Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Luận văn, phê bình luận văn và…




 
Văn Giá




PGS. TS Ngô Văn Giá, Chủ nhiệm Khoa Sáng tác – Lý luận- Phê bình Văn học, ĐH Văn hoá Hà Nội. 

Ngày mới rầm rộ vụ Nhã Thuyên (quãng tháng 6-7/2013), mình viết bài này, đã định công bố, nhưng rồi lại thôi. Nay thì vụ việc Nhã Thuyên đã dường như ngã ngũ (theo một cách nào đấy). Với một tâm trạng buồn rầu, xin chia sẻ cùng các bạn “phây” của mình nhé!
Tác giả

Thưa rằng, tôi là người có liên đới đến câu chuyện luận văn Thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên) đang gây nóng trên văn đàn hiện nay. Nói là liên đới vì: thứ nhất, tôi là thành viên trong Hội đồng chấm luận văn này; thứ hai, tôi được/bị một vài bài viết của người này người khác nhắc đến trực tiếp, hoặc gián tiếp (khi quy trách nhiệm cho Hội đồng). Cho nên tôi thấy có trách nhiệm phải nói đôi lời.

1. Tất cả các ý kiến phê phán luận văn của Đỗ Thị Thoan hiện nay (như đang thấy trên một số tờ báo chính thống) đều là của những người hoạt động ngoài lĩnh vực học đường. Họ đọc luận văn này trong tâm thế của người ngoài cuộc. Nếu ai từng kinh qua hoạt động đào tạo ở nhà trường đều biết mỗi khi chấm khóa luận, luận văn, luận án của sinh viên/học viên/nghiên cứu sinh bao giờ cũng phải giải quyết hài hòa ba yêu cầu chủ yếu: (1) các phương pháp và thao tác nghiên cứu; (2) các kết quả nghiên cứu; và (3) triển vọng học thuật của người nghiên cứu được bộc lộ qua toàn bộ quá trình thực hiện đề tài. Với yêu cầu (1), các phương pháp và thao tác nghiên cứu nhằm trang bị cho người tập làm khoa học biết được với đối tượng ấy phải có phương pháp và thao tác nghiên cứu nào phù hợp và hiệu quả; mỗi phương pháp, thao tác ấy là gì và ứng dụng như thế nào. Với yêu cầu (2) chính là cách thức triển khai nội dung văn bản khoa học, logic của các chương tiết cùng những kết quả nghiên cứu đạt được. Còn yêu cầu (3) cũng hết sức quan trọng, nhằm đánh giá được năng lực tư duy, độ mẫn cảm khoa học, khả năng nghiên cứu độc lập hoặc hợp tác… của người nghiên cứu.

Như vậy, điểm số/thứ bậc của một bản luận văn/luận án không phải là sự chia đều của 3 yêu cầu đó, mà tùy từng trường hợp có sự phân lượng cần thiết. Làm thạc sĩ là bước đầu học cách nghiên cứu (làm xong tiến sĩ cũng mới chỉ được xét nhận là người có khả năng nghiên cứu độc lập). Nên không thể đòi hỏi những kết quả khoa học ở các luận văn của họ luôn luôn đúng. Nó cho phép độ dung sai nhất định, với điều kiện cái sai đó cho thấy nỗ lực tư duy của người làm khoa học. Đó là những cái sai lương thiện, có khả năng thúc đẩy tư duy để hướng tới cái đúng, cái khác. Nó ngược lại với những cái đúng nhạt nhẽo và vô ích. Ở đời không thiếu gì những cái đúng vô ích. Có thể trong luận văn của Đỗ Thị Thoan có những chỗ chưa kín kẽ, chưa thỏa đáng, nhưng đã thấy rõ một nội lực tư duy khoa học văn học đầy triển vọng.

2. Đỗ Thị Thoan là một người trẻ. Khi bảo vệ luận văn, cô ấy mới 24 tuổi. Cô ấy có một tài sản vô giá là tuổi trẻ mà chúng ta (gồm cả tôi và những người đang lên tiếng phê phán cô ấy) đã hết thời rồi. “Khi người ta trẻ” (tên một truyện ngắn của Phan Thị Vàng Anh) mà! Một người trẻ có cái say mê, háo hức, có cái khao khát khẳng định cá tính, bản ngã của mình. Đỗ Thị Thoan trong khi làm thạc sĩ, cô ấy đã/đang là người viết – người viết trẻ. Người viết nào cũng có cái khao khát mạnh mẽ và chính đáng khẳng định tiếng nói riêng của mình. Huống chi đây lại là người viết trẻ. Vì thế cái nhiệt tâm khẳng định tiếng nói của một chủ thể ý thức, chủ thể viết là một nhu cầu chính đáng và cần được tôn trọng.

Tôi thích tinh thần trẻ trong lao động khoa học, trong lao động viết. Họ đọc, học, viết với một tinh thần say mê vô tư, không vụ lợi, nhằm truy cầu học vấn và tri thức, nỗ lực xác lập tư cách trí thức của mình. Thế thôi. Nó ngược lại với không ít người trẻ (nhất là trong cơ quan công quyền) hiện nay: xa rời chuyên môn, lười đọc sách, không có khát vọng tri thức, chuyên tìm cách lấy lòng cấp trên hòng kiếm chác chức tước, địa vị, mau chóng biến thành một thứ công chức nô bộc hoặc thư lại. Thử hỏi, liệu xã hội có thể trông chờ được gì vào những người trẻ như vậy.

Đỗ Thị Thoan là một người có khao khát tri thức, dấn thân vào con đường chữ nghĩa, từ bé đến lớn chỉ biết có việc học và học, ngoài ra không biết làm gì khác. Một người như vậy bị quy cho cái tội phản động, chống đối chế độ. Hỡi ôi, làm kẻ phản động chống đối chế độ chả lẽ lại dễ đến thế được sao!?

Khích lệ những người trẻ tuổi lao động, học tập và sáng tạo mới khó, chứ quy kết họ thiết tưởng không khó lắm, nhất là trong bối cảnh hiện nay.

3. Khi viết những dòng này, ngay từ đầu tôi tự dặn mình không để bị rơi vào những tranh cãi (dù là học thuật hay ý thức hệ) đang bị gây nhiễu. Tôi cứ nghĩ đến một luận bàn triết học của nhà triết học F. Jullien về Mạnh Tử, trong đó ông có phân tích một chiêm nghiệm của Mạnh Tử như sau: [“Người ta ai cũng có lòng thương xót, lòng chẳng nỡ đối với việc này hoặc việc khác”, từ đó Mạnh tử suy ra: đem tấm lòng chẳng nỡ ấy (đối với người khác) phổ cập đến những điều mình còn nỡ (còn đang tâm đối với người khác), đó là “nhân” vậy] (Xác lập cơ sở cho đạo đức của F. Jullien, Hoàng Ngọc Hiến dịch và giới thiệu, NXB Đà Nẵng, 2000, tr12).

“Lòng chẳng nỡ” (ngược lại với “đang tâm”) không phải là một khái niệm triết học, mà là một kinh nghiệm tồn tại. Hay nói cách khác, nó là một ý niệm thuộc về minh triết. Mà minh triết sinh ra không để cãi lý. Nó để cảm thấu. Và một khi đã cảm thấu được, nó có khả năng “sàng lọc các lý lẽ” (F. Jullien).

Đến đây, tôi thấy mình nên dừng lại.

Người ta đã nói dối nhau như thế nào?



Tác giả: Cử Tạ


Trong cuộc đời con người, hầu như ai cũng đã từng nói dối hoặc đánh lừa người khác.



Con người từ bao đời nay luôn có nhu cầu lừa dối, nên người ta mới sinh ra ngày Cá Tháng Tư (Ngày 1 tháng 4 hàng năm) để mọi người được công khai lừa dối mà không sợ mang tiếng. Tuy nhiên nhu cầu lừa dối của con người là không giới hạn nên thay vì chỉ nói dối, đánh lừa trong ngày Cá Tháng Tư, người ta đã và đang nói dối đến tận 365 ngày trong một năm, thậm chí 366 ngày nếu đó là năm nhuận.



Ngày cá Tháng Tư có xuất xứ từ Pháp, rồi lan rộng ra cả thế giới. Trong ngày này người ta được thoải mái nói đùa cợt, lừa dối nhau, kể chuyện vui, phao tin vịt… Một trong những vụ “lừa dối” nổi tiếng nhất thế giới là vào ngày cá tháng tư (01 tháng 4 năm 1957), đài BBC phát sóng một phim tài liệu giả mạo, thuyết phục khán giả rằng Thụy Sĩ đã phát triển thành công cây spaghetti (mì ống ý). Chỉ cần trồng loại cây này và thu hoạch mỳ ống mà không cần thông qua bất kỳ một khâu chế biến nào. Rất người xem đã bị mắc lừa và sau đó họ đã đứng chờ hàng giờ để được nhận giống mì này.

Tiếp đó, trong một đoạn clip khác, hãng này cho thấy các chú chim cánh cụt đã… biết bay. Trò lừa bịp này giải thích rằng vùng đất chim cánh cụt biết bay đầu tiên đã được phát hiện và chúng bay di cư trong mùa đông để đến một khu rừng nhiệt đới ở Nam Mỹ. Clip thiên nhiên đẹp mắt này trên thực tế là một quảng cáo do BBC lập trình trực tuyến và nó đã “xỏ mũi” được không ít khán giả truyền hình.

Một câu chuyện tương tự được cho xảy ra ở VN vài năm gần đây:

Ngày 1-4, một anh chàng vừa ngủ dậy mình quyết định nhắn tin cho bạn gái của mình:
“Anh xin lỗi, mình chia tay em nhé, anh bị đồng tính”
Anh chàng tủm tỉm cười chờ tin nhắn hoặc cuộc gọi lại của nàng, nhưng mãi chẳng thấy gì. 10 phút sau anh ta nhận được một tin nhắn, nhưng lại là của thằng bạn thân:
“Ê mày! Giúp tao đi đánh ghen nhé, vừa phát hiện con bồ vào nhà nghỉ với 1 thằng khác. Mặc quần áo đi, 5 phút nữa tao qua rồi cùng đi”.
Lúc đó anh chàng quá phẫn uất với chuyện của thằng bạn và quên luôn chuyện đùa với bạn gái trước đó. Anh ta nhanh chóng mặc quần áo xuống cổng đứng đợi. 5 phút sau anh ta cùng thằng bạn đến nhà nghỉ X, chui vào phòng đã biết trước và đánh ghen ra trò trong đó.
Sau chừng 30 phút, cả hai hớn hở ra về vì rất hả giận thì bất chợt anh chàng nói trên nhận được tin nhắn từ cô bạn gái:
“Anh à, lúc anh nhắn tin em đã không tin đó là sự thật và em đã lao ngay đến nhà anh nhưng cũng chỉ kịp nhìn thấy anh lên xe với người con trai ấy. Rồi em đã tận mắt chứng kiến bọn anh vào nhà nghỉ X. Cảm ơn anh đã cho em biết sự thật, dù nó rất đau lòng. Vĩnh biệt anh! Đừng bao giờ tìm em nữa. Chúc các anh hạnh phúc!”

Đúng là hậu quả quá đau lòng vì một phút đùa quá đà, anh ta đã mất bạn gái. Làm sao có thể thanh minh khi “tình ngay, lý gian” đến nhường ấy.

Ở đời, cái gì muốn giỏi cũng phải luyện tập thường xuyên. Lừa dối cũng vậy. Muốn lừa dối để người khác tin thì cần phải trau dồi liên tục để nó trở thành một kỹ năng. Nếu bạn là một tay lừa dối “nghiệp dư” thì bạn rất dễ bị lộ tẩy, chỉ cần nói vài câu người nghe đã thấy mâu thuẫn câu đầu với câu cuối.

Chuyện kể rằng có một anh chàng đi tán gái, anh ta “tóm tắt” sơ lược lý lịch của mình như sau: “Anh có rất nhiều ưu điểm như chẳng bao giờ hút thuốc, uống rượu, sử dụng chất gây nghiện, cờ bạc, trai gái, anh rất giàu có, tài giỏi, khéo tay,… v.v. Anh chỉ có mỗi một khuyết điểm bé xíu là thỉnh thoảng còn… hay nói dối”.

Vậy đó, chỉ mỗi một câu cuối hớ hênh anh chàng nói trên đã “hiện nguyên hình”. Anh ta đúng là một tay nói dối khá “nghiệp dư”, nói nhanh hơn nghĩ!

Một câu chuyện khác, nhưng lần này người lừa dối là một phụ nữ:

Một cô buột miệng tâm sự với nữ đồng nghiệp:
“Hôm qua tớ tình cờ gặp ông xã bạn trên xe bus, anh ấy thật đẹp trai và nói chuyện thật hài hước. Anh ấy kể chuyện tiếu lâm làm tớ cười lăn lộn, cười đến độ ngã lăn từ trên… giường xuống đất.”

Vậy là đã rõ, giấu đầu hở đuôi, chỉ vì nói dối không chuyên nghiệp mà cô nàng đã tự khai ra tội lỗi của chính mình.

Nếu coi lừa dối là một “nghệ thuật” thì phụ nữ chính là một điển hình cho nghệ thuật này. Một cô gái kém xinh có thể dễ dàng đánh lừa, gây ảo giác cho đàn ông bởi khả năng… ngụy trang bằng son phấn, mỹ phẩm và lối ăn mặc. Tất nhiên những cô quá xấu thì ngụy trang không chưa đủ mà phải nâng nghệ thuật lừa dối lên một cấp độ cao hơn, đó là… hóa trang.

Và đó cũng chưa phải là tất cả, mới chỉ là lừa dối trên khuôn mặt, nhiều phụ nữ còn sử dụng các hình thức lừa dối khác mà đàn ông khó có thể nhận biết khi chưa đủ độ “thân thiết”. Hiệp hội các nhà sản xuất đồ lót toàn cầu công bố một số liệu thống kê khá sốc: Số lượng quần lót nâng mông và áo độn ngực của chị em mà họ sản xuất ra chiếm 1/3 tổng sản lượng hàng năm. Thế giới này có chừng 3 tỷ phụ nữ trẻ, vậy hàng năm sẽ có tới 1 tỷ vụ lừa dối, qua mặt đàn ông mà họ không hề hay biết. Tất cả trong số phụ nữ ấy đều có vòng một tràn đầy sức sống và vòng ba căng tròn như trái bóng. Thế mới biết, phụ nữ họ có khả năng lừa dối quy mô lớn ở cấp độ toàn cầu.

Tất nhiên cũng có một bộ phận không nhỏ đàn ông tham gia vào lực lượng “lừa dối” chị em, nhưng đa phần họ thường vụng về, thô thiển, kém tinh vi hơn rất nhiều. Có chuyện rằng:

Có anh chàng chuẩn bị đi tắm biển bèn hỏi lũ bạn:
- Làm thế nào để được các cô gái để ý trên bãi tắm?
Lũ bạn xúi:
- Đơn giản, mày cứ kiếm một củ khoai rồi nhét vào trong quần bơi ấy!
Anh chàng nghe lời làm theo, quả nhiên lúc đầu anh ta cũng được khá đông phụ nữ trên bãi tắm há hốc mồm nhìn ngắm, nhưng rồi sau đó tất cả trong số họ đều bò ra cười, làm anh chàng xấu hổ muốn độn thổ.
Hóa ra, thay vì nhét củ khoai phía trước, anh ta lại nhét nó ở phía mông.

Thế đấy, thích lừa dối mà kỹ năng lại vụng về thì chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ!

Nói như vậy không hẳn là đàn ông kém tài lừa dối và phụ nữ luôn luôn tỉnh táo trước những lời nói dối. Các nhà tâm lý ở ĐH Harvard, Hoa Kỳ chứng minh được rằng, câu nói có tính chất “lừa dối” nhất mà đàn ông thường xuyên sử dụng và phụ nữ lại thích nghe nhất đó là “Em đẹp quá!” hoặc một câu gì đại loại như vậy. Biết nói dối nhưng vẫn thích, có lẽ đối với phụ nữ thì hai bán cầu đại não của họ đều coi những câu như thế là một “lời nói dối chân thật!”.

Ngày nay, “lừa” được một ai đó thì người ta còn lấy làm tự hào, hãnh diện. Có nhiều người sau khi cưới được chồng (hoặc vợ) thì bất ngờ lên mạng xã hội mà khoe rằng: “Mới lừa được một anh (em)”. Tuy rằng chữ “lừa” ở đây có tính chất đùa cợt, hài hước nhưng nó cũng nói lên rằng, xã hội hiện đại những chuyện “lừa dối” này cũng không hiếm. Tất nhiên ở đời cũng chưa biết ai lừa ai, mà nhiều khi chỉ là có chịu để cho đối phương lừa hay không!

Đó là sự lừa dối mà ít nhiều được các cặp đôi công khai hoặc úp mở thừa nhận sau khi cưới. Còn tiếp theo đó thì sao? Chẳng có gì đảm bảo các cặp đôi ấy không tiếp tục lừa dối nhau thêm một cơ số lần nữa.

Có anh chàng than thở với bạn:
- Vợ tôi đã lừa dối tôi!
- Làm sao anh biết?
- Thì đêm hôm kia, cô ấy không về nhà. Tôi hỏi thì cô ấy nói là ngủ ở nhà Thủy – Bạn thân của cô ấy
- Nhưng rồi sao?
- Cô ấy lừa dối. Chính tôi mới là người ngủ ở nhà Thủy đêm đó!

Tất nhiên trong trường hợp này cả hai đều biết mình đã lừa dối đối phương nhưng chả ai dại gì mà “chưa khảo đã xưng”.

Chuyện lừa dối không chỉ dừng ở các cặp đôi, ở nước ngoài, các vị chính khách thường được xem là những đối tượng thường xuyên nói dối, vì vậy tại các cuộc thi nói dối cấp quốc gia hay quốc tế người ta thường không cho các thí sinh là chính trị gia tham dự bởi họ là dân nói dối… chuyên nghiệp.

Tại Mỹ, một chính trị gia đang trên đường đi vận động tranh cử thì bất chợt bắt gặp lũ trẻ đang vây quanh một con chó, chúng cãi nhau chí chóe. Ông liền dừng xe, lại gần hỏi chuyện.
Một cậu bé nói:
- Chúng cháu nhặt được con chó này, ai cũng muốn mang về nuôi nên chúng cháu quyết định là đứa nào lừa dối giỏi nhất sẽ được nuôi con chó.
- Các cháu không được thi lừa dối vì đó là điều tội lỗi – Chính trị gia khuyên nhủ – Khi ta ở tuổi các cháu, ta không bao giờ lừa dối và bây giờ cũng vậy…
Bọn trẻ con im lặng một phút rồi một cậu bé to con nhất thở dài:
- Thôi, đưa con chó cho ông ấy đi!

Vậy là chỉ với “năng khiếu” sẵn có, vị chính khách đó đã dễ dàng có được một món lợi. Nói dối cũng có lợi lắm chứ!

Lừa dối có nhiều biến thể, trong kinh doanh hàng hóa người ta lừa dối người tiêu dùng bằng hình thức đa cấp, bằng mẫu mã, bao bì, bằng sự ngon miệng… Trong quân sự, tình báo người ta lừa dối bằng nghệ thuật nghi binh, dương đông kích tây, gây nhiễu, tung hỏa mù… Hầu hết các vụ lừa dối thường chỉ có lợi cho người lừa dối, còn người bị lừa dối thì thiệt đơn thiệt kép. Chỉ rất ít trường hợp lừa dối là cần thiết và đáng trân trọng, ví như bác sỹ nói dối bệnh nhân về tình trạng bệnh tình nguy kịch của họ, và trong sinh tồn tự nhiên các loài vật thường phải lừa dối che mắt kẻ thù bằng những màu sắc, hoa văn hòa lẫn với môi trường sinh sống.

Các cụ thường nói “Thật thà là cha quỷ quái”, khi sự thật được phơi bày thì hậu quả của việc lừa dối rất tai hại. Vì vậy, hãy cố gắng nói thật khi có thể. Thế giới đã sinh ra ngày nói dối 1-4 hằng năm để con người thoải mái xả stress, cho những người thèm nói dối được vô tư thể hiện kỹ năng, để 364 ngày còn lại trong năm người ta sống thật với nhau, không phải đề phòng, đó có lẽ cũng là mong muốn của những người đã tạo ra ngày Nói Dối trên trái đất này!

" nhục hình" hay "cố ý giết người" ?







Sau phiên xử sáng 29-3, hai bị cáo Nguyễn Tấn Quang (ngồi, bên trái) và Đỗ Như Huy gặp gia đình anh Kiều xin lỗi, mong được tha thứ - Ảnh: Duy Thanh


Buồn cho hệ thống pháp luật Việt Nam. Hành vi của 5 công An đánh bắt người trái phép, đánh chết người thể hiện rất rõ sự "côn đồ" như kiểu " xã hội đen", chỉ khác họ khoác cái áo " đại diện pháp luật".
Một người dân bình thường như tôi cũng hiểu : "Phạm vi áp dụng tội danh nhục hình chỉ áp dụng khi người bị nhục hình còn sống". Người bị " nhục hình " tử vong thì rõ ràng rơi vào tội danh " giết người". Ở đây chỉ xem xét là " vô ý" hay "cố ý" mà thôi.
Việc sử dụng" vũ khí dùi cui" đánh vào đầu người bị " nhục hình" có được xem là hành vi cố ý hay không?
Bản thân 5 công an viên này là những người "thi hành nhiệm vụ" ( cho là như vậy), được đào tạo, huấn luyện để hiểu rất rõ " sát thương" của các loại vũ khí và cũng như các vùng "nguy hiểm" trên cơ thể con người có thể gây tử vong.
Dùng "dùi cui" ( vật cứng) tấn công vào đầu người " bị nhục hình" ( vùng nguy hiểm có thể gây tử vong) là hành vi thể hiện sự "cố ý".
Luật pháp của Việt Nam nghiêm cấm sử dụng nhục hình nhưng các Công An viên này biết nhưng vẫn " vi phạm". Đây là sự " cố ý".
Hiện trường xãy ra ở ngay trụ sở và cũng không có biểu hiện tác động nào của nạn nhân tác động dẫn đến sự " mất kiểm soát " của Công an viên đi đến hành động "dùng dùi cui" đánh vào đầu nạn nhân để gây ra vết thương dẫn đến "tử vong".

Trúc Lam



Các bài liên quan :

 *“Đánh chết người sao chỉ đề nghị án treo?” (30/03)
*4/5 công an dùng nhục hình được đề nghị án treo (28/03)
*5 CA dùng nhục hình: công bố lời khai phó trưởng CA Tuy Hòa (28/03)
*Nhiều công an thay phiên hỏi, đánh nghi can bằng dùi cui (26/03)
*Đề nghị truy tố 4 công an về tội “dùng nhục hình” (15/09)

Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

Đá vọng phu


 Đào Dục Tú




Không biết còn có đất nước nào, như nước Việt , có đá đầu non tạo hình người phụ nữ bồng con chờ chồng, đá vọng phu ? Nàng Tô Thị xứ Lạng cũng như người đàn bà vô danh hóa đá đỉnh đèo trên một khúc ruột miền trung, từ xa xưa đã hóa thân trong những suy tưởng của người đời về lòng trung trinh của người phụ nữ Việt trong cảnh binh đao giặc dã và chia ly diễn ra triền miên dễ có đến ba phần tư lịch sử đất nước, kể từ thời vua Hùng lập quốc Văn Lang !





Bài thơ Vọng Phu của nhà thơ Chế Lan Viên chỉ là góp thêm một ” ý tưởng thơ” vào dòng suy tưởng hữu thủy vô chung của người Việt:

Đầu nươc đá ôm con, cuối nước đá đợi chồng
Đâu chẳng sông Thương đâu chẳng Kỳ Cùng
Là tượng đá của những thời binh lửa
Nàng Vọng Phu đầu sông hơn gì nàng Tô Thị cuối sông.

Quả là như vậy. Nàng Vọng Phu huyền thoại, nàng Vọng Phu dân gian, nàng Tô Thị xứ Lạng cùng cơ man người vợ chờ chồng trong cuộc đời thực, khi đất nước lâm vào vòng binh đao khói lửa, thù hận, chia lìa nào có khác gì nhau ở nỗi đau buồn vọng phu họ mang trong tâm suốt cả một đời người . Nàng Vọng Phu thời “Tùng tùng trống đánh ngũ liên- Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa” không khác gì hàng triệu nàng Tô Thị thời “đêm nam ngày bắc” hay “đêm bắc ngày nam” đã trải nghiệm và chiêm nghiệm suốt một phần tư thế kỷ 20.

Nỗi đời , như không ít độc giả phụ nữ châu Âu đọc cuốn sách dịch “Những bức thư từ tuyến đầu Tổ quốc” ra đời hơn nửa thế kỷ trước đã thốt lên kinh ngạc, kính phục đấy nhưng không sao hình dung được, không sao hiểu nổi chỉ riêng chi tiết “rất con người”: Người đàn bà sống “không chồng” mười mấy năm. . .

Nỗi đời thật “vô tiền khoáng hậu” đâu đã mất trong ký ức biết bao bà mẹ Việt anh hùng, biết bao người phụ nữ Việt trung hậu đảm đang việc nhà việc nước , dù thời gian “nước chẩy qua cầu” đã trên dưới nửa thế kỷ và biết bao nhiêu người trong số họ đã về cõi thiên thu! Chinh phụ ngâm không phải khúc ngâm mang nỗi sầu nhân thế của một thời nào ,” Nỗi khổ này đâu của riêng ai ” ! .




Hóa đá chờ chồng hay chờ chồng hóa đá không chỉ là cảm thức cổ xưa của người Việt từ thời ” Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt” “Bóng cờ tiếng trống xa xa- Sầu lên ngọn ải oán ra cửa phòng” (Chinh Phụ Ngâm) mà dường như đã trở thành ý niệm nhân bản, một giá trị tinh thần siêu việt xuyên suốt thời gian:

Một mình với mây, một mình với gió
Mùa đông một mình, mùa xuân hay hạ, một mình
Người ra đi chắc gì quay lại nữa
Trên đầu non lòng đá vẫn kiên trinh
Chỉ có cánh chim khuya bay qua vai đá của nàng
Hàng vạn vành trăng hết tròn lại khuyết
Sóng gợi nhớ sóng xui quên nối tiếp
Mỗi một phút đợi chờ sâu một bể thời gian

Thơ tượng hình đá vọng phu trên mặt bể thời gian vô thủy vô chung không hình khối không mầu sắc; nhưng hình như cũng chính vì vậy mà ” tòa thiên nhiên” (chữ của cụ Nguyễn Du tả nàng Kiều. . . tắm tiên “Rõ ràng trong ngọc trắng ngà- Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên “) trong tâm tưởng cứ mãi mãi ám ảnh người đời.

Trên mặt bể thời gian, những thăng trầm thế cuộc, những đổi dời bãi bể nương dâu dường như không vọng động tới nỗi cô đơn tuyệt đỉnh Vọng Phu vời vợi đầu non. Xưa và nay đời nào cũng vậy, bóng vút qua của cuộc đời trần thế, của sự sống hữu thể, hữu sinh, hữu hình là “Cánh chim khuya bay qua vai đá của nàng “. Tiếng va động cánh chim vào gió lộng trời cao như có như không, thảng thốt mơ hồ chỉ càng làm tăng thêm sự tĩnh lặng tuyệt đối. Đá vọng phu, bức thông điệp tình yêu thủy chung tình yêu vĩnh cửu giữa bảo tàng thiên nhiên mới kỳ ảo làm sao ! Bức thông điệp tình yêu ấy đã được thi nhân truyền đạt bằng ngôn ngữ nghệ thuật:

Không hóa thạch kẻ ra đi hóa thạch kẻ đợi chờ
Xói mòn những non cao không xói mòn lòng chung thủy
Đá đứng đấy giữa mưa nguồn và chớp bể
Đợi một bóng hình trở lại giữa đơn côi

Lẽ thường kẻ ra đi là dấn thân vào thế cuộc phù trầm, chiến cuộc tử sinh đầy may rủi, trước mặt họ là thành bại khó lường. Cái bất trắc được mất nhục vinh thuộc về họ. Chỉ còn lại người thiếu phụ bồng con đi tìm chồng ,cũng có nghĩa đi tìm tình yêu và hạnh phúc trần thế, chỉ còn lòng chung thủy kiên trinh của con người hóa thạch trên đỉnh non kia là vĩnh viễn không thay đổi bất chấp thời gian dầu dãi nắng mưa cùng phong ba bão táp thừa sức bào mòn mọi hy vọng, kỳ vọng.

Thơ Chế Lan Viên ở bài này không sử dụng một thủ pháp nghệ thuật tân kỳ nào, ngoại trừ nghệ thuật đối sánh thường thấy , ví như ” Đầu nước đá ôm con cuối nước đá đợi chồng” hay “Không hóa thạch kẻ ra đi hóa thạch kẻ đợi chờ” chẳng hạn. Liên tưởng đối sánh cũng là một cách hữu hiệu làm nổi bật ý tưởng thơ ” Không hóa đá kẻ ra đi hóa đá kẻ đợi chờ” ” Xói mòn những non cao cao không xói mòn lòng chung thủy”. . .

Tứ thơ đá Vọng Phu về thân phận người vợ người mẹ người phụ nữ Việt trên quê hương xứ sở vốn hòa hiếu thanh bình vì “lịch sử chọn làm điểm tựa”, nên buộc phải gánh chịu quá nhiều cuộc trường chinh chống ngoại địch nội thù, xưa nay cũng có nhiều người viết. Nhưng quả là chỉ có đá Vọng Phu của Chế Lan Viên-người nổi tiếng thi đàn Việt từ tuổi mười sáu với tập thơ Điêu Tàn “kinh dị” (chữ Hoài Thanh chăng ? )mới thổi hồn vào đá và cho tòa thiên nhiên giữa trời một sức sống tâm linh huyền diệu như thế ,đến thế

Vọng Phu – bức thông điệp tình yêu kiên trinh thủy chung, cũng là thông điệp niềm tin hy vọng của con người ở một đất nước chinh chiến chia ly đã trở thành nỗi ám ảnh truyền kiếp suốt trường kỳ lịch sử . / .

ĐI TÌM





Trần Sỹ Tuấn




Đi tìm bóng đêm giữa ban ngày
Thấy bóng đêm trong mắt người

Đi tìm mặt trời trong đêm đen
Thấy mặt trời ở trong ngực em

Đi tìm tình yêu giữa cuộc đời
Thấy bóng mình trên vách ... !

Bông hồng duy nhất



Truyện ngắn : Võ Thị Xuân Hà




Hàng xóm hầu như đã quên khuấy rằng có thời bà đã là cô giáo. Một cô giáo xinh đẹp dịu dàng như nàng tiên đậu xuống một vùng trung du heo hút.
Bây giờ bà đã già với bệnh tê thấp ê ẩm mỗi khi trời trở. Sáng sớm bà xách xô ra cái máy nước đầu phố để hứng. Cái vòi nước trong nhà - rõ khổ - chả hiểu sao từ khi đóng tiền để mắc đến giờ chỉ ri rỉ chảy được vài bận. Sau đó bà đến đại lý xổ số để lấy một tập. Buổi chiều bà cầm tập vé đi rao khắp lượt hàng phố.
Bắt đầu là cái quán nước nhà bà Ngạn béo. Cái bà đến là mát tay, hôm nào gặp bà ấy "mở hàng" cho là tập vé bán hết nhẵn. Còn như gặp ông Ngạn - đàn ông mà hàm răng cứ xin xít thì trầy trật lắm mới bán nổi hơn nửa tập. Đã đành thế nhưng riêng đám khách ngồi đánh bạc quanh bàn nước nhà Ngạn cũng nhấc độ mươi vé rồi. Sau đó bà lượn qua hàng phở Bình. Rồi nhà Thanh tây với con chó béc-giê gầm gừ ở cổng. Nghe tiếng bà là chị ta cong cớn đi ra. Chị ta nhắm mắt lẩm nhẩm:
- Xê ri 78... 81... Thôi cứ rút đại một vé. à, lấy con 09.
Chị ta xỉa tiền ra đếm rồi cầm lấy mấy tấm vé số nhét tọt vào ngực áo con. Chả hiểu thế là thế nào. Chắc để cầu may.
Hết hè đến thu rồi lại đông, bà cứ đi lần lượt từ đầu phố đến cuối phố bên số lẻ, rồi lại đi ngược lại bên số chẵn. Mấy cô mậu dịch viên bên dãy số chẵn cũng xởi lởi, có cô cứ gọi bà là mẹ chồng hụt. Nhưng các cô mua chả được bao nhiêu. Phần lớn khách hàng của bà là đám kiếm ăn buôn bán lẻ mặt phố, những anh xích lô mặt đen nhẻm dầu dãi, những tay thanh niên cờ bạc, những chị nạ dòng sống bằng những đồng tiền bí ẩn. Đôi lúc họ gọi bà lại để chiêu đãi vì "vào cầu" bộ vé hôm trước. Nhưng bà đều từ chối. Thi thoảng, nhất là vào dịp lễ cũng có vài ba anh cán bộ rụt rè gọi bà dừng lại để mua một vé, hay một vài ông bà về hưu, một vài cậu bé con nhịn ăn quà sáng... Bà thường hỏi cặn kẽ lũ trẻ xem tiền chúng mua xổ số là tiền ở đâu. Đa phần chúng không trả lời. Cũng có đứa hách dịch:
- Tiền ở đâu thì việc gì đến bà. Mong bán được bỏ mẹ còn giả bộ.
Ôi, giá như những năm trước đây... Ừ, thì cứ cho là những năm trước đi, thì bà sẽ làm gì nào? Lúc đó bà quên cả bản thân, quên cả cơn khát sữa của con, thậm chí cố quên đi nỗi đau vò xé khi nhận được giấy báo tử của chồng để băng đồi đến từng nhà học sinh bảo ban thăm hỏi. Những tiết giảng, những lời nói dịu ngọt của bà có sức mạnh kỳ diệu khiến bao chàng trai cô gái lớn lên mạnh mẽ. Lúc đó mỗi lời nói, cử chỉ của bà đều là mẫu mực. Còn giờ đây bà chỉ là một bà già hàng ngày với tập vé số trên tay, lầm lũi trên hè phố vào ngày đông rét mướt hay những trưa hè nóng đỏ mắt.

Tuy nhiên mọi nỗi buồn bực đều tan biến khi bà dừng chân ở cuối phố bên số lẻ, nơi có cây bàng rợp mát. Cây bàng gợi cho bà biết bao kỉ niệm. Hình ảnh cây bàng gắn chặt với cuộc đời đi dạy của bà. Thường thường bên gốc bàng có một lũ trẻ ngồi đánh chắt hoặc chơi ô ăn quan hoặc nhảy dây. Có đứa đem tú ra đánh tiến lên. Có khi lại thấy chúng chơi đô mi nô. Chúng cãi nhau ầm ĩ rồi lại thủ thỉ kết bạn với nhau. Bà đến, chúng quây lấy bắt bà kể chuyện. Chúng vạch tóc bà tìm những sợi tóc sâu nhưng ngày càng nhiều sợi bạc chẳng còn phân biệt được sợi nào sâu, sợi nào bạc. Có một thằng bé tật nguyền ngồi lặng lẽ ở một góc. Nó vừa bị câm, vừa bị teo một bàn chân. Nó lấy viên gạch non vạch lên hè phố hình ảnh ông mặt trời méo mó có hai con mắt. Bà cầm tay nó dạy nó viết những chữ cái và bà đọc to những chữ ấy, cố gắng há mồm uốn lưỡi cho chính xác từng chữ từng âm. Thằng bé cũng há mồm nhưng từ họng nó chỉ phát ra được những âm thanh u... ơ... bất lực. Hôm sau lúc bà đến, nó rối rít vẫy bà rồi đưa cho bà một quyển vở và cây bút chì xanh đỏ. Từ hôm đó bà dạy cho nó vẽ và dạy cho nó một vài chữ cái. Nhưng mãi nó cũng chỉ viết được chữ a chữ o. Còn tranh thì nó vẽ có khá hơn.

Cuộc sống của bà cứ thế trôi qua. Vào ngày rằm mùng một hay ngày lễ tết, bà ra chợ mua thẻ hương nải chuối, vài bông hoa về để đặt lên bàn thờ chồng và con. Từ trên bàn thờ, hai người đau đáu nhìn bà như có lỗi vì đã để bà sống một mình. Nhất là đứa con, nó đã trốn bà để nhập ngũ. Bà thắp hương thì thầm an ủi lại họ. Dẫu sao người sống vẫn có hơn.
Vài ba năm gần đây, bà bỗng đổi tính. Nếu có con dâu, chắc nó sẽ cười bà lẩn thẩn. Cứ đến các ngày lễ của các thầy cô giáo là bà dậy từ sớm quét dọn nhà cửa, ăn bận thật lịch sự. Bà không đi bán vé số mà lững thững bước ra đường phố ngắm nhìn từng đoàn trẻ nhỏ tay ôm hoa hoặc những gói quà ríu rít rủ nhau đi rợp đường. Rồi đến chiều thể nào bà cũng quay về với cảm giác cô đơn và sượng sùng. Bao giờ bà cũng tránh nhìn lên bàn nơi đặt cái lọ hoa nhỏ xíu, phần thưởng giáo viên giỏi của thời xa xưa. Bao giờ cũng là cái bàn trống rỗng và lọ hoa trống rỗng. Không một lá thư. Không một nét chữ. Đâu rồi những cô bé cậu bé ngày xưa của bà? Bà tự an ủi mình: họ đã lần lượt ra trận từ cái bận ấy. Nhưng rồi bà lại rùng mình. Chả lẽ chúng không về cả hay sao? Cũng có đứa bà biết đã lên đến chức ông này bà nọ cơ đấy. Nhưng chúng bận trăm công nghìn việc, đến gia đình vợ con chúng còn chả để mắt đến được huống chi là một cô giáo dạy chúng từ hồi vắt mũi chưa sạch. Vả lại, cái miền trung du heo hút ấy cho đến giờ vẫn là xa xôi quá mịt mù quá đối với đô thị sôi động này. Bao nhiêu cô bé cậu bé mơ ước tày trời giờ vẫn phải cắm mặt xuống bùn với những bàn chân nứt nẻ. Thời giờ đâu...
Biết vậy nhưng bà vẫn có cảm giác buồn buồn thế nào. Sáng hôm sau thể nào bà cũng ra chợ sớm để mua một bông hồng thật tươi về cắm. Đó là ngày duy nhất trong năm bà mua hoa không phải để cắm lên bàn thờ chồng con, mà là cho mình.
Năm nay cũng thế, bà lại dậy thật sớm, dọn dẹp nhà cửa, đặt một tấm thảm chùi chân ngoài cửa, ngộ nhỡ cậu nào đi xe con tới chả nỡ bắt nó cởi giày. Bà đi ra đi vào bồn chồn. Cái nhà chị Hoa bên cạnh là giáo viên, gớm từ hôm kia những chiếc xe máy đã đỗ nườm nượp trước nhà. Chả là chị ấy dạy ở một trường trung tâm thành phố, toàn là con cán bộ cỡ với hiệu buôn lớn. Những là tiệm kim hoàn Á Đông, nhà may Tiến Lợi... Con nhà chị ấy ôm cam ra sân làm bóng. Đồng lương giáo viên mà vải vóc quần áo cứ là lượt. Còn nhà chị Ngân phía bên kia đường thì ít khách hơn. Chị ấy dạy ở một trường xa. Nhưng năm nào bà cũng thấy từng tốp trẻ ôm hoa đến tặng.
Ồ, giá như bà cũng có một bông hồng, một bông thôi để hiểu rằng lớp người ra đi năm ấy vẫn có người trở về... hoặc để hiểu rằng những đứa trẻ tội nghiệp ngày xưa của bà giờ đã là những ông bố bà mẹ, đã có thời gian để nhớ đến những điều khác ngoài đám ruộng của họ.
Chỉ một bông thôi...

Rồi cũng như mọi năm, bà không đủ can đảm ở trong nhà. Bà để ngỏ cửa, gửi nhà cho hàng xóm và bước ra phố. Bà ngắm nhìn những dòng người, dòng hoa trôi trên phố với niềm vui chung. Rồi bà nép mình vào một góc vườn hoa và lặng lẽ chờ mặt trời đổ xuống chân trời phía xa. Sau đó bà lủi thủi quay về và bước vào nhà.
Bà cố gắng trấn tĩnh để không nhìn lên chiếc bàn nơi đặt lọ hoa, nhưng ngay lập tức bà phát hiện ra hương thơm ngào ngạt của hoa hồng. Một bông hồng bạch được bao trang trọng trong giấy bóng kính cắm ngay ngắn trong chiếc bình sứ nhỏ. Cả căn phòng như được tỏa sáng. Mắt bà nhoè đi nên không nhìn thấy nét chữ nguệch ngoạc thiếu nét của một đứa bé mới tập viết.
Kính - Tặng - CÔ.
Mãi một lúc bà mới nhận ra là mình đang khóc.

Bà không biết rằng trước đó có một đôi chân tập tễnh bước vào nhà. Rồi đôi chân ấy đi như chạy loạng choạng trên hè phố, như muốn khoe cùng mọi người rằng nó cũng đã có cô giáo để được tặng cô một bông hoa như những đứa trẻ khác. Nó muốn hét váng lên vì niềm hạnh phúc bé nhỏ của mình. Nhưng chẳng ai hiểu nổi cái âm thanh u ...u... phát ra từ cuống họng của một đứa trẻ câm.
Chỉ có bầu trời xanh rộng lớn là đón nhận âm thanh ấy vào lòng.
...U...u...ơ...

Khóc trên vai người tình




LÊ MAI DUNG





“Trong xấp tiền cầm trên tay
Nếu có một tờ rách
Ta sẽ luôn muốn tiêu cái tờ rách đó trước
để tất cả còn lại được lành lặn.
Đời cũng thế
cái gì rách, có thể bỏ đi thì bỏ đi
để những cái còn lại được lành lặn, tròn trịa”



Khi gặp em tôi đã là một người đàn ông từng trải.
Một gã từng trải không hề lơ ngơ trước một người đàn bà như em, người đàn bà khiến tính đàn ông trong tôi bùng nổ.
Nàng mặc chiếc áo len tím nhạt, chiếc váy xòe ôm lấy đôi bàn chân nhỏ nhắn đi dép xỏ ngón, những ngón chân tinh tế có màu móng tự nhiên không sơn phết khiến tôi xúc động đến nao lòng. Một người đàn bà đẹp ít để móng chân tự nhiên, họ dùng đủ thứ màu mè che phủ đi cái màu hồng nhạt chân thật, lấp liếm cái móng chân nhỏ nhắn bằng đủ các loại sơn; những có khi vẫn chưa đủ, họ còn vẽ lên đó như một dạng nghệ thuật Graffini trên một diện tích tính bằng cm2. Nàng nhợt nhạt, nhỏ nhắn và tinh tế trong cái lạnh se se. Chắc đôi vai ấy sẽ rất mỏng manh, ấy là tôi nghĩ thế, sau lần sợi len thô phủ ngoài vẫn cảm giác xương bả vai của nàng nhô lên, bàn tay có những sợi gân tia tía nhạt màu, bàn tay với những móng tay cắt ngắn sạch sẽ. Nàng ngồi trước tôi gần như đối diện hai cái bàn rất gần nhau, nàng ngồi một mình trong một góc nhỏ nhoi ở Thủy Tạ, nhạc khe khẽ rung trong không gian trắng, trăng khe khẽ rung trên mặt hồ lăn tăn sóng. Tôi chợt rùng mình; khung cảnh liêu trai trên mặt nước hồ rờn rợn, nàng có thể chỉ là một cô ma nữ xinh đẹp đi săn đàn ông trong một ngày rằm; lẽ nào tôi là một trong những gã đàn ông mà nàng chọn làm con mồi tình ái.
Nàng lắng nghe tiếng đàn Piano, bàn tay xoay xoay chiếc nhẫn trên ngón giữa, có thể nàng chưa có chồng ngón tay nàng nói lên điều đó. Nhưng cũng không hoàn toàn như vậy, ngón tay người đàn bà chẳng mấy khi trung thực, họ có thể chuyển cái nhẫn đi khắp các ngón tay nếu tất cả đều có thể nhét vừa một chiếc nhẫn. Một khi chiếc nhẫn không nói lên được điều gì thì khuôn mặt và trạng thái có thể nói lên đôi chút, tôi có thể ngồi và quan sát từ nàng mãi nếu như không có ai đó vô duyên kéo một chiếc ghế ồn ào ngay bên cạnh tôi.
- Chào em... một giọng đàn ông cực kì vô duyên.
Tôi thấy nàng nhướng mắt nhìn lướt qua mặt tôi đọng lại sau vai tôi như con bướm rung rinh trên một nhành hoa. Nàng cười rất tươi, hàm răng ngô non đều đặn trắng sữa, cánh môi run run khiến tôi thấy sự ghen tuông ngấm ngầm lộ ra. Nàng khẽ đưa ngón tay lên duyên dáng ngoắc ngoắc ai đó đằng sau tôi, sẽ rất mất lịch sự nếu tôi ngoái lại nhìn; tôi chẳng thể làm thế vì sĩ diện đàn ông nên dù rất rất muốn tôi vẫn cố gắng làm như không quan tâm gì đến toàn bộ những gì diễn ra xung quanh mình.
Một cái lưng đàn ông chắn trước mặt tôi.
Một cái lưng to bè ngang nhiên chặn tất cả mọi ánh nhìn của tôi về hướng nàng, tấm lưng như sở hữu người đàn bà đó, nó khẳng định chủ quyền đồng thời ngăn cấm tất cả những gã đàn ông manh nha tìm hiểu những gì thuộc về người đàn bà thuộc về nó. Tôi vốn không ưa những tấm lưng như vậy, nó độc quyền và mang tính sở hữu cao quá đối với người khác, những tấm lưng đàn ông uy quyền và vững chãi.
Đó là tất cả những gì tôi biết về người đàn ông của nàng.
Nàng dựa vào thành ghế, quay đầu nghiêng nghiêng như con chim nhỏ nhắn duyên dáng. Lần đầu tiên trong đời tôi có thể biết được những người đàn bà có sức hút mạnh mẽ khiến tất cả máu trong người tôi dồn xuống.
Đến tận khi chúng tôi trở thành tình nhân rồi thành vợ chồng nàng vẫn không hé răng nói về chủ nhân tấm lưng to bè và uy lực ấy. Nàng phủ một tấm mạng lên tất cả quá khứ của nàng và tôi cũng không cố làm nàng khó xử vì những câu hỏi đê tiện đang âm thầm trong lòng. Nhưng thực lòng tôi chưa bao giờ quên tấm lưng người đàn ông đã che mất khoảng khắc tôi nhìn nàng trong một giây lát của buổi tối hôm đó; nụ cười và cái ngoắc tay của nàng đủ để tôi hiểu là quá khứ của nàng và tấm lưng ấy không đơn giản chút nào.
Chúng tôi quen nhau không phải từ buổi tối đầu tiên tôi nhìn thấy nàng. Dĩ nhiên sau này tôi có nói về buổi tối hôm ấy, tôi biết tiếng sét ái tình có thể là rất ngớ ngẩn với một thằng đàn ông từng trải nhưng cũng không có nghĩa một thằng từng trải không thể có tiếng sét ái tình trong đời. Trong quá khứ của tôi những người đàn bà đều gợi nên cho tôi một cảm giác rất thèm khát, rất đàn ông tính và có thể nói cách khác là họ đều gợi tình theo một hình thức nào đó, tuy nhiên sự gợi tình và gắn bó nó lại không đi cùng nhau. Các cuộc tình cứ lướt qua tuổi trẻ một cách ồ ạt, tôi chưa kịp nhận ra mình ở thể loại nào trong những loại đàn ông thì đã quên mất đi câu hỏi ấy. Những người đàn bà của tôi cũng chưa kịp đau khổ thì chúng tôi đã vướng vào những mối quan hệ khác, các cuộc chia tay đều không bi lụy; chúng tôi đều là thanh niên của thế kỉ 21 chả có lí do gì khóc than cho những cuộc chia tay vô nghĩa trong khi đằng trước còn khối những cuộc chia tay khác còn đang chờ đợi.
Có nàng ở đó, con đường tình ái của tôi liền chấm dứt. Tôi có thể lũn cũn theo nàng, có thể chờ đợi và không thể nhẫn nại hơn được nữa để có những buổi hẹn với nàng, tôi không muốn phiêu lưu với bất cứ người đàn bà nào khác cho đến hết đời mình. Tôi không còn thấy quá khứ của mình là đáng tự hào, tôi có thể nhận thấy quá khứ của mình thật vô trách nhiệm và lãng phí biết bao nhiêu trước khi gặp nàng.
Nếu cuộc đời không nát đến thế, liệu tôi có thể biết được giá trị của nàng đối với mình hay không?
Em và người tình
Tôi gặp anh ấy khi ngồi đợi một người đàn ông khác, anh nhìn tôi như nhìn một cô bé thiếu người giám hộ, khuôn mặt anh có nét gì đó rất trẻ thơ có một chút háo hức và hăm hở mà tuổi trẻ của anh vẫn còn cho phép. Tôi cũng không thực chú ý đến anh, không thực lòng quan tâm đến người nào khác ngoài người đàn ông lúc này tôi đang chờ đợi. Nhưng vì cách anh nhìn khiến cho tôi thấy mình có một chút gì đó bí mật, quyến rũ và vẫn còn sức hút với đàn ông. Tôi cũng không còn ngây thơ, rất khó có thể tìm được một người đàn bà ba mươi tuổi vẫn còn thơ ngây như vẻ ngoài tỏ ra, nhưng dáng vẻ xanh xao của tôi vẫn đánh lừa được những người đàn ông từng trải.
Tôi tình cờ gặp lại, tình cờ ngồi cùng nhau trên một chuyến bay dài. Tình cờ có chung một điểm đến với anh và mọi thứ bắt đầu từ một sự cô đơn quá lứa của người đàn bà ngoài ba mươi khát khao một tình yêu bền vững. Tôi không muốn anh nói về quá khứ của anh, cũng không muốn quá khứ của mình lồ lộ ra trước những cặp mắt soi mói đến lạnh người của các cô gái vây quanh anh. Quá khứ của người đàn bà thuộc về người đàn ông đa tình sẽ là miếng mồi ngon cho các câu chuyện ngồi lê đôi mách. Gặp tôi anh vẫn có người tình, người tình của anh tôi chưa từng gặp, cũng không mong muốn gặp cô ta. Tôi không ghen, ai đó chẳng có một quá khứ rối bời. Những buổi hẹn hò của chúng tôi bị vẩn đục bởi ám ảnh của những người từ quá khứ. Tôi khó có thể nói với người khác là tôi đã rất may mắn khi gặp người đàn ông có thể yêu mình đến mức hy sinh tất cả chỉ để có được mình. Người tình của mình đâu phải là người đàn ông trinh trắng, anh ta cũng đã từng như một khu giải trí công cộng, nhiều khi chúng tôi đụng mặt người tình cũ của anh còn nhiều hơn cha mẹ mình. Cuộc sống biến thiên, thay đổi, tráo trở bao nhiêu trước khi chúng tôi tìm thấy nhau, và những nỗi day dứt quá khứ mang lại khiến hiện tại cũng đau đớn không khác gì so với tương lai về sau.
Anh nói là chúng tôi cần kết hôn, kết hôn ngoài sự ràng buộc về luật pháp nó cũng có ý nghĩa lớn lao về tinh thần. Tôi thì hoài nghi hôn nhân, hôn nhân có đáng để người ta hy sinh nhiều tự do đến thế? Thực ra đôi khi có đôi chút nhầm lẫn trước khi bước vào cuộc đời nhau, anh không biết và tôi cũng không biết chỉ đến khi nào sự sai lầm ấy gây nên hậu quả thì mọi thứ bỗng trở nên rõ ràng. Cuộc hôn nhân bắt đầu từ tình yêu sét đánh của chúng tôi vô cùng mĩ mãn, không ai được phép nói về quá khứ, không ai được lôi quá khứ của người kia ra dằn vặt đó là một trong những nguyên tắc đầu tiên mà chúng tôi đặt ra trong hôn nhân. Nhưng quá khứ là thứ không thể dùng lửa mà đốt, không thể cho vào mồm nhai rồi tiêu hóa nó đi như những món ăn thông thường. Quá khứ là dấu ấn, là một dấu vết lờ mờ trong đời một con người, chỉ cần khơi dậy thì nó sẽ rõ ràng không thể che giấu. Nó nằm trong kí ức tiềm thức mỗi con người, thậm chí quá khứ có thể còn được di truyền được mã hóa đâu đó trong bộ gene con người, làm sao có thể xóa bỏ quá khứ như xé bỏ một tờ giấy kết hôn. Cuộc hôn nhân mới không thể che giấu được kí ức cũ, mọi thứ chỉ được lấp lên bởi một lớp bụi mờ thời gian và sau đó thì bùng lên như một đám sương mù mờ ảo. Mỗi khi quá khứ vùng dậy tôi lại mơ hồ cảm nhận gương mặt một người đàn ông, mùi cơ thể của anh ta khiến tôi ngây ngất sốt; mọi thứ không thể nào chỉ là một cơn mơ vì cảm giác của tôi vẫn còn nguyên vẹn, không phải là cảm giác với chồng không phải là tình yêu dành cho chồng. Chỉ là một cảm giác mơ hồ ngây ngất, một gương mặt không rõ nét, một mùi hương cơ thể không định vị được là ai vẫn ám ảnh tôi trong suốt bao năm, khiến tôi yêu nhưng không yêu, quen nhưng không quen.
Trước khi gặp Nguyễn Nguyên chồng tôi bây giờ, anh đã từng và tôi cũng biết anh có biết chuyện tôi có một người đàn ông. Người đàn ông ấy ngồi cùng tôi trước mặt anh trong một quán café Thủy Tạ lãng đãng sương, nước mấp mé dưới gầm Thủy Tạ và có tiếng Piano. Nguyễn Nguyên không hỏi, tôi không nói nhưng đó là người đàn ông tôi từng yêu và chờ đợi suốt một thời con gái, hy sinh tất cả những điều mong ước tầm thường để chờ đợi một người đàn ông ở xa mình đến nửa vòng trái đất. Đêm đó chúng tôi chờ nhau, anh vẫn là người đàn ông hấp dẫn dù không đẹp nhưng tao nhã và thông minh. Tôi nghĩ đó là một kết thúc vô cùng tốt cho sự chờ đợi, mọi thứ tuyệt vời trong một đêm không thể quên. Đôi mắt đăm đắm của người đàn ông đối diện lúc đó chỉ làm tôi thêm thích thú, tôi thích được ngắm nghía vuốt ve bằng ánh mắt, nhưng anh ta chỉ là một gã đàn ông vô vị đối với tình yêu của tôi.
Tôi vẫn mặc chiếc áo len màu tím nhạt ưa thích, vẫn đi đôi xăng-đan xỏ ngón mà năm năm trước chúng tôi gặp nhau anh đã khen xinh. Tôi đã chờ cuộc hẹn này đến bao lâu, chờ đến héo hon trái tim người con gái, chờ suốt một người đàn ông từ khi mới hai mươi lăm tuổi cho đến tận ba mươi tuổi, quanh mắt đã có nếp nhăn, môi đã không còn căng mọng nhưng trái tim vẫn thế, vẫn muốn theo về một người đàn ông của năm năm trước.
Anh về phòng, người đàn ông đối diện cũng đi theo, tôi muốn một chút hơi thở sau năm năm chờ đợi nên về phòng riêng. Khách sạn là một khu liên hợp bao gồm những khu biệt thự riêng biệt, mỗi ngôi biệt thự là một ngôi nhà dành cho những cặp tình nhân nằm rải rác xen những đồi thông. Không khí đã loãng ra sau năm năm chờ đợi đậm đặc. Một chút hoang mang sau khi uống rượu, tôi vẫn ngây ngất theo bóng dáng anh về hướng bungalow nằm cạnh lối đi, căn nhà gỗ nằm cạnh một gốc cây ngọc lan, hương thơm dịu tỏa vào cái lạnh. Tôi cố gắng hà hơi cho tỉnh rượu rồi đánh thêm chút má hồng để trông tươi tắn hơn. Cơ thể sau năm năm chờ đợi cũng nhức nhối như tình yêu tôi dành cho người đàn ông của mình, cánh cửa chỉ khép hờ tiếng nói của anh lọt qua khe cửa, trái tim tôi ngừng lại.
“Anh nhớ hai mẹ con lắm, anh sẽ về ngay sau đại hội. Yêu em nhiều!”. Sau đó là những tiếng hôn gió như những tiếng búa dội vào lồng ngực tôi.
Chỉ một phút nữa thôi là tôi sẽ được nằm trọn trong vòng tay người mình yêu. Một tiếng dập máy khô khan. Tôi nghẹn ngào không nói thêm được nữa, bên cạnh chỉ cách một ban công nhỏ cửa phòng hé mở, mùi hương ngọc lan ngây ngất khó chịu, cơ thể nhức buốt bỗng nguội lạnh. Đau đớn và thất bại não nề, tình yêu như một cơn gió nóng bỗng bật lại táp vào tôi bỏng rát. Chờ đợi, tốt nhất không nên chờ đợi!
Tôi vẫn còn ngây ngất hơi men, cánh cửa phòng khép hờ của căn bungalow bên cạnh hắt một ánh đèn vàng nhạt, tiếng dương cầm nhẹ nhàng réo rắt từ trong vang ra. Tôi muốn đánh cuộc với cuộc đời một lần. Đằng sau cánh cửa đó nếu là đàn ông tôi sẽ mua anh ta, nếu là đàn bà tôi sẽ là bạn của cô ta. Tôi đẩy cửa, căn phòng vẫn mờ mờ ảo ảo, mọi thứ như sương mù. Tôi không biết người đàn ông đó là ai, tôi chỉ muốn biết được cơ thể một người xa lạ một người không cần sự chờ đợi và không cần biết đến tôi, nếu có thể dùng tiền mua được đàn ông, tôi sẽ quy đổi năm năm chờ đợi của tôi thành tiền dùng để mua hết những gã đàn ông phụ bạc và bắt họ phải chờ đợi.
Người đàn ông có mùi thơm rất lạ, một mùi mà tôi không mong là mình sẽ được hưởng qua một đêm ngắn ngủi xa lạ. Tôi nhắm mắt cảm nhận sự run rẩy của mình, sự đau đớn của tôi tràn qua anh ta. Khuôn mặt người đàn ông đó có lẽ rất đẹp, hơi thở anh ta thơm mùi rượu quế, sống mũi anh ta cọ trên cơ thể tôi thành những đường vạch thẳng tắp. Không cần chờ đợi, không cần tình yêu tôi có thể mua được sự khoái cảm cho lần gần gũi đầu tiên, sự nhức nhối của cơ thể và cái đau đớn lặng lẽ được trộn lẫn vào nhau đem lại sự giải phóng cho tôi.
Mọi thứ là ám ảnh, tôi rút tiền trong túi và đặt xuống gối, đặt một nụ hôn nhẹ nhàng lên người đàn ông đầu tiên và chấm dứt quá khứ tình yêu với một người đàn ông xa lạ. Tôi không còn chờ gì ở tương lai, không còn ám ảnh về người đàn ông trong quá khứ, căn hộ bên cạnh của người yêu cũ sau năm năm không gặp đã khóa ngoài, có lẽ anh ta đã bỏ đi sáng nay vì không gặp tôi đêm qua như mong đợi. Tôi cũng rời khỏi nơi đó, dứt bỏ toàn bộ quá khứ ở vùng mây mù phố núi cùng người tình một đêm xa lạ mua bằng tiền.
Chồng tôi là người đàn ông tuyệt vời, quá khứ của tôi anh cũng không lật lại, người đàn ông ngồi với tôi đêm đó anh cũng cố gắng không nhắc đến. Nhưng có lẽ nỗi khắc khoải khi thỉnh thoảng trong lòng tôi day dứt về người đàn ông tôi đã từng gặp, tôi vẫn nhớ khắc khoải về người đàn ông đó, nhớ đến đau lòng. Mỗi lần tôi rơi vào tình trạng trầm cảm đó, Nguyễn Nguyên dường như còn đau đớn hơn tôi, anh kìm hãm và dồn nén cơn ghen tuông và để cho tôi một khoảng trống mênh mông dành cho nỗi nhớ.
Sau năm năm, tôi và Nguyễn Nguyên vẫn không thoát khỏi bi kịch hôn nhân như mọi cuộc hôn nhân khác, vấn đề của chúng tôi không giải quyết được. Tôi liên tục rơi vào những cơn trầm mặc dài dặc thoát khỏi tình yêu của chồng, tôi yêu Nguyễn Nguyên theo kiểu con chó nhỏ yêu ông chủ tốt bụng; vẫn trung thành nhưng không hiểu nhau. Tôi muốn một lần quay lại nơi đó, gặp người đàn ông ấy, gặp sự ám ảnh không dứt nổi để quay về làm vợ Nguyễn Nguyên một cách trọn vẹn không mang theo nỗi hối hận mơ hồ. Nếu quá khứ không dứt bỏ, tôi sẽ phải ra đi. Sự khắc khoải năm năm sau không phải là sự chờ đợi mà là một nỗi ân hận mơ hồ, nếu đêm đầu tiên đã tuyệt vời đến thế, tôi đã bỏ lỡ điều gì cho năm năm vừa qua???
Tôi bỏ đi một mình, tôi muốn thoát ra khỏi tình yêu ngột ngạt mà Nguyễn Nguyên dành cho tôi, muốn đi tìm một chút không gian cho người đàn bà năm năm cũ. Căn phòng tôi thuê là căn phòng bên cạnh, vì phòng kia luôn có người đặt. Đáng lẽ ra cái đêm đó được xảy ra ngay tại căn phòng tôi đang ở nhưng định mệnh chỉ xoay nhẹ bằng một cái nhúc nhích tôi đã bắt đầu ở phòng bênh cạnh. Vẫn sương mù ấy, vẫn mùi hương hoa ngọc lan ấy và rượu, tôi đã nốc gần hết một chai rượu vang của xứ này, rượu ngọt trong cổ làm ấm cả cơ thể khiến tôi không thể nào tự chủ được. Không khác gì năm năm trước, vẫn tiếng nhạc đó, vẫn ánh đèn màu mờ mờ đó, tôi không đi xandan xỏ ngón, tôi đi chân trần sang căn hộ liền kề bên cạnh, chỉ cần leo qua ban công rồi đặt chân xuống và đẩy cửa vào.
Khung cảnh vẫn như cũ, nhưng căn phòng không có người.
Rượu ngấm vào mạch máu, mùi hương cũ không thay đổi, tôi vùi đầu vào trong gối cảm nhận thân quen đến vô cùng.
Trong bóng đêm, một vòng tay thật ấm, một nụ hôn thật nồng nàn, một giọng nói khàn khàn.
“Em đã trở về rồi!”
Tôi vùi đầu vào lồng ngực đó, mơ màng say trong men rượu.
“Vâng, em đã trở lại”
Cơ thể anh, cơ thể dường như quen lắm, ấm áp vô cùng. Mọi thứ triền miên, không có năm năm xa cách. Anh đi vào người tôi, lặng lẽ, âu yếm và dịu dàng. Những đợt nhớ cứ ào tới rồi lại trôi đi, dội vào lồng ngực tôi thấp thỏm. Đầu anh gục trên ngực tôi như con ngựa gục trên thảm cỏ xanh thơm mát. Bàn tay miết trên môi day dứt, nước mắt tôi chảy ra, mỗi lần anh chạm vào là mỗi lần tôi nức nở. Không phải vội vàng trốn chạy, không phải đau khổ để chia tay. Một đêm thật trọn vẹn, không cần trả tiền. Tôi ngủ vùi như chưa bao giờ được ngủ, sáng rọi vào mặt, đôi môi ai da diết trên mắt, tôi ôm lấy anh vẫn chưa mở mắt, chỉ sợ giấc mơ sẽ vụt biến mất. Có gì đó quen thuộc quá.
- Anh......!!!!
- Em.......!!!!
Tôi bỏ chạy, Nguyễn Nguyên, không thể nào là anh ấy!
- Em đừng chạy nữa, đừng bỏ chạy nữa em, anh chỉ không muốn mất em thôi.
Tiếng Nguyễn Nguyên với theo đằng sau rơi tõm trong không gian.
Tôi li hôn với Nguyễn Nguyên với lí do tôi phản bội chồng và yêu người đàn ông khác. Mọi thứ diễn ra rất nhanh chóng dù Nguyễn Nguyên nói với tôi là anh ấy vẫn giữ những đồng tiền tôi để lại trên gối. Anh vẫn cất vào trong cái ngăn tủ tài liệu trên cơ quan. Tôi không thể nói với Nguyễn Nguyên là tôi yêu người đàn ông kia biết bao nhiêu, bao năm sống với anh cộng lại không bằng hai đêm đi mua và vụng trộm với chính anh.
Tôi không gặp lại Nguyễn Nguyên.
Tôi đã phản bội chồng mình với chính anh ấy! Sự tự trọng của một người đàn bà khiến tôi không thể nào quay lại được với chồng mình. Tôi hiểu ra một điều với tình yêu thì không nên phản bội dù với bất cứ ai. Cho dù tôi phản bội chồng với hình bóng đàn ông khác trong chính con người chồng mình.

Vĩ Thanh
Nàng trốn khỏi tôi sau đêm đó, tôi biết nàng cần thời gian và tôi cũng cần thời gian. Nàng trốn chạy khỏi cái đêm thất bại với người đàn ông có tấm lưng oai vệ mà tôi ghen tuông ngấm ngầm để ám ảnh về chính tôi. Bao nhiêu năm sống với nàng tôi biết nàng khắc khoải, nhưng tôi không biết là nàng khắc khoải với người đàn ông đã vô tình đón nhận được món quà của thượng đế chỉ sau một giây phút thoáng qua.
Tôi đã theo nàng, đã vờ như chạm mặt nàng một cách vô tình nhưng hoàn toàn không phải thế. Khi thấy nàng trả tiền cho đêm tình yêu, tôi đã biết là tôi không thể có ai khác, chỉ duy nhất có một người con gái mà đêm đầu tiên trong đời mình nàng đã dùng tiền để hủy hoại. Tôi chỉ không muốn đào bới quá khứ của nàng, tôi chỉ muốn nàng được sống trong tình yêu và hưởng thụ.
Và tôi biết, năm năm sau rồi nàng sẽ quay trở về, tôi sẽ mãi chờ đợi nàng trong căn nhà gỗ trong khu nghỉ dưỡng đó...
Tình yêu, không thiếu được sự chờ đợi.

L.M.D




Những gương mặt đồng dạng- Thơ Du Nguyên


Chùm thơ của Du Nguyên



Tác giả  Du Nguyên

Của ngày xưa


Trên chiếc ghế mục
Mùa thu qua và đặt chiếc hôn thoang thoảng mùi hoa sữa
Lên môi mùa hạ
Buổi sáng tháng Tám
Những chùm hoa đặt nghiêng trong trí nhớ.

Anh chưa bao giờ nhìn sâu vào đôi mắt em
Để tháng năm rân rấn những buổi sáng đầy sương
Giăng một ngõ đi về
tháng Tám hoài niệm

Trên chiếc ghế lúc la lúc lắc những câu thơ buồn của người con gái đi ra từ cánh đồng bông cỏ phất phơ loài gió nhạt màu khát nước, em đã ngồi hát ê ẩm cả con tim. Yêu dấu của em, chỉ có bấy nhiêu là khói sương...

Rồi mùa hạ khô choong trên những tàn cây mà mùa thu đã mang gió đi xa quên trở về ngày mỏng. Lối về tháng Tám cũng chẳng còn chi chít những chiếc hôn thơm mùi hoa sữa nơi con đường hò hẹn. Anh xa rồi. Như tóc em, ngắn mãi...

Chỉ còn vương vãi trên chiếc ghế mục sáng nay
Là hai dấu chân cơn gió đi xa vừa trở về
mùi hoa khô và câu chuyện cũ
ngày xưa.


Thoại XYZzzz


Tôi cắt xén giấc mơ thành những mẩu nhỏ
Một, hai, ba, bốn, năm
Xới xáo vài ngăn trong chiếc áo ngoại cỡ
Đủ giấu mình vào trong
Rồi biến mất
Như chưa từng tồn tại
Chưa từng một lần đi qua đám đông
Chưa từng một ngày biết hát, biết nhớ, biết gặm nhấm nỗi cô đơn

Tin ta đi, ngày gió rối
Giấc mơ kia là trò giả định
Của tình yêu qua bao ngày meo mốc
Nỗi buồn đang trú ngụ nơi mười đầu ngón tay buốt lạnh
Cũng chỉ là trò giả định của niềm vui chưa kịp chạm môi người.

Sáng nay mùa đông về muộn
Kỉ niệm ủ ê như căn phòng người ốm
Tôi biết làm gì
Ngoài những giọt nước mắt?

Em không biết những giọt nước mắt của gió nhanh khô
Nên buồn đúng không?

Sáng nay câu hát gì chạm vào tiếng thở dài của lá
Mà đám chuồn chuồn rũ cánh trước hiên nhà
Thành những sợi li ti đỏ
Rơi đầy sân tháng Mười Hai khô?

Chỉ là ngày nỗi buồn thoảng qua đọng lại nơi đuôi mắt
Và em là cô gái thành thật trên đời
Mà thôi.
.
.
Thôi mà em
Buồn đồ rê mi pha son la xi đô tê rê.


Niệm

Nơi con đường mùa mưa cây cơm nguội rắc vàng xuống phố
Tháng Ba hoe xanh sũng mắt cào cào
Sầu đông tím chở quạnh buồn lang thang trên dốc gió
Rưng rức heo may.

Nơi cơn giông màu đỏ tháng Ba chưa tắt
Anh đi ngược phía em
Cầm chiếc ô ố màu mận chín
Tìm cỏ cô niệm.

Nơi con đường xập xòe loài sẻ nâu líu ríu
Ta đi tìm nhau dưới gốc thược dược già
Đã mấy mùa rồi cúc chẳng bung tiếng hát
Trong veo xưa.

Có một ngày sau những tháng năm cạn khô như xác mướp
Em quên mất khuôn mặt anh
khi chạm vào ánh mắt của người đàn ông xa lạ
Em thôi nhắc về ngày cũ
Mùa gió chiều run rút hoang liêu.

Chúng ta đã không tìm thấy nhau dưới gốc thược dược già
Tháng Ba vẫn thế
Xanh xưa trong ánh mắt veo tròn.


Ngày quên điều độ

Trôi diệp lục
Rớt xuống tình yêu thừa thãi nỗi cô đơn màu đỏ
Căn phòng lưu vết chiếc hôn nói dối

Một sớm mùa đông luơ khuơ
Nhức nhối tiếng kiến đục miếng bánh mì nhai dở
Ngày quên điều độ.

Đã lâu rồi chủ nhân ngôi nhà này quên quét nhà
Từng mảng bụi mỏng in vệt chân người vừa đi qua
Những con cá cảnh nhô len đớp từng đụn không khí
Trôi từng váng li ti li ti
Vỡ ỉu xìu.

Mùa này là mùa gì?
Sao có người khoác áo ấm mặc quần lửng chân đi tất?
Cười nói lung ta lung tung như bức tranh biếm họa bẹp dí trên tường
Đừng nhìn ta nữa mà ngày khác
Hôm nay là một ngày rất hay
Hay hay ngồ ngộ ghê ghê
Như nụ cười sằng sặc của gió mơn trớn ngoài mùa.

Trong này là một mùa khác
Nơi mà tiếng tích tắc lắc rắc theo nỗi cô đơn
xám hoét
những ngày không điều độ.




Không đề phố


Hôm nay đang đi tự nhiên muốn ngồi bệt lại giữa đường
Nhìn dòng người đưa tiễn nhau về nơi mười đầu ngón tay
Roang roác ruệch roạc ròng rọc rươn rướt
Phố ế ẩm
Người đàn bà điên cầm xác con cào cào khô
Cười hi hi ha ha ho ho
Không một ý nghĩ nào tồn tại cả
Phố không hỏi tôi đến từ đâu.

Trong phút chốc tôi thấy khuôn mặt mình nhợt nhạt
Khi người đàn bà ấy lao ra giữa đường
Trên tay là xác con cào cào khô quắp quằm quặp
Cười ngô nghê nghê ngô ngôôôôôô….

Ở cái thành phố nhoàm nhoạp nhuếch nhoáp nhoằng nhuỵt rác và bụi này
Sự cô đơn, thất bát, bạc bẽo rẻ rúng như cái búng tay lơ đễnh
Chẳng người nào hỏi nơi tôi đến nhiều gió không
Phố xá đông hơn bởi nỗi cô đơn người ta thả vào không khí
Ai cũng có thể ngửi được mùi mồ hôi của nhau
Mà không ngửi được lòng nhau.

Phía trước tôi có mấy người đã ngồi bết bền bệt lại nơi vệ đường
Mếu máo máo mếu mon men moan moen
Phố xá đông dần lên bởi những khuôn mặt cô đặc
Vị khét lèn lẹt cào cào khô.


Những khuôn mặt đồng dạng


những khuôn mặt bị bỏ qua
trôi láng lênh luênh loáng trên phố
những khuôn mặt dẫm vết nhau đi trên cùng
một trục đường biến dạng những khuôn mặt.
những khuôn mặt đồng dạng dạng dạng dạngggggg những khuôn mặtttttttt
người qua đường dẫm lên các khuôn mặt
người lao công quét những khuôn mặt
những khuôn mặt vui cười nháo nhào.

có một buổi tối tôi đang đi lơ đễnh
một khuôn mặt nhảy lên từ chiếc cống phía sau tuổi hai ba gầy gọc
cười ha ha ha.


phố xá méo xì
bởi những khuôn mặt đồng dạng dạng dạngggggggggggg
…..g/.

Dân chủ đến từ sự khiêm tốn?



Dân chủ thường được kỳ vọng như là một trong những động lực chính thúc đẩy sự phát triển, vì một thực tế hiển nhiên: Những nước phát triển trên thế giới đều là những nước theo thể chế dân chủ.
TS Giáp Văn Dương


Thay vì mắc kẹt trong câu hỏi: “Dân chủ là gì?”, cần đẩy nó đi một bước xa hơn về phía cội nguồn qua thông qua một câu hỏi mới: “Dân chủ đến từ đâu?”. Khi biết được dân chủ đến từ đâu thì bản chất của dân chủ sẽ được sáng tỏ.


Nghịch lý dân chủ

Dân chủ thường được kỳ vọng như là một trong những động lực chính thúc đẩy sự phát triển, vì một thực tế hiển nhiên: Những nước phát triển trên thế giới đều là những nước theo thể chế dân chủ.

Nhưng dân chủ là gì lại là một vấn đề gây tranh cãi. Do ảnh hưởng của những yếu tố lịch sử, văn hóa, tôn giáo, hoàn cảnh sống… mà mỗi người, nhóm người, thậm chí quốc gia, hiểu dân chủ một cách khác nhau. Vì thế, tìm cách trả lời rốt ráo câu hỏi dân chủ là gì là một việc làm tối cần thiết.

Tối cần thiết, nhưng không dễ. Vì ở đây có một nghịch lý, có thể gọi là nghịch lý dân chủ: Bản thân việc định nghĩa hoặc diễn giải dân chủ là gì, từ bất kì chủ thể nào, đều đã chứa đựng trong nội tại của nó những yếu tố áp đặt, phi dân chủ. Nói cách khác, càng nhân danh dân chủ, anh càng trở nên phản dân chủ.

Đó chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng cho đến nay vẫn chưa có được sự thống nhất về cách hiểu dân chủ là gì giữa Đông và Tây, quốc gia và quốc gia, cá nhân và cá nhân. Lý do là bản thân mỗi diễn giải này đều mang trong nó những chủ kiến ít nhiều mang tính áp đặt phi dân chủ, nên không được chấp nhận bởi kẻ khác.

Mỗi người, hoặc nhóm người, hiểu dân chủ một cách khác nhau và ra sức bảo vệ, thậm chí áp đặt cách hiểu của mình cho những người còn lại. Những cuộc thảo luận về dân chủ, dù là trong giới học thuật, chính trị gia hay quần chúng, vì thế đều có nguy cơ kéo dài bất tận mà không thu được sự đồng thuận.

Cho nên, thay vì mắc kẹt trong câu hỏi: “Dân chủ là gì?”, cần đẩy nó đi một bước xa hơn về phía cội nguồn qua thông qua một câu hỏi mới: “Dân chủ đến từ đâu?”.

Khi biết được dân chủ đến từ đâu thì bản chất của dân chủ sẽ được sáng tỏ. Quan trọng hơn, khái niệm dân chủ khi đó sẽ trở nên khả dụng vì mỗi người đều thấu hiểu nguồn gốc hình thành của nó, vì thế có thể làm chủ và chủ động khai thác nó, thay vì là đặt nó làm đối tượng cho những tranh luận mơ hồ bất tận ồn ào.

Dân chủ ở hành vi

Ở mức độ cơ bản nhất, dân chủ biểu hiện trong hành vi của chủ thể đang xem xét. Một cá nhân, một cộng đồng, hay một nhà nước, có được coi là dân chủ hay không phải được xét trên chính tập hợp những hành vi của cá nhân, cộng đồng hay nhà nước đó.

Hành vi chính là cơ sở duy nhất để đánh giá mức độ dân chủ của chủ thể. Một tuyên ngôn đẫy rẫy những mỹ từ về dân chủ nhưng đi kèm với một hành động áp đặt thì về bản chất, chủ thể của tuyên ngôn đó là phi dân chủ.

Mức độ dân chủ trong hành vi, vì thế, là thước đo mức độ dân chủ của chủ thể hành vi, dù chủ thể đó là ai, cá nhân hay bất kỳ tổ chức nào đi chăng nữa.

Do đó, hành vi phi dân chủ, và rộng hơn là tất cả những phương tiện phi dân chủ, không thể là, hoặc được biện minh là, biểu hiện của một mục đích dân chủ. Ở đây, mục đích không được phép biện minh cho phương tiện.

Nhưng hành vi lại xuất phát từ nhận thức. Vậy nhận thức nào sẽ mang lại hành vi dân chủ cho mỗi chủ thể?

Để trả lời câu hỏi này, hãy xem xét một cuộc thảo luận có tính dân chủ.

Nguyên tắc khiêm tốn

Trong cuộc thảo luận này, những người tham gia thảo luận trình bày, lắng nghe, thảo luận và phản biện ý kiến của nhau một cách tôn trọng, ôn hòa.

Mục đích của thảo luận dân chủ là để tìm ra ý tri thức đúng đắn nhất, lựa chọn hợp lý nhất trong số những đề xuất của những người tham gia thảo luận.

Nhưng vì sao những người tham gia thảo luận lại phải mất thời gian như vậy? Vì sao người có ưu thế cao nhất về kinh nghiệm, tri thức hoặc quyền lực không áp đặt ý kiến của mình cho những người còn lại?

Vì họ biết rằng, tri thức và lý tính có giới hạn và khiếm khuyết về bản chất.

Sự giới hạn và khiếm khuyết này không nằm ở sự yếu kém của cá nhân, mà thuộc về bản chất của tri thức, được minh họa hùng hồn qua Nguyên lý bất toàn của Toán học – tên nguyên thủy là Định lý bất toàn – và Nguyên lý bất định của Vật lý.



Để khắc phục chúng, họ phải nhờ đến sự giúp đỡ của một nguyên lý khác, cũng cơ bản không kém. Đó là nguyên lý bổ sung củaVật lý, được phát biểu ngắn gọn rằng: Đối lập là bổ trợ. Nói cách khác, đối lập không phải là triệt tiêu nhau, mà là bổ trợ cho nhau.

Bộ ba nguyên lý này tạo ra ý thức khiêm tốn, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhau một cách cầu thị giữa những người tham gia thảo luận.

Như thế, vô hình trung, trong suốt quá trình thảo luận, họ đã cùng nhau thực hành một nguyên tắc, có thể gọi là nguyên tắc khiêm tốn, như sau: Mỗi người tham gia thảo luận đều khiêm tốn và cầu thị một cách có ý thức vì biết rằng bản chất của tri thức và lý tính là có giới hạn và khiếm khuyết về bản chất.Và để khắc phục sự giới hạn và khiếm khuyết này, đối lập và khác biệt cần phải được tôn trọng vì chúng là nguồn bổ trợ cho tri thức và lý trí của bản thân mình.

Chính nguyên tắc khiêm tốn này đóng vai trò nhạc trưởng, chỉ huy cuộc thảo luận dân chủ đi đến đồng thuận cuối cùng mà không bị đổ vỡ giữa chừng vì những khác biệt.

Nhạc trưởng


Bây giờ mở rộng cuộc thảo luận dân chủ sang một trường hợp khác rộng hơn, như sự điều hành của một chính phủ dân chủ chẳng hạn.

Người quan sát ở đây sẽ thấy, sự điều hành của một chính phủ dân chủ có sự tương tự về bản chất so với một cuộc thảo luận có tính dân chủ.

Ở đó, chính phủ và những đại diện của dân chúng sẽ trình bày, lắng nghe, thảo luận và phản biện ý kiến của nhau một cách tôn trọng, ôn hòa.

Mục đích của việc này là để tìm ra những tri thức và lựa chọn, cụ thể là những kế hoạch, phương án, chiến lược phát triển hay quản lý và điều hành đất nước… tốt nhất.

Nhưng vì sao chính phủ dân chủ lại phải làm như vậy, trong khi họ có đủ phương tiện, thậm chí cả súng, để áp đặt ý kiến của mình?

Vì chính phủ dân chủ, cũng giống như những người tham gia cuộc thảo luận ở trên kia, biết được giới hạn và sự khiếm khuyết mang tính bản chất về tri thức và lý trí của mình. Do đó, họ khiêm tốn và cầu thị tham gia đối thoại với nhân dân để tìm ra những tri thức và lựa chọn tốt nhất có thể, nhằm giải quyết những vấn đề họ phải đương đầu.

Nói cách khác, chính phủ dân chủ cũng thực hành nguyên tắc khiêm tốn đã nêu trên.

Nếu đi xa hơn, mở rộng sự điều hành của một chính phủ dân chủ sang sự vận hành của một thiết chế dân chủ thì sao?

Người quan sát sẽ thấy nguyên tắc khiêm tốn vẫn đóng vai trò nhạc trưởng chỉ huy mọi hoạt động của thiết chế này.

Vì nhận thức được rằng, tri thức của con người nói chung và cá nhân nói riêng là có giới hạn và khiếm khuyết về bản chất, nên một thiết chế dân chủ sẽ được thiết kế sao cho có khả năng huy động tốt nhất trí tuệ của tập thể trong việc thu nhận tri thức, lựa chọn và ra quyết định.

Thiết chế đó sẽ đảm bảo sao cho mỗi người dân có quyền và trách nhiệm nói lên ý kiến của mình cũng như tham dự vào hoạt động của chính quyền ở mức độ thích hợp nhất.

Thiết chế đó sẽ đảm bảo cho người lãnh đạo là người có tài năng và uy tín nhất; mỗi quyết sách được đưa ra sẽ là quyết sách tối ưu nhất.

Dân chủ đến từ sự khiêm tốn

Như thế, nguyên tắc khiêm tốn đóng vai trò nền tảng chi phối sự vận hành của một thiết chế dân chủ, hoạt động của một chính phủ dân chủ hay đơn giản là diễn tiến của một cuộc thảo luận dân chủ.

Nói cách khác, nguyên tắc khiêm tốn là nền tảng cho mọi hoạt động mang tính dân chủ. Thiếu sự chỉ huy của nguyên tắc này, sự áp đặt và độc đoán sẽ bành trướng làm cho mọi diễn tiến sau đó trở thành áp đặt, phi dân chủ.

Như thế có kết luận: Nguồn gốc sâu xa của dân chủ là sự khiêm tốn một cách có ý thức về tri thức và lý tính của con người. Sự khiêm tốn này xuất phát từ nhận thức một cách khoa học về sự bất định và bất toàn của bản thân tri thức và lý tính.

Và để khắc phục sự bất toàn và bất định này, con người cần phải thực hành một nguyên lý khác là Nguyên lý bổ sung: Tôn trọng và chấp nhận những tri thức trái ngược như một sự bổ sung cho tri thức và lý trí của bản thân mình.

Làm được như thế, dân chủ sẽ tự đến, sống động và sáng rõ.

Nguồn: TVN

Sửa sang từng mảnh nhỏ




TTCT - 1. Năm 2007, tôi lần đầu vẫy một chiếc taxi ở Anh. Khi lên xe, ngoài việc hỏi địa chỉ nơi đến thì anh tài xế vui miệng còn chuyện qua chuyện lại. Có lẽ vì thấy tôi có vẻ bỡ ngỡ, anh mở đầu câu chuyện bằng một câu hỏi rất cũ: Anh là người nước nào?



Tranh: Lê Thiết Cương


Tôi, tất nhiên vui vẻ trả lời: Tôi là người Việt Nam. Chuyện bình thường, chẳng có gì đáng nhớ nếu không có thêm một khúc sau đó.
Sau khi đã hỏi qua đáp lại một hồi, anh tài hồn nhiên khoe: Anh biết không, cảnh sát vừa tóm một nhóm người Việt “trồng cỏ” ở London. Vụ lớn lắm, rầm rĩ cả tuần nay.
Tôi sững người sau khi kịp hiểu ra “trồng cỏ” là gì. Xưa nay chỉ nghe loáng thoáng lúc trà dư tửu hậu, vào tai nọ rồi ra tai kia như chuyện ở trên trời, ai ngờ có lúc bị giội thẳng vào mặt như vậy. Ngẩn người một lát lâu, tôi chỉ biết im lặng. Cũng không kịp nghĩ xem ông này nhắc khéo gì mình, hay chỉ vui miệng mà đưa chuyện. Anh tài thấy vậy cũng không nhắc gì thêm nữa.
Nhưng nỗi buồn không rõ từ đâu dội đến, mãi không dứt ra được. Từ đó trở đi, cứ mỗi khi nghe thấy chuyện “trồng trọt” ở đâu đó là tôi lại giật thót. Có khi nào người ta “bóng gió” gì mình? Mình đến đây để làm việc đàng hoàng, dõng dạc bình đẳng như tất cả mọi người.
Nhưng xem ra chỉ mình mới thấy vậy, chứ thiên hạ chưa chắc đã tin vậy. Mà làm sao có thể tin được nếu chả mấy tuần đài báo không có bài về các vụ “trồng trọt” công nghệ cao, trộm cắp tinh vi với những cái tên rất quê hương, và tình tiết ly kỳ ngoài sức hình dung của người thường?
Rồi dần dà người bản xứ định hình một nếp nghĩ, cứ nhắc đến người Việt Nam là họ nhớ ra ngay những chuyện đó. Thương hiệu quốc gia bỗng chốc bị nhấn chìm vào mớ thông tin buồn nản ngại ngùng mà không cách nào thanh minh được. Một cá nhân thôi cũng thấy danh dự của mình bị sứt một mảnh tướng.
Cuộc đời sau đó còn đưa đẩy tôi đi qua nhiều vùng đất khác nhau. Nhưng ngoài chuyện chiến tranh đã là quá khứ, thì khi nhắc đến Việt Nam, những câu chuyện gây đỏ mặt như trên vẫn thường xuyên xuất hiện. Tùy nơi mà kiểu chuyện khác nhau, nhưng cảm giác chung khi nghe là ngượng.
Nhiều lúc ngồi nghĩ đành rằng nước mình vẫn còn khó khăn nhưng có truyền thống hào hùng. Vậy mà bao lần giao tiếp với người nước ngoài, họ chỉ biết Việt Nam đã từng có vài cuộc chiến lớn, rồi sau đó là những chuyện vui ít buồn nhiều.
Khó mà trách họ được. Cuộc sống bận rộn. Dòng thông tin cuồn cuộn chảy. Mấy ai có thời gian để lật lại những chuyện từ ngày xửa ngày xưa của một vùng xa lắc. Những gì nổi trên mặt báo thì họ hớt lấy và tin như thế. Vậy cũng đã đủ mệt, và đủ chính đáng với họ rồi.
2. Hôm rồi, tôi lại giật thót mình khi đọc báo thấy tiếp viên của Vietnam Airlines, tức Hãng hàng không quốc gia Việt Nam, bị nghi tiếp tay tiêu thụ đồ trộm cắp siêu thị ở đất Phù Tang.
Lần đọc tiếp, lại giật thót khi thấy những tấm ảnh chụp biển cảnh báo trộm cắp, biển nhắc nhở ăn bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu trong nhà hàng buffet, viết bằng tiếng Việt, nhưng không phải ở nhà mà xa tít xứ người. Rồi một ông thái tử xứ sương mù bỗng dưng lên truyền hình kêu gọi bảo vệ động vật hoang dã bằng... tiếng Việt.
Sao kỳ lạ vậy? Cảm giác những dòng chữ, tiếng nói Việt bỗng không còn thân thương nữa mà trĩu nặng ngượng ngùng. Bởi chuyện không chỉ là chuyện trong nhà mà đã trở thành mối cảnh giác của người ngoài ở nhiều nơi, nhiều xứ. Những phàn nàn cũng không còn trên mặt giấy mà đã “đi vào thực tế” hùng hổ đến mức người ta phải cắm biển cảnh báo.
Danh dự quốc gia là gì, nếu không phải là tập hợp danh dự của các cá nhân? Câu chuyện tưởng như xa lạ trên mặt báo giờ thật ra là lựa chọn của mỗi người: Phải làm gì trong tình thế oái oăm này? Hẳn chẳng còn cách nào khác, đừng làm xấu đi, đừng nói dối, đừng gây hại thêm, rồi sửa sang từng mảnh nhỏ từ chính bản thân mình.
GIÁP VĂN