó. Nó buồn buồn, thờ ơ ra vẻ chối từ làm cho Quả nhân hổ thẹn. Sau cùng nó nhận, nhưng rồi, không bao lâu lại bỏ Quả nhân mà đi. Quả nhân buồn bực như mất một vật gì, như không còn có người để cùng vui như trong nước nữa! Vậy người ấy là người thế nào?"
Trọng Ni nói: "Khưu nầy, từng sang sứ bên nước Sở. Thấy đàn heo con đang bú mẹ, mà mẹ chúng đã chết rồi. Một lúc, chúng ngơ ngác chạy tứ tán cả vì chúng thấy mẹ không nhìn đến chúng nữa. Chúng sở dĩ yêu mẹ, không phải là yêu cái xác kia, mà yêu cái sai khiến xác kia của mẹ chúng! Ra trận mà chết, đâu cần phải yên ngựa để bọc thây. Cho kẻ cụt chân giày dép, họ đâu có ưa thích! Họ đều không có gốc! (…) Nay Ai Đài Đà chưa nói gì mà người lại tin; không công gì mà người lại thân, khiến có người muốn trao cho quốc chính mà lại không chịu nhận, như vậy ắt phải là kẻ toàn được cái Tài, và không để lộ ra cái Đức."
Ai Công nói: Sao gọi là "tòan được cái Tài"?
Trọng Ni nói: "Sống Chết, Còn Mất, Cùng Đạt, Giàu Nghèo, Hiền và Bất Tiếu, Khen Chê, Nóng Lạnh… là những cái biến của sự vật, cái chuyển của Mạng (cũng như) ngày đêm thay phiên tiếp nối nhau trước mặt ta mà trí thông minh của con người cũng không sao nhận thấy được chỗ khởi đầu. Như vậy, đâu có đáng gì để cho nó lọt vào "linh phủ", làm loạn lòng mình. Ngay cả sự hân hoan vui mừng cũng đừng để cho lòng mình dấy động. Đối với tất cả mọi việc, hòa nhã vui tươi như tiếp đón bốn mùa… Đó gọi là "toàn được cái TàiThiên.
Thế nào là Đức không lộ ra?
Là bình thản như mặt nước đứng im lìm, có thể lấy đó làm khuôn phép: bên trong giữ được thật trong sáng mà bên ngoài như bất động không bị lôi cuốn theo ngoại vật. Đức là thành được việc mình mà vẫn giữ được sự hòa với mọi người. Đức không lộ ra nên mọi vật không thể rời bỏ được mình[xiii].
Ai Công ngày khác nói chuyện với Mẫn tử:
Trước kia tôi cho việc day mặt về phía Nam làm vua thiên hạ, cầm quyền trị dân, lo cho chúng được an ninh, tôi tự cho được như thế là thông đạt lắm rồi. Nhưng từ khi nghe bậc chí nhân nói[xiv], tôi sợ không có thực tài, khinh dụng thân mình mà làm mất cả nước. Từ đây, tôi và Khổng- Khưu sẽ không còn phải là đạo vua tôi nữa, mà là bạn với nhau về đạo đức mà thôi vậy.
E. Nhân kỳ Chi Ly Vô Thần thuyết Vệ Linh Công. Linh Công duyệt chi nhi thị toàn nhân, kỳ đậu kiên kiên.
Ứng Ánh Đại Anh thuyết Tề Hoàn Công. Hoàn Công duyệt chi, nhi thị toàn nhân, kỳ đậu kiên kiên.
Cố đức hữu sở trường nhi hình hữu sở vong; nhân bất vong kỳ sở vong, nhi vong kỳ sở bất vong thử vị thành vong[xv]. Cố thánh nhân hữu sở du[xvi] nhi trí vi nghiệt[xvii], ước vi giao đức vi án, công vi thương. Thánh nhân bất mưu, ô dụng trí? Bất trác ô dụng giao? Vô táng, ô dụng đức? Bất hóa, ô dụng thương? Tứ giả, Thiên Dục[xviii] dã, Thiên Dục dã giả, thiên thực dã. Ký thụ thực ư thiên, hựu ô dụng nhơn? Hữu nhân chi hình, vô nhân chi tình. Hữu nhân chi hình, cố quần ư nhơn; vô nhân chi tình, cố thị phi bất đắc ư thân. Diểu hồ tiểu tai, sở dĩ thuộc ư nhân dã, ngao hồ đại tai, độc thành kỳ thiên.
DịCH NGHĩA:
E. Chi Ly Vô Thần vào thuyết Vệ Linh Công. Linh Công ưa thích đến đỗi nhìn lại những kẻ thân hình toàn vẹn đều có cái cổ bé nhỏ khẳng khiu!
Ứng Ánh Đại Anh vào thuyết Tề Hoàn Công. Hoàn Công ưa thích đến đỗi nhìn lại những kẻ thân hình toàn vẹn đều có cái cổ bé nhỏ khẳng khiu![xix]
Cho nên Đức mà hơn người có thể làm cho quên hẳn được hình hài. Người ta (trái lại) không biết quên cái nên quên (hình hài) mà lại hay quên cái không nên quên (đức), đó mới là thật quên. Bởi vậy, Thánh nhân có chỗ để mà tụ lại[xx]; hiểu rằng Trí là mầm của tội ác[xxi] thệ ước là keo sơn, đức[xxii] là nối tiếp, công là buôn bán. Thánh nhân không mưu tính, thì dùng chi đến Trí? Không đẽo gọt thì dùng chi đến keo? Không mất tính thì dùng chi đến đức? Không bán chác thì dùng chi đến buôn? Bốn cái đó là "Trời nuôi". Trời nuôi, tức là trời cho hấp thụ (cái món ăn của trời). Đã được Trời nuôi, cần gì dùng đến nhân tạo nữa! Thánh nhân có cái hình của người mà không có cái tình của người. Có cái hình của người nên mới cung một đàn với người. Không có tình của người, nên thị phi mới không động được lòng. Cùng một đàn với người là việc nhỏ, mà riêng cùng làm một với Trời là việc lớn vậy!
G. Huệ tử vị Trang tử viết:
"Nhân cố vô tình hồ?"
Trang tử viết: Nhiên!
Huệ tử viết: Nhân nhi vô tình, hà dĩ vị chi nhân?
Trang tử viết: Đạo dữ chi mạo, thiên dữ chi hình, ô đắc bất vị chi nhân?
Huệ- tử viết: Ký vị chi nhân ô đắc vô tình?
Trang tử viết: thị phi ngô sở vị tình dã, ngô sở vị vô tình giả, ngôn nhân chi bất dĩ hảo ác nội thương kỳ thân, thường nhân tự nhiên nhi bất ích sinh dã.
Huệ- tử viết: Bất ích sinh[xxiii], hà dĩ hữu kỳ thân?
Trang tử viết: Đạo dữ chi mạo thiên dữ chi hình, vô dĩ hảo ác nội thương kỳ thân. Kim tử ngoại hồ tử chi thần, lao hồ tử chi tinh, ỷ thụ nhi ngâm, cứ cảo ngô nhi minh, thiên tuyển tử chi hình, tử dĩ kiên bạch[xxiv] minh.
DỊCH NGHĨA:
G. Huệ- tử gọi Trang tử, bảo:
Người ta không có tình hay sao?
Trang tử nói:
Phải!
Huệ- tử nói:
Người mà không có tình, thì lấy gì gọi là người được?
Trang tử nói:
Đạo ban cho nó dung mạo, Trời ban cho nó hình hài, sao không gọi là người?
Huệ- tử nói:
Đã gọi là người, mà không có tình, được không?
Trang tử nói:
Đó không phải là cái mà tôi gọi là Tình đâu? Chỗ mà tôi gọi là không tình, chính là chỗ tôi muốn nói rằng con người, bên trong, đừng để cho cái tình cảm yêu ghét làm hại đến thân, thường nên theo lẽ tự nhiên mà đừng thêm gì cho thiên tính.
Huệ- tử nói:
Không thêm cho thiên tính, sao có được thân?
Trang tử nói:
Đạo cho nó dung mạo, trời cho nó hình hài bên trong, không để cho sự ưa ghét làm hại thân. Nay ông vụ cái bên ngoài của thần minh của ông, để hao tổn tinh lực của ông, ngồi dựa cột mà ngâm vang, bám vào gốc ngô cằn, nhắm mắt làm thinh! Trời đã chon cho ông một cái hình hài nầy, đem chi thuyết "kiên bạch" mà nhọc thân.
TỔNG BÌNH:
Thiên Đức Sung Phù là để mà giải cái nghĩa của thuyết "bất ngôn chi giáo" của Lão tử.
Thuyết nầy gốc ở chương thứ II của sách Đạo Đức Kinh: "Thị dĩ Thánh nhân, xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo" (Thánh nhân dùng "vô vi" mà xử sự, dùng "bất ngôn" mà dạy dỗ).
Sở dĩ Trang tử, cũng như Lão tử, chủ trương thuyết "bất ngôn" là căn cứ vào ba điểm này:
Đạo mà nói ra được, không còn phải là Đạo thường nữa. Nghĩa là Đạo là một lẽ siêu hình, không thể dùng lời nói mà truyền dạy được.
Đức mà đầy đủ nơi trong thì người hóa nơi ngoài, tự nhiên cảm hóa được chung quanh, không đợi dùng đến lời mới dạy dỗ được.
Nhân theo tự nhiên mà không cần phải nói mới là dạy.
1. Bậc thánh nhân không dùng lời nói mà dạy người, là vì bàn về lẽ Đạo, tức là "cái điều chỉ có thể cảm mà không thể nói" không sao có thể được, nhất là phải dùng đến lời nói của giới tương đối nhị nguyên.
Cho nên Lão tử mới nói: "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri" (biết, thì không nói; nói, là không biết), là vì "Đạo khả Đạo, phi thường Đạo". Kẻ nào tự cho là đã hiểu Đạo và đem cái Đạo ấy mà dạy ta, là kẻ dối ta, nếu không phải họ tự dối với lòng.
Thiên Trí Bắc Du giải đọan này có nói: "Trí đi chơi phương Bắc, tới Huyền- Thủy, lên núi ẩ- Phần, gặp Vô- Vi- Vị.
Trí gọi Vô- Vi- Vị, bảo:" Tôi muốn hỏi ông ít điều. Nghĩ làm sao, lo làm sao mà biết được Đạo? Dựa vào đâu, làm cách nào mà hiểu được Đạo? Theo đâu và đi đường nào mà tìm được Đạo?"
Hỏi ba lời, Vô- Vi- Vị không đáp. Chẳng phải không đáp, mà là không biết phải đáp làm sao.
Hỏi không được, Trí trở lại Bạch- Thủy, ở phương Nam, lên núi Hồ- Quyết, gặp Cuồng- Khuất. Trí cũng đem ba câu hỏi trước, hỏi Cuồng- Khuất.
Cuồng- Khuất nói:" à! Tôi biết, để tôi nói cho." Nhưng, vừa muốn nói, thì lại quên mất chỗ mình muốn nói.
Trí không hỏi ai được, bèn trở lại đế- cung ra mắt Hoàng- đế để hỏi:
Hoàng- đế nói: "không nghĩ, không lo mới biết Đạo. Không dựa vào đâu, không làm gì mới rõ Đạo. Không theo đâu, không đi đường nào cả mới được Đạo."
Trí hỏi Hoàng- đế:" Tôi cùng ông biết Đạo chăng? Còn hai người kia không biết Đạo chăng? Ai phải?"
Hoàng- đế nói:" Vô- Vi- Vị mới thật là phải. Cuồng- Khuất cũng giống như Vô- Vi- Vị. Rốt lại, chỉ có ta và ngươi là không gần Đạo mà thôi. Vả, kẻ biết thì không nói, kẻ nói là không biết. Nên chi, bậc Thánh- nhân mới thực hành cái thuyết "bất ngôn"!"
Ấy, Đạo chẳng thể nói ra đặng; nói ra đặng chẳng phải còn là cái Đạo "thường" nữa. Cho nên Trang tử mới nói: "Kẻ hỏi Đạo cũng như người đáp lại đều là những kẻ không hiều Đạo!"
2. Thánh nhân biết rằng mỗi vật trong đời đều có cái "Đức" của nó, và phận sự duy nhất của mỗi vật là phải biết gìn giữ cái "Đức" ấy nơi mình cho đầy đủ, nghĩa là lo sống cái sống ấy một cách triệt để và nuôi dưỡng nó được luôn luôn đầy đủ nơi trong. đức mà đầy đủ bên trong thì tự nhiên ứng hiện ra ngoài, thiên hạ nhờ đó mà tự hóa, đâu cần phải dùng lời nói mà hóa ai. Nên mới gọi là "đức sung phù", nghĩa là "đức mà đầy đủ nơi trong, thì người ở ngoài nhờ đó mà tự hóa; tự nhiên cảm hóa, không phải cần dùng đến lời mà dạy."
"Tại nước Lỗ, có người cụt chân, tên là Vương Đài. Số người theo học ngang với Trọng Ni."
Thường Quý hỏi Trọng Ni: Vương Đài là kẻ cụt chân lại cùng với thầy chia hai học trò nước Lỗ. Người ấy, đứng thì không dạy điều chi, ngồi thì không nghị luận việc gì. Thế mà người học, đến thì không có gì cả, mà khi ra về, thấy mình đầy đủ. Vậy thì, có lối dạy mà không cần đến lời, mặc nhiên mà cảm hóa được lòng người ư?"
"Nước Vệ có một người xấu xí, tên là Ai Đài Đà. Đàn ông nào ở với nó, nhớ không thể bỏ đặng. Đàn bà nào thấy nó, về xin cha mẹ rằng: thà làm vợ bé của nó hơn làm vợ lớn kẻ khác (…) Chưa thường nghe nó xướng lên ý gì, chỉ có họa theo ý người thôi". Thế mà Lỗ Ai Công phong cho nó chức Tướng Quốc, nó nhận rồi từ bỏ mà đi, Ai Công buồn bã đến tự thấy không làm sao an ủi được khi mất nó.
Chi Ly Vô Thần, cũng như Ứng Ánh Đại Anh, người thì què chân, sứt môi, người thì cổ bướu dị hình… thế mà khiến cho Vệ Linh Công và Tề Hoàn Công ưa thích đến nỗi nhìn thấy kẻ thân hình tòan vẹn đều xấu xí cả.
Cho nên "đức mà hơn người có thể làm cho ta quên hẳn cả hình hài xấu xí".
Trên đây, một Vương Đài tàn tật, không nói gì cả mà thiên hạ tự hóa; một Ai Đài Đà hình thù xấu xa, không nói gì cả mà thiên hạ đều quên cái xấu xí của hình thù, đủ thấy rằng Đức mà đủ nơi trong thì người sẽ hợp với mọi người, đâu đợi cần phải nhiều lời mới cảm hóa.
3. Điểm thứ ba của thuyết "bất ngôn chi giáo" là căn cứ vào lý tự nhiên.
Thiên Biền Mẫu giải rất rõ về điều nầy: "Thiên hạ có vật thường tự nhiên như vậy! Có vật tự nhiên cong, đâu cần phải dùng đến câu móc! Có vật tự nhiên ngay, đâu cần phải dùng đến dây mực! Có vật tự nhiên tròn, đâu cần phải dùng đến cái khuynh! Có vật tự nhiên vuông, đâu cần phải dùng đến thước nách! Vạn vật tự nhiên chằng chịt dính líu nhau, đâu cần phải dùng đến keo sơn. Vạn vật sống, đâu cần gì phải biết vì cớ gì mà sống; đặng, cũng không cần biết vì sao mà đặng. Nguyên lý của cái sống và cái đặng kia là việc cố hữu, xưa nay không hai. Nó là cái luật bất di bất dịch. Vậy thì, vì cớ gì lại đòi đem những thứ "nhân, nghĩa, lễ, nhạc" những sợi dây nhơn tạo để mà trói buộc thiên hạ, khiến cho thiên hạ lầm lạc!"
Đó gọi là lẽ thường nhiên, tức là lẽ tự nhiên. Tự nhiên là cái lẽ phải như vậy, vì nó phải như vậy, không vậy không đặng. [xxv]Đã nhận theo lẽ tự nhiên, thì hãy để cho vạn vật tự nhiên sống theo cái sống của nó, cần gì phải dùng đến lời nói mà làm chi?
---------------------------------------------------
Với nhãn quang Nhị nguyên, thì ngay trong thân thể của ta sẽ thấy các tạng phủ như là nghịch với nhau cả (như nước Sở nước Việt cách biệt nhau vậy).
[ii] Tức là quên mất cả thanh sắc thị phi, mỹ ác…
[iii] (đức chi hòa), tức là "hòa" của đạo và đức, tức là chỗ mà Lão Tử gọi "thượng đức bất đức" cái đức siêu việt của đạo gồm nắm cả thị phi, thiện ác…
[iv] Cái "biết" đây, là ám chỉ "chân trí" (cái biết thật).
[v] Tầm thường: tức là cái tâm thường- trụ, bất biến đồng với Đạo thường nơi mình. Chữ "tâm" trước, là ám chỉ cái tâm bất thường, còn vọng động của mình.
[vi] Chữ "tối" ở đây có nghĩa là "tụ": hợp lại, tựu lại. í nói, tại sao chúng nhân lại tựu về theo ông ta (Vương đài).
[vii] Không ai lại đi cầu học nơi một kẻ mà lòng còn vọng động (náo loạn vì ngoại vật). chỉ có sự điềm đạm hư vô là đặc tánh của bậc thánh nhân sống giữa sự náo động không dừng của thiên hạ, cũng như mọi thứ cây cối đều thụ mạng nơi đất, thế mà chỉ riêng có cây tùng cây bách thì cành lá bốn mùa vẫn xanh tươi không thay đổi… vì nó còn giữ được đặc tính trường xuân của nó.
[viii] Chữ chính đây, là chính kỷ.
Chữ sinh đây, nguyên là chữ Tính, hay là Bản Tính (theo Quách Tượng).
[ix] Chống lại với tư cách "khuyến dụ" người theo đạo của phần đông các tôn giáo.
[x] Tử Sản đang là Tướng quốc nước Trịnh.
[xi] Tên của một người xưa có tài bắn cung không ai bì kịp.
[xii] Xúc quỷ: là kỳ dị
[xiii] Đại ý là nói về Đức điềm đạm, không để cho ngoại vật động được Tâm mình.
[xiv] Tức là Khổng- tử (thay lời Trang- tử mà giảng về lẽ Đạo cho Ai Công).
[xv] Hình thì nên quên; mà đức, thì không nên quên.
[xvi] Du: là rong chơi trong cõi hư không.
[xvii] Hoặc viết là "yêu nghiệt".
[xviii] Chữ "chúc" đây phát âm là dục, tức là "nuôi dưỡng".
[xix] Chi Ly Vô Thần, là người có hình thể chia lìa như què chân và sứt môi (xấu xí, kỳ dị). ứng ánh Đại Anh, tức là người cổ bướu dị hình. Nhân đây mà gọi tên.
Thích cái đẹp bên trong, đến quên cả sự xấu xí của hình hài bên ngoài: đó là cái thích đến tột độ.
Trong Tình sử Trung Hoa có chép câu chuyện một chàng trai si tình một người đàn bà một mắt, bấy giờ trong thiên hạ anh ta nhìn lại tất cả mọi người đàn bà khác trong nước đều có thừa một mắt cả.
[xx] Nghĩa đen là "rong chơi", mà nghĩa bóng, là tiêu diêu tự đắc, để cho cái tâm ung dung linh hoạt trong cõi Hư Vô, tức là đã đến cõi "toàn đức" rồi vậy.
[xxi] Nghiệt, tức là yêu nghiệt, là tội ác. Tư Mã bàn rằng: "Trí tuệ sinh yêu nghiệt"
[xxii] Đức ở đây, là ám chỉ lễ nghĩa. So sánh với câu "Đại Đạo phế, hữu Nhân Nghĩa" (Lão tử Đ.Đ.K)
[xxiii] Sinh: ở đây cùng nghĩa với chữ tinh.
[xxiv] Kiên bạch: là thuyết biện luận của Công tôn Long, tức là thuyết "bạch mã kiên thạch". Trang- tử chê Huệ- thi không biết thiện dưỡng thiên chân, suốt đời biện luận để tiêu hao sinh lực trong những cái học tranh biện vô ích cho con đường giải thoát.
[xxv] Bất đắc bất nhiên.

Đạo của vật lý- Chương 3 : Bên kia ngôn ngữ



Cái mâu thuẫn, cái làm cách tư duy thông thường bị lạc lối, xuất phát từ thực tế là, ta dùng ngôn ngữ để diễn tả kinh nghiệm nội tâm của ta, thế mà tính của kinh nghiệm đó lại vượt lên trên ngôn từ.
D.T. Suzuki

Các vấn đề của ngôn ngữ ở đây là sự thật nghiêm trọng. Chúng ta muốn nói về cơ cấu của nguyên tử, nói một cách nào đó... Nhưng chúng ta không thể dùng ngôn ngữ thông thường mà nói về nguyên tử được.
W.Heisenberg

Tất cả mọi mô hình khoa học và mọi lý thuyết đều chỉ gần đúng và sự diễn bày của chúng đều chịu mất mát với sự thiếu chính xác của ngôn ngữ điều đó nói chung đã được các nhà khoa học thừa nhận từ đầu thế kỷ này, nhờ một thành tựu mới mẻ và hoàn toàn bất ngờ. 

Việc nghiên cứu thế giới của nguyên tử đã buộc nhà vật lý nhận ra rằng, ngôn ngữ của ta không những không chính xác mà nó còn hoàn toàn không phù hợp để mô tả thực tại của nguyên tử và thế giới hạ nguyên tử. Nền cơ học lượng tử và thuyết tương đối, hai cột trụ của nền vật lý hiện đại đã làm rõ rằng, thực tại này đã vượt lên logic cổ điển và chúng ta không thể dùng ngôn ngữ thông thường mà nói về nó. Heisenberg viết:

Vấn đề khó nhất của việc sử dụng ngôn ngữ xuất phát từ cơ học lượng tử. Trước hết ở đây ta không có giềng mối gì cả cho phép ta thiết lập mối quan hệ giữa biểu tượng toán học và khái niệm của ngôn ngữ thông thường. Điều duy nhất mà ta biết được trước hết là, khái niệm thông thường của ta không thể áp dụng được cho cơ cấu nguyên tử.

Về mặt triết học thì dĩ nhiên đây là một bước phát triển hấp dẫn của nền vật lý hiện đại và gốc rễ của nó là mối liên hệ với triết học phương Đông. Trong các trường phái của triết học phương Tây thì môn logic và tư duy logic luôn luôn là công cụ quan trọng nhất để phát biểu những ý niệm triết học và theo Bertrand Russell cho cả nền triết lý tôn giáo.
 Còn trong nền triết học phương Đông thì từ xưa đến nay người ta đã rõ là thực tại vượt ngoài ngôn ngữ thông thường và các nhà minh triết phương đông không ngại vượt qua ranh giới của logic và khái niệm thông thường. Theo tôi, đó là lý do chính yếu tại sao mô hình của các vị đó về thực tại đã cung cấp một cơ sở triết lý thích hợp với vật lý hiện đại hơn là mô hình của triết lý phương Tây.

Vấn đề của ngôn ngữ đặt ra cho các nhà đạo học phương Đông y hệt như đối với vật lý hiện đại. Hai câu nói được trích dẫn ở đầu chương này là của D.T.Suzuki về Phật giáo và Werner Heisenberg về vật lý nguyên tử , thế nhưng hai câu nói gần như đồng nhất với nhau. Cả nhà vật lý lẫn nhà đạo học đều muốn trao truyền kiến giải của mình, nhưng khi họ dùng ngôn từ thì những gì nói ra nghịch lý và đầy mâu thuẫn. Sự nghịch lý này là đặc trưng của những phát biểu tâm linh từ Heraklitus đến Don Juan và từ đầu thế kỷ này, chúng là đặc trưng của ngành vật lý.

Trong vật lý nguyên tử, nhiều nghịch lý bắt nguồn từ thể tính hai mặt của ánh sáng-hay nói chung- của bức xạ điện từ. Một mặt thì rõ là chúng phải do sóng tạo thành vì chúng có hiện tượng giao thoa, hiện tượng đó chỉ có với thể tính sóng: tức là khi có hai nguồn sáng giao thoa với nhau thì độ sáng tại một điểm nhất định không nhất thiết phải là tổng số của hai nguồn sóng, chúng có thể lớn hơn hoặc nhở hơn. Điều này có thể giải thích rõ ràng bằng sự giao thoa của hai nguồn sóng như sau:

Tại những nơi mà hai đỉnh sóng gặp nhau, ta có nhiều ánh sáng hơn tổng số hai nguồn hợp lại; còn nơi một đỉnh một bụng gặp nhau, ta có ít hơn. Trị số chính xác của sự giao thoa có thể được tính dễ dàng. Hiện tượng giao thoa này luôn luôn được quan sát mỗi khi ta làm việc với tuyến điện từ và buộc ta phải thừa nhận những tia này là do sóng hợp thành.

Mặt khác những bức xạ điện từ cũng có tác dụng của hạt : hiệu ứng của các hạt quang tử. Khi ánh sáng cực tím chiếu lên bề mặt một số kim loại thì một số electron (âm điện tử) của bề mặt kim loại đó bị tách ra, do đó tia này phải gồm có những hạt đang vận động. Một hiện tượng tương tự cũng xảy ra với thí nghiệm quang tuyến X. 

Những thí nghiệm này chỉ có thể giải thích một cách thích đáng khi ta mô tả rằng chúng là sự chạm nhau của những hạt quang tử với electron. Thế mà chúng lại có đặc trưng của sóng với hiện tượng giao thoa. Câu hỏi trong thời kỳ đầu của vật lý nguyên tử làm nhiều nhà vật lý hoang mang là: làm sao được, một tuyến điện từ đồng thời vừa là hạt (đơn vị có khối lượng rất nhỏ) vừa là sóng, có thể lan rộng trong một vùng không gian? Cả ngôn ngữ lẫn tư duy trừu tượng không thể tiếp cận với dạng thực này của thực tại.

Nền đạo học phương Đông đã phát triển nhiều cách nhằm nắm bắt thể tính đầy nghịch lý thực tại. Nếu trong Ấn Độ giáo thể tính đó được tránh né bằng văn chương huyền thoại thì trong Lão giáo và Phật giáo, người ta thấy nên nhấn mạnh tính nghịch lý đó thay vì che giấu nó. Tác phẩm chính của Lão tử, bộ Đạo Đức Kinh được viết với một loại văn làm người đọc hoang mang, dường như thiếu logic. Nó chứa toàn những mâu thuẫn kỳ lạ và ngôn ngữ mạnh bạo, sắc sảo và hết sức thi vị của nó buộc chặt lấy tâm hồn người đọc và ném ta ra khỏi quĩ đạo thông thường của tư duy logic.

Phật giáo Trung quốc và Nhật đã dùng cách thế này của Lão giáo, thông qua nghịch lý mà truyền đạt kinh nghiệm tâm linh. Khi thiền sư Tâm Phong Diệu Siêu gặp nhà vua Godaigo, một thiền sinh, vị thiền sư nói:

Ta đã xa nhau từ ngàn kiếp trước, nhưng chưa một phút nào rời xa nhau.
Suốt ngày nhìn thấy nhau, nhưng chúng ta chưa bao giờ gặp mặt.

Thiền tông Phật giáo là người biết cách biến những mâu thuẫn của ngôn từ thành một đức hạnh, và với hệ thống “công án”, Phật giáo đã xây dựng một con đường vô song, truyền đạt giáo pháp mà không cần chữ nghĩa. Công án là những câu chuyện, câu đố được soạn thảo kỹ lưỡng, nghe qua rất vô nghĩa, nhưng nó ghi dấu ấn vào đầu thiền sinh một cách hết sức triệt để về giới hạn của logic và lý luận logic. Cách dùng chữ vô nghĩa và nội dung mâu thuẫn của công án làm cho nó không thể giải được bằng tư duy. Chính nó muốn chấm dứt tiến trình suy luận và làm cho thiền sinh sẵn sàng cho chứng nghiệm phi suy luận, tri chứng về thực tại trực tiếp. Thiền sư Yasutani sống cùng thời với chúng ta đưa một thiền sinh phương Tây vào một công án nổi tiếng với những câu sau đây:

Một trong những công án tốt nhất là “Mu”, vì nó giản đơn nhất. Đây là câu chuyện: một vị tăng đến gặp Triệu Châu, một thiền sư nổi tiếng sống vài trăm năm trước tại Trung quốc và hỏi: “Con chó có Phật tính không?”. Triệu Châu trả lời: “Mu”. Dịch nghĩa thì Mu là “Không” nhưng câu trả lời của Triệu Châu không phải là ở chỗ đó. Mu là dạng sinh động, tạo tác, năng động của Phật tính. Điều bạn phải làm là khám phá tâm và thể tính sâu nhất của Mu, không phải bằng đầu óc suy luận mà bạn hãy chứng nghiệm cái thể sâu xa nhất của chính bạn. Sau đó bạn hãy chứng minh cho tôi xem, một cách cụ thể dễ hiểu và không dựa vào bất cứ khái niệm gì, lý thuyết gì hay giải thích trừu tượng gì rằng bạn đã nắm Mu được như một sự thật sinh động. Bạn hãy nhớ: bạn không thể nắm Mu bằng kiến thức thông thường; bạn hãy nắm bắt nó bằng toàn bộ sự hữu hiện của chính bạn. 5

Thiền sinh tập sự thường được thầy cho nghe công án Mu này hay một trong hai công án sau đây:

Bản lai diện mục của người là gì trước khi cha mẹ sinh ra?. Hay:

Với hai tay thì có tiếng vỗ tay.
Tiếng vỗ của một bàn tay là thế nào?

Tất cả những công án này có nhiều hay ít lời giải đặc biệt mà một vị thầy đích thực sẽ nhận ra ngay. Một khi lời giải đã được tìm ra, công án không còn là nghịch lý nữa và nó trở thành một phát biểu quan trọng của dạng tâm thức, dạng đã được đánh thức.

Với thế giới vi mô này, nhận thức không còn do giác quan trực tiếp mang lại nữa và do đó ngôn ngữ thông thường của ta (vốn do giác quan tạo ra hình ảnh), không còn đủ khả năng để mô tả các hiện tượng được quan sát...

Trong tông Lâm, Tế, thiền sinh phải giải một loạt công án, mỗi công án đề cập đến một mặt của thiền. Tông phái này chỉ giáo hoá bằng cách đó. Tông này không khẳng định điều gì cả mà chỉ để thiền sinh tự mình nắm bắt sự thật với những công án.

Ở đây ta thấy một sự tương đồng nổi bật với những mâu thuẫn mà nhà vật lý gặp phải trong giai đoạn đầu của nền vật lý nguyên tử. Như trong Thiền, sự thật bị che lấp trong sự nghịch lý, sự thật không do suy luận logic mà lý giải được, mà chỉ được hiểu trong khung cảnh của ý thức mới về sự thật của thế giới nguyên tử. Ở đây người thầy dậy dĩ nhiên cũng lại là Tự nhiên, mà cũng như trong thiền, người thầy đó không khẳng định điều gì cả. Tự nhiên chỉ đặt câu hỏi.

Muốn giải đáp một công án, thiền sinh phải hết sức tập trung và tinh tấn. Qua sách vở về Thiền, ta biết rằng công án chiếm hết tâm trí của thiền sinh, đưa người đó vào một ngõ cụt tư tưởng, một tình trạng căng thẳng liên tục, cả thế giới là một khối khổng lồ những câu hỏi và nghi ngờ. Các nhà sáng lập lý thuyết lượng tử đều đã trải qua tình trạng tương tự mà Heisenberg viết rõ như sau:

Tôi nhớ lại nhiều cuộc thảo luận với Bohr kéo dài suốt đêm và chấm dứt hầu như với sự tuyệt vọng. Và cứ sau mỗi cuộc thảo luận đó tôi còn đi dạo một mình trong công viên gần đấy, tôi tự nhắc lại mái câu hỏi, liệu thế giới tự nhiên có thể vô lý thế chăng như nó đã xuất hiện trong các thí nghiệm nguyên tử.

Luôn luôn, một khi thể tính của sự vật được trí suy luận phân tích thì nó hiện ra một cách vô lý hay mâu thuẫn. Điều này đã được các nhà đạo học nhận biết và đối với nhà khoa học, vấn đề này mới được biết sau này thôi. Từ bao nhiêu thế kỷ nay các nhà khoa học đi tìm Định luật căn bản của thế giới tự nhiên, trên cơ sở đó mà muôn hình hiện tượng xuất hiện. Những hiện tượng này nằm trong thế giới vĩ mô của nhà khoa học, tức là nằm trong lĩnh vực nhận biết được của giác quan. Chính vì hình ảnh và khái niệm suy luận của ngôn ngữ xuất phát từ sự trừu tượng hóa các cảm thọ giác quan đó, nên chúng đủ để mô tả các loại hiện tượng đó.

Các tra vấn về vấn đề tự tính sự vật trong vật lý cổ điển được trả lời với mô hình cơ học Newton, đó là mô hình qui mọi hiện tượng về lại với sự vận động và tương tác của các nguyên tử không phân huỷ, tương tự như mô hình Hy Lạp của Demokritus. Tính chất của thứ nguyên tử này được rút ra từ hình dung vĩ mô của trái banh bi-da, tức là từ kinh nghiệm thông thường của giác quan. Người ta không hề hỏi, liệu hình dung đó có thật đúng với thế giới của nguyên tử thật không. Thời đó người ta chưa thể nghiên cứu thực nghiệm về điều này.

Thế nhưng ở thế kỷ 20, nhà vật lý đã đủ khả năng đặt những câu hỏi thực nghiệm về bản chất cuối cùng của vật chất. Nhờ kỹ thuật tiến bộ, họ nghiên cứu ngày càng sâu vào thế giới tự nhiên, khám phá từ tầng này xuống đến tầng kia, đi tìm hạt cơ bản của vật chất. Nhờ thế mà ta khẳng định có sự hiện diện của nguyên tử cũng như những hạt cấu thành nó, hạt nhân và electron; và cuối cùng thành phần của hạt nhân, tức là những hạt proton và neutron và nhiều hạt hạ nguyên tử khác.

Những thiết bị phức tạp và tinh xảo của ngành vật lý thực nghiệm hiện đại giúp ta đi sâu vào thế giới vi mô, trong lĩnh vực của tự nhiên nằm xa thế giới vĩ mô của chúng ta, và giúp ta có thể nhận biết được bằng giác quan. Tuy nhiên điều này chỉ có thể thực hiện thông qua một loạt tiến trình, mà cuối cùng có thể nghe được bằng tiếng “cóc” của một máy đo phóng xạ hay thấy được bằng một chấm nhỏ trên tấm ảnh. Điều mà chúng ta nghe thấy không bao giờ là bản thân hiện tượng, mà chỉ là hệ quả của nó. Bản thân thế giới của nguyên tử và của các hạt hạ nguyên tử thì nằm bên kia khả năng nhận biết của chúng ta.

Như thế thì, với thiết bị hiện đại ta có thể quan sát tính chất của nguyên tử và thành phần của nó một cách gián tiếp và có thể nhận biết thế giới hạ nguyên tử tới một mức độ nhất định. Thế nhưng những kinh nghiệm này lại không phải thông thường, nếu so sánh với đời sống hàng ngày của chúng ta. Với thế giới vi mô này, nhận thức không còn do giác quan trực tiếp mang lại nữa và do đó ngôn ngữ thông thường của ta (vốn do giác quan tạo ra hình ảnh), không còn đủ khả năng để mô tả các hiện tượng được quan sát. Càng đi sâu vào thế giới tự nhiên, ta càng phải từ bỏ hình ảnh và khái niệm của ngôn ngữ thông thường.

Trên bước du hành vào thế giới cực nhỏ về mặt triết học, bước đầu là bước quan trọng nhất: bước đi vào thế giới nguyên tử. Tìm hiểu nguyên tử và nghiên cứu cơ cấu của nó, khoa học đã vượt qua biên giới của khả năng nhận thức bằng giác quan. Do vậy, khoa học không còn thấy vững tin hoàn toàn nơi logic và óc suy luận nữa. Thế giới nguyên tử hé mở cho nhà khoa học thấy chút ít tự tính của sự vật. Cũng như nhà đạo học, nhà vật lý bây giờ cũng phải đương đầu với kinh nghiệm phi giác quan về thực tại và cũng như nhà đạo học, họ cũng phải trăn trở với những tính chất nghịch lý của các kinh nghiệm này.

CÁC LOẠI VỢ


Mithra Wettimuny
Diệu Liên Lý Thu Linh





Bạo hành trong gia đình luôn đưa đến đổ vỡ. Dư luận gần đây đều bức xúc trước những thông tin về việc chồng đốt vợ, giết vợ, tạt acid vợ, vân vân. Thật khó có một giải pháp vẹn toàn cho vấn đề đó. Dưới đây là một bài viết ngắn nhằm soi một chút ánh sáng vào vấn đề này qua lăng kính Phật giáo.



Người phụ nữ có cần chịu đựng một ông chồng nát rượu và hay đánh vợ không?

(Câu hỏi này đã được gửi tới mạng Beyond The Net, là một trang điện tử của Phật giáo Nguyên Thủy ở Tích Lan, và được Giáo Sư Mithra Wettimuny trả lời. Giáo sư đã tu Thiền với ngài Thiền sư Matara Sri Nanarama theo truyền thống ẩn tu trong rừng của Thiền viện Nissarana, Tích Lan.)

Để có thể trả lời thẳng câu hỏi này, chúng ta cần xem xét nhiều khía cạnh quan trọng. Người nghiện rượu hay thường uống rượu đến say xỉn là kẻ dại khờ. Người chồng mà phải dùng đến bạo lực với vợ là người đầy sân hận và cũng là kẻ dại khờ. Người mà phạm cả hai lỗi này thì hoàn toàn là kẻ ngu.

Trong kinh Pháp Cú Đức Phật đã dạy rằng thà sống một mình còn tốt hơn là sống với kẻ ngu. Đó là vì khi bạn thường xuyên phải tiếp xúc với kẻ ngu thì điều đó sẽ làm phát khởi những tính chất bất thiện trong bạn. Do đó bạn sẽ không bao giờ phát triển theo hướng thiện lành.

Tuy nhiên, bản tính con người thường dễ nhìn người khác để phán xét hơn là soi lại bản thân mình. Cũng trong kinh Pháp Cú, Đức Phật đã thuyết, “Đừng nhìn lỗi của người, những cái tốt hay xấu của họ, mà hãy tự quan sát hành động của chính mình, xem xét những gì bạn đã làm được, và những gì còn chưa hoàn tất”.

Từ hai lời dạy này của Đức Phật, chúng ta có thể tạo nền tảng cho quyết định phải đối phó như thế nào đối với vấn đề được nêu trong câu hỏi. Do đó trước khi kết tội người chồng và đi đến một kết luận nào, trước hết người vợ hãy tự xét lại mình.

Trước tiên người vợ phải hiểu rõ ràng rằng mình là người vợ tốt hay xấu. Về phương diện này, Đức Phật đã dạy rằng có bảy loại vợ trên thời gian này. Đó là:
Loại vợ này không thương yêu chồng. Người này có thể giết chồng nếu có cơ hội. Người vợ này không lắng nghe chồng, không trung thành, không biết giữ gìn tài sản cho chồng. Một người vợ như thế được gọi là “Vợ Sát Nhân”.
Cũng có loại vợ không biết gìn giữ tài sản cho chồng, ăn cắp, phung phí của cải của chồng, không vâng lời và không trung thành với chồng. Loại vợ này được gọi là “Vợ Ăn Cắp”.
Lại có loại vợ hành xử độc đoán, tàn nhẫn, đàn áp, hống hách, cứng đầu, không trung thành, không gìn giữ tài sản của chồng. Loại vợ này được gọi là “Vợ Độc Đoán”.
Lại có người vợ chăm sóc chồng như người mẹ chăm con. Quan tâm đến tất cả mọi nhu cầu của chồng, gìn giữ tài sản của chồng, trung thành, hết lòng vì chồng. Người vợ đó được gọi là “Vợ Từ Mẫu”.
Có người vợ xem chồng như người anh lớn của mình. Kính trọng chồng, khiêm hạ, vâng lời, bảo vệ tài sản và trung thành với chồng. Loại vợ đó được gọi là “Vợ Huynh Muội”.
Có người vợ xem chồng như bạn. Đối xử với chồng như người bạn thân thiết lâu ngày mới gặp. Người vợ này khiêm hạ, dễ bảo, trung thành và biết bảo vệ tài sản của chồng. Loại vợ này được gọi “Vợ Bằng Hữu”.
Cũng có loại vợ luôn phục tùng chồng dưới bất kỳ hình thức nào, không than phiền, chịu đựng những thiếu sót của chồng, nếu có, một cách âm thầm, dễ bảo, khiêm hạ, trung thành và bảo vệ tài sản của chồng. Loại vợ này được gọi là “Vợ Tận Tụy”.

Đó là bảy loại vợ có thể tìm thấy trên thời gian. Trong số họ, ba loại vợ đầu tiên (Vợ Sát Nhân, Vợ Ăn Cắp và Vợ Độc Đoán) trong hiện tại họ sống khổ sở, lúc chết sẽ bị đọa đày [thí dụ như tái sinh vào cõi súc sanh, cõi ngạ quỷ, a-tu-la và địa ngục].

Bốn loại vợ còn lại, Từ Mẫu, Huynh Muội, Bằng Hữu và Tận tụy, thường sống hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại, và chết được vào cõi cực lạc [thí dụ cõi chư thiên hay cõi người].

Do đó, người vợ cần phải quán xét bản thân kỹ lưỡng để xem mình thuộc loại vợ nào. Nếu người vợ thấy bản thân mình thuộc vào ba loại vợ đầu tiên, thì rõ ràng là người đó phải tự sửa mình trước khi có thể kết án chồng. Việc làm này suy cho cùng cũng là vì lợi ích của người vợ.

Nếu người vợ thuộc vào bốn loại vợ hiền, mà phải sống với người chồng say xỉn và hay đánh vợ là một trường hợp thật sự ngoại lệ, có thể bị vướng vào hoàn cảnh này là do nghiệp duyên (hành động có chủ tâm trong quá khứ).

Nếu sau khi đã là người vợ tốt như đã miêu tả ở trên, nhưng người chồng vẫn tiếp tục làm kẻ nát rượu và đánh vợ (trường hợp này rất hiếm, hoàn toàn ngoại lệ), thì người vợ phải đi đến quyết định có tiếp tục sống chung với chồng hay chia tay. Người vợ phải chắc rằng mình không sống để phải khổ sở hơn. Thí dụ trong hoàn cảnh mà những tính chất bất thiện cứ phát khởi trong tâm (thí dụ sân hận, oán thù, sợ hãi, căm ghét, v.v.). Nếu đó là kết quả của việc sống chung với nhau, thì tốt hơn là chia tay một cách êm thấm. Vì như đã nêu trên trong kinh Pháp Cú rằng, “Thà sống một mình hơn là sống với kẻ ngu, giống như con voi sống một mình trong rừng”, hay “như vị vua đã bỏ ngôi, vào sống trong rừng”. Đây là quyết định cần thiết lập để người phụ nữ có thể tự phát triển trên con đường chân chính, hầu đạt được trí tuệ, và tự giải thoát khỏi khổ đau.

Mặt khác, nếu hoàn cảnh đặc biệt này được chấp nhận bằng sự chịu đựng với lòng từ bi, thì ở một giai đoạn nào đó trong luân hồi không thể tránh khỏi, người đó chắc chắn sẽ được vào thế giới chư thiên, được hưởng hạnh phúc siêu thế, niết bàn, và sẽ đạt được trí tuệ, giải thoát khỏi tất cả mọi khổ đau, do đã thiết lập một nền tảng dựa trên sự hy sinh và chịu đựng với tâm từ bi.

Tóm lại, trong hoàn cảnh đặc biệt này, người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình.

Diệu Liên Lý Thu Linh(Chuyển Ngữ theo Beyond The Net).