Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Văn chương kể lại sự thật





Nhà văn Julian Barnes


Tiểu thuyết, về cơ bản là một hình thức hiện thực chủ nghĩa ngay cả khi nó được diễn dịch theo phương thức kỳ ảo nhất. Tiểu thuyết không thể trừu tượng như âm nhạc được. Có lẽ nếu tiểu thuyết bị ám ảnh bởi lý thuyết (như Tiểu thuyết Mới ở Pháp) hay trò chơi ngữ nghĩa (xem Finnegans Wake), nó có thể thôi không còn hiện thực nữa, nhưng như thế đồng thời nó cũng không còn thú vị nữa.
Julian Patrick Barnes (sinh 19 tháng 1 năm 1946 tại Leicester) là một nhà văn Anh đương đại độc đáo. Những đóng góp của ông đã từng được ghi nhận qua nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Somerset Maugham cho tác phẩmMetroland, Medicis Prix cho Flaubert’s Parrot và Femina Prix cho Talking It Over.

Man Booker không phải là giải thưởng xa lạ với Barnes, bởi ông đã từng được đề cử 3 lần với Flaubert’s Parrot (1984), England, England (1998) và Arthur & George (2005). Tuy nhiên, phải đến năm 2011, ông mới chính thức được vinh danh với cuốn The Sense of an Ending.

Nhân dịp The sense of Ending ra mắt độc giả Việt Nam với tên gọi Nghe mùi kết thúc (dịch giả Nghiêm Quỳnh Trang), chúng tôi xin trích dịch cuộc trò chuyện giữa Barnes và Shusha Guppy để hiểu rõ hơn những quan niệm về nghề của nhà văn Anh này. Cuộc phỏng vấn được đăng trên tạp chí The Paris Review, số Mùa Đông năm 2000, No 165.

***

* Shusha Guppy: Sartre từng viết một tiểu luận có tên Qu’est-ce que la littérature (Văn chương là gì)? Với ông, văn chương là gì?

- Barnes: Có rất nhiều câu trả lời. Nói ngắn gọn nhất, văn chương là cách tốt nhất để kể sự thật; nó là một quá trình tạo ra những lời nói dối lớn lao, đẹp đẽ, chặt chẽ, nói lên nhiều sự thật hơn bất cứ mớ dữ kiện thực tế nào. Ngoài ra, văn chương có thể là rất nhiều thứ, chẳng hạn như niềm khoái cảm trong ngôn ngữ, sự chơi với ngôn ngữ; nó cũng là một cách thức gần gũi đến kỳ lạ để giao tiếp với những người mà anh sẽ chẳng bao giờ gặp mặt. Trở thành một nhà văn mang lại cho anh ý thức về cộng đồng lịch sử, điều mà tôi thấy đang tồn tại khá yếu ớt trong con người xã hội bình thường ở nước Anh đầu thế kỷ XXI. Ví dụ, tôi chẳng hề cảm thấy bất kì mối ràng buộc đặc biệt nào với thế giới của Nữ hoàng Victoria hay với những người can dự vào Nội chiến Anh hoặc Cuộc chiến Hoa hồng, nhưng lại cảm thấy rất rõ một sự ràng buộc rất đặc biệt ở nhiều nhà văn và nghệ sĩ với những giai đoạn, những sự kiện đó.

Shusha Guppy: Ông có ngụ ý gì khi nói “văn chương kể lại sự thật”?

Barnes: Tôi nghĩ một cuốn sách vĩ đại – bỏ qua những phẩm chất khác như nghệ thuật kể chuyện, xây dựng nhân vật, phong cách v.v… – là một cuốn sách mô tả thế giới theo một cách thức chưa từng có; và người đọc nhận thấy nó đã nói lên những sự thật mới – về xã hội, hay về con đường mà đời sống tình cảm được dẫn dắt, hoặc là cả hai – những sự thật chưa từng có, chắc chắn không phải đến từ những hồ sơ pháp quy hay các văn bản chính phủ, hay từ báo chí hoặc ti vi. Ví dụ, ngay cả những người lên án Bà Bovary, cho rằng cuốn sách cần bị cấm, cũng phải công nhận sự chân thực của bức chân dung về kiểu phụ nữ ấy, trong kiểu xã hội ấy mà trước đó họ chưa từng gặp trong văn chương. Đó là lý do vì sao tiểu thuyết lại nguy hiểm. Tôi nghĩ rằng ở văn chương, có một sự thành thực tối cao, mang ý nghĩa tiên phong, điều làm nên sự lớn lao của nó. Hiển nhiên điều này ở mỗi xã hội là khác nhau. Trong một xã hội áp bức, sự thật mà văn học muốn nói lên thuộc về một trật tự khác, và đôi khi nó còn được đánh giá cao hơn những thành tố khác trong một tác phẩm nghệ thuật.

S.Guppy: Văn học có thể có rất nhiều hình thức: tiểu luận, thơ ca, hư cấu, báo chí, tất cả chúng đều nỗ lực để nói lên sự thật. Ông từng là một cây bút tiểu luận và là nhà báo có tài trước khi bắt đầu viết tiểu thuyết hư cấu. Tại sao ông lại chọn văn chương hư cấu?

Barnes: Nói thành thật thì tôi nghĩ khi viết báo, tôi nói ra ít sự thật hơn là khi viết tiểu thuyết. Tôi vừa viết văn vừa viết báo và thích thú với cả hai, nhưng nói trắng ra, khi anh viết báo, công việc của anh là đơn giản hóa thế giới, khiến nó trở nên dễ hiểu ngay trong một lần đọc; còn khi sáng tác văn chương hư cấu, công việc của anh lại là phản ánh trạng thái phức tạp của thế giới một cách trọn vẹn nhất, là nói ra những điều không thể hiểu thẳng tuột như khi anh đọc những bài báo tôi viết, là tạo nên thứ mà người ta hi vọng có thể bộc lộ những lớp sâu hơn của sự thật ở lần đọc thứ hai.

S.Guppy: Metroland có tính chất tự truyện khá rõ ràng, giống như hầu hết những sáng tác đầu tay. Có phải ngay từ đầu ông đã định viết theo cách đó không?

Barnes: Tôi không chắc lắm. Tất nhiên phần đầu tiên của cuốn sách có mối liên hệ gần gũi với thời thiếu niên của tôi, đặc biệt là không gian diễn ra sự kiện và tâm lý nhân vật. Sau đấy tôi bắt đầu hư cấu và nhận ra mình có thể làm được. Phần thứ hai và thứ ba chủ yếu là hư cấu. Có một chi tiết lý thú thế này- năm năm trước, khi cuốn sách của tôi được xuất bản tại Pháp, tôi được một đoàn làm chương trình truyền hình của Pháp đưa đến một địa điểm nào đó ở phía Bắc Paris để thực hiện phỏng vấn. Họ ngồi với tôi trong công viên – tôi nghĩ chỗ đó là công viên Parc de Montsouris, ít nhất là nó cũng chả quen thuộc gì với tôi cho lắm. Thế là tôi hỏi họ, “Tại sao các anh lại phỏng vấn tôi ở đây?” và họ nói, “Vì chỗ này, theo như sách của ông, chính là nơi ông mất tân”. Đúng là kiểu Pháp! “Nhưng tôi chế ra hết đấy”, tôi trả lời, và họ rất kinh ngạc. Thật là thú vị, bởi cuốn sách khởi đầu chủ yếu bằng phương thức tự thuật, đã chuyển sang hư cấu mà chẳng có bất kỳ ai để ý đến điều đó.

S.Guppy: Chuyển sang sự hư cấu như vậy, ông hi vọng đạt tới điều gì? Ông muốn truyền đạt điều gì trong cuốn tiểu thuyết ấy?

Barnes: Metroland là câu chuyện về sự thất bại. Tôi muốn viết câu chuyện về khát vọng tuổi trẻ cuối cùng đi đến một kết cục thỏa hiệp như thế nào. Tôi muốn viết một tiểu thuyết nằm ngoài truyền thống của Balzac, nghĩa là, thay vì kết thúc với người hùng đứng trên ngọn đồi nhìn xuống thành phố mà anh ta biết, hay ít nhất là tin rằng, mình sẽ chinh phục nó, cuốn sách lại kết thúc với nhân vật phi anh hùng chẳng hề chinh phục được thành phố mà chỉ có thể chấp nhận những luật lệ của thành phố đó.

Ẩn dụ trung tâm của tác phẩm là Metroland – một khu dân cư được hình thành vào thời kỳ hệ thống tàu điện ngầm phát triển vào cuối thế kỉ 19 ở London. Ý tưởng của tôi là có một đường hầm nối, và những chuyến tàu xuyên Châu Âu sẽ chay từ Manchester và Birmingham, đón khách tại London và tiếp tục đi qua những thành phố lớn của châu lục. Vậy nên vùng ngoại ô London này, nơi tôi lớn lên, đã được hình dung trong hy vọng, trong khao khát về những chân trời rộng mở, những hành trình vĩ đại. Nhưng thực tế thì hy vọng đó chưa bao giờ thành hiện thực. Đó chính là nền tảng của cuốn sách: ẩn dụ về sự tuyệt vọng của Chris, nhân vật chính trong tác phẩm, và của cả những nhân vật khác nữa về cuộc đời.

S.Guppy: Balzac không phải là hình mẫu tiểu thuyết gia mà ông hướng đến. Dường như ông phải lựa chọn giữa Balzac và Flaubert hơn là giữa Tolstoy và Dostoyevsky. Alain Robbe-Grillet không thích Balzac vì ông ấy nghĩ rằng thế giới của Balzac quá trật tự và gắn kết; trong khi thế giới của Flaubert phản ánh bản chất hỗn loạn, bất khả đoán của thế giới. Ông có cảm thấy như vậy không?

Barnes: Nếu thế giới này bị phân chia thành một bên là kiểu Balzac còn một bên là kiểu Flaubert, thì tôi thuộc về thế giới thứ hai. Một phần là bởi ở thế giới theo kiểu Flaubert, tính nghệ thuật nhiều hơn. Theo cách nào đó thì Balzac là một tiểu thuyết gia tiền hiện đại. Bà Bovary lại là tiểu thuyết đích thực đầu tiên của thời hiện đại, ý tôi là cuốn tiểu thuyết đầu tiên được viết liền mạch. Vào thế kỉ 19, rất nhiều tiểu thuyết, đặc biệt là ở Anh, được xuất bản dưới hình thức truyện dài kì trên tạp chí; tác giả viết tiểu thuyết tình trạng luôn bị người của xưởng in thúc đòi bản thảo. Một tiểu thuyết Anh có phẩm chất tương tự như Bà Bovary nhưng có cấu trúc và kết cấu thô sơ hơn là cuốn Middlemarch của George Eliot. Điều này, theo tôi, là vì tác phẩm của Eliot được cấu trúc theo hình thức truyện dài kỳ. Tôi chắc rằng về khả năng mô tả xã hội thì Balzac và Flaubert hoàn toàn ngang hàng nhau. Thế nhưng, về mặt xử lý nghệ thuật (artistic control) – bao gồm khả năng kiểm soát giọng trần thuật và sử dụng hình thức đối thoại gián tiếp tự do – Flaubert là người mở ra một lối viết mới. Ông như muốn nói : “Nào, giờ thì chúng ta bắt đầu lại từ đầu”.

S.Guppy: Một hình thức mới khá thời thượng là lấy một nhân vật hoặc sự kiện lịch sử và dựng lên một đài hư cấu xung quanh nó. Ví dụ như The Blue Flower [Bông hoa xanh] của Penelope Fitzgerald, dựa trên cuộc đời của Novalis, hay cuốn sách đoạt giải Prix Goncourt năm ngoái, La Bataille [Trận đánh], dựa trên trận Evleu của Napoleon. Phải chăng ông là người khởi đầu cho kiểu viết này với cuốn Flaubert’s Parrot [Con vẹt của Flaubert]?

Barnes: Hay có lẽ Flaubert mới là người mở đầu khuynh hướng này vớiSalammbô? Hay Walter Scott?…Với câu hỏi của anh, tôi muốn nói thế này: tôi không hư cấu hóa Flaubert. Tôi cố gắng tái tạo chân thực hình ảnh của ông ở mức cao nhất.

Chắc chắn tiểu thuyết dựa trên sự kiện lịch sử đang là một khuynh hướng văn học tại thời điểm này. Tuy vậy nó không phải là quá mới. John Banville đã viết về Kepler nhiều năm trước. Gần đây hơn có Peter Ackroyd viết về Chatterton, Hawksmoor và Blake. Blake Morrison vừa mới xuất bản một tiểu thuyết về Gutenberg. Tôi nghĩ sự nổi lên của khuynh hướng này một phần nhằm thỏa mãn nhu cầu “lấp chỗ trống”. Đối với người đọc phổ thông, nhiều tác phẩm lịch sử nặng tính lý thuyết và quá mức hàn lâm. Các sử gia tin vào thứ đức hạnh tưởng tượng của tự sự, nhân vật, phong cách v.v… như Simon Schama là chỉ đếm trên đầu ngón tay. Các sách tiểu sử cũng rất phổ biến. Đấy có lẽ là chỗ mà phần độc độc giả của thể loại văn chương phi hư cấu muốn ghé vào, thế nên các tác giả của loại tiểu thuyết tiểu sử chỉ cần lang thang ở góc phố, hi vọng cám dỗ được vài độc giả đức hạnh phá giới .

S.Guppy: Nhưng tiểu thuyết lịch sử theo kiểu truyền thống –như The King Must Die [Nhà vua phải chết] của Mary Renault, một trường hợp điển hình – vẫn bị xem là cuốn sách ba xu đấy thôi.

Barnes: Tôi nghĩ rằng đấy là bởi các tiểu thuyết lịch sử cũ, vốn luôn cố gắng để tái hiện theo kiểu mô phỏng cuộc đời và thời đại của một nhân vật, về cơ bản là bảo thủ, trong khi tiểu thuyết lịch sử kiểu mới quay về quá khứ, nhận thức một cách thận trọng những gì đã xảy ra và cố gắng tạo một liên hệ rõ ràng với độc giả của ngày hôm nay.

S.Guppy: Có phải ông định nói mình thuộc về truyền thống hiện thực chủ nghĩa?

Barnes: Tôi luôn thấy mấy cái nhãn hiệu thật vô nghĩa và khó chịu – dù thế nào đi nữa thì chúng ta cũng đã cạn kiệt những nhãn hiệu kể từ sau chủ nghĩa hậu hiện đại. Một nhà phê bình từng gọi tôi là “tiền-hậu hiện đại” – theo tôi thì nó không rõ ràng và chẳng có ích lợi gì. Tiểu thuyết, về cơ bản là một hình thức hiện thực chủ nghĩa ngay cả khi nó được diễn dịch theo phương thức kỳ ảo nhất. Tiểu thuyết không thể trừu tượng như âm nhạc được. Có lẽ nếu tiểu thuyết bị ám ảnh bởi lý thuyết (như Tiểu thuyết Mới ở Pháp) hay trò chơi ngữ nghĩa (xemFinnegans Wake), nó có thể thôi không còn hiện thực nữa, nhưng như thế đồng thời nó cũng không còn thú vị nữa.

S.Guppy: Điều này dẫn chúng ta đến câu hỏi về hình thức. Ông từng nói rằng sẽ cố gắng làm cho mỗi tác phẩm của mình trở nên khác biệt. Khi ông phá vỡ khuôn thước của tự sự truyền thống, tôi cảm giác ông phải thay đổi không ngừng – ông không thể cứ liên tục, nói thế nào nhỉ, tìm những nhân vật và sự kiện lịch sử mới và dựng những câu chuyện xung quanh chúng như thế được.

Barnes: Có thể chứ. Tôi nhớ hồi những năm 60, chúng tôi được một thầy giáo văn chương rất thông minh, khi đó còn trẻ tuổi, mới từ Cambridge chuyển về, dạy về Ted Hughes. Thầy tôi bảo “Tất nhiên ai cũng lo lắng chuyện gì sẽ xảy ra khi Ted Hughes chẳng còn con thú nào cả để đưa vào thơ”. Chúng tôi nghĩ đấy là một câu nói dí dỏm nhất mình từng được nghe. Nhưng tất nhiên là Ted Hughes chẳng bao giờ hết những con thú cả; ông ta có thể hết những thứ khác, nhưng các con thú thì không. Nếu người ta muốn tiếp tục viết về những hình tượng lịch sử, họ luôn luôn có thể tìm thấy đối tượng của mình.

S.Guppy: Nhưng chẳng phải là ai cũng muốn thử cái gì đó mới mẻ sao?

Barnes: Mọi thứ không diễn ra như vậy. Tôi không hề cảm thấy bị sức ép vì những thứ mình đã viết trong quá khứ. Nói một cách thô thiển, tôi không cảm thấy sức ép vì mình đã viết được Flaubert’s Parrot nên nhất định mình phải viết“Tolstoy’s Gerbil” [Con chuột nhảy của Tolstoy]. Tôi không tự nhốt mình trong chiếc hộp mà chính mình tạo ra. Khi viết The Porcupine, tôi cố ý sử dụng một phương thức tự sự truyền thống bởi tôi cảm thấy bất kì mánh lới nào cũng có thể làm mạch truyện tôi đang cố gắng kể lại trở nên xao lãng. Với một nhà văn, cuốn tiểu thuyết chỉ thực sự bắt đầu khi anh ta tìm ra một hình thức tương hợp với câu chuyện. Tất nhiên chị có thể vặn lại và bảo, “Tôi tự hỏi đâu là những hình thức mới tôi có thể tìm cho cuốn tiểu thuyết của mình”, nhưng đấy là một câu hỏi rỗng cho đến khi nào ý tưởng đích thực xuất hiện; những sợi dây điện hình thức và nội dung chập vào nhau và tóe lửa. Chẳng hạn, cuốn Talking It Over nương vào một câu chuyện mà tôi được nghe năm hay sáu năm trước. Thế nhưng nó chỉ là một giai thoại, một khả năng, một ý tưởng thuần túy không hơn cho đến khi tôi cảm thấy rõ một hình thức riêng biệt cần thiết cho câu chuyện riêng biệt ấy.

S.Guppy: Có lẽ vì mối bận tâm của ông với hình thức, nhiều nhà phê bình đã so sánh ông với Nabokov và Calvino, những nhà văn chơi với hình thức để sáng tạo ra không gian văn xuôi của riêng họ. Họ có phải là những người mà ông chịu ảnh hưởng?

Barnes: Ảnh hưởng là thứ khó định nghĩa. Tôi đã đọc hầu hết sáng tác của Nabokov và một số của Calvino. Tôi có thể nói hai điều: Thứ nhất, người ta thường có khuynh hướng phủ nhận sự ảnh hưởng. Để viết cuốn tiểu thuyết như một mệnh lệnh nhất quyết của nội tâm, tôi phải vờ như nó không chỉ biệt lập khỏi mọi thứ tôi viết trước đó, mà còn biệt lập khỏi bất kì thứ gì mà bất kỳ người nào trên thế giới này đã từng viết trong lịch sử. Đấy là một sự tự dối mình kỳ quặc, một sự tự tôn thô thiển, nhưng đồng thời đó cũng là điều cần thiết để sáng tạo. Thứ hai, khi được hỏi về sự ảnh hưởng, một nhà văn có xu hướng đưa ra một danh sách các tác phẩm/tác giả mà anh ta đọc và rồi đến lượt mình, độc giả hay nhà phê bình tự quyết định xem nhà văn kia chịu ảnh hưởng ai hay cuốn sách nào. Có thể hiểu được điều này. Nhưng theo tôi, anh dường như cũng có thể bị ảnh hưởng bởi một cuốn sách mà anh chưa từng đọc, bởi ý tưởng về thứ gì đấy mà anh mới chỉ nghe qua. Anh có thể bị ảnh hưởng từ nguồn thứ cấp, hay từ một nhà văn anh chẳng hề ngưỡng mộ nếu họ đang làm điều gì đó đủ táo bạo. Ví dụ, tôi có đọc vài tiểu thuyết và nghĩ, “Cuốn sách thực sự chưa tới, chưa đã” hay “Thực ra nó có phần nhạt nhẽo”; nhưng rất có thể sự thái quá hay sự táo bạo về hình thức ở đó lại gợi ý rằng một điều như thế – hoặc một biến thể của nó – trong trường hợp khác lại có thể gây được hiệu quả

S.Guppy: Ông sáng tạo những nhân vật của mình như thế nào? Họ dựa phần nhiều vào những người ông biết hoặc từng gặp, hay là ông hư cấu những nhân vật ấy ngay từ đầu? Tính cách của họ phát triển như thế nào theo mạch tự sự?

Barnes: Rất ít các nhân vật của tôi dựa trên những người tôi biết. Làm vậy thì cứng nhắc quá. Một cặp nhân vật được xây dựng nương theo những người tôi chưa từng gặp. Petkanov trong The Porcupine [Con nhím] rõ ràng có liên hệ với Todor Zhivkov, ông trùm trước đây của Bulgaria và ngài Jack Pitman trongEngland, England thì có dính dáng đến Robert Maxwell. Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc tìm hiểu con người Maxwell – nó sẽ chẳng giúp gì cho cuốn tiểu thuyết của tôi cả. Cùng lắm là ta lấy một nét ở đây và một nét ở kia, chỉ thế thôi. Có thể những nhân vật phụ – những nhân vật ngay từ đầu chỉ cần được xây dựng bằng đôi ba nét chấm phá – có thể được lấy toàn bộ từ đời thực; nhưng tôi không ý thức khi làm vậy. Sự sáng tạo nhân vật, như ta thấy ở hầu hết tác phẩm hư cấu, là một hỗn chất của cảm xúc chủ quan và sự kiểm soát khách quan. Nabokov khoe rằng ông quất vào các nhân vật của mình như lũ tù khổ sai; những tiểu thuyết gia bình dân đôi khi lại lên gân (cứ như kiểu làm vậy chứng tỏ họ là nghệ sĩ) rằng một nhân vật nào đó “chạy trốn cùng họ” hay “sống thay đời sống của chính anh ta/chị ta”. Tôi chẳng thuộc trường phái nào cả: tôi thả lỏng dây cương của mình với nhân vật, nhưng dù gì tôi vẫn giữ một dây cương.

S.Guppy: Trong tập truyện Cross Channel [Băng qua eo biển], ông già trong truyện ngắn Tunnel [Đường hầm] nói rằng để trở thành một nhà văn anh cần từ khước cuộc đời theo nghĩa nào đó. Ông có nghĩ rằng mình phải lựa chọn giữa văn chương và cuộc đời không?

Barnes: Không, tôi không nghĩ chúng ta có thể chọn lựa. “Hoặc cuộc đời hoàn hảo, hoặc là sáng tác hoàn hảo” – với tôi, đó là một tuyên ngôn làm dáng theo kiểu của William Butler Yeats. Tất nhiên nghệ sĩ có hi sinh – các chính trị gia, thợ làm phó-mát hay các bậc phụ huynh cũng thế. Nhưng nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống – làm cách nào mà nghệ sĩ có thể tồn tại nếu không ngừng đắm mình trong cái bình thường của đời sống? Vấn đề là anh có thể dấn sâu tới đâu. Flaubert từng nói nghệ sĩ nên lội vào đời sống như lội xuống biển cả vậy, nhưng chỉ là tới thắt lưng mà thôi. Một số bơi quá xa tới mức quên đi ý định ban đầu của mình là làm một nghệ sĩ. Hiển nhiên, làm một nhà văn bao gồm cả việc dành rất nhiều thời gian cho bản thân, và làm một tiểu thuyết gia đòi hỏi những thời kỳ cô độc dài hơn khi anh làm một nhà thơ hay một nhà soạn kịch. Với tiểu thuyết gia, sự dao động sáng tạo giữa cô độc và dấn thân phải diễn ra bên trong. Nhưng chẳng phải cùng lúc chúng ta vẫn, một cách thường xuyên và hàm ơn, quay trở về với hư cấu để thấy được bức tranh chân thực nhất về cuộc đời hay sao?

ĐỨC ANH trích dịch

VĨNH BIỆT THẦY HOÀNG NHƯ MAI



 GS Hoàng Như Mai đã ra đi




TS VÕ VĂN NHƠN

 Vĩnh biệt thầy, chúng em sẽ nhớ mãi đến hình ảnh của thầy, đến mái tóc nghệ sĩ, đôi mắt sáng cùng giọng ngâm thơ hào sảng, truyền cảm của thầy và đặc biệt là tấm chân tình của thầy dành cho những học trò nhỏ của mình.


Chiều nay - 27.9, tôi được tin thầy Hoàng Như Mai vừa từ trần. Biết là tin buồn rồi sẽ đến nhưng không khỏi bàng hoàng, thảng thốt bởi mới trưa thứ Ba vừa rồi vào bệnh viện thăm thầy, dù phải thở bằng máy thầy vẫn cố gắng ra dấu nhận biết...


Bàng hoàng, thảng thốt còn bởi một phần đời của tôi đã gắn bó với thầy, từ lúc học ĐH, làm khóa luận tốt nghiệp với thầy ở khoa Ngữ văn Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội cho đến lúc được thầy hướng dẫn làm luận án tiến sĩ ở Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia TP.HCM).

Sống chí tình với học trò


Thầy Hoàng Như Mai đã đạt được các danh hiệu cao quý nhất trong sự nghiệp giáo dục. Thầy đã được Nhà nước phong học hàm giáo sư (GS) ở đợt sớm nhất, đã được tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân (NGND), huân chương Lao động hạng Nhất. Nhưng đối với học trò, thầy rất gần gũi, chí tình. GS Nguyễn Lộc trong bài phát biểu nhân dịp mừng thọ 80 tuổi của thầy (năm 1997) cũng nhấn mạnh đến cái tình dành cho nhiều thế hệ sinh viên đó của thầy: “Nhưng có lẽ vượt lên trên tất cả chính là cái tình của thầy. Thầy Hoàng Như Mai là một người sống chí tình với học trò, với bạn bè xung quanh và với cuộc sống, được học sinh hết sức quý mến”.

GS Nguyễn Lộc kể hồi còn chiến tranh, nhiều sinh viên khoa Ngữ văn được bố trí vào Nam công tác. Chuyện đi Nam lúc bấy giờ được tổ chức hết sức bí mật nhưng nhiều người trước khi đi cũng tìm mọi cách để gặp được thầy, trước là để thăm thầy, sau đó là để nhận ở thầy một lời khuyên bảo. Khi ra chiến trường rồi, họ cũng không quên viết thư về báo tin cho thầy và tâm sự cùng thầy. Những lá thư ấy bao giờ thầy cũng giữ hết sức trân trọng. Năm 1986, Trường ĐH Tổng hợp làm lễ mừng 30 năm ngày thành lập, GS Hoàng Như Mai được mời về thăm lại khoa Ngữ văn. Thầy đã xúc động làm bài thơ Trở về khoa Ngữ văn, trong đó thầy viết:

Nhớ khi Ký Phủ, Đồng Văn

Mấy phen mì độn, mấy lần đạn bom

Thầy cô, người mất người còn

Sinh viên mấy nấm mồ chôn chiến trường

Ba mươi năm, một chặng đường

Về đây có cả buồn thương vui mừng.

Lớp sinh viên chúng tôi sau năm 1975 khi được học tập, gần gũi với thầy đã cảm thấy rất rõ cái tình đó của thầy. Trong các thầy cô ngày đầu giải phóng vào Sài Gòn giảng dạy, có lẽ thầy là người nhận được nhiều thư của sinh viên nhất. Nhiều bạn do hoàn cảnh phải sống nơi xứ lạ quê người cũng viết thư liên lạc thường xuyên với thầy. Những chuyện đó hơn 30 năm sau thầy vẫn còn nhớ như in. Tôi nghĩ đó không chỉ là do thầy có trí nhớ phi thường mà còn là tấm lòng sâu nặng đối với học trò.



GS - NGND Hoàng Như Mai trong một buổi mừng thọ
tại Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM


Một tâm hồn nghệ sĩ

Nhớ lại những ngày đầu sau giải phóng, chúng tôi được học với rất nhiều thầy cô từ Hà Nội vào như Trần Đình Hượu, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nguyễn Hải Hà… Nhưng ấn tượng nhất vẫn là thầy Hoàng Như Mai với phong thái rất nghệ sĩ của thầy. Và đặc biệt là đôi mắt rất sáng của thầy. Những bài giảng của thầy rất thuyết phục, bởi với tư cách là người trong cuộc, với giọng đọc thơ ngân rung truyền cảm, thầy đã làm chúng tôi như sống lại không khí hào sảng của buổi đầu kháng chiến chống Pháp qua cảm hứng lãng mạn anh hùng trongNgày về của Chính Hữu, Nhà tôi của Yên Thao, Tây tiến của Quang Dũng. Các nhà văn sống cùng thời với thầy như Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương... như hiện ra trước mắt chúng tôi bằng xương bằng thịt qua hồi ức của thầy. Cả Màu tím hoa sim quen thuộc của Hữu Loan cũng hấp dẫn hơn qua lời bình gan ruột của thầy.

Sau này khi tìm hiểu về cuộc đời của thầy, chúng tôi càng thấy thân thuộc hơn với thầy. Hóa ra trước cách mạng thầy cũng đã từng băn khoăn tìm kiếm lẽ yêu đời, đã một thời thấy học hành không có ích gì trong thời buổi rối ren, loạn lạc ấy nên đã bỏ ĐH Y rồi ĐH Luật để đến các Thư viện Quốc gia, Thư viện Viễn Đông bác cổ đọc sách về chủ nghĩa Mác. Và ngay sau Cách mạng Tháng Tám đã viết những cuốn như Thặng dư giá trị, Đời sống thợ thuyền trong xã hội tư bản, Lênin và Cách mạng Tháng 10… cho tủ sách Vỡ lòng của Nhà xuất bản Hàn Thuyên.

Chúng tôi cũng thấy thầy gần gũi với miền Nam của chúng tôi vì biết thầy đã từng cùng với các nghệ sĩ Sĩ Tiến, Đào Mộng Long, Thu Hà, Phan Ninh… thành lập đoàn kịch Độc Lập để tham gia phong trào Nam tiến sau Cách mạng Tháng Tám, đã viết vở kịch Dòng sông biên giới nói về nỗi đau chia cắt đất nước. Sau ngày đất nước thống nhất, vào TP.HCM công tác, thầy lại viết vở kịch Vẽ chân dung cụ Đồ Chiểu (1982) để ca ngợi nhà thơ Nam Bộ Nguyễn Đình Chiểu. Thầy cũng rất yêu cải lương, đặc sản của Nam Bộ và đã viết sách nghiên cứu về cải lương, về soạn giả Trần Hữu Trang, tác giả của các vở Đời cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt nổi tiếng.


Tận tâm trong sự nghiệp trồng người


Nhưng trước sau, sự nghiệp cả đời của thầy vẫn là nghề dạy học. Bắt đầu bằng sự nể nang bạn bè nên dạy giúp môn Văn học Việt Nam và Văn học Pháp ở Trường Trung học tư thục Đông Hải ở thị xã Hải Dương năm 1943, sau đó như một cái duyên, thầy đã gắn bó suốt đời với ngành giáo dục. Trong kháng chiến, thầy được Tỉnh hội Việt Minh tỉnh Thái Bình cử làm hiệu trưởng Trường Trung học Chuyên khoa tư thục Phan Thanh, rồi sau đó làm hiệu trưởng Trường Sư phạm Việt Bắc và đã từng đưa các giáo sinh của trường sang học ở Nam Ninh, Quảng Tây (Trung Quốc).

Hòa bình lập lại, thầy đảm nhiệm chức hiệu trưởng Trường Sư phạm trung cấp Trung ương, sau đó dạy ở khoa Ngữ văn Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội. Với giáo trình Văn học Việt Nam từ 1945 đến 1960, thầy đã đặt những viên gạch đầu tiên cho việc nghiên cứu văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám. Sau ngày giải phóng miền Nam, thầy được mời thỉnh giảng ở ĐH Văn khoa Sài Gòn và đến năm 1980 thầy về dạy ở khoa Ngữ văn Trường ĐH Tổng hợp TP.HCM (nay là Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia TP.HCM).

Đã có biết bao thế hệ sinh viên, học sinh được thầy đào tạo, nhiều người hiện đảm trách vị trí quan trọng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, nhiều người là GS ở các trường ĐH và cơ quan nghiên cứu, nhiều người trở thành các văn nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo có tên tuổi.

Vĩnh biệt thầy, chúng em sẽ nhớ mãi đến hình ảnh của thầy, đến mái tóc nghệ sĩ, đôi mắt sáng cùng giọng ngâm thơ hào sảng, truyền cảm của thầy và đặc biệt là tấm chân tình của thầy dành cho những học trò nhỏ của mình.

____________

(*) TS Võ Văn Nhơn là trưởng bộ môn Văn học Việt Nam, khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia TP.HCM), Hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.


Quán bên đường







Thơ : Trang Thế Hy
Nhạc : Phạm Duy

Ngày xưa ngày xửa ngày xưa
Chiều mơ chiều nắng đẹp khoe mầu tơ
Hai đứa mình còn trẻ thơ
Rủ nhau ngồi ngưỡng cửa chơi thẩn thơ.
À a a nhớ nhớ em còn mái tóc bánh bèo
À a a nhớ má chưa hồng da mét vì em nghèo
Đầu anh còn húi trọc, còn húi trọc
Khét nắng hôi trâu thèm đi học, thèm đi học
Thèm đi học...


Em cầm một củ khoai
Ghé răng cạp vỏ rơi
Xong rồi mình chia đôi
Khoai sùng này lượm mót
Sao ngọt lại ngọt ghê
Giờ đây kỷ niệm ngày xưa
Giờ đây cảnh cũ chìm xa mù khơi
Gặp nhau một chiều lạnh mưa
Nhìn nhau quần áo bảnh bao mừng sao.


Nhìn em còn xinh còn tươi
Đời em tưởng đâu là vui
Nhà em phải chăng là đây?
Dè đâu chẳng may là quán
Em bẹo hình hài đem bán...
Rồi em hỏi anh: làm chi?
Cầm bút để viết ngày đêm, viết gì?
Đời thối phải nói là thơm
Ngòi bút là chiếc cần câu miếng cơm
Em hỏi nghệ thuật là chi?
Là đui, là điếc, là câm mà đi.
Nhìn nhau lặng lẽ nhìn nhau
Nào có ai đánh mà sao lòng đau.


Bánh ngọt cùng mời ăn
Nhớ chăng củ khoai ngon
Bánh tươm vàng như nắng
Bánh này mình chưa cắn
Sao mà miệng cay đắng?
Rồi xin một nụ cười thôi
Cười ư? Anh đã vùi quên nụ cười
Thì xin vài giọt lệ rơi
Lệ em cạn đã từ lâu, người ơi
Trước khi từ giã hỏi nhau buồn hay là vui
Thì cứ hỏi ngay cuộc đời

Yêu thương muộn màng






TRUYỆN NGẮN CỦA NGÔ THUÝ NGA



Hoài đứng bên cửa sổ, nhìn mông lung ra phía ban công, một vài ngôi sao thưa thớt, leo lét thứ ánh sáng nhòe trên không trung, không lọt nổi xuống mặt đất. Mảnh trăng mỏng the lé như ngọn lúa. Hoài nhớ da diết cái làng quê trong ký ức, nhưng hình như nó mờ nhòa quá đỗi. Mờ nhòa như ánh sáng nhỏ nhoi của mảnh trăng ngoài kia. Hoài từ bỏ nó ra đi hơn mười năm nay. Bỏ lại mảnh đất vẫn quen với tên gọi “nẻ chân chim”, Hoài thích thú khi đi lạc vào thế giới đô thị náo nhiệt, sục sôi người qua lại cứ như một lễ hội lớn ở quê nhà. Để rồi giờ đây, lại quay quắt nhớ, lại muốn trở về, chỉ để ngắm lại đồng lúa mênh mông, xanh mướt màu của bình yên. Chỉ để nói với bố mẹ một lời hối lỗi, chẳng mong được thứ tha, nhưng ít ra cũng sẽ thấy nhẹ lòng.

***

Vợ chồng Hoài ly hôn tính đến nay không biết đã bao lâu. Thời gian qua, hình như chưa khi nào Hoài cảm thấy hối hận vì quyết định của mình. Hoài là người có khát vọng. Hoài không thể cứ bó buộc ở nhà, chiếc tạp dề luôn đeo trên người, và làm việc chẳng khác nào một con ô sin. Không! Cuộc sống của Hoài không thể là như vậy. Hoài phải làm việc, phải là người phụ nữ thành đạt. Hoài phải đạt được ước mơ lớn lao của mình. Đó mới chính là con người Hoài. Vì vậy mà…Hoài chấp nhận ly thân. Đôi khi, Hoài chợt nghĩ, không biết cái gì đã gắn kết Hoài và chồng Hoài với nhau - một sự khập khiễng không giới hạn. Vợ chồng Hoài đã có với nhau một mụn con, nhưng đứa bé, Lệ Quân lại ra đời không như gia đình Hoài mong muốn. Ngày mang thai, đi siêu âm, bác sĩ cho biết là con trai. Vợ chồng Hoài, cả ba mẹ chồng nữa, đã mừng rơn. Thế nhưng, khi đứa bé chào đời lại là con gái. Cái tên Quân của con bé bây giờ cũng là tên ngày xưa ông bà nội đặt cho đứa cháu đích tôn, khi nó còn chưa chào đời. Không ai buồn đặt lại cái tên khác cho con bé. Hoài chỉ đổi tên lót từ Minh thành Lệ. Từ đó, sống với nhau thêm vài năm nữa thì vợ chồng li hôn. Chồng Hoài chuyển về ở hẳn với ba mẹ.

Giờ đây, con Hoài đã tới tuổi dậy thì. Nhưng Hoài luôn có cảm giác nó khôn trước tuổi. Lệ Quân cực thông minh, học giỏi và rất láu cá. Tính khí nó y hệt như con trai. Thích chơi những trò chơi cảm giác mạnh. Thích mày mò, tháo gỡ những vật dụng trong nhà rồi lắp lại như cũ. Rồi cũng không biết do vô tình hay do cái suy nghĩ cố hữu trong đầu Hoài, mỗi lần sắm đồ cho con bé, Hoài hay lựa những bộ đồ kiểu con gái con trai đều mặc được, nhưng hợp với con trai hơn. Không giống với những đứa trẻ khác, con gái Hoài có tính tự lập từ nhỏ. Nó không thích ngủ với ba mẹ. Và cái gì cũng thích tự làm. Những điều đó như vô hình đẩy mẹ con Hoài xa nhau hơn.

***



Ngày 15 tháng 9

Ba mẹ mình không cần mình. Ba mẹ chỉ biết cãi nhau, có bao giờ ba mẹ nghĩ đến cảm giác của mình. Mình ghét mẹ. Mình thương ba mà cũng ghét ba.

Sau này, mình nhất định sẽ không lấy chồng. Mình ghét cái cảnh cãi nhau. Mình ghét cái cảm giác làm con như mình.

Ngày 21 tháng 9

Hôm nay, mình đã rất sợ. Tự nhiên đang học thể dục, rồi mình thấy mình ra rất nhiều máu ở quần. Linh đã đưa mình về nhà bạn ý, mẹ bạn ý dẫn mình vào nhà tắm thay đồ. Lần đầu tiên mình bị ra nhiều máu đến thế, mình sắp chết rồi. Mình biết mình bị bệnh nặng lắm. Nhưng mình không dám nói với ba mẹ. Mình sợ ba mẹ lo lắng. Và mình biết nếu có nói, mẹ cũng chẳng quan tâm đến mình…

Ngày 25 tháng 9

Sao mẹ chẳng bao giờ cho mình đi du lịch? Bạn Linh vừa được đi Đà Lạt với ba mẹ mấy ngày luôn, nghe bạn ý kể mà mình thích khiếp. Mẹ bạn Linh còn tặng cho mình một giỏ hoa bất tử nữa, nhưng mẹ đã vứt chúng khi mình mang về nhà. Mẹ bảo treo mấy thứ đó lên nhà rồi ung thư mà chết. Mình không tin, cũng không sợ chết. Nhưng mình không muốn cãi lời mẹ. Mình muốn làm một người con ngoan để ba mẹ yên tâm làm việc.

Ngày 2 tháng 10

Sao mình không là con trai chứ? Nếu mình là con trai, ba mẹ, và cỏ ông bà sẽ yêu mình thật nhiều. Lâu lắm rồi mẹ chưa cho mình về thăm ông bà. Ba thì ở riết bên ấy. Nhưng mà ông bà ghét con gái lắm. Mình muốn được là con trai. Hôm nay tự nhiên mình sợ ngủ một mình. Ước gì có mẹ ngủ cùng. Mà thôi, mẹ còn công việc mà…



Hoài chết lặng trước những trang nhật ký của con gái. Cuối mỗi trang ngắn, nó đều vẽ một bông hoa hồng, phía dưới có hàng chữ: con trai Lệ Quân tặng mẹ. Hoài không ngăn được những dòng nước mắt, không biết đã muộn màng hay chưa…

***



Lệ Quân tròn xoe mắt khi nghe mẹ nói sẽ đi Đà Lạt. Nó rối rít chuẩn bị đồ đạc, rồi giục Hoài đi ngủ sớm để lấy sức. Đã lâu lắm rồi, hôm nay hai mẹ con mới gần nhau. Hoài ôm nó, vờ nhắm mắt ngủ. Dòng nước mắt Hoài bò qua thái dương và rơi hút vào tóc. Cảm giác tội lỗi vẫn bủa vây lấy Hoài, cứa vào lòng thành những vết cắt đau. Con bé trở người luôn. Hoài biết nó không ngủ được. Vì hồi hộp chuyến du lịch ngày mai. Hay vì nó thấy mẹ nó hôm nay lạ quá. Hay vì nó hạnh phúc quá, vui quá khi được mẹ quan tâm, yêu thương. Nó dụi dụi đầu vào ngực Hoài, khuôn mặt như thiên thần. Lần đầu tiên Hoài ngắm con gái mình lâu đến thế. Nhìn ra ngoài ban công, trăng rải ánh sáng rộng thênh thang. Đêm nay dường như sao cũng mọc nhiều hơn, lung linh hơn. Và Hoài nghe thấy hương thơm dìu dịu mùi thiên lý. Hoài thấy mình may mắn vì vẫn còn cảm xúc với cuộc sống đời thường, chưa bị công việc làm tật nguyền đi xúc cảm. Hoài thầm cảm ơn đứa con gái ngoan đã cho Hoài dừng lại và thở. Dừng lại và nhìn ra xung quanh mình. Để Hoài biết rằng không những công việc, tiền bạc quan trọng, mà có những thứ khác cũng quan trọng không kém. Để Hoài biết rõ hơn mình cố gắng vì cái gì. Và…để Hoài kịp dừng lại trước khi trượt dài trên con dốc xơ cứng.

***



Căn phòng không rộng, gọn gàng và được bài trí đơn giản. Nằm trên giường, mở cửa sổ, và cánh cửa phụ, mẹ con Hoài có thể quan sát những chuyển động của thiên nhiên. Sáng sớm se lạnh, hai mẹ con Hoài nằm rốn trên giường, nhìn sương rơi như mưa xuân bay lất phất ngoài trời. Thời tiết Đà Lạt như khoảnh khắc giao mùa giữa đông và xuân, vào mấy ngày tết ở miền Trung quê Hoài. Hoài ôm con bé trong lòng, tâm trí đeo đuổi dự định tết năm nay sẽ đưa cả gia đình về quê ăn tết, lòng lâng lâng hạnh phúc.

Ăn sáng xong, Lệ Quân kéo tay Hoài đòi lên Thiền Viện Trúc Lâm ở ngay bên cạnh. Hoài chiều con bé, và thú thật, tự nhiên cũng muốn lên chùa, như để lòng lắng dịu những chen đua, cạnh tranh, và cả những ma mãnh trong công việc. Tiếng chuông chùa thi thoảng vọng lại làm không khí và quang cảnh nơi đây như nhuốm màu linh thiêng. Tâm hồn con người cũng như tĩnh lặng hơn. Hoài không thể dối lòng rằng mình đang cảm thấy thanh thản hơn, lòng bình yên hơn.

- Con đã cầu xin gì thế, nói mẹ nghe được không?

- Con không cầu gì cả, chỉ để tiếng chuông vọng vào trong đầu thôi.

Hoài nhìn con bé ngạc nhiên. “Con muốn ngày nào cũng được lên chùa nghe tiếng chuông. Mỗi lúc như thế, con thấy lòng bình lặng và không suy nghĩ gì cả. Con muốn sau này…”- Lệ Quân để lửng câu nói, lo lắng đưa mắt nhìn Hoài.

Bất giác, một cảm giác lo sợ mơ hồ ôm riết lấy suy nghĩ của Hoài. Dòng nhật ký hôm nào của con bé lại hiện lên rõ rệt. Sau này, nhất định mình sẽ đi tu. Mình biết là ba mẹ sẽ buồn, nhưng rồi một lúc nào đó, ba mẹ sẽ chấp thuận mong ước của mình. Mình tin giấc mơ luôn lặp lại của mình là đúng.

Hoài muốn ôm con bé vào lòng. Đã quá muộn chưa cho một người mẹ vô tâm, vô trách nhiệm như Hoài? Và đã quá muộn chưa để Hoài nhận ra và níu kéo yêu thương sắp vượt quá tầm tay? Hoài nhìn con bé, vẫn cái phong cách con trai không thay đổi ấy, chiếc áo thun, chiếc áo khoác buông không cài khóa bên ngoài, chiếc quần jean rộng, đôi dày thể thao đầy cá tính. Hoài lại nhìn nhanh xuống mặt hồ đằng kia. Mặt hồ một màu xanh biếc, vẫn yên ả trôi. Xung quanh cũng một màu xanh biếc, lặng yên đứng. Trên ngọn đồi, lớp sương đang tan dần như làn khói lam chiều bốc ra trên mái nhà tranh lấm tấm đen ở quê nhà…

PHÍA CHÂN TRỜI. MỘT CHẤM



mình cứ lang thang mình

treo mình lên xà nhà
bóng dài trên đất
những con nhện giăng tơ bóng tối
cơn mưa náo nhiệt ào qua

thấy mình như một gã chiên
nhờ người chăn như chăn kiến
cái vòng tròn hư ảo
suốt một đời đụng râu vào
rồi quay lui

con đường ổ trâu ổ gà
vệt bánh xe nham nhở
gù ghì như dã thú
người với người với người song đôi

với tay là chạm mây trời
sự thật ngay dưới chân đụng hoài không tới
may còn có em
thật hơn mặt đất
tiếng thở dài méo đêm…

đi tìm những vùng chân lý
gặp hỗn mang quá khứ
mình cứ lang thang mình
lang thang cả tầng sâu ký ức
vọng về cơn xanh nhạt nhòa…

còn chấm đen phía chân trời

phía chân trời
một chấm…

Văn Công Hùng

PHỐ TRÔI NGHIÊNG VỀ PHÍA NGÀY MƯA





Phố những ngày mưa
Người vẫn đi về qua phố
Những vòng xe hối hả, lặng thinh
Phố thênh thang không nhớ nổi nụ cười.
Phố những ngày mưa
Trời vào Thu nồng nàn hương hoa sữa
Những "con đường có lá me bay"
Người yêu nhau nên phố cũng dịu dàng.

Vào Thu. Phố nơi em không ngớt những cơn mưa. Những hàng cây rũ buồn bên phố, gió như roi quất vào da thịt. Phố vào Thu, mênh mang trong lòng, mênh mang cùng phố. Nếu chỉ có bước chân em thì có lẽ phố buồn đến rũ rượi, bởi những bước chân vô định, bởi những lo toan nên thấy trống vắng, phố như không người, hối hả, ngược xuôi...

Sáng nay, em gặp đôi tình nhân trên phố. Họ yêu nhau, họ đón đưa nhau. Nhìn vào họ mà phố bớt quạnh hiu. Em chợt nghĩ, nơi thành phố anh đang ở, sẽ có những con đường thật đẹp, trời vào Thu cũng trong xanh hơn, ở nơi đó, chắc hẳn có nhiều đôi tình nhân đón đưa nhau!? Nơi anh ở, phố có dịu dàng!?

Phải rồi, nếu tình yêu được trao và được nhận thì cuộc sống cũng đẹp hơn nhiều, phố sẽ rộn ràng, mùa Thu cũng sẽ ngát hương hoa! Em vẫn trao đi những nồng nàn vốn có, vậy mà, sao phố vẫn cô đơn?!

Phố những ngày mưa! Nơi em, phố trôi nghiêng, nỗi nhớ cũng trôi nghiêng... phía anh không đợi! Anh có về qua phố sáng nay!?

Anh có về qua phố sáng nay
Có gọi tên em nồng nàn nỗi nhớ?
Anh có gặp đôi tình nhân trên phố
Nhớ đến em... da diết một nụ cười!...


Vũ Viễn Thanh

Nhiếp ảnh- Vũ Anh Thư


Dấu chấm hỏi




Người đàn ông già



Một góc London



Vũ Anh Thư


Tuổi trẻ tôi là hạt mầm xanh đang ươm trong vườn nắng chan hòa rực rỡ. Tôi muốn tự do chọn hướng tương lai của mình. Tôi có thói quen hay hoài bão – bay xa tiến về phía trước.. Nơi đó là chân trời kiến thức vô bờ tỏa sáng. Tôi tìm niềm vui không thể thiếu khi chính tôi tự tin - suy nghĩ lại những khoảnh khắc qua, mọi hình ảnh chính kiến xảy ra. Tôi muốn ghi lại giây phút ấy...Và nhiếp ảnh chính là điều thú vị nhất.
Vũ Anh Thư
( Trích nhật ký sáng tác)

NƠI TRÚ ẨN AN TOÀN


Một người vì quá sợ hãi đã quyết định đào một cái hố nhảy xuống để trốn. Ban đầu chỉ là một cái lỗ nhỏ đủ cho y giấu hai tay mình cốt không ai biết y làm gì. Sau đó là một cái hốc lớn vùi hai chân để không ai thấy y đi đâu. Vẫn chưa an toàn. Y quyết định chôn toàn thân. Đất phủ rào rào lên mặt y. Thân thể y đã lọt thỏm bất động dưới cái hố.
Nhưng nỗi sợ hãi cứ tiếp tục dâng lên. Y thấy một họng súng vô hình đang ngắm vào giữa trán và đỉnh ót y. Thế là y quyết định chôn luôn gương mặt. Đất xé ào ào, từ từ ngập lên cổ, lên cằm, lên miệng, lên mũi và lên mắt. Rồi y không còn nhìn thấy. Cả người y khuất vùi trong lòng đất.
Nhưng khi đã ở trong đất, y vẫn không hết sợ. Y tiếp tục đào loằng ngoằng những đường hầm liên thông ngoắt ngoéo để chạy trốn. Y đào đến đâu nỗi sợ hãi theo ngự trị đến đó. Không bao giờ y thoát ra phía bên trên hay bên ngoài nó cả.
Khi y chết bạn bè chỉ biết và chỉ thấy một miệng hố sâu thăm thẳm nơi y bắt đầu đào xuống. Nhưng không ai đủ cam đảm thử thách độ sâu của cái hố sợ hãi để xác định biết y đang nằm ở cái ngách nào trong cái hố của mình mà móc xác y lên.

Nguyễn Hữu Hồng Minh

BỤI TRÍ THỨC, BỤI VỈA HÈ






Bà giả bán quạt - Bút sắt vỉa hè của họa sĩ Phan Ngọc Minh


Không biết từ bao giờ, ngạn ngữ hiện đại có câu “Bụi trí thức, bụi vỉa hè”. Trí thức mà lại so sánh với vỉa hè ư?

Thực ra không phải vậy! “Trí thức bụi” có nghĩa trí thức… dễ hòa nhập. Trí thức không sa-lông, kính cận, có thể đi làm bằng xe hơi nhưng vẫn cà phê ở… vỉa hè vì thích không khí “văn nghệ quần chúng” ở đây. Cũng có nhiều trí thức, đặc biệt là văn nghệ sĩ, mặc quần jeans, áo pun, mũ nồi trông hầm hố… bụi bặm hết sức! Nhìn bề ngoài kẻ không biết có thể kết luận “bụi quá”, “phủi quá”. Nhưng tài năng và tri thức của “anh bụi” đó nếu người biết chuyện thì đã phải tâm phục khẩu phục. Như vậy, hình như xoay câu nói trên thì anh trí thức nào đó vẫn muốn cộng vào mình một chút ít bình dị, dân dã. Nói cách khác, "tính vỉa hè", "tính bụi" ở đây cũng giống như hai món ăn quen và ghiền: mắm tôm, cá kho. Với hai món này, từ hạ đẳng đến thượng lưu cỡ nào cũng dùng được!

Nhưng ở cái câu ngỡ “trí thức = bụi” đó theo tôi còn tồn lưu một nghĩa khác. Nghĩa này cần một cái "nhìn nghiêng" mới thấm được chất ý vị. Đó là "bụi" mà "không bụi" hay "chưa hẳn bụi". Vẫn còn chút gì như phẩm giá, lương tri, trung can của "cái bụi". Những hạt bụi ý thức được phận mình trong tương quan nhân sinh - trời đất. Vẫn muốn sống ngay thẳng và cương cường. Ví dụ trên vỉa hè thi thoảng ta vẫn gặp một thùng nước đá mát lạnh của một chị tiểu thương để bên đường cho những người cơ nhỡ, nắng rát ban trưa đến uống. Hay những bữa cơm độ nhật cho người qua đường rát mặt mưu sinh cơm áo. Một em bé bán vé số cương quyết gửi thối lại cho khách bởi "đói cho sạch, rách cho thơm". Tuyệt đối không nhận của “bố thí” vì chưa bao giờ “hạt bụi” đó là kẻ ăn xin.

Cũng có những tấm gương người tốt việc tốt ẩn dòng đời xuất hiện khi “giữa đường gặp việc bất bằng chẳng tha”. Những “bụi vỉa hè” như thế làm cuộc sống đáng yêu hơn, đáng sống hơn. Và khi cộng chất “trí thức” vào ấy như cộng vào một thái độ, một bản lĩnh. Không phân biệt nghèo hèn, sang cả.

Tôi cũng đã từng gặp trên vỉa hè Hà Nội một bác cắt tóc là kho chuyện kể từ "đêm trước bao cấp" qua "đổi mới". Ở Hội An, một ông già bán nước chè ngồi bên hè phố cổ gần suốt cuộc đời mình như một chứng nhân năm tháng. Bao nhiêu bức ảnh của ông cùng gánh nước của mình chu du khắp thế giới còn cụ thì chưa bao giờ rời lề vỉa hè của mình.

Họa sĩ Phan Ngọc Minh kể cho tôi nghe những chuyến đi vẽ vỉa hè của ông. Gần như ông say mê trước những "nghệ nhân lam lũ" khi họ say mê làm việc mưu sinh trên vỉa hè. Đó là một anh thương binh vá xe đạp, bác gánh hàng rong, người đàn bà và những con tò he bằng đất sét, chị gái quẩy gánh cá rong ruổi về chợ...Nghệ thuật đôi khi ẩn sâu trong dáng vẻ tất bật và lam lũ. Dưới con mắt biết khám phá, đôi khi "vỉa hè" đẹp như một sáng tạo mới của... thượng đế!

Nhưng rồi cũng có những kẻ nhân danh trí thức nhưng trình độ là vỉa hè, là bằng cấp giả, là "bụi thật". Bởi thế mới xuất phát thêm câu “lưu manh giả danh trí thức”. Ôi là cái ngạn ngữ hiện đại. Nó phù du, tếu táo nhưng thâm thúy, độc địa. Cứ trúng là trúng phăm phắp. Không sơ xuyển, không sai, không trốn đi đâu được cả. Bởi vậy mới biết nhân gian là những nhà thơ vĩ đại!...

Nguyễn Hữu Hồng Minh

BÀI HỒNG







Có lúc nước mắt hiếm
Như sa mạc
ngụm cuối cùng

Khi hai bờ môi nẻ khô vực thẳm
Những chiếc răng mộ bia dựng sẵn

Trắng góc trời
chờ tới lượt

Ta gọi tên mình
Lưỡi chết
Cứ bật nhầm tên ai đó...

Thì ra Em
Đóa hồng úa
Phơi cánh rã

Mười năm...
Hai mươi...
Ba mươi năm...

Mới chết
Trên ngực
Đêm qua...

Nguyễn Hữu Hồng Minh