Thứ Năm, 27 tháng 6, 2013

BÀI THƠ CUỐI CÙNG



TTKH



Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ...

Một mùa thu cũ một lòng đau.
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có nói đâu ?

Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly,

Càng khơi càng thấy lụy từng khi.
Trách ai mang cánh ti-gôn ấy
Mà viết tình em được ích gì ?

Chỉ có ba người được đọc riêng

Bài thơ đan áo của chồng em.
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.

Là giết đời nhau đấy biết không ?

Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung.
Giận anh, tôi viết dòng dư lệ
Là chút dư hương, điệu cuối cùng.

Từ nay anh hãy bán thơ anh,

Và để yên tôi với một mình.
Những cánh hoa lòng, hừ! đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.

Ngang trái đời hoa đã úa rồi,

Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi.
Buồng "nghiêm" thơ thẩn hồn eo hẹp
Ai nhớ người không muốn nhớ lời.

Tôi oán hờn anh mỗi phút giây,

Tôi run sợ viết bởi rồi đây,
Nếu không im được thì tôi chết.
Đêm hỡi làm sao tối thế này ?

Năm lại năm qua cứ muốn yên,

Mà phương trời gió chẳng làm quên.
Mà người vỡ lở duyên thầm kín
Lại chính là anh, anh của em.

Tôi biết làm sao được hỡi trời!

Giận anh không nỡ, nhớ không thôi.
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh... có một người.

HÃY LÀ NHỮNG NGƯỜI VIẾT BLOG CHÂN CHÍNH


LẮNG NGHE HAY NHẬN MỘT VIÊN ĐÁ



Một quan chức trẻ và thành đạt ngồi trong chiếc Jagua chạy khá nhanh trên đường phố. Từ xa phía trước, ông nhìn thấy một đứa trẻ đang chạy ra từ giữa mấy chiếc xe đang đậu. Ông giảm tốc độ vì nghĩ rằng mình phát hiện ra điều gì đó.
Khi xe chạy ngang chỗ ông đã nhìn thấy đứa trẻ, không có ai cả. Đột nhiên, ông nghe có tiếng va đập giống như có một miếng đá nhỏ ném vào cửa hông chiếc Jagua. Ông đạp thắng, vòng trở lại vị trí viên đá được ném ra. Quả là có một đứa trẻ, đang đứng bên những chiếc xe đậu. Nhảy bổ ra khỏi xe, không kịp quan sát xung quanh, ông tóm lấy đứa trẻ, đè dí nó vào một chiếc xe gần đó và hét lên: "Cái gì thế? Mày làm cái quỷ gì thế hả?". Cơn nóng giận bốc ngược lên đỉnh đầu, ông tiếp: "Chiếc xe này mới toanh, mày sẽ phải trả cả đống tiền vì cái viên đá đấy".

"Làm ơn, thưa ngài, làm ơn. Con xin lỗi. Con không biết làm cách gì khác hơn" - cậu bé van vỉ - "Con ném viên đá là vì con đã từng vẫy ra hiệu nhưng không có một người nào dừng xe lại...". Nước mắt lăn dài trên má cậu bé khi nó chỉ tay về phía vỉa hè. "Nó là em con" - cậu bé nói - "Chiếc xe lăn từ trên lề đường xuống, nó bị ngã ra khỏi xe lăn, nhưng con không thể nâng nó dậy nổi". Vừa thổn thức, cậu bé vừa năn nỉ ông: "Ngài làm ơn hãy giúp con đặt nó vào chiếc xe lăn. Nó đang bị đau, và nó quá nặng đối với con".

Tiến lại chỗ đứa bé bị ngã, người đàn ông cố gắng nuốt trôi một thứ gì đó như đang chẹn ngang cổ họng mình. Ông ta nâng đứa bé lên đặt vào chiếc xe lăn, rút khăn mùi xoa ra và cố gắng lau sạch các vết dơ một cách ngượng nghịu, kiểm tra mọi thứ một cách cẩn thận.

"Cám ơn ngài, Chúa sẽ ban phước lành cho ngài" đứa trẻ nói với ông cùng ánh nhìn biết ơn rồi đẩy em nó đi về phía những ngôi nhà.

Người đàn ông đứng nhìn mãi theo.

Sau cùng ông ta cũng cất bước. Đi chậm, rất chậm về phía xe của mình. Dường như đoạn đường đó rất, rất dài.

Về sau, dù đã nhiều lần đưa xe đi sơn, sửa lại, nhưng ông không bao giờ sửa dấu vết mà viên đá của cậu bé nọ để lại. Ông giữ lại vết lõm như một lời nhắc nhở với chính mình suốt cả cuộc đời: người nào đó ném vào mình một viên đá tức là họ đang cần một sự giúp đỡ.

Lời nhắn với bạn: Đôi khi, bạn không có thời gian để lắng nghe cho đến khi có một "viên đá" ném vào bạn. Bạn sẽ chọn điều gì: lắng nghe hay là chờ một viên đá...

( sưu tầm)

Thứ Tư, 26 tháng 6, 2013

NÉT ĐỘC ĐÁO VÀ TÍNH THỜI ĐẠI TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ CỦA LORENZ VON STEIN



Lorenz von Stein (1815–1890)
Nguyễn Minh Tuấn










Bắt đầu từ việc tìm đọc các giáo trình “Lý luận về pháp luật” (Rechtstheorie) và triết học pháp luật (Rechtsphilosophie) ở Đức, tôi đã biết đến học giả Lorenz von Stein (1815–1890) và quan tâm, tìm đọc các tác phẩm của ông. Có thể nói rằng càng đọc, tôi càng thấy hứng thú với cách tiếp cận và cách giải quyết nhiều vấn đề chính trị - pháp lý của Lorenz von Stein.[1]
Cùng là học giả người Đức, cùng thời với Karl Marx(1818–1883), tuy nhiên Lorenz von Stein lại có những quan điểm và cách tiếp cận khác, thậm chí trái ngược vớiKarl Marx. Những tư tưởng được thể hiện ở trong nhiều tác phẩm của ông, đặc biệt là tư tưởng về nhà nước và pháp luật[2], được nhiều học giả ở Đức hiện nay đánh giá rất cao, được xem là những tư tưởng phản ánh chân thực hiện thực xã hội, có tầm nhìn và mang tính thời đại.[3]

Tư tưởng về xây dựng một “nhà nước xã hội”

Lorenz von Stein là người ủng hộ học thuyết phân quyền. Theo ông, không phải “tập quyền” mà “phân quyền” mới có thể kiểm soát và giới hạn quyền lực nhà nước và là điều kiện tiên quyết để xây dựng một nhà nước xã hội.[4]Ông cùng với Robert von Mohl (1799- 1875) và Otto Bähr (1817–1895) là những học giả đầu tiên sau thời kỳ khai sáng đã nghiên cứu, tổng hợp lại các khái niệm của Hobbes, Locke, Rousseau và Montesquieu để hình thành nên nội hàm của khái niệm Rechtsstaat (nhà nước pháp quyền) ở Đức.
Nếu như Karl Mark ủng hộ một cuộc “cách mạng xã hội” và cho rằng chỉ có thông qua một cách mạng xã hội mới có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì Lorenz von Stein lại có cách tiếp cận hoàn toàn khác. Ông cho rằng: “Cuộc cách mạng xã hội chỉ có thể là cách xoa dịu mâu thuẫn, chứ không phải là cách giải quyết mâu thuẫn xã hội. Nó chẳng khác nào việc thay đổi người lãnh đạo này bằng một người lãnh đạo khác cả.”[5]Từ đó, ông đề xuất phải xây dựng “một nhà nước xã hội, một nhà nước chịu trách nhiệm.”[6]
Theo ông, nhà nước xã hội là nhà nước không phải dùng nhà tù, cảnh sát, quân đội để trấn áp, mà là nhà nước thông qua các công cụ tài chính, lấy phát triển phúc lợi xã hội là mục tiêu và động lực để bảo vệ con người và phát huy mọi năng lực của con người.[7]Muốn xây dựng một nhà nước xã hội thì trước tiên nhà nước đó phải có trách nhiệm đảm bảo điều kiện sống tối thiểu của mỗi một con người.[8]Không coi trọng phẩm giá con người, không có cơ chế kiểm soát tài chính nghiêm ngặt và minh bạch thì không thể thực hiện được tốt các chính sách phúc lợi xã hội.[9]
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trải qua đêm trường ác mộng của chủ nghĩa phát xít, nơi mà nhân phẩm của con người bị trà đạp, bị xâm phạm một cách thô bạo, những nhà lập hiến Đức lại một lần nữa khẳng định lại tính đúng đắn trong tư tưởng của Lorenz von Stein rằng: “muốn bảo vệ phẩm giá của con người thì không có cách nào khác hơn là nhà nước phải có trách nhiệm đảm bảo điều kiện sống tối thiểu của mỗi một con người.”[10]Ngày nay, nguyên tắc nhà nước xã hội (Sozialstaatsprinzip) đã được vĩnh viễn hóa, trở thành một trong năm nguyên tắc trường tồn của Hiến pháp Đức được qui định ở Điều 20 Khoản 1.
Tư tưởng về bảo vệ sở hữu tư nhân

Ngược với quan điểm của Karl Marx, Lorenz von Stein cho rằng: “không phải sở hữu tư nhân, mà chính công hữu thiếu sự kiểm soát chặt chẽ mới là nguồn gốc nảy sinh ra tham nhũng (Korruption).”[11]
Ông cho rằng không nên bãi bỏ sở hữu tư nhân, vì tài sản là một hình thức biểu hiện của tự do được vật chất hóa (eine Erscheinungsform materialisierter Freiheit) và là động lực (Anreiz) cho hành động của con người. Trách nhiệm của nhà nước vì thế không phải là hạn chế sở hữu tư nhân mà là “phát triển và bảo vệ sở hữu tư nhân.”[12]Bảo vệ sở hữu tư nhân và xây dựng nhà nước xã hội không mâu thuẫn nhau, mà tương hỗ lẫn nhau, vì mục đích bảo vệ những giá trị cao nhất của con người.[13]
Bảo vệ sở hữu tư nhân sau này đã trở thành động lực và mục tiêu nền tảng cho sự ra đời của nhiều bản hiến pháp hiện đại trên thế giới. Điều 14 Hiến pháp Đức cũng qui định và ràng buộc trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm, bảo vệ sở hữu tư nhân.[14]
Luật pháp và việc bảo vệ quyền lợi của người lao động
Quan điểm về luật pháp của Lorenz von Stein rất tiến bộ. Ông cho rằng luật pháp luôn động, không bất biến. Luật pháp có sức mạnh thi hành hay không là do tính phù hợp và tính thuyết phục của qui định.[15]Không nên né tránh tranh luận, chỉ có sự tranh luận và phê phán, mới có thể xây dựng được những chính sách, pháp luật đúng đắn, phù hợp nhất.[16]Ông cũng cho rằng không có một hệ thống pháp luật chung thống nhất cho tất cả các quốc gia. Mỗi một nhà nước, mỗi một hệ thống pháp luật đều có những nguyên tắc riêng, những nguyên tắc ấy do điều kiện về chính trị, lịch sử, văn hóa qui định.[17]
Về việc bảo vệ quyền lợi của người lao động, cũng như những tác giả khác cùng thời, Stein nhận thấy sự bất công trong xã hội, cũng như những nỗi thống khổ của những người lao động. Tuy nhiên, Lorenz von Stein đã không ủng hộ khái niệm „giai cấp“ mà Karl Mark đưa ra và hoài nghi về tính thực tiễn, đồng thời cảnh báo về mối hiểm nguy của một xã hội mà do giai cấp vô sản lãnh đạo.[18] Theo ông, người lao động, tức người lãnh đạo, không thể là những người mù chữ và không có tay nghề.[19]Luật lao động phải bảo vệ quyền lợi của họ, phải đưa việc đào tạo nghề (Arbeitsbildung) thành một chế định trong luật, trong đó cần có sự phân loại thành người học việc (Lehrlinge), người đã qua đào tạo (Gesellen) và người thợ lành nghề (Meister).[20]Theo ông, để bảo vệ quyền lợi của người lao động thì cần phải hoàn thiện pháp luật lao động. Cần phải xây dựng tổ chức công đoàn mạnh, độc lập với giới chủ, đứng về phía người lao động và bảo vệ họ. Mâu thuẫn lợi ích giữa người lao động và giới chủ sẽ được giải quyết, thông qua việc thương lượng, để tìm ra những điểm chung về lợi ích (Interessengemeinsamkeiten). Ông ủng hộ việc xây dựng một nhà nước, mà thông qua những cải cách xã hội bền vững sẽ cân bằng lợi ích giữa các thành viên trong xã hội và giữ cho những quan hệ này trong miền chừng mực (in Grenzen).
Tư tưởng của Lorenz von Stein và Hiến pháp Minh Trị của Nhật Bản
Năm 1882, Thủ tướng Nhật bản Itô Hirobumi đã dẫn đầu một phái đoàn sang Châu Âu để khảo cứu hiến pháp và hệ thống chính quyền của Phương Tây. Phái đoàn này đã đến gặp hai học giả nổi tiếng nhất của trường phái luật Đức-Phổ là H. Rudolf von Gneist (1816-1895, Đại học Berlin) và Lorenz von Stein (1815-1890, Đại học Wien). Ở đây, phái đoàn này đã triệt để học hỏi lý luận về Hiến pháp, về xây dựng một nhà nước xã hội của hai học giả này. Lorenz von Stein đã nhắn gửi với phái đoàn của Nhật rằng: “Cải cách cần phải chú trọng đến cải cách về xã hội, mở rộng các quyền tự do, dân chủ của người dân, đó chính là nguồn gốc tạo nên sự công bằng xã hội (soziale Gerechtigkeit) và vững bền của nhà nước (Stabilität des Staates).”[21]Một năm sau đó (năm 1883), phái đoàn này trở về nước và đã vận dụng những tư tưởng của hai học giả này để xây dựng một bản Hiến pháp đầu tiên cho Nhật Bản.[22] Theo bản Hiến pháp này, quyền lực của Thiên Hoàng không còn là tuyệt đối, mà đã có những giới hạn nhất định. Lần đầu tiên trong lịch sử, người dân Nhật bản đã có được một bản Hiến pháp, mà bản Hiến pháp ấy bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, quyền tự do tôn giáo, ngôn luận, xuất bản và quyền lập hội của họ.[23]
Lorenz von Stein là một cái tên đã đi vào lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý của nhân loại. Tư tưởng của Lorenz von Stein về nhà nước pháp quyền, nhà nước xã hội, bảo vệ sở hữu tư nhân, bảo vệ quyền lợi người lao động bằng các định chế pháp luật đã vượt ra khuôn khổ biên giới của nước Đức, trở thành cơ sở lý luận để xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên của Nhật bản. Các học giả ở Đức hiện nay đánh giá rất cao những tư tưởng chính trị - pháp lý của ông vì chúng chứa đựng những giá trị nhân văn, nhân đạo, mang tính cách mạng và tính thời đại.



“Die übrigen Kernthesen der marxistischen Rechtslehren haben sich als Hilfsinstrumente einer totalitären Ideologie erwiesen, die von einer irrigen transzendentalen Geschichtsdeutung ausgeht. Die marxistischen Rechtslehren dienten zur Rechtsfertigung der Ewigkeitsherrschaft der herrschenden Monopolpartei.” (Rüthers/Fischer/Birk, Rechtstheorie mit Juristischer Methodenlehre, 6. Aufl., München, 2011, Rn. 509).


“Lorenz von Stein hat die Vorstellung eines sozialen, d.h. für die Gesellschaftsordnung verantwortlichen Staates. Eine proletarische Revolution lehnt er ab, weil jede Revolution nur eine neue, umgekehrte und scharf ausgeprägte Klassenstruktur schaffe und so das Problem fortschreibe, nicht aber lösen könne.” (Rüthers/Fischer/Birk, Rechtstheorie mit Juristischer Methodenlehre, 6. Aufl., München, 2011, Rn. 513).


“In den meisten Standardwerken zur Privatrechtsgeschichte und zur Methodenlehre kommt die marxistische Rechtstheorie kaum vor. In gleicher Weise, eher noch gründlicher, wird Lorenz von Stein in seiner Bedeutung für die Rechtswissenschaft bis heute verkannt.” (Rüthers/Fischer/Birk, Rechtstheorie mit Juristischer Methodenlehre, 6. Aufl., München, 2011, Rn. 517).



[1]
Lorenz von Stein học luật và triết học ở các trường Đại học Kiel và Jena từ 1935-1939, ở Đại học Paris từ 1841-1842. Trong thời gian từ 1846 đến 1851 ông là Giáo sư của Đại học Kiel, đồng thời là thành viên của Nghị viện tại Frankfurt năm 1848.
[2] Ông đã công bố rất nhiều tác phẩm có giá trị, trong số đó có những tác phẩm như: Hệ thống khoa học nhà nước (System der Staatswissenschaft), năm 1852; Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của Pháp ngày nay (Der Sozialismus und Communismus des heutigen Frankreich), năm 1842, tái bản năm 1847; Những bước tiến xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa từ Cách mạng pháp thứ ba (Die sozialistischen und kommunistischen Bewegungen seit der dritten französischen Revolution), xuất bản ở Stuttgart, năm 1848; Lịch sử của luật hình sự Pháp (Geschichte des französischen Strafrechts), Basel, năm 1847; Lịch sử nhà nước và pháp luật của Pháp (Französische Staats- und Rechtsgeschichte), xuất bản ở Basel, 1848…
[3] Rất nhiều cuốn giáo trình về triết học pháp luật, tư tưởng pháp luật ở Đức hiện nay đánh giá cao tư tưởng của Lorenz von Stein, chẳng hạn như các tác phẩm: Rüthers/Fischer/Birk, Rechtstheorie mit Juristischer Methodenlehre, 6. Aufl., München, 2011; Horn, Einführung in die Rechtswissenschaft und Rechtsphilosophie, 5. Aufl., Heidelberg, 2011; Kaufmann/Hassemer/Neumann, Einführung in Rechsphilosophie und Rechtstheorie der Gegenwart, 8. Aufl., C.F.Müller, Heidelberg, 2011; Krüper, Grundlagen des Rechts, Baden-Baden, 2011; Kunz/Mona, Rechtsphilosophie, Rechtstheorie, Rechtssoziology, Eine Einführung in die theoretischen Grundlagen der Rechtswissenschaft, Haupt, Bern – Stuttgart – Wien, 2006.
[4] Rüthers/Fischer/Birk, Rechtstheorie mit Juristischer Methodenlehre, 6. Aufl., München, 2011, S. 319.
[5] L.v.Stein, Geschichte der sozialen Bewegung in Frankreich, Nachdruck Hildesheim 1959, Bd. I, S. 37 ff.
[6] L.v.Stein, Geschichte der sozialen Bewegung in Frankreich, Nachdruck Hildesheim 1959, Bd. I, S. 39 ff.
[7] L.v.Stein, Geschichte der sozialen Bewegung in Frankreich, Nachdruck Hildesheim 1959, Bd. I, S. 128 ff.
[8] Tư tưởng này sau này đã được cụ thể hóa ở Điều 1 Khoản 1 Hiến pháp Đức và các phán quyết của Tòa án hiến pháp liên bang Đức về việc bảo vệ phẩm giá của con người.
[9] L.v.Stein, Geschichte der sozialen Bewegung in Frankreich, Nachdruck Hildesheim 1959, Bd. I, S. 128 ff.
[10] Manssen, Staatsrecht II (Grundrechte), 9. Aufl., München 2012, Rn. 203 ff.
[11] L.v.Stein, Geschichte der sozialen Bewegung in Frankreich, Nachdruck Hildesheim 1959, Bd. I, S. 32 ff.
[12] Rüthers/Fischer/Birk, Rechtstheorie mit Juristischer Methodenlehre, 6. Aufl., München, 2011, S. 321 f.
[13] Xem thêm: Rüthers/Fischer/Birk, Rechtstheorie mit Juristischer Methodenlehre, 6. Aufl., München, 2011, S. 324.
[14] Xem thêm: Manssen, Staatsrecht II (Grundrechte), 9. Aufl., München 2012, Rn. 671 ff.
[15] L.v.Stein, Gegenwart und Zukunft der Rechts- und Staatswissenschaft Deutschland, Neudruck Aalen, 1970, S. 135.
[16] L.v.Stein, Gegenwart und Zukunft der Rechts- und Staatswissenschaft Deutschland, Neudruck Aalen, 1970, S. 256 ff.
[17] L.v.Stein, Gegenwart und Zukunft der Rechts- und Staatswissenschaft Deutschland, Neudruck Aalen, 1970, S. 258 ff.
[18] L.v.Stein, Geschichte der sozialen Bewegung in Frankreich, Nachdruck Hildesheim 1959, Bd. I, S. 125 ff.
[19] L.v.Stein, Geschichte der sozialen Bewegung in Frankreich, Nachdruck Hildesheim 1959, Bd. I, S. 127.
[20] L.v.Stein, Geschichte der sozialen Bewegung in Frankreich, Nachdruck Hildesheim 1959, Bd. I, S. 127.
[21] Sau này Hiến pháp Minh Trị theo mô hình của Hiến pháp Đức. Phái đoàn của Thủ tướng Nhật bản Hirobumi cho rằng: Hiến pháp của Mỹ bị từ chối vì quá tự do, còn mô hình của Anh thì lại trao quá nhiều quyền hành cho Nghị viện. Các mô hình của Pháp và Tây Ban thì có khuynh hướng chuyên quyền. Riêng mô hình của Đức được coi là phù hợp nhất, vì theo nghiên cứu của phái đoàn, nó dung hòa được các lợi ích xã hội.
[22] Hiến pháp Minh Trị (Meiji Constitution) là luật gốc của triều đình Nhật bản, có hiệu lực thi hành từ ngày 29/11/1890 đến 2/5/1947.
[23] Sau khi Nhật Bản bại trận trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật bản xây dựng một bản Hiến pháp mới, xây dựng một nhà nước mới theo chính thể quân chủ lập hiến.

Tranh khoả thân nghệ thuật của Boris Vallejo



Mời các bạn bước vào thế giới hoang đường nặng mầu sắc huyền thoại của Boris Vallejo, một hoạ sĩ người Peru. Tranh của ông rất được giới yêu mến khoa học giả tưởng ưa chuộng vì trí tưởng tượng phong phú. Đặc điểm của tranh Boris Vallejo là những hình ảnh quái vật, rồng rắn, tương phản với hình ảnh các thiếu nữ trong tranh "lồ lộ toà thiên nhiên" rất gợi hình. Tranh của Boris được dùng rất nhiều cho các bìa sách khoa học giả tưởng science fiction của các nhà xuất bản lớn nhất thế giới.
































Giáo dục Mỹ ở Việt Nam


Mỹ trở lại Việt Nam và dĩ nhiên, kinh tế - văn hóa - giáo dục phải là bước đầu thâm nhập, giữ vai trò quan trọng trong sự chuyển hóa các mối quan hệ sau đó...


 
Thượng nghị sỹ Fulbright và vợ nhận Huân chương Tự do vì sự nghiệp giáo dục năm 1993
Trong những năm gần đây, Hoa Kỳ đã dành nhân lực tiền tài đáng kể để cố gắng nhào nặn kẻ thù cũ theo hình ảnh nước Mỹ.
Với một đất nước khao khát học tập, dân số trẻ, theo Khổng giáo, còn gì tốt hơn là giáo dục? Mục tiêu chung cuộc không chỉ là gây ảnh hưởng mà còn quyến rũ và chuyển hóa.
Đại kế hoạch
Nền tảng cho các hoạt động liên quan giáo dục của Mỹ ở Việt Nam là một điện tín thời trước Wikileaks, U.S-Vietnam Education Memo, từ Sứ quán Mỹ ở Hà Nội mùa xuân 2008. Văn bản tám trang, 4,330 chữ, đầy những nhắc nhở lạc quan về việc phải nắm bắt cơ hội và tận dụng sự ngưỡng mộ của người Việt dành cho hệ thống giáo dục đại học Mỹ. Hoa Kỳ được mô tả như một hiệp sĩ trong áo giáp sáng ngời, với thái độ nói được làm được và tinh thần hào sảng, sắp đến giúp hàng triệu bậc cha mẹ và học sinh tuyệt vọng người Việt.


 
Điều ghê tởm về bức điện này không phải là ngôn ngữ khiêu khích, giọng văn coi thường hay thông tin thiếu chân thực. Các dữ kiện, con số, phân tích và kết luận rằng hệ thống đại học Việt Nam đang khủng hoảng đều chính xác và giống như các bài gần như hàng ngày trên truyền thống nhà nước Việt Nam.
Sự ghê tởm là Hoa Kỳ trắng trợn muốn lợi dụng một yếu kém trong xã hội ViệtNam để có lợi ích địa chính trị. Thử nghĩ về nó như con ngựa thành Trojan nhằm thay đổi xã hội, mà còn được gọi là diễn biến hòa bình.


 
Bức điện kết luận:
“Chỉ với một phần nhỏ trong chi tiêu dành cho các chương trình và hoạt động khác trong vùng, chúng ta có thể tái định hình quốc gia này theo các cách đảm bảo có tác động tích cực, sâu sắc trong nhiều thập niên tới. Nếu chúng ta muốn Việt Nam 2020 trông giống Hàn Quốc hơn Trung Quốc, nay là thời điểm hành động.”
Theo cách lý luận này, chính phủ Mỹ, trong giấc mơ, muốn có tất: quan hệ nồng ấm với Việt Nam, Việt Nam biến hình thành Hàn Quốc và trở nên lực lượng đối trọng trong vùng với ‘anh cả’ phương Bắc và kẻ thù chung, Trung Quốc.
Trung tâm Hoa Kỳ


 
Hoa Kỳ hy vọng thế hệ trẻ Việt Nam sẽ gần Mỹ hơn
Nhân viên Sứ quán viết tài liệu này có vẻ hoan hỉ đến chóng mặt trước viễn cảnh Hoa Kỳ có thể tác động đường đi chính trị tại Việt Nam thông qua trao đổi giáo dục và các hoạt động ủng hộ giáo dục ở Việt Nam.
‘Các trung tâm Hoa Kỳ’ gần đây thành lập đã đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch quyến rũ nhằm chinh phục giới trẻ. Kể từ nhiệm kỳ Đại sứ Michael Michalak, người tự nhận là ‘Đại sứ Giáo dục’ (tháng Tám 2007 đến tháng Hai 2011), đã có nỗ lực tập thể hướng tới thanh niên, giáo viên và giảng viên đại học. Nỗ lực này dính líu nhân viên sứ quán, các cơ quan liên hệ như USAID và đủ loại diễn giả khách mời. Có các loạt bài nói chuyện, chiếu phim, hòa nhạc, câu lạc bộ sách, hoạt động giáo dục, câu lạc bộ tiếng Anh, Diễn đàn Hoa Kỳ học và cả trang ‘tự học MBA’ trên trang web lãnh sự Mỹ, đăng thông tin kinh tế và kinh doanh “được các chuyên gia Mỹ của chúng tôi mang tới Việt Nam”.



 
 
Các ví dụ về cách nghĩ và mục tiêu của nhiều hoạt động này có thể tìm thấy qua các điện tín của phái bộ Mỹ tại Việt Nam trong 10 năm qua, bị Wikileaks tiết lộ. Một tài liệu như thế, có tựa Nhiều thanh niên Việt Nam tin tưởng Anh Hai theo dõi Internet, nhắc về một cuộc thảo luận hồi tháng Giêng 2010 tại Trung tâm Hoa Kỳ ở Hà Nội sau khi chiếu một diễn văn của Hillary Clinton về tự do Internet. Giả định đằng sau kiểu trao đổi thế này giữa viên chức Sứ quán và thanh niên Việt Nam là Phương thức Mỹ là Cách tốt nhất.
Một trong những giả định đáng ngờ là người Việt học ở Mỹ sẽ trở về, không chỉ là bạn của Hoa Kỳ và người dân Mỹ mà còn là bạn của chính phủ Mỹ. Người ta nghĩ người Việt được đào tạo ở Mỹ sẽ tích cực hướng đến những tư tưởng Mỹ, bao gồm mục tiêu chính sách của Mỹ và nền hòa bình kiểu Mỹ (Pax Americana). Các viên chức hy vọng rằng nhiều người sẽ có được vị trí để thi hành các thay đổi thuận cho Mỹ trong những thập niên kế tiếp và sẽ dễ bảo để làm vậy.

 
 
Giáo dục được xem là công cụ của quyền lực mềm tối hậu, phương tiện gây ảnh hưởng rất hiệu quả và là tác nhân gây đổi thay sâu rộng trong chiến lược dài hơi để đạt được trong hòa bình những gì Mỹ đã không có nhờ quân sự trong Chiến tranh Đông Dương lần Hai.
Ảo tưởng


 
Bắt đầu từ nhiệm kỳ của Đại sứ Michael Michalak, Hoa Kỳ quan tâm mạnh tới giáo dục tại Việt Nam
Những điều này không hẳn là suy nghĩ của Thượng nghị sĩ J. William Fulbright khi ông đề nghị tạo ra chương trình học bổng hàng đầu của chính phủ Mỹ.
Fulbright từng nói về mục tiêu của trao đổi giáo dục: “Mục đích là giúp người Mỹ làm quen với thế giới thực sự, và để các sinh viên, học giả từ nhiều nơi làm quen với nước Mỹ thực sự.”

 
 
Như bất kỳ nước nào, Hoa Kỳ có các điểm mạnh và thành tựu – các mô hình, cách tiếp cận, cách nghĩ – có thể được áp dụng và bắt chước ở Việt Nam. Mỹ cũng có những khiếm khuyết và các câu chuyện cảnh cáo. Quan niệm rằng trao đổi giáo dục quốc tế nên đóng góp cho việc chuyển hóa các xã hội khác theo mô hình Mỹ không chỉ sai lầm mà còn không khả thi và ảo tưởng.
Với những người dành đời mình cho giáo dục quốc tế và tự xem mình như công dân toàn cầu, mong ước của chúng tôi là đóng góp nhỏ nhoi cho một thế giới yên bình, công bằng và bình đẳng hơn. Thay vì trung thành với một đất nước-nhà nước, không gian tri thức, la bàn đạo đức và cảm thức kết nối của chúng tôi mở ra với toàn nhân loại.

 
 
Nếu muốn thực sự trung thành với giáo lý nghề nghiệp của mình, chúng tôi phải bác bỏ “các lợi ích quốc gia” khi chúng xung đột hay gây hại cho quyền lợi và khát vọng của đồng loại mình. Vì mục tiêu đó, chúng tôi phải chống lại nỗ lực của một chính phủ có chính sách ngoại giao bắt rễ trong chủ nghĩa dân tộc và trâng tráo dùng giáo dục làm vũ khí của sức mạnh mềm.
Chúng ta đừng quên rằng người Việt nên có tự do để quyết định vận mệnh của mình mà không có can thiệp từ bên ngoài, đặc biệt lại từ một quốc gia đã là nguồn gốc của nhiều khổ đau.
Mark A. Ashwill

Mai vàng Yên Tử



Mỗi độ xuân về, mai vàng đua nhau khoe sắc tạo thành những điểm vàng nổi bật bên mầu xanh kỳ vĩ của rừng núi Yên Tử.

Nhắc đến hoa mai, người ta nghĩ ngay đến vùng đất phương Nam. Thế nhưng ít người biết rằng trên đỉnh non thiêng Yên Tử có một rừng “Đại lão mai vàng” quý hiếm với hàng trăm năm tuổi, vẫn đều đặn trổ hoa mỗi dịp xuân về...Rừng “Đại lão Mai vàng” được phân bố chủ yếu quanh khu vực núi Yên Tử. Theo đánh giá ban đầu của Viện Nghiên cứu Rau quả, mai vàng Yên Tử sống trong nền khí hậu nhiệt độ thấp về mùa đông nên đã tạo ra sự khác biệt về mặt hình thái và hương thơm. Mai vàng Yên Tử thường có rễ len lỏi ở các khe đá, sống thành quần thể rừng, ít hoa, có mầu xanh hơn so với hoa mai phía Nam. Ước định tuổi của khu rừng mai này vào khoảng hơn 700 năm, trùng với sự kiện vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con, để về Yên Tử tu hành (năm 1285-1288). Rất có thể rừng mai vàng Yên Tử là do vua Trần Nhân Tông trồng khi mới tu hành. Vì thế, mai vàng Yên Tử không chỉ đơn thuần mang vẻ đẹp của loài hoa bình thường mà còn có ý nghĩa lịch sử và nhân văn.



Rừng núi Yên Tử có hệ thực vật phong phú, trong đó có những cây mai quý hiếm với niên đại hàng trăm năm tuổi.








Mai vàng Yên Tử sống trong nền khí hậu có nhiệt độ thấp về mùa đông nên đã tạo ra sự khác biệt về mặt hình thái và hương thơm.






Mai vàng Yên Tử ít hoa và có mầu xanh hơn so với hoa mai phía Nam.






Những cành mai cổ thụ, khẳng khiu ước định tuổi vào khoảng hơn 700 năm.




Mỗi độ xuân về, những cành mai vàng phía sau chùa Hoa Yên nở rộ, tô thêm vẻ đẹp kỳ vĩ chốn non thiêng.




Mai vàng khoe sắc bên núi rừng Yên Tử.




Đến nay, mai vàng Yên Tử đã được bảo tồn và nhân giống, trồng tại các vườn ươm. Trong ảnh: Các chuyên gia Viện Nghiên cứu Rau quả kiểm tra giống mai vàng Yên Tử được nhân giống tại vườn.


Theo báo Quảng Ninh

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2013

Thú vui của quan tòa


Một phóng viên hỏi quan tòa: Công việc của ông rất mệt mỏi và căng thẳng, vậy ông làm cách nào để thư giãn đầu óc?
Quan tòa trả lời: Thường thì tôi đọc truyện cười.

Phóng viên nói tiếp: Thật thú vị, ông hay đọc tác giả nào vậy?

Quan tòa lại nói: Thật ra tôi không đọc sách mà đọc biên bản ghi lời bào chữa của các luật sư.

Thứ Hai, 24 tháng 6, 2013

Hoa



Giáp Văn
Tôi đã nghe nhiều người nói về hoa và vẻ đẹp của hoa.
Tôi cũng đã đọc nhiều bài viết ca ngợi thú ngắm hoa tao nhã. Cũng đã gặp những người chơi hoa sành sỏi. Họ có thể thao thao bất tuyệt hàng giờ, từ tên gọi, nguồn gốc, màu sắc, đặc tính, giá tiền, cho đến tên khoa học.
Nhưng tôi không hiểu được vì sao lại có người bỏ hàng giờ để ngắm nhìn một bông hoa dại.
Tôi tìm đọc những câu danh ngôn về hoa. Nhưng tôi chưa một lần thấy những câu danh ngôn ấy đúng.
Chưa thấy lòng mình rung lên từng sợi nhỏ. Chỉ thấy dòng đời trôi chảy những lo toan.
Tìm kiếm, khắc khoải. Rồi tự trách mình thô lậu, sinh ra nơi đồng nội, chỉ quen với cỏ dại, mưa nắng, gió trời. Những kiêu kì, quí phái như hoa không phải là thứ dành cho tôi lỗ mãng.
Tôi nản.
Rồi một ngày, tôi đến nơi mà mỗi khi mùa xuân đến, tất cả già trẻ gái trai đều tản bộ ngắm nhìn những cánh hoa bay. Hòa vào dòng người, tôi ngắm nhìn, man mác, ngẩn ngơ.
Chỉ thấy văng vẳng đâu đây một lời xưa cũ:
-Hoa là nụ cười của đất.
Chiều buông...
-Ừ, hoa là nụ cười của đất.
Bâng khuâng:
-Ta là nụ cười của ai?
Chỉ thấy xao xác hoa rơi giọt nước mắt vỡ òa:
-Hoa là nước mắt của gió.
Chông chênh...
-Ừ, hoa là là nước mắt của gió.
Hoang mang:
-Ta là nước mắt của ai?
Rồi một ngày, một căn phòng tối đen như mực. Đất lạ, quê người. Bão ngoài trời và bão cả trong lòng. Này là tĩnh tâm. Này là thiền tịnh. Phẳng lặng như mặt hồ! Oh my God! Nam mô a di đà phật! Vô nghĩa hết thật rồi!

Giữa màn đêm
Một bông hoa xuất hiện
Lặng lẽ trong bóng tối
Một bó hoa xuất hiện
Lặng lẽ trong bóng tối
Lặng lẽ sẻ chia
Lặng lẽ an ủi
Thủy chung
Không đòi hỏi
Đẹp
Không giận hờn
Thời gian ngưng đọng
Ai lặng lẽ tỏa hương
Ai lặng lẽ mở lòng?

Bỗng giật mình:
Là đây... tôi tìm kiếm!
Là đây... tôi đợi chờ!

Tri kỉ
Người thương
Không gọi tên
Không nói thành lời

Mặt hồ phẳng như gương, trong vắt bóng mây trời.
Ngoài kia bão bùng, nhưng là bão bên ngoài cửa sổ.
Dòng đời lao xao, nhưng lao xao một góc con tàu.

Thời gian trôi
Êm ả
Mượt mà
Mỏng như tơ
Dịu dàng quá đỗi

Từ đó, tôi biết mua hoa để cắm vào bình, biết mỉm cười trước một bông hoa dại, biết chậm nhịp chân mỗi khi mùa xuân đến.
Từ đó, tôi không còn tìm đọc về thú ngắm hoa nữa. Vì tôi biết, tôi đang trò chuyện với lòng mình, đang sẻ chia với một tri âm tri kỉ, và nâng niu quyến luyến một yêu thương.
Từ đó, tôi ngắm hoa trong lặng lẽ, bình yên.

Hoài nghi và Chân lý


Giáp Văn Dương


Hoài nghi không phá vỡ chân lý, mà ngược lại, làm mới và nâng đỡ chân lý trong một chu trình biện chứng bất tận không ngừng nghỉ của nhận thức.

Hoài nghi
Phương Tây có một câu châm ngôn được sử dụng phổ biến: Hãy nghi ngờ tất cả!
Vì sao người phương Tây lại đặt nặng việc hoài nghi như vậy? Vì qua truyền thống khoa học và triết học, họ phát hiện ra rằng: Hoài nghi là khởi đầu của tiến bộ, là con đường đi tới chân lý, là sự giải phóng lý trý triệt để nhất.
Khi lý trí hoài nghi, lý trí quay lại tự vấn chính bản thân mình, từ đó tự giải phóng cho mình khỏi tình trạng lệ thuộc vào lý trí của kẻ khác hoặc những giáo điều và quán tính tư duy sẵn có.
Truyền thống hoài nghi trong tư duy của phương Tây được khởi đầu từ triết học, trước hết qua phép truy vấn biện chứng của Socrates, sau đó lan sang khoa học, và hoàn thiện trở thành thói quen tư duy lành mạnh, một phương tiện quan trọng để đi tới chân lý.
Socrates đã sử dụng hoài nghi như một phần tất yếu của truy vấn biện chứng: khi một ý tưởng hoặc một nhận định được nêu ra như một chính đề, thì sẽ ngay lập tức bị hoài nghi nhằm xác định lại tính đúng đắn của nó dưới dạng một phản đề, rồi trên cơ sở đó hình thành nên một hợp đề có tính chân lý cao hơn. Hợp đề, đến lượt nó, lại trở thành chính đề cho một quá trình truy vấn mới, cho đến khi đạt được chân lý, hoặc thực tiễn hơn, đạt đến giới hạn của nhận thức tại thời điểm đó. Như thế, hoài nghi không chỉ là phương tiện để đạt được chân lý, mà còn giúp xác định được giới hạn của tri thức và phạm vi áp dụng của chân lý.
Câu nói nổi tiếng của Socrates là: Tôi chỉ biết một điều là tôi không biết gì cả. Nhưng nghịch lý ở chỗ, người không biết gì cả này lại được coi là người thông thái nhất đương thời. Khi Chaerephon, một người bạn của Scorates, đến hỏi nhà nữ tiên tri, cũng là vị tư tế ở đền thờ Thần Mặt Trời thành Delphi, rằng có ai thông thái hơn Socrates không, thì được trả lời: Không!
Socrates không chấp nhận những niềm tin hay xác tín đã bám rễ lâu đời trong truyền thống và huyền thoại. Chính ông đã thôi thúc người đối thoại phải biện minh và cắt nghĩa những xác tín của mình thông qua một chuỗi những câu hỏi truy vấn liên tục – hình thức cụ thể của hoài nghi.
Sau Scorates, Decartes – nhà Triết học và Toán học Pháp – cũng đã sử dụng hoài nghi như một phương tiện chủ đạo để xác lập tính tuyệt đối trong các kết luận của mình, nhằm làm nền tảng cho việc xây dựng hệ thống tri thức về sau. Ông nghi ngờ mọi thứ, ngay cả sự tồn tại của bản thân mình, nhằm quét sạch mọi quan niệm đã có, để từ đó từng bước xây dựng hệ thống tri thức của mình một cách khả tín và vững chắc. Chính việc hoài nghi này, đã dẫn ông đến một kết luận nổi tiếng về sự tồn tại của bản mình qua câu nói: Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại.
“Sự tiến bộ của nhận thức, không chỉ đạt được do tìm ra những mảnh đất tri thức mới chưa từng khai phá, mà còn do tìm ra những cách nhìn mới về một sự vật hiện tượng cũ”. Hoài nghi những cách thức nhìn nhận cũ chính là cách dễ nhất để tìm ra những cách nhìn nhận mới đó. Vì thế, hoài nghi vừa là xuất phát điểm, vừa là động lực của việc mở mang tri thức.
Khi mất khả năng hoài nghi, lý trí sẽ trở nên tê liệt. Một người không biết hoài nghi, tức một người hành động theo những niềm tin được lập trình trước, về bản chất không khác gì so với một cỗ máy.
Khả năng hoài nghi, biểu hiện trước hết bằng khả năng tự đặt câu hỏi và chối bỏ áp đặt của truyền thống và xác tín giáo điều, theo một nghĩa nào đó, chính là thước đo mức độ trưởng thành của một con người. Nếu một người không có khả năng hoài nghi, chỉ tin vào những tín điều do người khác giao giảng, thì về bản chất, người đó vẫn còn ở thời kỳ thơ ấu.
Với một xã hội, cũng giống như một cá nhân, khả năng hoài nghi và chối bỏ áp đặt cũng chính là thước đo sự trưởng thành về mặt tinh thần của xã hội đó. Nếu một xã hội không biết hoài nghi, chỉ đồng thuận tin theo những tín điều, thì xã hội đó còn chưa thoát khỏi thời kỳ ấu trĩ.
Vì thế, ngăn chặn khả năng hoài nghi của một cá nhân, trực tiếp hoặc gián tiếp, chính là phá hoại sự phát triển lành mạnh của cá nhân đó; hạn chếkhả năng hoài nghi của xã hội chính là kéo lùi sự phát triển lành mạnh của xã hội đó.

Chân lý
Chân lý là đích đến của việc tìm kiếm tri thức. Nhưng chân lý không bất biến, vĩnh cửu. Chân lý luôn được cập nhật cùng sự phát triển của nhận thức. Và một trong những cách thức chủ yếu để cập nhật chân lý là hoài nghi chân lý đó. Hiểu như thế thì hoài nghi là bổ trợ của chân lý chứ không phải là chống đối chân lý.
Thực tế trong khoa học và triết học cho thấy, biết đặt câu hỏi thậm chí còn quan trọng hơn biết câu trả lời. Vì biết đặt câu hỏi là biết xúc tiến một hành trình đi tìm chân lý, còn biết câu trả lời là tạm thời chấm dứt hành trình đó.
Điều này cho thấy, giữa hoài nghi và chân lý có mối quan hệ biện chứng qua lại lẫn nhau, bổ trợ lẫn nhau. Không thể đạt được chân lý nếu không biết cách hoài nghi lành mạnh. Và chân lý, với tính tương đối của nó, nếu không có hoài nghi để tự hoàn thiện mình, sẽ tha hóa thành giáo điều dưới sự phát triển của những nhận thức mới.
Nếu nhìn qua những thành tựu của tư tưởng của nhân loại, sẽ không có thành tựu nào thiếu vắng hoài nghi như một sự dẫn đường. Những đỉnh cao mới ra đời, đều xuất phát từ sự hoài nghi một đỉnh cao cũ, và tìm cách vượt qua nó bằng một quá trình nhận thức mới.
Những thành tựu của khoa học kĩ thuật đạt được không phải bởi tư duy tư biện của lý trí thuần túy, mà phần lớn bởi những thực nghiệm và quan sát được thiết kết để kiểm tra – một biểu hiện cụ thể của hoài nghi -một giả thuyết đã xác lập. Hoài nghi vì thế là linh hồn của mọi hoạt động nghiên cứu tìm tòi.
Những thành tựu của Toán học và Vật lý học cho thấy, sự bất toàn, bất định và bổ sung nhau là bản chất của tri thức. Nên hoài nghi – đặc tính gắn liền với sự bất toàn và bất định – trở thành đặc tính không thể tách rời của chân lý. Chính hoài nghi đã thổi sức sống cho chân lý, làm cho chân lý sống động, uyển chuyển, luôn tự cập nhật làm mới mình dưới ánh sáng của những nhận thức mới.
Nếu tách hoài nghi ra khỏi chân lý, chân lý sẽ mất hết sức sống và trở nên cằn cỗi, xơ cứng theo thời gian. Chân lý sẽ thoái hóa trở thành giáo điều và kìm hãm, thậm chí phá hoại, quá trình nhận thức những chân lý mới đúng đắn hơn.
Như vậy, hoài nghi không phá vỡ chân lý, mà ngược lại, làm mới và nâng đỡ chân lý trong một chu trình biện chứng bất tận không ngừng nghỉ của nhận thức. Và để đạt được chân lý, khả năng hoài nghi cần phải được khai phóng như một sự tất yếu.