Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013

Biển đêm _ tranh sơn dầu Lê Minh Phong


Cừu hay sói?




Trà đóa




Tôi chỉ là một con cừu, nhưng không, tôi giống sói hơn, ồ, lại cũng không, có vẻ tôi giống cừu hơn...

Bạn hãy khoan bực mình vì cái rối rắm này của tôi. Tôi không còn nhớ khởi nguyên mình là con gì. Chuyện đó đã xảy ra lâu lắm rồi mà trí nhớ của tôi thì rất ngắn. Có thể ban đầu tôi chỉ là một con cừu, có thể lắm chứ, vì tôi thích như vậy. Nhưng cũng có thể tôi đã là một con sói, tôi cũng thích không kém...

Rắc rối ấy vốn là bản chất của tôi chứ chưa hẳn là do sở thích giải phẫu thẩm mỹ.

Người ta hay hiểu lầm giải phẫu thẩm mỹ là để đẹp hơn. Điều này không đúng lắm. Thực ra, giải phẫu thẩm mỹ là để giống một cái gì đó hơn — một thứ mà bạn ao ước.

Một nữ diễn viên châu Á muốn thay thế cái mũi tẹt của mình bằng một cái mũi kiểu phương Tây và cô ta đi giải phẫu thẩm mỹ. Michael Jackson muốn có làn da trắng và anh ta đi nhờ bác sỹ thẩm mỹ... Nhưng dù anh ta có làn da trắng không thua kém ai, cũng chẳng ai gọi anh ta là Mỹ trắng bao giờ.

Một cô gái ngực lép, dĩ nhiên sẽ thích độn ngực. Cuối cùng cô ta cũng có được một bộ vú đồ sộ như mong ước. Cô ta có thể dùng nó để tăng hiệu quả cho công việc, ví dụ: đóng phim, diễn kịch, hay thậm chí chỉ để thu hút khách làng chơi.

Một gã đực có dương vật nhỏ và muốn nó to và dài hơn, cũng chẳng khó nhọc gì, giải phẫu sẽ giúp hắn toại nguyện.

Thậm chí, nếu có một gã biến thái nào đó muốn cả hai, nghĩa là hắn muốn bên dưới của hắn là một dương vật to lớn cương cứng còn bên trên là một bộ vú núi lửa, không sao, được tất. Và hắn trở thành một giống loài mới — giống loài siêu nhân. Cái thứ siêu nhân mà Nietzsche chẳng thể lường được.

Nhưng tôi lại sa đà rồi, hãy trở lại với cái rắc rối của riêng tôi. Tôi đã nói là không biết mình thuộc giống loài nào, và điều đó bây giờ lại trở thành một nỗi bất hạnh, ít ra cũng tự tâm khảm tôi cảm thấy như vậy. Bây giờ, tôi không còn muốn thành cừu, sói hay bất cứ con gì nữa, tôi chỉ muốn biết cội nguồn thật sự của mình để mà quay về. Nhưng hỡi ôi, tôi đã đi quá xa rồi và bây giờ chẳng còn biết lối nào để trở về.

Cái điều căn bản này giày vò tôi từng đêm, làm tôi thấy cuộc sống chẳng còn chút ý nghĩa nào nữa nếu tôi vẫn chưa tìm được cội nguồn của mình. Bởi vậy, tôi đã tự lần mò để đi tìm lại...

Đầu tiên, tôi đến chỗ mấy con sói. Bọn chúng sau một hồi sờ mó và răn đe tôi, đã nói cũng có thể lắm, nghĩa là tôi vẫn có chút gì đó là sói. Nhưng một chút sói cũng không phải là sói, tôi muốn hoặc hoàn toàn là sói hoặc không.

Điều tương tự cũng xảy ra khi tôi đến chỗ bọn cừu. Khỉ thật, chẳng khá hơn chút nào, cái bọn cừu dở hơi ấy cũng trề môi chê ỏng chê eo cái chất cừu lai căng mà tôi đang sở hữu.

Không phải sói, cũng chẳng là cừu, vậy tôi là con gì? Thất vọng, tôi tìm đến một nhà hiền triết để hỏi. Ông ấy đã cật vấn tôi rất nhiều thứ, từ cách bắt mồi, cách nhai cỏ, cách xé xác con mồi ra sao, rồi cách mà tôi cảm nhận khi đứng trước một con vật hung dữ hay yếu mềm thế nào... Tôi trả lời vanh vách từng chút một. Nhưng nghe xong ông cũng thở dài lắc đầu và nói chẳng thể xác định được.

Đến nước ấy thì tâm trạng tôi là của một kẻ cùng đường. Có lẽ, may ra chỉ có Trời Phật mới biết được tôi là ai.

Nhưng khi nhìn gương mặt tuyệt vọng của tôi, nhà hiền triết đã thương hại mà nói rằng may ra còn một cách nữa nhưng tôi phải đủ dũng cảm để chịu đựng sự đớn đau. Tôi mừng rỡ cả quyết với ông là cho dù có cực khổ hay đau đớn cỡ nào tôi cũng sẽ chịu đựng mà chẳng ân hận. Nhà hiền triết gật đầu hài lòng.

Ông dẫn tôi xuống phố, đến một nhà hàng thật lớn. Và sau đó tôi được châm điện cực mạnh cho chết tươi. Linh hồn tôi lập tức bay lên trần nhà và nhìn xuống. Tôi thấy bọn họ bắt đầu tưới nước sôi rồi cạo lông tôi, sau đó xẻ thịt và chế biến thành nhiều món. Rồi chuyện mà tôi chờ đợi cũng đến. Đó là khi bọn họ dọn các món ấy lên bàn và mấy tay sành ăn xúm lại nếm thử. Bọn chúng nhai thịt tôi ngồm ngoàm rồi nốc rượu như điên. Cuối cùng bọn chúng cũng lên tiếng nhận xét. Có gã cho là gần giống thịt chó nhưng hơi mềm. Còn gã khác thì thú thật là thấy giống thịt lợn nhưng dở hơn,... Tôi biết chẳng thể trông đợi gì ở bọn phàm phu tục tử này được nữa nên có nán lại ở đây cũng thêm chán. Có lẽ cái thân xác phàm ấy của tôi cũng chỉ đủ giúp cho mấy tay bợm nhậu được một bữa no say đã đời mà thôi. Tôi tuyệt vọng bay vút lên không trung và tìm đường về thiên đàng.

Và khi đã ở thiên đàng tôi mới vỡ lẽ ra rằng chẳng ai ở đây quan tâm đến cái gọi là nguồn cội hay giống loài, thậm chí họ còn chẳng nhớ họ là ai. Đâu có gì khác nhau giữa các linh hồn. Tôi chợt ngộ ra và cảm thấy hạnh phúc biết bao.


LỜI THÚ TỘI CỦA MỘT THIẾU NỮ

Marcel Proust

“Những ham muốn của giác quan lôi kéo chúng ta đến chỗ này chỗ nọ,
nhưng khi giờ khắc trôi qua, các người mang về được gì? những hối hận
trong lương tâm và một ít phung phí tinh thần. Người ta bước ra với niềm vui
và thường người ta lại trở về trong nỗi buồn. Niềm vui của giác quan
ban đầu làm ta thích thú như vậy nhưng rốt cuộc
chính nó làm ta bị thương và giết chết ta”.
(Phỏng theo Jésus-Christ, quyển I, chương XVIII)



I


Giữa sự tìm quên của ta trong những niềm vui giả tạo,
Mùi hương hiền dịu buồn bã của cánh hoa lài,
Qua những cơn say lại trở về trong sạch hơn.

(HENRI DE RÉGNIER)



Rồi tôi cũng sắp được giải thoát. Chắc chắn là tôi đã vụng về, tôi đã bắn hụt, suýt đã không chết được khi tự tử. Dĩ nhiên lẽ ra tốt hơn tôi nên chết ngay vì phát súng đầu tiên, nhưng rốt cuộc rồi người ta cũng không lấy được viên đạn ra và những biến chứng ở tim đã bắt đầu. Chắc cũng không thể còn lâu nữa. Thế mà đã tám ngày! thế mà còn kéo dài đến tám ngày! trong những ngày đó tôi sẽ không thể làm gì khác hơn là cố nhớ lại sự tiếp diễn khủng khiếp của câu chuyện. Nếu tôi không quá yếu, nếu tôi có đủ nghị lực để ngồi dậy, để ra đi, tôi muốn đến chết ở khu vườn Quên Lãng, trong khu vườn mà hè nào tôi cũng vẫn đến ở chơi cho đến năm mười lăm tuổi. Không có chỗ nào đầy dẫy hình ảnh mẹ tôi hơn được khi mà sự hiện diện của mẹ, và nhất là sự vắng mặt của mẹ, đã in sâu hình ảnh mẹ trong khu vườn. Đối với những người đang thương yêu, thì vắng mặt chẳng phải là một trong những sự hiện diện chắc chắn nhất, hiệu lực nhất, trường cửu nhất, khó hủy hoại nhất, trung thành nhất ư?

Cuối tháng Tư mẹ tôi dẫn tôi đến khu vườn Quên Lãng, sau hai ngày mẹ lại đi, vào giữa tháng Năm mẹ đến ở lại thêm hai ngày nữa, rồi lại trở về đón tôi vào tuần cuối cùng tháng Sáu. Những lần đến quá ngắn ngủi của mẹ là một cái gì êm dịu nhất và cũng ác độc nhất. Trong hai ngày đó mẹ đã ban cho tôi hết những âu yếm mà thường lệ, để tập cho tôi cứng rắn và để làm dịu bớt tính đa cảm bệnh hoạn của tôi, mẹ vẫn rất hà tiện. Hai buổi tối mà mẹ ở lại khu vườn Quên Lãng mẹ đến tận giường tôi để hôn tôi trước khi ngủ, một thói quen mà mẹ đã quên mất, bởi vì tôi thấy trong việc đó quá nhiều thích thú và cũng quá nhiều phiền muộn, nên càng nhắc mẹ trở lại hôn tôi lần nữa, tôi càng không ngủ được, sau cùng không dám nghĩ đến nữa, nhưng lại cảm thấy rõ hơn sự thèm khát say mê được mẹ đến hôn, tôi luôn luôn phải bịa ra những duyên cớ mới, cái gối tôi nóng bỏng cần được lật lại, bàn chân tôi lạnh giá mà chỉ hai bàn tay mẹ mới có thể sưởi ấm được... Nhiều lúc êm ái như vậy đã đón nhận thêm một sự dịu dàng êm ái hơn nữa vì tôi cảm thấy rằng những lúc đó là những lúc mà mẹ tôi chính thật là mẹ và sự lạnh nhạt hàng ngày của mẹ chắc hẳn đã làm mẹ khổ tâm nhiều. Ngày mẹ tôi lại ra đi, ngày mà tôi thất vọng, bám lấy chiếc áo dài của mẹ ra đến toa xe lửa, khẩn khoản xin mẹ đem tôi theo lên Paris, tôi đã phân biệt được rõ ràng cái thành thật giữa cái giả vờ, phân biệt nỗi buồn của mẹ lộ ra qua những lời trách mắng vui vẻ và hờn dỗi vì nỗi buồn “ngu muội, lố bịch” của tôi, nỗi buồn mà mẹ muốn dạy tôi chế ngự được, nhưng chính mẹ cũng chia sẻ. Tôi vẫn còn cảm lại sự xúc động của tôi về một trong những ngày ra đi ấy (đúng sự xúc động nguyên vẹn kia, không hề phai nhạt vì lần trở lại đau đớn hôm nay) về một trong những ngày ra đi mà tôi đã khám phá một cách êm dịu sự âu yếm của mẹ, rất giống và lại rất cao quí hơn sự âu yếm của tôi nhiều. Cũng như mọi khám phá khác, sự khám phá này tôi đã linh cảm trước, đã đoán biết, nhưng những sự kiện thường lại dường như vẫn mâu thuẫn với nó! Những cảm giác êm dịu nhất của tôi là những cảm giác vào những năm mà mẹ tôi trở lại khu vườn Quên Lãng, người ta gọi mẹ đến vì tôi lâm bệnh. Không những mẹ chỉ đến thăm tôi nhiều hơn mọi bữa một lần mà thôi, là điều tôi không hề mong đợi, mà lúc bấy giờ mẹ chỉ còn là cả sự dịu dàng và âu yếm bộc lộ không chút che đậy mà cũng không chút dè dặt. Ngay hồi đó, hồi mà những dịu dàng âu yếm chưa được dịu xuống, chưa được êm ái xúc động vì nghĩ đến một ngày kia chúng sẽ làm tôi nhớ, sự dịu dàng đó, sự âu yếm đó đối với tôi lại lớn lao đến nỗi cái thú vị của những ngày dưỡng bệnh vẫn luôn luôn buồn bã đến chết được: cái ngày mà tôi sắp lành bệnh đủ để mẹ có thể ra đi đã đến, và cho đến ngày đó, bệnh tôi không trầm trọng đủ để mẹ khỏi thẳng tay dùng lại thái độ nghiêm nghị và công bằng của những ngày trước để đối với tôi.

Một ngày nọ những ông chú ở khu vườn Quên Lãng nơi tôi ở lại giấu không cho tôi biết là mẹ tôi sẽ đến, vì có một thằng em họ đến chơi mấy giờ với tôi, vì nếu biết mẹ đến tôi sẽ không hết tâm chơi với nó trong niềm lo âu sung sướng của sự đợi chờ kia. Sự giấu giếm đó có lẽ là một trong những trường hợp đầu tiên ngoài ý muốn của tôi, những trường hợp đồng loã với mọi khuynh hướng làm điều quấy mà tôi mang trong người, cũng như tất cả những đứa bé trạc tuổi tôi, và không hơn chúng. Thằng em họ này mới mười lăm tuổi — và tôi mười bốn — mà đã có nhiều tính xấu và nó đã tập cho tôi nhiều chuyện làm cho tôi rùng mình ngay sau đó vì hối hận và khoái lạc. Tôi thích nghe nó nói, thích để nó mơn trớn tay tôi, một niềm vui ngay cội nguồn đã nhiễm độc; liền sau đó tôi đã có đủ can đảm để xa nó và bỏ chạy trốn trong khu vườn và khao khát được gặp mẹ mà, than ôi! tôi biết giờ này đang ở Paris, mặc nhiên gọi mẹ qua khắp các lối đi trong vườn. Bất chợt, khi chạy qua một hàng cây, tôi thoáng thấy mẹ ngồi trên một chiếc băng, đang mở rộng hai tay đón tôi. Mẹ vén tấm voan phủ trước mặt để hôn tôi, tôi chạy bổ tới áp mặt vào má mẹ nước mắt trào ra; tôi khóc một lúc lâu vừa kể hết lại cho mẹ những chuyện bẩn thỉu kia, những chuyện mà phải ở cái tuổi ngu dốt của tôi mới có thể nói cho mẹ nghe được và mẹ đã chịu ngồi nghe một cách chăm chú mà chẳng hiểu gì cả, mẹ lại giảm bớt tầm quan trọng của câu chuyện với một lòng tốt đã làm lương tâm tôi được nhẹ đi. Lương tâm nhẹ dần, nhẹ dần; cái tâm hồn tan nát, nhục nhã của tôi dâng lên càng lúc càng nhẹ nhàng mà càng mãnh liệt, trào ra, tôi là cả tâm hồn. Một sự êm dịu thiêng liêng toả ra từ mẹ tôi và từ sự thơ ngây đã trở lại trong tôi. Sau đó tôi ngửi thấy dưới mũi một mùi thật là trong trẻo tươi mát. Đó là một cây hoa lài có một nhánh bị chiếc dù mẹ tôi che khuất đã nở hoa và tuy không ai thấy được, nó vẫn toả hương thơm ngát. Ở tuốt trên cao các ngọn cây, chim hót thật lớn. Cao hơn nữa, giữa những đỉnh cây xanh, bầu trời xanh thẳm đến nỗi giống như một lối vào trời mà người ta có thể đi lên không bao giờ đến chỗ tận cùng. Tôi hôn mẹ tôi. Chưa bao giờ tôi tìm lại được sự dịu dàng của chiếc hôn đó. Mẹ lại đi ngày hôm sau và chuyến ra đi này còn ác độc hơn tất cả các chuyến ra đi trước nữa. Bây giờ đã một lần phạm tội, tôi cảm thấy dường như đồng thời với nguồn vui, chính sức mạnh và sự chống đỡ cần thiết đã bỏ tôi.

Tất cả những lần chia tay đó đã mặc nhiên dạy cho tôi biết cái gì không hàn gắn lại được một ngày kia sẽ đến, dù hồi đó thật tình tôi chưa hề nghĩ rằng tôi có thể sống lâu hơn mẹ tôi. Tôi quyết định tự vẫn liền sau khi mẹ chết. Sau này, sự vắng mặt đã đem lại cho tôi những hiểu biết cay đắng còn hơn khi người ta tập quen dần với sự vắng mặt, cảm thấy mình không đau đớn nữa về sự vắng mặt lại là một sự thu mình lớn lao nhất, và là nỗi đau đớn nhục nhã nhất. Vả lại những hiểu biết cay đắng trên hẳn phải được phủ nhận sau đó. Bây giờ tôi nghĩ lại nhiều nhất đến khu vườn nhỏ nơi tôi thường dùng điểm tâm với mẹ và là nơi có vô số hoa tử lan. Những hoa đó lúc nào tôi cũng thấy như hơi buồn, trang trọng như những bức biểu hoạ, nhưng lại dịu dàng và êm mịn, thường là màu tím hoa cà, đôi khi tím sẫm, gần như đen, với những hình tượng vàng yêu kiều và huyền bí, có một vài hoa trắng tinh và ngây thơ mỏng manh. Bây giờ trong kỷ niệm của tôi, tôi hái hết những hoa đó, những cánh hoa tử lan, nỗi buồn của hoa tăng lên vì được tôi thông cảm, sự êm ái mịn màng của nó mãi mãi biến mất.



II



Làm sao cả dòng nước kỷ niệm tươi mát kia lại có thể tuôn ra một lần nữa và chảy trong tâm hồn vẩn đục ngày hôm nay của tôi mà không hề bị vấy bẩn? Mùi thơm hoa lài ban mai kia huyền diệu đến thế nào mà khi lướt qua những làn hơi hôi hám lại không hề bị lẫn vào và nhạt đi? Than ôi! Tâm hồn mười bốn của tôi lại còn thức dậy vừa trong tôi, vừa thật xa tôi mà đồng thời cũng vừa ở ngoài tôi. Tôi biết rằng nó không còn là tâm hồn của tôi và việc nó trở lại thành tâm hồn tôi cũng không còn tuỳ thuộc ở tôi nữa. Tuy nhiên tôi không tin rằng một ngày kia tôi sẽ còn hối tiếc nó. Trước kia nó hoàn toàn trong sạch, tôi có bổn phận phải làm cho nó mạnh mẽ và trong tương lai đủ sức đảm đang những việc cao trọng hơn. Thường ở khu vườn Quên Lãng, sau khi ngồi với mẹ tôi trên bờ nước lóng lánh đầy ánh nắng và đầy cá, trong những giờ khắc ấm áp của ban ngày — hoặc đi dạo buổi sáng và buổi chiều với mẹ trên những cánh đồng — tôi vẫn mơ tràn đầy tin tưởng về cái tương lai không bao giờ được đẹp lắm với tình thương của mẹ tôi, với sự khao khát được làm đẹp lòng mẹ, và với những sức mạnh nếu không phải là của lòng cương nghị, ít ra cũng là của óc tưởng tượng và của thứ tình cảm đang xao xuyến trong tôi, đang ồn ào réo gọi số mệnh trong đó những sức mạnh kia sẽ kết tụ và đập liên hồi vào cửa tim tôi như để mở nó ra và để thoát ra khỏi người tôi, đi vào cuộc sống. Lúc đó, nếu tôi dùng hết sức mạnh để nhảy lên, nếu tôi hôn mẹ tôi ngàn lần, nếu tôi bỏ chạy xa về phía trước như một con chó con, hay nếu tôi ở lại tuốt đàng sau để hái những bông mồng gà và bông cúc xanh, tôi đem nó về và hét ầm lên, thì đó không phải là chính do thú vui được đi dạo hay thú vui được hái hoa, mà trước hết là vì được bộc lộ sự sung sướng cảm thấy trong tôi nguồn sống sẵn sàng tuôn ra, sẵn sàng lan rộng đến tận cùng, trong những viễn ảnh rộng rãi hơn ở chỗ cuối rừng liền chân trời mà tôi muốn đến tận nơi chỉ bằng một bước nhảy. Hỡi những bó hoa cúc xanh, hoa cánh chuồn, hoa mồng gà, nếu ta đem hoa về nồng nàn say sưa, với đôi mắt chan chứa, bồi hồi xúc động, nếu hoa làm ta khóc và cười được, chính vì ta đã kết hoa lại với tất cả những niềm hi vọng của dạo trước, mà bây giờ, cũng như hoa, đã khô cạn, đã chết đi, và chưa bao giờ nở ra như hoa, cũng đã trở về với cát bụi.

Điều làm cho mẹ tôi buồn phiền, chính là ở chỗ tôi thiếu ý chí. Việc gì tôi làm cũng tuỳ hứng tức thời. Nếu mỗi sự thúc đẩy đó vẫn còn do lý trí hay tình cảm thì đời sống tôi, không hoàn toàn tốt đẹp, nhưng thật tình cũng không phải là xấu lắm. Việc thực hiện tất cả những dự tính đẹp đẽ của tôi về việc làm, về sự yên tĩnh tâm hồn, và cư xử theo lý trí, làm bận tâm mẹ con chúng tôi trên hết, bởi vì chúng tôi cùng cảm thấy, ở mẹ tôi rất rõ rệt, và ở tôi hãy còn mơ hồ nhưng lại mạnh mẽ hơn, chúng tôi cảm thấy rằng mẹ tôi chỉ là hình ảnh phản chiếu vào cuộc đời tôi, hình ảnh phản chiếu sự sáng tạo do tôi và ở trong tôi, sáng tạo ra cái ý chí mà mẹ đã mang trong người và ấp ủ. Nhưng việc thực hiện đó tôi luôn luôn hoãn lại vào ngày hôm sau. Tôi cứ lần lữa mãi với thời gian, đôi khi tôi buồn thấy nó trôi qua, nhưng trước mặt tôi thời gian còn nhiều lắm! Tuy vậy tôi hơi thấy sợ, và tôi mơ hồ cảm thấy rằng thói quen không cần đến ý chí mỗi năm trôi qua lại bắt đầu đè nặng trên tôi một cách mạnh mẽ hơn, tôi lại buồn bã ngờ rằng sự vật không hề thay đổi đột ngột, và muốn biến đổi cuộc sống và tạo cho mình một ý chí tôi không nên trông đợi vào một phép lạ mà tôi khỏi tốn công để có được. Khao khát được có ý chí chưa đủ. Đúng ra tôi phải có cái mà nếu không có ý chí tôi không thể có được: đó là ý muốn.



III


Và cơn gió giận dữ của dục vọng
Làm thịt da kêu nghe như một lá cờ cũ.

(BAUDELAIRE)



Năm lên mười sáu tuổi, tôi đã trải qua một cơn khủng hoảng làm tôi đến phát bệnh. Để giúp tôi giải buồn, người ta tập cho tôi làm quen với đời. Những chàng thanh niên bắt đầu có thói quen đến thăm tôi. Một người trong đám họ thật xấu xa và dữ tợn. Hắn ta có những cung cách vừa dịu dàng vừa táo bạo. Chính hắn là người mà tôi say mê. Cha mẹ tôi biết được chuyện đó nhưng không làm gì đột ngột để tôi khỏi quá đau khổ. Bất cứ lúc nào không gặp hắn tôi cũng nghĩ đến hắn, rốt cuộc tôi phải đành hạ mình giống hắn đến tột độ. Hắn xúi giục tôi làm những chuyện bậy gần như không ngờ tới được rồi tập tôi quen thói nuôi mãi trong tôi những ý nghĩ xấu xa mà tôi không có đủ nghị lực để chống chỏi, nghị lực đó là cái quyền năng độc nhất có đủ sức đem những ý nghĩ kia trở về trong bóng tối ma quái từ đó chúng ta đã thoát ra. Khi tình yêu đã hết thì thói quen lại giành chỗ của nó và không thiếu gì bọn thanh niên vô luân nhảy vào khai thác nó. Là đồng loã của những tội lỗi của tôi, họ cũng tự làm những kẻ biện hộ cho những tội lỗi kia trước lương tâm tôi. Lúc ban đầu tôi ăn năn hối hận vô cùng, tôi thú tội mà không ai hiểu cả. Bạn bè tôi xúi tôi đừng đem nói nhiều với cha tôi. Dần dần họ đã thuyết phục tôi nghĩ rằng tất cả những thiếu nữ đều hành động như vậy và cha mẹ chỉ giả vờ như không hay biết. Những điều dối trá mà tôi không ngớt bị bắt buộc phải nói, óc tưởng tượng của tôi liền đem tô điểm bằng những vẻ bên ngoài của một sự im lặng đáng phải được giữ kín vì một sự cần thiết tất nhiên. Vào lúc đó, tôi không còn được sống sung sướng nữa; tôi vẫn mơ mộng, vẫn suy nghĩ, vẫn còn cảm xúc.

Để giải buồn và để xua đuổi tất cả những thèm muốn xấu xa kia, tôi bắt đầu tiếp xúc nhiều với xã hội. Những thú vui chóng phai đã tập cho tôi quen sống thường trực giữa đám bạn bè, và cùng với thú cô đơn, tôi mất luôn cả sự bí ẩn của những niềm vui cho đến bây giờ thiên nhiên và nghệ thuật vẫn đem lại cho tôi. Chưa bao giờ tôi hay đi nghe hoà nhạc nhiều như những năm đó. Mải lo lắng với ước muốn được người ta ngợi khen trong một phòng nghe nhạc trang nhã, chưa bao giờ tôi lại thưởng thức nhạc một cách ít sâu đậm như vậy. Tôi lắng nghe mà tôi chẳng nghe được gì cả. Nếu tình cờ tôi có nghe chăng, tôi lại không còn thấy được tất cả những gì mà âm nhạc bộc lộ ra. Những cuộc dạo chơi của tôi cũng dường như vô bổ. Những gì ngày xưa có thể đem lại cho tôi sung sướng suốt cả một ngày, như một ít mặt trời nhuộm vàng cây cỏ, hương thơm những lá cây toả ra cùng với những giọt mưa cuối cùng, bây giờ, cũng như tôi, đã mất đi cái vẻ dịu dàng và vui tươi của chúng. Những cánh rừng, bầu trời, sông nước dường như ngoảnh mặt với tôi, và nếu khi đối diện một mình với chúng, tôi lo lắng hỏi han chúng, chúng cũng không còn thì thầm những câu trả lời mơ hồ ngày xưa đã từng làm tôi sung sướng. Những vị thần khách lúc viếng thăm được báo trước bởi âm thanh của sông nước, của lá cây, của bầu trời, chỉ bỏ công tìm đến những con tim vốn khép kín đã trở thành trong suốt.

Chính khi đi tìm một phương thuốc trái ngược và cũng bởi vì tôi không có can đảm muốn được chuyện thật vốn ở rất gần, và than ôi! lại rất xa tôi, ngay trong tôi, chính khi đó tôi đã buông trôi trở lại theo những thú vui tội lỗi, tưởng rằng nhờ đó sẽ khơi lại ngọn lửa mà xã hội đã dập tắt. Nhưng vô ích. Sự thích thú được làm đẹp lòng người khác mãi bám theo tôi, ngày này qua ngày khác tôi cứ dời lại quyết định cuối cùng, sự chọn lựa, hành động thật sự tự chủ, chọn lựa sự cô đơn. Trong hai thói xấu đó tôi không khước từ thói xấu này để theo thói xấu kia. Tôi hoà lẫn chúng với nhau. Tôi bảo sao? Thói xấu này trong lúc lo phá vỡ những chướng ngại về tư tưởng, về tình cảm, những chướng ngại có thể làm ngưng thói xấu kia, lại cũng dường như kêu gọi thói xấu kia. Tôi bước vào xã hội để trấn tĩnh mình sau một lầm lỗi, và tôi lại phạm một lỗi lầm khác liền khi đã được trấn tĩnh. Chính vào cái lúc khủng khiếp đó, sau khi đã mất đi sự thơ ngây, và trước mối ăn năn của ngày hôm nay, chính vào cái lúc mà tôi ít xứng đáng nhất trong suốt cả đời tôi, thì tôi lại được mọi người thán phục nhất. Trước người ta cho rằng tôi là một cô gái tự phụ và điên cuồng; bây giờ, trái lại, óc tưởng tượng tàn lụi của tôi lại hợp thời và mọi người đều thấy thích. Trong lúc đối với mẹ tôi đã phạm một tội lớn nhất, thì do những lối đối xử dịu dàng cung kính của tôi đối với mẹ, người ta lại cho rằng tôi là cô con gái gương mẫu. Sau khi tôi tự giết chết tư tưởng của mình, người ta thán phục óc thông minh của tôi, người ta say mê tâm hồn tôi. Óc tưởng tượng khô cằn của tôi, lòng đa cảm cạn nguồn của tôi cũng đủ đáp lại sự thèm muốn của những kẻ khát khao nhất một đời sống tinh thần, khi mà sự thèm muốn đó chỉ là giả tạo và giả dối cũng giống như nguồn suối nơi mà họ tưởng sẽ giải khát được! Vả lại không ai nghi ngờ cái tội lỗi bí ẩn của đời tôi, và đối với mọi người dường như tôi là cô gái lý tưởng. Biết bao nhiêu bậc cha mẹ từng nói với mẹ tôi rằng nếu địa vị tôi thấp kém hơn và nếu họ dám nghĩ tới tôi, họ sẽ không muốn một người nào khác làm vợ con trai họ! Tuy vậy ở tận đáy lương tâm đang chết dần trong tôi, tôi cảm thấy trong những lời tán tụng không đáng đó một sự hỗ thẹn tuyệt vọng; sự hỗ thẹn đó không ngoi lên được, và tôi rơi xuống thấp đến nỗi tôi đã hèn hạ đem thuật lại những lời tán tụng kia với những kẻ đồng loã của những tội lỗi tôi.



IV


“Cho người nào đã mất những gì không bao giờ còn tìm lại được... không bao giờ!”
(BAUDELAIRE)



Mùa đông năm tôi hai mươi tuổi, sức khoẻ mẹ tôi, người vốn chưa bao giờ được mạnh, trở nên suy yếu. Tôi biết được là mẹ đau tim, tuy không nặng lắm, nhưng vẫn phải tránh cho mẹ mọi phiền muộn. Một người chú tôi bảo tôi rằng mẹ muốn tôi lập gia đình. Như vậy là tôi đã đứng trước một bổn phận rõ rệt, quan trọng. Tôi sẽ có thể chứng tỏ cho mẹ biết tôi yêu mẹ nhiều đến thế nào. Tôi nhận ngay lời cầu hôn đầu tiên mà mẹ chuyển lại và mẹ tán thành, và như vậy, vì không có đủ ý chí, tôi đã phó thác cho sự cần thiết bắt buộc tôi thay đổi đời sống. Vị hôn phu của tôi đúng là chàng thanh niên có thể có một ảnh hưởng tốt đẹp nhất đối với tôi nhờ óc thông minh tột độ, sự dịu dàng và nghị lực của chàng. Hơn nữa chàng quyết định đến ở chung với chúng tôi. Như vậy tôi sẽ không bị xa lìa mẹ, đối với tôi điều đó có thể là một mối khổ tâm ác độc nhất.

Lúc đó tôi mới can đảm thú nhận hết những lỗi lầm của tôi với người tôi xưng tội. Tôi hỏi ông có nên thú nhận như vậy với vị hôn phu của tôi không. Ông đã thương hại bảo tôi không nên, nhưng bắt tôi hứa là không bao giờ rơi vào lại những lỗi lầm cũ và rửa tội cho tôi. Những bông hoa muộn màng mà niềm vui làm nở ra trong trái tim bấy lâu tưởng như mãi mãi khô cằn của tôi đã kết tụ thành trái. Ân sủng của Chúa Trời, ân huệ của tuổi trẻ — tuổi mà người ta thấy có biết bao vết thương tự khép lại nhờ sức sống dồi dào — đã chữa tôi lành bệnh.

Nếu việc ta trở lại trong trắng khó khăn hơn là đã từng trong trắng, như thánh Augustin đã nói, thì dạo đó quả tôi đã có một đức hạnh hiếm có. Không ai ngờ rằng tôi đã khá lên hơn dạo trước vô cùng và mỗi ngày mẹ tôi hôn lên vầng trán tôi, mà lúc nào mẹ cũng vẫn tưởng trong sạch và không biết là nó vừa được hồi sinh. Hơn thế nữa dạo đó người ta còn trách tôi một cách oan uổng về thái độ lơ đễnh, về sự im lặng và vẻ ưu sầu của tôi giữa đám đông. Nhưng tôi không lấy làm giận về chuyện đó: niềm bí ẩn giữa tôi và lương tâm mãn nguyện của tôi cũng đủ làm cho tôi sung sướng lắm rồi. Thời kỳ tĩnh dưỡng của tâm hồn tôi — tâm hồn bây giờ không ngớt mỉm cười cùng tôi với một khuôn mặt giống như khuôn mặt của mẹ tôi và nhìn tôi với một vẻ trách móc dịu dàng qua làn nước mắt đang khô lại — thật vô cùng đẹp đẽ và vô cùng sầu muộn. Vâng, tâm hồn tôi lại hồi sinh. Chính tôi cũng không hiểu được làm sao tôi có thể bạc đãi nó, làm khổ nó, gần như giết chết nó. Và tôi biểu lộ lòng cảm tạ đối với Chúa đã kịp thời cứu rỗi nó.

Tôi đã thưởng thức sự hoà hợp giữa niềm vui sâu đậm và trong sạch đó với sự thanh quang tươi mát của bầu trời và chính cái đêm mà mọi việc đã hoàn tất. Sự vắng mặt của vị hôn phu tôi, qua ở hai ngày bên nhà bà chị, sự hiện diện trong bữa ăn tối của anh chàng có trách nhiệm lớn nhất về những tội lỗi đã qua của tôi, không hề gieo vào buổi tối tháng Năm trong sáng đó một mảy may buồn bã. Không có một đám mây nào trên trời phản chiếu thẳng vào lòng tôi. Vả lại, tựa như giữa mẹ và tâm hồn tôi vốn có một sự liên hợp huyền bí, dù mẹ hoàn toàn không hay biết về những tội lỗi của tôi, mẹ cũng gần như đã bình phục. “Cần phải giữ gìn trông nom bà trong mười lăm hôm nữa, bác sĩ đã bảo như vậy, và sau đó bệnh chắc chắn sẽ không thế nào tái phát!” Chỉ những lời đó thôi đối với tôi cũng là lời hứa hẹn một tương lai đầy hạnh phúc mà sự êm ái đã làm tôi oà khóc. Tối hôm đó mẹ tôi mặc một chiếc áo dài trang nhã hơn thường lệ, và, lần đầu tiên từ khi cha tôi mất, cũng đã lâu đến mười năm nay rồi, mẹ thêm một tí màu hoa cà vào chiếc áo đen thường ngày. Mẹ vô cùng thẹn thùng với lối ăn mặc giống như hồi còn trẻ, và vừa buồn vừa sung sướng vì đã đè nén nỗi khổ và che đậy cái tang của mẹ để làm tôi vui lòng và để ăn mừng ngày vui của tôi. Tôi cài lên ngực mẹ một cánh hoa cẩm chướng màu hồng mà thoạt đầu mẹ từ chối, rồi mẹ lại gắn vào, vì hoa đó tự tay tôi đem đến, bàn tay hơi do dự, thẹn thùng. Lúc người ta sắp vào bàn ăn, tôi ôm sát vào người khuôn mặt của mẹ về phía cửa sổ, khuôn mặt kín đáo tạm quên những nỗi khổ đã qua, và tôi hôn mẹ một cách say sưa. Tôi đã nhầm khi bảo rằng không bao giờ tôi còn tìm lại được sự êm dịu của cái hôn ở khu vườn Quên Lãng. Cái hôn buổi tối hôm đó cũng êm dịu như bất cứ một cái hôn nào. Hay đúng hơn đó cũng là cái hôn ở khu vườn Quên Lãng, được gợi lại do sức quyến rũ của một giây phút giống như xưa, cái hôn đã êm ái nhẹ lướt từ tận quá khứ xa mù để đến nằm giữa môi tôi và hai gò má hãy còn hơi xanh xao của mẹ.

Người ta nâng ly mừng cho lễ cưới sắp đến của tôi. Xưa nay tôi chỉ uống nước vì rượu thường gây kích thích quá mạnh cho thần kinh tôi. Chú tôi tuyên bố là vào một dịp như thế này, tôi có thể làm trái với lệ thường. Bây giờ tôi còn thấy lại rõ khuôn mặt vui vẻ của chú khi nói lên những lời ngu xuẩn đó... Chúa ơi! Chúa ơi! tôi đã thú tội hết một cách thật trầm tĩnh, liệu tôi có bị bắt buộc dừng lại ở đây không? Tôi không còn thấy gì nữa! Có chứ... chú tôi bảo rằng trong một dịp như thế này tôi có thể làm trái với lệ thường. Chú nhìn tôi vừa cười vừa nói như vậy, tôi uống nhanh trước khi nhìn mẹ vì sợ mẹ cấm đoán tôi. Mẹ dịu dàng bảo: “Ta không nên dành một chỗ nào cho điều xấu, dù nó có nhỏ đến mấy chăng nữa.” Nhưng rượu Champagne mát đến nỗi tôi uống thêm hai cốc nữa. Đầu tôi trở nên nặng trĩu, tôi cảm thấy cần nghỉ ngơi đồng thời tôi cũng thấy cần cho phung phí gân cốt. Quan khách rời khỏi bàn ăn: Jacques đến gần tôi và nhìn chòng chọc vào tôi, hắn bảo:

— Mời cô đi theo tôi; tôi muốn cho cô xem những câu thơ của tôi.

Đôi mắt đẹp của hắn dịu dàng chiếu sáng trên đôi gò má tươi mát, hắn lấy tay chậm rãi vuốt râu mép lên. Tôi hiểu ngay là tôi đã sa ngã và tôi không còn nghị lực để cưỡng lại nữa. Tôi run run nói:

— Vâng, tôi sẽ rất vui lòng.

Chính trong lúc thốt ra những lời đó, có thể là trước lúc đó nữa, trong lúc uống ly rượu Champagne thứ nhì, tôi đã làm một hành động thật sự có trách nhiệm, hành động đáng ghét. Sau đó tôi chỉ còn biết buông trôi. Chúng tôi đã khoá trái hai cánh cửa lại, và, với hơi thở trên má tôi, hắn siết chặt lấy tôi, hai bàn tay hắn lục lạo khắp người tôi. Rồi trong lúc sự khoái lạc càng lúc càng xâm chiếm tôi, tôi cảm thấy thức dậy tận đáy lòng tôi một nỗi buồn và chán vô tận; tôi thấy dường như tôi đã làm cho linh hồn mẹ tôi khóc, linh hồn vị thần hộ mạng của tôi, linh hồn Chúa. Tôi chưa bao giờ có thể đọc mà không rùng mình ghê tởm câu chuyện về những cực hình mà những tên nham hiểm độc ác bắt thú vật, và chính vợ con của chúng phải chịu đựng; bây giờ tôi mơ hồ thấy như là trong mọi hành động khoái lạc và tội lỗi, có bao nhiêu sự tàn bạo về phía thể xác được thụ hưởng, và trong chúng ta có bao nhiêu ý định tốt, thì sẽ có bấy nhiêu vị thiên thần trong sạch chịu khổ nhục và rơi lệ.

Chẳng bao lâu các ông chú tôi sẽ đánh xong ván bài và sắp trở lại. Chúng tôi sẽ đến trước họ, tôi sẽ không sa ngã nữa, đây là lần cuối cùng... Thế rồi, trên lò sưởi, tôi nhìn thấy tôi trong tấm kính. Cả niềm lo âu mơ hồ đó của tâm hồn tôi không được vẽ ra trên khuôn mặt của tôi, nhưng từ đôi mắt sáng long lanh đến đôi gò má nóng bừng và làn môi sẵn sàng dâng hiến, cả khuôn mặt đó phát hiện một niềm vui nhục dục, ngu xuẩn và tàn bạo. Rồi tôi nghĩ đến sự kinh tởm của bất cứ người nào lúc nãy đã có thấy tôi ôm hôn mẹ tôi một cách buồn bã âu yếm, bây giờ lại thấy tôi biến hình thành thú vật như thế này. Nhưng liền lúc đó trong mặt kính đôi môi của Jacques hiện ra sát khuôn mặt tôi, với vẻ thèm thuồng dưới bộ râu mép. Rối loạn đến cùng cực, tôi áp đầu sát vào đầu hắn, ngay khi đó tôi thấy trước mặt tôi, vâng, bây giờ tôi kể lại đúng như việc đã xảy ra, xin hãy nghe tôi vì tôi có thể nói chuyện này ra được, tôi thấy trước mặt tôi, trên bao lơn, trước cửa sổ, mẹ tôi đang nhìn tôi ngây dại. Tôi không biết mẹ có la lên không, tôi chẳng nghe gì cả, nhưng mẹ đã té ngửa ra sau và đầu kẹt giữa hai thanh sắt của bao lơn...

Đây không phải là lần cuối cùng tôi kể chuyện này: như tôi đã nói, tôi gần như đã không chết được khi tự sát, dù tôi đã nhắm kỹ, nhưng tôi đã bắn trật. Tuy nhiên người ta đã không làm sao lấy được viên đạn ra và những biến chứng ở tim đã bắt đầu. Có điều là tôi vẫn có thể ở trong tình trạng đó trong tám ngày nữa và cho đến lúc đó tôi sẽ không thể ngưng lý luận về những lúc bắt đầu và nhìn thấy hồi kết cuộc. Tôi thích mẹ thấy được tôi phạm nhiều tội khác nữa và luôn cả tội trên, nhưng tôi lại thích mẹ đừng thấy cái nét vui vẻ của khuôn mặt tôi trong gương lúc đó. Không, mẹ không thể thấy nét mặt đó được... Chỉ là một sự ngẫu hợp... mẹ đã bị ngất xỉu luôn một phút trước khi trông thấy tôi... Mẹ đã không thấy nét mặt đó... Không thể có chuyện đó được! Chúa là đấng thấu hiểu hết mọi việc chắc hẳn sẽ không muốn như vậy đâu.


-----------------
“Lời thú tội của một thiếu nữ” (đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn số 85 ở Saigon, 1967, số đặc biệt về Marcel Proust) được dịch từ nguyên tác “La confession d’une jeune fille” trong Marcel Proust, Les Plaisirs et les Jours (Paris: La Nouvelle Revue Française, 1924).

AI ĐÁNH THỨC VÀO ĐÊM


Hà Nhữ Uyên





Dụi đầu vào săm soi miền ký ức
chân đau tê hồn lỡ trượt thềm rêu
tôi hòn đá đã rơi tòm xuống vực
cúi hôn lên bóng lật sấp hiên chiều.

Em bứt đứt ngọn tình tôi tơi tả
sót cành khô cô độc trái tương tư
ai kim chỉ cho tôi về may vá
manh áo tình treo rách nửa đời hư.

Buồn lì lợm cứ dây dưa lẽo đẽo
tự vuốt ve đâu vớt vát được gì
tôi ray đời nằm mỏi mê hoen rỉ
chuyến tàu em còi rúc tiếng chia ly.

Giấu hờ hững giữa chăn xô gối lệch
dấu em xưa tóc trải lụa nhung mềm
trên võng đời đưa lời ru bạc thếch
hứng hạt mưa ai đánh thức vào đêm.

muôn thuở

 hà duy phương





em - người đàn bà đắng
vành môi vắng lặng ngọt ngào
từ độ hôn mê
trái cấm địa đàng chín mọng
trong mắt em đỏ khảm nỗi-vội-vàng
nơi hoang mang anh vừa kịp lớn



muôn thuở
( riêng K )



đến đây cùng anh
ta đi ngược cơn say
về lại nơi chưa bao giờ có những phiền muộn

em - người đàn bà lắng cặn
trong veo
tựa giọt sương đau cựa mình trên răng lá

đến đây cùng anh
mùa sương mới
ngày rung lá cỏ
ta yêu như cơn say
chưa chớm đục bao giờ

em - người đàn bà đắng
vành môi vắng lặng ngọt ngào
từ độ hôn mê
trái cấm địa đàng chín mọng
trong mắt em đỏ khảm nỗi-vội-vàng
nơi hoang mang anh vừa kịp lớn

anh đã qua bao miền đất lạ
không nơi nào đẹp bằng trái tim em
có bờ gió ướt

cho Thơ men chải mượt mà
tóc nắng mắc võng ru nhau

em - người đàn bà lắng cặn
vành môi vắng lặng ngọt ngào
đến đây cùng anh hỡi người đàn bà đắng
muôn thuở cơn say chưa thôi rời rã
muôn thuở cơn yêu bao giờ cũng lạ
muôn thuở ta yêu

tựa giọt sương đau cựa mình trên răng lá

Hà Duy Phương

Nhà báo Thu Uyên lên tiếng bảo vệ "Như chưa hề có cuộc chia ly..."





Hôm nay, trên website chính thức của chương trình "Như chưa hề có cuộc chia ly...", nhà báo Thu Uyên đã lên tiếng phản bác các thông tin chỉ trích cho rằng chương trình đã ngụy tạo để lừa khán giả.

Còn đúng 3 ngày nữa là Chương trình NHƯ CHƯA HỀ CÓ CUỘC CHIA LY (NCHCCCL) tròn 6 năm hoạt động. 397 cuộc đoàn tụ, trên 600 cuộc tìm ra, trên 70.000 thông tin đăng ký tìm người thân. Rất tiếc, vào thời điểm như thế này, chúng tôi phải đối mặt với những lời chỉ trích ác ý và nhiều lời vu khống. Những lời chỉ trích xuất phát từ các bài viết của luật sư Trần Đình Triển trên trang facebook cá nhân và trên trang điện tử Soha.vn của Vina Corp,. Hai vụ việc được mổ xẻ và cho là NCHCCCL đã ngụy tạo để đánh lừa khán giả, liên quan đến 2 cuộc đoàn tụ của NCHCCCL số 3 và NCHCCCL số 11. Xin nêu từng việc một.

Một trong 2 vụ việc được nhắc đến, là “MS23 – Nguyễn Hữu Thành tìm mẹ Lê Thị Út”. Một cuộc đoàn tụ đã được tổ chức trong Gala NCHCCCL số 3, phát sóng trực tiếp ngày 2/2/2008. (Tham khảo tại http://haylentieng.vn/tvshow/nchcccl-so-3/)

Trong bài viết ngày 22/11/2013 của luật sư Trần Đình Triển, việc này được diễn tả như sau:

“Tóm lược nội dung là: 1 người phụ nữ trong chiến tranh yêu thương 1 đồng đội nhưng vì công tác bí mật không thể công khai được. Sau này người đồng đội đó đã hi sinh. Chị phụ nữ đó có thai, khi sinh nở phải trốn về nhà chị gái, do yêu cầu công tác bí mật nên phải nhờ chị gái gửi con vào Cô nhi viện. Sau năm 1975 hình ảnh về người yêu và người con luôn hiện về trong chị. Dài theo năm tháng chị cũng phải tìm 1 tổ ấm cho mình. Chị lấy chồng, sinh được 5 người con.

Khi nhân viên của chị Thu Uyên đến gặp để tìm giúp chị người con bị thất lạc bao năm nay. Mặc dù tuổi đã cao, bàn tay chai sạn, nhăn nheo hết, móng tay xỉn vàng do bùn đất bám lâu ngày nhưng chị vẫn đồng ý cho họ cắt móng tay và nhổ tóc mình để giám định ADN với người con đang thất lạc cũng đang nhờ chương trình của chị Thu Uyên tìm mẹ. Đối chiếu thông tin, 1 số nhân viên can ngăn chị Thu Uyên chưa nên phát sóng vì có 1 số dấu hiệu nghi ngờ không phải là mẹ con, cần giám định ADN để đảm bảo chắc chắn. Nhưng chị Thu Uyên vẫn tổ chức thực hiện phóng sự, chương trình đó hàng triệu người theo dõi đã khóc, chị Thu Uyên cũng khóc mặc dù giám định ADN cho kết quả là không phải mẹ con (xin gửi bản giám định AND kèm theo dưới bài viết). Hiện tại người mẹ tìm con thật chưa tìm được, người con tìm mẹ đẻ ra mình cũng chưa tìm được. Chị Thu Uyên đã tạo dựng lên 1 quan hệ mẹ – con, còn gì đau lòng hơn? Nhưng đến nay VTV không dám nói lên sự thật đó và chị Thu Uyên không dám nhìn thẳng vào sự thật về sự việc đó.

Thực chất, câu chuyện là: Anh Nguyễn Hữu Thành, được cho Cô nhi viện từ lúc sơ sinh, gửi đơn nhờ NCHCCCL tìm mẹ (chứ không phải người mẹ đăng ký tìm con). Anh chỉ có 2 tờ giấy mà anh nhận được từ Cô nhi viện, trong đó nhiều thông tin nhất là Tờ ủy thác Cô nhi có ghi tên người mẹ Lê Thị Út, sinh năm 1949, ngụ tại An Hữu, quận Giáo Đức, tỉnh Định Tường; có chữ ký người làm chứng là “Lê Văn Được”.



Chúng tôi đã cử 4 đội tìm kiếm tiến hành 5 chuyến công tác tại Tiền Giang và Đồng Tháp. Cuộc tìm kiếm bắt đầu từ khi Chương trình NCHCCCL còn chưa lên sóng và kéo dài hơn 4 tháng liên tục. Đây là hồ sơ thứ 8 được “đóng” đối với Đội Tìm kiếm thuộc Công ty Truyền thông Sài Gòn Buổi Sáng (SGBS) – đối tác sản xuất của VTV trong Chương trình này. Địa bàn tập trung tìm kiếm là An Hữu, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Quá trình tìm kiếm được kể sơ qua trong Chương trình trực tiếp và được ghi lại trong hồ sơ lưu MS23. Tìm theo tổ hợp tên “Lê Thị Út – Lê Văn Được” không ra. Tìm theo tra cứu tên của những bà Lê Thị Út sinh năm 1949 cũng không ra. Cuối cùng, Đội viên Tìm kiếm Lý Trung Dũng nhận được thông tin mách bảo từ Công an xã Thiện Trung, cho biết trong Ấp, có một gia đình có hoàn cảnh phải cho con đi đúng như vậy, nhưng không thể khai tên thật, mà phải mượn tên của người hàng xóm là Lê Thị Út, vì người mẹ lúc đó là du kích. Như vậy, thông tin khai trên Tờ Ủy thác có thể không chính xác. Kết hợp với việc trước đó nhờ tra cứu số căn cước của người mẹ được ghi trên giấy cũng không ra kết quả nào, chúng tôi đã khẳng định: Thông tin trên Tờ Ủy thác là thông tin giả. Gia đình, người mẹ, người dì, người hàng xóm Lê Thị Út đều khẳng định thời điểm, địa điểm cho con đi trùng khớp với hồ sơ tìm kiếm.




Đây là trường hợp một bên khớp thông tin hoàn toàn, một bên lại không có một chút trí nhớ nào (vì chia ly từ lúc sơ sinh). Những trường hợp như vậy hiện nay, NCHCCCL phải nhờ xét nghiệm ADN mới quyết định. Nhưng, vào đầu năm 2008, NCHCCCL vừa hoạt động được vài tháng, chưa hề có sự hợp tác giúp đỡ từ Trung tâm Phân tích ADN và Công nghệ Di truyền (TT ADN), nên chúng tôi tin vào sự trùng hợp hiếm có giữa hoàn cảnh của anh Thành với người mẹ du kích. Do đó, một cuộc đoàn tụ được tổ chức, trong sự xúc động chân thành của những người trong cuộc, ekip thực hiện, cũng như khán giả truyền hình.

Đầu năm 2010, Chương trình nhận được lời đề nghị hỗ trợ từ TT ADN của bà Nguyễn Thị Nga. Kể từ đó, mọi trường hợp người đăng tìm hoặc và người được tìm ra không có hoặc không đủ trí nhớ để so sánh và khớp nối, NCHCCCL đều nhờ TT ADN giám định để xác định quan hệ huyết thống chính xác tuyệt đối.

Quay trở lại trường hợp anh Nguyễn Hữu Thành – bà Nguyệt, họ vẫn coi nhau là mẹ con gắn bó. Tuy nhiên, sau 3 năm, anh Thành có cảm giác chưa thật mật thiết, nên anh nói riêng với NCHCCCL, rằng anh muốn được xét nghiệm ADN cho hoàn toàn yên tâm. Thực tế là anh đã bí mật lấy tóc và móng tay vừa cắt của mẹ Nguyệt, để gửi cùng với phiến mẫu máu của anh, chuyển qua NCHCCCL tới TT ADN. Chương trình thấy có nghĩa vụ phải làm việc này cùng với anh. Chúng tôi chấp nhận kết quả có thể cho thấy chúng tôi đã tìm không chính xác, miễn là người trong cuộc như anh Thành được yên tâm.

Bản kết quả ADN mà ông Triển đưa trên website đúng là do TT ADN của bà Nguyễn Thị Nga cung cấp về trường hợp anh Nguyễn Hữu Thành và bà Nguyễn Thị Nguyệt. Ngày ký: 24/5/2011, tức là 3 năm 3 tháng sau cuộc đoàn tụ. Tuy nhiên, bài viết của ông Triển đã buộc tội chúng tôi đã tổ chức thực hiện chương trình “mặc dù giám định ADN cho kết quả là không phải mẹ con”, và “Chị Thu Uyên đã tạo dựng lên 1 quan hệ mẹ – con”, “mẹ giả – con giả”….




Từ khi nhận kết quả, NCHCCCL coi vụ việc sai lầm này là bài học xương máu. Cùng với vụ “Võ Văn Phước” sau đó, là 2 vụ việc nghiêm trọng mà chúng tôi luôn nhắc lại trong ekip thực hiện, đặc biệt trước những bạn trẻ sau này mới tham gia và không biết về những vụ đó, để tự răn nhau, để không bao giờ xảy ra những việc tương tự. Nhận được kết quả, chúng tôi đã chân thành xin lỗi anh Thành, và được anh thông cảm, tiếp tục nhờ NCHCCCL đi tìm mẹ đẻ cho anh, và anh bảo anh chưa muốn cho mẹ Nguyệt biết. Cho đến khi LS Triển đăng bài về trường hợp của anh với dụng ý bôi nhọ NCHCCCL, anh Thành đã bức xúc và đã trực tiếp nói lên ý kiến của mình (Mời bạn đọc xem videoclip sau vài tiếng nữa).

LS Trần Đình Triển có thể đổ lỗi cho “người giấu mặt” cung cấp thông tin cho ông, về những buộc tội sai trái trong bài viết. Nhưng, ông Triển sẽ giải thích thế nào về thông tin mà anh Thành vừa nói trong videoclip?




Đây mới là vấn đề: Vào lúc 09h50 sáng ngày 21/11/2013, anh Thành nhận được 1 cuộc điện thoại từ số thuê bao 0914449999(còn lưu trong máy). Một giọng nam tiếng Bắc xưng là người của VIETTEL hỏi thông tin để “báo cáo tổng kết Chương trình”. Người này hỏi anh Thành đã được đoàn tụ trong số mấy, tháng nào, năm nào. Anh Thành trả lời: Số 3, tháng 2/2009.

Theo xác minh của chúng tôi, số điện thoại 0914449999 là số doVăn phòng Luật sư Vì Dân, địa chỉ 28 ngõ 81 Đặng Văn Ngữ, Hà Nội. Theo văn bản chính thức của Văn phòng này, tạihttp://luatvidan.vn/index.php?f=news&do=print&id=549, số điện thoại trên được LS Trần Đình Triển sử dụng.

Thế có nghĩa là, trước khi tung bài trên facebook cá nhân (vào ngày 22/11/2013), ông Triển đã thăm dò và nắm rõ thời điểm anh Thành gặp bà Nguyệt diễn ra 3 năm 3 tháng trước khi có xét nghiệm ADN. Như vậy, có thể kết luận, LS Trần Đình Triển đã cố tình vu khống nhà báo Thu Uyên và Chương trình NCHCCCL.

Ngoài nội dung trên, bài viết của ông Triển còn chứa thông tin vu khống khác nữa: Một gia đình ở Củ Chi tìm 1 người thân thất lạc từ năm 1975 mà Sài Gòn Buổi sáng có đầy đủ thông tin, nhưng một người Công ty đòi 30 triệu mới cấp cho. Họ đành lòng đi về và rất may nhờ 1 người đã cung cấp được thông tin và đầu năm 2013 gia đình họ đã đoàn tụ”. Chúng tôi đã làm việc với Luật sư để khởi kiện về những sự vu cáo này.

Chương trình NCHCCCL do VTV hợp tác với SGBS sản xuất, mà trong đó, việc tìm kiếm và xử lý thông tin do SGBS đảm nhận, vì VTV không có chức năng tổ chức tìm kiếm. Nội dung thông tin người đăng ký gửi đến cho NCHCCCL được bảo mật chặt chẽ, và chỉ cung cấp khi chúng tôi đã xác minh đúng người đúng việc. NCHCCCL là chương trình nhân đạo, tuyệt đối không thu một đồng phí nào của bất cứ ai đăng ký, nhờ tìm người thân. Khi tìm ra, cả bên tìm lẫn bên được tìm cũng tuyệt đối không phải trả bất cứ một khoản phí nào. Thành viên của ekip thực hiện NCHCCCL không nhận tiền, nhận quà của nhân vật được đoàn tụ và của những người đăng ký. NCHCCCL còn tổ chức đưa đón, lo nơi ăn chỗ ở cho những người đến tham dự Chương trình, và kêu gọi hỗ trợ trực tiếp – tự trao cho nhân vật có hoàn cảnh khó khăn. Chương trình hoạt động 6 năm, với hơn 70.000 yêu cầu tìm kiếm, hơn 600 cuộc tìm ra, tuyệt đối không để xảy ra tiêu cực, phàn nàn.

Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin về trường hợp “Võ Văn Phước”.

Đỗ Minh Hoàng
Tổng Giám đốc Công ty Truyền thông Sài Gòn Buổi Sáng
Đội trưởng Đội Tìm kiếm


Nhà báo Thu Uyên:

Khi những bài viết có dụng ý bôi nhọ được đưa lên trên facebook cá nhân, một số khán giả vốn rất yêu quý Chương trình đã gọi điện, đề nghị chúng tôi giải thích. Một số bạn bè tỏ ra mất lòng tin. Nghe nói rất nhiều comment trên những trang mạng cá nhân phỉ nhổ tôi. Nếu là chuyện cá nhân, tôi không quan tâm. Nhưng đây là về VTV và NCHCCCL, là nơi mà đông đảo khán giả đã đặt niềm tin về những điều tốt đẹp và nhân nghĩa. Tôi xin trả lời trên website chính thức của NCHCCCL, và không thấy rằng cần phải đưa lên Chương trình hay báo chí chính thống để trả lời cho nhưng thông tin trên facebook hoặc các trang mạng không chính thức khác.Tôi biết vì sao LS Trần Đình Triển nhằm vào tôi ở thời điểm này. Ông Triển có những thân chủ cần đến việc hạ uy tín của tôi, để cản trở tôi và những đồng đội của tôi trong cuộc đấu tranh chống lừa đảo đội lốt tâm linh? Tôi cũng biết rõ ông Triển sẽ định bôi nhọ tôi bằng cách gì nữa, với kiểu vu khống và chọc ngoáy dư luận như ông Triển đã làm. Ông cứ làm. Những người vững tin vào chúng tôi thì vẫn ở đó bên cạnh chúng tôi, và dư luận cũng sẽ tự lựa chọn. Dù là được ủng hộ nhiều hơn hay ít hơn, chúng tôi vẫn nhất định phải làm tiếp những điều đã làm: chặn tay những kẻ lừa đảo thân nhân liệt sĩ, và trên nữa, được cùng mọi người trong xã hội ta tham gia khôi phục lại chữ tâm linh đúng nghĩa, thờ cúng mẹ cha ông bà tổ tiên, thờ những anh hùng liệt sĩ và những người thầm lặng đã mang lại cho chúng ta đất nước này, hòa bình này.

Đọc lại những trang hồ sơ, xem lại những chương trình của gần 6 năm về trước, tôi thấy có khờ dại, vụng về. Nhưng cũng thấy cái tâm của từng người trong cuộc. Tôi sẽ xin phép người đăng ký để được phép đưa một hồ sơ lên website, để khán giả biết chúng tôi đã tìm kiếm như thế nào, đã để bao nhiêu sự chân thành của mình vào những cuộc tìm kiếm và suy luận nhằm cho một người tìm được người thân. Ai nghi ngờ những giọt nước mắt của NCHCCCL là giả dối, ai nghi ngờ những giây phút đoàn tụ trên trường quay là ngụy tạo, thì chúng tôi chỉ biết tiếc cho người đó mà thôi.

Tôi nghĩ rằng sẽ có người thắc mắc, vì sao khi biết nhầm lẫn, chúng tôi lại không xin lỗi. Xin phép thưa rằng, trong cả 2 trường hợp sai (MS23 – Nguyễn Hữu Thành và MS74 – Võ Văn Phước), chúng tôi đều lập tức báo cáo với người trong cuộc, và khắc phục hậu quả ngay. Cả 2 trường hợp, chúng tôi tìm ra sự thật đều sau sau hơn 2 năm. Còn có ân hận, hối tiếc hay không? Vô cùng. Nếu không biết ân hận, có lẽ với bể thông tin như chúng tôi đang xử lý, đã xảy ra vô cùng nhiều sai lầm không kiểm soát nổi. Nếu không ân hận, can cớ gì chúng tôi phải thường nhắc đi nhắc lại 2 trường hợp này trong các cuộc họp, khi cần nhắc nhở mỗi thành viên của ekip NCHCCCL nhiệt tình nhưng thận trọng, cảm động nhưng tỉnh táo khi xử lý những phần việc được giao liên quan đến kết nối người thất lạc.

Dù sao, có 1 đợt tấn công như thế này cũng hay. Chúng tôi lần nữa xem lại mình, xốc lại tinh thần, và bắt đầu những cuộc tìm kiếm mới và những việc thật cụ thể để mang lại chút ít gì tốt đẹp cho những gia đình có công và cho những người chịu cảnh chia ly.

Nhà báo Thu Uyên – VTV
Phụ trách Chương trình Như chưa hề có cuộc chia ly và Trở về từ ký ức
Nguồn: Hãy lên tiếng (Bản quyền thuộc chương trình Như chưa hề có cuộc chia ly...)
* Tiêu đề bài viết do Infonet đặt (tiêu đề cũ: “Như chưa hề có cuộc chia ly…” không bao giờ lừa dối khán giả và những người bị chia ly)

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013

BUỒN SO LE






trần thiên thị


bó đũa ngày mẹ mua về
tinh tươm
đều đặn
không biết chúng đã đi bao chặng xa gần
mà bây giờ
đứa dài đứa ngắn
so mãi vẫn chưa tìm ra đôi ra cặp

bao nhiêu năm đồng hành
buồn vui
cay đằng
chưa khỏi ưu tư một lẽ ngắn dài

biết vậy em chọn đi với tôi
trông chờ một ngày
cuối con đường có khi tôi trẻ lại
để khỏi bận lòng
rằng chú
rằng anh

người ta nói
cầm đôi đũa so le
thì một đời chậm lụt
ơn trời
em chẳng so đo
chìa cho tôi bàn tay đêm trước








CÚC VÀNG



Nguyễn Xuân Thiệp





Trên đường xa xứ, đôi khi tôi gặp những bông cúc vàng, và chợt thấy lại hình ảnh cô bé bán bánh khúc ngày nào.

Cô bé ngồi dưới mái hiên phố chợ, chỗ con đường dẫn ra bãi sông. Cô hãy còn rất trẻ, tôi đoán chừng trên dưới hai mươi. Gầy, xanh trong tấm áo bạc màu, chỉ có đôi má ửng hồng. Cô hay cười, đôi mắt có đuôi. Đôi mắt sắc, như trong ca dao, của những cô gái ven sông Hồng. Cô vào ở vùng này, không hộ khẩu, mới được hơn năm. Miền Nam, như cô nói, dù sao cũng còn có cái để ăn.

Sáng nào tôi cũng ghé qua phố chợ, chỗ cô bé bán bánh khúc. Chợ hãy còn thưa người, song cô bé đã có mặt ở đó tự bao giờ, cùng với con em cũng gầy ốm như chị. Cô ngồi, với nụ cười, và chõ bánh bốc hơi nghi ngút. Thường tôi mua hai trăm đồng. Hai trăm đồng bánh khúc chẳng thể no đến trưa, nhưng cũng đủ ấm lòng buổi sớm mai se lạnh.

Bánh khúc, người miền Nam gọi là xôi cúc, là món quà ở các phố chợ nghèo. Có điều đáng nói là bánh khúc của cô bé lúc nào cũng nóng, thơm và dẻo. Bao giờ cũng vậy, cô lấy cho tôi hai miếng bánh khúc lẫn với nhiều hạt đậu màu vàng, thêm một ít xôi vét quanh chõ. Tất cả được gói trong lá chuối xanh. Cô bé cười, nói đặc giọng miền Bắc: Cháu mua toàn gạo nếp ngon. Đậu, mỡ, cái gì cũng đắt. Lời lãi vì vậy chẳng được bao nhiêu. Quê cháu nghèo lắm, chú ơi. Mùa đông, rét và đói thắt ruột. Mùa hè, nắng cháy da.ï Bố cháu đi B rồi mất tích. Mẹ cháu và chị em cháu làm lụng quanh năm dưới đồng sâu không đủ ăn. Năm mười tám, cháu lấy chồng, thương binh về vườn. Hai vợ chồng, thêm một em gái, dắt díu nhau vào Nam, bỏ lại ven sông một mẹ già và thằng em trai nhỏ. Chồng cháu hiện giờ không đi đâu được, ở nhà chăm sóc luống rau và mấy con gà. Cháu ngày ngày ngồi bán bánh khúc ở chợ này, giật gấu vá vai vừa đủ mấy miệng ăn. Lại còn phải lo giỗ, tết và mua manh quần tấm áo gửi về.

Tôi nhìn cô bé, nghĩ đến anh chồng thương binh của cô. Giữa tôi và họ thật sự có đường ranh nào không trong cái khổ vô cùng tận của đất nước. Chiến tranh đã qua hơn mười năm, những vết thương vẫn không lành miệng.

Một sáng, ghé mua bánh khúc như thường lệ, tôi bỗng gặp một niềm vui nhỏ: cô bé đang mặc một chiếc áo len mỏng màu vàng hoa cúc. Cô đẹp rực rỡ trong nắng mùa đông. Thấy tôi cười, cô bé cho biết: Cô mua trả góp ở chợ, mỗi ngày trả một nghìn đồng. Nhưng có hôm không đủ tiền trả, chủ đòi lấy áo lại. Vì vậy, cô tính sẽ giao chõ bánh cho đứa em gái ngồi bán, còn cô theo người trong xóm đi bắt tôm cá ở mương rạch kiếm thêm tiền. Đi từ đầu hôm tới sáng. Cô nói thêm: Vả lại gần tết rồi, chú ạ, cháu cần tiền gửi về cho mẹ và em.

Mấy hôm, trời bỗng dưng trở lạnh khác thường. Đêm, gió nổi lên từ sông, vật vã trong những khóm dừa nước và hàng cây bên đường, chui vào bên trong liếp cửa. Hơi lạnh tỏa khắp nhà, bắt đầu thấm vào đồ vật. Lạnh qua manh chiếu sờn, tấm áo mỏng. Da, tóc đều thấm lạnh. Đêm, thức giấc, gửi vào âm vang của gió vài tiếng ho khan. Mặc thêm áo, đốt điếu thuốc, ngồi nghe gió. Tôi nghĩ đến cô gái lội bì bõm trong bùn nước mương lạch. Trời lạnh thế này...

Bẵng đi một hai tuần, tôi phải đi xa, không ghé mua bánh khúc. Cho tới một buổi sáng, tôi đạp xe ngang qua góc phố chợ, không thấy cô gái bán bánh khúc như mọi hôm. Một mình đứa em gái nhỏ ngồi bên chõ bánh. Nó mặc chiếc áo vàng của chị, đầu chít chiếc khăn trắng. Thấy tôi, mắt nó đỏ hoe, hai giọt nước long lanh. Chị cháu... Tôi im lặng, không hỏi thêm.

Ở một nơi nào đó, tôi ước mong cô bé được mặc chiếc áo màu vàng của đồng hoa cúc dạị.

Ðóa Marguerite Của Anh



Đi Tìm Tác Giả Một Bài Thơ
Nhóm phụ trách trang Thơ Tình Nam 1975, Nguyễn Kim Anh chuyển cho Nguyễn Thị Lệ-Liễu một bài thơ hay. Nhưng chịu. Không biết tên tác giả là ai! Gió O cho đăng bài thơ Ðóa Marguerite Của Anh ** lên với hy vọng nếu tác giả hay độc giả nào biết tung tích của bài thơ này, mong cho biết. Đa tạ.

nếu còn một chút buồn nào đó
thì chính là đôi mắt em
hôm qua trời đã mưa phủ mờ một phần buổi sáng
phủ mất con đường và những hàng cây tội tình
em còn đó không đóa marguerite của anh
bởi chưng anh còn nhớ
ngón tay em là những hàng bạch lạp thắp sáng trong thành phố này
tháng năm và những ngọn lá không bao giờ còn tìm thấy
đã nghỉ ngơi đã khóc vùi
đã đến đã đi với một nỗi chết màu gạch ngói

em không bao giờ như bao giờ đã gọi
cũng như con còng bơ vơ trên cát không bao giờ như bao giờ đã biết
lúc ta mở đôi quyển vở bất ngờ
còn thấy anh thấy em và những đường dọc đường ngang của thành phố
đang đi đang thở và đang hôn nhau rất vội

như thế phải không em
lúc ta se những sợi tóc kết thành từng đôi một
tưởng tượng đến những người yêu nhau trong thành phố này
tưởng tượng đến những người xa nhau trong thành phố này
con đường và những hàng cây
con đường và những cơn mưa nhỏ
đưa nhau đi đưa nhau về và hôn nhau vùi dập

em còn đó không đóa marguerite của anh
và những chủ nhật
cánh tay thơm cùng mắt nhìn chết đuối
không bao giờ như bao giờ đã có
không bao giờ như bao giờ sẽ còn
ngày đang vỡ dần từng hạt nắng cũ
viên sỏi nâu khóc chết trong lòng tay
đang chuyển từ tay trái sang tay phải
rồi từ tay phải rơi về biển sâu

một ngày là môi hẹn mật ngọt
một ngày là chiều dẫm nát dưới chân em
một ngày trở về vươn dài tay nỗi nhớ
một ngày lìa một ngày hấp hối
chỉ còn ta trong thành phố bụi phủ nhớ người
còn em và những bước chân rất vội
đan từ con đường này sang con đường khác
rất ngậm ngùi
đôi bàn tay xếp lại chia hai

em còn đó không đóa marguerite của anh
khi bàn tay hờ hững mượn nhau héo úa
rất xót xa
trở về thăm một cơn mưa một hình ảnh một màu áo cũ
nhưng không bao giờ sẽ còn
như một lời gọi mời muộn
đám sỏi trắng đã lặn dưới lớp đất trong khu vườn mùa mưa
chân ta rồi cũng xa lạ

như thế phải không em
có bao giờ ta cúi xuống còn gỡ được viên cuội nhỏ
nằm dưới đế giày cuối con đường đã mỏi
có bao giờ ta còn can đảm đong nỗi buồn từ chân ngày này sang một đầu ngày khác
và là em vênh vang cười vênh vang khóc
và là em vênh vang như ánh sáng
ta về xếp vội những bàn tay thao thức

em còn đó không đóa marguerite của anh
và những chủ nhật
rồi mùa hạ sẽ tới
rã rời như tờ kleenex chia hai



** Tôi bắt gặp bài thơ này trong một cuốn sổ vàng úa, cũ kỹ. Bài thơ không ghi tựa đề, không ghi tên tác giả. Tôi tạm đặt là Ðóa Marguerite Của Anh. Khi cô bé chép bài thơ vào cuốn sổ cô ta vừa mới đôi mươi. Bao nhiêu năm trôi qua rồi, cô bé không còn và bài thơ thì cũng theo thời gian nhoè nhoẹt mực. Tôi đọc bài thơ và thấy một nỗi bâng khuâng khôn tả, không thể không chép lại, mong vẫn còn có người đọc…


bài phú tiếng thu



Lý Ốc BR dịch


Âu Dương Tu (1007-1073) Thời đại Bắc Tống, Tự là Vĩnh Thúc, tên hiệu Túy Ông. Quê ở Cát Châu Vĩnh Phong, nay là Giang Tây TQ. Đỗ đầu khoa tiến sĩ năm 1030. Từng làm quan lớn trong triều, giử các chức Hàn Lâm Học Sĩ, Hình Bộ và Binh Bộ Thượng Thư. Ông được kể như nhà văn nhà thơ lớn của văn học cổ Trung Hoa. Để lại nhiều trước tác về từ, phú, thơ và cả lịch sử.

Bài phú Tiếng Thu - Thu Thanh Phú là một kiệt tác về thể phú Trung Hoa. Văn chương khoáng đạt nhưng kỳ ảo. Để lại những câu còn lưu truyền thành phương ngôn tận hôm nay. Như : "Nhân vi động vật, duy vật chi linh" người là động vật, nhưng là loài linh hiển duy nhất trong vạn vật". Vừa công nhận địa vị sinh vật, lại vừa xiển dương khả năng linh diệu nơi con người.

Câu : "Thiên Địa chi nghĩa khí, thường dĩ túc sát chi tâm" cái nghĩa khí của Trời Đất, thường mang giết chóc trong lòng. Rất khó giải nghĩa. Xưa nay vẫn còn là đề tài bàn luận rất thú vị. Ngày trước, ở miền Nam Việt Nam, có vị học giả đã dịch rất hay: Trời Đất giết chóc, đó là cái nghĩa khí của Trời Đất. Dịch hay, nhưng cảm nhận được e không dễ. Cả dịch sang tiếng Âu Mỹ, lại càng khó. Đây cũng là điểm thú vị và kỳ ảo của bài phú "Tiếng Thu".


Âu Dương tôi đang đêm đọc sách, chừng như có tiếng từ hướng Tây Nam vọng lại, ngạc nhiên lắng nghe mà nói: "Lạ thay, ban đầu thì hắt hiu xào xạc, bổng chạy nhanh sầm sập; như sóng lớn kinh khủng trong đêm, gió mưa ập đến. Khi nó chạm vào vật, leng keng loảng xoảng, sắt vàng cùng kêu vang; lại như binh lính xáp trận, ngậm thẻ chạy như bay, không cần nghe hiệu lịnh, chỉ còn nghe tiếng người ngựa phi nhanh". Tôi nói với thằng tiểu đồng: "Tiếng đó là tiếng gì vậy? mầy đi ra ngoài coi xem." Thằng bé trở vào nói : "Trăng sao trong lành, sông Ngân sáng rực trên trời, bốn bề không có tiếng người, tiếng động ở trong lùm cây."



Tôi mới nói: "Ái chà, buồn thay, đó là tiếng Thu. Cớ sao bổng nhiên lại đến? Để coi, xét mùa Thu hình trạng, sắc của nó buồn nhạt, khói vương mây thu gom, dung mạo nó trong trẻo, bầu trời cao mặt trời sáng, hơi thu lạnh lùng, châm buốt vào xương thịt; ý thu quạnh vắng tiêu điều, núi sông hiu quạnh lặng im. Cho nên cất thành tiếng động, thật là thê thiết, thốt lên lời bực bội. Cỏ xanh đua nhau rậm rạp, cây cối xinh đẹp um tùm. Hễ cỏ chạm vào tiếng thu thì sắc biến, cây gặp phải thì rụng lá. Cho nên trở thành cảnh gảy đổ rụng rơi, thật là khí độ quá dữ dội. Mùa Thu, là ông quan luật hình, thời kỳ thuộc về âm, tượng binh lính, kể trong ngũ hành là kim. Cái nghĩa khí của Trời Đất, thường mang giết chóc trong lòng. Trời đối với vạn vật, mùa Xuân sinh sôi mùa Thu kết trái. Trong âm nhạc, âm Thương chủ về phương Tây, Di Tắc là luật của tháng Bảy. Thương, đồng âm với đau thương, vật già cỗi thì đau buồn; Di, cũng là chặt đoạn, vật thịnh quá thì gặp sự giết chóc."



"Than ôi! Cỏ cây vô tình, gặp lúc tan tác. Người cũng là động vật, chỉ duy nhứt là loài linh hiển hơn vạn vật. Trăm mối lo làm động tâm can, quá nhiều việc đa đoan thì hao mòn dáng hình, hễ động ở trong thì tổn hao tinh lực bên ngoài. Vì lo không đủ sức, sợ sẽ không đủ trí, thành ra vẻ hồng hào trở nên khô héo, sắc đen tuyền rớt rụng lưa thưa. Đã không phải là chất vàng đá, thì muốn xinh tươi hoài như thảo mộc làm sao? Nhớ lấy xem ai là tên tàn tặc ác hại, chứ oán giận tiếng Thu mà làm gì !"


Thằng nhỏ tiểu đồng không trả lời, ngoẻo đầu ngủ khì. Chỉ còn lại bốn bề vách tường tiếng côn trùng rả rích, chừng như góp thêm nổi niềm thở than cùng ta.


Âu Dương Tu
http://baike.baidu.com/view/2544.htm

Thu Thanh Phú
http://baike.baidu.com/view/30679.htm